NĂM MỚI - CHUYỆN CŨ

Đi du lịch, chứng kiến những điều lạ xin chia sẻ.
Post Reply
CNN
Posts: 1017
Joined: Wed Dec 01, 2004 8:18 am

NĂM MỚI - CHUYỆN CŨ

Post by CNN »

Những chuyện kỳ quặc của năm 2005

Cùng với các thảm kịch, chiến tranh và thiên tai, năm 2005 cũng chứng kiến những bi hài kịch và những chuyện bất thường. Dưới đây là những câu chuyện lạ của năm được AFP tổng hợp.

- Những người quản lý một nghĩa trang ở Tel Aviv sửng sốt khi thấy khách du lịch tìm đến ngôi mộ của một binh sĩ Anh thiệt mạng cách đây 66 năm khi mới 19 tuổi. Trên hòn đá khắc tên của binh sĩ này: Harry Potter.

- Một nhà phát minh người Đức đưa ra ý tưởng đặt điện thoại di động trong quan tài để họ hàng của người đã khuất có thể gọi và nói chuyện với thân nhân của họ mà không cần ra khỏi nhà.

- Tại Nhật, cảnh sát đã vô cùng thất vọng khi biết rằng sinh viên mà họ vừa tóm được trong một tai nạn giao thông phải tham dự một kỳ thi cực kỳ quan trọng. Vì thế, anh chàng đã được đoàn xe có còi báo động hộ tống và và đến điểm thi trước 10 phút.

- Cảnh sát Newcastle, Australia, được thông báo về việc những con gà đông cứng được ném lên mái nhà. Họ nghi ngờ rằng thủ phạm là một gã chơi khăm và có súng cao su rất khoẻ.

- Một doanh nhân người Thái Lan, người từng tuyên bố từ bỏ hiệu massage để vào quốc hội, đã thể hiện quyết tâm bằng việc đập vỡ một chiếc bồn tắm ngay trước toà nhà quốc hội. Sau đó, ông nằm yên trong một chiếc quan tài. Ông cho biết chiếc bồn tắm thể hiện công việc làm ăn cũ của ông còn việc ông nằm trong quan tài thể hiện rằng ông không còn là con người cũ nữa.

- Một người đàn ông và một phụ nữ bị giam trong hai phòng sát nhau tại một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ đã đào một chiếc lỗ xuyên qua tường. Họ đã quan hệ qua đó và sinh một em bé. Hai người lãnh thêm 4 tháng ngồi bóc lịch vì tội phá hoại của công.

- Tổng thống Croatia Stipe Mesic đỏ mặt khi một bức tranh được gửi tặng ông hoá ra là đồ ăn cắp từ một phòng triển lãm nghệ thuật địa phương.

- Nhân viên tại một bưu điện ở Đức tá hoả và nghĩ rằng họ đang cầm bom trên tay khi gói hàng bắt đầu rung và phát ra những tiếng kêu lạ. Hoá ra trong đó là một thứ đồ chơi tình dục.

- Giới chức du lịch Thụy Sĩ quyết định phủ bột nhựa PVC lên một tảng băng để giữ nó khỏi tan chảy trong mùa hè.

- Báo chí khắp thế giới đã tốn nhiều giấy mực để viết về một thanh niên trẻ được phát hiện trên bờ biển phía nam nước Anh. Anh này được cho là một nghệ sĩ piano siêu hạng nhưng cuối cùng, hoá ra chàng trai người Đức này là một kẻ đi kiếm tìm sự nổi tiếng và chơi piano không điêu luyện tới mức đó.

- Hãng hàng không Virgin Atlantic cho biết họ sẽ lập câu lạc bộ những khách hàng thường xuyên với tên gọi "Những chiếc móng bay". Thành viên ban đầu của câu lạc bộ là 4 con chó và một con mèo.

- Sau khi tranh cãi với vợ về chuyện tiền nong, một người đàn ông Israel giàu có đã mở két sắt của gia đình, lấy ra khoảng 680 nghìn Mỹ kim tiền mặt và đốt ở bãi cỏ trước nhà.

- Một quan chức hàng đầu của giải quần vợt Wimbledon của Anh nhân cơ hội được phát biểu trước khi về hưu để phàn nàn về việc các tay vợt nữ hét ngày càng to khi thi đấu.

- Một phụ nữ Nhật trả 136 nghìn Mỹ kim để thuê người giết hại vợ của người tình. Cô này sau đó đến đồn cảnh sát để phàn nàn rằng tay sát thủ không hoàn thành nhiệm vụ.

- Bộ Nội vụ Đức tuyên bố người dân không nên cười mỉm khi chụp ảnh thẻ vì nó có thể làm rối loạn công nghệ nhận dạng sinh học.

- Một người đàn ông Iraq đang tận hưởng một đêm tình tự với một phụ nữ Anh ở đảo Síp thì gặp rắc rối bởi thứ tiếng Anh quá tồi của mình. Anh ta lập tức trả lời "có" với bất kỳ

câu hỏi nào của người phụ nữ này. Mọi chuyện suôn sẻ cho đến khi cô hỏi anh có mắc AIDS hay không, không chần chừ, anh trả lời: "Có".

- Một công ty Trung Quốc có tên gọi "Sứ quán Mặt trăng" đã tìm cách bán đất trên mặt trăng. Ông chủ công ty lý luận rằng không có luật nào cấm một dự án như vậy. Tuy nhiên, giới chức không nghĩ thế.

- Một tài xế taxi đã tìm thấy một chiếc túi đựng số kim cương trị giá khoảng 350 nghìn Mỹ kim trong xe. Thật đơn giản, bác lái xe người Afghanistan này giao nộp chúng cho cảnh sát.

- Emily, cô mèo một tuổi từ bang Wisconsin của Mỹ đã đi lạc vào một chiếc container hàng không trước khi nhận ra rằng cô được bay qua Đại Tây Dương để đến thành phố Nancy, phía đông nước Pháp. Emily sau đó đã được đưa về nhà an toàn.

CNN g'op nhặt

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: NĂM MỚI - CHUYỆN CŨ

Post by linhgia »

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở HẢI NGOẠI BÀN LUẬN SÔI NỔI VỀ SỰ KIỆN
TRAI ĐÀN GIẢI OAN
SẮP TỔ CHỨC TẠI VIỆT NAM

ÔNG VÕ VĂN ÁI GÓP Ý BÌNH LUẬN VỀ HAI CHỮ “GIẢI OAN”
Trong cuộc phỏng vấn của Đài Phật giáo Việt Nam phát về Việt Nam hôm nay, thứ sáu 16.2.2007, ông Võ Văn Ái đã bình luận và phân tích hai chữ “Giải Oan” theo quan điểm giáo lý đạo Phật và theo quan điểm của một công dân nước Việt trước hiện tình dân tộc. Nguyên văn bài phỏng vấn ấy như sau:

Phóng viên: Thưa ông Võ Văn Ái, dư luận đồng bào hiện đang rất sôi nổi về chuyến trở về Việt Nam lần thứ hai của Sư Ông Thích Nhất Hạnh để lập đàn Giải Oan tại ba miền đất nước. Xin ông cho biết ý kiến về chuyến đi này, nhất là về chuyện Giải Oan ?

Võ Văn Ái : Đã từ lâu, Sư Ông Nhất Hạnh không còn sinh họat với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở trong hay ở ngoài nước. Nên tôi không rõ các việc làm của Sư Ông và cũng kông có ý kiến với câu hỏi đưa ra.

Phóng viên : Nhưng Sư Ông Nhất Hạnh được nhiều người biết tên, cỡ như tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, về Việt Nam làm ăn dưới thời Cộng sản cũng là một biến cố đáng có ý kiến chứ, phải không thưa ông ?

Võ Văn Ái : Những ưu tư về giải thoát chúng sinh, về no ấm, hạnh phúc cho nhân quần, thì rất nên có ý kiến. Ngoài ra, chúng ta không thể ôm đồm, bao biện đủ thứ vấn đề, nhất là ở vào giai đọan cần tranh thủ thời gian cho những điều lợi ích, chẳng hạn như vận động cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ tại Việt Nam là một. Tuy nhiên, tôi hiểu điều nhà báo muốn đề cập, là vấn đề tự do đi lại thời Nhà nước độc đảng và độc tài vừa được tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới, WTO, phải vậy không ?

Nếu đúng, thì hãy nhìn vào sự kiện gây động dư luận thế giới và cộng đồng người Việt hai, ba ngày vừa qua. Đó là việc nhà cầm quyền Hà Nội bác bỏ đơn xin đến thăm Việt Nam của ông Arne Lynngård, Chủ tịch Sáng hội Rafto ở Na Uy, là Sáng hội trao Giải Nhân quyền Quốc tế cho Hòa thượng Thích Quảng Độ cuối năm ngoái. Mục tiêu chuyến đi của ông là đến Saigon viếng thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ, và ra Hà Nội gặp gỡ các giới chức đảng và chính quyền để tìm hiểu chính sách nhân quyền và tôn giáo cũng như những cam kết cải cách dân chủ mà ông tân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hứa hẹn năm ngoái.

Nếu quả là hiện nay có tự do đi lại thực sự cho mọi người, thì sao Hà Nội không cấp giấy nhập cảnh cho một nhân vật quốc tế, là ông Chủ tịch Sáng hội Rafto ? Chỉ ví dụ này thôi, đủ phát giác thứ chủ trương độc tài lạc hậu « đấu tranh giai cấp » của Nhà nước Cộng sản. Chủ trương này khẳng định lập trường phân biệt bạn thù phân minh. Ai theo mình, bợ đỡ mình thì cấp chiếu khán, ai bị nghi là thù thì tức khắc đóng cửa đuổi đi.

Phóng viên : Còn việc lập đàn Giải Oan của Sư Ông Nhất Hạnh, mà Giáo phái Làng Mai cho biết theo truyền thống Trai đàn Thủy lục của Phật giáo, là vấn đề « thuần túy tôn giáo » thì ông nghĩ sao ?

Võ Văn Ái : Trên kia tôi đã trả lời và cho biết lý do vì sao tôi không muốn đưa ra ý kiến gì về Sư Ông này. Tuy nhiên thành ngữ « thuần túy tôn giáo » mà nhà báo dùng, cần đặt lại cho đúng. Tôn giáo là tôn giáo. Kéo thêm chữ « thuần túy » vào có thể gây ngộ nhận là cách hành xử tôn giáo như thế chưa chắc là một hành động tôn giáo.

Trong lĩnh vực tôn giáo, thì tôi có thể góp ý. Chẳng hạn như việc « lập đàn giải oan », « trai đàn thủy lục » chẳng hạn.

Trai đàn thủy lục là pháp hội bố thí trai thực cho các loài hữu tình dưới nước và trên bờ để giúp các loài qủi. Pháp hội này xuất hiện bên Trung quốc. Nguyên vào đầu thế kỷ thứ 6 Tây lịch, vua Lương Vũ Đế bên Tàu nằm mộng thấy vị thần tăng dạy thiết lập « Thủy lục trai » nhằm cứu độ tất cả chúng sinh trong 4 loài lăn lóc nơi 6 đường dữ. Từ đó trở thành truyền thống cúng cô hồn suốt 14 thế kỷ qua tại một số nước Châu Á. Nước ta từ nhiều đời có truyền thống Xá tội vong nhân rất long trọng và phổ biến, tổ chức vào ngày Rằm tháng Bảy âm lịch nhân dịp lễ Vu Lan mỗi năm, cũng là thời chư Tăng Ni xuất hạ sau 3 tháng an cư.

Từ ngày có tin sau Tết sẽ tổ chức 3 Trai đàn Giải oan ở ba miền đất nước, thì dư luận người Việt ở hải ngọai thông qua các báo đài hay trên Internet rất sôi động về hai chữ Giải Oan. Theo tôi, vấn đề quan thiết và chính yếu trong lúc này là Giải Oan cho ai ? Những ông bộ đội Miền Bắc chiến đấu cho lý tưởng Quốc tế Cộng sản, cho các lãnh tụ Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh họ hy sinh thân xác cho lý tưởng này, họ ý thức cái chết của họ là cái chết của những anh hùng, liệt sĩ. Họ đâu có chết oan ? Quân sĩ Việt Nam Cộng hòa tham chiến trong lý tưởng bảo vệ tự do và dân tộc, cũng chết như những anh hùng giữ nước. Họ có chết oan đâu ? Những người Vượt Biển ra đi lánh nạn độc tài Cộng sản, mong gióng lên trên thế giới Thông điệp tự do của một dân tộc bị áp bức. Số người chết trên biển, theo Cao ủy Tị nạn LHQ, xuýt xoát một triệu người. Người Vượt Biển ý thức về hành động Vượt Biển, về sứ mệnh tự do. Nên họ cũng không chết oan, mà chết vì rủi ro, tai nạn.

Trái lại, điều phải công nhận là có những cái chết oan ức suốt 60 năm qua trên đất nước ta. Đó là những đảng viên thuộc các đảng phái quốc gia bị Việt Minh cộng sản cố tình thanh toán, giết oan từ năm 1945. Trong cuốn sách « Nhận định về những Sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản đối với Dân tộc và Phật giáo », Hòa thượng Thích Quảng Độ tả rõ cảnh Cộng sản thảm sát Sư phụ ngài, là Hòa thượng Thích Đức Hải, nơi sân đình làng Bặc ở tỉnh Hà Đông ngày 19.8.1945. Hòa thượng cũng nhắc tới vụ Cải cách Ruộng đất, với con số xử oan, giết oan 700.000 người, những hầm chôn tập thể ở Huế khi Cộng quân chiếm lĩnh thành phố gây ra. Không riêng Hòa thượng Quảng Độ, mà đã là người Việt Nam, thì từ Bắc chí Nam không ai là không biết các thảm cảnh khủng khiếp này.

Còn phải kể thêm những người bị hành quyết, bị chết mòn, chết đói, chết vì thiếu thuốc men trong hơn 150 Trại Cải tạo sau năm 1975. Hai giáo sư người Mỹ, ông Karl Jackson và bà J. Desbarats, ở Đại học Berkeley bên California đã làm một cuộc điều tra, nghiên cứu và lập thành hồ sơ Trại Cải tạo công bố năm 1984. Theo hai vị này, thì thời khoảng 1975 đến 1983, có 65.000 tù nhân bị Công an cộng sản hành quyết trong các Trại Cải tạo. Chưa kể đến số người chết vì bệnh, vì bị ngược đãi, vì bị bị trúng mìn khi đi gỡ mìn theo lệnh quản giáo, hoặc số tù nhân tự tử.

Đấy, giải oan là giải oan cho những vong hồn bị bức tử như thế, bằng tấm lòng thành thật và tinh khiết, với sự hộ trì trang nghiêm của một tập thể Tăng già. Đây là chuyện linh thiêng, chứ không phải là chuyện đùa giỡn hay bốc đồng theo thế cuộc.

Trong bản văn bi hùng độc nhất vô nhị của nước ta do thi hào Nguyễn Du sáng tác, có tên là Văn tế Thập loại chúng sinh, thì mười loại chúng sinh kể ra trong bài văn tế, những người chết mà tôi vừa kể trên chỉ nằm trong hai phần nhỏ ở loại thứ mười mà thôi. Lọai chúng sinh thứ mười trong bài văn tế của Cụ Nguyễn Du gồm có : kẻ ăn mày chết cô đơn, người tù chết trong ngục, hài nhi chết yểu và người chết vì các nạn. Đấy là mười loại chúng sinh thường thấy ở thời của Cụ Nguyễn Du, mà người Cộng sản gọi là « thời phong kiến ». So ra, chúng ta phải giật mình kinh hãi cho quá nhiều lọai người chết dưới triều đại Xã hội Chủ nghĩa ngày nay, nhưng các hạng người này chưa hiện diện trong Thập lọai chúng sinh ở thời đại cụ Nguyễn Du. Tôi muốn mở ngoặc ở đây để nói tới quan điểm lịch sử sai lầm của một số sử gia Cộng sản ở Hà Nội. Tại Việt Nam không hề có thời nào có thể gọi là thời phong kiến theo định nghĩa của từ phong kiến bên Châu Âu thời trung cổ. Cũng không hề có chế độ Nông Nô dưới thời Lý, thời Trần như sử gia Cộng sản Hà Nội học mót và a dua theo quan điểm Mác – Lê Nin.

Phóng viên : Nhưng cái mới trong việc Giải Oan của vị Giáo chủ Làng Mai là kết hợp các khối kinh điển Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Mác-Lênin. Ông có thấy đây là một Giáo lý Nhân bản mới không ?

Võ Văn Ái : Tôi đã nói tôi không muốn đề cập chuyện của Sư Ông Nhất Hạnh. Nhưng có thể góp ý về vấn đề tín ngưỡng. Nhân bản là lấy gốc người làm trọng, vậy thì phải nhớ rằng xã hội Cộng sản là một xã hội không có con người. Nó là xã hội trại lính, trại thú. Con người là con số không trong tập thể. Một Giáo lý Nhân bản không thể xuất hiện trong một xã hội như thế.

Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo... là những tôn giáo. Giải thích và hành trì giáo lý tuy có khác, nhưng các tôn giáo này có chung cùng mục tiêu hoàn thiện và thăng tiến con người dựa vào lòng từ bi, bác ái, nhân phẩm, tâm linh. Các tôn giáo này có thể chung cùng cộng tác trong một số công tác xã hội, chẳng hạn như vãn hồi hòa bình, nhân quyền, dân chủ, từ thiện, v.v... Còn cái tôn giáo mới của chủ nghĩa duy vật Mác-Lênin thì đặt nền tảng trên ý thức hệ « đấu tranh giai cấp », tất nhiên lấy căm thù làm sức mạnh chiến đấu, lấy bạo lực chuyên chế cướp chính quyền. Ý thức hệ này là tác giả thảm sát hàng triệu dân oan trong Cải cách Ruộng đất, trong Mậu Thân Huế, trong chiến tranh, v.v... Một bên là các tôn giáo cứu người, còn bên Cộng sản thì giết người. Giết người vì lý do cao cả gì chăng nữa vẫn là sự giết người. Muốn giải oan trong hoàn cảnh đó, thì phải chận đứng sự giết người bằng cách này hay bằng cách khác. Nhưng phải CHẬN ĐỨNG, phải có thái độ và hành động chận đứng sự giết người. Hệt như tước con dao trong tay thằng điên.
Sẽ khôi hài biết bao trong một cuộc lễ, mà chúng ta phải trố mắt nhìn một ông đọc kinh Đấu tranh Giai cấp, một Linh mục đọc Thánh kinh, một vị Sư đọc Mông sơn thí thực... Đối chõi như thế thì làm sao giải oan cho những vong hồn ôm lòng oán giận và muốn trả thù, gọi là oán linh, những người ôm lòng oán giận và muốn báo thù, gọi là sinh linh, những người sau khi chết hiện ra những hình tướng biểu thị lòng giận ghét, gọi là tử linh ?! Cảnh khôi hài cải lương này có giải oan được cho oan hồn uổng tử không ?

Phóng viên : Thế thì chẳng còn cách gì Giải oan nữa hay sao ?

Võ Văn Ái : Có chứ. Các ngày rằm và mùng một, người Phật tử tụng sám, tức sám hối, để thanh tịnh hóa tâm hồn mình đồng thời giải oan cho muôn loài. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Bảy có lễ hội Xá tội vong nhân mà Phật giáo mà dân tộc ta thực hiện qua bao nhiêu thế kỷ rồi. Bên Công giáo, Tin Lành có lễ Rửa tội và Giải tội. Vân vân. Chuyện hằng ngày của các tôn giáo trải qua hàng chục thế kỷ rồi, chứ đâu phải là chuyện chưa hề có.

Ý kiến tôi trong vụ này là phải khẩn thiết nỗ lực giải oan cho NGƯỜI HIỆN ĐANG SỐNG. Vì những người đã chết kia cũng là những người từng sống như chúng ta ngày nay. Những người ấy còn sống trước ngày phát động Cải cách Ruộng đất, trước Tết Mậu Thân Huế, trước ngày bom nổ đạn bay (do ai gây ra ?), trước ngày bị lùa vào 150 Trại Cải tạo sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975.

Người đang sống ngày nay, trừ hai triệu rưởi đảng viên Cộng sản, trên 80 triệu dân lành hiện phải chịu đựng đủ thứ oan ức, bức hiếp. Mỗi ngày có hàng trăm phụ nữ dân oan kéo ra vườn hoa Mai Xuân Thưởng kêu cứu. Có những người kêu oan từ mười, mười lăm năm mà nhà cầm quyền Hà Nội từ chối giải quyết. Có ai đây, là đấng trượng phu, là sĩ phu thời đại ra tay Giải Oan cho họ ? Tôi xin gióng lên câu hỏi này.

Phóng viên : Câu hỏi trên đây của tôi cũng hàm ý là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hiện nay có hành động gì nhằm Giải oan không ?

Võ Văn Ái : Ngày 2.11.75, 12 Tăng Ni tự thiêu tại Thiền viện Dược sư ở Cần Thơ phản đối chính sách đàn áp tôn giáo và nhân quyền của Nhà nước Cộng sản, là 12 Ngọn Đuốc Giải Oan cho người sống cũng như người chết. 30 năm sau, danh sách của những ngọn đuốc như thế lên tới con số 22 Tăng Ni và Phật tử trong và ngoài nước, trong đó có cả một nữ sinh viên người Đức tự thiêu tại Saigon để phản đối chính quyền đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 22 là con số tìm được trong một thể chế thiêu đốt sách và tài liệu nào không nằm trong dòng ý thức hệ Cộng sản. Thực tế, con số này còn cao hơn. Tôi còn nhớ năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo Nhà nước ra đời đến cưỡng chiếm trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở chùa Ấn Quang, giáo hội nhà nước này đã đốt các tài liệu của Viện Hóa Đạo trong vòng 5 ngày mới xong.

Ngoài ra, tất cả các văn kiện của hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo do Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ viết ra đều đề cập và đưa ra hành động thỏa đáng nhằm Giải trừ Oan ức cho 83 triệu dân đang sống.

Cụ thể như nhân ngày Nhà nước Cộng sản kỷ niệm 25 năm ngày Đại thắng 75. Hòa thượng Thích Huyền Quang viết bức thư hôm 21.4.2000 từ Nghĩa Hành nơi ngài bị giam giữ ở tỉnh Quảng Ngãi, gửi giới lãnh đạo Hà Nội, đề nghị lấy ngày 30.4 mỗi năm làm « Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc ». Hòa thượng đòi hỏi cho Linh quyền người chết qua hành động sám hối công khai của Đảng Cộng sản, và Nhân quyền cho người sống qua việc thực thi dân chủ đa đảng.

Xin nhớ đề xuất và hành động cụ thể nhằm Giải Oan cho người chết cũng như người sống được vị lãnh đạo tối cao của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất công bố từ bảy năm trước, năm 2000, chứ không phải đợi đến hôm nay, 2007, mới toan tính. Hành động này cụ thể phải do người gây tội, là Đảng Cộng sản tác nhân các vụ thảm sát, đứng ra chủ trì, chứ không là kẻ bị thảm sát, kẻ bị oan ức xin xỏ giải oan. Vì những oan hồn uổng tử này đã có lịch sử ghi nhận nỗi oan khiên của họ trên lá rừng và trời cao.

Linh quyền cho người chết là những ai ? Hòa thượng Huyền Quang kê rõ trong thư : 3 triệu người chết trong chiến tranh, binh sĩ Việt Nam Cộng hòa, 300.000 bộ đội mất tích theo số liệu Hà Nội, 700.000 người bị giết trong Cải cách Ruộng đất, 100.000 người bị hành quyết trong các Trại Cải tạo, một triệu người bỏ thân trên đường Vượt Biển, hàng chục nghìn người bị giết trong vụ Mậu Thân, v.v...
Nhân quyền cho Người sống là gì ? Là bỏ ngay châm ngôn « Dân biết dân câm họng, Đảng biết đảng bỏ tù », bỏ ngay ý thức hệ « đấu tranh giai cấp » và « chuyên chính vô sản ». Thực hiện cụ thể bằng việc nhân Ngày 30.4, Đảng Cộng sản chính thức công bố lời Sám hối trước toàn dân, người chết cũng như người sống, về những sai lầm, những tội lỗi mà Đảng Cộng sản vi phạm trong suốt lịch sử cận và hiện đại.

Phóng viên : Xin cám ơn ông Võ Văn Ái và xin hẹn quý thính giả ở Câu Chuyện Cuối Tuần vào thứ Sáu tuần tới, cũng vào giờ phát thanh này.--



============
Last edited by linhgia on Fri Aug 24, 2007 9:31 pm, edited 2 times in total.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Trai đàn giải oan hay trai đàn kết oan?
Nguyên Xuân Tùng

Thiền sư, Thiền Gia, Thiền Giả, giả Thiền hay đích thị là Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh đã giả mù sa mưa lấy vải thưa che mắt thánh, giả bộ gửi thư cho Nguyễn Minh Triết mà năm ngoái có anh thày bói tử vi tướng số Nhâm Quang hải ngoại đã giả bộ xem thiên văn làm thơ tiên đoán Nguyễn Minh Triết sẽ là chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Bài thơ phản động này đã vô tình hay cố ý được đăng một cách trang trọng trên trang Chúc Tết của một nhật báo, đã bị Đồng Bào Đồng Hương chống cộng Nam Cali phản đối khiến Tổng Giám Đốc nhật báo phải chính thức đăng báo xin lỗi Đồng Bào.

Năm đó sách tử vi Nhâm Quang đang được quảng cáo ầm ỹ, bán chạy như tôm tươi đột nhiên bị lật tẩy nên sách bị ế phải đem chứa vào những thùng rác loại lớn để kéo đi bán ve chai.



Năm nay Đảng Cộng Sản Việt Nam thấy màn tử vi bịp bợm theo kiểu phong kiến bịp dân thời thượng là Nguyễn Minh Triết của chúng chính là Thiên Tử đã được Thượng Đế an bài để thay trời trị dân không còn ăn khách nữa nên Cộng Sản lại phải thay đổi chiến thuật bịp bợm bằng cách sai giả thiền Nhất Hạnh lập “Trai Đàn Giải Oan” để cầu siêu cho các oan hồn uổng tử trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn nồi da xáo thịt do chính Đảng Cộng Sản phản dân hại nước bán nước gây ra.


Chúng ta hãy xem giả thiền Nhất Hạnh gửi thư cho Nguyễn Minh Triết:

“Kính gửi Ngài Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Kính thưa Ngài,

Trong chuyến thăm viếng và hành đạo tại quê hương đầu năm Đinh Hợi (2007), Phái Đoàn Phật Giáo Quốc Tế Đạo Tràng Mai Thôn chúng tôi có được phép Thủ Tướng Chính Phủ cho phép tổ chức ba Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan để cầu cho âm siêu dương thái với mục đích giúp chữa lành những vết thương do chiến tranh gây ra trong lòng người. Một khi những thương tích ấy được chữa lành, đồng bào ta, trong Nam cũng như ngoài Bắc, sẽ cảm thấy tình huynh đệ và nghĩa đồng bào được thắt chặt thêm và toàn dân sẽ có cơ hội tay nắm tay cùng đi lên trong vận hội mới của đất nước”.


Trước hết chúng ta thấy Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh vờ vịt báo tin cho Nguyễn Minh Triết biết: “Tôi đã được thủ tướng cho phép lập Trai Đàn Giải Oan ngài có biết không? Rồi sau đó giả thiền Nhất Hạnh giải thích cho Nguyễn Minh Triết biết Trai Đàn Giải Oan là cái gì!


Giả thiền Nhất Hạnh làm như cho tới lúc Nguyễn Minh Triết đọc thư mới biết thủ tướng của hắn đã cho phép lập Trai đàn và mới biết ý nghĩa của trai đàn giải oan.


Ngây thơ cụ vừa thôi chứ giả thiền Nhất Hạnh! Cộng Sản chúng biết hết ruột gan của ông rồi. Thậm chí ở Làng Mai bên Pháp mỗi tuần ông vào hậu phòng với sư bà Cao Thị Phượng mấy lần chúng cũng biết tỏng hết. Ông còn giả mù sa mưa giải thích vòng vo tam quốc để bịp những “tín đồ mê muội” của ông làm gì!


Xin hỏi Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh:


1- Ông thừa biết Đảng Cộng Sản phản dân hại nước bán nước chủ trương tam vô: Vô Gia Đình – Vô Tổ Quốc – Vô Tôn Giáo. Như vậy chúng đâu tin có Đời Sau. Mà nếu chúng không tin có đời sau thì chúng đâu cần ông lập trai đàn giải oan cho chúng?!


2- Đối với vô vàn nạn nhân cộng sản trong Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, Cải Tạo Công Thương Nghiệp Miền Bắc vv... đã chết oan ức không bút mực nào tả xiết thì một cái trai đàn hoa lá cành bề ngoài và dăm ba câu tụng niệm giả dối phát xuất từ cửa miệng của những Cán Bộ Cộng sản giả thiền, bênh vực cộng sản một cách bất công mù quáng như ông thì liệu có thể giải oan giải ức cho hàng mấy triệu sinh linh nạn nhân cộng sản được chăng?! Liệu có thể làm cho những linh hồn nạn nhân Cộng Sản đó ngậm cười nơi chín suối trong khi chính thủ phạm Cộng Sản đã gây tội ác sát hại sinh linh tầy trời đó vẫn còn đang tiếp tục đè đầu cưỡi cỗ thống trị trên tám mươi triệu Đồng Bào Việt Nam trong nước như tôi mọi được chăng?!


Nếu ông trả lời được thì xin hỏi tại sao Đức Phật quán triệt đạo pháp hơn ông gấp triệu lần lại không lập trai đàn giải oan cứu độ chúng sinh mà Ngài lại phải cất công khổ luyện tu trì gian khổ dưới gốc bồ đề để tìm phương thế đắc đạo chỉ dạy chúng sinh vượt qua bến mê bể khổ mới được cứu độ? Chẳng lẽ ông cao siêu nhiệm mầu hơn Đức Phật chăng?!


3- Đối với Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa là những chiến sỹ chống cộng bảo vệ lý tưởng tự do cho dân tộc Việt Nam. Và là những chiến sỹ tiền đồn chống cộng bảo vệ lý tưởng tự do cho nhân loại thì những người này đã chết một cách hiên ngang, chính đáng chứ không hề chết oan!



Hơn nữa, Ngũ Hổ Tướng và những Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết ngày 30 tháng Tư năm 1975 là những người có trách nhiệm giữ thành, giữ nước. Nhưng vì thế cùng lực kiệt, gặp thời thế thế thời phải thế, họ không chu toàn được bổn phận giữ thành, giữ nước nên đã tuẫn tiết theo thành, theo nước. Những vị này là những Đấng Anh Hùng, những bậc Thánh Nhân nêu gương hậu thế. Ông hãy kính cẩn quỳ lạy ngưỡng phục, noi gương, và xin họ cứu giúp ông chứ họ đâu cần ông lập trai đàn giải oan cho họ?!



Ngay cả những cái chết của Đồng Bào Đồng Hương nạn nhân cộng sản trong rừng sâu, trên biển cả trong cuộc hành trình đào thoát chế độ độc tài cộng sản tìm tự do thì cũng là những cái chết có lý tưởng. Những cái chết khẳng định quyền sống tự do cao cả của con người không khuất phục bạo quyền Cộng Sản. Không chấp nhận chủ thuyết độc tài Cộng Sản vô thần chà đạp lên nhân phẩm nhân vị con người. Không chấp nhận tà thuyết Cộng Sản ngoại lai phản dân hại nước bán nước!



Họ chết trong những hoàn cảnh bi đát gây đau thương khổ lụy cho gia đình quyến thuộc nhưng những cái chết tất tưởi của họ đã làm chấn động lương tâm lương tri nhân loại và đã là những chứng cứ hùng hồn nhất trong bản cáo trạng vạch trần tội ác trời không dung đất không tha người không quên của bạo quyền Cộng Sản Việt Nam! Những cái chết thảm thương đó đã có sức làm biến đổi cái nhìn bất công, thiên tả của truyền thông Hoa Kỳ và thế giới trong cuộc chiến Quốc-Cộng tại Việt Nam và góp phần làm sáng tỏ chính nghĩa quốc gia chống cộng trên trường quốc tế sau cuộc chiến.



Như vậy, cái chết của những chiến sỹ can trường vượt biên vượt biển tìm tự do là những cái chết chính danh chính đáng chính nghĩa; là những cái chết vị quốc vong thân chắc chắn sẽ được lịch sử ghi công và được toàn dân ghi nhớ biết ơn đến muôn đời như những cái chết cao cả của những Chiến Sỹ Vô Danh của tổ quốc. Những cái chết quả cảm này sẽ là một vết nhơ ô nhục muôn đời không thể nào gột rửa được của tên tội đồ dân tộc Hồ Chí Minh và bè lũ Cộng Sản Việt gian phản dân hại nước bán nước!



Và như vậy những Anh Linh này đã hòa quyện vào Hồn Thiêng Sông Núi Việt Nam để được muôn đời tôn vinh chiêm ngưỡng nên họ không cần ông lập trai đàn giải oan cho họ!



Hỡi Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh!

Ông có nhớ Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói hồi cáo già Hồ Chí Minh cùng đồng bọn giả bộ sửa sai sau chiến dịch phóng tay phát động quần chúng đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất, sát hại nửa triệu sinh linh vô tội: “Đối với nạn nhân đã chết oan ức trong CCRĐ thì chỉ còn cách cầu siêu cho họ nhưng rất tiếc Đảng cộng sản lại không tin vào chuyện đó!” Có nghĩa là những tội ác kinh khủng đó vô phương cứu chữa và không thể phi lý chấp nhận sửa sai dễ dàng để xí xóa tội lỗi kinh khủng có một không hai của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vâng lệnh quan thày Liên Xô Trung Cộng chủ trương đấu tố sát hại hàng mấy trăm ngàn đồng bào vô tội một cách dã man tàn nhẫn như thế!


Nếu Đảng CSVN và bạo quyền CSVN thực tâm sám hối sửa sai trong CCRĐ 1950-1954 thì tại sao chỉ mới 2 năm sau Đảng CSVN và bạo quyền CSVN lại đã thẳng tay tiếp tục tận diệt Nhóm Nhân văn Giai Phẩm năm 1956?! Tận diệt Nhóm Xét Lại chống đảng?! Thảm Sát, chôn sống năm ngàn Đồng Bào trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế?! Lùa Quân-Dân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa và Công Thương Kỹ Nghệ Gia Miền Nam vào các trại tập trung “cải tạo” không án để cướp đoạt tài sản và bỏ đói nơi rừng thiêng nước độc cho chết dần chất mòn bằng hết nếu không có quốc tế can thiệp!



Với những chứng cứ tội ác có hệ thống của Đảng Cộng Sản Việt Nam như thế mà giả thiền Nhất Hạnh vẫn bịt tai nhắm mắt: Không nghe, không thấy, không biết! Để rồi vẫn cứ tiếp tục bênh vực tội ác Cộng Sản trước muôn ngàn ức triệu khổ đau của dân tộc Việt Nam là nạn nhân Cộng Sản và là những chứng nhân lịch sử đã từng tận mắt chứng kiến những tội ác kinh khủng của CSVN, thì chỉ có những tín đồ mê muội ăn phải bùa mê cháo lú của giả thiền Nhất Hạnh mới tin Nhất Hạnh! Chỉ có những ai ngu xi dốt nát, hoặc đón gió trở cờ, tay sai Cộng Sản, mới nhắm mắt tin gọi Nhất Hạnh là “Thiền Sư”, “Thiền Gia”, “Thiền Giả”! Còn những người có đầu óc bình thường, biết suy xét một chút thì thấy ngay và nhận ra ngay Nhất Hạnh chỉ là một Cán Bộ Cộng sản giả thiền đang tích cực thi hành nghi quyết 36 của Cộng Sản Việt Nam phá nát cộng đồng tỵ nạn cộng sản hải ngoại của chúng ta nếu chúng ta cứ làm lơ, sợ đụng chạm, không dám mạnh dạn vạch trần âm mưu thâm độc quỷ quyệt bất lương của Nhất Hạnh!



Trong suốt cuộc chiến Quốc-Cộng, không bao giờ và chưa hề bao giờ chúng ta thấy Nhất Hạnh hó hé lên tiếng phê phán tội ác Cộng Sản!!! Thế nhưng ngược lại, Nhất Hạnh luôn vạch lá tìm sâu lên án phe chống cộng từng chân tơ kẽ tóc, kể cả dựng chuyện chụp mũ, xuyên tạc, vu oan giá họa cho phía quốc gia chống Cộng Sản xâm lược!!!


Một người cư xử quá bất công như thế có xứng đáng là một Thiền Sư, Thiền Gia, Thiền Giả hay không?! Hay chỉ đơn thuần là Cán Bộ Cộng sản giả thiền Nhất Hạnh không hơn không kém?!


Nhớ lại năm 2001, khi đất nước dân tộc Hoa Kỳ gặp đại nạn khủng bố, sát hại gần ba ngàn thường dân vô tội tại Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế, New York. Chính phủ Hoa Kỳ mở chiến dịch diệt trừ khủng bố thì Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh vội vàng từ Pháp bay qua Hoa Kỳ đóng vai giả thiền kêu gọi tha thứ cho khủng bố!



Nhất Hạnh lấy đâu ra năm chục ngàn Mỹ Kim để đăng nguyên trang quảng cáo trên tờ New york Times?! Trong đó không hề tỏ ý tiếc thương những người dân Hoa Kỳ vô tội đã chết oan vì khủng bố?! Không hề toan tính lập trai đàn giải oan cho trên dưới ba ngàn thường dân vô tội Hoa Kỳ bị chết tức tưởi trong cuộc khủng bố gây kinh hoàng thế giới!



Đã thế, Nhất Hạnh còn để lộ bản chất cộng sản bằng cánh gian dối trắng trợn xuyên tạc: “Tại tỉnh Bến Tre trong thời chiến, chỉ có mấy du kích bắn lẹt đẹt lên trời vài ba phát mà hàng đoàn máy bay Hoa Kỳ đã đến oanh tạc san bằng bình địa tỉnh Bến Tre, sát hai ba trăm ngàn thường dân vô tội!!! Trong khi chính những người dân tỵ nạn cộng sản gốc Bến Tre cho biết không hề có chuyện ném bom san bằng bình địa tỉnh Bến Tre trong thời chiến và dân số tỉnh Bến Tre cũng không hề có đông như giả thiền Nhất Hạnh đã xuyên tạc!



Gian dối, quỷ quyệt, xảo trá, đến như vậy thì làm sao Nhất Hạnh có thể là một “Thiền Sư”, một “Chân Tu” được?!

Vừa qua, bạo quyền CSVN đã áp lực các quốc gia Động Nam Á, xóa sạch các dấu tích bia mộ các Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân của những nạn nhân cộng sản tuẫn tiết trong các cuộc hành trình vượt biên vượt biển đào thoát chế độ cộng sản tìm tự do. Đồng bào đồng Hương tỵ nạn cộng sản hải ngoại tại Hoa Kỳ, Úc Châu và các nước Âu Châu đã cùng các vị lãnh đao tinh thần lập các đoàn hành hương đi đến các trại thuyền nhân tỵ nạn đó dễ cầu nguyện, cầu siêu cho họ nhưng không hề thấy Nhất Hạnh có mặt hoặc lên tiếng hỗ trợ cho những cuộc hành hương cầu nguyện cầu siêu này.


Thế là thế nào?!

Phải chăng vì việc hành hương cầu nguyện, cầu siêu ấy chẳng những không có lợi mà còn có hại cho uy tín đảng CSVN và bạo quyền CSVN nên Nhất Hạnh làm lơ không dám hó hé!


Với những bắng chứng cụ thể đó, gọi Nhất Hạnh là Cán Bộ Cộng Sản giả thiền bịp bợm là đúng hay oan ức cho Nhất Hạnh?! Mà nếu không oan ức thì từ nay chúng ta cứ gọi đích danh Nhất Hạnh là Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh vì Nhất Hạnh đích thị là như thế!


Chúng ta đừng mắc mưu gọi Nhất Hạnh là “Thích”! Nhất Hạnh chỉ mượn danh “Thích” làm bùa che thân để phá đạo Phật, để lảm tay sai cho quỷ đỏ cộng sản thu gom Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống vào Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh Cộng Sản. Nhưng âm mưu của Nhất Hạnh bị bại lộ nên Giáo Phẩm Phật Giáo Thống Nhất từ Đại Lão Tăng Thống Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Chư Tăng Phật Giáo Thống Nhất đều lật mặt tẩy chay Nhất Hạnh. Trong Ba Trai Đàn Chẩn Tế Bắc – Trung – Nam, Tăng Đoàn Làng Mai của Nhất Hạnh không được phép héo lánh tới bất cứ một ngôi chùa nào của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cả!



Nhớ lại năm ngoái, Nhất Hạnh đóng vai cò mồi dẫn Tăng Đoàn Làng Mai về thu gom Phật Giáo Thống Nhất vào quốc doanh Cộng Sản. Nhất Hạnh luồn lách năn nỷ xin gặp chư Tăng các chùa Phật Giáo Thống Nhất chưa được mà đã giở trò trịch thượng đòi phải đem võng lọng, nhã nhạc, chuông khánh ra tận đằng xa đón rước Nhất Hạnh cùng với tăng đoàn Làng Mai trong đó có vợ Nhất Hạnh là sư bà Cao Thị Phượng! Đoàn rước ra đón Nhất Hạnh còn phải vừa đi vừa xông hương Nhất Hạnh! Đây là chuyện có thật do một vị Thượng Tọa của GH/PGVN/TN trình thuật. Và cũng trình thuật luôn cả quyết định của GH/PGVN/TN đã thẳng thừng bác bỏ những yêu sách lố lăng phô trương Tham-Sân-Si trần tục quá tầm thường của Nhất Hạnh! Ở đây cho thấy, nếu Nhất Hạnh thật sự là một “thiền sư” thì không Thiền Sư chân chính nào lại đi đòi hỏi những cái hào nhoáng thế gian vô tích sự như vậy! Thế mà quả thật Nhất Hạnh đã đòi như thế! Nên khẳng định Nhất Hạnh không phải là một Thiền Sư mà chỉ là một Cán Bộ Cộng Sản giả thiền không hơn không kém!

Hỡi Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh!

Hỡi bạo quyền cộng sản Hà Nội!

Hỡi bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản Cộng Sản!

Các ngưoi không thể tiếp tục bầy trò lập trai đàn giải oan bịp bợm để hòng xóa bỏ hận thù, chạy tội phản dân hại nước bán nước của các ngươi!

Các ngươi khôn hồn học lấy bài học từ cuộc nội chiến Hoa Kỳ khi kết thúc: Họ không phân biệt kẻ thắng người thua. Tôn trọng lý tưởng của nhau và tất cả những người đã nằm xuống của cả hai bên đều là những tử sỹ yêu nước. Những người còn sống thua trận hay thắng trận đều được lệnh ai về quê nấy nhà nấy lo sinh sống an cư lạc nghiệp xây dựng đất nước. Không có chính sách phân biệt, kỳ thị, lý lịch trích ngang trích dọc, thù hận thâm căn cố đế như các ngươi!

Các ngươi hãy biến trai đàn giải oan bịp bợm của các ngươi thành trai đàn sám hối giải kết tội lỗi trời không dung đất không tha người không quen của chính các ngươi!

Các ngưoi hãy Cải tà quy chính! Từ bỏ vô thần, độc tài đảng trị, hối mai quyền thế, cướp nhà cướp của cướp đất của dân và hãy mau mau trả lại nhân phẩm, nhân quyền, độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân thì may ra các ngươi còn được khoan nhượng. Bằng không thì chính các ngươi hãy lo nhờ con cháu các ngươi chuẩn bị lập trai đàn cầu nguyện cầu siêu giải kết tội khiên tầy đình tầy liếp cho chính các ngươi!

Hỡi Cán Bộ Cộng Sản giả thiền Nhất Hạnh!

Ngươi khùng điên hay mất trí mà gọi quốc nạn, pháp nạn cộng sản trong nước hiện nay là “vận hội mới của đất nước”?!

Nguyễn Xuân Tùng
Santa Ana, California
(Nguyệt San Chính Việt Số 3 Tháng 3 Năm 2007)

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Lòng Từ Bi Cho Người Chết
Phải Bắt Đầu Bằng
Công Lý Cho Người Sống



“Lòng Từ bi cho người chết phải bắt đầu bằng Công lý cho người sống” : ông Võ Văn Ái trả lời phóng viên Đài VOA về chuyến đi Việt Nam của Sư Ông Thích Nhất Hạnh.

Hôm nay, 20.2.2007, Sư Ông Nhất Hạnh và phái đoàn Làng Mai đến phi trường Tân Sơn Nhất, Saigon. Ký giả Đài VOA Anh ngữ, ông Matt Steinglass, gọi điện thoại viễn liên từ Hà Nội sang Paris xin ông Võ Văn Ái bình luận về chuyến đi này. Sau đây là lời phát biểu của ông Ái, do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dịch ra Việt ngữ :

“Tôi cảm thấy bàng hoàng việc Sư Ông Thích Nhất Hạnh cùng với trên một trăm đệ tử Làng Mai được phép tự do về Việt Nam, tổ chức những buổi thuyết giảng công cộng và giải oan trên toàn quốc. Trong cùng thời gian nầy, hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị quản chế, bị tước các quyền tự do và cấm thuyết pháp. Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, 87 tuổi, trải qua cảnh tù đày, quản chế trên 25 năm ròng, bị cấm rời tu viện ở Bình Định vào Saigon tái khám bệnh. Hòa thượng Thích Quảng Độ, 77 tuổi, bị giam cầm, quản chế nhiều thập niên qua, vừa được Sáng hội Rafto trao Giải Nhân quyền Quốc tế tháng 11 năm 2006, nhưng Hòa thượng không được phép sang Na Uy lãnh giải. Mới tuần lễ trước đây, Việt Nam từ chối chiếu khán nhập cảnh cho ông Arne Liljedahl Lynngård, Chủ tịch Sáng hội Rafto. Ông ngỏ lời đến thăm Việt Nam để trao tận tay Hòa thượng Thích Quảng Độ tấm bằng tưởng lệ Giải Rafto và gặp gỡ giới chức chính quyền trong tinh thần đối thoại. Nhưng nhà cầm quyền Hà Nội từ khước tiếp đón ông.

“Tôi nghĩ rằng nhà cầm quyền Hà Nội điều khiển chuyến đi của Sư ông Thích Nhất Hạnh nhằm che giấu các cuộc đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và cố tạo ra ảo ảnh tự do tôn giáo tại Việt Nam.

“Tôi cũng nhận thấy khó xử cho những Trai đàn Giải oan mà Sư ông Nhất Hạnh dự tính tổ chức tại Sóc Sơn, Huế và Saigon. Sư ông ngỏ lời mời người Cộng sản đọc những trích đoạn trong kinh điển Marx bên cạnh các Tăng sĩ, Linh mục, Mục sư, Chức sắc xướng đọc các kinh điển Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài, để cùng cầu nguyện cho những người chết oan. Tôi chẳng biết làm sao hoà đồng giữa các tôn giáo và chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng các tôn giáo lớn đều dựng xây trên nền tảng từ bi, yêu thương. Trái lại chủ nghĩa Mác-Lên nin dựa trên căm thù, tranh chấp và đấu tranh giai cấp. Trong thực tế, chủ nghĩa Mác-Lênin với sự kiện Đảng Cộng sản ra đời tại Việt Nam là nguyên nhân cơ bản cho hàng triệu người chết oan - những người mà Sư ông Nhất Hạnh gọi kêu cầu nguyện. Tôi nghĩ đến những ai bị chôn sống trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất đầy sát khí ở Miền Bắc, những ai bị tàn sát và bị chôn sống tập thể trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, đặc biệt ở Huế, những ai bị hành quyết hoặc bị chết thảm vì bị tra tấn, bị đói hay kiệt sức trong các Trại Cải tạo lao động, hoặc những Người Vượt Biển đi tìm tự do bị chết thảm trên đại dương...

“Thân nhân, gia đình của những kẻ chết oan này có thể hành lễ và nghe đọc các trích đoạn kinh điển Mác-Lênin chăng ? Họ có chịu tham dự Trai đàn Giải Oan dưới sự chủ trì của giới lãnh đạo chế độ Cộng sản hay không ?

“Đã đến lúc chúng ta phải nghĩ tới những người đang sống, chứ không riêng người chết mà thôi. Sư ông Thích Nhất Hạnh hãy dùng ảnh hưởng của sư để kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho tất cả những tù nhân bị giam giữ vì lý do ôn hòa bảo vệ tín ngưỡng hay chính kiến của họ. Sư ông hãy cất cao lời bênh vực cho khối “Dân Oan”, là những phụ nữ vô gia cư, những nông dân mỗi ngày kéo về Vườn hoa Mai Xuân Thưỡng khiếu kiện việc Nhà nước cưỡng chiếm đất đai, tài sản của họ. Sư ông Nhất Hạnh hãy đòi hỏi cho mọi người Việt Nam được hưởng quyền tự do đi lại, quyền ăn nói và quyền tự do tôn giáo y hệt như Sư ông và phái đoàn Làng Mai đang được hưởng trong chuyến về Việt Nam. Lòng Từ bi cho người chết phải bắt đầu bằng Công lý cho người sống. Sư ông Nhất Hạnh hãy nhìn đằng sau lưng hai triệu rưởi đảng viên Cộng sản còn có 80 triệu dân đang bị tước đoạt nhân quyền, dân chủ và tự do tại Việt Nam”.

Xin quý độc giả đọc lại bức thư Hòa thượng Thích Huyền Quang viết ngày 21.4.2000 tại nơi quản chế ở huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, gửi các ông : Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và Nông Đức Mạnh, đề nghị lấy ngày 30.4 mỗi năm làm « Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc ». Qua thư, Hòa thượng đòi hỏi cho Linh quyền người chết bằng hành động sám hối công khai của Đảng Cộng sản, và Nhân quyền cho người sống bằng việc thực thi dân chủ đa đản. Xin xem Thông cáo báo chí ngày 25.4.2000 ở :

http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=757 ;

và về hai chữ “Giải Oan” trên Thông cáo báo chí ngày 16.2.2007 :

http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=755

Đề xuất và hành động cụ thể nhằm Giải Oan cho người chết cũng như người sống được vị lãnh đạo tối cao của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất công bố từ bảy năm trước, năm 2000, chứ không phải đợi đến hôm nay, 2007, mới toan tính. Hành động này cụ thể phải do người gây tội, là Đảng Cộng sản tác nhân các vụ thảm sát, đứng ra chủ trì, chứ không là kẻ bị thảm sát, kẻ bị oan ức xin xỏ giải oan.

Linh quyền cho người chết là những ai ? Hòa thượng Huyền Quang kê rõ trong thư : 3 triệu người chết trong chiến tranh, binh sĩ Việt Nam Cộng hòa, 300.000 bộ đội mất tích theo số liệu Hà Nội, 700.000 người bị giết trong Cải cách Ruộng đất, 100.000 người bị hành quyết trong các Trại Cải tạo, một triệu người bỏ thân trên đường Vượt Biển, hàng chục nghìn người bị giết trong vụ Mậu Thân 68, v.v...

Nhân quyền cho Người sống là gì ? Là bỏ ngay châm ngôn « Dân biết dân câm họng, Đảng biết đảng bỏ tù », bỏ ngay ý thức hệ « đấu tranh giai cấp » và « chuyên chính vô sản ». Thực hiện cụ thể bằng việc nhân Ngày 30.4, Đảng Cộng sản chính thức công bố lời Sám hối trước toàn dân, người chết cũng như người sống, về những sai lầm, những tội lỗi mà Đảng Cộng sản vi phạm trong suốt lịch sử cận và hiện đại.



Trong khi đó, nhật báo Người Việt và đài phát thanh VNCR "mập mờ" loan tải bản tin "dạy dổ" cộng đồng "rất đứng đắn" nguyên văn như sau:

Không nên làm rạn nứt sự đòan kết cộng đồng vốn rất mong manh


LTS. -Bài bình luận dưới đây của Đài phát thanh VNCR đã được phát thanh vào trưa ngày Thứ Hai vừa qua. Xin đăng tải lại nguyên văn và không nhất thiết ý kiến của Đài VNCR là ý kiến của nhật báo Người Việt.



Do hậu qủa của một tình trạng đặc biệt về chính trị của Việt Nam trước và sau 30-4-1975, người Việt Nam tị nạn tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia khác trên thế giới đã có những cố gắng hàn gắn những chia rẽ về chính trị để cùng nhau mưu tìm tình đòan kết trong một trận chiến khác. Đó làtrận chiến nhằm mang lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.

Muốn đòan kết, điều kiện tiên quyết làphải bỏ những tị hiềm phát sinh bởi những dị biệt về suy nghĩ vàcách nhìn những vấn đề có liên quan. Chỉ riêng ở quận Cam này không thôi, sự đòan kết vẫn chưa tòan vẹn, bởi lẽ một số nhỏ các nhóm họat động khác nhau vẫn thường hay nêu những vấn đề nhạy cảm trong cộng đồng người Việt Nam tị nạn như một cái cớ để chỉ trích nhau.

Chẳng hạn như, việc phục hồi danh dự hay vinh danh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ai cũng biết ông Ngô Đình Diệm làtổng thống đầu tiên của VNCH vàđã bị thiệt mạng sau cuộc chính biến tại Miền Nam Việt Nam ngày 2-11-1963. Cái chết của ông cho đến nay vẫn còn nghi vấn nhưng hòan cảnh dẫn đến cuộc đảo chánh 1-11-1963 phải nhìn theo nhiều lăng kính khác nhau như tình hình chính trị, tình hình tôn giáo, tình hình quân sự, chính sách đối ngọai của Hoa Kỳ tại Việt Nam, cá nhân cố tổng thống Ngô Đình Diệm vànhững thành viên khác trong gia đình ông, mối liên hệ vàcách đối xử của chính phủ VNCH thời đó đối với các tôn giáo, nhất làvới Phật giáo.

Nhưng dù cho có nhìn theo cách nào đi chăng nữa thì người ta vẫn cần những bằng chứng trước khi đưa đến một kết luận tương đối thuyết phục. Không nên võ đoán hay chủ quan về một vấn đề hệ trọng hay nhạy cảm như vấn đề vinh danh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nếu có những đòan thể hay cá nhân cảm thấy cần vinh danh ông thì nên tổ chức ở một nơi riêng biệt, không ở nơi công cộng bởi vì không phải tòan thể những người Việt tị nạn ở quận Cam này đều có cùng một cảm nghĩ hay cùng một cách nhìn như những ai đứng ra chủ trương vàtổ chức. Người theo Phật giáo nhìn khác người theo Công giáo. Cho nên khi những người Việt tị nạn đang sống hòa thuận, đang theo đuổi một mục tiêu chung thì một vấn đề qúa nhạy cảm như vậy, khi được nêu ra, tất sẽ làm tan vỡ mối đòan kết trong cộng đồng, vốn đã rất mong manh từ hàng chục năm qua. Xin hãy để cho lịch sử sau này đưa ra những phán đóan khi ảnh hưởng của thế hệ chúng ta vànhững thế hệ sau này không còn nữa. Có như thế, phán đóan mới tương đối khách quan.

Một vấn đề thứ hai mới xảy ra gần đây thôi. Đó là chuyến đi Việt Nam lần thứ hai của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vàTăng Đòan Làng Mai để tổ chức Đại Trai Đàn Chẩn Tế cầu siêu cho những linh hồn của những người đã thiệt mạng trong các cuộc chiến ở Việt Nam thời cận đại vàcuộc chiến cách đây 32 năm, những người thiệt mạng trong chốn lao tù tại các nhàtù Miền Bắc cũng như Miền Nam Việt Nam, những quân nhân trong quân đội hai miền Nam vàBắc Việt Nam, những người thiệt mạng trong cuộc đấu tố ruộng đất, trong cuộc chiến giai cấp tại Miền Bắc, các nạn nhân của nạn cường hào ác bá ở Miền Nam Việt Nam, vànhững người đã bỏ nước ra đi trốn tránh chế độ hàkhắc độc tài ở Việt Nam nhưng không tới được bến bờ như họ mong muốn. Những người đã khuất ấy đều làngười Việt Nam vàlinh hồn của họ không thể mang mầu cờ sắc áo nào. Việc khóac mầu cờ sắc áo cho những linh hồn làđều do những chế độ chính trị tạo trên trần thế tạo ra màthôi. Khi một tu sĩ lập ra một trại đàn chẩn tế cầu siêu, người tu sĩ ấy chỉ thể hiện đức tin tôn giáo màông đi theo vàthờ phượng, không thể vội vã vàvõ đóan những điều màmột thiểu số cho rằng chuyến đi Việt Nam của Thiền Sư Nhất Hạnh làcó ẩn ý. Làm cách nào màchúng ta có thể chứng minh được ẩn ý của một người. Đức Giáo Hòang Benedict XVI tiếp Thủ Tướng Việt Nam có ẩn ý không? Giám mục Phạm Minh Mẫn từ Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ nhiều lần có ẩn ý không? Hay tất cả những việc làm đó chỉ làđể giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa tôn giáo vàchính quyền, giữa giáo hội Công giáo trong nước và hải ngọai?

Nếu không có những câu trả lời dứt khóat, thuyết phục vàphán đóan cho công bằng thì việc chỉ trích các chuyến đi của những tu sĩ khi họ về nước hay ra nước ngòai hành đạo chỉ làviệc làm thiếu suy nghĩ vàđịnh kiến. Hai yếu tố này làhai yếu tố có thể thúc đẩy tình đòan kết vốn mong manh trong cộng đồng chúng ta thành rạn nứt thực sự.

Chúng tôi, Đài VNCR tin rằng mọi người trong cộng đồng chúng ta không muốn điều đó và sẽ chống lại việc làm rạn nứt tình đòan kết trong cộng đồng với bất cứ giá nào. (VNCR)



=====

Bạn đọc viết


Nhat Hanh: nhan tien ve VN "giai oan" lam on "giai thoat" dum linh muc Nguyen van Ly dang bi giam cam. Chuyen di ve VN cua ten su ong "cho de" nay da lam tam binh phong che day su bat bo va dan ap trong vong may ngay qua cua cong san tai Hue, dung nhat hanh la mot ten tay sai dat luc cua cong san.
Post by: giai doc

---------------------------

"Tôi cảm thấy bàng hoàng việc Sư Ông Thích Nhất Hạnh cùng với trên một trăm đệ tử Làng Mai được phép tự do về Việt Nam"

ngay` xu*a chinh'' phu? cu? cho ong TNHanh la` cs thi` bay gio*` ong ta tu*. do ve^` nuoc'' vncs thi` co'' gi` ma` phai? ban` cai? hi?. thiet. la` nhieu` chuyen.
Post by: nguyen

---------------------------

Xin quý bạn đọc chớ nghe những luận điệu của nhật báo Nguời Việt và Đài phát thanh VNCR .Họ rất là mập mờ khi lên tiếng dạy dổ cộng đồng người Việt ở hải ngoại ,nói đúng hơn thì đấy chỉ là bọn cơ hội chủ nghĩa mà thôi !.Sợ Việt cộng trả thù thì bỏ nước sang Mỹ ,nay đánh hơi CSVN thay đổi cách thức cai trị ...thì muốn về VN giải oan ?!.
Post by: Becanahot

------------------------

Xin loi toi la Phat Tu giup viec o Tu vien lang Mai , toi hieu noi kho cua Thien Su Nhat Hanh, Thay thuong hay noi voi toi, thoi buoi Kinh Te thi truong XHCNVN ma khong canh tranh thi lam gi co cua, Ni co Chan Khong lam gi co hot soan , kim cuong de ma dem,doi tan the hoi dau ma tu voi hanh , chang qua la de lay vai the che mat thanh ma thoi.ban ngay thien su Nhat Hanh Tung kinh de ba tanh hieu duoc dau la su doi, toi den cai dui go mo dut vao lo mo cua Chan Khong, nen moi co con goi ba tanh nuoi , neu khong thi be manh het lam sao lanh dao duoc cai lang Mai, Nam Mo A Di Da Phat toi khong dam noi ngoa, moi ngay toi thuong hay quet don giuong nam cho ngai toi biet co dinh nhung dom trang tra''ng o duoi nem ma khong biet chat gi nua. nam nay thien su cung gia roi , may nam truoc thien su cung co noi voi toi , con oi thoi buoi nay tu phai biet khon nguoi ta moi trong dung minh duoc,doi tan the khong lo cuop giut , lo tu hanh cho thiet tam than., thien su noi , bay gio ta gia roi thinh thoang cung co doi lan voi NI Chan Khong de cho thoa man long lon. chu suong it gi con oi. Nam Mo A Di Da Phat. PHAT TU ngao ngan cho nha PHAT thoi hon loan., Phat chay len rung tron het tro*n.
Post by: Phat Tu ( Lang Mai)

-------------------------------

Toi nghi rang chinh ca''i lua^.n dieu bo*''i mo''c ,chi? tri''ch ve viec vinh danh TT NDDiem o noi cong cong va ba`o chu*?a cho Thie^`n Su* TNHanh ve VN de cau sieu giai oan cho cac vong linh cua dai pha''t thanh VNCR moi chi''nh la` ngo.n lu*o*?i tha^m do^.c de^? la`m bu`ng pha''t len su ra.n nu*''t cua tinh doan ket trong cong dong.

Ty Nan CSVN
Post by: Kim Pham

----------------------------

Sư ông Nhat Hạnh nên minh bạch và giải oan cho đứa con của Nhất Hạnh và Cao Thi Phương ( tu sư cô Chân Không, người trông coi làng mai) Nên cho đứa con của mình được yên bình trong tâm thức...không bi bất an vì phai trốn tránh người đời...vì được nuôi bơỉ ca sĩ Cao Thắng (người hát bài Mexico) và là anh ruột của Cao Thi Phuong.
Post by: An Tam (Paris)

------------------------

AI CON LA GI TEN SU HO MANG THICH NHAT HANH? HAN LA TEN CONG SAN RAC NOI. HAN CAU THI CO OAN HON NAO SIEU THOAT, DAY LA MOT VAN CO CUA BON CONG SAN CHOP BU VIET NAM, MUON LOE MOI NGUOI LA VIET NAM KHONG CO DAN AP TON GIAO: BANG CO LA CA DOAN TANG NI PHAT TU TU NGOAI QUOC VE TU DO LAP TRAI DAN CAU SIEU. KHONG HIEU SAO DONG BAO VAN CON DEO THEO BON GIA TRA NAY. HAY LOT MAT NA BON : "LAY DAO TAO DOI"( doi rieng cua chung voi vo tre ; nha sang; xe xin) NAY DE CHUNG NO" HET DAT DUNG VO"
Post by: TRUC NGON

----------------

Bai nay da vach mat ten cong san doi lot thay tu, giong nhu toi da noi moi lan ve vietnam han da "giai doc" cho viet cong luc gap kho khan ve nhan quyen voi the gioi-ten nay rat nguy hiem va gian hiem.
Post by: tin do


------------------------------------

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Thiền Đạo: Một thế giới Phật Giáo nhân bản hoàn toàn khác biệt với thiền ôm bụt giáo của Sư ông Nhất Hạnh


Mường Giang - đăng Mar 24, 2007


Từ Úc Đại Lợi, mới đây Hòa Thượng Huyền Tôn có gửi tới sư ông Nhất Hạnh một bức thơ, trong đó có đề cập tới “Bụt Đạo và Thiền Ôm”, do nhà sư ở Làng Mai làm giáo chủ. Thật sự đây cũng chẳng có gì lạ, đối với chuyện “tu đạo” của sư ông, mà hầu như ai cũng biết hết, qua Hoa Sen Trong Biển Lửa thời Việt Cộng xâm lăng VNCH, tới những chuyện làm mới đây như: Thuyết pháp tại Nhà thờ Riderside Church ngày 25-9-2001 có đăng quảng cáo trả tiền trên tờ New York Times. Sau đó sư ông bị Hội ký giả VN Hải Ngoại mở cuộc hội luận tại thành phố Westminster ngày 14-10-2001, tố cáo sư ông bịa chuyện nói láo “Vụ ném bom thành phố Bến Tre 300. 000 người, vào Tết Mậu Thân 1968”. Chưa hết, Tết này, sư ông và sư bà Nhất Hạnh lại dẫn tăng đoàn “Làng Mai” về VN lần thứ 2, để “Lập đàn Giải Oan” mà theo lời kêu gọi “hãy quên quá khứ, để xóa bỏ hận thù”, được viết trong bài “phổ cáo quốc dân và đồng bào Bụt tử (chứ không phải Phật Tử), có kèm theo cảnh máy bay trực thăng đầy trời với hình hai vĩ nhân “Tướng Võ Nguyên Giáp (phó thủ tướng phụ trách cai đẻ của CSVN) và sư ông Nhất Hạnh (giáo chủ Bụt đạo và Thiền ôm, anh hùng đánh Mỹ cứu nước XHCN thời Chiến tranh VN).

Chân lý của Phật Giáo từ mấy ngàn năm về trước, căn bản vẫn là con đường Đạo Đức và Chánh Pháp, do Phật Tổ Như Lai vạch ra nhưng chính chúng sinh tự mình, phải đi tìm chân lý của nguồn khổ để diệt khổ. Cho nên trong Tứ Diệu Đế quẩn quanh cũng chỉ có một chữ duy nhất “KHỔ” vì bệnh, già, tham sân si, ảo vọng, vô thường.... Tóm lại muốn diệt Khổ, mọi người phải đi trên con đường Bát Chánh, tuân theo Ngũ Giới: Cấm Sát Sanh, Dâm Loàn, Tửu Sắc, Đạo Tặc và Ngoa Ngữ.... Nói một cách khác, qua Triết Lý và Trí Tuệ của Phật Giáo, sư ông Nhất Hạnh hoàn toàn không có một chỗ đứng, dù nhỏ nhoi hay khiêm nhường trong cửa Phật, thì nói chi tới chuyện đòi sánh vai với hàng Tôn Đức Phật Giáo, trong quá khứ cũng như hiện tại, nhất là đối với các vị Cao Tăng, đang xả thân chống lại đảng Việt Cộng tại quê nhà như Thầy Huyền Quang, Quảng Độ, Thiện Minh, Tuệ Sỹ, Trí Siêu....

Còn một điều cực kỳ quan trọng khác, cũng cần phải nói rõ: Đó là giáo pháp của Bụt Đạo và Thiền Ôm do sư ông Nhát Hạnh làm giáo chủ, cũng hoàn toàn không có ăn nhập gì tới Giáo Lý Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Sở dĩ có sự lầm lẫn này, vì các tín đồ của Giáo Phái trên, mà hầu hết là người Tạng, Mông và Mãn Châu.... có thờ Song Tôn Phật (còn gọi là Hoan Hỉ Phật), qua cảnh Nam Nữ ôm nhau, trong tư thế như đang hành lạc. Sự thật, đây chỉ là một biểu tượng của sự tu trì, của các vị cao tăng, để đạt tới cảnh giới “Vô Thượng Du Gia Bộ”. Cùng trong ý nghĩa này, Nam Giới coi như đại diện cho “Trí Tuệ”, còn phụ nữ thì tượng trưng cho “Thiền Định”. Sự kết hợp Nam Nữ là cảnh giới cao nhất của sự tu trì, mà Mật Tông gọi là “Định Tuệ Song Tu”, mà vị Hoan Hỉ Phật được coi như Hộ Pháp...

Trong chùa vốn không có Phật vì Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Bởi vậy, VN mới có câu tục ngữ “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là tu thân”. Đây cũng là mục đích và ý nghĩa của Thiền Đạo, được coi như một thế giới của Phật Giáo Nhân Bản, mà hiện nay khắp nhân loại đang tìm tới, để tự mình trai giới, tiến tới con đường chân, thiện, mỹ...

Năm 1957 tại thủ đô Mexico của Mễ Tây Cơ, trong cuộc hội thảo thế giới về Thiền và Phân Tâm Học. Tại đây, nhà khảo cứu đạo Phật là giáo sư Erich Fromm, đã căn cứ vào định nghĩa của Thiền Sư người Nhật là Suzuki mà minh định: “Thiền là nghệ thuật nhìn vào bản tính của hiện hữu mình. Đó chính là con đường dẫn chính ta từ hệ lụy do bản năng gây ra, tiến tới sự tự do của tâm thức. Đó là phương tiện giúp ta ngăn chận khỏi sự điên rồ của tinh thần, sự tàn phế của cơ thể và trên hết thúc đẩy ta dám công khai bộc lộ, cái khả năng hạnh phúc và thương yêu mọi người chung quanh mình.

Là Phật tử hay các nhà biên khảo-nghiên cứu, không ai không thấu triệt về những danh hiệu của các vị bồ tát trong Phật Môn. Nhờ đó ta biết Quán Tự Tại Bồ Tát cũng chính là Quan Thế Âm, được dịch từ Phạn Ngữ Alavokitesvara. Riêng danh từ Bồ Tát, cũng từ Phạn Ngữ Bodhi sattva, có nghĩa là người đã giác ngộ rồi NHƯNG vì thế nhân mà phải nán lại trần tục để giúp cho chúng sinh, cùng giác ngộ và thức tỉnh như chính mình. Tóm lại, dù có dựa vào tài liệu nào hay định nghĩa gì chăng nữa, thì cuối cùng danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, tức là Bồ Đề Tát Đỏa. Đó là người đã giác ngộ trọn vẹn rồi nhưng vì chúng sinh, mà chưa thể làm Phật, hoặc đã thành Phật nhưng do thệ nguyện, mà cam chịu làm chúng sinh để cứu độ thế nhân, đang chịu trầm luân trong bể khổ.

Ngày nay sau hơn hai ngàn năm hiện hữu của Phật giáo, chúng sinh mới hiểu thấu các vị Bồ Tát, chính là những Vị Phật hữu tình, từ bi rất là người và vì người mà cười vui giúp đời giác ngộ. Cho nên ta không ngạc nhiên khi nghe lời Phật giảng là tượng ta cũng chỉ là gỗ cây, khi cần có thể chẻ làm củi hay nhìn thấy hầu như tất cả các tượng Phật đều chắp tay mỉm cười với hình thái vô cùng, vô lượng. Đó vì Phật lúc nào cũng từ bi, biết lắng nghe tiếng kêu than của người trần thế. Chỉ bao nhiêu đó cũng đủ rồi, cũng khiến cho những kẻ khổ đau hoạn nạn được an ủi, hy vọng, vì biết rằng trong niềm đau của mình, đã có người khác xẻ chia cứu giúp. Đó không phải là từ bi hỉ xả hay sao? giống như nước thánh cam lồ, chứa trong bình tịnh thủy mà Bồ tát Quan Âm, luôn có trong tay, để bất cứ lúc nào, cũng kịp thời “cứu khổ cứu nạn” mọi người trong muôn ngàn hoàn cảnh.

Phật Môn hiện có thiên kinh vạn quyển, mục đích cũng chỉ để giúp chúng sinh, bước vào thế giới của Hành Thâm Bát Nhã để vào cõi ngộ “chiếu kiến ngủ uẩn giai không”. Nhưng đâu có phải cứ tham thiền hay tụng tâm kinh vài ba chục năm, là đã thực sự tiếp nhận và hành trì đã quán chiếu thâm sâu lẽ đạo. Trong lúc mặt thật là phải thực chứng, đốn ngộ, thương người, yêu nước, chứ không phải học thuộc, tu lâu, suy luận là đại công cáo thành và làm thầy thiên hạ được.

Thiền đạo là con đường mà chúng sinh phải thực chúng, nếm trải và sống bằng tâm kinh, giúp ta tự vượt qua những lo âu phiền lụy, cũng như nguy cơ bệnh tật, sinh tử, tới từ mọi phía. Thế nhân đi tìm nẻo tới cõi thiền xưa nay, thường bối rối hay khựng điếng trước những tài liệu cao siêu qua các công án, huyền thoại, những tình tiết ly kỳ khó hiểu, khiến cho người sau luôn hoài nghi, phải chăng thiền môn có một bí quyết nào giúp đời, mà vẫn cố giấu? Ngày nay ta biết, thiền không phải là phương pháp tự hủy diệt tri thức, để biến thành trì độn, mới ngộ được. Nhưng chắc chắc ai cũng biết, bát nhã là một tri thức và Thiền, chính là một khoảnh khắc nào đó, làm cho ta chợt biến thành người vô tư lự trong cõi hư không, chẳng suy nghĩ, hết toan tính và như có như không, trong cõi hồn nhiên tĩnh mịch. Hơn hai ngàn năm về trước, Phật đã dạy chúng sinh thiền tâm, qua kinh “Quán Niệm Hơi Thở”, vì bất cứ ai, khi thiền đã định, thì tâm mới được yên, mà bước vào cõi tu trì với nghiệp duyên sinh, duyên khởi, vô ngã, vô thường... không vướng bận.

Các vị thiền sư ngày nay cũng thường thuyết giảng: “Người biết nghe là nghe những tiếng vô thanh, người biết nhìn là nhìn được thế giới nội tâm”. Nói chung ai cũng đều nghe thấy nhưng khó có ai, dám nói là mình đã nghe thấy sự thật, vì sự đời là cõi phù du, thấy vậy mà không phải vậy, nên quý nhất là học tĩnh lặng để mà lắng nghe sự thật của lương tâm khi không còn bùn nhơ vấy bám. Vào chùa, tình cờ xuống nhà hậu, ngang qua những vò muối tương, rất lấy làm lạ vì miệng vò bị bịt kín, cớ sao hương thơm từ trong, càng thơm ngào ngạt? Đó không phải là giống như cấm ngữ hay phép “ninh tĩnh chi viễn” của nhà Phật hay sao? Chính Lão Tử cũng đã từng nói: “ngũ sắc làm mắt ta mù, ngũ âm làm tai ta điếc”, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói nhưng chắc gì ta không mù, không điếc, trong thế giới xô bồ của âm thanh âm sắc? Ludwig Van Beethoven bị điếc từ thuở nhỏ, nhưng lớn lên lại trở thành một nhạc sư vĩ đại của nước Áo và thế giới. Ngoài ra còn có Helen Keller bị khuyết mục bẩm sinh, nhưng sau đó cũng trở thành một nhà bác học. Điều đó cho thấy, có một thế giới đặc biệt, ở đó thế nhân không thể ngó-nghe, qua các giác quan bình thường của con người. Thế giới này, chính là cõi Thiền, mà cách đây hơn ngàn rưởi năm, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã phải trải qua 9 năm diện bích mới đốn ngộ.

1- Huyền thoại về Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma và Thiếu Lâm Tự

Thiếu Lâm Tự được xây dựng trong rặng Trung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, xưa nay cũng vẫn là một ngôi Phật Tự, chẳng những nổi tiếng nhất tại Trung Hoa, mà còn vang danh trên thế giới, về các huyền thoại có liên quan tới võ thuật nhưng trên hết, đây chính là nơi mà Bồ Đề Đạt Ma đã chọn đưa Thiền Phái, từ Ấn Độ vào với Phật Giáo Trung Hoa.

Thiền là một minh triết truyền thống của Á Đông và hơn một ngàn năm trăm năm về trước, được du nhập vào Nhật Bản, dưới danh xưng là ZEN. Đây là một danh từ, phiên âm qua Phạn Ngữ DHYĂNA, tức là Tĩnh Lự hay Im Lặng mà suy nghĩ. Tóm lại, dù ở đâu, ý nghĩa của Thiền cũng vẫn giống nhau vì đời sống của Thiền, là phải đối xử với chính mình và thế gian, bằng một tâm thức yêu mến và tôn kính nhất. Do tinh thần vi tha bác ái và tính khoan dung, cho nên Thiền ngày nay, đã vượt khỏi biên giới của Châu Á, ảnh hưởng càng ngày càng rộng tới nhiều nước Âu Mỹ.

Theo truyền thuyết được ghi trong sử liệu, thì nhân vật sáng lập ra Môn Phái Thiếu Lâm, chính là Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma. Năm 470 sau Tây Lịch, Ngài đã tới Trung Hoa bằng thuyền buồm và lưu tại nước Lương ở miền Nam, là một trong những nước rất sùng kính Phật Giáo, thời Nam Bắc Triều. Nhưng vì tư tưởng không phù hợp, nên ngay trong lần tiếp kiến đầu tiên, Vua Lương Võ Đế, mặc dù rất mộ đạo, cũng đã nổi giận và ra lệnh đuổi Đạt Ma ra khỏi nước.

Rời Lương, nhà sư sống những ngày lang bạt, qua cuộc hành trình về phương bắc, sau khi vượt qua sông Trường Giang mênh mông sóng cuộn, trong mùa nước lũ. Tại đây, Đại sư đã bị cảnh hoang dại nhưng đầy hùng vỹ của rặng núi Trung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, lúc đó đã có ngôi cổ tự Thiếu Lâm, được xây dưới chân núi, đứng ẩn mình trong rừng cây rậm rạp, quyến rũ và mời mọc. Do bản tính thích tịch mịch, nay bỗng dưng ngộ được chốn muôn bề hoang vắng, cô quạnh. Vì vậy người quyết định ở lại tham thiền, trong một hang động nhỏ, phía sau chùa. Sau đó trải qua nhiều năm, ông đã ngồi diện bích bất động, mặt hướng vào vách núi, không để ý tới ngoại cảnh, bốn mùa. Tính chung Bồ Đề Đạt Ma đã diện bích, trong hang đá, hơn 9 năm mới đắc đạo và tại đây, mặt trời cũng đã thiêu cháy cái bóng của nhà sư trên vách núi. Phiến đá này, về sau được các đệ tử của Ngài, đem về trưng bày trong chùa Thiếu Lâm, tới nay vẫn còn nguyên vẹn.

Hiện có nhiều giai thoại, liên quan tới sự tham thiền của Bồ Đề Đạt Ma như chuyện Ngài, tự cắt phăng đôi mí mắt của mình, để không buồn ngủ khi tham thiền và thịt này, về sau mọc thành cây Trà. Việc Đạt Ma thu nhận Thần Quang (Tuệ Khả), Huệ Dương và Sinh Châu làm đệ tử, cũng là những giai thoại đặc biệt, cho thấy tất cả đều từ những cơ duyên mà có. Và chính nhờ những người đệ tử tài ba này giúp sức, trong việc phiên dịch và chú giải các kinh sách Phật Môn, từ Phạn sang Hoa ngữ hay ngược lại, mà quan trong nhất là bộ kinh Sutras. Chính hai đại sư Huệ Dương và Sinh Châu, đã giúp Bồ Đề Đạt Ma, đem võ thuật Trung Hoa, từ ngoài vào chùa Thiếu Lâm. Vì là người nổi tiếng hành đạo thời đó, nên năm 552 vua Hiếu Xương đã xây cho Đại Sư Sinh Châu, một ngôi chùa riêng tại sườn phía nam Long Son, trong dãy Thánh Thất. Tại đây, Ngài đã viết hai bộ kinh về Thiền Đạo.

Riêng Bồ Đề Đạt Ma sau khi rời hang đá, đã đem phép thiền định truyền lại cho các đệ tử nhưng ít người đốn ngộ nổi vì hay bị ngủ gục và không thể chịu dựng được sự tham thiền dài ngày, trong một hoàn cảnh khắc nghiệt. Sau khi tìm ra lý do bế tắc, Đạt Ma đã đem các phương pháp luyện tập cơ thể từ YOGA, mà Ngài từng học, giúp đệ tử tăng cường phát triển nội lực để giải trừ mọi căng thẳng về thể xác lẫn tinh thần.

Tất cả đến nay vẫn còn là huyền thoại, kể cả việc giảng dạy và luyện tập võ thuật, cũng như câu chuyện về căn phòng ngầm dưới mặt đất, ở trong chứa đầy máy móc và các mộc nhân võ sĩ. Theo truyền thuyết, đây chính là nơi cuối cùng để trắc nghiệm tài nghệ cũng như lòng dũng cảm của các nhà sư trẻ và các tăng đồ khi xuống núi. Nhưng chắc chắn theo sử liệu, chính Thiếu Lâm Tự là nơi đầu tiên mà Bồ Đề Đạt Ma đã đưa Thiền Đạo Phật Môn tới Trung Hoa và gây ảnh hưởng lớn sang Nhận Bản, trở thành ZEN sau này. Chùa Thiếu Lâm cũng là nơi phát xuất nền võ thuật Phật Học đầu tiên tại nước Tàu bằng phương pháp hòa hợp giữa tinh thần và thể xác, đã thu hút bao nhiêu thế hệ, suốt 1500 năm qua, đến nay vẫn tiếp tục và càng được phát huy tốt đẹp, làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, sách báo, kể cả phim truyện để viết về một ngôi chùa danh tiếng nhất hoàn vũ.

2- Các vị Tổ Thiền Tông

+ Sư Tổ Thiền Tông và Thiếu Lâm Tự: Bồ Đề Đạt Ma

Như đã viết trên, Bồ Đề Đạt Ma chính là Tổ Thứ Nhất của Thiền Tông. Theo Phạn Ngữ, tên Ngài là Bodhidharma, sinh vào khoảng thế kỷ thứ V sau tây lich. Ngài là con thứ 3 của vua Hương Chi, nước Quốc Hương, ở miền nam Ấn Độ, với tục danh là Bồ Đề Đa La. Là người có tướng mạo bề ngoài rất hung dữ, da đen sì, râu quai nón, mắt trắng dã với hàng lông mày co quắp lại. Nhưng lại có trái tim bồ tát hiền từ và tâm hồn nghệ sĩ phóng khoáng, học hành thông thái, hiểu biết sâu rộng và tâm tính thích trầm tư tĩnh lự. Do lòng mộ đạo Phật truyền thống, nên sau khi Vua cha băng hà, Ngài đã xin phép gia đình xuất gia và được sư phu là Đại Sư Bát Nhã Đa La, ban pháp danh là Bồ Đề Đạt Ma.

Năm 520, dù lúc đó gần 80 tuổi nhưng nhớ lời dặn dò, Đạt Ma đã tới Trung Hoa để truyền đạo. Ngài đến nước Lương ở Quảng Châu, được Lương Võ Đế tiếp kiến. Sau đó vào nước Ngụy ở Lạc Dương và lên chùa Thiếu Lâm ở núi Trung Sơn, Hà Nam, quay mặt vào vách núi, thiền định suốt 9 năm mới đốn ngộ. Sau đó, do lòng thành khẩn của Vua Ngụy Hiếu Minh Đế, nên Tổ Đạt Ma đã đem Phật Pháp, truyền giảng cho dân chúng nước Ngụy. Năm 529 sau TL, Đạt Ma truyền Y Bát Chưởng Môn, cho đại đệ tử là Tuệ Khả rồi viên tịch. Hiện nhục thể vẫn còn tại bảo tháp chùa Định Lâm, trên núi Hùng Nhĩ, Trung Hoa.

+ Tuệ Khả, Tổ Thứ Hai

Ngài thuộc tôn thất nhà Chu, họ Cơ, sinh năm 494 ở Võ Lao, Trung Hoa. Đầu tiên xuất gia học đạo tại chùa Thiên Long Môn ở Hương Sơn với Thiền Sư Bảo Tịnh, nên được thầy cải danh từ Cơ Quan thành Thần Quang. Sau đó tới chùa Thiếu Lâm, thọ giáo với Tổ Bồ Đề Đạt Ma, được đổi tên là Tuệ Khả và được truyền Y Bát, trở thành Tổ Thứ Hai của Thiền Tông vào năm 529.

Năm 536, Ngài thu nhận một đệ tử, qua ngộ lý bất nhị, tên là Tăng Xán và truyền giao y bát. Sau đó ngài qua Nghiệp Đô giảng đạo và làm đủ mọi nghề để tùy nghi phổ độ chúng sinh. Vào năm 601, khi ngài đã 107 tuổi, đến giảng đạo tại Huyện Quảng Thành thì bị nhà sư tại chùa Khuôn Cửu, tên Biện Hòa, vì ganh tị nên vu cáo với Huyện Quan là Địch Trọng Khản. Ngài bị gia hình và viên tịch trong ngục. Sau đó, nhục thể được đệ tử đưa vào bảo tháp ở chùa Từ Châu.

+ Tăng Xán, Tổ Thứ Ba

Sinh vào khoảng thế kỷ thứ V nhưng không rõ quê quán. Theo sử liệu, thì vào năm 40 tuổi và đang mang bệnh ghẻ lở cùng mình, Ngài Tăng Xán tìm tới xin làm đệ tử của Tổ Tuệ Khả. Đây cũng là cơ duyên, nên chẳng những ông được Tổ thu nhận, mà còn truyền Y Bát và Ngài đã đến ở ẩn tại núi Hoàn Công, thuộc Thủ Châu... Đời Châu Võ Đế thuộc Bắc Triều, ngăn cấm và bức hại Phật giáo, nên Ngài Tăng Xán phải lánh nạn xuống tận Huyện Thái Triều, trong núi Tư Không. Tại đây, có nhà sư người Nam Ấn tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), đến xin thọ giáo, được Tổ Tăng Xán truyền tâm ấn và bảo sang phương Nam để truyền đạo. Theo Việt Sử, Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã sang thuyết pháp tại VN và lập ở đây, một phái Thiền đầu tiên.

Đời Khai Hoàng nhà Tùy, Tổ Tăng Xán thu nhận một đệ tử, mới 14 tuổi tên Đạo Tín, rồi 9 năm sau truyền Y Bát. Năm 602, Tổ Tăng Xán viên tịch dưới một gốc cây trong chùa Sơn Cốc ở Sơn Thu, sau một buổi giảng pháp.

+ Đạo Tín: Tổ Thứ Tư

Sinh năm 580 tại Huyện Quảng Tế thuộc Kỳ Châu, họ Tư Mã, xuất gia từ năm 14 tuổi. Ngay khi còn nhỏ tuổi, Tổ Đạo Tín đã lặn lội khắp nơi để tìm đạo, cuối cùng gặp được Tổ Tăng Xán ở Tư Không. Nhờ vậy mới được khai ngộ và truyền Y Bát. Năm 33 tuổi, đang lúc cùng với các môn đồ, giảng pháp trong thành Kiết Châu thì bị giặc Tào Võ Vệ, đến đánh và vây khổn thành. Tổ Đạo Tín đã cùng dân chúng trong thành, trì niệm “Ma Ha Bát Nhã”, nâng cao tinh thần chiến đấu, làm giặc phải lui. Từ năm 619 về sau, Tổ chu du khắp nơi để giảng và truyền đạo, lúc thì ở Loa Xuyên, khi về Phá Đầu-Kỳ Xuân và giác ngộ cho Thiền Sư Pháp Dung.

Về sau, trên đường tới Huyện Hoàng Mai, Tổ gặp được một đứa bé mới 7 tuổi nhưng dung mạo và khí phách khác thường. Tổ bèn xin làm đệ tử, đặt tên là Hoằng Nhẫn và sau đó truyền Y Bát. Thời gian này, vua Đường Thái Tông nghe tiếng, sai sứ triệu thỉnh nhưng Tổ từ chối. Năm 651, Tổ Đạo Tín qua đời, thọ 72 tuổi, trong thế ngồi kiết già, sau khi dặn dò mọi việc với các đồ đệ.

+ Hoằng Nhẫn, Tổ Thứ Năm

Sinh tại Châu Kỳ, Huyện Hoàng Mai vào năm 602. Theo truyền thuyết, Tổ là con của một người con gái họ Châu, vì không chồng mà mang thai, nên bị gia đình đuổi phải sống lang thang khắp nơi, trước khi sinh ngài. Tổ Hoằng Nhẫn có dáng dấp xinh đẹp như con gái, lại thông minh phi thường. Năm lên 7 tuổi, được Tổ Đạo Tín thu nhận làm đệ tử và truyền Y Bát. Kế thừa chưởng môn tại núi Phá Đầu, khi sư phụ là Tổ Đạo Tín qua đời, rất được nhiều người mến mộ nên xin theo học đạo rất đông.

Năm 670, Tổ thu nhận một đệ tử tên Lư Huệ Năng, nhờ một bài kệ nói lên được tinh túy của Phật Pháp, nên Tổ truyền tâm ấn và Y Bát, rồi Tổ bảo lui về ẩn ở phương Nam để tránh bị kẻ khác ganh tị ám hại. Năm 674, Tổ Hoằng Nhẫn thọ 74 tuổi, qua đời khi ngồi kiết già.

+ Huệ Năng: Tổ Thứ Sáu

Sinh tại Lĩnh Nam, tỉnh Quảng Đông năm 638 nhưng mồ côi cha từ năm 3 tuổi, nên phải làm lụng vất vả, kể cả vào rừng đốn củi để nuôi mẹ. Năm 24 tuổi, khi bán củi, ngang qua nhà nghe được câu kinh “Ưng Vô Sở Trụ, Nhi Sanh Kỳ Tâm”, nên phát tâm, về nhà xin mẹ qui y tòng đạo,với Tổ Hoàng Nhẫn. Mặc dù chỉ được giao việc hỏa đầu vụ trong bếp, nhưng Ngài không vì thế mà bất mãn hay xao lãng Phật Pháp. Một hôm, Tổ Hoằng Nhẫn khảo nghiệm trình độ môn đồ, Ngài Huệ Năng cũng có tới dự và sau khi nghe được bài kệ của Sư Huynh, một cao tăng uyên bác, tên Thần Tú:

“Thân như cội Bồ Đề,
Tâm như mặt gương sáng
Phải siêng năng tưới trồng
Và lau chùi, đừng để bụi bặm”

Ngài Huệ Năng nghe xong, bèn họa lại nhưng vì không biết chữ, nên nhờ người, viết trên vách nhà bếp:

“Bồ Đề vốn không có cội
Gương sáng cũng chẳng có mặt
Xưa nay chẳng có gì
Thì bụi bám vào đâu.”

Nhờ bài kệ này mà ngài được Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm pháp và Y bát và bảo phải chạy về phương nam để lánh họa. Quả nhiên, trên đường Tổ Huệ Năng, bị nhà sư Huệ Minh, dẫn tăng chúng đuổi giết để giựt lại Y Bát, nhưng trước thần sắc uy nghi, ung dung, đã thu phục được Huệ Minh và mọi người làm đồ đệ.

Đầu tiên, Tổ Huệ Năng ở Tào Khê nhưng vẫn không yên, phải lánh qua Hoài Tập và Tứ Hội. Để tránh kẻ thù truy sát, suốt 4 năm, ngài phải giả làm thợ săn để giấu tung tích và đi lần hồi về nam. Tại chùa Bảo Lâm ở Triều Khánh, Tổ Huệ Năng lưu lại một thời gian dài nhưng phải đợi tới năm 676, tại chùa Pháp Tịnh, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Tổ Huệ Năng mới được thừa nhận, xuống tóc, đồng thời khai mở Pháp Môn Đông Sơn. Năm 677, Tổ được hằng ngàn Phật tử đón rước trọng thể, khi trở lại chùa Bảo Lâm, ở Tào Khê.

Năm 713, Tổ Huệ Năng về lại chùa Bảo Ân, sau đó được vua Đường đổi là chúa Quốc Ân ở Tân Châu và qua đời khi 75 tuổi. Hiện nhục thân của Lục Tổ vẫn còn ở chùa này. Vì tuân theo di chí của Ngủ Tổ Hoằng Nhẫn, mà mọi người cũng đã biết “Y Bát là cái gốc của tranh chấp, tương tàn”. Vì vậy dù có rất nhiều đệ tử tài đức, nhưng từ Lục Tổ trở về sau, Thiền Môn chỉ truyền tâm pháp cho Chưởng Môn, mà không còn truyền Y Bát.

3- Từ các giai thoại thiền tới kịch No trong Zen của Nhật Bản

Từ khi Đạt Ma Sư Tổ đốn ngộ rồi phát sinh ra Phật Giáo Thiền Tông tại Thiếu Lâm Tự, chẳng những gây ảnh hưởng sâu đậm khắp Trung Hoa, mà còn bành trướng mọi vùng Á Đông như Cao Ly, Việt Nam, Nhật Bản. Trên đất Phù Tang, Thiền Tông chẳng những đã in sâu trong tâm trí và đời sống của mọi người, mà còn là những dấu ấn trong sinh hoạt nghệ thuật, văn hóa. Sân khấu NO hay Kịch Thiền của Nhật, ra đời giữa thế kỷ 14-15, trước khi hai nền kịch dân gian Nhật là Kahuki và Bunraku, thành hình vào thế kỷ 17.

Thông thường một buổi trình diễn kịch No kéo dài tới 6 giờ với 5 vở liên tục, đã có sẵn từ thế kỷ 17. Trong chương trình, còn có những màn hài kịch, mục đích nhái lại những hoạt cảnh vừa diễn. Bởi vậy hài kịch phụ diễn trong NO, không giống như tính hài hước của Shakespeare, gây sự vui nhộn để pha phôi cuộc đời, mà là sự minh bạch sắc sảo, cực kỳ trọng thể, làm tương phản giữa hai sắc thái của thế nhân.

Tóm lại, đặc điểm của kịch No là sự khai phá thời gian và không gian, bằng những cách thức khác hẳn với mỹ học của Tây phương, nặng về phần kịch tính hơn là nội dung. Mặt khác, khi thưởng thức kịch, khán giả dù không thuộc giới trí thức, đủ trình độ để theo dõi lời kịch (Utai) nhưng nhờ sự quyến rũ của nghệ thuật trình diễn, luôn độc lập với cốt truyện, vẫn có thể làm thu hút mọi tầng lớp khán thính giả. Đó là những giọng nói kỳ quái, qua phụ họa của các âm cụ như sáo, trống nhưng quan trọng nhất vẫn là các động tác, của diễn viên chính, biểu diễn trên một tấm Tabi trắng, trải giữa sân khấu. Cuối cùng, tất cả chỉ còn lại sự tĩnh lặng và hư vô, như òa vỡ trong nỗi buồn rầu của tiếng sáo ảo não, cô độc và bơ vơ, chẳng khác như cánh chim bay lượn không ngừng nghĩ, mà vẫn không biết sẽ về đâu.

Ngoài ra Thơ trong kịch No, cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của Thiền Kịch Nhật Bản. Đó cũng chỉ là lối thơ thông thường của người Nhật, có từ 5- 7 vần xen kẽ, nhưng trong kịch No, thơ Thiền được gọi là Haiku, đã làm cho khán thính giả tự mình cảm nhận cuộc đời bằng chính tâm thức của riêng ta. Đó là một thế giới ngoại hạng, mà những thứ ngôn ngữ bình thường khó lòng vươn tới được. Điều này đã nói lên rất nhiều trong những bài thơ Haiku nổi tiếng của Thiền Sư Basho.

Đọc “Những nghịch lý của Thiền Học” (The Zen Paradoxes), khiến tâm hồn vô cùng thích thú về những giai thoại Thiền, vừa có duyên mà lại rất tình, làm cho người đọc càng muốn đọc để rồi tự mình suy tư tới mệt nghỉ. BÊN VŨNG NƯỚC LẦY LỘI, kể chuyện hai Thiền Sư trẻ, một ngày ra ngoài bổng bị mưa lớn. Bởi vậy con đường thật là lầy lội, vừa bùn vừa nước. Giữa lúc đó, trước mặt có một gái trẻ và đẹp, đang đứng co ro dưới mưa, lạnh run nhưng không dám lội ra vũng nước để sang phía bên kia đường. Ái ngại cho người, một trong hai Thiền sư trên, tên Tanzan, đã bồng người con gái đẹp qua đường. Còn thầy thứ hai là Ekido thì lặng thinh, không nói một lời. Đêm đó hai người ngụ tạm trong một túp lều trống bên vệ đường. Lúc này Ekido mới lên tiếng khiển trách bạn là tại sao đã tu hành, mà còn vướng vào chuyện đàn bà con gái? Nghe hỏi vậy, Tanzan đã trả lời: “Tôi đã bỏ người con gái đó bên vũng bùn từ hồi sáng. Sao thầy lại lôi cô ta đến đây làm chi?”

NI CÔ ESHUN tu tại một Thiền Viện trên nước Nhật, có nhiều nam tu sĩ và một ni cô trẻ tên Eshun. Giữa chốn Thiền Môn, tuy cô ăn mặc nâu sồng nhưng nhan sắc vẫn chim sa cá lặn, khiến cho nhiều nam tu sĩ phải động lòng. Trong số này, có một người bạo gan, dám viết thư tỏ tình và xin ni cô hãy tới nơi hò hẹn để anh ta thỏa lòng yêu nhớ. Nhận thơ, ni cô vẫn im lặng, không trả lời cũng như phản đối. Một ngày kia, đợi nam tu sĩ trên thuyết pháp xong, ni cô vội lên ngay trên bục giảng, nói to: “nếu Anh thật lòng yêu Tôi, thì hãy công khai, ôm Tôi và hôn trước mặt đám đông để tỏ lòng.” Dĩ nhiên, chàng tu sĩ nọ bỏ chạy và từ đó không còn thấy chàng ta nữa.

Tóm lại, từ những câu chuyện rời trên, cho ta thấy đằng sau các bi kịch đời, qua những trần trụi trong bối cảnh, ẩn hiện vẫn là sự giản dị của tư tưởng Thiền Tông, nhưng trong quá khứ cho đến nay đã trở thành một di sản quý báu, trong lòng hiện tại, chẳng những ngay tại Nhật mà còn khắp Á Châu và nhiều nơi khác trên thế giới.

4- Thiền Tông Việt Nam

Theo các câu chuyện truyền kỳ mạn lục, trong tác phẩm “Lĩnh Nam Chích Quái” và “Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục”, phần nào hé mở cho biết là Phật Giáo, đã có mặt ở VN từ các thời vua Hùng dựng nước. Tuy nhiên một cách chính xác hơn, Phật Giáo có trước Nho Giáo, nhưng không phải do các truyền giáo hay bậc chân tu, mà từ các thương buôn người Ấn và Chà Và. Họ là những tín đồ Phật Giáo, tới Giao Chỉ buôn bán, lưu trú, có khi kết hôn với người bản xứ. Do trên, những sinh hoạt của Phật giáo, cũng như các nghi lễ, như ăn chay, niệm Phật và nhất là lý thuyết “coi đời là bể khổ” rất phù hợp với tâm trạng của người VN lúc đó, đang sống trong gót sắt đô hộ của giặc Tàu phương Bắc.

Tuy nhiên dù là truyền thuyết, cho rằng Phật Giáo đã có thời Hùng Vương nhưng chắc chắn không phải là Thiền Tông, vì qua các câu chuyện thần kỳ, chẳng hạn như Chữ Đồng Tử và Tiên Dung, hay chuyện Man Nương... thấy các vị Phật đều có rất nhiều phép thần thông, gần giống như Phật Giáo Mật Tông tại Ấn Độ.

Căn cứ vào Phật sử, từ thế kỷ thứ II, mới có các vi Tăng Ni phái Đại Thừa, tới thuyết giảng Phật Pháp. Cũng từ đó về sau, đã phát sinh hai hệ phái: A Hàm (Agama) và Thiền Phái (Dhyana). Tóm lại, qua thời gian, có tám Thiền Phái đã phát triển tại VN:

a- Phái Tì Ni Đa Lưu Chi, do Thiền Sư người Ấn tên Vinitarusi, thành lập năm 580 tại Giao Châu. Thiền sư trụ trì tại chùa Pháp Vân, ở Cổ Châu-Long Biên. Thời kỳ này, đã có một tác phẩm đầu tiên của Thiền Học ra đới, đó là kinh “Tượng Đầu Tinh Xá’, có ý nghĩa rất thâm thúy, cao siêu, chủ đích ca tụng sự giác ngộ, như là tuệ giác, tâm thành, mà chữ viết và ngôn ngữ thường, không sao diễn tả hết. Phái này truyền tới năm 1231 thì dứt, qua 19 đời, trong đó có hai Thiền sư nổi tiếng nhất là Từ Đạo Hạnh và Vạn Hạnh.

b- Phái Vô Ngôn Thông: Được thành lập vào năm 820, do một Thiền Sư không rõ tên tuổi, đến từ Quảng Châu và trụ trì tại chùa Kiến Sơ, Làng Phù Đổng-Bắc Ninh. Là người trầm lặng, ít nói, Thiền sư chủ trương Phật tại tâm, nên con người có thể đốn ngộ trong khoảnh khắc, mà khỏi cần phải trải qua nhiều giai đoạn tu trì, hành xác. Ông cũng là người đầu tiên, phát triển phương pháp “Bích Quan Tọa Thiền”.

c- Phái Thảo Đường: Do Thiền sư Thảo Đường, người Tàu thành lập từ năm 1069. Ông vốn là một tù binh, bị bắt tại Chiêm Thành. Vua Lý Thánh Tôn, sau khi nhận biết, đã vội phong ông làm quốc sư.

d- Phái Trúc Lâm: Do Vua Trần Nhân Tôn thành lập từ năm 1278.

e- Phái Tào Động: Do Nhật Cư Thiền Sư, người Trung Hoa thành lập vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

f- Phái Liên Tôn: Du nhập vào VN từ thế kỷ XVI, do Thiền Sư Lâm Giác, từ Trung Hoa truyền vào, có trụ sở tại chùa Bà Đá và Liên Phái ở Hà Nội.

g- Phái Lâm Tế: Do Thiền Sư Nguyễn Thiều ở Quảng Đông, theo thuyền buôn vào Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và tu trì tại chùa Thập Tháp Di Đà ở Bình Định. Thiền sư chính là sư tổ của phái Lâm Tế, một thiền phái bành trướng rộng rãi nhất ở Miền Nam sau này.

h- Phái Liễu Động: Do Hòa Thượng Liễu Quán người Sông Cầu-Phú Yên, thành lập và phát triển mạnh mẽ tại Trung Việt. Ông cũng đã từng thọ giáo với các Hòa thượng Thạch Liêm (Trung Hoa) tại Thuận Hóa và Hòa thượng Từ Dung (Trung Hoa) ở Lạng Sơn. Ngài qua đời năm 1742.

Nói chung, xét theo kinh điển và phương pháp tu trì, thì Phật Giáo VN có 2 hệ phái Đại Thừa, chủ trương không câu chấp và nô lệ giáo điều, kinh sách. Trung đạo là tinh hoa của Phật giáo đại thừa (Giáo hội PG. Cổ Truyền, PG. Hoa Tông và PG. Tịnh Độ Tông). Tiểu Thừa chủ trương tự tu, tự độ, trọng văn tự, kinh sách, làm đúng theo lời Phật dạy, dùng kinh điển bắng tiếng Pali (Nam Phạn). Về phương diện nhận thức, Tiểu Thừa còn trong phạm vi hiện tượng, chưa vượt khỏi luận đề để vào bản thể luận như Đại Thừa. Tại VN, chỉ có Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) theo Tiểu Thừa.

5- Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Núi Yên Tử, cái nôi xuất phát của Trúc Lâm Thiền Phái, nằm cách Hà Nội chừng 200 km và Hạ Long 60 km. Tại thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Yên, đường dẫn vào núi, chỉ có 14 km theo hướng tây bắc, giữa những ruộng mía và vườn cây ăn trái. Hằng năm, nhà chùa đều có trẩy hội vào tháng ba âm lịch, thu hút nhiều thiện nam tín nữ, cũng như khách hành hương cả nước tới chiêm bái một thắng tích phi thường, trong dòng lịch sử của Hồng Lạc và Phật giáo Việt Nam.

Trước đây, do hình dáng từ xa nhìn giống con voi quay đầu về hướng biển, nên núi có tên là Voi. Đau đó được đổi thành Bạch Vân Sơn, bởi vì quanh năm suốt tháng, luôn có mây trắng, phất phơ trên đỉnh. Theo dân gian trong vùng thì từ thế kỷ thứ X, trên núi đã có một ngồi chùa Phật, do Đạo sĩ Yên Kỳ Sinh lập. Cũng theo truyền thuyết, vì tu hành thành tâm, nên nhà sư đã đắc đạo và lúc chết nhập vào một tảng đá. Cũng từ đó, núi có tên là Yên Tử, còn chùa thì gọi là Chùa Ông Yên, vẫn được lưu truyền tới ngày nay.

Trong quần sơn mang tên Yên Tử, ngày nay vẫn còn một tảng đá, nhìn như một bức tượng người, cao chừng 3, 5m. Tượng đứng uy nghi, sừng sững trên một độ cao 1000m, được coi như một chứng tích lâu đời nhất tại đây. Ngoài ra, một hệ thống chùa tháp, thuộc Thiền Phái Trúc Lâm, nay hầu như vẫn nguyên vẹn. Tất cả đều có một huyền thoại riêng, nhưng đầy nhân bản, được xây dựng vào năm 1299, khi Đại Đế Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn để đi tu. Trong sử Việt suốt mấy ngàn năm qua, chúng ta đã có nhiều minh vương, hiền tướng. Nên ngày nay phải gọi những vị vua có công lao hiển hách với đất nước, như Ngô Vương Quyền, Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn, Quang Trung Nguyễn Huệ... là Đại Đế, cũng là điều rất xứng đàng. Ngoài ra các danh tướng Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... ta phải dùng chữ Đức, kềm với tên họ để tỏ lòng tôn kính, các bậc vĩ nhân trên của đất nước. Nói chung di tích của Thiền Phái Trúc Lâm, coi như tập trung về phía đông của Yên Tử, nằm sát chân núi tới độ cao 1036 m.

Một con suối nhỏ nằm sát chân núi, xưa có tên là Hà Khê và được Đại Đế đổi là suối Giải Oan. Vẫn theo truyền thuyết, thì dòng suối này là chỗ mà 100 nàng cung nữ đã trầm mình, vì không được nhà vua cho phép hầu hạ bên mình. Do vậy, Ngài đã cho dựng một ngôi chùa sát dòng suối, trên cao độ 50 m, giữa một rừng cây u tịch để giải oan hồn linh của những người con gái. Đây còn có 5 ngôi tháp, lớn nhất là tháp mộ vua Trần Anh Tôn, Nhị Tổ Pháp Loa và Tam Tổ Huyền Quang.

Cũng từ đó, đường lên núi thật quanh co khúc khuỷu. Từ độ cao 300 m trở lên, lối đi được xếp thành các bậc đá, ôm theo sườn núi cheo leo. Rồi thì tới “Đường Tùng” là một lối đi rộng, hai bên có rừng tùng, uốn lượn, rợp bóng xanh tươi. Rừng này do chính Nhân Tôn Đại Đế trồng khi đến tu tại núi Yên Tử. Hiện tất cả đã trở thành cổ thụ, dù vậy vẫn xanh tốt uy nghi sau 700 tuổi thọ, trong lúc đã có nhiều Tháp Chùa ở đây, sắp thành phế tích. Hiện trên núi Yên Tử còn 274 cây tùng, chia thành 3 loại: Thanh Tùng, Mộc Tùng và Xích Tùng.

Tại cao độ 400m, có Hòn Ngọc là một gò đất rộng, bằng phẳng. Đây còn có tên là Hạ Kiệu, mà theo truyền thuyết, thì tất cả vua quan nhà Trần, kể cả sứ bộ ngoại quốc thời đó, khi tới vãng cảnh chùa, đều phải xuống kiệu, để đi bộ leo núi, tới bái yết Nhân Tôn, tu trên núi Hoa Yên, ở độ cao 700m. Ở đây có Tháp Tổ Huệ Quang cao 6 tầng, đứng sừng sững với 97 ngôi tháp khác bao quanh. Đây là nơi yên nghỉ của hầu hết các vị tu hành đời nhà Trần. Bên trong Tháp Tổ, nơi tầng thứ nhất có tượng Nhân Tôn Đại Đế, cao 0, 62m tạc bằng đá trắng, ngồi trên tòa sen, hai tay đặt trên đùi. Bức tượng này theo sử liệu, do một điêu khác gia thời Hậu Lê, dựa vào chân dung khái quát của nhà vua, từ sử sách mà tạc. Đây cũng là một tác phẩm điêu khắc của Phật Môn, duy nhất từ xưa còn lại nguyên vẹn.

Cùng nằm trong Khu Tháp Tổ, về phía sau là ngôi chùa Hoa Yên, được coi là đẹp, lớn và bề thế nhất trong hệ thống chùa tháp tại đây. Chùa được tu sửa nhiều lần, mà hai đợt quan trong nhất còn ghi trong sử sách, vào năm Vĩnh Thịnh (1358) và Vĩnh Khánh (1732). Riêng ngôi chùa hiện này được trùng tu lần cuối cùng vào thời Nguyễn, nhưng vẫn kiến trúc theo cung cách của đời Trần-Hậu Lê. Đây là nơi nhà Vua thuyết pháp cũng như tiếp kiến triều thần khi đến vãng cảnh chùa.

Từ cao độ 700 trở lên, dọc đường còn có nhiều chùa am và cuối đỉnh ở độ cao 1036m, là một ngôi chùa rất đặc biệt, gọi là chùa Thiên Trúc hay là chùa Đồng, vì được đúc bằng đồng, cao 1,35m, rộng 1,4m và dài 1,4m. Ở đây, mắt có thể nhìn khắp bốn hướng, từ vịnh Hạ Long, thành phố Hải Phòng, cho tới Bạch Đằng Giang, chập chùng sông nước, xa tít ngoằn ngoèo, cho tới tận biên giới Việt-Hoa ở phía bắc. Cảnh vật ở đây thật là muôn trùng bát ngát, tĩnh lự đến độ, có thể nghe cả tiếng chim non ríu rít ở trong rừng.

+ Trần Nhân Tôn, Tổ sư thiền phái Trúc Lâm

Ngài sinh năm 1258, con vua Trần Thánh Tôn. Năm 21 tuổi lên ngôi vua, cùng với Thượng Hoàng và các tướng lãnh Nhà Trần như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Bình Trọng, Phạm Ngủ Lão... đã hai lần đánh đuổi quân Mông Cổ, khỏi non sông Đại Việt, tạo nên một chiến công hiển hách trong dòng sử của nhân loại.

Thuộc gia đình sùng đạo, nên từ thuở nhỏ, Nhân Tôn đã từng theo Vua Cha, lên chơi núi Yến Tử. Rồi thời gian làm vua, Ngài lại thường thăm viếng dân tình khắp nơi, bài trừ những tệ đoan xã hội cũng như tham quan ô lại. Đồng thời giảng giải Phật Pháp để giáo hóa dân chúng. Với sự hiểu biết sâu rộng và nhìn xa, nên đã tìm thấy ở Phật Giáo, như là một vũ khí sắc bén để cách mạng xã hội, giải phóng con người khỏi những bi kịch đời, vì sinh, bệnh, lão, tử... Ngài đã đúc kết và viết thành những tác phẩm về Phật Học, rất nổi tiếng, hiện còn truyền tụng như Thiền Tâm Thiết Chủy Ngũ Lục, Truyền Đăng Lục, Thạch Thất Nay Ngữ... Nói chung, với đấng Minh Quân như Nhân Tôn, thi “Trong Nhân Gian có người còn đói khổ, thì Trẫm làm sao mà yên lòng?”.

Trước đó Phật giáo là yếu tố liên kết nhân tâm, quốc giáo của Đại Việt độc lập, tự chủ. Nhưng phải tới Tổ thứ sáu của Thiền Phái Yên Tử, Dân Tộc VN và Phật Giáo mới chính thức, bất khả phân ly và chung dòng sinh mệnh. Vua Trần Nhân Tôn hay Trúc Lâm Đầu Đà, chính là nhân vật lịch sử đã xây dựng một nền Phật Giáo VN và nhập thế tích cực, lấy tư tưởng và tinh thần dũng hoạt, siêu thoát của Thiền Tông Đại Thừa, làm căn bản hành động... Do trên, thiền phái Yên Tử trờ thành Trúc Lâm thiền phái, và Lục Tổ của Yên Tử, tức Vua Nhân Tôn, cũng là Tổ thứ nhất của phái này.

Năm 1293, dù chỉ mới 35 tuổi nhưng Ngài đã nhường ngôi vua cho con là Trần Anh Tôn. Từ đó về Phủ Thiên Trường (Nam Định), chuyên việc soạn kinh sách và truyền giáo. Năm Hưng Long thứ 7 (1299), vua Nhân Tôn chính thức xuất gia tại núi Yên Tử, lấy pháp danh là Điếu Ngự Giác Hoàng, chính thức lập Thiền Phái Trúc Lâm.

Ngô Thời Nhiệm, một đại thần nhà Hậu Lê, cũng thuộc Phái Trúc Lâm, đã viết: “Tam Tổ lấy từ bi làm thế, lấy quảng đại làm dụng, đồng đức với trời đất, hợp mình với Nhật Nguyệt. Có cái thanh rất chính, có cái hưởng là dài. Phật như Trúc Lâm Tam Tổ, chỉ lấy ngôn ngữ đạo lý mà giáo thế. Đó mới thật là nền tảng Phật Học: Đời và Thiện tại tâm.” Nhân Tôn, tổ thứ nhất qua đời năm 1308. Thiền Phái Trúc Lâm được nối tiếp Tổ Thứ Hai là Pháp Loa và Huyền Quang Tam tổ.

Tóm lại như Quốc Sư Trúc Lâm, thầy của Vua Trần Thái Tôn, thì trong núi vốn không có Phật mà Phật chính ở trong tâm ta. Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện. Đó chính là Phật. Đời là có có không không, bởi vậy Vua Trần Thái Tôn đã từ bỏ ngai vàng xã tắc, vinh hoa phú quý, như bỏ một đôi giầy rách. Riêng thế nhân đời đời kiếp kiếp, không thoát ra khỏi cái vòng danh lợi, chỉ vì:

“Lưỡi vướng vì ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết quê xa, vạn dặm đường.
(Trần Thái Tôn).

Nhân gian ai cũng đã bước và vói tới cõi thiền rồi nhưng ít người biết nghe, là nghe được những tiếng vô thanh, ít người biết nhìn là nhìn được thế giới nội tâm. Đằng sau những bi kịch đời, lại là lối dẫn về cõi Thiền. Đó là nghệ thuật tự nhìn vào bản tính mình, một thế giới mênh mông kỳ lạ, mà ta không thể nghe ngó, bằng các giác quan của người trần tục.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, vinh hoa phú quý và hạnh phúc gia đình, để cùng đời sống khổ. Theo chân Đức Thế Tôn, trải dài bao thế kỷ và mãi mãi về sau, đã có không biết bao nhiêu vĩ nhân một đời vì nước như Thánh Gandhi ngày trước hay Đức Đạt Ma Lạt Ma của Tây Tạng hiện tại, làm cho chiếc áo vàng của Phật Giáo càng ngày càng tỏa sáng hào quang dưới ánh mặt trời, vì đó là biểu tượng của trí tuệ tâm linh và tự do nhân quyền. Với dân tộc VN, Phật Giáo đã và đang đồng hành suốt dòng sông lịch sử, ngay từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, tới ngày nay, đã góp không biết bao nhiêu máu xương để cùng với đồng bào, trải qua bao đời giữ và dựng nước.

Sư ông Nhất Hạnh nếu thật tâm lấy tình yêu để chiến thắng hận thù và đoàn kết, thì đất nước VN ngày nay đâu còn phải sống nhục nhã, lầm than và phân chia giai cấp, do chủ nghĩa cộng sản áp đặt. Xưa nay người đời nổi tiếng nhờ sự nghiệp an dân lợi nước, còn sư ông Nhất Hạnh thì tự mình làm cho mình nổi tiếng hơn 40 năm qua, khi tự mình vạch áo cho người xem lưng, nhận rõ chân tướng. Cuối cùng như lời nhận xét của GS Lưu Trung Khảo trong cuộc thảo luận của Hội ký giả VN Hải Ngoại về sư ông Nhất Hạnh, vào tháng 10-2001 tại Nam CA: “Cần phải có ranh giới rõ ràng giữa Thế Quyền và Thần Quyền. Một nhà tu có bổn phận hướng dẫn đệ tử đi vào con đường lương hảo. Nhưng nếu nhà tu hành bước sang lãnh vực chính trị, thì người ấy sẽ bị phán xét với tư cách là một công dân, chứ không phải là một tu sĩ”.

Nhưng nhức nhối nhất vẫn là lời của Hòa Thượng Huyền Tôn nói thẳng với giáo chủ Bụt Đạo “... sư ông Nhất Hạnh, sư bà Chân Không đã tách ra khỏi Phật Giáo để lập đạo Bụt Làng Mai thế giới, thì cứ tha hồ an lạc với cái Bụt chân không của mình. Đây là cái quyền tự do lập giáo phái hay tự tôn xưng, không ai ngăn cản... Nhưng cái quyền riêng của mọi người kính trọng hay khinh bỉ, chắc là cũng chẳng làm sao ngăn cấm ai được... “

Tóm lại sư ông Nhất Hạnh đâu phải là một tu sĩ hay còn dính dáng gì tới Phật Giáo, nên đâu có quyền nhân danh hay đại diện cho ai, trong chuyến đi về nước, để lập đạo tràng giải oan, mà giải oan cho ai. Trong khi đó VC cũng đâu có lên tiếng giải thích hay yêu cầu; còn người dân cả nước suốt năm qua đã hứng chịu không biết bao nhiêu thiên tai, bão lụt, nhất là tỉnh Bến Tre. Nên thứ cần thiết mà họ cần lúc này như Hòa thượng Quảng Độ đã kêu gọi “Đó là sự cứu trợ”, chứ không phải là phô trương hình thức, mà thiên hạ trong cũng như ngoài nước đã chán ngấy tới tận xương tủy từ mấy chục năm qua. -/-

Xóm Cồn
Tháng 2-2007
Mường Giang


---

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

CHUYỆN DÀI CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH:

TỪ HOA SEN TRONG BIỂN LỬA
TỚI
VỀ VIỆT NAM LẬP TRAI ÐÀN GIẢI OAN ?
MƯỜNG GIANG

Từ những trang sử liệu, ta biết được VN là một quốc gia, một dân tộc bao đời, sống đẹp qua hình ảnh “ Việt Ðiểu Sào Nam Chi “, khác hẳn với người Tàu trong vấn đề thờ kính thần linh nơi trần thế. Ðó là Việt-Ðạo, mà muôn đời, không phải chỉ biết có Phật hay Chúa duy nhất như nhiều người lầm tưởng, vì người Việtợ còn thờ kính các bậc anh hùng liệt nữ của Dân Tộc mình, tạo nên bản chất bất khuất,quật cường.Tại Ðền Ngọc Sơn, nằm giữa Hồ Hoàn Kiếm, tại Hà Nội, vỏn vẹn chỉ có ba bệ thờ :Chính giữa thờ Hưng Ðạo Ðại Vương-Trần Quốc Tuấn, bên tả thờ Phật và bên hữu là Thần Nước và Ðất. Về phí tây bắc, trên đĩnh Hồng Lĩnh có Ðền Hùng được coi là Tổ của Dân Tộc Việt Nói chung trên mọi nẻo đường đất nước, nơi nào người Việt cũng thờ kính giống nhau : Các Vị Anh Hùng Liệt Nữ, đã hy sinh cho Dân Nước, trải dài trong hai chục thế kỷ lập quốc, chống ngoại xâm Tàu, Pháp, Nhật và Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế. Bên cạnh là niềm tin đối với Phật, Chúa, Trời Ðất và các vị Thánh Hiền .

Về triết lý nhân sinh, quan niệm của Người Việt cũng khác với Tây Phương (bao gồm Cộng Sản), luôn cho rằng uy quyền chính trị, không phải tự trên trời rớt xuống, mà phải dành đoạt bất chấp thủ đoạn, khiến cho người khác khiếp sợ, phải cúi đầu làm theo ý mình. Trái lại ở VN, ngoài các vị thần linh đã có sẵn trên bệ thờ, bất cứ ai muốn trở thành lãnh tụ, chính trị hay tôn giáo, trươc hết phải góp phần hy sinh cho đất nước, dân tộc, điển hình như Ðức Huỳnh Phú Sổ, Ðức Phạm Công Tắc.. Bởi vậy, nên Tể Tướng Lữ Gia , đã giết Triệu Ai Vương và Cù Thị, cũng vì lo cho nước. Hồ quý Ly và Mạc Ðăng Dung, tuy cướp được ngôi nhà Trần và Hậu Lê, nhưng lòng người cả nước, vẫn nhớ về công đức đánh đuổi giâc Mông Cổ, cùng với giặc Minh, của các vị Vua Trần và Bình Ðịnh Ðịnh Vương Lê Lợi. Tình trạng trên có khác đâu lòng người Việt tị nạn cọng sản, khắp nơi trên thế giới, từ sau ngày 30-4-1975, dù đang sống lưu lạc khắp quê người, vẫn luôn nhớ về quê mẹ và căm thù Rợ Hồ, khinh bĩ bọn Việt Gian, lũ đội lớp tôn giáo Miền Nam(hiện nay đang nhởn nhơ trộn trấu trong hàng ngũ người Việt tị nạn Hải Ngoại), một thời đã tiếp tay CS, đâm sau lưng người Lính Trận, làm cho cả nước phải sống trong vũng bùn nô lệ của xã nghĩa thiên đường, từ ấy đến nay. Nên đừng bao giờ vọng tưởng, khi thấy người VN, trước mặt mình, đã xưng con, kính cha, thưa thầy, mà nghĩ rằng mình đã trở thành lãnh tụ, rồi muốn làm gì thì làm...

Hai ngàn năm lịch sử dựng và giữ nước, Phật giáo từ khi du nhập vào VN ngay đầu thế kỷ thứ 1 sau tây lịch, đã đóng góp lớn lao cùng dân tộc trong công cuộc chống xâm lăng. Chính các vị thánh hiền, cao tăng Phật giáo bao đời như Vạn Hạnh, Viên Thông, Phù Vân, Thạch Liêm, đã tạo nên những minh quân, dũng tướng như Lý Thánh Tôn, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn, Trần Hưng Ðạo, Trần Khắc Chung, Nguyễn Trải, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Phúc Chu.. một lòng vì dân cứu nước, làm cho đạo-đời thuần từ, nhân dân no ấm, hơn bao giờ hết.Những nhân vậi minh triết Phật giáo trên, mới đáng được xưng tụng là CAO TĂNG, THÁNH TĂNG và được các sử gia khi đề cập trong các trang Việt Sử, bằng sự trang trọng, khi thêm vào chữ “ ÐỨC “, giống như Ðức Phật Tổ, Ðức Chúa Trời, Ðức Trần Hưng Ðạo, Ðức Huỳnh Phú Sổ. Nhà sư Thích Nhất Hạnh, tuy lớn tuổi nhưng không phải là cao tăng, vì không làm được bất cứ điều gì có lợi ích cho quốc gia dân tộc.

Nói một cách khác, đối với người Phật tử thuần thành, biết tuân theo ngũ giới và sự đốn ngộ “ trong núi vốn không có Phật, mà Phật ở chính trong tâm ta. Nên dù kính Phật, trọng Tăng, nhưng không phải vì thế, mà ai cũng mù quáng u mê, cúi đầu nghe theo những lời thuyết giảng vu vơ, đi ngược với luân thường đạo lý, cũng như luôn tuyên truyền dụ dỗ chúng sanh, đầu hàng kẻ thù bán nước Việt Cộng, của một ít sư ni buôn thần bán Phật, luôn cuồng điệu gây chia rẽ giữa các tôn giáo. Trong số này, lừng lẫy nhất vẫn là nhà sư Thích Nhất Hạnh, qua tục danh Nguyễn Xuân Bảo, từ lúc còn ở trong nước cho tới bây giờ trở lại nước hai lần, theo đơn đặt hàng của Bắc Bộ Phủ, tư tuởng và lâp trường làm lợi cho VC của y , vẫn không hề thay đổi.

Không ai có thể tắm hai lần, dưới cùng một dòng nước. Ðó là chân lý nhưng thảm trạng của Phật Giáo VN, từ mấy chục năm qua, lại đi ngược với chân lý trên, khi hai lần cùng tắm trong biển lửa, do VC gây ra. Ðúng như Nhất Hạnh đã viết” Hoa Sen Trong Biển Lửa “, nói về cuộc khủng hoảng của Phật Giáo, từ sau binh biến 1-11-1963 cho tới ngày mất nước 30-4-1975. Sau đó cho tới bây giờ, khi ông bà giáo chủ Bụt Ðạo dẫn tăng chúng Làng Mai, về VN nói là ‘ Lập Trai Ðàn Giải Oan ?? ‘, cũng đã chơi trò “treo đầu dê ban thịt chó “, dùng miệng lưỡi lắc léo, qua chỉ đạo của Ủy Ban Tôn Giáo Trung Ương trong Nghị Quyết 36, để che đậy chạy tội và giải độc, cho VC trong hành động hủy diệt mọi tôn giáo hiện nay tại VN. Tất cả hành động của nhà sư Nhất Hạnh, quả thật không khác gì chuyện trồng cây ngược đầu. Mặc dù vậy cũng chẳng che dấu được ai và được lâu, vì quốc dân và bia miệng đã có lời phán xét cuối cùng rồi. Năm 1965, Nhất Hạnh đổ thừa cho chính quyền VNCH đàn áp Phật Giáo, để che chở tội lỗi của một số kiêu tăng loạn sư và VC. Bây giờ, Nhất Hạnh cùng Cao Ngọc Phượng, tức Thích Nữ Chân Không, qua cuôc phỏng vấn của báo Pháp và báo chí ngoại quốc, lại trơ trẽn láo xược, khi chụp cho Giáo Hội PGVNTN tại Hải Ngoại, vì tôn trọng Lá Quốc Kỳ “ Màu Vàng Ba Sọc Ðỏ “ của Quốc Dân VN, chống lại VC, nên mới bị bạo quyền cấm không cho hoạt động ở trong nước, từ sau ngày 30-4-1975 tới nay, chứ không hề có việc đàn áp tôn giáo, hủy diệt nhân quyền, như báo chí đã bôi bác. Tóm lại việc sư về VN lập trai đàn, cũng chỉ với mục đích ‘ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc ‘, có vậy thôi !

1. Hoa Sen Trong Biển Lửa, Từ 1964-1975 tại VNCH:

Nói gì thì nói, từ sau ngày binh biến1-11-1963 cho tới ngày mất nước, mất đạo sau tháng 4-1975, Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất tại Miền Nam VN, đã thăng hoa rực rỡ, nếu đem so sánh với thời kỳ từ năm 1954 trở về trước, hay với Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh của Bắc Việt từ 1945-1975, vì đã thực hiện rất nhiều công trình lợi ích cho xã hội nhất là lãnh vực giáo dục. Từ năm 1964, Viện Hóa Ðạo hoạt động rất mạnh, đào tạo được một số tăng ni trẻ tuổi, có kiến thức văn hoá và Phật pháp cao và đã trở thành những cao tăng, học giả, kiến thức cũng như đạo đức vang vong khắp năm châu. Nhiều người trong số này, được gởi sang tu học tại Ấn Ðộ, Tích Lan, Nhật, Pháp kể cả Hoa Kỳ. Khắp nơi chùa chiền được tu bổ cũng như xây dựng, nổi tiếng như các chùa Việt Nam Quốc Tự, Vĩnh Nghiêm.. Tại các tỉnh thị, thành phố kể cả các thị trấn lớn, từ bên này cầu Hiền Lương-Quảng Trị, vào tận Cà Mau, Hà Tiên.. ở đâu cũng có các Khuông Hội Phật Giáo và các trường tiểu-trung học Bồ Ðề. Theo thống kê của Tổng Vụ Giáo Dục, thuộc Viện Hóa Ðạo, tính tới ngày 16-6-1967, khắp Miền Nam đã có 80.000 học sinh tiểu trung học, do 400 giáo chức, dạy dỗ tại 112 trường Bồ Ðề. Ngoài ra Ðại Học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, cũng đã được khai giảng từ niên khóa 1967, do sư ông Thích Minh Châu ( Ðinh Văn Nam) làm viện trưởng. Bên cạnh còn có thượng tọa Thích Thiện Ân, tốt nghiệp tại Mỹ, là khoa trưởng Văn Khoa và Nhân Văn. Vì nhà trường áp dụng theo lối giáo dục Hoa Kỳ, nên cấp tín chỉ hằng ba tháng.. nên sinh viên theo học rất đông, để có điều kiện hoãn dịch, khỏi đi lính. Sau tháng 5-1975, tất cả các cơ sở cũng như chùa chiền, nhà thờ của Phật giáo, đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Ðài, Phật Giáo Hòa Hảo. đều bị giặc cướp giựt tích thâu, để đảng làm của riêng hay công sở. Nhiều chức sắc tôn giáo, bị giam tù đến chết nơi ngục thất, trong số này có nhiều tuyên uý, khi bị gạt đi học tập cải tạo tận các trại giam ngoài Bắc.

Ngày nay, ngồi đọc lại những bài báo cũ của Lý Chánh Trung, đăng rải rác trên các tờ Ðất Mới, Ðối Diện, Ðiện Tín, Tin Sáng, Lập Trường.. công khai nhục mạ, chống đối chính quyền Miền Nam VN, đồng thời hết lòng trung hiếu, ca tụng Hồ Chí Minh và VC, ta mới thấy thấm thía về cái giá tự do, mà người VN từ sau ngày 30-4-1975, đã đổi bằng máu lệ, vàng tiền cùng sinh mạng, khi liều chết vượt biển tìm tự do trên biển Ðông. Tất cả đều là tội lỗi oan nghiệt, qua những tiếng khóc nức nở, của các nạn nhân chiến tranh trong suốt 20 năm qua, mà khởi nguồn từ những con người “ ăn chay niệm Phật hay tay lần chuỗi hạt, sau lớp áo chùng “.Có đọc Thế Giới Mới số 220, xuất bản tại thành Hồ ngày 20-1-1997, mới nghe chính miệng nhà sư Thích Trí Dũng, hiện đang sống ngất ngưởng sang giàu, trong chùa Một Cột tại Thủ Ðức, khoe thành tích. Nhờ đó, ta mới biết được sư hổ mang, đã cậy nắp mồ Ngô Ðình Cẩn, chôn trong chùa Phổ Quang, kế nghĩa trang Bắc Việt, trong vùng Tân Sơn Nhất, để dấu vũ khí và nuôi tướng VC tên Trần Hải Phụng và đặc công Nguyễn Văn Bá. Trong trận Mậu Thân 1968, sư khoe là đả dùng xe của mình, để chở VC và súng đạn tấn công Sài Gòn, vì không ai lúc đó, dám xét xe hay chùa, nhà thờ của các sư ni cha cố, được coi như các Thái Thượng Hoàng của chế độ đương thời. Có đọc Kiến Thức Phục Vụ Thuyết Minh Du Lịch, phát hành tại thành Hồ năm 1995, mới biết trong suốt cuộc chiến 1955-1975, hai ngôi chùa cổ kính nhất tại Sài Gòn là Giác Lâm Tự, trong vùng Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình và chùa Giác Viên ở Bình Thới, qua các nhà sư Hồng Hưng Thiện Thuận, Minh Nguyệt.. là cơ sở hậu cần, chứa nuôi cán bộ và giữ công tác tình báo nội thành. Có đọc Hồi Ức của Mặt Trận GPMN, phần của Phan Nhẫn viết, mới biết được hành vi theo VC của sư ông Thích Thiện Châu và sư bà Mạn Ðà La, tự xưng là đại diện cho lực lượng thứ ba tại Pháp. Sư ông đã theo chầu ‘ bác ‘ năm 1998, còn sư bà, sau màn tranh chấp tài sản của sư ông để lại, với VC nằm vùng Phạm Trọng Chánh,trong trường TH.PBC.PT. Sự xấu xa này, đã được báo Tiền Phong bên Mỹ , tố cáo tùm lum, nhờ vậy nên ai cũng biết. Tuy nhiên sư bà Mạn Ðà La, cũng đã vơ vét được nhiều của bá tánh đóng góp, chuyển về tu tiếp tại Hà Nội, để đêm ngày được gần gũi tụng kinh siêu độ, cho ‘ bác ‘, dù xác còn nằm chình ình trong hòm kính Ba Ðình, mà thân đang cùng với lũ hung thần Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Tôn Ðức Thắng, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh.. chịu muôn hình phạt nơi ngục tù A TỲ thảm tuyệt. Ngoài ra, cũng qua tài liệu trên, ta còn biết thêm cha cố Nguyễn Ðình Thi, trong “ Fraternité Vietnamienne “ , Trương Bá Cẩn.. ở Ba Lê, công khai theo VC. Năm 1969, khi Hồ Chí Minh theo Lê-Mác về cõi A Tỳ, chính các cha cố Nguyễn Ðình Thi (Pháp), Vương Ðình Bích (Tây Ðức) và Trần Tam Tỉnh (Canada).. đã lập đàn cầu nguyện cho quỷ vương, rất là trọng thể.

Huế muôn đời vẫn còn đó, nên ai làm sao có thể quên được những tên tuổi trí thức đương thời như Lê Khắc Quyến, Nguyễn Tuyên, Bùi Tường Huân, Nguyễn Duy Tài, Trần Quang Thuận… và Ðai Học Huế, với một số sinh viên theo VC, lợi dụng tự do tín ngưỡng và nền dân chủ pháp trị phôi thai của VNCH, để “ dùng chính quả tim mình, làm trái phá mở đường rước xe tăng và bộ đội Hà Nội, vào đô hộ dân tộc “.Huế những năm chống Mỹ cứu đảng, từ 1964-1967 qua các sinh viên VC nằm vùng trong đại học như Trần Quang Long, Ngô Kha, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Lê Minh Trường, Nguyễn Ðắc Xuân, Nguyễn Khoa Ðiềm.. Những người này, đến đại học trốn lính và mượn phương tiện Quốc Gia, để vót nhọn thơ thành chông, xuyên qua gan lính trận đang bảo vệ mạng sống cho mình. Cũng sẽ mài thơ như kiếm sắc, chặt đầu đồng bào Miền Nam, theo đạo Thiên Chúa tại Huế, Ðà Nẳng, để đào sâu thêm sự chia rẽ lương giáo. Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, tên phản tặc sát nhân đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân 1968, đã vênh váo thừa nhận là, bọn chúng chỉ lợi dụng sự học hành, để tranh đấu, nổi loạn, ném lựu đạn đuổi Mỹ, chống Quốc Gia, hoàn thành sự nghiệp rước cọng sản về dầy mã tổ Hồng Lạc, như ngày nay chúng ta đã thấy. Tóm lại sự nhục nhã của một thời loạn lạc, nay đã là một pho sử miệng, muôn đời cười chê đám trí thức no cơm ấm cật, nên không biết làm gì hơn bằng làm tay sai cho giặc, đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào mình, để sau này danh bia trang sử VC.

Trong lúc cọng sản Bắc Việt đêm ngày tấn công VNCH trên khắp các mặt trận, kể cả tại Sài Gòn cũng như các thành phố lớn khác. Người lính VNCH lúc đó vừa phải trực diện đối mặt với cái chết từng giây phút tại mặt trận, để bảo vệ mạng sống ký sinh cặn bã của bọn phản chiến, thiên cộng, đang ẩn núp khắp nơi ở hậu phương, trong chùa, nhà thờ, tòa soạn, trường học.. Bọn này đang sống như người ngoại cuộc, dửng dưng trước sự đau khổ chết chóc của đồng bào, dù chúng cũng là người VN, cũng phải ăn và thở để mà sống, nên cũng phải có trách nhiệm làm người. Trong lúc cộng sản đang tiến quân như vũ bảo, thì hậu phương Miền Nam có những bộ óc hư hoại điên khùng,hết ký giả đi ăn mày, tới biểu tình đòi hòa hợp. Tất cả đang say men phản chiến của đám Hippy nghiện ngập ma túy “ The Beatles” đã làm loạn tại Mỹ, của Bertraud Russell, Jean Paul Sartre, Herbert, Marcuse.. công khai tán tụng Hồ Chí Minh và cọng sản, hô hào hòa bình, đòi quân dân miền Nam phải buông súng đầu hàng, để chim bồ câu trắng từ Hà Nội bay tới, mang hạnh phúc no ấm, cho đồng bào miền Nam, như trong ca khúc phản chiến của Tôn Thất Lập. Tai Hoa Kỳ, Pháp, Nhật.. nhiều con ông cháu cha, được học bổng du học, lại chạy theo phản chiến chống lại đồng bào mình, trong số này hung hăng nhất vẫn là Nguyễn Thái Bình, theo học ngành kỹ sư. Tên Việt gian này, vì làm loạn quá tại Mỹ nên bị trục xuất về nước và chết năm 1972.. Ðồng thời hằng ngày, trên các tờ Hành Trình, Ðối Diện, Ðất Nước, Tin Văn, Vấn Ðề, Ðiện Tín.. với Nhất Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn văn Trung (chủ biên Hành Trình), Thế Nguyên (Trình bày), Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Trọng Văn (Tin Văn), Lữ Phương, Chân Tín.. công khai phỉ báng chính quyền, qua các bài viết ca tụng cọng sản một chiều. Các bài báo và sách vở loại này, hiện được đảng tái bản và lưu hành tràn lan tại các tiệm sách hải ngoại, muốn biết cú mua mà đọc cho biết. Ðiều này cũng đâu có gì lạ, vì từ tháng 6-1967 tới tháng 4-1975, các tờ báo trên là cơ quan tuyên truyền của Mặt Trận GPMN, do cán bộ văn công Hà Nội, là Nguyễn văn Bổng chỉ đạo. Còn Vũ Hạnh, Minh Trang, Ngụy Ngữ.. thì len lỏi vào các táp chí Bách Khoa, Văn.. để phun nọc.

Theo sử liệu, 1966 là năm cực kỳ hỗn loạn tại miền Nam. Ðây là hậu quả của ba năm xáo trộn chính trị, sau khi nhà Ngô bị sụp đổ vào ngày 1-11-1963. Quyền lực của chính phủ quốc gia, rơi rớt chuyền từ tay bọn loạn tướng Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm.. tới Nguyễn Khanh, Nguyễn Cao Kỳ.. Cuối năm 1967, tướng Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng Thống nền đệ nhị cọng hòa miền Nam, an ninh trật tự mới được vãn hồi.

Ðối với các sử gia hiện đại, thì giai đoạn 1964-1967, là thời kỳ của LOẠN TƯỚNG - KIÊU TĂNG. Chính thượng tọa Thích Trí Quang, vì say mê giấc mộng kê vàng, mờ mắt trước tiện nghi vật chất Mỹ và quyền lực của thế nhân nhưng trên hết nhà sư đã bị lũ VC nằm vùng Bửu Tôn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi.. đầu độc, nên đã lầm lẫn coi Thiên Chúa Giáo là kẻ thù chính mà quên hẵn CS mới đích thực là đại họa của đất nước, dân tộc. Vì vậy đã gây nên cuộc khủng hoảng của Phất Giáo VN, trong lúc đang thăng hoa, trên con đường phát triển tột bực về vật chất lẫn tinh thần. Quân Ðoàn 1 hỗn loạn, vì cuộc nội chiến đảm máu, từ ngày 10/3/1966 ố 24/6/1966, giữa quân đội trung ương và phe ly khai tại Huế, Ðà Nẳng, Quảng Ngãi của Nguyễn văn Mẫn, Phan xuân Nhuận, Ðàm quang Yêu.. chỉ vì Thiệu, Kỳ, Có, chưa kịp lập chính phủ dân sự theo ý muốn của Trí Quang và cách chức Nguyễn Chánh Thi. Lợi dụng cơ hội ngàn năm có một, tổ chức võ trang cọng sản, qua cái gọi là “ lực lượng tranh thủ cách mạng “ của Bùi Tường Huân, Lê Tuyên, Lê Khắc Quyến.. trà trộn trong phe ly khai, xúi giục Phật Tử đem bàn thờ Phật, từ chùa ra ngoài đường, để ngăn chận các cuôc tiến quân. Ðồng thời chọn các chùa đình làm công sự phòng thủ, mục đích gây cảnh đổ vở chết người, để phe đối lập và VC có cớ, tố cáo chính quyền VNCH,đàn áp Phật Giáo VN, qua báo chí trong và ngoài nước, lúc nào cũng chực chờ chia phần ăn ké. Gây chết chóc lầm than cho chúng sanh tại QD1 chưa đủ, thượng tọa Trí Quang khi vào Sài Gòn, còn ra lệnh cho Phật tử, cưỡng chiếm các chùa Việt Nam Quốc Tự, Từ Quang.. làm chia rẽ, nứt rạn và hiềm khích trong hàng giáo phẩm lúc đó như Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hộ Giác.. Ðó là chưa nói tới sự thù hận đổ máu, giữa Lương-Giáo cả nước, suốt mấy năm qua, cũng do bàn tay quá khích của Trí Quang tạo thành, khi hồ đồ coi Thiên Chúa Giáo nguy hiểm hơn kẻ thù cọng sản đệ tam quốc tế trước mắt. Sự cố chết người này, là một trong những lý do, khiến cho người miền Nam phải tan nhà, mất nước, mất đạo, sống lêu bêu khắp trời.

Trong lúc người quốc gia đâm chém tận tuyệt, thì VC nằm vùng trong trường học, chùa nhà thờ, đêm ngày không những vót thơ văn thành chông giết người, mà còn lợi dụng những hoá chất học cu, để làm thành những chai bom đặc nổ cháy, có sức công phá không thua gì lưu đạn. Ngô Kha, giáo sư, em rể Trịnh Công Sơn, chỉ huy du kích VC qua tên “ chiến đoàn Nguyễn Ðại Thức “, chận đánh TQLC. Hoa Kỳ trên đèo Hải Vân, bị bắt làm tù binh và chết trong khám. Trần quang Long cũng bị thương, được thả, tiếp tục theo VC rồi chết tại Tây Ninh trước 1975. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, chỉ huy Ðoàn Phật Tử Quyết Tử, phá làng đốt xóm, thất bại trốn ra bưng và theo bộ đội Bắc Việt trở về Huế trong tết Mậu Thân 1968, chôn sống, giết đồng bào, đau thương không kể xiết, ngàn năm bia miệng còn truyền.

Lý do chính mà Thích Nhất Hạnh viết “ Hoa sen trong biển lửa “ vào năm 1966, ngoài việc đảo lộn đen trắng để bôi bác chính quyền VNCH, đàn áp tôn giáo, bịa chuyện trực thăng võ trang Mỹ, hạ cánh xuống làng quê Nam VN, để bắt cóc đàn bà , con gái. Ðây không phải là sự trùng hơp hay ngẫu hứng, để Nhất Hạnh lồng chuyện Mỹ vào trong một tác phẩm của Phật Giáo, vốn không có ăn nhập gì. Thật sự tất cả là kế hoạch chống Mỹ của cọng sản Hà Nội, qua cái loa Nhất Hạnh. Theo các tài liệu lưu trữ, từ ngày 7-9/2/1966, Mỹ và Nam VN đã họp thượng đỉnh tại Honolulu. Phía Hoa Kỳ gồm có TT.Johnson và các phụ tá J.Gardner, Orville Freman, Robert Koman, James Humprey.. cùng phái đoàn Nam VN, do các tướng Thiệu, Kỳ, Có, Thắng. cầm đầu. Sau đó, hơn nửa triệu quân Mỹ cũng như Ðồng Minh (Úc, Tân Tây Lan, Ðại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân và Ðài Loan), liên tục vào giúp VNCH. Nói chung, từ năm 1966 ố 1973, quân Mỹ đã hiên diện khắp nơi, chiến đấu bên cạnh QLVNCH, lấy lại thế chủ động chiến trường, làm cho VC từ trong Nam ra ngoài Bắc, đều giao động lung túng. Năm 1966 cũng là thời điểm Ðồng Minh và Mỹ tại VNCH hành quân “ TÌM VÀ DIỆT DỊCH”, phá tan gần như tất cả các căn cứ, sào huyệt của VC, kể cả Cục R tại Củ Chi, Hố Bò, Tây Ninh. Trong lúc đó, QLVNCH thì đặt trọng tâm “ Bình Ðịnh Nông Thôn “, sàng lọc, khám phá những thành phần VC nằm vùng. Hai kế hoạch hành quân một lúc, cộng thêm với sự có mặt của các sư đoàn tinh nhuệ Hoa Kỳ, Ðại Hàn, Úc, Tân Tây Lan.. tại Sài Gòn cũng như các tỉnh, đã đánh bật VC ra khỏi nông thôn, thành thị.. từ lúc đó. Tóm lại, hậu quả của các biến cố chính trị khắp hậu phương miền Nam, mà trọng điểm ở Huế, Ðà Nẳng.. chỉ là sự thay đỏi sách lươc đấu tranh, giữa Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh, trước cường độ leo thang của chiến cuộc, mỗi ngày một ác liệt. Nhất Hạnh khi bị Chính Phủ VNCH trục xuất ra khỏi nước, tại Pháp đã dựng đứng những câu chuyện hoang tưởng, để viết “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “.Tuy vậy, nhà sư cũng đã tiên đoán đúng về vận mệnh của Phật Giáo VN, qua hai lần bị thiêu hủy trong biển lửa. Lần thứ nhất do lửa tham sân si của các lãnh tụ lúc đó, mờ mắt trước giấc mộng kê vàng, nên nghe lời xúi bậy của Nhất Hạnh, xây lâu đài trên cát. Lần thứ hai do chính bàn tay hủy diệt của VC và được bồi thêm bằng thùng xăng của Nhất Hạnh, mang từ Pháp về nước, trong tháng 1-2005 và đầu năm 2007. Lần trước, Phật Giáo VN chỉ mới rạn nức nội bộ. Lần này coi như bị hủy diệt hoàn toàn, trước bạo lực có thật của VC, chứ không phải đàn áp bịa chuyện, qua miệng lưỡi dối gian của sư ông Nhất Hạnh.

Cũng từ đó bao nhiêu thảm họa đã ập đến với hàng tăng lữ lãnh đạo Phật giáo ngay khi VC cưỡng chiếm được miền Nam. Ðầu tiên, Ðại đức Thích Như Phong bị chôn sống tại Quảng Trị ngày 17-9-1975, cho tới tình trạng các Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Ðộ, vào tù ra khám rồi lại bị giam lỏng đến nay, vẫn không hề thay đổi. Tóm lại, ngoại trừ một số tăng ni may mắn trốn thoát được thiên đàng xã nghĩa, tới được quê ngươì sống tự do, cơm no ấm cật, tiếp tục thuyết giảng, ngồi thiền. Hầu hết đồng bào còn lại, tan biến trong biển lửa bạo tàn, giữa lò sát sinh, hoặc tự thiêu như Ðại Ðức Thích Tuệ Hiền, cùng chết với 11 tăng ni, tại Thiền Viện Dược Sư ở Rạch Gỏi, Cần Thơ. Hay bị tra trấn cho tới chết, như Hòa Thượng Thích Thiện Minh trong tháng 10-1978, tại nhà tù của Sở Công An Sài Gòn. Riêng hai Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Thanh Trì, thì bị đầu độc chết năm 1984 tại Bệnh Viện Vì Dân. Những hành vi tàn độc của VC, đã làm cho nhà sư Thích Ðôn Hâu mở mắt sám hối, vì bị nhiễm nọc đọc của tên đệ tử Nhất Hạnh. Hòa Thương Ðôn Hậu từ trần ngày 23-4-1992 tại Huế. Từ đó đến nay, trách nhiệm lèo lái con thuyền Phật Giáo VN, trong biển lửa VC, do hai Hòa Thượng Huyền Quang và Quảng Ðộ đảm nhận, tuy bị trù dập trong nước nhưng vẫn luôn ngời sáng trong tim của mọi người.

Nhưng Phật Giáo VN đã trường tồn trong dòng lịch sử dân tộc, bao đời cùng chịu chung nổi vinh nhục của đất nươc và muôn lần như một, vẫn đứng dậy đuợc, để ngất ngưởng cùng thời gian. Lần này, Phật Giáo VN đã đứng dậy, công khai đối mặt với đạn súng, mã tấu của VC, mà thời điểm mở màn cho cuộc tranh đấu là phiên tòa ngày 15-8-1995, Hà Nội mở ra để có cớ giam tù các vị lãnh đạo PG trong nước như Quảng Ðộ, Không Tánh, Nhật Ban, Trí Lực, Thiện Minh.. Sự bạo tàn vô lý bất nhân của cọng đảng, làm phẫn nộ người Việt trong và ngoài nước. Ðến nỗi 280 tăng lữ trong Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, cũng phải viết thư phản đối đảng ngày 10-9-1995. Tại Hải ngoại, năm tổ chức Phật Giáo, do các Hòa Thượng Tâm Châu. Mãn Giác, Huyền Vi, Thuyền Ấn và Hộ Giác lãnh đạo, ngày 17-9-1995, qua thảm trạng Phật Giáo VN bị VC đàn áp tiêu diệt, nên đã thề xóa bỏ hiềm khích chia phân, từ mấy chục năm qua, ngồi chung với nhau dưới bóng Phật Ðài, đặt quyền lợi của Tổ Quốc, đồng bào cùng Phật pháp trên hết.

2 - Nhất Hạnh: Ông Là Ai ??

Nhà sư Thích Nhất Hạnh là một cán bộ trí vận của cọng sản đệ tam quốc tế, núp bóng trong Thiền Môn Phật Giáo Ấn Quang, cùng với đồng bọn là Ðại Ðức Nhật Thiện (Lê Mậu Chí ố công an VC Ðồng Hới), Bửu Tôn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi.. đã xúi giục Thượng Tọa Trí Quang, gây nên cuộc bạo động long trời lở đất ở Huế, đến độ phải khiên cả Bàn Thờ Phật ra đường để làm bia cho thiên hạ chê cười, từ đó đến nay và có thể muôn đời trong dòng sử Việt.

Hành động vô ích trên, chẳng những đã làm cho Phật giáo mất hết cái ý nghĩa thiêng liêng, đã đạt được trong cuộc chính biến ngày 1-11-1963, mà còn khiến cho Phật Giáo VN, bị phân làm hai mãnh, đấm đá nhau không chút nương tay.

Sau khi đổ xăng châm lửa, làm khô cháy tòa sen, Nhất Hạnh qua Pháp, được Hà Nội chung tiền để lập Làng Mai. Chính trong giai đoạn này, năm 1966 nhà sư theo đơn đặt hàng của Bắc Bộ Phủ, viết “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “, cũng như đã sáng tác bài thơ “ Bông Hồng Cài Áo “ tại rừng Tây Ninh vào năm 1961, cho Mặt Trận GPMN, kêu gọi người lính Nam VN hãy vì tình thương của mẹ, của quê làng, mà bỏ ngủ, chạy về với VC.

Nhất Hạnh sinh năm 1926 tại làng Minh Hương, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Theo tài liệu của Võ Phiến, trong “ văn học miền nam “, thì Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, còn các tài liệu khác thì nói là Nguyễn Ðình Bảo hay Nguyễn Văn Bảo. Sư chánh quán Thanh Hóa nhưng bên ngoại là làng Lê Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Năm 1942, Nguyễn Xuân Bảo mới bắt đầu đi tu nhưng đã thay đổi rất nhiều chùa ở Thừa Thiên, mà chùa đầu tiên là Bảo Quốc, tới Từ Ðàm và cuối cùng là chùa Từ Hiếu của Hòa Thượng Thích Nhất Ðịnh.

Tuy Nhất Hạnh đã tốt nghiệp Cử nhân văn khoa tại Sài Gòn năm 1959 cũng như từng được Chính Phủ VNCH, cấp học bổng sang Hoa Kỳ du học về môn “ Tôn Giáo Ðối Chiếu “ tại đại học Princeton ở tiểu bang New Jersey vào năm 1961. Nhưng nhà sư chỉ được mọi người biết tới vào năm 1964, khi xuất bản cuốn “ Ðạo Phật Ngày Nay “.Từ đó tên tuổi thường được giới văn học Miền Nam, xếp chung trong nhóm “ Thiền Vi “, của các nhà văn, trong phong trào Phật giáo thời đó như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ.. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, hào quang đó đã vụt tắt khỏi bầu trời văn học VN. Nguyên do vì nanh vút và nọc độc của nhà sư hổ mnag, đã công khai, bàng bạc khắp các sáng tác, từ những bài luận thuyết chính trị, tôn giáo cho tới truyện thơ, tuỳ bút.. mà nổi bật nhất vẫn là “ Hoa Sen Trong Biển Lửa “.Tóm lại, suốt mấy chục năm qua, sư viết nhiều, in nhiều và nói cũng rất hăng. Nhưng tên tuổi của Nhất Hạnh, ngoài sự bị miệng đời bêu rếu, nguyền rủa, mỉa mai về một nhà tu bất hạnh, vô đức.. còn lại chẳng khác nào “ông bình vôi “, sống lâu lên lão làng, cùng với số phận của các tác phẩm đã xuất bản như :Ðể hiểu đạo Phật, tình người, chắp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng hiện (1965), nẻo về cửa ý, vấn đề nhân thức trong duy thức học (1969), Văn Lang dị sử.... qua các bút hiệu Nguyễn Lang, Tâm Quán.. vẫn được nhà xuất bản Lá Bối của chính đương sự, tiếp tục in hay tái bản. Mục đích gởi tới các nhà sách để chưng làm kiểng, trên các bệ gỗ hay như tập sách mỏng “Bông hồng cài áo“, được dùng như một thứ kinh nhật tụng, trong dịp lễ Vu Lan hằng năm ở hải ngoại. Tóm lại hiện tượng múa may quay cuồng của Nhất Hạnh, từ 1965-1975 ở Nam VN cũng như một vài nơi trên thế giới, đã thưc sự kết thúc trong con mắt khinh bỉ và căm ghét của mọi người, từ sau khi Hà Nội nhuôm đỏ VN sau tháng 4-1975.

Tuy xuất thân là một tu sĩ Phật giáo nhưng Nhất Hạnh lại bị chi phối bởi những tư tưởng của các triết gia hiện sinh Thiên Chúa Giáo như Garbriel Marcel, Merleau Ponty và nhất là Emmanuel Mounier. Từ khi ra hải ngoại, nhà sư lại nhồi nhét thêm Tư tưởng của Thiền sư Shunryu Suzuki, trong Thiền Phái Nhật Bổn và một mớ giáo lý Phật Giáo nguyên thủy Ấn Ðộ, cộng thêm sách vở của các tông phái Thiền của Việt Nam, làm thành hệ tư tưởng Thiền Nhất Hạnh. Do ở chỗ có quá nhiều tư tưởng của nhiều người pha trộn, mới đầu thấy lạ và hấp dẫn nhưng càng đi sâu vào chi tiết, mới khám phá ra là Nhất Hạnh, đâu có khác gì Vô Thượng Sư Thanh Hải. Cả hai được tiếng thơm, do từ những đệ tử bốc rồi thả vào trong gió, để cho thiên hạ ngửi, mặc kệ khen chê .Tư tưởng của cao tăng-bụt sống Nhất Hạnh là thế đó, nên được VC và đệ tử Làng Mai bốc tận mây xanh, nào là về nước để thuyết giảng lịch sử phật giáo quốc doanh, cuộc phối hợp tuyệt hảo giữa đồng bóng, lên cốt, đốt vàng mã và đạo tăng tăng, cho phép sư lấy vợ có con. hay hiện tai sư lập trai đàn để giải oan không biết cho ai tại VN.

3 - Nhất Hạnh : Công Cụ Tuyên Truyền Của Việt Cộng

Từ tháng 5-1966, Nhất Hạnh chính thức bị Chính Phủ VNCH trục xuất ra khỏi nước vì làm tay sai cho VC. Nhà sư xin tị nạn chính trị tại Pháp, lúc đó đang là thiên đàng của đám tướng tá và chính trị lưu vong của Miền Nam VN, gồm có Ðổ Khắc Mai, Vương Văn Ðông, Nguyễn Hữu Khương, Nguyễn Hữu Châu, Trần Ðình Lan, Âu Trường Thanh, Hồ Thông Minh.. được De Gaulle gom lại, lập thanh đạo quân MA, đánh phá VNCH, giúp Bắc Việt để trả thù vặt, về việc TT.Ngô Ðình Diệm, đã đuổi P

Cũng trong tháng 5-1966, Nhất Hạnh sang nhập đảng phản chiến của Hoa Kỳ lúc đó, qua tố chức “ Fellowship for Reconciliation “ và đại học Cornell tại Nữu Ước. Trong dịp này, ngày 1-6-1966, nhà sư đã lấy 5 điểm đòi hỏi của Mặt Trận GPMN, rồi thêm râu ria vào, và gọi đó là 5 điểm, trong BẢN TUYÊN CÁO của Phật giáo Ấn Quang, trong đó bắt Kỳ từ chức, Mỹ rút quân, ngưng oanh tạc miền bắc và trên hết QLVNCH cũng như Ðồng Minh, phải bó tay chờ chết tại miền Nam, để chờ hòa bình. Về Pháp, năm 1967 nhà sư qua phương tiện và tiền bạc của Hà Nôi, Nhất Hạnh xuất bản “ Hoa sen trong biển lửa “, qua ấn bản Anh Ngữ “ Vietnam, Lotus in a sea of fire, a Buddist Proposal for peace “, trong đó, sư lên án Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ là độc tài, quân phiệt đàn áp Phật Giáo. Rồi xưng tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, còn gọi Mặt Trận GPMN là của người quốc gia, chống nhà Ngô nhưng vẫn không quên cho biết, “ Mặt Trận “do đảng ta lãnh đạo, như lời đồng chí Lê Duẩn, đã tuyên bố chắc nịch trong kỳ đại hội đảng năm 1960.

Bốn mươi năm qua, nhà sư Nhất Hạnh cùng với người nữ phụ tá đắc lực nhất đêm ngày là Sư bà Thích Nữ Chân Không, tên đời là Fleurette Cao Ngọc Phượng, sinh tại Bến Tre, con Cao văn Móc và Elizabeth Bùi Kim Tiền, em ruột ca sĩ Cao Thái. Hiện sư ông, sư bà tạo được một tài sản kếch xù gồm Làng Hồng (Mai), ở Duras phía nam Pháp. Cũng tại đây, sư ông sư bà còn có chùa Pháp Vân ở Le Pey, chùa Từ Nghiêm ở Dieulivol và chùa Cam Lộ ở Meyrac. Tại Hoa Kỳ, sư ông sư bà có Ðạo Tràng Thanh Sơn tại Hartland, Tu viện Rừng Phong ở S.Woodstock nhưng qui mô giàu có hơn hết, vẫn là Tu Viện Lộc Uyển tại Escondido, San Diego, tiểu bang CA.

Tù năm 1962 tới nay, Nhất Hạnh như sống trong nhung lụa bạc tiền, dù thực chất là đi tu nhưng còn hơn cả triệu triệu người VN khác, trong lúc quê hương đang chiến tranh. Ði tu mà được học hành tới đại học, rồi lại được ngay TT. Ngô Ðình Diệm, chọn cho du học Mỹ. Rồi từ năm 1966 tới nay, nhà sư chỉ sống ở ngoại quốc, hết thuyết giảng tới thiền, quẩn quanh trong các làng Thiền, từ Pháp tới Mỹ, ăn chay nhưng ăn ngon, mặc nâu sồng nhưng mặc sướng và sang trọng. Như vậy, làm sao nhà sư chẳng quên hết chính đạo, để vọng ngữ, toàn tuyên bố và ăn nói bậy bạ trước đám đông ?

Là con nhà Phật, ai cũng biết minh triết của đạo, vỏn vẹn chỉ bao gồm bốn chữ khổ trong chân lý của Tứ Diệu Ðế. Ðó cũng là con đường tu trì của người Phật tử luôn biết sinh, bệnh và già đều là nỗi khổ của thế nhân, không ai có thể tránh được. Nhưng còn nỗi khổ vì tham sân si, ảo vọng, vô thường.. do chính tâm con người tạo ra, nếu không đi vào con đường bát chánh ( chánh kiến, chánh ý, chánh ngữ, chánh hành, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niêm và chánh định). Ngoài ra còn phải tuân theo ngũ giới như sát, dâm, tửu, đạo và ngoa ngôn. Như vậy nếu nhìn vào qui luật và giới cấm của nhà Phật, thì rõ ràng nhà sư Nhất Hạnh, từ đầu tới cuối đã phạm phải quá nhiều tội lỗi, đối với Phật Trời và con người, thì làm sao còn chỗ đứng trong cửa chùa, dù chỉ là một tín đồ bình thường, nói chi tới chuyện tự xưng là thiền sư, cao tăng hay Phật sống.

Giáo lý của Phật Giáo, luôn đối chọi với lý thuyết của Mác-Lênin, lấy vật chất làm tiêu đề và coi thuyết duy vật như một nền tảng, để đấu tranh giai cấp xã hội, triệt hạ mọi tôn giáo và hủy diệt phần tâm linh của con người. Hơn 2500 năm về trước, Ðức Phật Tổ Nhu Lai đã từ bỏ cuộc sống đế vương, cùng đời chịu chung niềm tân khổ. Ðó là một cuộc dấn thân trọn vẹn và cao cả, công khai chống lại chế độ phân chia giai cấp của đạo Bà La Môn cũng như sự tham ô tha hóa của tầng lớp tăng lữ và trên hết là những nghi lễ rườm rà đạo đức giả .

Cũng từ đó, đã có không biết bao nhiêu người noi gương dân thần cưú đời, cứu chúng sinh của Phật Tổ. Ðó là Thánh Ghandi, một đời đấu tranh không ngừng nghĩ, quyết tâm phá bỏ cho được xiềng xích, ràng buộc con người trong sự phân chia giai cấp. Kế tới là Ðúc Ðạt La Lạt Ma, qua hình ảnh chiếc áo cà sa màu vàng, đi mòn khắp các nẻo đường thế giới, để đòi lại đất nước và quyền sống cho dân tộc Tây Tạng, đang bị Trung Cộng đô hộ. Tại xã nghĩa thiên đường VN, sau ngày 30-4-1975, cũng đã có không biết bao nhiêu tăng ni Phật tử, những Tâm Châu, Huyền Quang, Quảng Ðộ, Tuệ Sy, Thiện Minh.. đem sinh mạng của mình ra, để thách đố với súng đạn và tù gông của VC, đòi quyền làm người, đòi tự do tín ngưỡng cho dân tộc, cũng như sự tồn vong của đất nước đang bị đảng cầm quyền đem dâng bán cho Tàu.

Cọng sản coi tôn giáo và con người là kẻ thù, rốt cục đã bị chính con người và tôn giáo hủy diệt tại Liên Xô, Ðông Âu và nhiều nơi khác trên thế giới. Tại Trung Cộng, Bắc Hàn, Việt Nam và Cu Ba, tôn giáo và con người, đang tiếp tục đấu tranh, để xóa bỏ hẳn một chủ nghĩa bạo tàn, dã man, phi cầm phi thú, có một không hai, trong lịch sử của nhân loại. Thích Nhất Hạnh luôn tự xưng là đệ tử nhà Phật, nhưng lại đứng chung trong hàng ngủ của đảng cọng sản, để chống lại Phật giáo và dân tộc mình. Bởi vậy, suốt cuộc đời tu và hành đạo, nhà sư không bao giờ chịu hay nói đúng hơn là dám công khai đi trên con đường chánh đạo của một tu sĩ, mà chỉ vọng ngữ, loan ngôn, làm công cụ tuyên truyền cho đảng mà thôi.

Không phải tình cờ trong ngày 25-9-2001, khi mà Hoa Kỳ và cả thế giới đang khựng điếng, đau khổ vì bị khủng bố giết hại nhiều ngàn người tại New York. Nhất Hạnh cũng là con người, lại là một nhà tu, lẽ ra phải tụng kinh sám hối trước bàn Phật, để cùng chia sẻ niềm đau và tiếng khóc của thế nhân, trước nỗi khổ sanh ly tử biệt, cho dù họ mới đây đã là kẻ thù của chính mình. Nhưng vì mang bản chất của một tên cán bộ trí vận cọng sản, coi giết người là phương tiện để đạt cứu cánh, nên ác tăng đã làm ngược lại nhân tính của con người. Ðể chống lại kế hoạch của nước Mỹ va thế giới, đang tiến hành tiêu diệt khủng bố, nhà sư Nhất Hạnh bỏ ra 45.000 US, để đăng bài viết nhiều kỳ, trên tờ New York Times ( nguyên trang A5 và A22), vừa quảng cáo cho tên tuổi mình, đồng thời bịa chuyện, bịp xạo, mục đích làm cho người Mỹ có một cái nhìn không tốt, đối với cộng đồng người Việt tị nạn, đang sống nhờ trên đất nước họ. Một điều nực cười khác, là lúc quân đôi Hoa Kỳ và liên quân, đang tấn công Taliban để vây bắt tên trùm khủng bố Bin Laden, đang ở Afghanistan, thì chỉ có VC và Thích Nhất Hạnh, cùng lúc la làng, phản đối, với luận điệu thật là trùng ý nhịp nhàng.

Ðọc trên trang web: www.plumvillage.org, có bài phỏng vấn của Anne A Simpkinson, qua tựa đề “ What I would say to Osama Bin Laden “, được sư ông trả lời như sau : “..When We learned of the bombing of the Ben Tre village in Vietnam. Where 300.000 homes were destroyed, and the pilots told journalists that they had destroyed the village in order to save it. I was shoked, and (racked) with anger and grief.” Hỡi ơi ngao ngán thật cho người thiền sư, chỉ mới có nghe người khác nói là Tết Mậu Thân (1968), có vài du kích bắn vu vơ, thì lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá cả tỉnh Bến Tre, làm hư hại 300.000 căn nhà. Cũng vì xạo bịp quá mức, nên Nhất Hạnh cũng như nữ ký giả tờ NY.Times, được đồng bào Bến Tre và Hội ký giả VN tại Nam CA, gửi thư yêu cầu tới họp báo để làm sáng tỏ vấn đề. Tiếc thay lần đó Nhất Hạnh bận thuyết giảng và thọ giới tiếp hiện với nữ đệ tử Thích Nữ Chân không, nên vắng mặt.

Thật sự những lời của sư ông Nhất Hạnh, khi nói Mỹ giội bom phá nát tỉnh Bến Tre, làm hư 300.000 căn nhà của đồng bào, là hoàn toàn nói láo và xảo quyệt, làm xấu hổ lây tới những vị cao tăng, thánh tăng Phật Giáo đang có mặt tại hải ngoại. Nhưng biết làm gì hơn, trước một con người đã không còn nhân tính ?

Bên Tre hay Kiến Hòa, thời VNCH thuộc vùng 4 CT, diện tích 2880 km2, đất đai phì nhiêu vì được tạo thành bởi phù sa, của bốn nhánh sông Tiền Giang là sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Trước năm 1975, tỉnh có dân số chừng 300.000 người, riêng tỉnh lỵ Trúc Giang có 50.000 người. Tuy mang tiếng là đất đồng khởi, thành đồng nhưng tình hình khắp tỉnh tương đối rất an ninh, ngoại trừ hai quận Mõ Cầy và Giòng Trôm vì hai điạ phương này có nhiều người tâp kết.

Theo kế hoạch tổng công kích, VC đã đồng loạt tấn công tất cả lãnh thổ VNCH, kể cả thủ đô Sài Gòn, nhân dịp hưu chiến vào những ngày Tết Mậu Thân 1968. Tại vùng 4 chiến thuât, tỉnh Kiến Hòa bị thiệt hại nặng, khi VC mở cuộc tấn công vào Thị Xã Trúc Giang, vào lúc 3 giờ sáng đêm mồng 2 rạng ngày mùng 3 Tết.

Căn cứ vào tài liệu hiện hành, ta biết tại Kiến Hòa, VC chỉ chiếm được các khu vực dân sự, thương mại. Riêng Ty Sở và Cơ Quan Quân Sự vẫn nằm trong sự kiểm soát của QLVNCH. Ðêm mồng hai Tết, người ta không biết được là VC đã vào thị xã bằng lối nào và lúc mấy giờ. Vì tới 4 giờ sáng ngày mồng ba Tết, tiếng súng giao tranh mới thật sự, nổ tại vị trí đóng quân của Pháo Ðội, đóng trong Sân Vận Ðộng. Tiếp theo VC đồng loạt pháo kích vào Tòa Hành Chánh và Bản Doanh của Trung Ðoàn 10 /SD7BB rất ác liệt, nhưng không làm gì được, vì nơi nào trong tỉnh cũng được phòng thủ rất kiên cố. Do trên sự liên lạc truyền tin, giữa Tỉnh Trưởng Kiến Hòa là Trung Tá Huỳnh văn Dư và Trung Tá Nguyễn Tường Diễn, Trung Ðoàn trưởng TRD10/SD7BB rất khả quan. Theo đó, Trung Ðoàn đã ra lệnh cho 2 TD3/10 và 4/10 đang hành quân gần đó, phải về giải toả gấp Thị Xã Trúc Giang, vào sáng mùng ba Tết.

Lúc 5 giờ sáng mồng ba Tết, Trung Tá Diễn vì lo sợ cho Pháo Ðội đóng tại Sân Vận Ðộng, nên tự mình dẩn quân đi tiếp viện, nên ông đã bị VC phục kích chết. Tuy nhiền vào lúc 10 giờ sáng ngày mồng ba Tết, hai Tiểu Ðoàn 3 và 4/10 đã vào thành phố, thanh toán hết VC tại các khu vực Hành Chánh, Tiểu Khu và Bệnh Viện Thị Xã. Nhưng trong khu vực thương mại, VC chiếm các cao ốc để cố thủ với hỏa lực rất mạnh, ngoại trừ Ðài Phát Thanh vẫn còn, vì sự chống trả của một Tiểu Ðội phòng thủ.

Buổi chiều cùng ngày, Tỉnh được hai Tiểu Ðoàn thuộc Lữ Ðoàn 2, SÐ9BB của Hoa Kỳ đến tăng viện. Liên quân Việt-Mỹ đã mở các cuộc hành quân giải tỏa và đến ngày mồng bốn Tết, VC chém vè, bỏ lại tại trận điạ 300 xác chết và hơn 100 vũ khí đủ loại. Phía VNCH chết và bị thương 100 người. Riêng đồng bào Bến Tre có 90 chết, hơn 50 % nhà cửa trong thi xã bị hư hại, chợ Trúc Giang bị phá hủy hoàn toòn.

Tham dự trận tấn công này, VC đã sử dụng quân số gần một Sư Ðoàn (2000 người), gồm 2 Tiểu Ðoàn tân lập 3 và 4, hai Ðại Ðội Ðịa Phương , nhiều Trung Ðội Du Kích và Dân Quân. Trận chiến ác liệt vô cùng, vậy mà sư ông Nhất Hạnh dám loạn ngôn, với báo chí quốc tế, là chỉ có vài tiếng súng bắn vu vơ của 7 du kích, thì Mỹ đã đem bom tới dội, làm nát tỉnh Bến Tre, khiến 300.000 nhà cửa của dân bị hủy diệt.

4- Nhất Hạnh Về Nước Lập Trai Ðàn Giải Oan Cho Ai ??

Trưóc khi về nước lần thứ 2 đầu năm 2007, nói là "lập trai đàn giải oan gì gì đó", sư Nhất Hạnh giả bộ viết một lá thư cho Nguyễn Minh Triết, để xin phép... ''Trong chuyến thăm viếng và hành đạo tại quê hương đầu năm Ðinh Hợi 2007... chúng tôi có được thủ tướng cho phép tổ chức ba trai đàn chẩn tế giải oan, cầu siêu.. giúp chữa lành vết thương... để toàn dân có cơ hội cùng đi lên trong vận hội mới của đất nước''

Qua sự kiện trên, đã khiến cho đồng bào trong và ngoài nước vô cùng thắc mắc, là ai đã nhờ sư ông Nhất Hạnh làm việc dư thừa này ? vì từ trước tới nay, đảng vốn chủ trương "tam vô", nên chừng nào mới tin có "nhân quả báo ứng" ?.

Riêng về mục đích "lập trai đàn giải oan", sư ông có nói là để cầu cho âm dương siêu thái... nhưng tuyệt nhiên không có đề cập tới những đối tượng nào cần được giải oan, tức là phải bắt chính miệng nhà cầm quyền VC đương thời "xác nhận chúng đã giết hại những kẻ vô tội đó". Và bây giờ, sư về lập trai đàn để cầu siêu họ, sau khi VC đã xác nhận tội lỗi của mình, trong 70 năm qua, từ Bắc vào Nam..

Ðó là những nạn nhân bị Cộng Sản nhân danh Việt Minh, giết hại trong chín năm kháng Pháp (1946-1954), là đồng bào bị Hồ Chí Minh sát hại trong cuộc cải cách ruộng đất, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại, Cải Tạo Công Thương Nghiệp và hàng triệu thanh niên nam nữ sống trong Thiên Ðàng Xã Nghĩa từ 1955-1975, vì ‘"hộ khẩu và công an trị" phải chịu cảnh "Sinh Bắc Tử Nam", lót đường cho VC cưởng chiếm được Nam VN.

Ðó là đồng bào sống tại VNCH, đã bị CS sát hại tại nông thôn, Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, các trận cắm cờ chiếm đất 1973 và trong 55 ngày cuối cùng của VNCH. Họ là Quân, Công, Cán, Cảnh VNCH bị cưởng bức và tra tấn hành hạ chết trong các trại tù CS từ Bắc vào Nam, là đồng bào bi bắt ép đi kinh tế mới, nông trường lao động tập thể, là những nạn nhân bị chết oan trong các lần cướp của qua cái gọi cải tạo thương nghiêp, đổi tiền. Là đồng bào vượt biên, vượt biển chết oan khiên trong vùng biên giới Lào-Miên-Thái-Việt, trên Biển Ðông vì đạn súng của VC, hải tặc và sóng gió.

Là những bộ đội VC bị cưởng bức làm công cụ nghĩa vụ quốc tế tại Kampuchia, Lào sau tháng 5-1975 và nhất là những oan hồn đã chết trong trận biên giới Việt-Trung từ 1979-1990, do tham vọng sắt máu của Ðảng. Cuối cùng là oan hồn của đồng bào nghèo cả nước, chết vì đói rách, chết vì quá nghèo phải chấp nhận đi lao động nước ngoài, làm đĩ bốn hướng, chết cô đơn tội nghiệp nơi xứ người..

Ðó là tất cả những oan hồn nạn nhân của CSVN mà thân nhân của họ vẫn còn sống, đang chờ VC nhận tội sát nhân. Nếu sư làm được chuyện giải oan, bắt VC chịu nhận tội như những người cầm quyền tại Kampuchia đã làm, thì chắc chắn vết thương lòng của chiến tranh sẽ được hàn gắn ngay.

Trước năm 1975, Nhất Hạnh rầm rộ phản chiến, ngụy hòa, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam. Nay Nhất Hạnh lại về VN, để nối tiếp sứ mạng của một điêp viên trí vận tôn giáo, giúp Hà Nội có cớ bào chữa với thế giới, nhất là Hoa Kỳ, rằng Xã nghĩa có tự do tôn giáo, còn những thành phần Phật giáo đang tranh đấu trong nước, chỉ làm loạn mà thôi.

Do trên cũng đừng có lạ, khi thấy Ðảng đối xử thật là hết mực với sư ông, sư bà và các sư tăng chúng, từ khi vừa bước chân xuống sân bay Nội Bài ngày 12-01-2005. và những ngày đầu năm Ðinh Hợi 2007. Ngoài việc huy động cả binh đoàn sư ni quốc doanh ra tiếp đón, có hoa rắc cho thơm mặt, có phóng viên tới phỏng vấn rồi phóng ngay lên ngay mạng quốc tế, để người Việt tị nạn ta hết hồn. Sư cũng được đảng cho phép đi thuyết giảng khắp nơi và được tiếp xúc với mọi người, kể cả báo chí ngoại quốc. Ði đâu sư ông và sư bà cũng có tiền hô hậu ủng, có lộng che, cờ phất, quả thật đế vương cũng khó sánh kịp..

Lần trước Nguyễn Cao Kỳ về VN bị đồng bào chửi rủa thậm tê, dù thực chất là hắn chỉ về để làm Má Chín kiếm cơm. Lần này Nhất Hạnh cũng về VN , lần trước để truyền pháp trong thời gian ba tháng, nhưng dư luận lại im re. Thật sự dư luận không đề cập tới hay chỉ làm công việc thông tin, là vì đối với nhà sư này, ai cũng đã chạy mặt vì sự trơ trẽn, có một không hai trên trái đât, nên đâu có ai thèm lưu ý tới chuyện ruồi bu của cao tăng, ngoài cái đám đệ tử no cơm ấm cật lại thiền. Hơn nửa, ai cũng biết tại Xã Nghĩa mấy năm qua, đảng đã học theo sách lươc của thực dân Pháp, dùng đồng bóng vàng mã sự mê tín dị đoan để hủ hóa đạo Phật. Ðồng thời mở nhiều Trung Tâm Thiền, để mọi người ham nhập định, mà không còn chống đối Ðảng. Dù khắp VN ngày nay đã có nhiều chùa, trung tâm thiền nhưng nếu cho sư ông sư bà Nhất Hạnh, mở thêm vài nơi nửa, cũng đâu có hại gì cho Phật giáo quốc doanh. Mấy năm trước Thích Thanh Từ được đảng cho công du ra hải ngoại truyền thiền, thì nay Nhất Hạnh về giao lưu, quả là ngón đòn độc, chỉ có VC mới nghĩ tới. Nhưng độc thì có độc mà ngu vẫn ngu, vì hiện nay đối với người VN, những tên Kỳ, Phạm Duy, Nhất Hạnh... chỉ còn làm hề trên sân khấu đời, cho thiên hạ bật cười chút chút, sau một ngày lao động chết xác, thế thôi ! Chứ hiện nay, những tên bán nước, phản loạn, vừa già như Nguyễn Cao Kỳ, Thích Nhất Hạnh, Cao Ngọc Phượng... lại mất tư cách đạo đức, thì đi đâu, dù chúng có được VC, băng đảng hay đệ tử vẽ mặt, bôi son phấn, thực chất chỉ là cái chuông rè, làm chát tai người hàng xóm, đang cần giấc ngủ.

Nguyễn Cao Kỳ, Nhất Hạnh và đám việt gian vô liêm sĩ... hãy cố học gương của Giám Mục Ngô Ðình Thục, trước phút lìa đời, đã biết ăn năn sám hối, nên được Tòa Thánh hồi phục lại chức sắc cũng như tình cảm, nên người đã thanh thản trở về với cát bụi. Nhà sư Nhất Hạnh, đừng tưởng rằng có tiền sẽ ăn uống tẩm bổ, mà lột da sống đời như Bàn Cỗ, Lã Vọng, để tiếp tục phá dân, phá đạo. Thôi hãy buông con dao đồ tể, từ bỏ thiên đường VC và tất cả những hành động buôn trời bán phật từ bấy lâu nay, mà trở về với chánh đạo. Ngươi VN vốn hiền hòa nhân ái, Phật giáo cũng hỉ xả từ bi, sẽ mở rộng vòng tay đón nhận một kẻ lạc lối lầm đường, khi đã biết ăn năn hối ngộ.

Khác với VC tiểu nhân, người quốc gia muôn đời ăn ngay nói thật, không bao giờ đánh người ngã ngựa, cũng như run sợ trước những tên "mượn hoa cúng phật", dù chúng có là cao tăng, bụt sống như Nguyễn xuân Bảo, Thích Nhất Hạnh.

Lập trai đàn giải oan cho ai, khi chính linh hồn mình là ngạ quỹ ?

Viết tại Xóm Cồn



---

Post Reply