Tạp Ghi , Chuyện Phiếm , Chuyện Vui Hàng Ngày

Cho đuổi mèo, mèo rượt chuột, chuột sa chỉnh gạo, gạo tải vô xe... thế rồi... xe cán chó!!!

Moderators: CNN, khieulong

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Sài Gòn, còn hay mất?

Tạp ghi Huy Phương

Mấy tuần này, hải ngoại xôn xao vì chuyện Sài Gòn sắp xóa Thương Tá Tax (hay Charner) trên đại lộ Lê Lợi, để xây một cao ốc 40 tầng với số tiền lên đến hàng trăm triệu đô la.

Chúng ta đã được xem nhiều bài báo và hình ảnh trong nước hàm ý tiếc nuối một cơ sở mang nhiều kỷ niệm của những người Sài Gòn thuở trước, nay sẽ không còn nữa. Một vị nữ độc giả gửi thư cho tôi yêu cầu tôi viết một bài và vận động làm sao để giữ lại được Thương Tá Tax, không bị phá bỏ. Quả là một yêu cầu quá đáng với thời thế và sức con người cũng như chúng ta nên xét lại sự suy nghĩ về chuyện mất, còn trong thế gian này. Ngay ở Sài Gòn, một số cư dân thành phố làm kiến nghị yêu cầu chính quyền ngưng ngay việc này, nhưng chắn chắn đây là những “lời nói gió bay.”

Ngày 30 Tháng Tư, 1975, cả miền Nam sụp đổ, mất trắng vào tay Cộng Sản cũng không ai làm được gì để cứu vãn tình hình, bây giờ mất thêm một chuyện nhỏ trong câu chuyện lớn, là lẽ thường tình. Có người đã nói “mất nước là mất tất cả!” Chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta đã mất Sài Gòn, mất tên, mất cả nhân dáng hình hài.

Chúng ta thật sự đã mất rất nhiều, không phải những chuyện nhỏ của Sài Gòn như chiếc Taxi Renault 4 CV sơn hai màu xanh trắng, chiếc xích lô máy nổ giòn giã, khói mù mịt trong đêm Sài Gon hay chiếc Velo Solex màu đen lượn lờ trên đường Nguyễn Huệ ngày cũ. Có người nhớ quán La Pagode, nhưng cũng có người nhớ đến một quán cóc cà phê nào đó, nhóm bếp lửa bập bùng vào lúc Sài Gòn chưa tỉnh ngủ. Có người nhớ đến tiếng lóc cóc của chiếc xe thổ mộ mang hoa và rau cải vào thành phố lúc hừng sáng, nhưng cũng có người nhớ mãi tiếng rao quà ngọt ngào của Sài Gòn ngày trước. Có người ra đi nhớ mãi những âm thanh của Sài Gòn ngày cũ nhưng cũng có người mang theo bao nhiêu hình ảnh của những góc phố, con đường, con kinh, bờ rạch. Chắc cũng có người nhớ đến mùi vị của Sài Gòn, ly nước mía Viễn Ðông ngọt ngào, miếng bò bía chấm tương đen, hay miếng mực khô đẫm chút tương đỏ cay đầu lưỡi.

Sài Gòn những ngày chiến tranh với những đêm thấy hỏa châu soi sáng một vùng nào đó ở ngoại ô, nghe ì ầm tiếng của đạn pháo vọng về, hay nghe tiếng xe cứu thương hụ còi tất tả trong đêm vắng. Rồi Sài Gòn với những ngày câm nín, tàn phai, chia lìa vội vã. Con mắt đèn xanh đỏ nhấp nháy thâu đêm, lo lắng, sầu muộn. Những điều này quả là quá đơn sơ, nhỏ nhoi trong cuộc sống như dòng sông mải miết chảy, không bao giờ dừng lại.

Phải chăng những cái gì mất đi chúng ta mới thấy tiếc nuối. Có người bỏ Sài Gòn ra đi vội vã, đẫm những dòng nước mắt, trên không phận hay trong dòng sông giữa hai bờ dừa nước. Cũng có người trở lại Sài Gòn lần đầu, con mắt đỏ hoe.

Nhưng có phải chăng bây giờ tất cả đã xóa mờ như vết thương đã thành sẹo, cát bụi đã chôn vùi, xóa hết vết tích của Sài Gòn ngày cũ.

Không! Sài Gòn hôm nay đã đổi tên, cái tên này, hiện diện trên những văn bản của chính quyền, nó sẽ chẳng bao giờ có chỗ đứng trong lòng người. Cái tên dài dòng này đã đảo lộn cách nói thông thường của người dân, ở Rạch Giá, Cần Thơ, người ta nói “lên thành phố,” trong khi nơi họ sống đã là “thành phố” rồi! Những công ty thương mãi, những dịch vụ, nhà hàng, không ai muốn phiền phức, ngớ ngẩn đến nỗi phải mang cái tên “bác” trên bảng hiệu.

Tôi thường gửi tiền về giúp bà con ở Sài Gòn nhưng tuyệt đối khi viết địa chỉ không dùng tên hiện nay, nếu ai có chê tên Sài Gòn xin trả lại tiền cho tôi. Nếu ba triệu người Việt ở hải ngoại khi viết thư, gửi tiền, điện thoại về nhà mà không dùng tên hiện nay thì Sài Gòn vẫn còn đó. Nếu cả nước vẫn gọi thủ đô của VNCH bằng cái tên ngày cũ thì đừng lo Sài Gòn mất.

Không phải như những đất nước khác, cả miền Nam yêu mến Sài Gòn, đó là cửa ngõ của những ngày ra đi và sẽ là nơi trở về. Chúng ta đã mang theo Sài Gòn trong cuộc hành trình bỏ nước ra đi, và ở mỗi nơi dừng chân mà chúng ta nhận là quê hương thứ hai, có những “Sài Gòn Nhỏ” được thành hình.

Cái tên mới kẻ trên những bích chương hay bảng hiệu màu đỏ máu sẽ còn tồn tại bao lâu nữa?

Thời sùng bái nhân vật Joseph Stalin, lãnh đạo của Liên Bang Xô Viết, từ năm 1925, thành phố Volgograd được đặt tên là Stalingrad. Khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, thần tượng tiêu ma, thành phố Volgograd trở lại mang tên cũ từ năm 1956. Ðài VOA loan tin, ngày 10 Tháng Chín năm nay, Hội Ðồng Thành Phố Volgograd thông báo chấp nhận cho tên Stalingrad (chỉ) được dùng lại cho sáu ngày một năm vào các dịp kỷ niệm kết thúc Thế Chiến 2, nhưng cũng trong ngày này, tất cả báo Sài Gòn (Công An, Thanh Niên, Báo Mới...) lập lờ chạy tin Volgograd sẽ được phục hồi lại tên Stalingrad, để lừa dân Việt Nam, làm như hồn ma Cộng Sản ở các nước Ðông Âu đang bắt đầu đội mồ sống dậy!

Năm 1924, sau khi Lenin qua đời, Saint Petersburg được đổi tên thành Leningrad. Cùng với số phận Stalin, theo chế độ Cộng Sản, tượng Lenin cũng đã bị giật sập đổ nhào, và năm 1991, tên Lenin cũng đã được xóa bỏ để Saint Petersburg vẫn là Saint Petersburg ngày cũ.

Bốn mươi năm chưa phải là một thời gian dài, những thần tượng Karl Marx, Stalin, Lenin đã lần lượt bị sụp đổ chôn vùi ở các nước Cộng Sản đã tan rã, liệu những nhân vật Hồ Chí Minh, Mao Trạch Ðông, và chế độ Cộng Sản ở đây còn tồn tại được bao ngày?

Vài năm về trước, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, một nhà hoạt động chính trị ở New Zealand, đã phát động phong trào “đòi lại tên Sài Gòn,” mà tôi cho là không cần thiết, vì khi chế độ Cộng Sản Việt Nam sụp đổ, không những cái tên Hồ Chí Minh đã bị xóa mà cái lăng ở Ba Ðình cũng bị san bằng.

Tuy hiện nay, một số người còn bám víu lấy cái hình tượng Hồ chí Minh “vĩ đại,” “ đạo đức,” để “học tập,” “noi gương,” nhưng qua thời gian, tượng đất đã tróc lột hết lớp sơn phết, đổ nát thành một đống bùn nham nhở, để cho dân tộc thấy rõ con người vô đạo, bất lương, khát máu đã đẩy dân tộc Việt Nam tới chỗ chết chóc, khốn cùng.

“Vĩ đại” vì sự thần hóa qua kinh nhật tụng Ðảng Cộng Sản, kiên cố trên hình thể “xi măng-cốt sắt,” Stalin, Lenin cuối cùng cũng đã bị lịch sử lật nhào úp mặt xuống bùn, thứ “xi măng-cốt tre” của những thần tượng Việt Nam thì đi đến đâu!

Trong tâm trạng thương nhớ Sài Gòn, trân trọng gọi Sài Gòn bằng “Người,” ông Nguyễn Ðình Toàn đã viết, “Ta mất Người như Người đã mất tên!” Ông tin tôi đi. Tên Sài Gòn vẫn còn, và Sài Gòn sẽ mãi mãi của chúng ta, không mất đâu!

User avatar
dodom
Posts: 2723
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Chiến Tranh Lạnh lần thứ hai

Nguyễn Hưng Quốc (Blog VOA)
Báo chí Tây phương, trong mấy tháng gần đây, rục rịch bàn về chuyện một cuộc chiến tranh lạnh mới đang dần dần xuất hiện. Người ta gọi đó là cuộc Chiến Tranh Lạnh lần thứ hai.

Gọi vậy vì trước đã có cuộc Chiến Tranh Lạnh lần thứ nhất chủ yếu giữa hai phe tư bản - do Mỹ lãnh đạo và cộng sản - do Liên Xô cầm đầu. Cuộc Chiến Tranh Lạnh ấy bắt đầu ngay sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến vừa kết thúc (1945) và kéo dài đến ngày chủ nghĩa Cộng Sản hoàn toàn sụp đổ ở Liên Xô và Ðông Âu vào năm 1991. Lý do có tên Chiến Tranh Lạnh vì, trừ vài điểm nóng nơi xung đột vũ trang bùng nổ dữ dội như ở Triều Tiên trong ba năm 1950-53 và Việt Nam trong hai mươi năm, từ 1954 đến 1975, hai phe chỉ gầm gừ nhau, đe dọa nhau, chửi bới nhau, đua nhau chế tạo các loại vũ khí tối tân, kể cả các loại vũ khí nguyên tử, nhưng lại tránh né các cuộc xung đột vũ trang, đặc biệt giữa những quốc gia cầm đầu mỗi phe.

Sau khi chủ nghĩa Cộng Sản cáo chung tại Liên Xô và Ðông Âu, người ta ngỡ nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới, ở đó, mọi người được chung sống hòa bình và tập trung mọi nỗ lực vào việc phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế để mọi người dân đều được ấm no. Nhưng không. Cuộc chiến giữa Tây phương và các nhóm Hồi Giáo cực đoan nổ ra với các vụ khủng bố tàn khốc nhắm vào Mỹ và các quốc gia Tây phương dẫn đến hai cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Trong cả hai cuộc chiến tranh, Mỹ và Tây phương đánh bại dễ dàng các chính phủ ủng hộ Hồi giáo nhưng lại không dẹp tan được các nhóm Hồi Giáo cực đoan lúc nào cũng lăm lăm mở các cuộc tấn công khủng bố nhắm vào thường dân ở Tây phương, đặc biệt ở Mỹ. Tuy vậy, các cuộc khủng bố của các nhóm Hồi Giáo cực đoan vẫn không đủ lớn để gây thành chiến tranh trên phạm vi toàn cầu. Hơn nữa, nó còn làm cho các quốc gia đoàn kết với nhau hơn. Trong hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, Mỹ nhận được rất nhiều sự hậu thuẫn của ngay cả các quốc gia thuộc khối cộng sản trước đây.

Hiện nay, tình hình đã đổi khác. Trước hết là quan hệ giữa Nga và Tây phương. Trước, khi cuộc tấn công của các nhóm Hồi Giáo cực đoan nhắm vào Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 mới xảy ra, Nga là một trong những quốc gia đầu tiên lên tiếng chia buồn và hỗ trợ Mỹ trong cuộc chiến tranh chống khủng bố. Người ta ngỡ quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù biến thành một thứ tình bạn gần gũi và đầy tin cậy với nhau. Thế nhưng, càng ngày người ta càng thấy Nga, đặc biệt dưới quyền của Vladimir Putin, có những tham vọng riêng nhằm thách thức lại vị thế siêu cường quốc số 1 thế giới của Mỹ. Tham vọng ấy trở thành rõ rệt nhất là vào đầu năm nay, khi Nga thò tay gây rối ở Ukraine.

Ukraine là một nước nhỏ nhưng lại có ý nghĩa địa chính trị rất lớn: Nó là quốc gia bản lề giữa Nga và khối NATO. Với Nga, chiếm Ukraine hoặc ít nhất làm cho chính phủ Ukraine nếu không theo hẳn Nga thì ít nhất cũng trung lập, là một cách tốt nhất để bảo vệ biên giới của họ. Với Tây phương, nếu Ukraine ngả theo Tây phương hoặc nhập hẳn vào khối NATO thì biên giới của NATO sẽ được mở rộng đến tận sát bên nách của Nga. Hơn nữa, ý nghĩa chính trị của các xung đột ở Ukraine cũng rất lớn. Nếu Nga chiếm hoặc quy phục được Ukraine, họ sẽ giơ nanh vuốt đến tận các quốc gia nhỏ khác ở Ðông Âu. Với NATO, ngược lại, nếu để Ukraine bị mất vào tay Nga một cách dễ dàng, họ sẽ mất uy tín với các quốc gia cựu cộng sản khác trong khu vực. Ðó là những lý do chính khiến không có bên nào nhượng bộ bên nào cả. Hai bên vẫn tránh cảnh trực tiếp đối đầu nhau nhưng Mỹ và Tây phương vẫn tăng cường các áp lực kinh tế trên nước Nga, và Nga, ngược lại, vẫn không những không hề tỏ ý nhượng bộ mà còn bắn tiếng đe dọa cả Tây phương về một hiểm họa chiến tranh hạt nhân.

Tuy nhiên, cuộc Chiến Tranh Lạnh lần thứ hai này không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa Nga và Tây phương mà còn có một mặt trận thứ hai nữa: xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc. Sau mấy chục năm ẩn nhẫn để tập trung vào việc phát triển kinh tế, nay Trung Quốc bắt đầu giơ nanh múa vuốt với thế giới. Họ gây gổ với Nhật Bản và Nam Triều Tiên trên Biển Hoa Ðông và gầm gừ với Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei trên Biển Ðông. Họ cũng ủng hộ một số chính phủ ở tận châu Phi xa lắc để chống lại Mỹ. Tất cả các nhà bình luận chính trị đều ghi nhận là Trung Quốc đang muốn chứng tỏ với thế giới là họ cũng là một trong những siêu cường quốc trên thế giới, hoặc ít nhất, trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Dĩ nhiên Mỹ và Tây phương không dễ dàng để yên cho Trung Quốc tung hoành trong khu vực. Ðó là lý do chính khiến chính phủ Barack Obama quyết định chiến dịch quay về với Châu Á, chuyển 60% lực lượng trên biển của họ về mặt trận Á Châu và Thái Bình Dương. Trong khi nguy cơ bùng nổ chiến tranh ở khu vực vẫn còn xa vời, một cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Trung Quốc có thể là một điều không thể tránh khỏi.

Như vậy, cuộc Chiến Tranh Lạnh hiện nay hoặc sắp tới sẽ là cuộc chạy đua giữa Mỹ và NATO với Nga ở vùng Ðông Âu và giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở Châu Á Thái Bình Dương với Trung Quốc. Khả năng Trung Quốc và Nga bắt tay nhau để chống lại Mỹ không phải là không có. Trong trường hợp đó, chúng ta quay lại với tương quan lực lượng thời Chiến Tranh Lạnh thứ nhất: lúc khối Cộng Sản, đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc, gầm ghè với Mỹ.

Tương quan lực lượng giống, nhưng quan hệ lại khác hẳn. Thời trước, các quốc gia Cộng Sản hầu như hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài về mọi phương diện, từ kinh tế đến văn hóa và xã hội. Bây giờ thì khác. Trước hết, về phương diện kinh tế, quan hệ giữa các nước trở thành chằng chịt và vô cùng phức tạp. Số đầu tư của Mỹ ở Nga và Trung Quốc cũng như số đầu tư của Nga và Trung Quốc ở Mỹ và ở Tây phương nói chung rất lớn. Bởi vậy, người ta rất khó để thực sự ra lệnh cấm vận hay cô lập nhau.

Bởi vậy, cuộc Chiến Tranh Lạnh lần này, nếu xảy ra, chắc chắn sẽ có những diện mạo khác hẳn lần trước. Nó cũng đòi hỏi giới lãnh đạo các quốc gia liên quan phải có những tính toán chiến lược mới mẻ nếu muốn giành được phần thắng. Nhưng chuyện thắng hay bại là một chuyện khá xa vời, có khi đến vài chục năm nữa mới biết rõ. Như ở cuộc Chiến Tranh Lạnh lần thứ nhất. Hơn bốn mươi lăm năm (1945-1991) mới ngã ngũ.

User avatar
nangchieu
Posts: 2061
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

'Nhà hạnh phúc'

Tạp ghi Huy Phương

[img]http://www.danchimviet.info/wp-content/ ... Pac-bo.jpg[/img]
Đèn cù và hang Pắc bó
Ðọc “Ðèn cù” của Trần Ðĩnh tôi mới hiểu ra lịch sử của cái gọi là “Nhà hạnh phúc,” một gian nhà tranh nhỏ được cất ra dành cho những người trong cơ quan Cộng Sản để tiếp vợ hay chồng đến thăm viếng ngủ qua đêm, một sáng kiến của ông Trường Chinh.

Lúc bấy giờ ở “an toàn khu” Việt Bắc, ông Dương Ðức Hiền, tổng thư ký đảng Dân Chủ (1), đi thăm vợ ở Hội Phụ Nữ của đảng, cả hai phải đem nhau ra bìa rừng. Một ông lão trong bản ngang qua, trông thấy, than vãn là thương chúng nó phải “đè nhau ở lưng đồi thế kia,” mà ông tổng thư ký đảng lại còn ngóc đầu lên “chào cụ” cho đủ bài bản dân vận, “đi thưa về trình.”

Câu chuyện không ai ngờ là mãi 35 năm sau, “Nhà hạnh phúc” lại được cất lên trong trại “cải tạo,” lần này không biết sáng kiến của ai, để cho tù cải tạo ngủ với vợ ra thăm. Những người trong nhà tù trên bảy năm, may ra mới thấy mặt mũi cái “motel dã chiến” này, thời gian đã có những phái đoàn báo chí ngoại quốc đến thăm trại tù, còn từ năm 1980 trở về trước, đang còn hận thù sâu sắc, Bộ Nội Vụ (sau này đổi tên là Bộ Công An) chẳng có thời giờ nghĩ đến chuyện này, những chuyến thăm viếng cho phép vợ chồng gặp gỡ chớp nhoáng, có sự giám sát của cán bộ và chưa có chuyện cho vợ thăm tù được ở lại ngủ qua đêm với chồng.

Câu chuyện xây dựng “Nhà hạnh phúc” ngay trong trại tù để cho tù “cải tạo” ngủ với vợ, xem ra như là một chuyện nhắm mục đích tuyên truyền với bá tánh rằng đảng ta hết sức nhân đạo khoan hồng. Mãi đến năm 1981 khi chúng tôi được chuyển trại về Nam, một vài trại tù thuộc khu Z30D và Z30C (Hàm Tân) mới bắt đầu lục đục bắt tù kéo tranh, nứa, gỗ... về cưa đục, khẩn trương xây dựng “Nhà hạnh phúc” cho vợ ra thăm tù được ngủ lại đêm với chồng.

Nhưng không phải tù nhân nào có vợ ra thăm cũng đều được trại chiếu cố khoan hồng nhân đạo, nếu như vậy phải xây hàng nghìn căn nhà, hay một trại có những dãy giường để người ta có thể làm tình tập thể.
Tù “cải tạo” học tập tốt, lao động tốt, được bầu bán là cải tạo tiên tiến may ra mới được chiếu cố cho thêm một phiếu quà, tức là được phép ăn thêm quà nhà, còn như được ngủ với vợ qua đêm phải là loại tù “xuất sắc” được phê chuẩn từ ban chỉ huy trại, phải là loại “văn hóa, thi đua” mẫn cán, hay ăn ở được lòng cai tù.

May ra 1,000 anh tù “cải tạo” mới có một anh được hưởng cái “hạnh phúc” đêm thăm nuôi ngủ “ngoài chuồng” với vợ, tức là không phải vào ngủ trong những căn nhà tù có điểm danh và được canh gác cẩn mật bởi vệ binh.

“Nhà hạnh phúc” là ngôi nhà một gian, làm bằng toàn tre nứa, may ra chỉ đủ kê một cái giường nhỏ, phần còn lại dư chỗ cho một cái bàn, một cái ghế. Không nghe nói gian nhà có bếp hay có chỗ để một cái lu nước với một cái gáo hay không, phần này tôi nghĩ là tù “hạnh phúc” có thể “khắc phục” được. Ngôi nhà nhỏ được xây cất gần bộ chỉ huy trại nhưng nằm ngoài phạm vi trại tù có lính canh. Nhà lợp mái, vách trát bùn xong rồi, nhưng tù cũng chưa nghe thông báo gì về tiêu chuẩn ai được ngủ, ai không, để tù có thi đua, ráng sức, may ra ngàn năm một thuở, vượt qua số phận của anh em để ngủ với vợ nhà một đêm.

Sau đó, thỉnh thoảng một vài tuần, lại nghe một anh đội trưởng hay thi đua có vợ ra thăm, được phép cắp chăn chiếu lên ngủ ở nhà hạnh phúc. Sáng hôm sau, anh tù được đặc ân ấy ở nhà một ngày bồi dưỡng lại sức lực, bẽn lẽn nhìn anh em, còn bà vợ có mở cửa ra về lúc gặp đoàn tù xếp hàng đi làm, ăn nói xỏ xiên, thì che nón cúi gầm mặt, đi thẳng. Mặt khác, đối với những người có chồng đi “cải tạo” cùng hoàn cảnh, sẽ nhìn người đàn bà vừa ra khỏi ngôi nhà kia với những ánh mắt như thế nào. Cũng như những người tù chung trại nhìn chồng bà, tôi không nghĩ là họ có lòng ganh tỵ hay thèm khát địa vị của những người đã ngủ qua đêm trong ngôi “Nhà hạnh phúc” ấy.

Tuy vậy, không phải không có những người chạy chọt, lo lót để được đặc ân ngủ qua đêm với vợ trong trại tù bằng nhiều cách, như đem hết quà cáp gia đình gửi, lên nhà bếp cán bộ trại, hay lót tay quản giáo. Ranh giới giữa “học tập tốt, lao động tốt, an tâm tin tưởng vào đường lối khoan hồng của cách mạng” và những người “nín thở qua sông” khá mong manh, khó ai mà cân đo được.

Riêng người đàn bà vợ tù, “chẳng may” thụ thai sau cái đêm trùng phùng ấy, biết ăn nói, giải thích ra sao với gia đình, lối xóm nên bộ chỉ huy trại tù đã chu đáo cấp cho một cái giấy chứng nhận ngày tháng, bà này có được ngủ với chồng qua sự khoan hồng, nhân đạo của đảng và chính phủ, có đóng con dấu đỏ và chắc chắn là có mấy chữ độc lập tự do, hạnh phúc kèm theo. Ðó là nói về lý, nhưng về tình, làm sao khỏi miệng tiếng ở đời, khi người đàn bà có chồng đi “cải tạo” chưa thấy về mà bụng thì mỗi ngày mỗi lớn. Một đêm hạnh phúc, nhưng có những đến “chín tháng mười ngày” xót xa.

Phần ông chồng, được “đặc ân” ngủ với vợ, dù chỉ một đêm, trong khi bạn bè, chiến hữu mình nằm san sát nhau trên sạp tre cách đó không xa, hẳn cái “hạnh phúc” này cũng không trọn vẹn. Vả lại, được hưởng đặc ân này, người tù phải có “công trạng” ra sao, hay phải lo lót, quà cáp tới mức nào để đưa vào danh sách được ngủ trong ngôi nhà mang tên “hạnh phúc.”

Và đứa con, được thụ thai trong cái nhà tù xa xôi giữa núi rừng ấy, trong đêm, giữa tiếng kẻng đổi phiên của cai tù, lớn lên sẽ nghĩ sao về sự ra đời của mình?

Một cựu sĩ quan VNCH, vốn là con trai độc nhất của gia đình, khi anh lớn lên, người mẹ thường trông chờ con lấy vợ để sinh cho bà một đứa cháu nối dõi, nhưng chiến tranh đã đưa anh đi xa, không có cơ hội lập gia đình. Ðầu năm định mệnh 1975, nghe lời mẹ, anh lấy vợ. Lấy vợ chưa được bao lâu thì quân đội tan hàng, anh khăn gói đi tù. Cuộc đời tù “cải tạo” dưới chế độ Cộng Sản không hy vọng và không biết được thuở nào ra, nhất là đối với một sĩ quan tác chiến có “nợ máu” như anh.
Qua bảy năm ở trong tù, thương nhớ vợ thì ít, mà xót xa nghĩ đến mẹ già đau yếu, mỏi mắt chờ con thì nhiều. Khi biết được có “chế độ” ngủ qua đêm tại “Nhà hạnh phúc,” anh đã tìm cách liên lạc với gia đình, để có phương tiện đút lót hầu có chút cơ may mang về cho mẹ một đứa cháu, thì dù phải chết trong tù, anh cũng yên tâm. Ðến ngày hẹn gặp vợ, anh cũng mong đợi từng ngày và hy vọng làm tròn bổn phận của một đứa con chưa tròn đạo hiếu, và bỏ qua tất cả những lời dị nghị, xì xầm của bạn bè trong nhà tù.

Lâu ngày vợ chồng gặp nhau, sau một vài giờ mừng rỡ, tưởng chừng như câu chuyện không bao giờ dứt. Khi tiếng kẻng của trại nhắc nhở giờ ngủ, anh cũng háo hức nghĩ đến chuyện ái ân. Họ hôn nhau những nụ hôn vụng về, và anh lần lượt gỡ bỏ bộ y phục mà anh còn nhớ rõ bảy năm về trước, được người vợ mang theo. Trên vạt giường tre, anh đau xót khi thấy thân thể vợ qua nhiều năm nghèo đói, tuyệt vọng, thương nhớ. Hai cánh tay chị khẳng khiu, xương vai nhô cao. Hai bầu vú đầy đặn năm xưa không còn nữa, hai núm vú như muốn lặn sâu vào lồng ngực. Cái bụng thiếu ăn sát xuống giường và hai đầu xương hông gầy guộc nhô cao. Anh yên lặng ôm vợ vào lòng và mặc cho hai hàng nước mắt tuôn chảy, chị cũng khóc theo, cả hai đều thương xót cho số phận của nhau.

Mười bảy năm tù, khi anh trở lại nhà thì mẹ anh qua đời, chưa có được một lần gặp mặt con trai và đứa cháu mà bà hằng mong đợi. Khi trở về thì anh chị đã quá già, tương lai vô định, họ không nghĩ đến chuyện có một đứa con.

Những ngôi “Nhà hạnh phúc” lập ra cho các bộ đội “cụ Hồ,” cho những cơ quan xa thành phố ngày trước của Cộng Sản, may ra còn có thể hiểu, nhưng những ngôi “Nhà hạnh phúc” được bày trò ra trong các “trại cải tạo” sau năm 1980, như một đặc ân cho người thất thế, mang nỗi đau đớn của phận người, trông nhếch nhác, bẩn thỉu và mỉa mai vô cùng.

(1) Ðảng làm“kiểng” do ông Trường Chinh lập ra và cơm gạo thì do ông Nguyễn Lương Bằng, phụ trách tài chánh, cấp.

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Nói láo kiểu VN và thống kê

GS Nguyễn Văn Tuấn

Đã từ lâu, các tổ chức quốc tế không tin vào những con số thống kê của VN do các cơ quan Nhà nước sản xuất và cung cấp. Chẳng hạn như con số thất nghiệp (1.84%) gần đây gây ra nhiều tranh cãi, nếu không muốn nói là khó tin. Càng khó tin hơn khi người ta trình làng con số 80% người dân hài lòng về dịch vụ công. Trời ạ!


Trong cái môi trường tham nhũng và nhũng nhiễu tràn lan như VN mà 80% người dân hài lòng với dịch vụ công! Nhưng sốc nhất có lẽ là con số chỉ 1 người không trung thực trong số 1 triệu người kê khai tài sản. Nhưng những con số đó nó có mặt và cứ như là cười cợt và thách thức dư luận công chúng.


Không phải người nước ngoài không tin con số thống kê của VN, mà ngay cả người trong nước cũng không tin. Cách đây không lâu, Thủ tướng Chính phủ, khi bình luận về con số GDP của các tỉnh, ông nói: "Cách tính GDP của các tỉnh thành hiện nay không xác thực, không đúng thực tế và so với quốc tế thì không giống ai cả".

Đúng là chẳng giống ai về định nghĩa. Định nghĩa "thất nghiệp", một quan chức thuộc Viện Nghiên cứu khoa học và xã hội, nói: "Một người không có việc có thể lấy xe máy đi chạy xe ôm, làm gánh rau lên chợ hoặc ra chợ người ngồi đấy, ngày hôm đấy người ta kiếm được một suất thì người ta không thất nghiệp". Tôi không làm về kinh tế, nhưng nghe qua cách lí giải đã thấy ... vô lí. Nếu tôi bị mất việc toàn thời gian, phải đi gánh rau bán hay lái xe ôm thì chỉ là tạm thời, chứ tôi vẫn tìm việc làm. Chính việc "tôi đang tìm việc làm" phản ảnh tôi đang thất nghiệp. Do đó, ở nước ngoài người ta định nghĩa [chung] về người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động đang không có việc làm và tích cực tìm việc làm trong 4 tuần qua. Với định nghĩa đó, Úc có tỉ lệ thất nghiệp khoảng 4-6% (tuỳ tháng và năm). Tôi chưa nghe nước tư bản "giãy chết" nào có tỉ lệ thất nghiệp dưới 2%.

Con số thống kê là sản phẩm của hoạt động xã hội. Nói đúng ra, nó là sản phẩm của con người. Mà, con người thì có lựa chọn, nên con số thống kê có khi cũng là sản phẩm của những lựa chọn. Tôi có thể nói tỉ lệ người dân hài lòng với dịch vụ công là 80% nếu tôi đặt câu hỏi theo ý của tôi mà tôi không cho người trả lời nhiều lựa chọn. Chẳng hạn như kiểu lấy phiếu tín nhiệm Quốc hội, người ta chỉ cho người trả lời 3 lựa chọn "tín nhiệm cao", "tín nhiệm", và "tín nhiệm thấp", mà không có lựa chọn "không tín nhiệm"! Dĩ nhiên, ai cũng biết đó là một trò gian lận rất thấp, nhưng người ta vẫn làm để có kết quả người ta mong muốn.

Đến con số GDP mà các tỉnh thành còn làm "không giống ai" như Thủ tướng nói thì đủ biết các quan chức chẳng xem đạo đức nghiệp vụ và sự trung thực ra gì. Thủ tướng mà còn nói như thế, chẳng khác gì ông nói quan chức các tỉnh ... nói dóc. Nên nhớ rằng ông tổ cộng sản Lenin từng nói "Thống kê là tai là mắt của đảng", vậy mà người ta dám bịt mắt và bịt tai đảng bằng những con số thống kê dóc!

Cựu thủ tướng Anh Benjamin Disraeli từng so sánh con số thống kê với nói dóc. Ông nói: "lies, damned lies, and statistics" (láo, đại láo, và thống kê). Câu này hàm ý nói rằng người ta dùng con số thống kê để biện minh cho các lí giải kém thuyết phục. Câu nói của Disraeli vẫn còn tính thời sự ở VN: những con số tỉ lệ thất nghiệp 1.84% hay 80% hài lòng với dịch vụ công chỉ là những biện minh cho những lí giải quá yếu.

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »


“Trăm năm trồng người...”


Huy Phương

Một bản tin ngắn, rất tầm thường ở Việt Nam, không chắc làm cho bạn quan tâm, đau lòng, đó là bản tin từ Hà Nội, cho biết nạn bẻ kính chiếu hậu xe hơi bắt đầu tràn lan. Chỉ với một chiếc Porsch Panamera giá $200,000 đã được quân gian chiếu cố, chỉ trong hai năm, đã bị bẻ kính bảy lần. Ngay một sinh viên trường Cao Ðẳng Văn Hóa-Thể Thao Hà Nội, Ðặng Huy Việt, trước đây cũng từng là thủ phạm loại ăn cắp vặt này. Theo tôi, trong cái thời buổi tệ mạt này, rõ ràng là chuyện “trăm năm trồng người” đã có kết quả hay hậu quả đau lòng.


Một trong những “danh ngôn” của Hồ Chí Minh được CSVN ca tụng nhất là câu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” nhưng trẻ em “quàng khăn đỏ” ít đứa nào biết tới ông Quản Trọng bên Trung Quốc là tác giả chính hiệu danh ngôn này, đã bị “bác” bứng nguyên cây về trồng trong vườn nhà “bác.” Câu này lấy từ ý của Quản Trọng trong sách Quản Tử, nguyên văn là: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. (Kế sách cho một năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; kế sách cho mười năm, lấy việc trồng cây làm đầu; kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu).


Những gì “bác” đã gieo giống, chăm sóc, tưới nước bón phân, ngày nay rõ ràng là đã có kết quả. Sách Minh Tâm Bảo Giám, chương Kế Thiện, có câu: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. (Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu). Không ai gieo hạt chanh chua mà lại hái được giống cam ngọt, nói đơn giản, gieo nhân nào thì gặt quả nấy!


Hạt giống độc địa ấy từ ngày được Hồ Chí Minh mang về gieo trong khu vườn nhà đã như là “loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh; là loài trùng độc, sinh sôi nảy nở trên rác rưới của cuộc đời” như câu nói của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Tây Tạng, khi nhận xét về chủ nghĩa cộng sản. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam, nơi Bắc Việt gọi là vùng tạm chiếm, tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng, làm băng hoại đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, như những chuyện băng đảng nhóm xã hội đen, cướp của giết người, mại dâm, ma túy, cờ bạc, hiếp dâm trẻ em, loạn luân, lừa gạt, chiếm đoạt tài sản.


Lúc đầu, nói về tình hình trật tự xã hội, đề cập đến những điều xấu xa đầy rẫy này, đảng cộng sản tránh né trách nhiệm, đổ lỗi cho đó là hậu quả, tàn dư của chế độ cũ để lại, chỉ đích danh là Mỹ, Ngụy, nhưng rõ ràng là sau hơn 39 năm “làm chủ” đất nước, thực tế ngày nay không thể còn đổ lỗi cho ai.


Sau nữa là cả nước từ 60 năm nay, dưới sự cai trị của đảng, do chủ trương của đảng, là “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!” Vậy thì những gì được ghi nhận hôm nay là thành quả chiếu sáng từ tấm gương ấy, đó là chân lý, mà chân lý này không bao giờ thay đổi. Không ai dám hỏi Hồ Chí Minh thực sự có đạo đức hay không, và cả đất nước mù quáng tin theo những gì đảng nhồi nhét từ những đứa trẻ, làm đông đặc đầu óc thanh niên, bắt người ta tin vào những chuyện không có thật.


Hậu quả là ngày nay cả nước nói dối như cuội.

Hậu quả là ngày nay cả nước ai cũng gian dối để sống.

Hậu quả là ngày nay, lý tưởng của cuộc sống là đồng tiền.


- Ở xã hội ấy cái gì cũng mua được bằng tiền, cái gì cũng được đem bán, và người ta sẵn sàng bán đi những cái gì quý nhất.
- Ở xã hội ấy, người ta không biết hổ thẹn vì nhân cách, nhưng cảm thấy hổ thẹn khi thua sút những người chung quanh vì cái nhà, cái xe, cái điện thoại, cái xách tay...
- Ở xã hội ấy, ai cũng muốn bỏ đi, những ai còn ở lại là không đi được, hay đang còn kiếm được tiền để chuẩn bị đi hay lo cho những người đã đi.
- Con người là vốn quý như ai đó đã từng nói, nhưng một mạng người không đáng giá bằng một con chó!
- Con người là vốn quý, nhưng người ta coi rẻ sinh mạng của nhau, cầm dao giết nhau chỉ vì một cái nhìn, một chuyện tranh cãi hay để cướp đoạt tài sản của người khác.
- Con người là vốn quý, nhưng công an, thế lực của chế độ, sẵn sàng đánh chết dân vì dân không chịu nhận tội mình không làm.
- Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người, nhưng người vá xe sẵn sàng rải đinh trên đường để cho tiệm mình đông khách, thêm lợi nhuận.
-Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người nhưng bọn phục vụ cho dân, ăn gian, làm dối, sống chết mặc bay.
- Cộng sản đã từng ca tụng: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đỉnh cao trí tuệ loài người!” Hà Nội là lương tri của nhân loại! Báo Quân Ðội Nhân Dân đã ca tụng “đỉnh cao của khí phách và trí tuệ Việt Nam,” nhưng ngày nay nhân dân Việt Nam đi đến đâu đều được mọi người có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhật, Thái Lan, Nam Hàn, Singapore... kết án người Việt trộm cắp, ăn tham, xả rác, bán dâm... khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xa. Cả nhân viên nhà nước cũng buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, vậy người Việt ra nước ngoài còn dám ngẩng mặt nhìn ai?

- Ở trong nước dân Việt đã bày tỏ dân trí bằng cách ẩu đả, chửi bới nhau để chen lấn mua bánh Trung Thu ở Hà Nội, giành giật đạp lên nhau để giành được kiếm một miếng sushi miễn phí ở một cửa hàng mới khai trương, hỗn loạn trèo lên đầu nhau lên nhau để mua bằng được lá ấn trong lễ khai ấn đền Trần, hôi của khi có tai nạn qua đường như rơi tiền, đổ bia... Người ngoại quốc và các tòa đại sứ ở Việt Nam thì bắt đầu “sợ” dân Việt khi những cây anh đào được đem từ Nhật đến bị đám đông nhào đến vặt sạch, chính phủ Hòa Lan tổ chức phát 3,000 chiếc áo mưa cho dân chúng để tỏ tình hữu nghị thì đám đông ào ạt, hung dữ nhào lên sân khấu cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán.
- Chính giới trí thức trong nước, như Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã viết rằng, “Phải nói rằng kể từ khi đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam thì con người Việt Nam bấy giờ còn tha hóa hơn con người Việt Nam hồi thời phong kiến. Và tư chất, đạo lý của con người Việt Nam bây giờ còn thua cái thời Pháp thuộc. Cho nên điều đó là do ảnh hưởng của chế độ chính trị và của tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội mà chủ yếu đẩy con người vào tình trạng không cạnh tranh lành mạnh, không cạnh tranh dựa trên đạo lý, không dựa trên pháp luật, mà bằng phe nhóm, ỷ thế, ỷ quyền, ỷ vào giai cấp, ỷ vào thành phần lý lịch, ỷ vào con ông cháu cha. Hơn nữa, kể từ khi đưa cái Chủ Nghĩa Mác vào, lấy chuyên chính vô sản vào, thì người ta không tôn trọng pháp luật nữa. Cho nên người ta sẵn sang giẫm đạp lên pháp luật, lên đạo lý, từ đấy ảnh hưởng đến tâm tính của con người Việt Nam. Rồi đời sống không cần đạo lý, không cần pháp luật. Thì đó là cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội này.”

Ai đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam, phải chăng là công ơn “bác Hồ,” cho nên hôm nay, chưa đến một trăm năm, mà việc trồng người của “bác” đã có kết quả “khả quan,” đưa đất nước vào chỗ lụn bại, tha hóa.

Muốn gieo lại hạt giống tốt thì phải quét sạch, khai quang, đào xới lại cả khu vườn, thay đất mới, và phải mất trăm năm nữa, con người hôm nay mới trở lại được cái tử tế, văn hóa, chỉ mong được tương đối như người miền Nam trước 1975, hay nói xa hơn là cả cái thời Pháp thuộc.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào sự thật đau lòng, đừng mang ảo tưởng quê hương giàu đẹp, văn minh, trí tuệ, có ai đụng vào thì giãy lên như đỉa phải vôi, kêu la là “chống phá tổ quốc, tay sai ngoại bang, thù nghịch với nhân dân !”

Huy Phương

User avatar
saulong
Posts: 114
Joined: Thu Aug 06, 2009 6:02 pm

Post by saulong »

Người Vợ Đảm Đang


Ở hải ngoại, ông Việt Nam nào có phước lắm mới có được vợ Việt Nam. Người đàn bà Việt Nam là biểu tượng của người vợ hiền, đảm đang, Chung thủy, tiết kiệm... là tấm gương sáng cho tất cả phụ nữ khắp thế giới noi theo. Vợ tôi lại là tấm gương sáng nhất trong các tấm gương sáng đó. Nói vậy để quí vị biết là tôi hạnh phúc, sung sướng đến cỡ nào! Nếu kể Ra đây tất cả các đức tính cao quí của vợ tôi, sợ quí vị không có thì giờ đọc, nên tôi xin đơn cử một đức tính mà bà Việt Nam nào cũng có, đó là tính tiết kiệm.

Nhưng tiết kiệm là gì
​ ?​

Là đọc báo mà thấy chợ nào có bất cứ món gì "xeo" (on sale: giảm giá) là chạy đi mua ngay (kẻo hết). Có những ngày chủ nhật, vợ tôi kêu tôi dậy từ sáng sớm, đi giáp vòng các chợ có hàng "xeo", đến chiều thì vừa đầy chiếc Xe van. Tôi phải vác vào, chất đầy nhà, đến độ muốn vào nhà, tôi phải Leo qua những bao gạo hiệu con voi, con cá, con chuột, Leo qua những thùng nước mắm hiệu một con cá, hai con cua, năm con bạch tuột,bò qua những thùng dầu bắp, dầu đậu nành, những thùng mì gói, bột, đậu, đường, rồi khăn tắm, khăn trải giường, đồ chùi son nồi, kem đánh răng...(dĩ nhiên tất cả đều quá hạn expired date). Xin quí vị tưởng tượng đến một cái kho tích trữ đồ cứu trợ bão lụt miền Trung chất tùm lum, vất bừa bãi khắp nơi là biết ngay. Nhưng không phải đầy nhà rồi thì ngưng đi mua "xeo" đâu. Vẫn tiếp tục. Vợ tôi giải thích cho tôi biết "Một bao gạo tiết kiệm được một đô. Một trăm bao, tiết kiệm được bao nhiêu" Ông tính đi!" Tôi làm bộ kinh ngạc "Một trăm đô! Tôi đâu có ngờ. Tưởng chỉ một đô, mà thành trăm đô. Bà coi báo, xem còn chợ nào "xeo" thì nên mua về, để dành. Kinh tế suy thoái, tiết kiệm được đồng nào quí đồng đó" Vợ tôi khoái lắm nhưng làm vẻ nghiêm trang "Ông thử đi mượn một đô xem có AI cho mượn không" Phải tiết kiệm từng đồng, để khi cần thì có mà đem Ra xài"

Chuyện các báo đăng hàng "xeo" thì vợ tôi rành lắm, chợ nào, xa cách mấy vợ tôi cũng biết rõ đường đi lối về (để chỉ đường cho tôi), trừ những chợ mới khai trương, vợ tôi không biết đường, phải hỏi các bà bạn. Với tôi, muốn đến đâu, giở bản đồ Ra là biết hết, nhưng tôi đâu có dại. Có biết, tôi cũng lắc đầu, để khỏi chở bả đi, hơn nữa, phải để bả hỏi bạn bè rồi bả chỉ đường, bả mới lên mặt được! Thương vợ thì phải làm Sao cho vợ lúc nào cũng giỏi hơn mình, thông thái hơn mình.

Sau đây là một chuyện điển hình về một buổi đi chợ mua hàng "xeo" của vợ tôi. Tôi kể trên báo nầy cho quí vị nghe mà không sợ bị vợ đánh đập vì vợ tôi, hễ cầm đến tờ báo là tìm mấy trang quảng cáo có hàng "xeo", cắt cúp bon (coupon: phiếu giảm giá) để dành, ngoài mục hàng "xeo", báo có đăng tin trời sụp bả cũng không "ke" (care: quan tâm đến).

Tiểu bang Virginia, nơi tôi ở, nếu kể cả các vùng phụ cận như thủ đô Washington DC, tiểu bang Maryland thì có khoảng bốn chục nghìn người Việt nhưng không biết cơ man nào là chợ Á Đông, là những chợ bán đủ thứ, kể cả những món mà chợ Mỹ không có như mắm ruốc, mắm bồ hóc (brohoc), mắm nêm...là những thứ mà mở Ra thì người Mỹ bỏ chạy, tưởng là bom bẩn của bọn khủng bố. Kể Ra, có một chợ Á Đông gần nhà cũng tiện, cần gì, chỉ lái Xe đi mươi phút là có ngay. Nói là "chợ" nhưng sự thực là một tiệm chạp phô lớn, kiểu siêu thị nhỏ ở Việt Nam, do một gia đình, thường là người Tàu Chợ Lớn, đứng Ra kinh doanh.

Khoảng mấy năm trở lại đây, thấy dễ ăn, người Tàu (Đài Loan, Trung Cộng), người Đại Hàn (Nam Hàn) nhảy Ra lập công ty, mở những chợ đồ sộ, gì cũng có, giá rất rẻ để thu hút khách hàng và để "lấy thịt đè người", cố giết chết những tiệm chạp phô của người Á Đông. Quả nhiên, các tiệm chạp phô nầy chết dần, như cây thiếu nước, héo tàn, sống lây lất hoặc dẹp tiệm.

Hiện nay thì chợ Đại Hàn bành trướng khắp nơi, thu hút chẳng những khách Á Châu như Lào, Thái, Miên và cả người Ấn Độ, Phi Châu, Nam Mỹ vì giá rẻ hơn các chợ Mỹ, tuy phẩm chất hàng hóa thường quá tệ. Nhưng những di dân, rất dễ tính, miễn rẻ là được.

Nói chuyện đi chợ xứ Mỹ nầy thì bà nào cũng giống nhau. Quí bà sai quí ông đi chợ về là bị quí bà đem cái rì xít (receipt: phiếu tính tiền) ra đọc, nếu thấy bị ăn gian thì đay nghiến cả tháng trời, vì các ông mua gì cũng không bao giờ nhìn đến cái rì cít. Với các bà thì đừng hòng. Bà nào vào chợ, bốc món nào bỏ vô xe đẩy là nhớ cái giá như gõ vào máy tính trong đầu. Đi một vòng, ra chỗ trả tiền, các bà đã tính nhẩm ra ngay tổng số tiền phải trả. Khi người ta chọt giá món hàng vào máy tính tiền là các bà đứng nhìn không rời mắt, thấy khác lạ là chận lại ngay, đừng hòng ăn gian.

Chưa xong đâu, đi chợ về, các bà còn lục mấy cái rì cít cũ ra để so sánh giá cả từng món hàng. Chợ nào bán mắc hơn, chỉ vài xen (cent: xu) là các bà nhảy nhỏm lên như bị kim châm vào mông, rồi gọi ngay đến bà bạn còm ròm và khuyến cáo "Chị Như Quỳnh đó hả" Em là Tuấn Vũ đây. Em mới đi chợ A. về. So lại mấy cái rì xít của các chợ khác mới lòi ra bị nó bán cắt họng. Chị nghĩ coi. Nó bán bó hành tới năm mươi xen trong khi chợ B. chỉ bán có bốn tám xen. Chị đừng đi chợ đó nữa nghe chị! Chủ nhật nầy chị có đi chợ C. không" Nghe chị Thái Hòa nói có bán trứng xeo, hai mươi xen một hộp. Em sẽ gọi chị đi chung cho vui, nếu em không đi được, chị mua giùm em hai chục hộp trứng nghe". Tôi không dám có ý kiến! Bả cấm cha con tôi ăn trứng vì nhiều cà rôn (cholesteron), lại đi mua trứng ung về làm gì không biết"

Một buổi sáng chủ nhật, tôi đang lơ tơ mơ trên giường thì vợ tôi cất giọng the thé "Đi chợ!". Tôi vùng dậy, chạy u vô phòng vệ sinh, đánh răng, rửa mặt, mặc quần áo, mang giày, lấy chìa khóa xe ra ngồi trên thềm nhà chờ vợ. Độ hai giờ sau, trang điểm xong, vợ tôi ỏng ẹo đi ra, tôi chạy ra xe, mở cửa cho người đẹp lên ngồi rồi mới lên xe mở máy, chờ lịnh vợ. Vợ tôi ra dấu ra đường, tôi cho xe chạy từ từ. Vợ tôi móc xeo phôn (cell phone: điện thoại cầm tay) "A lô! Chị Tuấn Ngọc đó hả" Em là Tuấn Vũ đây. (Tôi xin giải thích là "chị Tuấn Ngọc" không phải là ca sĩ Thái Thảo (vợ Tuấn Ngọc) và vợ tôi cũng không phải ca sĩ Tuấn Vũ. Hễ bà nào mê ca sĩ nào thì tự xưng (biệt hiệu) ca sĩ đó. Có dịp tôi sẽ kể về các bà "ca sĩ dỏm" nầy cho quí vị nghe). Dạ. Chị chỉ giùm em đường đến chợ Mạt Lo (Martlow). Chợ mới khai trương, em không biết đường. Ông xã em hả" Con gà rù chị ơi, làm sao biết đường! Đi đâu em cũng phải chỉ đường phát mệt. Em nghe chị Ngọc Hạ nói ở đó có "xeo" gạo Hoàng Gia, rẻ được năm mươi xen (cent), còn nước mắm, trứng nhiều thứ lắm. Phải không chị" Bây giờ chị chỉ đường cho em nghe! Dạ. Từ nhà em đi thẳng trên đường Men Rít (Main street), qua bảy cây đèn (vợ tôi ra dấu cho tôi tiếp tục chạy tới). Sao chị" Thấy Mắc đó nơ (McDonald) quẹo phải, năm cây đèn nữa, thấy Xe vờn i le vờn (tiệm Seven-Eleven) quẹo trái. Sao nữa chị" Rồi mười lăm cây đèn nữa thì thấy bảng Mạt Lo. Chị nói sao" Từ nhà chị đến đó chín mươi may (mile)" Nhà em gần nhà chị thì cũng khoảng đó. Hơi xa, nhưng không sao, bữa nay nghỉ làm, em đi tới chiều cũng không sao. Vì gia đình, vì chồng con, mình phải hi sinh, xoay xở, dè xẻn từng xen, vậy chớ mấy ông chồng đâu có hiểu, thấy vợ tiết kiệm thì mỉa mai. Ông xã chị cũng vậy hả" Đúng rồi! Chỉ biết cà phê cà pháo với nhau, nói chuyện tầm bậy, tầm bạ thì giỏi lắm nhưng về nhà thì vô dụng hết sức. Cám ơn chị. Ô mây ga! (Oh My God!: Trời đất!) Em chạy qua được mấy cây đèn rồi cũng không nhớ nữa! Dạ, bye chị!"

Vợ tôi bỏ phôn vào xách tay, hỏi tôi "Ông đã biết đường chưa" Hay phải chờ tôi chỉ đường"" Tôi làm vẻ ngoan ngoãn "Bà nói chuyện, tôi phải chú ý nghe để nhớ đường chớ!" Bả nhìn tôi cười, giọng kẻ cả "Tôi hỏi người ta cốt cho ông nghe để ông nhớ mà đi cho đúng đường" Tôi nói vậy cho bả không nghi ngờ chứ chợ nầy tôi đã đến nhiều lần rồi. Tôi còn biết đi đường tắt cho khỏi kẹt xe nữa. Đó là nhờ cô Trít (Trish Thùy Trang dỏm).

Cô Trít nầy là bạn vợ tôi, thỉnh thoảng các bà tụ tập đến nhà cô Trít để hát ca rô kê, tôi chở vợ tôi đến và làm khán giả. Là khán giả duy nhất nên hay dở gì cũng phải "xin một tràng pháo tay thật lớn". Quí vị tưởng tượng xem. Một buổi trình diễn văn nghệ, ca sĩ thì nhiều mà khán giả chỉ mình tôi nên nhiệm vụ của tôi thật nặng nề. Tôi vỗ tay đến độ phải đi bác sĩ để "băng bột", nhưng hễ thấy tay tôi vừa khỏi là tổ chức ca rô kê để tôi làm khán giả, lại "một tràng pháo tay thật lớn", lại đi bác sĩ! Nhưng tại sao chỉ mình tôi là khán giả" Chồng mấy bà kia đâu" Mấy ông kia khôn hơn tôi và có lẽ ít sợ vợ hơn tôi, nên chở vợ đến nhà cô Trít là vất vợ đấy, lái xe chạy mất tiêu. Tôi mà làm như thế thì có nước ngủ ngoài đường. Trường hợp cô Trít, tôi có âm mưu, nên khi cô hát, tôi vỗ tay hơi nhiều một chút, chỉ vài lần đặc biệt thôi là cô Trít hiểu liền, chờ vợ tôi quay đi là cô ta tặng riêng cho một nụ cười và một cái liếc mắt tình tứ, xiêu đình đổ quán. Khi cô đến, đưa bánh hay mời trà, bình thản hỏi chuyện gì đấy nhưng lại đụng chân vào đùi tôi. Xin thưa là cô nầy đẹp nhất trong các bà, người cao ráo, chân tay ngon lành, thân thể mát mẻ và đặc biệt là ở tuổi hồi xuân mà không có chồng. Thế nên mỗi khi chúng tôi, làm như vô tình, đụng chạm nhau thì tôi như bị điện giật, tê tái cả người. Chỉ cần tả chừng đó thôi cũng đủ cho quí ông thông cảm và quí bà (độc giả) biết ngay là sau đó chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng vợ tôi thì không biết. Chẳng ai biết! Vậy mới là chuyện hay! Nhưng tôi cũng xin thưa là tình cảm giữa tôi và cô Trít nầy hoàn toàn ngây thơ, trong trắng.

Mỗi thứ hai, tôi xin với xếp về sớm một giờ, ghé nhà cô Trít để vấn an cô và để góp ý với cô về cách ăn mặc, sao cho giống ca sĩ thần tượng (Trish Thùy Trang) của cô để chuẩn bị cho buổi ca rô kê sắp tới.

Buổi gặp gỡ diễn ra như sau. Cô mở cửa đón tôi, chúng tôi cúi chào như mấy người Nhật đóng phim (nhưng cô mặc đồ ngủ chứ không mặc Kimono) rồi cô bước lùi nhường lối cho tôi vào nhà, mời tôi ngồi xuống xa lông, đối diện với cô. Cô rót trà mời tôi. Chúng tôi uống trà và trò chuyện. Xong tuần trà, cô vào phòng (tôi vẫn ngồi yên, không theo cô vào phòng cô), thay trang phục giống như cô Trish Thùy Trang (thật) thường mặc khi trình diễn, đi ra, xoay người mấy vòng, tôi cho ý kiến. Dĩ nhiên tôi phải khen nức nở. Cô lại vô phòng, thay trang phục khác để tôi tiếp tục khen... Một giờ sau, tôi cáo từ. Chúng tôi lại cúi chào theo kiểu Nhật. Tôi bước lùi ra cửa. Lại cúi chào nhau lần nữa, rồi tôi lên xe. Đọc đến đây, quí bà sẽ lắc đầu còn quí ông thì xùng gan "Vừa thôi! Xạo vừa thôi. Cúi chào kiểu Nhật, khen áo quần đẹp, uống trà suốt môt giờ rồi đứng lên ra về. Vậy ông đến làm gì"" Tôi đã thưa là tình yêu của chúng tôi thanh cao, trong trắng như thuở học trò mà!

Tôi có nói, tôi biết đường là nhờ cô Trít nầy, vì nhà cô gần chợ Mạt Lo và vì cô có thói quen, thỉnh thoảng, cô gọi điện thoại, bắt tôi đến nhà cô ngay tức thì, để đưa cô đi chợ! Tôi đang làm việc, lại xin phép xếp đi nửa giờ. Nhưng đến nơi, chúng tôi chỉ cúi chào nhau theo kiểu Nhật, ngồi (yên) uống trà độ nửa giờ rồi chia tay chứ không đi chợ. Bao giờ cũng thế. Thực ra, tôi có đưa cô Trít đi chợ Mạt Lo đó mấy lần (trong lúc vợ tôi còn ở sở làm) nên tôi biết rành chợ nầy lắm.

Xin trở lại chủ đề "tiết kiệm" của vợ tôi.

Tôi lái xe đến đúng chợ Mạt Lo nhưng làm bộ không thấy cái bảng hiệu nên cứ chạy thẳng để vợ khỏi nghi và để cho bả "ta đây" biết đường. Bả la lên "Yêu thơn! Yêu thơn! (U-turn)". Tôi làm như phục tài bả, ngoan ngoãn trở đầu xe. Xe vào sân chợ, vừa ngừng là vợ tôi phóc xuống, ra lịnh "Tôi một xe (xe đẩy). Ông một xe". Tôi hiểu ngay. Vì trong quảng cáo, có những món hàng "xeo" bị giới hạn số lượng cho mỗi khách hàng. Tôi mua riêng, vợ tôi mua riêng, như vậy sẽ mua được gấp đôi. Vợ tôi cầm tờ quảng cáo hàng "xeo" đi vào chợ, vừa đọc vừa dáo giác tìm. Tôi đẩy xe theo sau. Hễ bả bỏ vào xe đẩy của bả hai chai nước mắm hiệu con chuột thì bỏ vào xe tôi hai chai, xe bả năm thùng mì ăn liền hiệu con cóc thì xe tôi cũng có năm thùng, mười hộp trứng gà (ung!) thì tôi cũng có như thế...Đến chỗ bán gạo xeo, chúng tôi phải chờ. Một dọc, cả chục bà đang chờ đến lượt để hì hục vác gạo bỏ lên xe đẩy. Hầu hết là các bà Việt Nam. Bà nào cũng có một ông chồng với một xe đẩy riêng. Nếu dịp khác, các bà sẽ chào hỏi, chuyện trò rôm rả, nhưng lúc nầy thì tinh thần các bà rất căng thẳng, mắt đăm đăm nhìn đống gạo "xeo" đang vơi đi với tốc độ chóng mặt, khiến các bà cũng chóng mặt theo. Nếu ở Việt Nam, các bà đã xốc tới, huých người nầy, lấn người kia để đến gần đống gạo, nhưng vì ở Mỹ nên các bà đành hậm hực nhích từng bước, lòng lo lắng, không biết đến lượt mình có còn gạo không" May sao, đến lượt chúng tôi, gạo vẫn còn nhiều. Chúng tôi đẩy xe ra quày tính tiền. Biết tôi vô sản, vợ tôi lén nhét cho tôi tờ trăm đô và dặn nhỏ, không cho cô tính tiền nghe, sợ bị làm khó dễ "Mua xong, đưa lại tiền thối cho tôi".

Vì gạo mua "xeo" đó hiệu Hoàng Gia (Royal Rice) là gạo rất đặc biệt (theo như quảng cáo), rất quí hiếm nên vợ tôi nảy ra sáng kiến. Mua xong chúng tôi ra xe nhưng vợ tôi không cho tôi nổ máy xe. Ngồi một lúc, bả ra dấu, chúng tôi bước xuống, vào chợ lần nữa, mỗi người một chiếc xe đẩy, nhưng bả bảo phải đi cách xa ra để người ta không biết, tưởng mình là khách mới vào. Bả đi thẳng đến hàng gạo và chúng tôi sắp hàng nối đuôi với những người khác. Nhưng vừa đến lượt thì gạo hết. Vợ tôi nổi xùng, đến ban quản lý khiếu nại. Bả to tiếng bằng tiếng Anh, ban quản lý vì kém sinh ngữ, không biết bả nói gì nhưng hiểu ngay, vội đưa bả vào kho chứa gạo. Một cái kho mỗi bề ít ra cũng một trăm mét, chất thứ gạo Hoàng Gia đó tới nóc. Ông quản lý hỏi vợ tôi có cần thì ông ta cho xe tải chở đến nhà, mấy trăm bao cũng có, đã bán giá "xeo" lại được đít kao (discount: bớt giá) nữa. Vợ tôi cười hỉ hả, chỉ nhận có hai chục bao. Công nhân chất gạo vào sau xe cho chúng tôi. Bữa đó, chiếc xe van đời Bảo Đại của chúng tôi bị một phen quá tải. Nó xịt khói tùm lum, gầm rú như xe tăng, mà chạy như xe bò, nhưng cũng lết được về nhà. Tôi cũng bị một trận quá tải vì vác gạo vô nhà, muốn xỉu vì kiệt sức nhưng tôi vẫn vui vẻ vì đã giúp vợ thực hành tiết kiệm cho gia đình.

Về nhà vợ tôi đem cái rì xít ra tính toán và hí hửng bảo tôi "Rẻ được hai mươi đô". Tôi định nhắc bả nhớ là lái xe đi, về gần hai trăm miles, đổ hai lần xăng, mỗi lần bốn mươi đô, nhưng sợ bả giận, tôi làm thinh.

Vợ tôi bắt phải để thứ gạo Hoàng Gia đó vào một chỗ riêng. Tuần sau là đưa ông Táo về trời rồi nên vợ tôi gọi điện thoại đến các bà bạn, hỏi ai chưa mua được gạo Hoàng Gia thì bả tặng một bao "Ăn lấy thảo, tiền bạc chẳng bao nhiêu. Chị trả tiền em giận chị". Tôi có nhiệm vụ chở thứ gạo Hoàng Gia đó đến nhà quí bà. Các ông chồng của quí bà ra vác vào. Ông nào cũng ngoan ngoãn, hiền lành như tôi nhưng chúng tôi biết nhau quá rõ. Trông cù lần, con gà chết như thế chứ ông nào cũng thủ đắc vài con mèo để rảnh rỗi đi ngắm mèo giải sầu. Dĩ nhiên là những con mèo cô đơn kiểu như cô Trít của tôi. Tôi cũng nhân dịp vợ sai chở gạo Hoàng Gia tặng cô Trít, trên đường đi, tôi gọi cho vợ tôi báo là dọc đường có "tai nạn xe khủng khiếp quá, đường bị kẹt, cả giờ sau chưa chắc đã đi được!" Vậy là tôi đến "với" cô Trít cả giờ mà vợ tôi không nghi ngờ.

Chiều hăm ba tháng chạp âm lịch, là ngày đưa ông Táo về trời. Tôi đi làm về sớm. Vợ tôi gọi điện thoại, bảo mở bao gạo Hoàng Gia ra, nấu nồi cơm để bả về cúng đưa ông Táo.

Tôi mở bao gạo, lấy cái lon nhựa, đong ba lon vào nồi cơm điện như vợ dặn rồi bưng nồi đến vòi nước, mở nước để vo gạo. Nước vừa ngập gạo thì không biết đâu ra những con vật bé tí, nhỏ hơn hạt mè, đen thùi nổi lên, ngọ ngoạy, dính chùm nhau, đen kịt mặt nước. Ba lon gạo Hoàng Gia, e có đến một lon những con mọt đen đó. Tôi dùng tay gom được một nạm đầy mọt, bỏ thùng rác rồi quậy gạo, chúng lại nổi lên. Tôi mở nước, nghiêng nồi cho chúng trôi ra với nước. Làm vài chục lần thì chúng trôi ra gần hết.

Tôi bưng nồi cơm để vào cái nồi lớn, đậy nắp, mở điện lên nấu. Bỗng thấy nhột ở cổ, tôi đưa tay lên gãi và vuốt. Trong tay tôi có mấy con mọt đen. Tôi đến chỗ bao gạo Hoàng Gia đã mở thì thấy chúng bò ra, bám đen cái bao ni lông trắng. Nhiều con cất cánh bay lên. Tôi nhìn lên tường. Bốn bức tường quanh nhà đen nghịt những sinh vật bé tí đó. Tôi lấy dao rạch tiếp mười mấy bao gạo Hoàng Gia còn lại, mở banh ra. Bao nào cũng đầy mọt đen. Chúng bò ra, bay lên, giống như ta đốt giấy, những tro giấy màu đen bay lên theo ngọn lửa.

Tôi ra hiên nhà ngồi gãi và bắt những con mọt đen đang bò lung tung trong áo, trên cổ, đặt chúng lên bàn tay, ngắm chúng để chờ vợ tôi về.


Phạm Thành Châu

User avatar
saohom
Posts: 2215
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Bạn có tự hào là người Việt Nam?

GS Nguyễn Văn Tuấn

Cuốn sách "Tôi tự hào là người Việt Nam" mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn, có thể nói là một hiện tượng (1). Cách đây vài năm, trung tâm Thuý Nga bên Mĩ có sản xuất một show nhạc có tên là "Tôi là người Việt Nam" cũng rất thành công. Những sản phẩm loại này có thể nói là cũng có tác động tốt trong việc lên dây cót tinh thần cho công chúng. Nhưng là người va chạm thực tế hơi nhiều, tôi nghi ngờ cái ý tưởng cao đẹp "tự hào là người Việt Nam".

Kể chuyện cá nhân thì nhiều lắm, nhưng chuyện đầu năm nay làm tôi bị ám ảnh hoài về cái prestige của VN ở nước ngoài. Hôm đó, tôi đáp máy bay đi Pháp nói chuyện trong một hội thảo. Chuyến bay từ Sài Gòn nên có rất nhiều khách Việt Nam. Đến phi trường quốc tế Charles de Gaulle, tôi chứng kiến cảnh không vui. Mới bước ra máy bay chưa đầy 20 mét (còn rất xa đến cổng hải quan) đã gặp những người đứng chờ giống như an ninh hay cảnh sát. Đứng trước tôi là một phụ nữ có con đang bị thẩm vấn và tôi nghe những câu tiếng Anh lơ lớ của viên cảnh sát khó ưa: Đến Pháp làm gì? Ở đây bao lâu? Tại sao đem theo con? Ở Việt Nam làm nghề gì? Phải gần 4 phút sau chị ấy mới được trả lại passport trong cái nhìn đầy nghi ngờ của y. Đến phiên tôi, đã trong tư thế sẵn sàng "trả thù" cho đồng hương, nên tôi chuẩn bị tinh thần đối đáp trong cái nhìn thách thức. Nhưng viên cảnh sát chỉ nhìn qua passport (tôi mang quốc tịch Úc) và nói "ok", tôi nói cám ơn, và anh ta đáp lời: "Welcome to France"! Tôi ngoái đầu nhìn lại thì thấy rất nhiều đồng hương vẫn còn xếp hàng để trả lời mấy câu vớ vẩn đó. Đến cổng hải quan lại thấy cảnh đồng hương bị làm khó dễ mà bực mình.


Tôi thấy rõ ràng đó là một thái độ kì thị. Cũng là người Việt Nam, cũng họ Nguyễn, tại sao tôi được đối xử ok, còn đồng hương tôi thì không. Chỉ khác nhau ở cái màu passport, chứ tôi không nghĩ ra lí do chính đáng nào khác. Nói chung, các em du học sinh và nhiều quan chức VN cũng có kinh nghiệm tương tự như chị đồng hương. Cầm passport VN ra nước ngoài thường hay bị hoạnh hoẹ, làm phiền, thậm chí khinh bỉ ngầm. Hình như họ xem người Việt có tiềm năng làm chuyện bất hợp pháp. Do đó, tôi rất thông cảm với phàn nàn của Giám mục Ngô Quang Kiệt.

Có thể ở VN nhiều người tự hào là người Việt anh hùng và thông minh. Nhưng ở nước ngoài, tôi có thể nói rằng người ta không nhìn người mình như thế. Tôi nghĩ tại vì Việt Nam chưa có cái mà tiếng Anh gọi là “prestige” để người ngoài kính nể. Người Nhật và Hàn họ có cái prestige gắn liền với đất nước họ. Nói đến Nhật người ta nghĩ ngay đến một dân tộc vĩ đại, đến những cái thương hiệu làm nên nước Nhật Bản như Toyota, Nissan, Mitsubishi, Sony, Sanyo, Nikon, Canon, University of Tokyo, University of Kyoto, v.v. Nói đến Hàn Quốc là người ta nghĩ đến Samsung, LG, Hyundai, Seoul National University, v.v. Việt Nam chưa có những thương hiệu như thế để định hình hay để đóng góp vào cái căn cước tính của đất nước. Thay vào đó, Việt Nam nổi tiếng với chiến tranh, nghèo nàn, tham nhũng, trồng cần sa, Vinashin, Vinalines, v.v. Do đó, dù muốn hay không thì người ngoài cũng đánh giá chúng ta – người Việt Nam – bằng cái nhìn thấp hơn Nhật Bản và Hàn Quốc.

Mà, làm sao tự hào được khi đất nước còn quá nghèo dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm. Thành ra, tôi thấy đồng ý với một bà nông dân khi bà nói: “Không! Từ xưa tới giờ tui không tự hào. Tôi không tự hào vì lời nói không đi đôi với việc làm thành ra người ta nói là quyền của người ta còn tự hào thì tôi không tự hào tại vì tui quá khổ tui không tự hào được. Tui thấy những người chung quanh tui họ còn khổ tui không thể chịu nỗi nhưng tui cũng đau lòng.” (2). Đó là chưa kể những vụ người Việt làm xấu mặt người Việt ở nước ngoài qua những hành động như ăn cắp ở siêu thị, hám ăn, và phụ nữ VN bị trưng bày trong tủ kiếng như một món hàng. Phải nói là nhục chứ tự hào nỗi gì. Do đó, tôi rất nghi ngờ với niềm tự hào dân tộc. Có lẽ tôi sẽ cố gắng làm một "devil advocate" chuyện này dù biết rằng rằng mình sẽ bị ném đá tơi bời.

Theo FB Nguyen Tuan

User avatar
dodom
Posts: 2723
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Biểu tình ở Hồng Kông: Khi mãnh thú mắc xương…

Canhco


Image
Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) được xem là một nhà hoạt động kiểu mới của thời đại liên mạng.

Câu chuyện không xảy ra trong sở thú hay rừng rậm Phi châu mà tại một thủ đô tài chánh của châu Á: Hong Kong.

Mãnh thú không phải là cọp, beo hay sư tử mà là một lãnh tụ đang làm hàng tỷ người run sợ: Tập Cận Bình.

Khác với đại lục, mảnh đất Hong Kong với 7 triệu dân, nhưng ít nhất tính tới lúc này hàng chục ngàn người không biết run sợ trước sức mạnh của con người được xem là quyết đoán nhất hành tinh. Mạnh mẽ và cực đoan trong sứ mạng giữ vững vai trò kẻ thống trị và nhất là không ngại ngùng thanh trừng đối thủ nếu ông ta cảm thấy cản trở bước tiến của mình.



Ruồi hay hổ gì cũng phải nể sợ ông ta vì không biết được lúc nào trong một hôm đẹp trời nào đó, công an gõ cửa dẫn đi vì một lý do rất được lòng dân chúng: tham nhũng.

Nhưng một chú bé 17 tuổi không hề biết sợ con mãnh thú ấy. Cậu không sợ mà còn dẫn dắt bạn bè cùng trang lứa không sợ hãi, và sau cùng hàng chục ngàn đồng hương của cậu đứng lên nói tiếng “không” với chính sách đảng cử dân bầu đối với dân chúng Hong Kong. Chàng thanh niên nhỏ thó ấy chính là Joshua Wong, hai lần khiến Hong Kong nỗi cơn thịnh nộ.



Lần thứ nhất, lúc ấy vừa 15 tuổi, chàng trai nhỏ bé này vận động một đám đông khổng lồ chống lại chính sách giáo dục nhồi sọ của Bắc Kinh muốn áp đặt lên nền giáo dục Hong Kong vốn nhắm tới trí thức và sự thịnh vượng để thay vào đó là khẩu hiệu ca tụng đảng, ca tụng đại lục.

Với hàng trăm ngàn người biểu tình bất bạo động chống lại nghị quyết đem nước mẹ Trung Quốc vào các ngôi trường tiểu học Hong Kong khiến chính quyền đặc khu hành chánh phải nhượng bộ và Bắc Kinh ê mặt vì không thể áp đặt lên xứ này những viên gạch đầu tiên xây ngôi nhà tù ý thức hệ.

Sau khi thành công, Joshua Wong bình thản tiếp tục học hành, thi cử như mọi thanh niên khác nhưng đôi mắt của anh mở to theo dõi từng động thái của chính quyền. Tai anh lắng nghe tiếng thầm thì lo lắng của người chung quanh về viễn cảnh người Hong Kong sẽ phải mất hẳn quyền phổ thông đầu phiếu, cái quyền căn bản của một thể chế dân chủ mà người dân Hong Kong đã sống cùng ngót cả trăm năm.

Nghe, thấy, để rồi phản ứng với những chính sách mà Bắc Kinh áp đặt lên cho người dân Hong Kong và sau cùng trở thành dòng chảy của tuổi trẻ Hong Kong cuốn phăng mọi sợ hãi về đảng cộng sản Trung Quốc mà Tập Cận Bình là tân hoàng đế.

Từ lúc lên ngôi cho tới hôm nay, có lẽ người làm cho ông Tập khó ngủ nhất là Joshua Wong bởi những yếu tố mà một lãnh tụ cùng với bao nhiêu chuyên gia chính trị hiến kế cũng thua một cậu thanh niên 17 tuổi.
Sức mạnh nào từ Joshua Wong có khả năng rúng động Đảng cộng sản Trung Quốc như vậy?

Trước và trên hết: anh còn quá trẻ. Trẻ đến nỗi tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh không thể nào vu khoát cho anh bất cứ sự chụp mũ nào như thường thấy. Anh trong veo và thông minh. Anh can đảm và dịu dàng. Anh không có bất cứ một kêu gọi bạo động nào và luôn chủ trương tuyệt đối bất bạo động, tuyệt đối tránh cho chính quyền khó xử và vì vậy kêu gọi bạn bè né tránh tất cả những hành động dù vô tình nhất có thể gây bất mãn cho người thi hành công vụ. Anh lấy được trái tim của cảnh sát cũng như lực lượng chống biểu tình, đẩy họ trở về nơi xuất phát mà không bị một chỉ huy nào phê phán hay kỷ luật.

Những trái đạn hơi cay bắn ra như làm bổn phận một cách miễn cưỡng và hình ảnh cảnh sát vội vã lấy nước rửa mắt cho một người biểu tình trúng hơi cay đã làm Joshua Wong sáng rực thêm giữa biển người tràn ngập đường phố.

Joshua Wong: nỗi ám ảnh của con mãnh thú Tập Cận Bình.

Quân đội Trung Quốc tràn xuống Hong Kong ư? Không còn gì dễ bằng. Tuy nhiên tràn xuống rồi…sao nữa? bắt anh ta? Hong Kong đã làm rồi và chính một chánh án đã ra lệnh thả anh ra vì không đủ cơ sở ghép tội. Chánh án Hong Kong được đào tạo dưới cán cân công lý chứ không phải dưới ánh sáng của Đảng Cộng sản Trung Quốc quang vinh. Quân đội nhân dân Trung Quốc muốn thì cứ bắt, cứ đàn áp nhưng khó một điều: cảnh sát và chính quyền đặc khu không thể nhắm mắt bịt tai cộng tác để nướng người dân của mình.

Hong Kong cũng không đủ nhà tù để nhốt bằng ấy con người.

Bên cạnh đó không có nhà giam nào thoát khỏi đôi mắt dư luận thế giới khi liều lĩnh nhốt chàng thanh niên 17 tuổi chỉ có một tội duy nhất là đòi hỏi Hong Kong được quyền bầu cử người lãnh đạo trong tinh thần dân chủ.

Nếu Tập Cận Bình không thể giải tán cuộc biểu tình ngày một lớn của sinh viên học sinh và người dân Hong Kong, Trung Quốc sẽ lâm vào thế domino đe dọa sự chuyên chính của đảng cộng sản và từ đó một nguy cơ đổ vỡ lớn lao hơn cho toàn hệ thống.

Nếu đủ đảm lược và tàn nhẫn để làm một Thiên An Môn thứ hai, họ Tập sẽ bị thế giới nguyền rủa. Anh quốc, Hoa Kỳ cùng hàng trăm nước khác sẽ vào cuộc vì thế giới không thể chấp nhận một Thiên An Môn nữa khi mà chàng trai “tank man” vẫn còn ám ảnh lương tâm nhân loại.

Hai hình ảnh trước mắt không những làm cho mãnh thú Tập Cận Bình gầm rống trên ngai vàng mà còn khiến toàn hệ thống đảng Cộng sản Trung Quốc lo âu, mất ngủ. Một chàng trai sức khỏe không đủ khuân một trăm ký lô lại có khả năng đè một phần tư thế giới dưới thân thể bé nhỏ của mình há chẳng phải thần kỳ hay sao?

Rồi đây dù Bắc Kinh đưa ra giải pháp tạm thời nhượng bộ để rồi sau đó lập lại bàn cờ mới có tính toán kỹ hơn thì người dân Hong Kong vẫn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng không ai hiểu người Trung Quốc hơn họ. Cùng ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo và văn hóa nhưng chỉ khác một từ dân chủ đã khiến 7 triệu con người không biết sợ là gì.

Chỉ có người Trung hoa mới có khả năng chống nhà cầm quyền đại hán. Đài Loan trước đây rồi Hong Kong sau này sẽ tiếp tục theo con đường ấy. Bài học Joshua Wong sẽ giúp nhiều nước nhận ra chân lý: kẻ mạnh nào cũng có gót chân Achilles, nếu biết tấn công sẽ làm nó ngã quỵ.

User avatar
MatVit
Posts: 834
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Post by MatVit »

Image

Đám nghệ sĩ trở cờ lục tục kéo trở ra hải ngoại, không kèn không trống


Ðiều đáng ngạc nhiên là trong thời gian gần đây, chúng ta lại thấy bọn nghệ sĩ trở cờ ấy lại lục tục kéo trở ra hải ngoại, không kèn không trống, thỉnh thoảng xuất hiện lại trên các sân khấu hải ngoại. Sao có chuyện "ô rờ lui" như thế?


Tôi được biết rằng, bọn chúng vừa lãnh một quả đểu rất nặng ký của phỉ quyền Việt gian Cộng sản mà bọn nghệ sĩ khúc ruột ngàn dặm đã tỏ tình và khen ngợi cách đây không lâu. Cái gọi là Làng Nghệ Sĩ với hơn một trăm căn nhà, tuy không đắt giá như nhà trong cái gọi là Làng Việt Kiều, nhưng cũng trên trăm ngàn cho mỗi căn, vừa bị phỉ quyền Việt gian Cộng sản yêu dấu của họ tịch thu. Bọn cộng sản cướp của nhưng lại đưa ra lý do là trước đây đất xây làng đã bị bọn viên chức cấp dưới cấp giấy phép cho xây cấp ẩu tả, không có lệnh của cấp trên, mà cũng không đúng luật pháp của xã hội chủ nghĩa ta.


Nghe chính một tên nghệ sĩ trình diễn đã từng ở lâu trong nước và có nhà trong Làng Nghệ Sĩ kia kể lại, thì vào một ngày không đẹp trời, không nhớ có phải là ngày lễ cô hồn hay không, bọn nghệ sĩ trình diễn hải ngoại có nhà trong làng được thông báo cho biết lý do vừa kể, rồi thì mỗi đứa được cho phép gom gấp đồ tế nhuyễn và phải rời làng ta lập tức.Cổng làng được khóa chặt, kể từ này thằng nào con nào dám lén lút trở vào sẽ bị khép vào tội... xâm nhập gia cư bất hợp pháp, hoặc nặng hơn sẽ là... xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa.


Một trăm phần trăm là bọn nghệ sĩ ấy chỉ kịp thu xếp quần áo, tư trang, cùng tất cả thứ gì có thể xách tay mang theo. Bàn ghế, ti vi, tủ lạnh, máy nhạc, computers v.v ... đều bỏ lại trong những ngôi nhà nay đã thuộc về tài sản của xã hội chủ nghĩa.


Ðiều đau khổ nhất là bè lũ bọn nghệ sĩ trình diễn đó nay ra đây thì cứ câm miệng hến im thin thít, chẳng dám than phiền nữa lời. Vì sợ há miệng mắc quai, bởi những lời tuyên bố lố lăng cho cộng sản trước đây, nhất là Hương Lan. Vì biết có lên tiếng thì chẳng mấy ai thương hại. Và vì lần tới trở vào sợ bị phỉ quyền Việt gian Cộng sản yêu quý cắt cái cần cổ, mất cái chỗ đội nón! Tại sao phỉ quyền yêu quý của bọn nghệ sĩ trở cờ lại hành xử ba trợn như thế ? Tội nghiệp! Từng hát câu "quê hương là chum khế ngọt" để ám chỉ đất VN tỵ nạn hải ngoại là... chùm khế chua . Bây giờ nếu hát ngược lại, bản mặt mốc đâu có giống con giáp nào !Đỗ Sơn



LỜI BÌNH CỦA VAN MỘC CƯ SĨ:

Sao dạo này thê giới điên đảo hết trọi! Đa số nhà tu hành và văn nghệ sĩ về Việt Nam hí hững nhưng rồi phải cúp đuôi chạy ra hải ngoại trở lại.
" Sư" Nhất Hạnh, rồi đám nghệ sĩ kể trên đã bị Việt Công cho một cú đá hậu đau điếng!
Trước tiên chúng dụ các người về để đem tiền bạc về cho nó.
Thứ hai là để đánh bóng chế độ. Những tên Việt kiều về thấy khách sạn và các cơ sở ăn chơi thì kêu ầm lên chế độ ta, đất nước ta nay đổi mới, cởi mở, tự do.
Thứ ba là ve vản và đánh lừa quốc tế.
Thứ tư là để đưa gián điệp qua Mỹ dưới dạng văn công văn nghệ, du lịch hay kết hôn. Họ nhờ mấy sư cha và ca sĩ tiếp tay.
Cuối cùng là một vụ lừa đảo! Chúng dụ thầy chùa, linh mục, mục sư, dân chúng và ca nhạc sĩ về mua nhà cửa, đàt đai, xây chùa chiền rồi chúng tịch thu. Các ông các bà "ký cóp cho cọp nó tha", tay trắng lại hoàn trắng tay!
Trước đây, cảm động vì lời nói ngọt ngào của cộng sản cũng có, mà cũng muốn chứng tỏ họ tích cực phục vụ cộng sản hết mình, các ông bà nghĩ rằng "có qua có lại ". Họ về Việt Nam được thì họ cũng mời VC sang Mỹ để đáp lễ, để làm vui lòng cộng sản, để làm ăn dễ dàng, chẳng cần danh dự, khí tiết, công bằng, dân chủ, tự do, thiện ác, Phật, Chúa, Thánh Thần! Do đó mà họ đã rước rất nhiều văn công VC sang Úc, Hoa Kỳ như Bạch Tuyết. Một số ông bà bầu còn mời công an dưới dạng ni cô, và bà sơ qua hải ngoại thâu tiền !
Ôi, tiền tài bao giờ cũng có sức mạnh dù cho là thầy, cha, chú cũng cúi đầu làm tay sai cho quỷ Sa tăng. Đám trên là vì lợi. Một số dại khờ. Một số cựu học sinh Trưng Vương, Gia Long đã nghe theo lời cộng sản gừi tiền về xây làng tình nghĩa cho giáo sư nghèo. Làng vừa xây xong thì cộng sản bán mất tiêu!
Than ôi! Nhiều người dại dột chưa khôn! Trước đây bọn trí thức miền Nam theo cộng sản như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Lưu Hữu Phước, Trương Như Tảng. Đoàn văn Toại, Nguyễn Văn Hảo, Trần Thúc Linh, . . theo cộng sản cuối cùng một số bỏ chạy ra ngoại quốc.
Bài học lịch sử vẫn được lập lại vì người đời tham lợi, tham danh và ngu ngốc! Ôi đời là thế! Chuyện sư sãi, giám mục, linh mục, và văn nghệ sĩ không ai nói ra nhưng sao cái hũ mắm thối lại xì ra?
Bỉ nhân nhớ truyện Trạng Quỳnh như sau:
" Trạng Quỳnh làm một cái lều giữa hồ, cho bọn cò mồi tuyên truyền rằng "trong lều kín có chuyện hay lắm, xưa nay chưa từng thấy! "Thiên hạ đổ xô đi coi, mỗi người phải nộp tiền qua đò là một quan tiền ( Thường chỉ một vài chữ còn gọi là một đồng tiền). Tốn công, tốn của ,vào trong lều họ chỉ thấy một bà già mù cởi truồng. Mọi người xấu hổ ra về. Ai hỏi " Có gì hay không"? Có gì lạ không" thì ai cũng im lặng ra về không dám hé môi, vì nói ra sợ người đời chê mình dại!

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Image

“Ném chuột vỡ bình quí”
Mình có người bạn, nhà rất nghèo, lương ba cọc ba đồng, ở lắp ghép đời 1977, nhưng anh có một cái bát từ đời nhà…Thanh, men xạnh, rạn chân chim. Có người tới trả 10 ngàn đô nhưng không bán, vì anh bảo nó quí, có một không hai. Nghèo rớt nhưng có đồ gia bảo trong nhà là hạnh phúc rồi.

Vì thế, đến nhà nào khoe có đồ cổ, là tôi thấy…chán. Ừ cứ cho là cái kiếm, cái chén, cái bình, bộ bàn ghế “chân triện đời Minh”, có từ thời nhà Hán Vũ Đế, thì cũng chỉ là thứ người ta dùng ngày xưa như mình dùng bát đĩa, bàn ghế bây giờ. Để lâu thành cổ vật, thành một thứ mê hoặc hão huyền. Có đồ quí mà nghèo như anh bạn trên thì chưa chắc đã…quí.

Theo VNN đưa tin, trong cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội trước kỳ họp Quốc Hội, ngày 10-6, TBT Nguyễn Phú Trọng đã nhận được rất nhiều kiến nghị liên quan chống tham nhũng và tiêu cực.

Ông Trọng nói về cái khó của việc xử lý “Phát hiện đã khó nhưng xử lý phải nghiêm. Ta muốn xử lý nhanh nhưng bao nhiêu công đoạn, một vụ án chằng chịt bao nhiêu mối quan hệ, giám định kê khai có đúng không, giám định người khai có đúng không… rất phức tạp. Chưa kể nhiều lần nói đây là vấn đề lợi ích, cấu kết, móc ngoặc với nhau, lợi ích nhóm, ông mất chân giò, bà thò chai rượu… những quan hệ lằng nhằng với nhau”.

Vì thế, ông cho rằng, xử lý trước mắt phải nghĩ lâu dài, giữ cho được ổn định để đất nước phát triển. Không phải xới tung lên tất cả, gây mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn sẽ rất nguy hiểm.

“Phải bình tĩnh tĩnh táo, rất khôn ngoan, có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được cái ổn định”. Ông nói thêm.

Riêng đoạn ông Trọng nói về hệ thống mà trong đó có “vấn đề lợi ích, cấu kết, móc ngoặc với nhau, lợi ích nhóm, ông mất chai giò, bà thò chai rượu…” chứng tỏ “cái bình” ý chả quí tẹo nào.

Thứ nữa, làm gì mà chả có giá phải trả. Chống tham nhũng lại sợ mất ổn định, thì chống cái gì. Đơn giản, người tham nhũng phải có quyền lực, can thiệp cả vào luật pháp, làm méo mó hệ thống. Đánh tham nhũng là dứt dây động rừng, ổn định thế nào được.

Tích “Ném chuột, vỡ bình” có trong dân gian từ xa xưa. Có lẽ TBT Trọng đọc chuyện từ thời còn nhỏ, không biết phần khảo dị.

Chuyện kể rằng, ngày xưa, ở vương quốc nọ, vị vua được tặng cái bình bằng ngọc, rất quí. Trong cung, ngài cũng nuôi đàn chuột bạch. Chúng quanh quẩn với vua, hoàng hậu, và đi vòng quanh cái bình, đùa vui.

Thấy con chuột đầu đàn có vẻ nhanh nhẹn nên nhà vua đã cho phép nó được thoải mái đi lại, đùa giỡn trong cung, muốn ăn cái gì cũng được, kể cả cao lương mỹ vị dành riêng cho vua.

Thấy được giao trọng trách, lại hưởng phú quí hơn đồng loại, nên chú chuột này tỏ ra kiêu căng. Chui vào bình, nhảy múa, ăn chơi trong đó, có lần nó đưa cả gái chuột vào tự tình.

Một lần, nhà vua bắt gặp, nổi giận, lấy cái gậy đập con chuột chết tươi, nhưng bình quí cũng vỡ tan.

Nhà vua kể chuyện này cho một nhà hiền triết. Vị này nói, cái bình quí ở chỗ nào? Quí ở chỗ là bình làm bằng ngọc, có niên đại hàng ngàn năm, vua trả lời.

Ai chứng minh là bình này làm bằng ngọc và ai đã làm nó từ năm nào? Nhà vua lắc đầu, chịu.

Ngài thấy chưa, ngài quí cái bình chỉ vì người ta đồn nó làm bằng ngọc, mà chắc gì đã bằng ngọc, cách đây 1000 năm, không có chứng cứ. Ngài quí cái thứ hão huyền.

Như vậy chưa chắc cái bình đã quí như ngài tưởng, có vỡ cũng chẳng chết ai.

Thêm vào đó, chuột đã hoành hành trong cung vua khá lâu rồi. Nếu cứ để hiện trạng chuột trộm cắp và lạm dụng quyền lực, lũ chuột khác sẽ bắt chước, khi đó mạng vua cũng khó bảo toàn.

Đập chuột có vỡ bình quí, nếu điều đó giúp được bình thiên hạ, ghế của ngài cũng được yên ổn, đó là việc nên làm. Nếu ngài còn nhớ đồ quí, dân biết ơn sẽ góp tiền mua bình khác, có giá trị thực và niên đại hẳn hoi. Một công đôi ba việc, há chẳng nên ru?

Ngài chần chừ, không dám làm gì, vì sự ổn định giả tạo, một hôm người ta thấy mạng ngài cũng không quí bằng cái bình, họ quí chuột hơn ngai vàng, thì làm sao, làm sao. Lúc đó, thảm họa đổ lên đầu, liệu rằng có “khôn ngoan và có con mắt chiến lược?”

Nghe nói vương quốc ấy là Thụy Điển bây giờ. Muốn tiến lên CNCS kiểu Thụy Điển hay Bắc Âu, hãy đừng hão huyền ngồi ôm cái bát cổ nhưng đói rã họng như anh bạn tôi.

HM. 6-10-2014

Post Reply