Du-lịch khắp nơi

Đi du lịch, chứng kiến những điều lạ xin chia sẻ.
User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Thu cố đô Nhật

Thiếu nữ Nhật trong trang phục kimono dạo chơi trên lá vàng, cố đô Kyoto thay áo qua ảnh của độc giả Vũ Trang. Ảnh chụp bằng máy Canon EOS 40D.


Image
Du khách dạo bước tại Arishiyama, một địa danh nổi tiếng để ngắm lá đỏ ở Kyoto.

Image
Thiếu nữ Nhật diện Kimono truyền thống đi chùa Kiyomizu.

Image
Học sinh tới trường dưới rừng cây mùa thu rực rỡ.

Image
Du khách có thể ngắm Kyoto cổ xưa trên những chiếc xe kéo như thế này.

Image
Ngôi chùa Kyomizudera, di sản văn hóa thế giới, ngập tràn nắng thu.

Image
Lối vào điện Fushiminari danh tiếng ở cố đô.

Image
Đạp xe trong buổi sáng bình yên ở Kyoto.

Image
Sắc thu trong chùa Tofukuji.

Vũ Trang

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Montréal, thành phố Pháp trên đất Canada

Image
Thành phố Montréal nhìn từ đồi Mont Royal.

Image
Vương cung thánh đường Notre Dame ở khu phố cổ Montréal

Image
Khu phố cổ Montréal mang dáng vẻ Âu Châu

Trịnh Hảo Tâm
Montréal là thành phố lớn thứ nhì Canada nằm trong tỉnh bang Québec là nơi tiếng Pháp được dùng làm ngôn ngữ chính. Ngày xưa Montréal có tên là Ville Marie (Thành phố Ðức Bà Maria) và hiện tên Montréal lấy từ tên của ngọn đồi Mont Réal nằm ngay tại trung tâm thành phố. Mont Réal là tiếng Pháp thời Trung Cổ có nghĩa là Mont Royal trong tiếng Pháp ngày nay. Thành phố tọa lạc trên một hòn đảo nằm trên con sông St. Lawrence (tiếng Pháp là St. Laurent) đưa nước từ hồ Ontario ra biển Ðại Tây Dương, dân số theo thống kê năm 2006 có 1,620,693 người và kể cả vùng ngoại ô là 3,635,571 người. Nằm trong một nước trước kia là thuộc địa của Ðế Quốc Anh nhưng dân chúng Montréal 57% lại nói tiếng Pháp và tiếng Anh chỉ có 19%.

Giã từ Toronto chúng tôi theo hai đứa cháu gọi bằng cậu ngày xưa cùng chung ghe vượt biển với tôi đi Montréal cách Toronto 337 miles về hướng Ðông Bắc. Ở Montréal tôi cũng có vài người bà con như gia đình người chị cô cậu có hai thằng con cùng đi với tôi trong chuyến vượt biển Tháng Mười Hai, năm 1978. Sau khi thuyền chúng tôi đến bến bờ tự do ở Thái Lan, hai cháu này đi Canada định cư sau đó bảo lãnh cha mẹ sang. Hơn 30 năm bận công ăn việc làm chúng tôi chưa hề gặp nhau. Từ Toronto chúng tôi dùng xa lộ 401 lúc đầu cập theo hồ Ontario, sau đó hết hồ thì cập theo dòng sông Lawrence, con đường thiên lý xa diệu vợi qua rất nhiều thành phố, hỏi người ta đường đi thế nào thì họ nói cứ đi thì chiều thế nào cũng tới Montréal. Buổi trưa khi cậu cháu chúng tôi đi hết hồ Ontario dừng lại ở thành phố Kingston ăn trưa, cà phê cà pháo nghỉ một chút rồi lại tiếp tục con đường cái quan. Chúng tôi đi ngang qua ngả rẽ xa lộ 416 con đường để đi lên thủ đô Ottawa của xứ Canada, nơi thằng em trai tôi hiện ở Toronto hồi mấy năm đầu định cư có ở tại Ottawa này. Sau đó gia đình bên vợ và thằng em tôi cùng dọn về Toronto để mở tiệm vàng trong khu phố Tàu, riêng em tôi đi làm và vợ mở cửa hàng hoa cho đến ngày nay.

Sáu giờ chiều vẫn cập theo sông Lawrence khi đi hết phần đất tỉnh Ontario vừa sang tỉnh Québec xa lộ 401 đổi thành 20 đụng phải con sông Ottawa từ bên trong Ottawa chảy ra để nhập dòng vào sông Lawrence. Vùng này toàn sông hồ đầm ao, cây cối rất đẹp nhưng không thấy nhà cửa, chắc là sợ lũ lụt. Vừa qua cầu bắc ngang sông Ottawa thì chạm vùng ngoại ô nhà cửa đông đúc của Montréal, tôi mới biết Montréal nằm nơi giao nhau giữa hai con sông. Bảng hiệu giao thông đường sá đều bằng tiếng Pháp, hai thằng cháu tôi vốn ở Connecticut xứ Mỹ hơi lo vì không biết tiếng Pháp, chúng nó nói sợ khi đói không biết làm sao gọi món ăn? Hai đứa hỏi tôi còn nhớ tiếng Pháp không? Ngày xưa tôi có học tiếng Pháp nhưng tiếng Pháp giống cái giống đực, chia động từ rắc rối quá nên khi thực dân Pháp rút về nước tôi trả lại cho họ và chuyển sang học tiếng Anh. Vốn liếng tiếng Pháp đong đưa như vậy nhưng khi hai thằng cháu hỏi, tôi làm bộ ngâm câu: “Nị hảo, mẹt xì đây thuộc cả. Không sang Tàu tớ cũng qua Tây!” để trấn an hai đứa.

Tiếng Pháp vùng Québec

Rẽ ra xa lộ vào thành phố Montréal, đường sá nho nhỏ nhiều bảng hiệu lưu thông viết toàn tiếng Pháp mà ngoài xa lộ không thấy. Có bảng màu đỏ đề “Arrêt”, thằng cháu lái xe hoang mang hỏi: “Cậu ba, bảng này nói cái gì vậy?” Tôi cũng không biết, thấy giống chữ “Arrest” trong tiếng Anh có nghĩa là bị bắt giữ mà lại màu đỏ, tôi kêu nó thắng lại. Thấy bên đường đối diện cũng bảng này xe dừng lại 10 giây rồi lại chạy tiếp. Tôi mới biết là bảng “Stop”! Lạ thật tôi từng qua bên Pháp, họ vẫn đề chữ “Stop” giống như bên Mỹ, còn ở Toronto hay ngoài xa lộ tỉnh Ontario bảng lưu thông vẫn như bên Mỹ, nếu đề chữ thì bằng hai thứ tiếng. Còn ở tỉnh Québec này bảng “Stop” lại đề là “Arrêt” và còn vài bảng hiệu nữa đến giờ tôi cũng không hiểu nghĩa là gì?

Ngày xưa tìm ra vùng Montréal là người Pháp dưới thời vua Francis I vào khoảng năm 1500, sau đó người Pháp di dân sang, đến năm 1760 họ đầu hàng người Anh và nước Anh chiếm làm thuộc địa. Do đó đa số dân chúng ở đây có tổ tiên là người Pháp nên họ nói tiếng Pháp. Montréal là thành phố lớn duy nhất trên lục địa Bắc Mỹ nói tiếng Pháp, so với cả thế giới là thành phố đông dân nói tiếng Pháp chỉ sau Paris mà thôi. Có đến 6.7 triệu người Canada nói tiếng Pháp phần đông sống trong tỉnh Québec với hai thành phố lớn là Québec và Montréal. Ngoài tỉnh Québec còn khoảng 1 triệu người nói tiếng Pháp ở các tỉnh bang Manitoba, New Brunswick, Alberta, Nova Scotia và Saskatchewan. Tiếng Pháp người dân Québec nói có chút ít khác với tiếng Pháp hiện nay ở Paris vì tiếng Québec là tiếng Pháp vào thế kỷ 17, 18 trong khi tiếng Paris du nhập nhiều tiếng Anh thông dụng trở thành tiếng quốc tế. Thí dụ như chữ “cuối tuần”, người Paris nói là “week-end” thì người Québec vẫn dùng “fin de semaine”, Paris dùng chữ “e-mail” thì Québec dùng chữ “courriel”, chữ “thức uống” người Paris nói là “boisson” trong khi người Québec là “breuvage”, “ăn tối” Paris nói là “diner” ở Québec là “souper”.

Thành phố Montréal

Thành phố Montréal nằm trên một đảo hình trái lê chiều dài khoảng 31 miles (50 km) và ngang khoảng 10 miles (16 km), khu trung tâm tức phố cổ nằm cạnh bờ sông Lawrence về hướng Ðông. Nơi đây có bến cảng, tòa thị chính, nhà thờ Ðức Bà, khu phố Tàu. Qua bên kia sông để đi về hướng Ðông có 4 cầu xe hơi, 2 cầu xe điện, 1 đường xe điện ngầm Métro và một đường hầm xe hơi dưới lòng sông. Ở hướng Tây là sông Prairies nhỏ hơn sông Lawrence cũng có 6 chiếc cầu bắc ngang để đi qua khu ngoại ô là Laval. Phía bên trong giữa đảo là dãy đồi Mont Royal hiện là công viên thành phố, dưới chân đồi hướng Ðông là khu tài chính, ngân hàng với vài chục cao ốc chọc trời giống như ở Toronto. Phi trường quốc tế Montréal là Pierre Elliot Trudeau Airport ở về hướng Nam cuối đảo rất gần thành phố. Ðường sá trong thành phố nhỏ hẹp hơn các thành phố bên Mỹ, xe cộ cũng ít hơn, phố xá nhà cửa có nét giống Âu Châu nhất là những dãy phố lầu liên tục sát vách nhau. Nhà cửa dân ở thường là các chung cư nhiều tầng lầu và rất ít nhà riêng với sân trước, vườn sau như ở Mỹ. Ít bãi đậu xe nên thường xe hơi đậu dọc theo hai bên đường, lưu thông trên phố có xe đạp, xe gắn máy như ở Âu Châu. Montréal không cho rẽ phải khi đèn đỏ, lại ít cho quẹo trái ở các ngã tư, đến ngã tư nào cho rẽ phải hay trái đều có bảng vẽ màu xanh.

Về lưu thông công cộng khá tiện dụng cho người dân, Montréal có hệ thống xe buýt, xe điện ngầm, cả 2 hệ thống của hãng Société de transport de Montréal (STM). Hệ thống xe buýt STM có 165 tuyến đường ban ngày và 20 tuyến đường ban đêm. Hệ thống xe điện ngầm (Métro) khánh thành năm 1966 hiện nay có 4 tuyến đường với 68 nhà ga, mỗi nhà ga cách thiết kế, nghệ thuật trang trí khác nhau và xe chạy bằng bánh cao su rất êm ái không gây ồn ào. Người sáng kiến dự án này là thị trưởng Jean Drapeau sau đó đã có công vận động để Montréal được tổ chức Thế Vận Mùa Hè 1976. Hệ thống xe điện ngầm chạy đến tận bờ phía Nam ở Longueuil, phía Bắc đến thành phố ngoại ô là Laval với 3 nhà ga mới thành lập. Ngoài ra trong thành phố còn có hệ thống xe điện chạy trên mặt đất là Commuter Rail nối khắp các vùng ngoại ô với hơn 15.7 triệu hành khách sử dụng trong năm 2007 chỉ đứng thứ 6 ở Bắc Mỹ sau các thành phố New York, Chicago, Boston, Philadelphia và Toronto mà thôi.

Lịch sử Montréal

Nhiều vật dụng các nhà khảo cổ đào lên được cho thấy nhiều bộ lạc du mục đã sống trên đảo ít nhất 2,000 năm trước khi người Âu Châu đến. Người Iroquoians đã tạo dựng làng Hochelaga dưới chân núi Royal. Ngày 2 Tháng Mười, 1535, nhà thám hiểm người Pháp tên Jacques Cartier đến viếng làng Hochelaga và tuyên bố vùng thung lũng St. Lawrence này thuộc về nước Pháp. Ông ta ước lượng dân số ở đây hơn 1 ngàn người. Bảy mươi năm sau nhà thám hiểm người Pháp khác tên Samuel de Champlain báo cáo rằng thổ dân trước kia sống ở đây nay không thấy nữa có lẽ vì chiến tranh giữa các bộ lạc hay vì bịnh dịch di chuyển sinh sống nơi khác. Champlain lập trạm trao đổi da thú với thổ dân trên đảo Montréal vào năm 1611 gọi nơi đây là La Palace Royale, địa điểm ngày nay là Pointe-à-Callière. Năm 1639 Jérôme Le Royer de La Dauversière nhận chức Ðức Ông đến đảo Montréal để thành lập một nhà truyền giáo cho dân bản xứ đồng thời Paul Chomedey de Maisonneuve được bổ nhiệm làm thống đốc thuộc địa này. Ville-Marie trở thành trung tâm trao đổi hàng hóa lấy da thú cũng là trạm căn cứ để người Pháp khám phá thêm vùng Bắc Mỹ và là thuộc địa của nước Pháp cho đến năm 1760, Hầu Tước Pierre Francois de Rigaud đầu hàng và giao Ville-Marie cho người Anh.

Montréal được thành lập thành phố vào năm 1832. Người ta đào kinh Lachine Canal để tàu thuyền lưu thông tạm thời trong lúc ngăn khúc sông St. Lawrence lại để xây cầu Victoria trong kế hoạch biến Montréal thành một mạng lưới đường sắt cho xe hỏa. Ðến năm 1860 Montréal là thành phố lớn nhất trong thuộc địa Anh vùng Bắc Mỹ và là thủ đô của tỉnh Canada từ năm 1844 đến năm 1849. Sau Ðệ Nhất Thế Chiến với luật cấm buôn bán rượu ở Hoa Kỳ khiến Montréal trở thành thiên đàng của dân Mỹ nghiện rượu. Tới thời kỳ kinh tế khủng hoảng năm 1929 thành phố bị ảnh hưởng nặng nề với số người thất nghiệp lên cao. Trong thời gian Thế Chiến Thứ Hai, Thị Trưởng Camillien Houde chống lại luật thi hành quân dịch, ông hô hào dân chúng không đăng ký quân dịch theo luật chính quyền liên bang và ông bị bắt đi tù cho đến năm 1944 mới được thả ra và được bầu chức thị trưởng trở lại lần nữa. Năm 1951 dân số thành phố vượt quá 1 triệu người, thủy trình Saint Lawrence Seaway mở cửa năm 1959 cho phép các tàu biển lớn lưu thông ngang qua Montréal để ra biển đi các nước khác. Trong thập niên 1960 thành phố tổ chức hội chợ quốc tế Expo 1967 cũng như xây các cao ốc chọc trời, xa lộ mới và hệ thống xe điện ngầm. 1976 Montréal tổ chức thành công Thế Vận Hội Mùa Hè. Thập niên 1980 và đầu 1990 kinh tế Montréal tăng trưởng chậm hơn các thành phố khác của Canada nhưng những năm sau đó tình hình kinh tế cải thiện, các hãng xưởng, công ty tập trung về. Năm 2002 với câu “Một đảo, một thành phố” Montréal mở rộng việc thống nhất trở thành 27 quận (boroughs) và bao trùm hết đảo nhưng sau đó dân chúng một số quận không chịu sáp nhập (13% dân số) nhất là dân nói tiếng Anh. Ðến ngày 1 Tháng Giêng 2006, thành phố Montréal chỉ còn 19 quận còn 14 quận kia trả lại tự trị như cũ không thuộc vào Montréal nữa.

Chúng tôi đi tìm nhà người chị cô cậu cũng khá vất vả vì trời lất phất tuyết rơi mặc dù chỉ mới giữa Tháng Mười. Loanh quanh một lúc cũng tìm được trong một khu Condo nhà dính liền vách với nhau. Hai vợ chồng chị cô cậu ở một căn, gia đình hai đứa con trai ở hai căn cũng trong khu đó. Từ 1979 đến nay đã hơn 30 năm chúng tôi mới gặp nhau, người chị bà con đã 75 và bị bệnh lãng trí Alzheimer nên cũng không nhớ tôi là ai? Ông chồng và hai thằng con cùng cậu cháu chúng tôi ngồi hàn huyên ôn lại chuyện xưa rất vui vẻ. Sau khi dùng cơm tối với nhau chúng tôi tạm chia tay để về khách sạn trong khu phố cổ Montréal và hẹn gặp lại ngày hôm sau. Theo hai cháu ở Montréal cho biết trước 1975, người Việt ở Montréal chỉ độ 100 người đa số là sinh viên du học. Sau đó nhất là trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1985 Montréal tiếp nhận thuyền nhân tỵ nạn từ các trại Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Hồng Kông v.v... Hiện nay cộng đồng Canada gốc Việt tại Montréal ước tính khoảng 20,000 người hội nhập thành công với người bản xứ và cũng thành lập nhiều hội đoàn văn hóa, tôn giáo sinh hoạt rất đều đặn. Montréal cũng có khu phố Hoa Việt nằm trên đường Boulevard Saint Laurent, mặc dù nhỏ không so sánh được với Toronto nhưng cũng có nhiều tiệm phở, bánh mì, cà phê tạm sưởi ấm lòng người ly hương.

Cùng ngòi bút lãng du Trịnh Hảo Tâm, đã phát hành 5 quyển ký sự du lịch: “Trên Những Nẻo Ðường Việt Nam”, “Miền Tây Hoa Kỳ”, “Trung Quốc”, “Mùa Thu Ðông Âu” và “Tây Âu Cổ Kính”. Ðộc giả từng thích thú theo dõi các chuyến đi của tác giả trên Người Việt có thể tìm mua tại các nhà sách, đồng giá 15 USD mỗi quyển. Ở xa gởi ngân phiếu 15 USD về tác giả, sách có chữ ký sẽ được gởi đến tận nhà (bao cước phí):

Trịnh Hảo Tâm

3683 Hawks Drive
Brea CA 92823
Ðiện thoại 714-528-1413
Email: trinhhaotam@hotmail.com

User avatar
dodom
Posts: 2723
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Image


Giao thông ở New York

New York là thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ, tọa lạc ở cửa sông Hudson thuộc miền Nam tiểu bang New York, bên bờ biển Ðại Tây Dương. Dân số vùng Ðô Thị New York (New York Metropolitan) là 18.7 triệu người, năm 2007 đứng thứ 5 trên thế giới sau Tokyo, Sao Paulo, Mexico City và Seoul.
Là thành phố đông dân lại chật hẹp, nhất là khu Manhattan trung tâm thành phố nằm trên một đảo nhỏ nên vấn đề giao thông là một bài toán khó giải quyết, trên đường phố xe cộ lúc nào cũng bị kẹt.
Tuy nhiên mạng lưới giao thông cộng cộng như xe điện ngầm, xe buýt rất là hữu hiệu và 54.6% dân New York hàng ngày sử dụng hệ thống giao thông công cộng, không giống như những thành phố lớn khác trên nước Mỹ có đến 90% dân chúng hàng ngày lái xe riêng để đi làm.
Sau khi qua khu Harlem trung tâm sinh hoạt văn hóa của người Mỹ gốc Phi Châu, chúng tôi lái xe về hướng Nam để vào Manhattan là trung tâm của New York với một rừng buyn đinh cao ngất trời.
Ðây là khu thương mại, tài chánh với trụ sở các ngân hàng, các công ty có tầm hoạt động khắp thế giới, các viện bảo tàng, nhiều trường đại học.
Manhattan nằm trên một đảo hẹp và dài, phía Tây có sông Hudson, phía Ðông có sông East River là những hải cảng thiên nhiên thuận tiện cho tàu bè cập bến.

Ðường sá ở Manhattan nằm vuông vức như bàn cờ, đường ngang theo hướng Ðông Tây gọi là “cross-town” được đánh từ số 9 ở hướng Nam và tăng dần lên về phía Bắc đến 155 con đường gọi là Street.
Ðường dọc theo hướng Bắc Nam có khoảng 12 đường cũng đánh số nhưng viết ra nguyên chữ như First Avenue, Second Avenue cho tới Twelth Avenue và một số đại lộ lớn có tên như Broadway, Park, Columbus v... Ðường ở Manhattan toàn là đường lưu thông một chiều, không cho quẹo phải khi đèn đỏ trừ một số ngã tư có bảng cho phép, không được cầm điện thoại di dộng nói chuyện lúc lái xe và nhiều đường không cho xe chở hàng (commercial truck hay moving truck) lưu thông.

Hai cháu tôi ở New Haven thường đi công việc hãng xuống Manhattan nên có vẻ rành rẽ đường sá ở đây, cho biết đèn lưu thông trên những con đường chiều dọc Bắc Nam thời gian đèn xanh kéo dài hơn những con đường ngang “cross-town.”
Nếu sử dụng những con đường ngang tránh ở khu trung tâm (giữa đường 30 và 50th Street) vì nạn kẹt xe chờ đợi rất lâu. Ðậu xe trên đường phố cũng rất khó khăn vì phải tránh các cây nước chữa cháy (fire hydrant), nơi đậu xe chữa lửa, nên đọc kỹ các bảng viết để tránh bị kéo xe hoặc giấy phạt.
Ngoài ra có khoảng 100 ngã tư gắn máy hình tự động chụp những xe vượt đèn đỏ, giấy phạt gởi tới chủ xe chứ không cần biết người lái xe vi phạm luật là ai! Những con đường một chiều có nhiều “lane”, khi nghe tiếng rú còi của xe chữa lửa phải tránh ra khỏi “lane” ở giữa vì “lane” này chính là đường khẩn cấp.

Vấn đề giao thông tại New York
Muốn đến New York từ những nơi xa người ta sử dụng đường hàng không, vùng New York có 3 phi trường lớn là John F. Kennedy International, Newark Liberty International là 2 phi trường quốc tế và LaGuardia là phi trường cho những chuyến bay nội địa trong nước Mỹ và chính quyền đang nghiên cứu để xây thêm phi trường thứ tư. Ngoài ra còn có phi trường Stewart International gần Newburg là phi trường phòng hờ, giải quyết trong trường hợp 3 phi trường kia quá đông hoặc trở ngại. Trong năm 2005 có đến 100 triệu hành khách đi và đến 3 phi trường nói trên, người ta tính cứ 4 người rời nước Mỹ thì một người bay từ phi trường John F. Kennedy hoặc Newark.
Từ những thành phố Canada hay miền Ðông Hoa Kỳ như Washington D.C., Boston người ta đến New York bằng hệ thống xe điện Amtrak và xuống ở nhà ga Pennsylvania Station tọa lạc ở phía dưới thương xá Pennsylvania Plaza nằm ở đường Seventh Avenue, và 31st Street ở khu Midtown Manhattan.
Tại nhà ga này có đường nối với 6 tuyến đường xe điện ngầm New York City Subway nên rất thuận tiện cho hành khách muốn đến các quận ngoại ô của New York. Mỗi ngày có 600,000 hành khách qua nhà ga này so với 140,000 qua nhà ga trung ương Grand Central Terminal.
Ga Grand Central tọa lạc trên đường 42nd Street và Park Avenue cũng ở Ga Grand Central tọa lạc trên đường 42nd Street và Park Avenue cũng ở khu Midtown Manhattan là nhà ga xe lửa lớn nhất thế giới khi mới xây (1871), có 2 tầng đều dưới mặt đất với 44 thềm ga (platform) và 67 đường ray.
Ngày nay thêm nhà ga của hãng xe điện Long Island Rail Road ngay phía dưới 2 tầng có từ trước khiến ga Grand Central có đến 48 thềm ga và 75 đường ray chiếm diện tích 48 acres (19 ha.)
. Nhà ga lấy tên của nhà bưu điện trung ương Grand Central gần đó và phục vụ hành khách đi các tuyến Metro North Railroad về các thành phố phía Bắc New York như Harlem, Hudson, Westchester, Putnam, Dutchess Counties, thành phố Fairfield và New Haven của tiểu bang Connecticut
Ga Grand Central cũng nối với các tuyến đường số 4, 5, 6, 7 của hệ thống New York City Subway để về nhiều hướng khác trong vùng New York. Hồi năm 1979 khi cư ngụ ở New Haven mỗi lần xuống New York chơi, tôi đều đến và đi từ nhà ga Grand Central này, bên trong rộng lớn và cổ xưa như các nhà ga ở Âu Châu.
Bước vào gian đại sảnh Main Concourse (phòng chờ đợi chính) của nhà ga là một cảnh tượng huy hoàng rộng lớn và đông đảo hành khách. Trong ánh sáng lung linh, phía trên trần buông xuống một lá quốc kỳ Mỹ giữa gian đại sảnh (lá quốc kỳ xuất hiện sau biến cố 11 Tháng Chín), phía xung quanh ngày xưa là những phòng bán vé, bây giờ bán vé bằng máy nên những căn phòng này là bàn chỉ dẫn, phát bản đồ hoặc bán vé cho du khách không sử dụng máy bán vé
. Nơi đại sảnh cũng là địa điểm hẹn hò gặp gỡ nên bao giờ cũng có chiếc đồng hồ cổ điển.
Chiếc đồng hồ có 4 mặt được đặt trên nóc của quầy chỉ dẫn ở giữa phòng rất dễ nhìn thấy, mặt đồng hồ làm bằng ngọc thạch theo lượng định của 2 nhà đấu giá Sotheby's và Christie's trị giá hiện nay của chiếc đồng hồ từ 10 đến 20 triệu Mỹ kim.

Phía ngoài nhà ga ở mặt tiền nhìn ra đường 42nd Street còn có một đồng hồ khác mặt kính do nhà làm kính màu nổi tiếng của Mỹ là ông Louis Comfort Tiffany (1848-1933) thực hiện, xung quanh đồng hồ là tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia người Pháp Jules Felix Coutan (1848-1939) thiết kế.
Vào năm 1914 khi dựng bức điêu khắc diễn tả 3 người trên chiếc đồng hồ này, ở thời đó đây là tác phẩm điêu khắc lớn nhất thế giới. Nguyên tượng cao 48 ft (14.6m) và chiếc đồng hồ to lớn nằm ở giữa
Ðại sảnh chính bên trong ga Grand Central.
New York là thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ, tọa lạc ở cửa sông Hudson thuộc miền Nam tiểu bang New York, bên bờ biển Ðại Tây Dương. Dân số vùng Ðô Thị New York (New York Metropolitan) là 18.7 triệu người, năm 2007 đứng thứ 5 trên thế giới sau Tokyo, Sao Paulo, Mexico City và Seoul. Là thành phố đông dân lại chật hẹp, nhất là khu Manhattan trung tâm thành phố nằm trên một đảo nhỏ nên vấn đề giao thông là một bài toán khó giải quyết, trên đường phố xe cộ lúc nào cũng bị kẹt. Tuy nhiên mạng lưới giao thông cộng cộng như xe điện ngầm, xe buýt rất là hữu hiệu và 54.6% dân New York hàng ngày sử dụng hệ thống giao thông công cộng, không giống như những thành phố lớn khác trên nước Mỹ có đến 90% dân chúng hàng ngày lái xe riêng để đi làm.

Sau khi qua khu Harlem trung tâm sinh hoạt văn hóa của người Mỹ gốc Phi Châu, chúng tôi lái xe về hướng Nam để vào Manhattan là trung tâm của New York với một rừng buyn đinh cao ngất trời.
Ðây là khu thương mại, tài chánh với trụ sở các ngân hàng, các công ty có tầm hoạt động khắp thế giới, các viện bảo tàng, nhiều trường đại học. Manhattan nằm trên một đảo hẹp và dài, phía Tây có sông Hudson, phía Ðông có sông East River là những hải cảng thiên nhiên thuận tiện cho tàu bè cập bến.

Ðường sá ở Manhattan nằm vuông vức như bàn cờ, đường ngang theo hướng Ðông Tây gọi là “cross-town” được đánh từ số 9 ở hướng Nam và tăng dần lên về phía Bắc đến 155 con đường gọi là Street. Ðường dọc theo hướng Bắc Nam có khoảng 12 đường cũng đánh số nhưng viết ra nguyên chữ như First Avenue, Second Avenue cho tới Twelth Avenue và một số đại lộ lớn có tên như Broadway, Park, Columbus
... Ðường ở Manhattan toàn là đường lưu thông một chiều, không cho quẹo phải khi đèn đỏ trừ một số ngã tư có bảng cho phép, không được cầm điện thoại di dộng nói chuyện lúc lái xe và nhiều đường không cho xe chở hàng (commercial truck hay moving truck) lưu thông.
Hai cháu tôi ở New Haven thường đi công việc hãng xuống Manhattan nên có vẻ rành rẽ đường sá ở đây, cho biết đèn lưu thông trên những con đường chiều dọc Bắc Nam thời gian đèn xanh kéo dài hơn những con đường ngang “cross-town.” Nếu sử dụng những con đường ngang tránh ở khu trung tâm (giữa đường 30 và 50th Street) vì nạn kẹt xe chờ đợi rất lâu.

Ðậu xe trên đường phố cũng rất khó khăn vì phải tránh các cây nước chữa cháy (fire hydrant), nơi đậu xe chữa lửa, nên đọc kỹ các bảng viết để tránh bị kéo xe hoặc giấy phạt. Ngoài ra có khoảng 100 ngã tư gắn máy hình tự động chụp những xe vượt đèn đỏ, giấy phạt gởi tới chủ xe chứ không cần biết người lái xe vi phạm luật là ai! Những con đường một chiều có nhiều “lane”, khi nghe tiếng rú còi của xe chữa lửa phải tránh ra khỏi “lane” ở giữa vì “lane” này chính là đường khẩn cấp.
Vấn đề giao thông tại New York
Muốn đến New York từ những nơi xa người ta sử dụng đường hàng không, vùng New York có 3 phi trường lớn là John F. Kennedy International, Newark Liberty International là 2 phi trường quốc tế và LaGuardia là phi trường cho những chuyến bay nội địa trong nước Mỹ và chính quyền đang nghiên cứu để xây thêm phi trường thứ tư.

Ngoài ra còn có phi trường Stewart International gần Newburg là phi trường phòng hờ, giải quyết trong trường hợp 3 phi trường kia quá đông hoặc trở ngại. Trong năm 2005 có đến 100 triệu hành khách đi và đến 3 phi trường nói trên, người ta tính cứ 4 người rời nước Mỹ thì một người bay từ phi trường John F. Kennedy hoặc Newark.
Từ những thành phố Canada hay miền Ðông Hoa Kỳ như Washington D.C., Boston người ta đến New York bằng hệ thống xe điện Amtrak và xuống ở nhà ga Pennsylvania Station tọa lạc ở phía dưới thương xá Pennsylvania Plaza nằm ở đường Seventh Avenue, và 31st Street ở khu Midtown Manhattan. Tại nhà ga này có đường nối với 6 tuyến đường xe điện ngầm New York City Subway nên rất thuận tiện cho hành khách muốn đến các quận ngoại ô của New York. Mỗi ngày có 600,000 hành khách qua nhà ga này so với 140,000 qua nhà ga trung ương Grand Central Terminal.
Ga Grand Central tọa lạc trên đường 42nd Street và Park Avenue cũng ở khu Midtown Manhattan là nhà ga xe lửa lớn nhất thế giới khi mới xây (1871), có 2 tầng đều dưới mặt đất với 44 thềm ga (platform) và 67 đường ray. Ngày nay thêm nhà ga của hãng xe điện Long Island Rail Road ngay phía dưới 2 tầng có từ trước khiến ga Grand Central có đến 48 thềm ga và 75 đường ray chiếm diện tích 48 acres (19 ha.).

Nhà ga lấy tên của nhà bưu điện trung ương Grand Central gần đó và phục vụ hành khách đi các tuyến Metro North Railroad về các thành phố phía Bắc New York như Harlem, Hudson, Westchester, Putnam, Dutchess Counties, thành phố Fairfield và New Haven của tiểu bang Connecticut .. Ga Grand Central cũng nối với các tuyến đường số 4, 5, 6, 7 của hệ thống New York City Subway để về nhiều hướng khác trong vùng New York. Hồi năm 1979 khi cư ngụ ở New Haven mỗi lần xuống New York chơi, tôi đều đến và đi từ nhà ga Grand Central này, bên trong rộng lớn và cổ xưa như các nhà ga ở Âu Châu.
Bước vào gian đại sảnh Main Concourse (phòng chờ đợi chính) của nhà ga là một cảnh tượng huy hoàng rộng lớn và đông đảo hành khách. Trong ánh sáng lung linh, phía trên trần buông xuống một lá quốc kỳ Mỹ giữa gian đại sảnh (lá quốc kỳ xuất hiện sau biến cố 11 Tháng Chín), phía xung quanh ngày xưa là những phòng bán vé, bây giờ bán vé bằng máy nên những căn phòng này là bàn chỉ dẫn, phát bản đồ hoặc bán vé cho du khách không sử dụng máy bán vé.

Nơi đại sảnh cũng là địa điểm hẹn hò gặp gỡ nên bao giờ cũng có chiếc đồng hồ cổ điển. Chiếc đồng hồ có 4 mặt được đặt trên nóc của quầy chỉ dẫn ở giữa phòng rất dễ nhìn thấy, mặt đồng hồ làm bằng ngọc thạch theo lượng định của 2 nhà đấu giá Sotheby's và Christie's trị giá hiện nay của chiếc đồng hồ từ 10 -20 million dollar.
Phía ngoài nhà ga ở mặt tiền nhìn ra đường 42nd Street còn có một đồng hồ khác mặt kính do nhà làm kính màu nổi tiếng của Mỹ là ông Louis Comfort Tiffany (1848-1933) thực hiện, xung quanh đồng hồ là tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia người Pháp Jules Felix Coutan (1848-1939) thiết kế. Vào năm 1914 khi dựng bức điêu khắc diễn tả 3 người trên chiếc đồng hồ này, ở thời đó đây là tác phẩm điêu khắc lớn nhất thế giới. Nguyên tượng cao 48 ft (14.6m) và chiếc đồng hồ to lớn nằm ở giữa có chu vi là 13 ft (4m).
Trần đại sảnh nhà ga Grand Central trang hoàng những chòm sao vũ trụ trên nền màu xanh ngọc thạch, trần nhà nguyên thủy được họa sĩ người Pháp Paul César Helleu vẽ năm 1912 và được sửa chữa vào cuối thập niên 1930 vì lớp vôi bên ngoài rơi xuống.

Qua thời gian lớp sơn trang trí trần nhà trở nên đen đúa, người ta cho rằng bị khói than đá và dầu diesel chạy xe lửa đóng bám nhưng với kỹ thuật quang học Spectroscopy phân tích cho thấy rằng lớp khói đen bám không gì khác hơn là chất nicotine từ khói thuốc lá của hành khách vì thời đó hút thuốc là mốt thời trang và các bác sĩ cho rằng hút thuốc... bổ phổi! Sau 12 năm sửa chữa, trần nhà đại sảnh hoàn tất vào mùa Thu 1998, với cảnh những chòm sao vàng ánh lung linh trên nền trời xanh đậm nhưng một mảng trần đen đúa được chừa lại ở phía trên của nhà hàng Michael Jordan Steakhouse để du khách không quên những gì đã bám trên trần. Sao lại chừa phần đen trên nhà hàng của tay chơi bóng rổ ở Los Angeles này?
Ngay phía dưới phòng chờ đợi chánh Main Concourse là tầng ẩm thực (Dining Concourse), có nhiều hệ thống bán thức ăn nhanh và nhà hàng trong đó có quán Oyster Bar nổi tiếng với tường và trần là những vòm cong gắn gạch men màu của nhà thiết kế kiến trúc vùng Valencia (Tây Ban Nha) tên Rafael Guastavino (1842-1908). Nhà ga trung ương New York Grand Central Terminal đối với hệ thống xe lửa (ngày nay là xe điện) là trạm cuối cùng, nhưng với hệ thống xe điện ngầm lại là nhà ga trung ương vì hành khách có thể chuyển tiếp đi về mọi nơi trong vùng New York. Nhà ga Grand Central là di tích lịch sử, là kiến trúc địa hình to lớn (landmark) thuộc cấp quốc gia là nơi du khách cần viếng thăm mỗi khi tới New York.
Hệ thống xe điện ngầm ở New York
Trên đây là những phương tiện giao thông của du khách từ xa tới New York (phi cơ, xe điện) còn đa số người dân trong thành phố mỗi ngày đi làm đều sử dụng hệ thống xe điện ngầm. Những thành phố khác như London, Paris, Montréal, Washington, Madrid, Tokyo xe điện ngầm đều ngưng hoạt động từ nửa đêm cho đến 5 giờ sáng nhưng đặc biệt ở New York những tuyến đường xe điện ngầm đều hoạt động 24 giờ mỗi ngày. Hiện nay hệ thống bao trùm hết các quận của New York như Manhattan, Brooklyn, Queens và Bronx, tất cả các tuyến đường đều chạy xuyên qua Manhattan.

Hệ thống xe điện ngầm ở New York hiện có tất cả 468 nhà ga hoạt động 24 giờ mỗi ngày với 26 tuyến đường, chiều dài tổng cộng hệ thống là 229 miles (369 km) với khổ ngang đường rây là 1.435 mét theo đúng tiêu chuẩn thế giới.
Hệ thống xe điện ngầm ở New York do chính quyền thành phố làm chủ và giao cho hãng Metropolitan Transportation Authority dưới tên MTA New York City Transit điều hành và khai thác. Mỗi ngày thường trong tuần trung bình có hơn 5 triệu hành khách sử dụng xe điện ngầm để đi làm việc, 2 ngày cuối tuần số khách ít hơn.
Về lịch sử, đoạn đường ngầm đầu tiên được khai trương cho công chúng sử dụng vào ngày 27 Tháng Mười Một, 1904, sau 35 năm tuyến đường xe trên cao đầu tiên ở New York là tuyến IRT Nine Avenue Line được dân chúng di chuyển hàng ngày.
Trước đó vào năm 1888 một trận bão tuyết chôn ngập thành phố khiến cho chính quyền thấy cần phải làm hệ thống xe di chuyển trong lòng đất. Thưở ấy chưa có máy móc cơ giới tối tân để khoan ngầm dưới mặt đất nên người ta phải đào lộ thiên xây đường xe ngầm với tường và nóc hầm, xong lấp lại và xây đường sá bên trên. Tuy nhiên phương pháp này chỉ thực hiện được ở những nơi đất mềm còn những nơi có đá cứng người ta phải khoan ngầm như ở khu Harlem và đường hầm xuyên dưới sông East River.
Ðoạn dưới đường Park Avenue khoảng giữa đường 33rd và 42nd Street phải dùng ống kim loại cast-iron cho đường xe chạy bên trong ống. Tuy nhiên không phải tất cả đường rây đều nằm trong lòng đất mà có đến 44% đường xe điện ngầm chạy trên mặt đất hay đường cao bên trên được xây bằng bê tông hay hợp kim cast-iron.
Về vấn đề an toàn từ năm 1918 đến nay có tất cả 55 tai nạn xe điện ngầm được ghi nhận nhưng phần lớn đều tai nạn nhỏ. Tai nạn chết người lớn nhất xảy ra vào ngày 1 Tháng Mười Một, 1918, dưới đường Malbone Street gần ga Prospect Park làm thiệt mạng 93 người.

Vấn đề tội ác như cướp bóc, giết người, hiếp dâm cũng xảy ra trong hệ thống có gần 1.5 tỷ người đi lại hàng năm, mức độ trầm trọng thay đổi có lúc cao lúc thấp nhưng từ thập niên 1990 đến nay giảm xuống một cách rõ rệt. Số người tự tử như nhảy xuống khi đoàn tàu tới, từ 1990 đến 2003 là 343 người.
Sau biến cố 11 2001, an ninh dưới các nhà ga, trên xe được tăng cường, lúc đầu cấm quay phim, chụp hình nhưng sau này được bãi bỏ nếu không dùng những máy lớn chuyên nghiệp và phải tuân thủ các điều khoản an ninh do hãng MTA đặt ra. Về những nghệ sĩ hè phố đàn hát để xin tiền, cơ quan MTA cũng cho phép họ hành nghề nhưng phải xin phép và đăng ký, hiện có hơn 100 nghệ sĩ đường phố hành nghề giúp vui dưới các nhà ga có “business lisence” đàng hoàng.

Ngoài xe điện ngầm giao thông công cộng ở New York còn có hệ thống xe buýt, xe điện chạy trên mặt đất và một sư đoàn hùng hậu taxi màu vàng gồm 12,000 chiếc có mặt khắp mọi nơi trong thành phố. Trước kia tôi có một người bạn làm nghề lái taxi ở New York, tôi hỏi sao không mua xe mà phải mướn xe?
Anh ta cho biết muốn làm chủ một chiếc taxi ở đây không phải dễ vì ngoài xe còn đủ thứ giấy phép lên đến cả trăm ngàn đồng! Ở New York còn có xe điện trên không (aerial tramway) treo lơ lửng trên trời nối Manhattan với đảo Roosevelt Island cũng như hệ thống phà từ Manhattan đi các nơi trong cũng như ngoài New York.
Tuyến phà bận rộn và đông khách nhất nước Mỹ là phà từ Lower Manhattan đi Staten Island thủy trình 5.2 mile (8.4km) hàng năm có đến 19 triệu hành khách.
Có thể nói không có loại xe nào mà ở New York không có, ngoài các loại xe giao thông như vừa kể, trong thành phố còn có rất nhiều người đi xe đạp, cỡi ngựa (cảnh sát), xe ngựa cho du khách còn có... xe lôi đạp có thùng phía sau.

Lái xe hơi trong thành phố rất khó vì đông đúc và nạn kẹt xe, bình thường ở ngã tư đèn xanh xe không nhúc nhích được và chỉ di chuyển được khi đèn hết vàng sang đỏ và cảnh sát thông cảm mà không phạt nếu lỡ vượt đèn đỏ ngoại trừ 100 ngã tư có gắn máy chụp hình. Cũng có thể nói người nào đã từng lái xe ở New York được thì chuyện lái xe ở các xứ khác là chuyện dễ như... cơm sườn!

Trịnh Hảo Tấm

Post Reply