ĐÔNG DU KÝ
Posted: Fri Sep 22, 2006 10:08 am
Đông Du ký
Xưa kia, hai cụ Phan đã biết được sức mạnh của Nhật bản nên vận đông đưa thanh niên sang đó học. Ngày nay, dù Trung hoa, Đại hàn đang vươn mạnh nhưng Nhật vẫn còn chiếm một vị thế quan trọng trên phương diện mậu dịch của Thế giới. Chuyến đi Nhật của CNN phải nói là “Tây du ký again” mới đúng, vì Nhật nằm phía Tây nước Úc. Tuy nhiên, xin vẫn cứ gọi là “Đông du” theo thói quen. Do kể chuyện tuỳ trí nhớ nên chuyện sau đây đã bỏ đi nhiều chi tiết xuất hiện trên các câu chuyện khác.
Là một trong những thành phố bận bịu nhất thế giới, Tokyo ngày nay bao gồm 23 quận nội thành (ku) 26 thị xã ngoại thành (shi) và 8 làng (son hay mura) với tổng số dân trên 12 triệu người. Ngoài các quận, thị xã, làng trong đất liền, Tokyo còn bao gồm một số đảo, có đảo cách xa đến hàng ngàn cây số.
Năm 1603, Tokyo được chọn bởi Tokugawa Ieyasu, lúc đó có tên là Edo. Edo đã trở thành trung tâm hành chánh, văn hoá, kinh tế và thương mại mặc dù ở thời điểm đó thủ đô chính thức vẫn là Kyoto. Tới năm 1869 Emperor Meiji dời đô về Edo, đổi tên Edo sang Tokyo (Đông kinh - 東京) và chọn lâu đài Edo là nơi cư ngụ cho đến đời Emperor hiện nay (lâu đài hiện nay đã được tái thiết nhiều lần).
Một góc Tokyo nhìn từ phà trên sông Khoảng đầu thế kỷ XX, Tokyo bắt đầu phát triển chung quanh các ga xe lửa. Thành phố Tokyo đã phải xây dựng lại nhiều lần, nhất là sau trận động đất năm 1923 (làm trên 142 ngàn người chết) và sau Thế chiến thứ II.
Năm 1964, chưa đầy 20 năm sau khi bại trận, Nhật bản đã phô trương với thế giới thành quả tái thiết của mình qua Thế vận hội 1964 và shinkansen (bullet train). Năm 1965, Tokyo đã qua mặt Nữu Ước để trở thành thành phố lớn nhất thế giới về dân số.
Qua thập niên 1970, với sự phát triển khu Sunshine và việc xây dựng phi trường Narita đã làm cho dân số Tokyo tăng thêm. Hệ thống chuyên chở công cộng ở Tokyo, mà chính yếu là xe lửa, từ đó trở thành bận bịu nhất thế giới. Ai đã tới Tokyo không thể quên được các ga xe lửa đầy ắp người, đặc biệt là các ga Shinjuku, Shibuya, Marunouchi (Tokyo), Shinagawa, Ikebukuro, Ueno, Akihabara …
Một góc khác của Tokyo Chúng tôi đặt chân đến Tokyo vào hạ tuần tháng 7. Từ phi trường Nirata đến trung tâm Tokyo mất gần 1 giờ dùng xe lửa tốc hành hạn chế (limited express). Sau đó chúng tôi vào tuyến đường Yamanote (Tokyo loop) đến Shibuya và từ Shibuya đến chỗ ở. Chúng tôi chọn cách di chuyển rẻ nhất, nên đã mất thêm hơn khoảng 20 phút (mất gần 2 giờ thay vì 1 giờ rưỡi từ Nirata đến chỗ ở).
Shibuya (渋谷) là một trong số 29 ga của tuyến đường Yamanote. Đó là ga xe lửa chúng tôi phải dùng hàng ngày khi ở Tokyo. Để chạy một vòng của tuyến xe lửa không trạm đầu, không trạm cuối này, mỗi xe lửa phải mất khoảng 60 phút. Chúng tôi không biết cùng một lúc có bao nhiêu xe chạy cùng chiều (clockwise) và ngược chiều (anticlockwise). Tôi dự tính khoảng 40 xe, mỗi xe gồm 10/11 toa và dài trên dưới 300m. Trung bình mỗi ngày khoảng 3 triệu rưởi người dùng tuyến đường này và ga Shinjuku là ga rất tấp nập, được xếp hạng là tấp nập nhất thế giới (a).
Một xe lửa của tuyến Yamanote Nếu trái tim của nước Nhật là Tokyo thì trái tim của Tokyo có lẽ chính là Shinjuku (新宿). Shinjinku là nơi tập trung tất cả các cơ quan hành chánh, với những toà nhà chọc trời được xây dựng trong thập niên 1970, và những cửa hàng thương mại chính yếu. Trên TV, khi có tin tức về Nhật với cảnh đèn neon chớp nhoáng sáng chưng, chúng ta có thể đoán ngay đó là Shinjuku.
Tokyo có nhiều danh hiệu “nhất thế giới”. Thực sự, người Nhật cố tình làm sao cho được danh hiệu đó. Hãy lấy vài ví dụ: tháp Tokyo được dựng lên theo khuôn mẫu tháp Eiffel của Pháp nhưng cao hơn chút đỉnh nên trở thành kiến trúc kim loại cao nhất thế giới (Tháp Tokyo nhẹ hơn tháp Eiffel nhiều do thép mới hơn, có cùng độ bền nhưng nhẹ hơn). Hay là cái vòng quay ở khu Odaiba cũng được coi là vòng quay cao nhất thế giới. …
Một copy tượng "Nữ thần Tự do"
Cầu Rainbow
Vòng quay Odaiba Tokyo nói riêng và Nhật bản nói chung cũng thích làm giống “Mỹ” qua các công trình như bãi biển Tokyo là bãi nhân tạo dựa theo một bãi biển ở Nam California. Hoặc giả tượng Nữ thần Tự do cũng ở Odaiba, rồi cầu Rainbow Bridge v.v.. Có người còn nói nếu Dysneyland ở Tokyo không có các bảng chữ Nhật và chữ Hán thì ta có thể nghĩ là mình đang vào trong Dysneyland ở Nam Cali.
Về phương diện kinh tế, Tokyo có mức thu nhập hàng năm (GDP) cao hơn cả quốc gia đứng thứ 8 về phương diện kinh tế trên thế giới. Mức sinh hoạt ở Tokyo rất đắt đỏ, đã dẫn đầu thế giới 14 năm liền (hiện đang cạnh tranh với Oslo). Đây là vài con số mà chúng tôi đã thực sự dùng:
- Gạo hạng trung bình ¥ 3,980/10kg hạng tốt hơn ¥ 5,200/10kg,
- Thịt heo từ ¥ 2,100 đến ¥ 4,400 một ký,
- Thịt bò từ ¥ 3,000 đến ¥ 8,000 một ký (riêng thịt bò Kobe, giá trên bàn ăn lên tới ¥ 50,000 một ký, rẻ nhất cũng phải ¥ 35,000 một ký),
- Vé xe lửa từ ¥ 120 đến ¥ 210 mỗi trạm (dĩ nhiên đi càng xa càng rẻ),
- Taxi tối thiểu ¥ 660 và lên rất nhanh theo đoạn đường đi (tính theo mét) hoặc theo giờ (nếu kẹt xe). Đi sau 10-11 giờ đêm thêm 30%,
Chúng tôi nhận thấy có một vài mặt hàng rẻ hơn ở Úc như máy giặt quần áo (rẻ khoảng 50%), mực máy máy in (rẻ hơn khoảng 55%), xe đạp (khoảng 20%) và thuốc lá (đến 75%).
(Còn tiếp)
(a)Trong một ngày, xe lửa NY chuyên chở gần 5 triệu hành khách qua 468 ga trên 26 tuyến đường, trong khi chỉ một tuyến Yamanote đã chuyên chở trên 3 triệu rưởi người qua 29 ga. Trong số 29 ga, chỉ có 2 ga không “nối” với các tuyến đường khác.
Là một trong những thành phố bận bịu nhất thế giới, Tokyo ngày nay bao gồm 23 quận nội thành (ku) 26 thị xã ngoại thành (shi) và 8 làng (son hay mura) với tổng số dân trên 12 triệu người. Ngoài các quận, thị xã, làng trong đất liền, Tokyo còn bao gồm một số đảo, có đảo cách xa đến hàng ngàn cây số.
Năm 1603, Tokyo được chọn bởi Tokugawa Ieyasu, lúc đó có tên là Edo. Edo đã trở thành trung tâm hành chánh, văn hoá, kinh tế và thương mại mặc dù ở thời điểm đó thủ đô chính thức vẫn là Kyoto. Tới năm 1869 Emperor Meiji dời đô về Edo, đổi tên Edo sang Tokyo (Đông kinh - 東京) và chọn lâu đài Edo là nơi cư ngụ cho đến đời Emperor hiện nay (lâu đài hiện nay đã được tái thiết nhiều lần).
Một góc Tokyo nhìn từ phà trên sông Khoảng đầu thế kỷ XX, Tokyo bắt đầu phát triển chung quanh các ga xe lửa. Thành phố Tokyo đã phải xây dựng lại nhiều lần, nhất là sau trận động đất năm 1923 (làm trên 142 ngàn người chết) và sau Thế chiến thứ II.
Năm 1964, chưa đầy 20 năm sau khi bại trận, Nhật bản đã phô trương với thế giới thành quả tái thiết của mình qua Thế vận hội 1964 và shinkansen (bullet train). Năm 1965, Tokyo đã qua mặt Nữu Ước để trở thành thành phố lớn nhất thế giới về dân số.
Qua thập niên 1970, với sự phát triển khu Sunshine và việc xây dựng phi trường Narita đã làm cho dân số Tokyo tăng thêm. Hệ thống chuyên chở công cộng ở Tokyo, mà chính yếu là xe lửa, từ đó trở thành bận bịu nhất thế giới. Ai đã tới Tokyo không thể quên được các ga xe lửa đầy ắp người, đặc biệt là các ga Shinjuku, Shibuya, Marunouchi (Tokyo), Shinagawa, Ikebukuro, Ueno, Akihabara …
Một góc khác của Tokyo Chúng tôi đặt chân đến Tokyo vào hạ tuần tháng 7. Từ phi trường Nirata đến trung tâm Tokyo mất gần 1 giờ dùng xe lửa tốc hành hạn chế (limited express). Sau đó chúng tôi vào tuyến đường Yamanote (Tokyo loop) đến Shibuya và từ Shibuya đến chỗ ở. Chúng tôi chọn cách di chuyển rẻ nhất, nên đã mất thêm hơn khoảng 20 phút (mất gần 2 giờ thay vì 1 giờ rưỡi từ Nirata đến chỗ ở).
Shibuya (渋谷) là một trong số 29 ga của tuyến đường Yamanote. Đó là ga xe lửa chúng tôi phải dùng hàng ngày khi ở Tokyo. Để chạy một vòng của tuyến xe lửa không trạm đầu, không trạm cuối này, mỗi xe lửa phải mất khoảng 60 phút. Chúng tôi không biết cùng một lúc có bao nhiêu xe chạy cùng chiều (clockwise) và ngược chiều (anticlockwise). Tôi dự tính khoảng 40 xe, mỗi xe gồm 10/11 toa và dài trên dưới 300m. Trung bình mỗi ngày khoảng 3 triệu rưởi người dùng tuyến đường này và ga Shinjuku là ga rất tấp nập, được xếp hạng là tấp nập nhất thế giới (a).
Một xe lửa của tuyến Yamanote Nếu trái tim của nước Nhật là Tokyo thì trái tim của Tokyo có lẽ chính là Shinjuku (新宿). Shinjinku là nơi tập trung tất cả các cơ quan hành chánh, với những toà nhà chọc trời được xây dựng trong thập niên 1970, và những cửa hàng thương mại chính yếu. Trên TV, khi có tin tức về Nhật với cảnh đèn neon chớp nhoáng sáng chưng, chúng ta có thể đoán ngay đó là Shinjuku.
Tokyo có nhiều danh hiệu “nhất thế giới”. Thực sự, người Nhật cố tình làm sao cho được danh hiệu đó. Hãy lấy vài ví dụ: tháp Tokyo được dựng lên theo khuôn mẫu tháp Eiffel của Pháp nhưng cao hơn chút đỉnh nên trở thành kiến trúc kim loại cao nhất thế giới (Tháp Tokyo nhẹ hơn tháp Eiffel nhiều do thép mới hơn, có cùng độ bền nhưng nhẹ hơn). Hay là cái vòng quay ở khu Odaiba cũng được coi là vòng quay cao nhất thế giới. …
Một copy tượng "Nữ thần Tự do"
Cầu Rainbow
Vòng quay Odaiba Tokyo nói riêng và Nhật bản nói chung cũng thích làm giống “Mỹ” qua các công trình như bãi biển Tokyo là bãi nhân tạo dựa theo một bãi biển ở Nam California. Hoặc giả tượng Nữ thần Tự do cũng ở Odaiba, rồi cầu Rainbow Bridge v.v.. Có người còn nói nếu Dysneyland ở Tokyo không có các bảng chữ Nhật và chữ Hán thì ta có thể nghĩ là mình đang vào trong Dysneyland ở Nam Cali.
Về phương diện kinh tế, Tokyo có mức thu nhập hàng năm (GDP) cao hơn cả quốc gia đứng thứ 8 về phương diện kinh tế trên thế giới. Mức sinh hoạt ở Tokyo rất đắt đỏ, đã dẫn đầu thế giới 14 năm liền (hiện đang cạnh tranh với Oslo). Đây là vài con số mà chúng tôi đã thực sự dùng:
- Gạo hạng trung bình ¥ 3,980/10kg hạng tốt hơn ¥ 5,200/10kg,
- Thịt heo từ ¥ 2,100 đến ¥ 4,400 một ký,
- Thịt bò từ ¥ 3,000 đến ¥ 8,000 một ký (riêng thịt bò Kobe, giá trên bàn ăn lên tới ¥ 50,000 một ký, rẻ nhất cũng phải ¥ 35,000 một ký),
- Vé xe lửa từ ¥ 120 đến ¥ 210 mỗi trạm (dĩ nhiên đi càng xa càng rẻ),
- Taxi tối thiểu ¥ 660 và lên rất nhanh theo đoạn đường đi (tính theo mét) hoặc theo giờ (nếu kẹt xe). Đi sau 10-11 giờ đêm thêm 30%,
Chúng tôi nhận thấy có một vài mặt hàng rẻ hơn ở Úc như máy giặt quần áo (rẻ khoảng 50%), mực máy máy in (rẻ hơn khoảng 55%), xe đạp (khoảng 20%) và thuốc lá (đến 75%).
(Còn tiếp)
(a)Trong một ngày, xe lửa NY chuyên chở gần 5 triệu hành khách qua 468 ga trên 26 tuyến đường, trong khi chỉ một tuyến Yamanote đã chuyên chở trên 3 triệu rưởi người qua 29 ga. Trong số 29 ga, chỉ có 2 ga không “nối” với các tuyến đường khác.