TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Moderator: Nguyễn_Sydney
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Chiến tranh làm lu mờ Oscar, Oppenheimer nhận giải phim hay nhất
March 11, 2024
LOS ANGELES, California (NV) – “Oppenheimer,” tựa phim chính kịch dựa trên cuộc đời của một nhân vật có thật, dài ba giờ đồng hồ, trở thành cơn sốt phòng vé đem về hàng tỷ Mỹ kim, được trao giải tác phẩm điện ảnh hay nhất tại Lễ Trao Giải Oscar lần thứ 96, đồng thời là lễ đăng quang cho đạo diễn Christopher Nolan, theo KTLA 5 News.
Sau khi để đạo diễn được cho là hàng đầu Hollywood vuột mất danh hiệu trong nhiều năm, Oscar giờ đây bù đắp khoảng thời gian đó bằng cách trao bảy giải cho tựa phim tiểu sử xuất chúng của Nolan, trong đó có giải tài tử chính xuất sắc nhất trao cho Cillian Murphy, tài tử phụ xuất sắc nhất cho Robert Downey Jr. và đạo diễn xuất sắc nhất cho Nolan.
Khi trao giải cho “Oppenheimer,” Viện Hàn Lâm Khoa Học và Nghệ Thuật Điện Ảnh làm một điều chưa từng có trong hơn một thập niên: trao giải thưởng cao nhất cho tựa phim trường quay có kinh phí lớn, được đón xem rộng rãi. Trong ngành công nghiệp điện ảnh mà áo choàng, khủng long hay Tom Cruise thường là những mảnh ghép cần thiết để có doanh thu phòng vé to lớn, “Oppenheimer” thu hút hàng loạt khán giả tới rạp xem tựa phim gây cấn, nói về phân hạch nguyên tử của J. Robert Oppenheimer và quá trình tạo ra bom nguyên tử.
Từ trái, Emma Thomas, Charles Roven, và Christopher Nolan nhận giải Oscar cho phim hay nhất với “Oppenheimer” tại lễ trao giải lần thứ 96 ở Dolby Theatre đêm 10 Tháng Ba, 2024 ở Hollywood, California (Hình: Kevin Winter/Getty Images)
“Dù tốt hay xấu, tất cả chúng ta đều đang sống trong thế giới của Oppenheimer,” tài tử Murphy phát biểu trong lúc nhận giải. “Tôi muốn dành tặng điều này cho những người kiến tạo hòa bình.”
Là tựa phim xoáy sâu vào khả năng hủy diệt hàng loạt của con người, “Oppenheimer” cũng đang nổi danh — thậm chí vượt qua tựa phim cùng thể loại nói về hiện tượng văn hóa, “Barbie” – như một tựa phim thích hợp cho việc dự báo một thời đại đầy rẫy thảm họa, dù có phải là do con người tạo ra hay không.
Lễ Trao Giải Oscar hôm Chủ Nhật, 10 Tháng Ba tại Đại Hý Viện Dolby ở Los Angeles diễn ra trong bối cảnh chiến tranh ở Gaza và Ukraine, cũng như cuộc bầu cử quan trọng sắp diễn ra ở Hoa Kỳ. Các giải thưởng dành cho phim tài liệu trao cho “20 Days in Mariupol” và phim quốc tế hay nhất “The Zone of Interest” đưa chính trị trở thành tâm điểm chú ý của giải Oscar.
Màn so tài được mong chờ nhất thuộc về Emma Stone, giành giải minh tinh chính xuất sắc nhất cho vai diễn Bella Baxter trong “Poor Things.” Ở giải thưởng được xem là hấp dẫn nhất đêm qua, Stone giành chiến thắng trước Lily Gladstone của “Killers of the Flower Moon.” Gladstone suýt chút nữa trở thành người Mỹ bản địa đầu tiên giành được Giải Oscar.
Thay vào đó, các nhà bình chọn giải Oscar không thể cưỡng lại sự ngưỡng mộ trong màn trình diễn “Poor Things” của Stone. Chiến thắng dành cho Stone, giải Oscar cho minh tinh chính xuất sắc thứ hai của cô sau chiến thắng năm 2017 cho “La La Land,” khẳng định người phụ nữ 35 tuổi này được cho là minh tinh màn ảnh rộng xuất sắc trong thế hệ của cô. Danh sách phụ nữ đoạt giải minh tinh xuất sắc nhất hai lần trở lên đều có những cái tên rất lừng lẫy, như Katharine Hepburn, Frances McDormand, Ingrid Bergman và Bette Davis.
Nhưng sự phản đối và chính trị lại len lỏi vào Giải Thưởng Viện Hàn Lâm trong năm bầu cử. Cuối chương trình, viên chủ sự chương trình Jimmy Kimmel đọc một bài viết chỉ trích trên mạng xã hội từ cựu Tổng Thống Donald Trump.
Nolan từng có nhiều phim đoạt giải Oscar, gồm có “Inception,” “Dunkirk” và “The Dark Knight.” Nhưng chiến thắng hôm Chủ Nhật với cương vị đạo diễn là giải Oscar đầu tiên dành cho nhà làm phim 53 tuổi này. Phát biểu trước giới mộ điệu, Nolan nhấn mạnh rằng điện ảnh đã hơn một trăm tuổi.
“Barbie,” tựa phim ăn khách nhất phòng vé năm ngoái bán được hơn $1.4 tỷ tiền vé, cuối cùng chỉ giành được một giải: ca khúc trong phim hay nhất cho “What Was I Made For?” của Billie Eilish và Finneas. Đây là giải Oscar thứ hai của họ, hai năm sau khi giành chiến thắng với nhạc phim James Bond, “No Time to Die.”
Các cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Israel ở Gaza làm tắc nghẽn giao thông xung quanh Đại Hý Viện Dolby ở Los Angeles, làm gián đoạn sự xuất hiện của các ngôi sao trên thảm đỏ và chuyển sự chú ý của giải Oscar qua cuộc xung đột đang diễn ra. Vài người biểu tình còn hét lên “Thật đáng hổ thẹn!” vào những người đang nhận giải thưởng.
Jonathan Glazer, nhà làm phim Anh Quốc có bộ phim kinh dị về trại tập trung Auschwitz “The Zone of Interest” đoạt giải phim quốc tế hay nhất, rút ra mối liên hệ giữa sự mất nhân tính được mô tả trong phim của ông và hiện thực ngày nay.
Một năm sau khi “Navalny” giành được giải thưởng tương tự, “20 Days in Mariupol” của Mstyslav Chernov, biên niên sử đau khổ về những ngày đầu Nga xâm lược Ukraine, giành giải phim tài liệu hay nhất. Chiến thắng đầu tiên dành cho “Frontline” của hãng tin AP và PBS, có được khi cuộc chiến ở Ukraine vượt qua cột mốc hai năm mà không có dấu hiệu dừng lại.
Chernov, nhà làm phim người Ukraine và cũng là phóng viên hãng tin AP được đề cử Oscar vào ngày ông hay tin quê hương bị đánh bom, lên án kịch liệt về cuộc xâm lược của Nga.
Kịch bản gốc hay nhất thuộc về “Anatomy of a Fall,” tương tự Barbie, được chấp bút bởi hai người: đạo diễn Justine Triet và Arthur Harari. “Tôi nghĩ điều này sẽ giúp tôi vượt qua cơn khủng hoảng tuổi trung niên,” Justine Triet nói.
Jefferson, trước đây là một nhà văn truyền hình từng đoạt giải thưởng, cho biết: “Thay vì làm một bộ phim trị giá $200 triệu, hãy thử làm 20 bộ phim trị giá $10 triệu.”
Chiến thắng dành cho Oppenheimer đem tới cho Hollywood cơ hội vui mừng bất chấp những cơn bão đang hiện diện trong ngành điện ảnh. Phim của Nolan ra mắt vào năm ngoái đúng lúc các tài tử tham gia cùng các nhà biên kịch trong một cuộc bãi công kéo dài liên quan tới các nền tảng phát trực tuyến và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI). Cuộc bãi công của các tài tử chấm dứt vào Tháng Mười Một, nhưng Hollywood vẫn không mấy an tâm. Phát trực tuyến tỏ ra kém cạnh hơn về lợi tức cho phần lớn các hãng phim không có tên trên Netflix.
Nhưng “Barbenheimer” là loại hiện tượng nằm ngoài kế hoạch mà Hollywood cần có nhiều hơn. Hai tựa phim này cũng có thể nâng vị thế giải Oscar truyền hình, vốn được hưởng lợi từ lịch sử khi có những tựa phim lớn tranh giành nhau. Số lượng khán giả lớn nhất mà Giải Oscar từng ghi nhận là thời điểm tựa phim Titanic của James Cameron giành giải Oscar năm 1998. (TTHN)
March 11, 2024
LOS ANGELES, California (NV) – “Oppenheimer,” tựa phim chính kịch dựa trên cuộc đời của một nhân vật có thật, dài ba giờ đồng hồ, trở thành cơn sốt phòng vé đem về hàng tỷ Mỹ kim, được trao giải tác phẩm điện ảnh hay nhất tại Lễ Trao Giải Oscar lần thứ 96, đồng thời là lễ đăng quang cho đạo diễn Christopher Nolan, theo KTLA 5 News.
Sau khi để đạo diễn được cho là hàng đầu Hollywood vuột mất danh hiệu trong nhiều năm, Oscar giờ đây bù đắp khoảng thời gian đó bằng cách trao bảy giải cho tựa phim tiểu sử xuất chúng của Nolan, trong đó có giải tài tử chính xuất sắc nhất trao cho Cillian Murphy, tài tử phụ xuất sắc nhất cho Robert Downey Jr. và đạo diễn xuất sắc nhất cho Nolan.
Khi trao giải cho “Oppenheimer,” Viện Hàn Lâm Khoa Học và Nghệ Thuật Điện Ảnh làm một điều chưa từng có trong hơn một thập niên: trao giải thưởng cao nhất cho tựa phim trường quay có kinh phí lớn, được đón xem rộng rãi. Trong ngành công nghiệp điện ảnh mà áo choàng, khủng long hay Tom Cruise thường là những mảnh ghép cần thiết để có doanh thu phòng vé to lớn, “Oppenheimer” thu hút hàng loạt khán giả tới rạp xem tựa phim gây cấn, nói về phân hạch nguyên tử của J. Robert Oppenheimer và quá trình tạo ra bom nguyên tử.
Từ trái, Emma Thomas, Charles Roven, và Christopher Nolan nhận giải Oscar cho phim hay nhất với “Oppenheimer” tại lễ trao giải lần thứ 96 ở Dolby Theatre đêm 10 Tháng Ba, 2024 ở Hollywood, California (Hình: Kevin Winter/Getty Images)
“Dù tốt hay xấu, tất cả chúng ta đều đang sống trong thế giới của Oppenheimer,” tài tử Murphy phát biểu trong lúc nhận giải. “Tôi muốn dành tặng điều này cho những người kiến tạo hòa bình.”
Là tựa phim xoáy sâu vào khả năng hủy diệt hàng loạt của con người, “Oppenheimer” cũng đang nổi danh — thậm chí vượt qua tựa phim cùng thể loại nói về hiện tượng văn hóa, “Barbie” – như một tựa phim thích hợp cho việc dự báo một thời đại đầy rẫy thảm họa, dù có phải là do con người tạo ra hay không.
Lễ Trao Giải Oscar hôm Chủ Nhật, 10 Tháng Ba tại Đại Hý Viện Dolby ở Los Angeles diễn ra trong bối cảnh chiến tranh ở Gaza và Ukraine, cũng như cuộc bầu cử quan trọng sắp diễn ra ở Hoa Kỳ. Các giải thưởng dành cho phim tài liệu trao cho “20 Days in Mariupol” và phim quốc tế hay nhất “The Zone of Interest” đưa chính trị trở thành tâm điểm chú ý của giải Oscar.
Màn so tài được mong chờ nhất thuộc về Emma Stone, giành giải minh tinh chính xuất sắc nhất cho vai diễn Bella Baxter trong “Poor Things.” Ở giải thưởng được xem là hấp dẫn nhất đêm qua, Stone giành chiến thắng trước Lily Gladstone của “Killers of the Flower Moon.” Gladstone suýt chút nữa trở thành người Mỹ bản địa đầu tiên giành được Giải Oscar.
Thay vào đó, các nhà bình chọn giải Oscar không thể cưỡng lại sự ngưỡng mộ trong màn trình diễn “Poor Things” của Stone. Chiến thắng dành cho Stone, giải Oscar cho minh tinh chính xuất sắc thứ hai của cô sau chiến thắng năm 2017 cho “La La Land,” khẳng định người phụ nữ 35 tuổi này được cho là minh tinh màn ảnh rộng xuất sắc trong thế hệ của cô. Danh sách phụ nữ đoạt giải minh tinh xuất sắc nhất hai lần trở lên đều có những cái tên rất lừng lẫy, như Katharine Hepburn, Frances McDormand, Ingrid Bergman và Bette Davis.
Nhưng sự phản đối và chính trị lại len lỏi vào Giải Thưởng Viện Hàn Lâm trong năm bầu cử. Cuối chương trình, viên chủ sự chương trình Jimmy Kimmel đọc một bài viết chỉ trích trên mạng xã hội từ cựu Tổng Thống Donald Trump.
Nolan từng có nhiều phim đoạt giải Oscar, gồm có “Inception,” “Dunkirk” và “The Dark Knight.” Nhưng chiến thắng hôm Chủ Nhật với cương vị đạo diễn là giải Oscar đầu tiên dành cho nhà làm phim 53 tuổi này. Phát biểu trước giới mộ điệu, Nolan nhấn mạnh rằng điện ảnh đã hơn một trăm tuổi.
“Barbie,” tựa phim ăn khách nhất phòng vé năm ngoái bán được hơn $1.4 tỷ tiền vé, cuối cùng chỉ giành được một giải: ca khúc trong phim hay nhất cho “What Was I Made For?” của Billie Eilish và Finneas. Đây là giải Oscar thứ hai của họ, hai năm sau khi giành chiến thắng với nhạc phim James Bond, “No Time to Die.”
Các cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Israel ở Gaza làm tắc nghẽn giao thông xung quanh Đại Hý Viện Dolby ở Los Angeles, làm gián đoạn sự xuất hiện của các ngôi sao trên thảm đỏ và chuyển sự chú ý của giải Oscar qua cuộc xung đột đang diễn ra. Vài người biểu tình còn hét lên “Thật đáng hổ thẹn!” vào những người đang nhận giải thưởng.
Jonathan Glazer, nhà làm phim Anh Quốc có bộ phim kinh dị về trại tập trung Auschwitz “The Zone of Interest” đoạt giải phim quốc tế hay nhất, rút ra mối liên hệ giữa sự mất nhân tính được mô tả trong phim của ông và hiện thực ngày nay.
Một năm sau khi “Navalny” giành được giải thưởng tương tự, “20 Days in Mariupol” của Mstyslav Chernov, biên niên sử đau khổ về những ngày đầu Nga xâm lược Ukraine, giành giải phim tài liệu hay nhất. Chiến thắng đầu tiên dành cho “Frontline” của hãng tin AP và PBS, có được khi cuộc chiến ở Ukraine vượt qua cột mốc hai năm mà không có dấu hiệu dừng lại.
Chernov, nhà làm phim người Ukraine và cũng là phóng viên hãng tin AP được đề cử Oscar vào ngày ông hay tin quê hương bị đánh bom, lên án kịch liệt về cuộc xâm lược của Nga.
Kịch bản gốc hay nhất thuộc về “Anatomy of a Fall,” tương tự Barbie, được chấp bút bởi hai người: đạo diễn Justine Triet và Arthur Harari. “Tôi nghĩ điều này sẽ giúp tôi vượt qua cơn khủng hoảng tuổi trung niên,” Justine Triet nói.
Jefferson, trước đây là một nhà văn truyền hình từng đoạt giải thưởng, cho biết: “Thay vì làm một bộ phim trị giá $200 triệu, hãy thử làm 20 bộ phim trị giá $10 triệu.”
Chiến thắng dành cho Oppenheimer đem tới cho Hollywood cơ hội vui mừng bất chấp những cơn bão đang hiện diện trong ngành điện ảnh. Phim của Nolan ra mắt vào năm ngoái đúng lúc các tài tử tham gia cùng các nhà biên kịch trong một cuộc bãi công kéo dài liên quan tới các nền tảng phát trực tuyến và trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI). Cuộc bãi công của các tài tử chấm dứt vào Tháng Mười Một, nhưng Hollywood vẫn không mấy an tâm. Phát trực tuyến tỏ ra kém cạnh hơn về lợi tức cho phần lớn các hãng phim không có tên trên Netflix.
Nhưng “Barbenheimer” là loại hiện tượng nằm ngoài kế hoạch mà Hollywood cần có nhiều hơn. Hai tựa phim này cũng có thể nâng vị thế giải Oscar truyền hình, vốn được hưởng lợi từ lịch sử khi có những tựa phim lớn tranh giành nhau. Số lượng khán giả lớn nhất mà Giải Oscar từng ghi nhận là thời điểm tựa phim Titanic của James Cameron giành giải Oscar năm 1998. (TTHN)
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Bom tấn “Oppenheimer” nổ vang với bảy giải Oscar
Minh An
11 tháng 3, 2024
Christopher Nolan với hai chiến thắng vang dội tại Oscar 2024, khi giành được hai trong số giải lớn nhất Academy Awards: Phim xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất (ảnh: Jeff Kravitz/FilmMagic)
“Oppenheimer” của Christopher Nolan đã chấm dứt “cơn hạn hán” kéo dài nhiều năm đối với các phim bom tấn kinh phí lớn (khi những phim thành công thương mại thường ít khi hoặc không thể được ban giám khảo AMPAS ghé mắt đến). Tại lễ công bố Oscar lần thứ 96 (ngày 10 Tháng Ba 2024), “Oppenheimer” đã chiến thắng vang dội với bảy giải, trong đó có giải Phim hay nhất.
Theo BoxOfficeMojo, doanh thu phòng vé toàn cầu của “Oppenheimer” đạt $957 triệu, trở thành bộ phim có doanh thu toàn cầu lớn nhất giành được giải cao nhất của Viện hàn lâm khoa học nghệ thuật điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS) sau 20 năm, kể từ The Lord of the Rings: The Return of the King tại Oscar 2004 (phần cuối cùng trong bộ ba phim The Lord of the Rings của Peter Jackson đã thu về $1.15 tỷ trên toàn thế giới).
Ngoài giải cao nhất (Phim xuất sắc nhất), “Oppenheimer” còn mang lại giải Đạo diễn xuất sắc nhất cho Christopher Nolan; giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Cillian Murphy; Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Robert Downey Jr…
Oscar có xu hướng được lấn át bởi dòng phim nghệ thuật có kinh phí thấp, với chi phí sản xuất lẫn doanh thu phòng vé khiêm tốn, thấp hơn nhiều so với những phim bom tấn như “Oppenheimer”. Phim giành giải Phim hay nhất Oscar 2023, “Everything Everywhere All at Once”, chỉ mang về $143 triệu, tính toàn cầu. “CODA”, bộ phim giành chiến thắng vào năm trước đó, chỉ được phát hành rạp rất hạn chế trước khi được đưa lên ứng dụng streaming Apple TV+. Trong số những tác phẩm đoạt giải Phim hay nhất trong thập niên qua, chỉ có hai phim – “Parasite” của Hàn Quốc năm 2019 và “Green Book” năm 2018 – kiếm được hơn $200 triệu toàn cầu.
Với thành công “Oppenheimer”, Christopher Nolan 53 tuổi không chỉ là đạo diễn thành công về mặt nghệ thuật mà còn là đạo diễn kiếm được nhiều tiền nhất Hollywood. Tạp chí Forbes ước tính ông kiếm được 15% trong “tổng doanh thu đầu tiên” (“first-dollar gross”) của “Oppenheimer”, nghĩa là ông được trả một phần trên mỗi đồng mà bộ phim kiếm được, ngay cả trước khi hãng phim thu hồi chi phí. Từ doanh thu phòng vé, doanh số video gia đình và doanh thu từ việc cấp phép cho dịch vụ phát trực tuyến đầu tiên, Christopher Nolan có thể kiếm được khoảng $72 triệu trước thuế. Tổng doanh thu sẽ tiếp tục tăng khi bộ phim được bán lại cho các nhà phát trực tuyến và tiền bản quyền bán được trong nhiều năm tới.
Mỗi phim do Christopher Nolan sản xuất, kể từ lần đầu tiên hợp tác với Warner Bros. cho dự án “Insomnia” năm 2002, đều thu về ít nhất $100 triệu, và sáu trong bảy bộ phim gần đây nhất của ông – đáng chú ý nhất là hai phim “Dark Knight” cuối cùng – đã thu về hơn $500 triệu (bộ phim thứ bảy, “TeneT”, được phát hành trong thời điểm đại dịch vẫn thu về con số ấn tượng $350 triệu). Christopher Nolan trở thành một trong những đạo diễn quyền lực nhất Hollywood.
Khi chuẩn bị bán dự án tiếp theo (“Oppenheimer”) vào Tháng Chín 2021, các giám đốc điều hành của Paramount, Sony, Universal và Apple đã được mời đến văn phòng Christopher Nolan ở Hollywood Hills để đọc kịch bản. Lập tức các hãng phim tranh nhau giành dự án “Oppenheimer”; và Nolan có đủ lợi thế để yêu cầu một số điều kiện tiên quyết cho các đối tác tiềm năng, trong đó có ngân sách sản xuất $100 triệu, $100 triệu cho tiếp thị; ngoài ra, còn có điều kiện toàn quyền kiểm soát sáng tạo, yêu cầu thời hạn mở rộng cho việc chiếu rạp, khoảng thời gian tạm ngừng mà hãng phim tuyệt đối không được phát hành bất kỳ phim gì trong những tuần trước và sau bộ phim của Christopher Nolan; và cuối cùng là điều kiện được hưởng 20% tổng doanh thu đầu tiên (first-dollar gross).
Cần nhấn mạnh, không phải đạo diễn hoặc diễn viên nào cũng có thể được hãng phim đồng ý với thỏa thuận chia chác “first-dollar gross”. Việc được thỏa mãn yêu cầu này là bằng chứng của thế mạnh tuyệt đối nhất đối với giới làm phim Hollywood. Trong giới diễn viên, gần như không có bất kỳ người nào có thể đề cập “first-dollar gross” với hãng sản xuất, trừ một số ít ngôi sao thượng thặng như Tom Cruise (người kiếm được khoảng 12.5% tổng doanh thu cho bộ phim Mission: Impossible mới nhất). Ngay cả đối với các nhà làm phim có uy tín nhất nhì Hollywood, thỏa thuận chia chác “first-dollar gross” cũng chỉ dành cho những gương mặt sừng sỏ cỡ Steven Spielberg, James Cameron và Peter Jackson.
Trở lại với dự án “Oppenheimer”. Sau khi nghe Christopher Nolan trình bày, người đứng đầu xưởng phim của Universal, Donna Langley, đã đồng ý với các điều kiện của Nolan và duyệt việc sản xuất “Oppenheimer”. Các nguồn tin nói với tờ Forbes rằng thỏa thuận của Nolan với Universal bao gồm 15% tổng doanh thu, chứ không phải như 20% được đưa ra lúc ban đầu. “Oppenheimer” được sản xuất vào đầu năm 2022 và ngày phát hành được ấn định vào Tháng Bảy 2023. Đây là bộ phim đầu tiên của đạo diễn Christopher Nolan không phải do Warner Bros. Pictures phát hành kể từ phim “Memeto” năm 2000. Cũng có thể để phá đám Christopher Nolan lẫn hãng Universal, Warner Bros. Pictures đã chơi xỏ lá khi phát hành bộ phim bom tấn “Barbie” của họ vào cùng ngày với “Oppenheimer” (ngày 21 Tháng Bảy 2023).
Trong chương trình “Actors on Actors” trên Variety, Margot Robbie (nữ diễn viên chính trong “Barbie”) thuật rằng nhà sản xuất Chuck Roven của “Oppenheimer” đã gọi cho cô, yêu cầu Warner Bros. dời ngày phát hành “Barbie” để không trùng ngày với “Oppenheimer”. Tuy nhiên, búp bê “Barbie” không ngại đối đầu và dám chơi lớn với khoa học gia chế bom nguyên tử “Oppenheime”. Margot Robbie trả lời: “Chúng tôi sẽ không dời lịch phát hành (“Barbie”). Nếu sợ phải đối đầu với chúng tôi thì mấy người nên dời lịch (“Oppenheimer”) của mình đi.” Và thế là báo chí Mỹ đặt ra từ “Barbenheimer” để nói về cuộc đụng độ cùng ngày của “Barbie” và “Oppenheimer”. Cả hai đều thắng lớn về doanh thu. “Oppenheimer” đạt được hơn $950 triệu, trong khi “Barbie” thu được hơn $1.4 tỷ.
Với thành công vang dội của “Oppenheimer” về mặt thương mại lẫn phê bình, cuộc chiến giành dự án tiếp theo của Christopher Nolan hứa hẹn khốc liệt hơn. Năm 2023, tờ Variety đưa tin rằng Warner Bros. – không muốn để Universal phỗng tay trên như trong dự án “Oppenheimer” – đã gửi cho Christopher Nolan một tấm séc tiền bản quyền trị giá bảy con số, không kèm theo điều kiện nào, như một khoản ứng trước. “Chúng tôi hy vọng sẽ giành lại được Nolan,” đồng giám đốc điều hành của Warner Bros., Michael De Luca, nói với Variety. Nhiều người trong giới tin rằng, bây giờ, Christopher Nolan muốn bất kỳ điều kiện gì, hãng phim nào cũng phải chìu theo.
__________________
7 Oscar của “Oppenheimer”
Best Picture: Emma Thomas, Charles Roven và Christopher Nolan, Producers
Best Directing: Christopher Nolan
Best Actor in a Leading Role: Cillian Murphy
Best Actor in a Supporting Role: Robert Downey Jr.
Best Cinematography: Hoyte van Hoytema
Best Original Score: Ludwig Göransson
Best Film Editing: Jennifer Lame
______________________
Minh An
11 tháng 3, 2024
Christopher Nolan với hai chiến thắng vang dội tại Oscar 2024, khi giành được hai trong số giải lớn nhất Academy Awards: Phim xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất (ảnh: Jeff Kravitz/FilmMagic)
“Oppenheimer” của Christopher Nolan đã chấm dứt “cơn hạn hán” kéo dài nhiều năm đối với các phim bom tấn kinh phí lớn (khi những phim thành công thương mại thường ít khi hoặc không thể được ban giám khảo AMPAS ghé mắt đến). Tại lễ công bố Oscar lần thứ 96 (ngày 10 Tháng Ba 2024), “Oppenheimer” đã chiến thắng vang dội với bảy giải, trong đó có giải Phim hay nhất.
Theo BoxOfficeMojo, doanh thu phòng vé toàn cầu của “Oppenheimer” đạt $957 triệu, trở thành bộ phim có doanh thu toàn cầu lớn nhất giành được giải cao nhất của Viện hàn lâm khoa học nghệ thuật điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS) sau 20 năm, kể từ The Lord of the Rings: The Return of the King tại Oscar 2004 (phần cuối cùng trong bộ ba phim The Lord of the Rings của Peter Jackson đã thu về $1.15 tỷ trên toàn thế giới).
Ngoài giải cao nhất (Phim xuất sắc nhất), “Oppenheimer” còn mang lại giải Đạo diễn xuất sắc nhất cho Christopher Nolan; giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Cillian Murphy; Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Robert Downey Jr…
Oscar có xu hướng được lấn át bởi dòng phim nghệ thuật có kinh phí thấp, với chi phí sản xuất lẫn doanh thu phòng vé khiêm tốn, thấp hơn nhiều so với những phim bom tấn như “Oppenheimer”. Phim giành giải Phim hay nhất Oscar 2023, “Everything Everywhere All at Once”, chỉ mang về $143 triệu, tính toàn cầu. “CODA”, bộ phim giành chiến thắng vào năm trước đó, chỉ được phát hành rạp rất hạn chế trước khi được đưa lên ứng dụng streaming Apple TV+. Trong số những tác phẩm đoạt giải Phim hay nhất trong thập niên qua, chỉ có hai phim – “Parasite” của Hàn Quốc năm 2019 và “Green Book” năm 2018 – kiếm được hơn $200 triệu toàn cầu.
Với thành công “Oppenheimer”, Christopher Nolan 53 tuổi không chỉ là đạo diễn thành công về mặt nghệ thuật mà còn là đạo diễn kiếm được nhiều tiền nhất Hollywood. Tạp chí Forbes ước tính ông kiếm được 15% trong “tổng doanh thu đầu tiên” (“first-dollar gross”) của “Oppenheimer”, nghĩa là ông được trả một phần trên mỗi đồng mà bộ phim kiếm được, ngay cả trước khi hãng phim thu hồi chi phí. Từ doanh thu phòng vé, doanh số video gia đình và doanh thu từ việc cấp phép cho dịch vụ phát trực tuyến đầu tiên, Christopher Nolan có thể kiếm được khoảng $72 triệu trước thuế. Tổng doanh thu sẽ tiếp tục tăng khi bộ phim được bán lại cho các nhà phát trực tuyến và tiền bản quyền bán được trong nhiều năm tới.
Mỗi phim do Christopher Nolan sản xuất, kể từ lần đầu tiên hợp tác với Warner Bros. cho dự án “Insomnia” năm 2002, đều thu về ít nhất $100 triệu, và sáu trong bảy bộ phim gần đây nhất của ông – đáng chú ý nhất là hai phim “Dark Knight” cuối cùng – đã thu về hơn $500 triệu (bộ phim thứ bảy, “TeneT”, được phát hành trong thời điểm đại dịch vẫn thu về con số ấn tượng $350 triệu). Christopher Nolan trở thành một trong những đạo diễn quyền lực nhất Hollywood.
Khi chuẩn bị bán dự án tiếp theo (“Oppenheimer”) vào Tháng Chín 2021, các giám đốc điều hành của Paramount, Sony, Universal và Apple đã được mời đến văn phòng Christopher Nolan ở Hollywood Hills để đọc kịch bản. Lập tức các hãng phim tranh nhau giành dự án “Oppenheimer”; và Nolan có đủ lợi thế để yêu cầu một số điều kiện tiên quyết cho các đối tác tiềm năng, trong đó có ngân sách sản xuất $100 triệu, $100 triệu cho tiếp thị; ngoài ra, còn có điều kiện toàn quyền kiểm soát sáng tạo, yêu cầu thời hạn mở rộng cho việc chiếu rạp, khoảng thời gian tạm ngừng mà hãng phim tuyệt đối không được phát hành bất kỳ phim gì trong những tuần trước và sau bộ phim của Christopher Nolan; và cuối cùng là điều kiện được hưởng 20% tổng doanh thu đầu tiên (first-dollar gross).
Cần nhấn mạnh, không phải đạo diễn hoặc diễn viên nào cũng có thể được hãng phim đồng ý với thỏa thuận chia chác “first-dollar gross”. Việc được thỏa mãn yêu cầu này là bằng chứng của thế mạnh tuyệt đối nhất đối với giới làm phim Hollywood. Trong giới diễn viên, gần như không có bất kỳ người nào có thể đề cập “first-dollar gross” với hãng sản xuất, trừ một số ít ngôi sao thượng thặng như Tom Cruise (người kiếm được khoảng 12.5% tổng doanh thu cho bộ phim Mission: Impossible mới nhất). Ngay cả đối với các nhà làm phim có uy tín nhất nhì Hollywood, thỏa thuận chia chác “first-dollar gross” cũng chỉ dành cho những gương mặt sừng sỏ cỡ Steven Spielberg, James Cameron và Peter Jackson.
Trở lại với dự án “Oppenheimer”. Sau khi nghe Christopher Nolan trình bày, người đứng đầu xưởng phim của Universal, Donna Langley, đã đồng ý với các điều kiện của Nolan và duyệt việc sản xuất “Oppenheimer”. Các nguồn tin nói với tờ Forbes rằng thỏa thuận của Nolan với Universal bao gồm 15% tổng doanh thu, chứ không phải như 20% được đưa ra lúc ban đầu. “Oppenheimer” được sản xuất vào đầu năm 2022 và ngày phát hành được ấn định vào Tháng Bảy 2023. Đây là bộ phim đầu tiên của đạo diễn Christopher Nolan không phải do Warner Bros. Pictures phát hành kể từ phim “Memeto” năm 2000. Cũng có thể để phá đám Christopher Nolan lẫn hãng Universal, Warner Bros. Pictures đã chơi xỏ lá khi phát hành bộ phim bom tấn “Barbie” của họ vào cùng ngày với “Oppenheimer” (ngày 21 Tháng Bảy 2023).
Trong chương trình “Actors on Actors” trên Variety, Margot Robbie (nữ diễn viên chính trong “Barbie”) thuật rằng nhà sản xuất Chuck Roven của “Oppenheimer” đã gọi cho cô, yêu cầu Warner Bros. dời ngày phát hành “Barbie” để không trùng ngày với “Oppenheimer”. Tuy nhiên, búp bê “Barbie” không ngại đối đầu và dám chơi lớn với khoa học gia chế bom nguyên tử “Oppenheime”. Margot Robbie trả lời: “Chúng tôi sẽ không dời lịch phát hành (“Barbie”). Nếu sợ phải đối đầu với chúng tôi thì mấy người nên dời lịch (“Oppenheimer”) của mình đi.” Và thế là báo chí Mỹ đặt ra từ “Barbenheimer” để nói về cuộc đụng độ cùng ngày của “Barbie” và “Oppenheimer”. Cả hai đều thắng lớn về doanh thu. “Oppenheimer” đạt được hơn $950 triệu, trong khi “Barbie” thu được hơn $1.4 tỷ.
Với thành công vang dội của “Oppenheimer” về mặt thương mại lẫn phê bình, cuộc chiến giành dự án tiếp theo của Christopher Nolan hứa hẹn khốc liệt hơn. Năm 2023, tờ Variety đưa tin rằng Warner Bros. – không muốn để Universal phỗng tay trên như trong dự án “Oppenheimer” – đã gửi cho Christopher Nolan một tấm séc tiền bản quyền trị giá bảy con số, không kèm theo điều kiện nào, như một khoản ứng trước. “Chúng tôi hy vọng sẽ giành lại được Nolan,” đồng giám đốc điều hành của Warner Bros., Michael De Luca, nói với Variety. Nhiều người trong giới tin rằng, bây giờ, Christopher Nolan muốn bất kỳ điều kiện gì, hãng phim nào cũng phải chìu theo.
__________________
7 Oscar của “Oppenheimer”
Best Picture: Emma Thomas, Charles Roven và Christopher Nolan, Producers
Best Directing: Christopher Nolan
Best Actor in a Leading Role: Cillian Murphy
Best Actor in a Supporting Role: Robert Downey Jr.
Best Cinematography: Hoyte van Hoytema
Best Original Score: Ludwig Göransson
Best Film Editing: Jennifer Lame
______________________
- bichphuong
- Posts: 593
- Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
- Been thanked: 1 time
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Oscar: Những người không có cơ hội “cám ơn”
Minh An
Ảnh: Andrew H. Walker/Getty Images Trong lịch sử giải điện ảnh danh giá nhất nước Mỹ, thậm chí có thể nói nhất thế giới – Oscar (Academy Awards) – có không ít diễn viên tài năng nhất nhì Hollywood không bao giờ được trải nghiệm hương vị chiến thắng…
Glenn Close
Glenn Close giữ kỷ lục là nữ diễn viên nhận được nhiều đề cử nhất nhưng không giành được chiến thắng nào. Bà đã được đề cử tám lần kể từ năm 1983 (The World According to Garp, The Big Chill, The Natural, Hillbilly Elegy, Fatal Attraction, Dangerous Liaisons, Albert Knobbs, và The Wife). Năm 2019, bà được coi là ứng cử viên sáng giá nhất cho giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất nhưng tượng Oscar cuối cùng thuộc về Olivia Colman (trong phim The Favourite).
Glenn Close (ảnh: Frazer Harrison/Getty Images)
Peter O’Toole
Cố diễn viên Peter O’Toole giữ kỷ lục nam diễn viên được đề cử nhiều nhất nhưng luôn ra về tay không. Trong suốt sự nghiệp 44 năm, tương tự Glenn Close, Peter O’Toole đã được tám đề cử Oscar, tất cả đều ở hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Năm 2003, một thập niên trước khi qua đời, O’Toole được trao giải Oscar danh dự.
Amy Adams
Amy Adams được giới bình luận đánh giá là nữ diễn viên đương đại tài năng nhất nhưng đến nay cô vẫn chưa giành được Oscar. Dĩ nhiên không phải vì Amy Adams thiếu những màn trình diễn ấn tượng trên màn bạc. Cô đã được đề cử sáu lần trong sự nghiệp kéo dài gần ba thập niên và năm đề cử trong số đó là Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất: Junebug năm 2005, Doubt năm 2008, The Fighter năm 2010, The Master năm 2012 và Vice năm 2018. Đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Amy Adams là cho American Hustle năm 2013.
Amy Adams (ảnh: Gregg DeGuire/Getty Images)
Alfred Hitchcock
Đạo diễn huyền thoại Alfred Hitchcock đã năm lần được đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất nhưng chưa bao giờ được vinh dự cầm tượng Oscar hạng mục đạo diễn. Phim Rebecca đã đoạt giải Phim hay nhất năm 1940, nhưng chiến thắng ở hạng mục đó thuộc về nhà sản xuất chứ không phải đạo diễn. Viện hàn lâm khoa học-nghệ thuật-điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS) thật ra cũng “biết điều” và không hoàn toàn hắt hủi Alfred Hitchcock. Năm 1968, Hitchcock nhận được Giải Tưởng niệm Irving G. Thalberg, một vinh dự mà AMPAS chỉ ban cho 32 người trong gần một trăm năm lịch sử của họ.
Alfred Hitchcock (ảnh: Hulton Archive/Getty Images)
Diane Warren
Kể từ năm 1988 đến mùa Oscar 2024, nhà soạn nhạc huyền thoại Diane Warren đã 15 lần được đề cử ở hạng mục Ca khúc xuất sắc nhất soạn riêng cho phim (Best Original Song), trong đó có bài “The Fire Inside” trong phim Flamin’ Hot trong mùa Oscar 2024 (không biết năm nay vận may có đến với Diane Warren không?!) Trong bài phát biểu khi nhận giải Oscar danh dự năm 2023, Diane Warren nói đùa: “Tôi đã đợi 34 năm để nói điều này: Tôi muốn cảm ơn Viện hàn lâm.”
Diane Warren (ảnh: Emma McIntyre/WireImage)
Samuel L. Jackson
Samuel L. Jackson là một trong những diễn viên có khả năng diễn xuất ổn định nhất Hollywood. Tuy nhiên, bất chấp sự hiện diện đều đặn trên màn ảnh, Samuel L. Jackson chỉ mới có một đề cử Oscar. Năm 1995, ông nhận được đề cử Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Pulp Fiction (cuối cùng thua Martin Landau trong phim Ed Wood). Năm 2021, Samuel L. Jackson được AMPAS trao Oscar danh dự. Tuy nhiên, Samuel L. Jackson – một trong những diễn viên có thu nhập cao nhất Hollywood – vẫn chưa có cơ hội cám ơn AMPAS với sự nhìn nhận khả năng diễn xuất của ông trong một phim cụ thể nào đó.
Cary Grant
Cary Grant có thể được xem là tài tử vĩ đại nhất chưa từng đoạt Oscar. Suốt sự nghiệp, cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi 82, Cary Grant vẫn bị AMPAS cho ra rìa. Ông chỉ được đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hai lần (và chỉ “hai lần”!) trong sự nghiệp mình; đầu tiên là Penny Serenade năm 1941 và sau đó là None but the Lonely Heart năm 1944. Năm 1969, Cary Grant được trao Oscar danh dự (tượng Oscar được trao từ tay Frank Sinatra).
Annette Bening
Annette Bening, với năm đề cử, luôn ở rất gần nhưng vẫn chưa bao giờ cầm được tượng Oscar. Năm 1991, bà được đề cử Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho The Grifters, nhưng cuối cùng thua Whoopi Goldberg (trong phim Ghost). Chín năm sau, lần đầu tiên Annette Bening được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, trong American Beauty (tác phẩm này đoạt giải Phim hay nhất năm đó). Lần này, Annette Bening thua Hilary Swank trong Boys Don’t Cry. Năm 2005, bà lại thua Hilary Swank, người giành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc lần thứ hai cho Million Dollar Baby. Năm 2011, Bening được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Kids Are All Right nhưng thua Natalie Portman trong Black Swan.
Annette Bening (ảnh: Michael Blackshire / Los Angeles Times via Getty Images)
Trong bảng đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất mùa Oscar 2024, người ta lại thấy tên Annette Bening, với phim Nyad. Khả năng Annette Bening chiến thắng năm nay là rất thấp, khi bà nằm cùng bảng đề cử với những đối thủ dữ dằn: Lily Gladstone (trong “Killers of the Flower Moon”), Sandra Hüller (trong “Anatomy of a Fall”) và đặc biệt Emma Stone (trong “Poor Things”).
Bradley Cooper
Bradley Cooper có thể làm tất cả: Diễn xuất, đạo diễn, viết kịch bản… nhưng cầm tượng Oscar thì chưa. Bradley Cooper đã nhận được 12 đề cử kể từ năm 2013, trong đó có bốn đề cử cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Chỉ riêng năm nay, với phim Maestro, Bradley Cooper đã nhận được ba đề cử: Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Tuy nhiên, tương tự Annette Bening, cơ hội Bradley Cooper được mời lên sân khấu để “cám ơn” là rất thấp.
Bradley Cooper (ảnh: Gareth Cattermole/Getty Images)
Richard Burton
Richard Burton được đề cử bảy lần trước khi qua đời vào năm 1984 nhưng chưa bao giờ được xướng tên “the winner is…”, dù ông là một trong những tượng đài khổng lồ của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ. Tất cả bảy thất bại của ông, trong đó có sáu đề cử ở hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, đều gặp phải sự đụng độ ác liệt với các huyền thoại màn bạc như Anthony Quinn, William Holden, Rex Harrison và John Wayne.
Greta Garbo
Greta Garbo được coi là một trong những nữ diễn viên vĩ đại nhất Hollywood nhưng bà chưa bao giờ giành được Oscar. Ba lần được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Anna Christie, Camille và NiNotka, Greta Garbo được trao Oscar danh dự vào năm 1955. Tuy nhiên, khi có cơ hội phát biểu nhận giải trong đêm trọng đại nhất của Hollywood, ngôi sao ẩn dật này đã quyết định ở nhà. Bức tượng Oscar của bà sau đó được gửi đến qua đường bưu điện.
Michelle Williams
Người hâm mộ có cảm giác như mọi màn trình diễn mà Michelle Williams thể hiện đều xứng đáng với giải Oscar. Cô đã có năm đề cử, trong đó có đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Fabelmans năm 2022. Từ Brokeback Mountain đến Manchester by the Sea, Michelle Williams đều diễn xuất xuất sắc nhưng cô vẫn chưa được khóc thật trên sân khấu trong một chương trình Oscar.
Michelle Williams (ảnh: Arturo Holmes/Getty Images ) Tom Cruise
Trong sự nghiệp kéo dài bốn thập niên, Tom Cruise chỉ nhận được bốn đề cử. Tom Cruise nhận được đề cử Phim hay nhất vào năm 2023 với tư cách là nhà sản xuất cho Top Gun: Maverick. Và ba đề cử cho diễn xuất: Born on the Fourth of July năm 1989, Jerry Maguire năm 1996 và Magnolia năm 1999.
Angela Bassett
Angela Bassett là tài năng không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bất chấp những màn thể hiện xuất sắc trong nhiều bộ phim suốt nhiều thập niên, Angela Bassett chỉ mới nhận được hai đề cử: Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho What’s Love Got to Do with It năm 1993 và Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Black Panther: Wakanda Forever năm 2022. Trong thực tế, AMPAS cũng chỉ trao tượng diễn xuất cho 10 diễn viên da đen trong lịch sử gần trăm năm của họ (Halle Berry là phụ nữ da đen duy nhất từng đoạt giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất).
Minh An
Ảnh: Andrew H. Walker/Getty Images Trong lịch sử giải điện ảnh danh giá nhất nước Mỹ, thậm chí có thể nói nhất thế giới – Oscar (Academy Awards) – có không ít diễn viên tài năng nhất nhì Hollywood không bao giờ được trải nghiệm hương vị chiến thắng…
Glenn Close
Glenn Close giữ kỷ lục là nữ diễn viên nhận được nhiều đề cử nhất nhưng không giành được chiến thắng nào. Bà đã được đề cử tám lần kể từ năm 1983 (The World According to Garp, The Big Chill, The Natural, Hillbilly Elegy, Fatal Attraction, Dangerous Liaisons, Albert Knobbs, và The Wife). Năm 2019, bà được coi là ứng cử viên sáng giá nhất cho giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất nhưng tượng Oscar cuối cùng thuộc về Olivia Colman (trong phim The Favourite).
Glenn Close (ảnh: Frazer Harrison/Getty Images)
Peter O’Toole
Cố diễn viên Peter O’Toole giữ kỷ lục nam diễn viên được đề cử nhiều nhất nhưng luôn ra về tay không. Trong suốt sự nghiệp 44 năm, tương tự Glenn Close, Peter O’Toole đã được tám đề cử Oscar, tất cả đều ở hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Năm 2003, một thập niên trước khi qua đời, O’Toole được trao giải Oscar danh dự.
Amy Adams
Amy Adams được giới bình luận đánh giá là nữ diễn viên đương đại tài năng nhất nhưng đến nay cô vẫn chưa giành được Oscar. Dĩ nhiên không phải vì Amy Adams thiếu những màn trình diễn ấn tượng trên màn bạc. Cô đã được đề cử sáu lần trong sự nghiệp kéo dài gần ba thập niên và năm đề cử trong số đó là Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất: Junebug năm 2005, Doubt năm 2008, The Fighter năm 2010, The Master năm 2012 và Vice năm 2018. Đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Amy Adams là cho American Hustle năm 2013.
Amy Adams (ảnh: Gregg DeGuire/Getty Images)
Alfred Hitchcock
Đạo diễn huyền thoại Alfred Hitchcock đã năm lần được đề cử Đạo diễn xuất sắc nhất nhưng chưa bao giờ được vinh dự cầm tượng Oscar hạng mục đạo diễn. Phim Rebecca đã đoạt giải Phim hay nhất năm 1940, nhưng chiến thắng ở hạng mục đó thuộc về nhà sản xuất chứ không phải đạo diễn. Viện hàn lâm khoa học-nghệ thuật-điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS) thật ra cũng “biết điều” và không hoàn toàn hắt hủi Alfred Hitchcock. Năm 1968, Hitchcock nhận được Giải Tưởng niệm Irving G. Thalberg, một vinh dự mà AMPAS chỉ ban cho 32 người trong gần một trăm năm lịch sử của họ.
Alfred Hitchcock (ảnh: Hulton Archive/Getty Images)
Diane Warren
Kể từ năm 1988 đến mùa Oscar 2024, nhà soạn nhạc huyền thoại Diane Warren đã 15 lần được đề cử ở hạng mục Ca khúc xuất sắc nhất soạn riêng cho phim (Best Original Song), trong đó có bài “The Fire Inside” trong phim Flamin’ Hot trong mùa Oscar 2024 (không biết năm nay vận may có đến với Diane Warren không?!) Trong bài phát biểu khi nhận giải Oscar danh dự năm 2023, Diane Warren nói đùa: “Tôi đã đợi 34 năm để nói điều này: Tôi muốn cảm ơn Viện hàn lâm.”
Diane Warren (ảnh: Emma McIntyre/WireImage)
Samuel L. Jackson
Samuel L. Jackson là một trong những diễn viên có khả năng diễn xuất ổn định nhất Hollywood. Tuy nhiên, bất chấp sự hiện diện đều đặn trên màn ảnh, Samuel L. Jackson chỉ mới có một đề cử Oscar. Năm 1995, ông nhận được đề cử Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Pulp Fiction (cuối cùng thua Martin Landau trong phim Ed Wood). Năm 2021, Samuel L. Jackson được AMPAS trao Oscar danh dự. Tuy nhiên, Samuel L. Jackson – một trong những diễn viên có thu nhập cao nhất Hollywood – vẫn chưa có cơ hội cám ơn AMPAS với sự nhìn nhận khả năng diễn xuất của ông trong một phim cụ thể nào đó.
Cary Grant
Cary Grant có thể được xem là tài tử vĩ đại nhất chưa từng đoạt Oscar. Suốt sự nghiệp, cho đến khi qua đời năm 1986 ở tuổi 82, Cary Grant vẫn bị AMPAS cho ra rìa. Ông chỉ được đề cử Nam diễn viên chính xuất sắc nhất hai lần (và chỉ “hai lần”!) trong sự nghiệp mình; đầu tiên là Penny Serenade năm 1941 và sau đó là None but the Lonely Heart năm 1944. Năm 1969, Cary Grant được trao Oscar danh dự (tượng Oscar được trao từ tay Frank Sinatra).
Annette Bening
Annette Bening, với năm đề cử, luôn ở rất gần nhưng vẫn chưa bao giờ cầm được tượng Oscar. Năm 1991, bà được đề cử Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho The Grifters, nhưng cuối cùng thua Whoopi Goldberg (trong phim Ghost). Chín năm sau, lần đầu tiên Annette Bening được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, trong American Beauty (tác phẩm này đoạt giải Phim hay nhất năm đó). Lần này, Annette Bening thua Hilary Swank trong Boys Don’t Cry. Năm 2005, bà lại thua Hilary Swank, người giành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc lần thứ hai cho Million Dollar Baby. Năm 2011, Bening được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Kids Are All Right nhưng thua Natalie Portman trong Black Swan.
Annette Bening (ảnh: Michael Blackshire / Los Angeles Times via Getty Images)
Trong bảng đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất mùa Oscar 2024, người ta lại thấy tên Annette Bening, với phim Nyad. Khả năng Annette Bening chiến thắng năm nay là rất thấp, khi bà nằm cùng bảng đề cử với những đối thủ dữ dằn: Lily Gladstone (trong “Killers of the Flower Moon”), Sandra Hüller (trong “Anatomy of a Fall”) và đặc biệt Emma Stone (trong “Poor Things”).
Bradley Cooper
Bradley Cooper có thể làm tất cả: Diễn xuất, đạo diễn, viết kịch bản… nhưng cầm tượng Oscar thì chưa. Bradley Cooper đã nhận được 12 đề cử kể từ năm 2013, trong đó có bốn đề cử cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Chỉ riêng năm nay, với phim Maestro, Bradley Cooper đã nhận được ba đề cử: Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Tuy nhiên, tương tự Annette Bening, cơ hội Bradley Cooper được mời lên sân khấu để “cám ơn” là rất thấp.
Bradley Cooper (ảnh: Gareth Cattermole/Getty Images)
Richard Burton
Richard Burton được đề cử bảy lần trước khi qua đời vào năm 1984 nhưng chưa bao giờ được xướng tên “the winner is…”, dù ông là một trong những tượng đài khổng lồ của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ. Tất cả bảy thất bại của ông, trong đó có sáu đề cử ở hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, đều gặp phải sự đụng độ ác liệt với các huyền thoại màn bạc như Anthony Quinn, William Holden, Rex Harrison và John Wayne.
Greta Garbo
Greta Garbo được coi là một trong những nữ diễn viên vĩ đại nhất Hollywood nhưng bà chưa bao giờ giành được Oscar. Ba lần được đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho Anna Christie, Camille và NiNotka, Greta Garbo được trao Oscar danh dự vào năm 1955. Tuy nhiên, khi có cơ hội phát biểu nhận giải trong đêm trọng đại nhất của Hollywood, ngôi sao ẩn dật này đã quyết định ở nhà. Bức tượng Oscar của bà sau đó được gửi đến qua đường bưu điện.
Michelle Williams
Người hâm mộ có cảm giác như mọi màn trình diễn mà Michelle Williams thể hiện đều xứng đáng với giải Oscar. Cô đã có năm đề cử, trong đó có đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Fabelmans năm 2022. Từ Brokeback Mountain đến Manchester by the Sea, Michelle Williams đều diễn xuất xuất sắc nhưng cô vẫn chưa được khóc thật trên sân khấu trong một chương trình Oscar.
Michelle Williams (ảnh: Arturo Holmes/Getty Images ) Tom Cruise
Trong sự nghiệp kéo dài bốn thập niên, Tom Cruise chỉ nhận được bốn đề cử. Tom Cruise nhận được đề cử Phim hay nhất vào năm 2023 với tư cách là nhà sản xuất cho Top Gun: Maverick. Và ba đề cử cho diễn xuất: Born on the Fourth of July năm 1989, Jerry Maguire năm 1996 và Magnolia năm 1999.
Angela Bassett
Angela Bassett là tài năng không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bất chấp những màn thể hiện xuất sắc trong nhiều bộ phim suốt nhiều thập niên, Angela Bassett chỉ mới nhận được hai đề cử: Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho What’s Love Got to Do with It năm 1993 và Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Black Panther: Wakanda Forever năm 2022. Trong thực tế, AMPAS cũng chỉ trao tượng diễn xuất cho 10 diễn viên da đen trong lịch sử gần trăm năm của họ (Halle Berry là phụ nữ da đen duy nhất từng đoạt giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất).
- bichphuong
- Posts: 593
- Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
- Been thanked: 1 time
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
5 phim dựa trên tiểu thuyết của Stephen King có doanh thu cao nhất
April 13, 2024
Nhất Anh
HOLLYWOOD, California (NV) – Nói về văn học hiện đại ngày nay, không thể không nhắc đến nhà văn Stephen King, được mệnh danh là “Ông hoàng kinh dị” nổi đình nổi đám.
Bí mật đen tối đằng sau nghĩa địa chó mèo trong “Pet Sematary” khiến người xem rợn người. (Hình: Paramount Pictures)
Bắt đầu việc viết lách chỉ từ khi mới 12 tuổi, sự nghiệp văn chương đồ sộ của Stephen King được xem là một kho tàng mang tính giá trị cao của nước Mỹ, không chỉ được đón nhận nồng nhiệt từ độc giả mà còn phản ảnh những sự kiện có thật ở ngoài đời, thông qua các con chữ và nội dung kinh dị ẩn dụ đặc sắc.
Các tác phẩm của ông cũng là nguồn cảm hứng sâu sắc cho các nhà làm phim Hollywood chuyển thể sang ngôn ngữ điện ảnh, đặc biệt là năm phim trong số hơn 60 phim được chuyển thể dưới đây, vừa được lòng người hâm mộ và giới phê bình, và vừa thu về doanh thu cao.
Pet Sematary (năm 1989 thu $90 triệu)
Năm 1989, đạo diễn Mary Lambert bắt tay với hãng Paramount Pictures thực hiện bộ phim “Pet Sematary,” dựa trên cuốn tiểu thuyết của Stephen King viết vào năm 1983.
Đặc biệt, dự án do chính Stephen King viết kịch bản, với sự tham gia của các diễn viên Dale Midkiff, Denise Crosby, Blaze Berdahl, Fred Gwynne và Miko Hughes.
Phim theo chân gia đình Bác Sĩ Louis Creed chuyển về một thị trấn nhỏ ở Maine. Khi con trai mình bị tai nạn xe vận tải tông chết, vì quá đau lòng, Louis vô tình biết được cách thức chôn xác ở nghĩa địa chó mèo để con mình có thể sống lại. Mặc cho nhiều lời cảnh báo từ người hàng xóm về hậu quả của việc vượt qua ranh giới sự sống và cái chết, Louis quyết tâm làm để có thể nhìn lại con trai của mình. Tuy nhiên, những gì vị bác sĩ làm đã khởi nguồn cho nhiều hệ lụy kinh hoàng xảy ra.
Năm 2019, phiên bản “Pet Sematary” được làm lại nhưng vẫn không thể vượt qua được bản chuyển thể gốc hồi năm 1989, không chỉ về nội dung phim mà còn cả doanh thu.
Phiên bản năm 1989 thu về $90 triệu, tương đương với $215 triệu ngày nay. Với dàn diễn viên dày dặn kinh nghiệm kết hợp với câu chuyện đẫm máu và đen tối về sự sống và cái chết, “Pet Sematary” đã thể hiện được những gì mà Stephen King tưởng tượng và vẽ nên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của mình.
Căn phòng 1408 kinh hoàng trong phim “1408.” (Hình: Dimension Films)
1480 (năm 1999 thu $133 triệu)
Khung cảnh về khách sạn rùng rợn, thời gian trôi qua và những chấn thương tinh thần bị phơi bày được người hâm mộ thích thú ở Stephen King và “1408” có tất cả những điều đó.
Trong phim, tài tử John Cusack đóng vai Mike Elsin, một nhà văn bị tổn thương sau khi con gái qua đời, đi tìm kiếm niềm cảm hứng cho cuốn sách kinh dị và giật gân của mình bằng cách tìm kiếm trải nghiệm tại căn phòng bị ma ám nổi tiếng trong khách sạn mang tên The Dolphin ở New York. Mặc cho sự ngăn cản của nhiều người, Mike vẫn quyết định bước vào căn phòng và hàng loạt tình huống khủng khiếp đã xảy ra với anh.
Bộ phim của đạo diễn Mikael Hafstrom có một số cảnh thực sự đáng sợ khi cả nhân vật và thậm chí là người xem đều không biết đâu là thực và đâu là giả. Ngoài ra, điều khiến “1408” thú vị so với các phim kinh dị khác chính là khung cảnh chỉ gói gọn trong căn phòng khách sạn nhỏ và chỉ xoay quanh duy nhất nhân vật Mike Elsin, đem lại sự ngột ngạt, khó chịu khi những nỗi sợ của nhân vật dần dần được phơi bày qua những hình ảnh đáng sợ.
“1408” dựa trên câu chuyện ngắn cùng tên của Stephen King viết vào năm 1999, gây tiếng vang khi thu về $133 triệu trong khi kinh phí thực hiện chỉ $25 triệu.
Tom Hanks (trái) và Michael Clarke Duncan trong phim “The Green Mile.” (Hình: Warner Bros. Pictures)
The Green Mile (năm 1999 thu $287 triệu)
“The Green Mile” là cuốn tiểu thuyết thể hiện một khía cạnh thực tế hơn nhiều của Stephen King, phát hành hồi năm 1996, lấy bối cảnh nơi ngục tù, nơi mà nhân vật chính, John Coffey, sống những ngày cuối cùng ở tù trước khi bị hành hình.
Năm 1999, đạo diễn Frank Darabont tiếp tục chuyển thể tác phẩm của Stephen King sang điện ảnh, và lần này ông chọn hai tài tử xuất sắc tham gia là Tom Hanks và Michael Clarke Duncan.
Không như những tác phẩm khác của Stephen King, “The Green Mile” không có bất kỳ nỗi kinh hoàng siêu nhiên nào, ngược lại, nó chỉ có con người thể hiện phần đen tối bản ngã của bạo lực và tàn bạo, xoáy sâu vào vấn đề phân biệt chủng tộc và sự bất công, vốn dĩ luôn “âm ỉ” ngầm trong xã hội Mỹ.
Bộ phim từng đoạt hai giải Critics Choice Awards, trong đó có giải “Kịch bản chuyển thể hay nhất” và nhận bốn đề cử giải Oscar.
Có thể nói, “The Green Mile” là một câu chuyện thực sự đầy ám ảnh và đánh động vào trái tim của người xem, đem lại thành công cho hãng Warner Bros. và đạo diễn Frank Darabont khi thu về $287 triệu, tương đương với con số $511 triệu ngày nay.
Thằng hề với đôi mắt sắc lạnh (phải) tiếp tục gây ám ảnh cho khán giả trong “It: Chapter Two.”
(Hình: New Line Cinema)
It: Chapter Two (năm 2019 thu $473 triệu)
“It: Chapter Two” là phần phim thứ hai sau bộ phim “It” phát hành vào năm 2019, do đạo diễn Andy Muschietti thực hiện, dựa trên cuốn tiểu thuyết “It” dài 1,100 trang mà Stephen King viết vào năm 1986, lấy bối cảnh 27 năm sau những sự kiện của phần đầu xảy ra.
Những đứa trẻ trong “It” phần đầu nay đã trưởng thành và cuộc sống riêng. Những tưởng quá khứ đã qua đi nhưng thằng hề Pennywise trở lại, kẻ gây nỗi kinh hoàng trong phần một, truy lùng và đeo bám các nhân vật một lần nữa.
So với phần đầu tiên, “It: Chapter Two” có phần bạo lực hơn và mang tính sát thương cao hơn khi những chấn thương tinh thần từ quá khứ quay về, khiến cả nhân vật trong phim và khán giả xem phim đều sợ hãi.
Khi ra mắt, bộ phim thu về $473 triệu, trở thành tác phẩm đứng thứ hai được chuyển thể từ các tiểu thuyết của Stephen King có doanh thu cao nhất từ trước đến nay.
Hình ảnh chú bé mặc áo mưa vàng cầm trên tay bong bóng bay màu đỏ không thể phai mờ trong tâm trí người xem khi xem “It: Chapter One.” (Hình: New Line Cinema)
It: Chapter One (năm 2017 thu $702 triệu)
Hình ảnh cậu bé mặc áo mưa màu vàng cầm trên tay chiếc bong bóng bay màu đỏ có thể được xem là biểu tượng nhân vật nổi tiếng của Stephen King trong tác phẩm “It: Chapter One” do đạo diễn Andy Muschietti thực hiện vào năm 2017, kể về một thế lực quỷ ám khủng khiếp chuyên gặm nhấm nỗi sợ của trẻ em để sinh tồn.
Bộ phim lấy bối cảnh ở thành phố Derry, Maine, nơi mà các trẻ em bị mất tích và bắt cóc một cách bí ẩn. Cậu bé Bill Denbrough, dũng cảm cùng với các người bạn của mình, tự tìm cách đi kiếm cậu em trai Georgie bị bắt cóc, và phát hiện ra sự thật kinh hoàng về chú hề Pennywise.
Đảm nhiệm vai Pennywise là tài tử Bill Skarsgard với tạo hình gây ớn lạnh và ám ảnh mỗi khi nhân vật xuất hiện. Chú hề Pennywise được tái hiện chân thật như trong chính mô tả dưới ngòi bút của Stephen King trong cuốn tiểu thuyết, chắc chắn không làm phụ lòng người hâm mộ văn chương của nhà văn sinh năm 1947.
“It: Chapter One” không chỉ là bộ phim có doanh thu cao nhất của Stephen King khi thu về $702 triệu mà còn là tác phẩm kinh dị xếp hạng Rated R có doanh thu cao nhất từng được thực hiện. (Nhất Anh) [qd]
April 13, 2024
Nhất Anh
HOLLYWOOD, California (NV) – Nói về văn học hiện đại ngày nay, không thể không nhắc đến nhà văn Stephen King, được mệnh danh là “Ông hoàng kinh dị” nổi đình nổi đám.
Bí mật đen tối đằng sau nghĩa địa chó mèo trong “Pet Sematary” khiến người xem rợn người. (Hình: Paramount Pictures)
Bắt đầu việc viết lách chỉ từ khi mới 12 tuổi, sự nghiệp văn chương đồ sộ của Stephen King được xem là một kho tàng mang tính giá trị cao của nước Mỹ, không chỉ được đón nhận nồng nhiệt từ độc giả mà còn phản ảnh những sự kiện có thật ở ngoài đời, thông qua các con chữ và nội dung kinh dị ẩn dụ đặc sắc.
Các tác phẩm của ông cũng là nguồn cảm hứng sâu sắc cho các nhà làm phim Hollywood chuyển thể sang ngôn ngữ điện ảnh, đặc biệt là năm phim trong số hơn 60 phim được chuyển thể dưới đây, vừa được lòng người hâm mộ và giới phê bình, và vừa thu về doanh thu cao.
Pet Sematary (năm 1989 thu $90 triệu)
Năm 1989, đạo diễn Mary Lambert bắt tay với hãng Paramount Pictures thực hiện bộ phim “Pet Sematary,” dựa trên cuốn tiểu thuyết của Stephen King viết vào năm 1983.
Đặc biệt, dự án do chính Stephen King viết kịch bản, với sự tham gia của các diễn viên Dale Midkiff, Denise Crosby, Blaze Berdahl, Fred Gwynne và Miko Hughes.
Phim theo chân gia đình Bác Sĩ Louis Creed chuyển về một thị trấn nhỏ ở Maine. Khi con trai mình bị tai nạn xe vận tải tông chết, vì quá đau lòng, Louis vô tình biết được cách thức chôn xác ở nghĩa địa chó mèo để con mình có thể sống lại. Mặc cho nhiều lời cảnh báo từ người hàng xóm về hậu quả của việc vượt qua ranh giới sự sống và cái chết, Louis quyết tâm làm để có thể nhìn lại con trai của mình. Tuy nhiên, những gì vị bác sĩ làm đã khởi nguồn cho nhiều hệ lụy kinh hoàng xảy ra.
Năm 2019, phiên bản “Pet Sematary” được làm lại nhưng vẫn không thể vượt qua được bản chuyển thể gốc hồi năm 1989, không chỉ về nội dung phim mà còn cả doanh thu.
Phiên bản năm 1989 thu về $90 triệu, tương đương với $215 triệu ngày nay. Với dàn diễn viên dày dặn kinh nghiệm kết hợp với câu chuyện đẫm máu và đen tối về sự sống và cái chết, “Pet Sematary” đã thể hiện được những gì mà Stephen King tưởng tượng và vẽ nên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của mình.
Căn phòng 1408 kinh hoàng trong phim “1408.” (Hình: Dimension Films)
1480 (năm 1999 thu $133 triệu)
Khung cảnh về khách sạn rùng rợn, thời gian trôi qua và những chấn thương tinh thần bị phơi bày được người hâm mộ thích thú ở Stephen King và “1408” có tất cả những điều đó.
Trong phim, tài tử John Cusack đóng vai Mike Elsin, một nhà văn bị tổn thương sau khi con gái qua đời, đi tìm kiếm niềm cảm hứng cho cuốn sách kinh dị và giật gân của mình bằng cách tìm kiếm trải nghiệm tại căn phòng bị ma ám nổi tiếng trong khách sạn mang tên The Dolphin ở New York. Mặc cho sự ngăn cản của nhiều người, Mike vẫn quyết định bước vào căn phòng và hàng loạt tình huống khủng khiếp đã xảy ra với anh.
Bộ phim của đạo diễn Mikael Hafstrom có một số cảnh thực sự đáng sợ khi cả nhân vật và thậm chí là người xem đều không biết đâu là thực và đâu là giả. Ngoài ra, điều khiến “1408” thú vị so với các phim kinh dị khác chính là khung cảnh chỉ gói gọn trong căn phòng khách sạn nhỏ và chỉ xoay quanh duy nhất nhân vật Mike Elsin, đem lại sự ngột ngạt, khó chịu khi những nỗi sợ của nhân vật dần dần được phơi bày qua những hình ảnh đáng sợ.
“1408” dựa trên câu chuyện ngắn cùng tên của Stephen King viết vào năm 1999, gây tiếng vang khi thu về $133 triệu trong khi kinh phí thực hiện chỉ $25 triệu.
Tom Hanks (trái) và Michael Clarke Duncan trong phim “The Green Mile.” (Hình: Warner Bros. Pictures)
The Green Mile (năm 1999 thu $287 triệu)
“The Green Mile” là cuốn tiểu thuyết thể hiện một khía cạnh thực tế hơn nhiều của Stephen King, phát hành hồi năm 1996, lấy bối cảnh nơi ngục tù, nơi mà nhân vật chính, John Coffey, sống những ngày cuối cùng ở tù trước khi bị hành hình.
Năm 1999, đạo diễn Frank Darabont tiếp tục chuyển thể tác phẩm của Stephen King sang điện ảnh, và lần này ông chọn hai tài tử xuất sắc tham gia là Tom Hanks và Michael Clarke Duncan.
Không như những tác phẩm khác của Stephen King, “The Green Mile” không có bất kỳ nỗi kinh hoàng siêu nhiên nào, ngược lại, nó chỉ có con người thể hiện phần đen tối bản ngã của bạo lực và tàn bạo, xoáy sâu vào vấn đề phân biệt chủng tộc và sự bất công, vốn dĩ luôn “âm ỉ” ngầm trong xã hội Mỹ.
Bộ phim từng đoạt hai giải Critics Choice Awards, trong đó có giải “Kịch bản chuyển thể hay nhất” và nhận bốn đề cử giải Oscar.
Có thể nói, “The Green Mile” là một câu chuyện thực sự đầy ám ảnh và đánh động vào trái tim của người xem, đem lại thành công cho hãng Warner Bros. và đạo diễn Frank Darabont khi thu về $287 triệu, tương đương với con số $511 triệu ngày nay.
Thằng hề với đôi mắt sắc lạnh (phải) tiếp tục gây ám ảnh cho khán giả trong “It: Chapter Two.”
(Hình: New Line Cinema)
It: Chapter Two (năm 2019 thu $473 triệu)
“It: Chapter Two” là phần phim thứ hai sau bộ phim “It” phát hành vào năm 2019, do đạo diễn Andy Muschietti thực hiện, dựa trên cuốn tiểu thuyết “It” dài 1,100 trang mà Stephen King viết vào năm 1986, lấy bối cảnh 27 năm sau những sự kiện của phần đầu xảy ra.
Những đứa trẻ trong “It” phần đầu nay đã trưởng thành và cuộc sống riêng. Những tưởng quá khứ đã qua đi nhưng thằng hề Pennywise trở lại, kẻ gây nỗi kinh hoàng trong phần một, truy lùng và đeo bám các nhân vật một lần nữa.
So với phần đầu tiên, “It: Chapter Two” có phần bạo lực hơn và mang tính sát thương cao hơn khi những chấn thương tinh thần từ quá khứ quay về, khiến cả nhân vật trong phim và khán giả xem phim đều sợ hãi.
Khi ra mắt, bộ phim thu về $473 triệu, trở thành tác phẩm đứng thứ hai được chuyển thể từ các tiểu thuyết của Stephen King có doanh thu cao nhất từ trước đến nay.
Hình ảnh chú bé mặc áo mưa vàng cầm trên tay bong bóng bay màu đỏ không thể phai mờ trong tâm trí người xem khi xem “It: Chapter One.” (Hình: New Line Cinema)
It: Chapter One (năm 2017 thu $702 triệu)
Hình ảnh cậu bé mặc áo mưa màu vàng cầm trên tay chiếc bong bóng bay màu đỏ có thể được xem là biểu tượng nhân vật nổi tiếng của Stephen King trong tác phẩm “It: Chapter One” do đạo diễn Andy Muschietti thực hiện vào năm 2017, kể về một thế lực quỷ ám khủng khiếp chuyên gặm nhấm nỗi sợ của trẻ em để sinh tồn.
Bộ phim lấy bối cảnh ở thành phố Derry, Maine, nơi mà các trẻ em bị mất tích và bắt cóc một cách bí ẩn. Cậu bé Bill Denbrough, dũng cảm cùng với các người bạn của mình, tự tìm cách đi kiếm cậu em trai Georgie bị bắt cóc, và phát hiện ra sự thật kinh hoàng về chú hề Pennywise.
Đảm nhiệm vai Pennywise là tài tử Bill Skarsgard với tạo hình gây ớn lạnh và ám ảnh mỗi khi nhân vật xuất hiện. Chú hề Pennywise được tái hiện chân thật như trong chính mô tả dưới ngòi bút của Stephen King trong cuốn tiểu thuyết, chắc chắn không làm phụ lòng người hâm mộ văn chương của nhà văn sinh năm 1947.
“It: Chapter One” không chỉ là bộ phim có doanh thu cao nhất của Stephen King khi thu về $702 triệu mà còn là tác phẩm kinh dị xếp hạng Rated R có doanh thu cao nhất từng được thực hiện. (Nhất Anh) [qd]
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
'Tháng tư là lời nói dối của em' - bản hòa ca buồn của tình yêu
Bản tình ca của nhạc sĩ Phạm Toàn Thắng chất chứa những cảm xúc về mối tình đẹp đẽ nhưng ngắn ngủi.
"Lời nói dối của mình đã đưa cậu đến đấy. Khác hẳn với những gì mình nghĩ, cậu sống nội tâm và nhát hơn, cố chấp, phiền phức, lại còn thích quay lén. Giọng trầm, ra dáng đàn ông và là người dịu dàng... như mình nghĩ", cô nữ sinh 14 tuổi Miyazono Kaori viết trong lá thư gửi Arima Kōsei trước khi qua đời, trích đoạn phim Your Lie In April.
Arima Kōsei là thần đồng piano, nổi danh từ năm tám tuổi. Sau cái chết của mẹ, Arima Kōsei trải qua cú sốc lớn, mất đi khả năng nghe tiếng đàn của mình. Cậu gần như không chạm vào piano nữa. Trong một buổi chiều tháng tư, Arima Kōsei gặp Miyazono Kaori - một nghệ sĩ violin phóng khoáng, yêu tự do. Họ bị cuốn hút bởi đối phương và nhanh chóng trở thành tri kỷ. Kaori tìm mọi cách kéo Kōsei đến các cuộc trình diễn âm nhạc, nhờ cậu lên sân khấu đệm đàn cho phần thi của mình. Đến lúc này, Kōsei mới biết ngay từ đầu Kaori đã nói dối. Cô sắp xếp cuộc gặp gỡ "tình cờ" để tiếp cận Kōsei, giúp cậu lấy lại đam mê với piano. Kaori làm chuyện này vì cô biết mình sắp qua đời vì bệnh nan y. Cô muốn dùng thời gian ít ỏi còn lại giúp thần tượng hồi nhỏ..
Arima Kōsei (trái) và Miyazono Kaori trong phim "Your Lie In April". Tiếp nối cảm hứng từ bộ anime đình đám của Nhật, nhạc sĩ Phạm Toàn Thắng đã viết ca khúc Tháng tư là lời nói dối của em hồi tháng 4/2016. Ca khúc mang âm hưởng Pop nhẹ nhàng, với ca từ lãng mạn, đầy chất thơ, được thể hiện qua giọng ca mộc mạc, giàu chất tự sự của Hà Anh Tuấn.
Tháng tư là lời nói dối của em - Hà Anh Tuấn
"Mùa xuân có em như chưa bắt đầu
Và cơn gió đang khẽ đung đưa lay từng nhành hoa rơi
Em đã bước đến như em đã từng
Chạy trốn với nhau trên cánh đồng xanh"
Tháng tư - khoảnh khắc lưng chừng giữa cuối xuân và đầu hạ thường tạo ra cảm giác mơ hồ. Cái lạnh chưa đi, nắng hè chưa tới. Bầu trời tháng tư và tháng ba đều xanh trong, ấm áp. Sắc trắng hoa sưa được thay thế bởi những cánh loa kèn, tạo ra sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, bình yên. Khi con người vẫn đang say đắm trong tình yêu, tháng tư tạo ra ảo giác rằng mùa xuân dường như mới bắt đầu. Đất trời vẫn đang hân hoan trong thời khắc đẹp nhất. Và "cô gái tháng tư" xuất hiện, như cơn gió mùa xuân mát lành, khiến chàng trai thẫn thờ, ngây ngất.
Hà Anh Tuấn hát "Tháng tư là lời nói dối của em" trong Fragile Concert 2016 "Khúc nhạc thầm lặng giữa chiều muộn màng để mình gần lại mãi
Nói lời thì thầm những điều thật thà đã giữ trong tim mình
Những chặng đường dài ngỡ mình mệt nhoài đã nhiều lần gục ngã
Tháng tư ánh sao phía xa bỗng nhiên dần tàn..."
Tháng tư bắt đầu với ngày nói dối, với sự mơ hồ, mông lung như vậy. Trong khoảnh khắc chơi vơi giữa ranh giới thật - giả, con người vẫn nguyện đặt niềm tin vào tình yêu, vào những điều đẹp đẽ nhất. Lời thì thầm của tháng tư ngọt ngào như đôi môi người thiếu nữ, chẳng có ai kịp bối rối, nghi ngờ. Để rồi khi tháng tư qua đi, "cánh hoa phai tàn", ánh sao mờ dần, chàng trai đau đớn nhận ra sự thật sau những lời nói dối ngọt ngào ấy.
"Những cánh hoa phai tàn thật nhanh
Em có bay xa, em có đi xa mãi?
Tháng tư đôi khi thật mong manh để mình nói ra những câu chân thật
Giá như tôi một lần tin em, cô gái tôi thương, nay hóa theo mây gió
Để lại tháng tư ở đó"
Trong tình yêu, đôi khi người ta dùng những lời nói dối để che giấu sự mong manh, yếu mềm của bản thân. Có những lời nói dối xuất phát từ tình cảm chân thật. Nhưng dù thế nào đi nữa, chúng đều mang đến những nỗi đau. Tình yêu dù lụi tàn nhưng vết thương lòng vẫn còn mãi. Mỗi lần chạm vào, nó khiến trái tim mỗi người dâng lên cảm xúc buốt giá. Thế nhưng nó cũng là động lực để con người hướng đến những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.
Hà Anh Tuấn và Thanh Hằng trong MV "Tháng tư là lời nói dối của em". MV Tháng tư là lời nói dối của em tập hợp nhiều cảnh quay lãng mạn, phù hợp với nội dung ca khúc. Trong đó, Thanh Hằng hóa thân thành "cô gái tháng tư" dịu dàng, mong manh. Ra mắt hồi tháng 9/2016, đến nay, Tháng tư là lời nói dối của em đạt hơn 36 triệu lượt xem trên Youtube.
Qua giọng hát của Hà Anh Tuấn, ca khúc gợi lên nhiều cảm xúc: đẹp đẽ, hân hoan ở lúc đầu, da diết, thê lương ở phần giữa và ngập tràn hy vọng ở đoạn kết. Tất cả khiến người nghe thanh thản, bình yên khi thưởng thức bài hát. Vì thế, đây cũng là ca khúc anh thường sử dụng để khép lại các liveshow của mình như một cách gửi gắm thông điệp về việc nuôi dưỡng tình yêu và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
"Và tôi sẽ sống như những gì em từng mong
Và tôi sẽ bước tiếp trên con đường mình đã chọn
Và khi tôi chết sẽ mỉm cười khi gặp em
Khẽ chào cô gái tháng tư của tôi".
Hà Thu
Bản tình ca của nhạc sĩ Phạm Toàn Thắng chất chứa những cảm xúc về mối tình đẹp đẽ nhưng ngắn ngủi.
"Lời nói dối của mình đã đưa cậu đến đấy. Khác hẳn với những gì mình nghĩ, cậu sống nội tâm và nhát hơn, cố chấp, phiền phức, lại còn thích quay lén. Giọng trầm, ra dáng đàn ông và là người dịu dàng... như mình nghĩ", cô nữ sinh 14 tuổi Miyazono Kaori viết trong lá thư gửi Arima Kōsei trước khi qua đời, trích đoạn phim Your Lie In April.
Arima Kōsei là thần đồng piano, nổi danh từ năm tám tuổi. Sau cái chết của mẹ, Arima Kōsei trải qua cú sốc lớn, mất đi khả năng nghe tiếng đàn của mình. Cậu gần như không chạm vào piano nữa. Trong một buổi chiều tháng tư, Arima Kōsei gặp Miyazono Kaori - một nghệ sĩ violin phóng khoáng, yêu tự do. Họ bị cuốn hút bởi đối phương và nhanh chóng trở thành tri kỷ. Kaori tìm mọi cách kéo Kōsei đến các cuộc trình diễn âm nhạc, nhờ cậu lên sân khấu đệm đàn cho phần thi của mình. Đến lúc này, Kōsei mới biết ngay từ đầu Kaori đã nói dối. Cô sắp xếp cuộc gặp gỡ "tình cờ" để tiếp cận Kōsei, giúp cậu lấy lại đam mê với piano. Kaori làm chuyện này vì cô biết mình sắp qua đời vì bệnh nan y. Cô muốn dùng thời gian ít ỏi còn lại giúp thần tượng hồi nhỏ..
Arima Kōsei (trái) và Miyazono Kaori trong phim "Your Lie In April". Tiếp nối cảm hứng từ bộ anime đình đám của Nhật, nhạc sĩ Phạm Toàn Thắng đã viết ca khúc Tháng tư là lời nói dối của em hồi tháng 4/2016. Ca khúc mang âm hưởng Pop nhẹ nhàng, với ca từ lãng mạn, đầy chất thơ, được thể hiện qua giọng ca mộc mạc, giàu chất tự sự của Hà Anh Tuấn.
Tháng tư là lời nói dối của em - Hà Anh Tuấn
"Mùa xuân có em như chưa bắt đầu
Và cơn gió đang khẽ đung đưa lay từng nhành hoa rơi
Em đã bước đến như em đã từng
Chạy trốn với nhau trên cánh đồng xanh"
Tháng tư - khoảnh khắc lưng chừng giữa cuối xuân và đầu hạ thường tạo ra cảm giác mơ hồ. Cái lạnh chưa đi, nắng hè chưa tới. Bầu trời tháng tư và tháng ba đều xanh trong, ấm áp. Sắc trắng hoa sưa được thay thế bởi những cánh loa kèn, tạo ra sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, bình yên. Khi con người vẫn đang say đắm trong tình yêu, tháng tư tạo ra ảo giác rằng mùa xuân dường như mới bắt đầu. Đất trời vẫn đang hân hoan trong thời khắc đẹp nhất. Và "cô gái tháng tư" xuất hiện, như cơn gió mùa xuân mát lành, khiến chàng trai thẫn thờ, ngây ngất.
Hà Anh Tuấn hát "Tháng tư là lời nói dối của em" trong Fragile Concert 2016 "Khúc nhạc thầm lặng giữa chiều muộn màng để mình gần lại mãi
Nói lời thì thầm những điều thật thà đã giữ trong tim mình
Những chặng đường dài ngỡ mình mệt nhoài đã nhiều lần gục ngã
Tháng tư ánh sao phía xa bỗng nhiên dần tàn..."
Tháng tư bắt đầu với ngày nói dối, với sự mơ hồ, mông lung như vậy. Trong khoảnh khắc chơi vơi giữa ranh giới thật - giả, con người vẫn nguyện đặt niềm tin vào tình yêu, vào những điều đẹp đẽ nhất. Lời thì thầm của tháng tư ngọt ngào như đôi môi người thiếu nữ, chẳng có ai kịp bối rối, nghi ngờ. Để rồi khi tháng tư qua đi, "cánh hoa phai tàn", ánh sao mờ dần, chàng trai đau đớn nhận ra sự thật sau những lời nói dối ngọt ngào ấy.
"Những cánh hoa phai tàn thật nhanh
Em có bay xa, em có đi xa mãi?
Tháng tư đôi khi thật mong manh để mình nói ra những câu chân thật
Giá như tôi một lần tin em, cô gái tôi thương, nay hóa theo mây gió
Để lại tháng tư ở đó"
Trong tình yêu, đôi khi người ta dùng những lời nói dối để che giấu sự mong manh, yếu mềm của bản thân. Có những lời nói dối xuất phát từ tình cảm chân thật. Nhưng dù thế nào đi nữa, chúng đều mang đến những nỗi đau. Tình yêu dù lụi tàn nhưng vết thương lòng vẫn còn mãi. Mỗi lần chạm vào, nó khiến trái tim mỗi người dâng lên cảm xúc buốt giá. Thế nhưng nó cũng là động lực để con người hướng đến những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.
Hà Anh Tuấn và Thanh Hằng trong MV "Tháng tư là lời nói dối của em". MV Tháng tư là lời nói dối của em tập hợp nhiều cảnh quay lãng mạn, phù hợp với nội dung ca khúc. Trong đó, Thanh Hằng hóa thân thành "cô gái tháng tư" dịu dàng, mong manh. Ra mắt hồi tháng 9/2016, đến nay, Tháng tư là lời nói dối của em đạt hơn 36 triệu lượt xem trên Youtube.
Qua giọng hát của Hà Anh Tuấn, ca khúc gợi lên nhiều cảm xúc: đẹp đẽ, hân hoan ở lúc đầu, da diết, thê lương ở phần giữa và ngập tràn hy vọng ở đoạn kết. Tất cả khiến người nghe thanh thản, bình yên khi thưởng thức bài hát. Vì thế, đây cũng là ca khúc anh thường sử dụng để khép lại các liveshow của mình như một cách gửi gắm thông điệp về việc nuôi dưỡng tình yêu và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
"Và tôi sẽ sống như những gì em từng mong
Và tôi sẽ bước tiếp trên con đường mình đã chọn
Và khi tôi chết sẽ mỉm cười khi gặp em
Khẽ chào cô gái tháng tư của tôi".
Hà Thu
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
4 bộ phim Netflix làm rung động trái tim người xem
April 27, 2024
Nhất Anh/Người Việt HOLLYWOOD, California (NV) – Trong thế giới điện ảnh đa dạng và bao la có vô vàn thông điệp và cảm xúc đem lại cho khán giả, trong đó có những tác phẩm dễ dàng khiến người xem khóc thoải mái, đắm chìm trong những bi kịch của các nhân vật.
Andrew Garfield hóa thân thành nhà soạn nhạc Jonathan Larson ở độ tuổi 30 trong “Tick, tick… BOOM” khao khát có được sự thành công từ đam mê âm nhạc của mình. (Hình: Netflix) Từ những câu chuyện tình yêu cảm động đầy mất mát cho đến những tác phẩm mang tính nghệ thuật cao, dựa trên các vấn đề xã hội có thật ngoài đời, bốn bộ phim dưới đây do chính Netflix sản xuất chắc chắn sẽ khiến cảm xúc của bạn trôi trong nhiều dòng suy ngẫm.
Tick, tick… BOOM
Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghi ngờ bản thân và khả năng của mình về những sự lựa chọn trong cuộc sống, đặc biệt là trong những thời điểm đen tối nhất khi giấc mơ, lý tưởng và đam mê của chúng ta dường như sắp thất bại và đổ sập.
Và đó chính là những gì mà bộ phim “Tick, tick… BOOM” dựa trên cuộc đời của cố soạn giả Jonathan Larson, tác giả của hai vở nhạc kịch “Tick, tick… BOOM” và “Rent” nổi tiếng, đem lại.
Khi đón sinh nhật lần thứ 30 sắp đến, Jonathan Larson đã dồn cả trái tim và tâm hồn vào dự án âm nhạc mới nhất, chỉ mong mỏi có được một lần có bước đột phá lớn. Tuy nhiên, đồng hồ đang điểm và sự thành công dường như nằm ngoài tầm tay vì những lời từ chối đến với anh ngày càng chồng chất.
Bộ phim của đạo diễn Lin-Manuel Miranda đã miêu tả đầy đủ và chân thật trong cuộc đấu tranh của chính Jonathan Larson qua màn thể hiện đầy cảm xúc và lôi cuốn của tài tử Andrew Garfield khi lột tả những cảm xúc ê chề, tự ti, thiếu sót của bản thân, đồng thời phải đối mặt với những thử thách trong tình yêu và các mối quan hệ xung quanh, khiến người xem không khỏi bồi hồi, tiếc nuối cho một tài năng ra đi khi ở độ tuổi chín muồi trong sự nghiệp, đồng thời là cả lòng ngưỡng mộ đầy sâu sắc dành cho anh.
“Lost Girls” tôn vinh tình mẫu tử sâu sắc trong hành trình đi tìm công lý của nhân vật Mari Gilbert (giữa) cho đứa con gái bị mất tích. (Hình: Netflix)
Lost Girls
“Lost Girls” là bộ phim đầu tay của nữ đạo diễn Liz Garbus ở thể loại chính kịch. Trước đây, bà từng nổi tiếng với các tác phẩm phim tài liệu như “What Happened, Miss Simone?” hay “Love, Marilyn.”
Bộ phim được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên của tiểu thuyết gia Robert Kolker, kể về câu chuyện của người mẹ Mari Gilbert, do minh tinh Amy Ryan đóng, và hành trình đi tìm công lý không ngừng nghỉ, kiên trì thúc giục những người thực thi pháp luật tìm kiếm cô con gái Shanna mất tích của mình. Vụ án mất tích dần tiết lộ đến một vụ giết người khác chưa được giải quyết, liên quan đến cái chết của những cô gái trẻ mại dâm trên đảo South Shore.
Nữ đạo diễn Liz Garbus đã khéo léo lồng ghép các vấn nạn có thực ở ngoài đời đưa vào phim một cách tự nhiên thông qua câu chuyện của nhân vật Mari Gilbert, đồng thời còn ngầm tôn vinh tình mẫu tử đầy sự hy sinh và cao cả, cũng như sự mất mát khi tâm lý người mẹ hoảng loạn đi tìm con gái mình trong vô vọng.
Nữ diễn viên Chloe Grace Moretz hóa thân thành nữ nhà báo bị căn bệnh tâm thần phân liệt hiểm nghèo trong phim “Brain on Fire.” (Hình: Netflix)
Brain on Fire
“Brain on Fire” là bộ phim được chuyển thể từ cuốn hồi ký cùng tên của nhà báo Susannah Cahalan, với vai chính do nữ diễn viên Chloe Grace Moretz đóng.
Susannah Cahalan là một nữ nhà báo trẻ tuổi và thành đạt, đột nhiên bị ốm và có các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt. Đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, cô trở nên yếu đuối, hụt hẫng và dần chìm sâu vào những suy nghĩ tiêu cực, cùng với tác động của bệnh mà cũng có nguy cơ bị mất trí nhớ. Tuy nhiên, nhờ vào sự can thiệp vào phút cuối của các bác sĩ đã giúp cứu sống Susannah và mang đến cho cô một tia hy vọng mới.
“Brain on Fire” đem lại một cái nhìn sâu sắc và lột tả chân thật những tình huống ác mộng liên quan đến căn bệnh tâm thần phân liệt cũng như những lỗ hổng và sai sót của hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe của Mỹ.
Mặc dù có một số khoảnh khắc phim đem lại nhiều sự đau lòng và tuyệt vọng cho khán giả, nhưng đâu đó vẫn có sự nhẹ nhàng, dễ thương và đáng yêu, lan tỏa đến sự tích cực và may mắn cho những ai đang đối diện với bệnh tật.
Đặc biệt, nữ diễn viên trẻ Chloe Grace Moretz tỏa sáng với màn trình diễn của mình trong phim sau một thời gian đóng các phim tuổi teen, cùng với dàn diễn viên khác như Thomas Mann, Richard Armitage, Jenny Slate, Tyler Perry và Carrie-Anne Moss.
“All the Bright Places” không chỉ là câu chuyện tình yêu mà còn là sự đấu tranh nội tâm của mỗi người. (Hình: Netflix)
All the Bright Places
Được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Jennifer Niven, câu chuyện trong phim “All the Bright Places” bắt đầu bằng một giai điệu u ám.
Khi đang chạy trốn, nhân vật Finch, do nam diễn viên Justice Smith thủ vai, vô tình gặp phải Violet, do nữ diễn viên Elle Fanning đóng. Violet đang ngồi bấp bênh trên một cây cầu, tạo cảm giác như chính cô đang có ý định tự tử. Finch phải tìm cách thuyết phục ngăn Violet làm chuyện chẳng lành, dẫn đến sự kết nối và đồng cảm giữa cả hai.
Khi mối quan hệ giữa Finch và Violet trở nên sâu sắc, cả hai dần khám phá ra những nỗi đau tiềm ẩn của nhau. Liệu sự ấm áp và kết nối có thể mang lại niềm an ủi và sự dũng cảm cho cuộc đấu với tâm lý thâm sâu tiềm ẩn trong người của cả hai?
“All the Bright Places” của đạo diễn Brett Haley mang đến một hành trình đầy cảm xúc không chỉ liên quan đến tình yêu mà còn là sự kết nối nội tâm của mỗi cá thể, đem đến sự thấu hiểu, cảm thông và vị tha mà mỗi người ai trong chúng ta cũng có. (Nhất Anh) [qd]
April 27, 2024
Nhất Anh/Người Việt HOLLYWOOD, California (NV) – Trong thế giới điện ảnh đa dạng và bao la có vô vàn thông điệp và cảm xúc đem lại cho khán giả, trong đó có những tác phẩm dễ dàng khiến người xem khóc thoải mái, đắm chìm trong những bi kịch của các nhân vật.
Andrew Garfield hóa thân thành nhà soạn nhạc Jonathan Larson ở độ tuổi 30 trong “Tick, tick… BOOM” khao khát có được sự thành công từ đam mê âm nhạc của mình. (Hình: Netflix) Từ những câu chuyện tình yêu cảm động đầy mất mát cho đến những tác phẩm mang tính nghệ thuật cao, dựa trên các vấn đề xã hội có thật ngoài đời, bốn bộ phim dưới đây do chính Netflix sản xuất chắc chắn sẽ khiến cảm xúc của bạn trôi trong nhiều dòng suy ngẫm.
Tick, tick… BOOM
Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghi ngờ bản thân và khả năng của mình về những sự lựa chọn trong cuộc sống, đặc biệt là trong những thời điểm đen tối nhất khi giấc mơ, lý tưởng và đam mê của chúng ta dường như sắp thất bại và đổ sập.
Và đó chính là những gì mà bộ phim “Tick, tick… BOOM” dựa trên cuộc đời của cố soạn giả Jonathan Larson, tác giả của hai vở nhạc kịch “Tick, tick… BOOM” và “Rent” nổi tiếng, đem lại.
Khi đón sinh nhật lần thứ 30 sắp đến, Jonathan Larson đã dồn cả trái tim và tâm hồn vào dự án âm nhạc mới nhất, chỉ mong mỏi có được một lần có bước đột phá lớn. Tuy nhiên, đồng hồ đang điểm và sự thành công dường như nằm ngoài tầm tay vì những lời từ chối đến với anh ngày càng chồng chất.
Bộ phim của đạo diễn Lin-Manuel Miranda đã miêu tả đầy đủ và chân thật trong cuộc đấu tranh của chính Jonathan Larson qua màn thể hiện đầy cảm xúc và lôi cuốn của tài tử Andrew Garfield khi lột tả những cảm xúc ê chề, tự ti, thiếu sót của bản thân, đồng thời phải đối mặt với những thử thách trong tình yêu và các mối quan hệ xung quanh, khiến người xem không khỏi bồi hồi, tiếc nuối cho một tài năng ra đi khi ở độ tuổi chín muồi trong sự nghiệp, đồng thời là cả lòng ngưỡng mộ đầy sâu sắc dành cho anh.
“Lost Girls” tôn vinh tình mẫu tử sâu sắc trong hành trình đi tìm công lý của nhân vật Mari Gilbert (giữa) cho đứa con gái bị mất tích. (Hình: Netflix)
Lost Girls
“Lost Girls” là bộ phim đầu tay của nữ đạo diễn Liz Garbus ở thể loại chính kịch. Trước đây, bà từng nổi tiếng với các tác phẩm phim tài liệu như “What Happened, Miss Simone?” hay “Love, Marilyn.”
Bộ phim được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên của tiểu thuyết gia Robert Kolker, kể về câu chuyện của người mẹ Mari Gilbert, do minh tinh Amy Ryan đóng, và hành trình đi tìm công lý không ngừng nghỉ, kiên trì thúc giục những người thực thi pháp luật tìm kiếm cô con gái Shanna mất tích của mình. Vụ án mất tích dần tiết lộ đến một vụ giết người khác chưa được giải quyết, liên quan đến cái chết của những cô gái trẻ mại dâm trên đảo South Shore.
Nữ đạo diễn Liz Garbus đã khéo léo lồng ghép các vấn nạn có thực ở ngoài đời đưa vào phim một cách tự nhiên thông qua câu chuyện của nhân vật Mari Gilbert, đồng thời còn ngầm tôn vinh tình mẫu tử đầy sự hy sinh và cao cả, cũng như sự mất mát khi tâm lý người mẹ hoảng loạn đi tìm con gái mình trong vô vọng.
Nữ diễn viên Chloe Grace Moretz hóa thân thành nữ nhà báo bị căn bệnh tâm thần phân liệt hiểm nghèo trong phim “Brain on Fire.” (Hình: Netflix)
Brain on Fire
“Brain on Fire” là bộ phim được chuyển thể từ cuốn hồi ký cùng tên của nhà báo Susannah Cahalan, với vai chính do nữ diễn viên Chloe Grace Moretz đóng.
Susannah Cahalan là một nữ nhà báo trẻ tuổi và thành đạt, đột nhiên bị ốm và có các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt. Đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, cô trở nên yếu đuối, hụt hẫng và dần chìm sâu vào những suy nghĩ tiêu cực, cùng với tác động của bệnh mà cũng có nguy cơ bị mất trí nhớ. Tuy nhiên, nhờ vào sự can thiệp vào phút cuối của các bác sĩ đã giúp cứu sống Susannah và mang đến cho cô một tia hy vọng mới.
“Brain on Fire” đem lại một cái nhìn sâu sắc và lột tả chân thật những tình huống ác mộng liên quan đến căn bệnh tâm thần phân liệt cũng như những lỗ hổng và sai sót của hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe của Mỹ.
Mặc dù có một số khoảnh khắc phim đem lại nhiều sự đau lòng và tuyệt vọng cho khán giả, nhưng đâu đó vẫn có sự nhẹ nhàng, dễ thương và đáng yêu, lan tỏa đến sự tích cực và may mắn cho những ai đang đối diện với bệnh tật.
Đặc biệt, nữ diễn viên trẻ Chloe Grace Moretz tỏa sáng với màn trình diễn của mình trong phim sau một thời gian đóng các phim tuổi teen, cùng với dàn diễn viên khác như Thomas Mann, Richard Armitage, Jenny Slate, Tyler Perry và Carrie-Anne Moss.
“All the Bright Places” không chỉ là câu chuyện tình yêu mà còn là sự đấu tranh nội tâm của mỗi người. (Hình: Netflix)
All the Bright Places
Được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Jennifer Niven, câu chuyện trong phim “All the Bright Places” bắt đầu bằng một giai điệu u ám.
Khi đang chạy trốn, nhân vật Finch, do nam diễn viên Justice Smith thủ vai, vô tình gặp phải Violet, do nữ diễn viên Elle Fanning đóng. Violet đang ngồi bấp bênh trên một cây cầu, tạo cảm giác như chính cô đang có ý định tự tử. Finch phải tìm cách thuyết phục ngăn Violet làm chuyện chẳng lành, dẫn đến sự kết nối và đồng cảm giữa cả hai.
Khi mối quan hệ giữa Finch và Violet trở nên sâu sắc, cả hai dần khám phá ra những nỗi đau tiềm ẩn của nhau. Liệu sự ấm áp và kết nối có thể mang lại niềm an ủi và sự dũng cảm cho cuộc đấu với tâm lý thâm sâu tiềm ẩn trong người của cả hai?
“All the Bright Places” của đạo diễn Brett Haley mang đến một hành trình đầy cảm xúc không chỉ liên quan đến tình yêu mà còn là sự kết nối nội tâm của mỗi cá thể, đem đến sự thấu hiểu, cảm thông và vị tha mà mỗi người ai trong chúng ta cũng có. (Nhất Anh) [qd]
- bichphuong
- Posts: 593
- Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
- Been thanked: 1 time
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Danh ca Céline Dion chia sẻ về căn bệnh kỳ lạ của mình
Mai Nguyễn
1 tháng 7, 2024
Trailer bộ phim tài liệu của Celine Dion trên Prime Video.
Celine Dion hiện đang phải chiến đấu với căn bệnh thần kinh nghiêm trọng được gọi là hội chứng cứng người (Stiff Person Syndrome – SPS). Đây là hội chứng cứng các khớp và cơ trong cơ thể: cơ bị cứng theo từng cơn, có lúc cứng như một tấm ván. Đây là tất cả những gì khoa học hiện đại biết, với sự bất lực hiện thời.
Céline Dion đã chia sẻ thành thật về sức khỏe của mình, nếu nói như một người tham gia đoàn phim diễn tả, là họ đã có lúc cảm giác như bà nói những lời cuối với tất cả những người hâm mộ trong bộ phim tài liệu mới, ‘I Am: Céline Dion’, được phát trực tuyến trên Prime Video từ ngày 25 Tháng Sáu.
Bộ phim theo chân nữ ca sĩ nổi tiếng, nhìn lại những điểm nổi bật trong sự nghiệp, mà bà đã cố gắng giành lại sức khỏe để biểu diễn trở lại, bất chấp việc đã được chẩn đoán mắc hội chứng cứng người. Đó là một chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp, gây ra các cơn co thắt cơ nghiêm trọng và đau đớn, ảnh hưởng đến khả năng đi lại, ca hát của bà.
Nền y khoa thế giới hiện nay không có phương pháp điều trị hay loại bỏ, hoặc chữa khỏi SPS, nhưng tạm thời thuốc và các liệu pháp khác có thể giúp kiểm soát các triệu chứng và cải tình trạng, đồng thời một số phương pháp điều trị có thể giúp ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh.
Một cảnh đặc biệt gây sốc trong bộ phim tài liệu cho thấy Celine Dion bị co thắt toàn thân nghiêm trọng đến mức không thể nói hoặc cử động dù chỉ một chút. Nhưng bà nói là việc điều trị đã có hiệu quả, và thậm chí còn chia sẻ kế hoạch trở lại sân khấu, mặc dù bà ấy chưa tiết lộ thông tin cụ thể về thời điểm.
Kể từ khi thông báo kết quả chẩn đoán của mình vào Tháng Mười Hai năm 2022, Celine Dion đã chia sẻ một số thông tin cập nhật về sức khỏe với người hâm mộ, như trên Instagram, Facebook. Những người hâm mộ đã vô cùng lo lắng trước những video tâm tình của bà.
Nhưng mọi sự đang có dấu hiệu khả quan hơn, gần đây Celine Dion đã có thể đến tham dự buổi ra mắt phim tài liệu của bà tại thành phố New York vào giữa Tháng Sáu và vui vẻ tạo dáng trên thảm đỏ. Khi trò chuyện với khán giả, bà chia sẻ rằng bà rất vui khi lần đầu tiên được đứng trước đám đông sau nhiều năm.
Bác sĩ của Celine Dion, Tiến sĩ Amanda Piquet, cũng nói rằng Celine Dion đã đạt được ‘tiến bộ đáng kể’ trong quá trình điều trị kể từ khi bộ phim tài liệu được thực hiện.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Vogue được xuất bản vào tháng trước, Celine Dion chia sẻ rằng bà ấy đang ‘(học) sống chung với’ căn bệnh của mình, đồng thời nói thêm rằng bà ấy đang được điều trị bằng giọng nói, thể chất và thể thao 5 ngày một tuần.
Khi lần đầu tiên tiết lộ về phim tài liệu của bà vào Tháng Một năm 2024, nhóm hát của Celine Dion đã chia sẻ một thông tin cập nhật ngắn về sức khỏe của bà ấy, đầy hy vọng, viết rằng nữ ca sĩ đang ‘trên đường tiếp tục sự nghiệp biểu diễn của mình’.
Dion cho biết trong thông cáo báo chí: “Những năm vừa qua quả là một thử thách đối với tôi, hành trình từ việc khám phá tình trạng của mình đến học cách sống chung và quản lý nó, nhưng không để nó định nghĩa con người tôi”.
Celine Dion trong lần xuất hiện gần nhất vào ngày 28 Tháng Sáu 2024
(Photo by Eliot J. Schechter/NHLI via Getty Images)
Hội chứng stiff person syndrome là một dạng rối loạn thần kinh tiến triển với các đặc điểm gây ra cứng cơ ở thân và các chi, đồng thời tăng độ nhạy cảm với tiếng ồn, va chạm và căng thẳng về cảm xúc, có thể gây ra các cơn co thắt cơ đau đớn.
Tình trạng này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Những người mắc hội chứng người cứng khớp có thể bị gù lưng và gặp khó khăn khi đi lại hoặc di chuyển. Họ cũng có thể ngã thường xuyên hơn vì thiếu phản xạ cơ để tự giữ mình, điều này có thể dẫn đến chấn thương.
Theo Johns Hopkins Medicine, hội chứng stiff person syndrome rất hiếm gặp, chỉ ảnh hưởng đến một hoặc hai trong một triệu người. Theo Viện Y tế Quốc gia, nó ảnh hưởng đến số phụ nữ nhiều gấp đôi so với nam giới.
Vào Tháng Mười Hai năm 2022, Dion tiết lộ rằng bà đã được chẩn đoán mắc hội chứng người SPS và phải hoãn chuyến lưu diễn vì tình trạng này. Năm tháng sau, vào Tháng Năm 2023, bà đã được yêu cầu hủy tất cả các ngày lưu diễn còn lại.
Mai Nguyễn
1 tháng 7, 2024
Trailer bộ phim tài liệu của Celine Dion trên Prime Video.
Celine Dion hiện đang phải chiến đấu với căn bệnh thần kinh nghiêm trọng được gọi là hội chứng cứng người (Stiff Person Syndrome – SPS). Đây là hội chứng cứng các khớp và cơ trong cơ thể: cơ bị cứng theo từng cơn, có lúc cứng như một tấm ván. Đây là tất cả những gì khoa học hiện đại biết, với sự bất lực hiện thời.
Céline Dion đã chia sẻ thành thật về sức khỏe của mình, nếu nói như một người tham gia đoàn phim diễn tả, là họ đã có lúc cảm giác như bà nói những lời cuối với tất cả những người hâm mộ trong bộ phim tài liệu mới, ‘I Am: Céline Dion’, được phát trực tuyến trên Prime Video từ ngày 25 Tháng Sáu.
Bộ phim theo chân nữ ca sĩ nổi tiếng, nhìn lại những điểm nổi bật trong sự nghiệp, mà bà đã cố gắng giành lại sức khỏe để biểu diễn trở lại, bất chấp việc đã được chẩn đoán mắc hội chứng cứng người. Đó là một chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp, gây ra các cơn co thắt cơ nghiêm trọng và đau đớn, ảnh hưởng đến khả năng đi lại, ca hát của bà.
Nền y khoa thế giới hiện nay không có phương pháp điều trị hay loại bỏ, hoặc chữa khỏi SPS, nhưng tạm thời thuốc và các liệu pháp khác có thể giúp kiểm soát các triệu chứng và cải tình trạng, đồng thời một số phương pháp điều trị có thể giúp ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh.
Một cảnh đặc biệt gây sốc trong bộ phim tài liệu cho thấy Celine Dion bị co thắt toàn thân nghiêm trọng đến mức không thể nói hoặc cử động dù chỉ một chút. Nhưng bà nói là việc điều trị đã có hiệu quả, và thậm chí còn chia sẻ kế hoạch trở lại sân khấu, mặc dù bà ấy chưa tiết lộ thông tin cụ thể về thời điểm.
Kể từ khi thông báo kết quả chẩn đoán của mình vào Tháng Mười Hai năm 2022, Celine Dion đã chia sẻ một số thông tin cập nhật về sức khỏe với người hâm mộ, như trên Instagram, Facebook. Những người hâm mộ đã vô cùng lo lắng trước những video tâm tình của bà.
Nhưng mọi sự đang có dấu hiệu khả quan hơn, gần đây Celine Dion đã có thể đến tham dự buổi ra mắt phim tài liệu của bà tại thành phố New York vào giữa Tháng Sáu và vui vẻ tạo dáng trên thảm đỏ. Khi trò chuyện với khán giả, bà chia sẻ rằng bà rất vui khi lần đầu tiên được đứng trước đám đông sau nhiều năm.
Bác sĩ của Celine Dion, Tiến sĩ Amanda Piquet, cũng nói rằng Celine Dion đã đạt được ‘tiến bộ đáng kể’ trong quá trình điều trị kể từ khi bộ phim tài liệu được thực hiện.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Vogue được xuất bản vào tháng trước, Celine Dion chia sẻ rằng bà ấy đang ‘(học) sống chung với’ căn bệnh của mình, đồng thời nói thêm rằng bà ấy đang được điều trị bằng giọng nói, thể chất và thể thao 5 ngày một tuần.
Khi lần đầu tiên tiết lộ về phim tài liệu của bà vào Tháng Một năm 2024, nhóm hát của Celine Dion đã chia sẻ một thông tin cập nhật ngắn về sức khỏe của bà ấy, đầy hy vọng, viết rằng nữ ca sĩ đang ‘trên đường tiếp tục sự nghiệp biểu diễn của mình’.
Dion cho biết trong thông cáo báo chí: “Những năm vừa qua quả là một thử thách đối với tôi, hành trình từ việc khám phá tình trạng của mình đến học cách sống chung và quản lý nó, nhưng không để nó định nghĩa con người tôi”.
Celine Dion trong lần xuất hiện gần nhất vào ngày 28 Tháng Sáu 2024
(Photo by Eliot J. Schechter/NHLI via Getty Images)
Hội chứng stiff person syndrome là một dạng rối loạn thần kinh tiến triển với các đặc điểm gây ra cứng cơ ở thân và các chi, đồng thời tăng độ nhạy cảm với tiếng ồn, va chạm và căng thẳng về cảm xúc, có thể gây ra các cơn co thắt cơ đau đớn.
Tình trạng này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Những người mắc hội chứng người cứng khớp có thể bị gù lưng và gặp khó khăn khi đi lại hoặc di chuyển. Họ cũng có thể ngã thường xuyên hơn vì thiếu phản xạ cơ để tự giữ mình, điều này có thể dẫn đến chấn thương.
Theo Johns Hopkins Medicine, hội chứng stiff person syndrome rất hiếm gặp, chỉ ảnh hưởng đến một hoặc hai trong một triệu người. Theo Viện Y tế Quốc gia, nó ảnh hưởng đến số phụ nữ nhiều gấp đôi so với nam giới.
Vào Tháng Mười Hai năm 2022, Dion tiết lộ rằng bà đã được chẩn đoán mắc hội chứng người SPS và phải hoãn chuyến lưu diễn vì tình trạng này. Năm tháng sau, vào Tháng Năm 2023, bà đã được yêu cầu hủy tất cả các ngày lưu diễn còn lại.
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Nửa thế kỷ nhìn lại đời ‘Boat People’
Vài cảm nghĩ sau khi xem phim “Thuyền Nhân” của đạo diễn Thanh
Triều Phong
Poster của phim
Ngày 12 Tháng Năm năm 2024 cũng là ngày Lễ Mẹ, Cộng Đồng Người Việt ở Dayton và các vùng phụ cận đã có dịp gặp gỡ đạo diễn trẻ, đẹp, duyên dáng; cô Thanh Tâm và được xem phim tài liệu lịch sử cận đại của Việt Nam, đó là phim “Boat People” do chính cô dàn dựng. Buổi chiếu phim miễn phí gồm hai xuất vào lúc 1:45 chiều và 5:45 tối đã được một số nhà hảo tâm tại đây tài trợ!
Đối với lịch sử thì năm mươi năm không phải là một khoảng thời gian dài nhưng với một đời người thì nó đủ cho người ta nhìn, soi rọi và chiêm nghiệm lại đời mình. Đặc biệt đối với các nhà viết, nghiên cứu lịch sử thì năm mươi năm là một thời gian đã đủ để cho người ta phân tích, tìm hiểu những sự kiện lịch sử đã xảy ra ở thời kỳ đó.
Trong cùng cái ý tưởng ấy, một người trẻ của thế hệ không phải là thuyền nhân nhưng đạo diễn Thanh Tâm đã băn khoăn đi tìm lại cội nguồn của mình, tìm hiểu vì sao mình hiện diện tại Canada, vì sao người Việt có mặt ở khắp năm châu, bốn bể để mới chợt khám phá ra cả một biến cố to lớn đầy đau thương sau Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khiến cả dân tộc Việt Nam của cô phải chịu đựng biết bao khổ đau mà cô cần phải ghi lại.
Cô ghi lại bằng những thước phim tài liệu lịch sử của Việt Nam cho chính cá nhân cô cũng như các thế hệ mai sau biết về hải trình, lộ trình của ông bà họ đã hy sinh tất cả gia tài sự sản, thậm chí cả mạng sống trên đường vượt thoát chế độ cộng sản để tìm tự do. Cô ghi lại để cho cô và những người trẻ lớn lên ở hải ngoại biết “Freedom is not free!” mà Martin Luther King đã nói, nó quý giá như thế nào để gìn giữ. Và đó là lý do phim Boat People ra đời!
Thanh Tâm đã không quản nhọc nhằn để bỏ ra một thời gian dài đi tìm phỏng vấn các nhân chứng, nạn nhân của phong ba bão táp, của hải tặc Thái Lan tàn bạo, hãm hiếp giết người diệt khẩu trong suốt các thập niên cuối 70 tới 80 rồi 90. Và Thanh Tâm cũng không ngại “thân gái dặm trường” mà lặn lội đi khắp những trại tị nạn thuyền nhân ngày xưa như Bidong, Galang… để tìm hiểu về đời sống cơ cực của họ ở đó bằng tài chánh cá nhân ít ỏi của mình. Chính ở những quốc gia tạm dung này cô đã thấy có nhiều nghĩa trang với vô số mồ xiêu mả lạc của người vượt biển đã bỏ mình, đã gửi lại nắm xương tàn trước khi đến được xứ sở tự do thật sự. Nhiều thảm cảnh thương tâm đã từng xảy ra ở đây mà dân chúng xứ tự do không biết, lương tâm nhân loại không chứng kiến được.
Cô đã tự hỏi tại sao đất nước không còn chiến tranh, thống nhất hai miền Nam Bắc rồi mà sao lại có hàng triệu người phải bỏ nước ra đi? Họ băng rừng vượt biển, đem sinh mạng đùa với đói khát, với phong ba bão táp, đem số phận đánh đu với hải tặc luôn rình rập ngoài biển khơi? Theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn thì đã có cả mấy trăm ngàn người bỏ mạng dưới lòng đại dương hay trong rừng sâu nước độc với hàng trăm lý do khác nhau. Ho đã dùng mọi phương tiện thay cho cứu cánh vì hai chữ tự do!
Thế cho nên hai từ “Boat People” là cục xương khó nuốt của chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Nó là hệ quả nói lên bởi một chính sách khắc nghiệt, phân biệt đối xử, trả thù tàn bạo dân chúng miền Nam sau 1975 mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực thi. Vì vậy họ ra sức dùng quan hệ ngoại giao để ép buộc những nước từng có trại tị nạn quanh vùng Đông Nam Á đập phá các bia tưởng niệm thuyền nhân nhằm xóa bỏ dấu tích cai trị dã man của mình. Nhưng dã tâm của họ không thành công vì hiện nay có vô số đài tưởng niệm thuyền nhân được xây dựng trên khắp các quốc gia tự do có người Việt sinh sống và sâu xa hơn nữa là ngay trong tim của người tị nạn!
Và bây giờ ngoài các tác phẩm văn học hay âm nhạc nói về khúc quanh lịch sử này thì trong lĩnh vực điện ảnh, chúng ta bắt đầu có một số phim ngắn mà điển hình là Boat People của nữ đạo diễn Thanh Tâm đang công chiếu!
Tác giả Triều Phong cùng gia đình, tại buổi ra mắt phim (Hình: TP) Tôi là một thuyền nhân vượt biên nhiều lần, bị bắt ở tù vài ba lần và bị kẹt lại ở trại PFAC (The Philippine First Asylum Camp) gần mười một năm nhưng tôi cũng không nén nổi nỗi ngậm ngùi khi xem lại các cảnh đoạn trường xưa trên màn ảnh hoặc lúc nghe lời tâm sự đớn đau đẫm nước mắt của các phụ nữ từng là nạn nhân của hải tặc thuở nào hay nghe tiếng thét hốt hoảng của người ngồi sau khi thấy cảnh ghe vượt biên lật úp làm toàn bộ thuyền nhân phải mạng vong.
Đạo diễn Thanh Tâm đã thành công khi khai thác các hình ảnh tài liệu thật sự thương tâm để lột tả nỗi cơ cực kinh hoàng của thuyền nhân khi vượt biển qua hình ảnh bà mẹ đã kiệt sức do đói khát nhiều ngày nhưng vẫn cố cho con bú để
cứu con khỏi chết đói. Và đứa bé thì chỉ còn da bọc xương, mắt mở trừng trừng nhưng miệng vẫn cố ngậm chặt vú mẹ tìm chút sữa cuối cùng hay chi tiết khéo léo tuy nhỏ khác nhưng cũng đã đánh động lòng người bằng việc quay lại lời kể
của một nhân viên di trú lúc thấy một em bé bốn năm tuổi khệ nệ mang theo chiếc bình nhựa có chứa ba bốn lít nước bên trong, lẽo đẽo đi rất xa gia đình ở phía sau vì nặng khi được định cư do lo sợ chết khát bởi không có nước uống như trên ghe hôm nào!
Họ cũng có thể là các người đã đến được bến bờ tự do nhưng chỉ còn là những cái xác không hồn vì bị khủng hoảng tinh thần bởi vô số chuyện kinh hoàng đã xảy ra trên ghe, trên biển mà họ đã chứng kiến hoặc như tôi bây giờ dù đã định cư ông Mỹ hơn hai mươi năm mà đôi lúc cũng còn giật mình hốt hoảng vì hình ảnh hãi hùng vượt biển năm xưa mà thầy tôi; một giáo sư người Mỹ gọi đó là hội chứng PTSD (Post-Traumatic Stress Disorder) của thuyền nhân Việt Nam.
Tuy nhiên phim cũng không tránh khỏi thiếu sót khách quan lúc nói về trại PFAC ở Palawan, Philippines. Do dịch Covid-19 hoành hành nên đoàn làm phim không thể tới trại tị nạn này vì vậy không biết chính phủ Phi cũng có cưỡng bức hồi hương thuyền nhân vào ngày Valentine, 14 tháng 02 năm 1996, như các trại khác chứ không phải không có như trong phim đã nói!
Vì Phi có tham gia ký cam kết vào Chương Trình Hành Động Toàn Diện (CPA) về tị nạn Đông Dương năm 1989 nên cũng phải áp dụng biện pháp cưỡng bức nhưng là quốc gia nhân đạo duy nhất chỉ thực hiện một lần rồi cho phép thuyền nhân ở lại theo tinh thần nhân ái của người Kitô hữu khi chứng kiến người lánh cư lại một lần nữa liều mạng ngăn chặn máy bay, phản ứng quyết liệt trên phi đạo ngày ấy.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn đạo diễn Thanh Tâm đã hy sinh công sức để dựng lại một cuốn phim có giá trị lịch sử rất cao về tự do, nhân bản cho hậu thế bằng cả nhiệt huyết của người trẻ có lòng với quê hương cùng sự can đảm không sợ chính quyền cộng sản Việt Nam bên nhà cũng như các vị mạnh thường quân ở đây đã tài trợ dù người Việt chúng ta nơi này không nhiều nhưng cũng đã tạo cơ hội cho các em cháu hiểu thêm về nguồn gốc, xuất xứ của bản thân, gia đình mình.
Hy vọng cuốn phim này được chiếu rộng rãi và gặt hái thêm nhiều thành công ở khắp nơi có người Việt sinh sống trên thế giới và được sự ủng hộ của mọi người dành cho Thanh Tâm; nữ đạo diễn trẻ, cả về vật chất lẫn tinh thần để cô có thêm phương tiện thực hiện những ước mơ kế tiếp. Đây là dịp cho chúng ta nhìn lại mình nhưng không phải thấy đời đã “xanh rêu” mà là xanh tươi do đã gieo hạt, ươm mầm cho các thế hệ con cháu đời sau được sống trong ấm no hạnh phúc, và thành đạt trên xứ người.
Dayton, Ohio ngày 13 Tháng 05 năm 2024
Vài cảm nghĩ sau khi xem phim “Thuyền Nhân” của đạo diễn Thanh
Triều Phong
Poster của phim
Ngày 12 Tháng Năm năm 2024 cũng là ngày Lễ Mẹ, Cộng Đồng Người Việt ở Dayton và các vùng phụ cận đã có dịp gặp gỡ đạo diễn trẻ, đẹp, duyên dáng; cô Thanh Tâm và được xem phim tài liệu lịch sử cận đại của Việt Nam, đó là phim “Boat People” do chính cô dàn dựng. Buổi chiếu phim miễn phí gồm hai xuất vào lúc 1:45 chiều và 5:45 tối đã được một số nhà hảo tâm tại đây tài trợ!
Đối với lịch sử thì năm mươi năm không phải là một khoảng thời gian dài nhưng với một đời người thì nó đủ cho người ta nhìn, soi rọi và chiêm nghiệm lại đời mình. Đặc biệt đối với các nhà viết, nghiên cứu lịch sử thì năm mươi năm là một thời gian đã đủ để cho người ta phân tích, tìm hiểu những sự kiện lịch sử đã xảy ra ở thời kỳ đó.
Trong cùng cái ý tưởng ấy, một người trẻ của thế hệ không phải là thuyền nhân nhưng đạo diễn Thanh Tâm đã băn khoăn đi tìm lại cội nguồn của mình, tìm hiểu vì sao mình hiện diện tại Canada, vì sao người Việt có mặt ở khắp năm châu, bốn bể để mới chợt khám phá ra cả một biến cố to lớn đầy đau thương sau Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khiến cả dân tộc Việt Nam của cô phải chịu đựng biết bao khổ đau mà cô cần phải ghi lại.
Cô ghi lại bằng những thước phim tài liệu lịch sử của Việt Nam cho chính cá nhân cô cũng như các thế hệ mai sau biết về hải trình, lộ trình của ông bà họ đã hy sinh tất cả gia tài sự sản, thậm chí cả mạng sống trên đường vượt thoát chế độ cộng sản để tìm tự do. Cô ghi lại để cho cô và những người trẻ lớn lên ở hải ngoại biết “Freedom is not free!” mà Martin Luther King đã nói, nó quý giá như thế nào để gìn giữ. Và đó là lý do phim Boat People ra đời!
Thanh Tâm đã không quản nhọc nhằn để bỏ ra một thời gian dài đi tìm phỏng vấn các nhân chứng, nạn nhân của phong ba bão táp, của hải tặc Thái Lan tàn bạo, hãm hiếp giết người diệt khẩu trong suốt các thập niên cuối 70 tới 80 rồi 90. Và Thanh Tâm cũng không ngại “thân gái dặm trường” mà lặn lội đi khắp những trại tị nạn thuyền nhân ngày xưa như Bidong, Galang… để tìm hiểu về đời sống cơ cực của họ ở đó bằng tài chánh cá nhân ít ỏi của mình. Chính ở những quốc gia tạm dung này cô đã thấy có nhiều nghĩa trang với vô số mồ xiêu mả lạc của người vượt biển đã bỏ mình, đã gửi lại nắm xương tàn trước khi đến được xứ sở tự do thật sự. Nhiều thảm cảnh thương tâm đã từng xảy ra ở đây mà dân chúng xứ tự do không biết, lương tâm nhân loại không chứng kiến được.
Cô đã tự hỏi tại sao đất nước không còn chiến tranh, thống nhất hai miền Nam Bắc rồi mà sao lại có hàng triệu người phải bỏ nước ra đi? Họ băng rừng vượt biển, đem sinh mạng đùa với đói khát, với phong ba bão táp, đem số phận đánh đu với hải tặc luôn rình rập ngoài biển khơi? Theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn thì đã có cả mấy trăm ngàn người bỏ mạng dưới lòng đại dương hay trong rừng sâu nước độc với hàng trăm lý do khác nhau. Ho đã dùng mọi phương tiện thay cho cứu cánh vì hai chữ tự do!
Thế cho nên hai từ “Boat People” là cục xương khó nuốt của chính phủ Cộng Sản Việt Nam. Nó là hệ quả nói lên bởi một chính sách khắc nghiệt, phân biệt đối xử, trả thù tàn bạo dân chúng miền Nam sau 1975 mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực thi. Vì vậy họ ra sức dùng quan hệ ngoại giao để ép buộc những nước từng có trại tị nạn quanh vùng Đông Nam Á đập phá các bia tưởng niệm thuyền nhân nhằm xóa bỏ dấu tích cai trị dã man của mình. Nhưng dã tâm của họ không thành công vì hiện nay có vô số đài tưởng niệm thuyền nhân được xây dựng trên khắp các quốc gia tự do có người Việt sinh sống và sâu xa hơn nữa là ngay trong tim của người tị nạn!
Và bây giờ ngoài các tác phẩm văn học hay âm nhạc nói về khúc quanh lịch sử này thì trong lĩnh vực điện ảnh, chúng ta bắt đầu có một số phim ngắn mà điển hình là Boat People của nữ đạo diễn Thanh Tâm đang công chiếu!
Tác giả Triều Phong cùng gia đình, tại buổi ra mắt phim (Hình: TP) Tôi là một thuyền nhân vượt biên nhiều lần, bị bắt ở tù vài ba lần và bị kẹt lại ở trại PFAC (The Philippine First Asylum Camp) gần mười một năm nhưng tôi cũng không nén nổi nỗi ngậm ngùi khi xem lại các cảnh đoạn trường xưa trên màn ảnh hoặc lúc nghe lời tâm sự đớn đau đẫm nước mắt của các phụ nữ từng là nạn nhân của hải tặc thuở nào hay nghe tiếng thét hốt hoảng của người ngồi sau khi thấy cảnh ghe vượt biên lật úp làm toàn bộ thuyền nhân phải mạng vong.
Đạo diễn Thanh Tâm đã thành công khi khai thác các hình ảnh tài liệu thật sự thương tâm để lột tả nỗi cơ cực kinh hoàng của thuyền nhân khi vượt biển qua hình ảnh bà mẹ đã kiệt sức do đói khát nhiều ngày nhưng vẫn cố cho con bú để
cứu con khỏi chết đói. Và đứa bé thì chỉ còn da bọc xương, mắt mở trừng trừng nhưng miệng vẫn cố ngậm chặt vú mẹ tìm chút sữa cuối cùng hay chi tiết khéo léo tuy nhỏ khác nhưng cũng đã đánh động lòng người bằng việc quay lại lời kể
của một nhân viên di trú lúc thấy một em bé bốn năm tuổi khệ nệ mang theo chiếc bình nhựa có chứa ba bốn lít nước bên trong, lẽo đẽo đi rất xa gia đình ở phía sau vì nặng khi được định cư do lo sợ chết khát bởi không có nước uống như trên ghe hôm nào!
Họ cũng có thể là các người đã đến được bến bờ tự do nhưng chỉ còn là những cái xác không hồn vì bị khủng hoảng tinh thần bởi vô số chuyện kinh hoàng đã xảy ra trên ghe, trên biển mà họ đã chứng kiến hoặc như tôi bây giờ dù đã định cư ông Mỹ hơn hai mươi năm mà đôi lúc cũng còn giật mình hốt hoảng vì hình ảnh hãi hùng vượt biển năm xưa mà thầy tôi; một giáo sư người Mỹ gọi đó là hội chứng PTSD (Post-Traumatic Stress Disorder) của thuyền nhân Việt Nam.
Tuy nhiên phim cũng không tránh khỏi thiếu sót khách quan lúc nói về trại PFAC ở Palawan, Philippines. Do dịch Covid-19 hoành hành nên đoàn làm phim không thể tới trại tị nạn này vì vậy không biết chính phủ Phi cũng có cưỡng bức hồi hương thuyền nhân vào ngày Valentine, 14 tháng 02 năm 1996, như các trại khác chứ không phải không có như trong phim đã nói!
Vì Phi có tham gia ký cam kết vào Chương Trình Hành Động Toàn Diện (CPA) về tị nạn Đông Dương năm 1989 nên cũng phải áp dụng biện pháp cưỡng bức nhưng là quốc gia nhân đạo duy nhất chỉ thực hiện một lần rồi cho phép thuyền nhân ở lại theo tinh thần nhân ái của người Kitô hữu khi chứng kiến người lánh cư lại một lần nữa liều mạng ngăn chặn máy bay, phản ứng quyết liệt trên phi đạo ngày ấy.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn đạo diễn Thanh Tâm đã hy sinh công sức để dựng lại một cuốn phim có giá trị lịch sử rất cao về tự do, nhân bản cho hậu thế bằng cả nhiệt huyết của người trẻ có lòng với quê hương cùng sự can đảm không sợ chính quyền cộng sản Việt Nam bên nhà cũng như các vị mạnh thường quân ở đây đã tài trợ dù người Việt chúng ta nơi này không nhiều nhưng cũng đã tạo cơ hội cho các em cháu hiểu thêm về nguồn gốc, xuất xứ của bản thân, gia đình mình.
Hy vọng cuốn phim này được chiếu rộng rãi và gặt hái thêm nhiều thành công ở khắp nơi có người Việt sinh sống trên thế giới và được sự ủng hộ của mọi người dành cho Thanh Tâm; nữ đạo diễn trẻ, cả về vật chất lẫn tinh thần để cô có thêm phương tiện thực hiện những ước mơ kế tiếp. Đây là dịp cho chúng ta nhìn lại mình nhưng không phải thấy đời đã “xanh rêu” mà là xanh tươi do đã gieo hạt, ươm mầm cho các thế hệ con cháu đời sau được sống trong ấm no hạnh phúc, và thành đạt trên xứ người.
Dayton, Ohio ngày 13 Tháng 05 năm 2024
- bichphuong
- Posts: 593
- Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
- Been thanked: 1 time
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Celine Dion tái xuất tại Olympic Paris sau thời gian dài trị bệnh
July 27, 2024
PARIS, Pháp (NV) – Lần đầu tiên, danh ca Celine Dion tái xuất sân khấu từ lúc công bố tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, cất giọng ca uy lực từng làm nên tên tuổi của bà tại lễ khai mạc Thế Vận Hội Paris hôm Thứ Sáu, 26 Tháng Bảy, Đài BBC đưa tin.
Ngôi sao người Canada từng được đồn đoán sẽ song ca với Lady Gaga, nhưng thay vào đó, bà độc diễn trên Tháp Eiffel, cống hiến cho khán giả một màn trình diễn trào dâng cảm xúc trong lễ khai mạc kéo dài bốn giờ đồng hồ.
Đây là buổi trình diễn trực tiếp đầu tiên của Dion sau bốn năm và một năm rưỡi sau khi bà tiết lộ bà bị mắc căn bệnh Hội Chứng Cứng Người SPS.
Danh ca Celine Dion trình diễn ở Tháp Eiffel dịp khai mạc Paris 2024 Olympic ngày 26 Tháng Bảy, 2024 ở Paris, Pháp (Hình: IOC/Getty Images) SPS là một hội chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp khiến cơ bắp bị co thắt và có thể dẫn tới suy nhược. Căn bệnh cũng ảnh hưởng tới giọng hát đầy nội lực có một không hai của bà.
Danh ca 56 tuổi, được mệnh danh là “nữ hoàng nhạc ballad,” được điều trị bằng một liệu pháp nhằm “tái tạo” giọng ca, bà từng nói với BBC vào Tháng Sáu.
Hôm Thứ Sáu, khi xướng lên ca khúc kinh điển “L’Hymne à l’Amour” từng được danh ca Edith Piaf biểu diễn, Dion cho thấy những dấu hiệu đáng khích lệ rằng phương pháp điều trị có hiệu quả.
Bà được một nghệ sĩ dương cầm đệm đàn tại tầng một của Tháp Eiffel, bên dưới là những vòng tròn Olympic vĩ đại được thắp sáng.
“Celine Dion là một biểu tượng của Canada, một tài năng kiệt xuất và phải vượt qua vô vàn trắc trở để có mặt tại đây trong tối nay,” Thủ Tướng Canada Justin Trudeau cho biết.
Danh ca người Ý Laura Pausini viết: “Tay tôi run lên vì xúc động, mắt tôi ngấn lệ khi được lắng nghe và nhìn thấy Celine Dion thương mến cất giọng ca.”
Dion được nhiều khán giả hâm mộ tại Pháp. Album D’eux phát hành năm 1995 là album tiếng Pháp bán chạy nhất mọi thời đại.
Sau Thế Vận Hội Atlanta 1996, đây là lần thứ nhì Dion tham gia một buổi lễ khai mạc Olympic, bà nổi danh nhờ các ca khúc làm nên tên tuổi như “My Heart Will Go On” và “It’s All Coming Back to Me Now.”
Sáu tháng trôi qua từ lúc Dion bất ngờ xuất hiện để trao giải Grammy, bà mới thực hiện màn trình diễn hôm Thứ Sáu.
Bà cũng hé lộ một nơi biểu diễn mới tại Las Vegas.
“Chúng tôi phải rất cần mẫn để tổ chức chương trình này – vì tôi đã trở lại,” bà nói với BBC vào Tháng Sáu.
Dion từng nắm giữ kỷ lục về chương trình biểu diễn thành công nhất mọi thời đại tại Las Vegas Strip.
Hôm Thứ Năm, Amazon Prime Video cho biết rằng “I Am: Celine Dion” là tựa phim tài liệu thành công nhất từ trước tới nay của họ, trong đó Dion kể về những khó khăn khi sống với căn bệnh SPS, khi công chiếu trong Tháng Sáu vừa qua. (TTHN)
July 27, 2024
PARIS, Pháp (NV) – Lần đầu tiên, danh ca Celine Dion tái xuất sân khấu từ lúc công bố tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, cất giọng ca uy lực từng làm nên tên tuổi của bà tại lễ khai mạc Thế Vận Hội Paris hôm Thứ Sáu, 26 Tháng Bảy, Đài BBC đưa tin.
Ngôi sao người Canada từng được đồn đoán sẽ song ca với Lady Gaga, nhưng thay vào đó, bà độc diễn trên Tháp Eiffel, cống hiến cho khán giả một màn trình diễn trào dâng cảm xúc trong lễ khai mạc kéo dài bốn giờ đồng hồ.
Đây là buổi trình diễn trực tiếp đầu tiên của Dion sau bốn năm và một năm rưỡi sau khi bà tiết lộ bà bị mắc căn bệnh Hội Chứng Cứng Người SPS.
Danh ca Celine Dion trình diễn ở Tháp Eiffel dịp khai mạc Paris 2024 Olympic ngày 26 Tháng Bảy, 2024 ở Paris, Pháp (Hình: IOC/Getty Images) SPS là một hội chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp khiến cơ bắp bị co thắt và có thể dẫn tới suy nhược. Căn bệnh cũng ảnh hưởng tới giọng hát đầy nội lực có một không hai của bà.
Danh ca 56 tuổi, được mệnh danh là “nữ hoàng nhạc ballad,” được điều trị bằng một liệu pháp nhằm “tái tạo” giọng ca, bà từng nói với BBC vào Tháng Sáu.
Hôm Thứ Sáu, khi xướng lên ca khúc kinh điển “L’Hymne à l’Amour” từng được danh ca Edith Piaf biểu diễn, Dion cho thấy những dấu hiệu đáng khích lệ rằng phương pháp điều trị có hiệu quả.
Bà được một nghệ sĩ dương cầm đệm đàn tại tầng một của Tháp Eiffel, bên dưới là những vòng tròn Olympic vĩ đại được thắp sáng.
“Celine Dion là một biểu tượng của Canada, một tài năng kiệt xuất và phải vượt qua vô vàn trắc trở để có mặt tại đây trong tối nay,” Thủ Tướng Canada Justin Trudeau cho biết.
Danh ca người Ý Laura Pausini viết: “Tay tôi run lên vì xúc động, mắt tôi ngấn lệ khi được lắng nghe và nhìn thấy Celine Dion thương mến cất giọng ca.”
Dion được nhiều khán giả hâm mộ tại Pháp. Album D’eux phát hành năm 1995 là album tiếng Pháp bán chạy nhất mọi thời đại.
Sau Thế Vận Hội Atlanta 1996, đây là lần thứ nhì Dion tham gia một buổi lễ khai mạc Olympic, bà nổi danh nhờ các ca khúc làm nên tên tuổi như “My Heart Will Go On” và “It’s All Coming Back to Me Now.”
Sáu tháng trôi qua từ lúc Dion bất ngờ xuất hiện để trao giải Grammy, bà mới thực hiện màn trình diễn hôm Thứ Sáu.
Bà cũng hé lộ một nơi biểu diễn mới tại Las Vegas.
“Chúng tôi phải rất cần mẫn để tổ chức chương trình này – vì tôi đã trở lại,” bà nói với BBC vào Tháng Sáu.
Dion từng nắm giữ kỷ lục về chương trình biểu diễn thành công nhất mọi thời đại tại Las Vegas Strip.
Hôm Thứ Năm, Amazon Prime Video cho biết rằng “I Am: Celine Dion” là tựa phim tài liệu thành công nhất từ trước tới nay của họ, trong đó Dion kể về những khó khăn khi sống với căn bệnh SPS, khi công chiếu trong Tháng Sáu vừa qua. (TTHN)
- bichphuong
- Posts: 593
- Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
- Been thanked: 1 time
Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC
Tài tử Alain Delon vang bóng một thời, tạ thế ở tuổi 88
August 18, 2024
PARIS, Pháp (NV) – Tài tử người Pháp Alain Delon, ngôi sao từng làm tan chảy trái tim của hàng triệu người hâm mộ điện ảnh dù cho vai diễn của ông có là kẻ sát nhân, côn đồ hay sát thủ trong thời kỳ hoàng kim sau chiến tranh đi chăng nữa, vừa trút hơi thở cuối cùng, ba người con của ông cho biết hôm Chủ Nhật, 18 Tháng Tám. Ông thọ 88 tuổi.
Từ lúc bị đột quỵ năm 2019, sức khỏe của Delon bắt đầu suy giảm, hiếm khi rời khỏi điền trang tại Douchy, thuộc vùng Val de Loire tại Pháp, thông tấn xã Reuters đưa tin.
Tổng Thống Emmanuel Macron tán tụng Delon, rằng ông là một đại tài tử của nền văn hóa Pháp.
Tài tử Alain Delon ở Đại Hội Điện Ảnh Cannes để nhận giải Cành Cọ Vàng ngày 19 Tháng Năm, 2019 ở Cannes, Pháp
(Hình: Pascal Le Segretain/Getty Images)
“Alain Delon từng đóng những vai diễn huyền thoại và khiến cả thế giới mê mẩn. Diện mạo khó quên của ông làm rúng động tâm can khán giả. U sầu, hào nhoáng, bí hiểm, ông không chỉ là một ngôi sao: ông là một tượng đài của Pháp,” Macron viết trên X.
Với đôi mắt xanh hút hồn, đôi lúc Delon còn được gọi là “Frank Sinatra của Pháp” vì dung mạo điển trai, nhưng Delon không thích bị so sánh với Sinatra. Không giống như Sinatra, vốn luôn luôn phủ nhận qua lại với Mafia, Delon công khai thừa nhận những mối quan hệ mờ ám trong thế giới ngầm.
Năm 1970, trong một cuộc phỏng vấn với The New York Times, Delon được hỏi về những nhân vật ông quen biết trong giới xã hội đen, một trong số họ là một trong những “Bố Già” cuối cùng của giới giang hồ tại hải cảng Marseille thuộc vùng Địa Trung Hải.
“Tôi quen biết phần lớn các thành viên băng đảng trong số đó… họ đều là bằng hữu của tôi trước khi tôi trở thành tài tử,” Delon nói. “Tôi chả quan tâm bạn bè mình làm gì. Ai cũng phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Cho nên bạn tôi làm nghề gì đối với tôi không quan trọng.”
Delon bắt đầu bước ra ánh hào quang trong hai tựa phim của đạo diễn người Ý, Luchino Visconti, là “Rocco and His Brothers” năm 1960 và “The Leopard” năm 1963.
Delon sánh vai cùng Jean Gabin trong tựa phim “Melodie en Sous-Sol” (“Any Number Can Win”) năm 1963 của Henri Verneuil và tạo ra tiếng vang trong “Le Samourai” (“The Godson”) năm 1967 của Jean-Pierre Melville, trong đó Delon thủ vai kẻ giết mướn, ít lời thoại và nhiều cảnh độc diễn, giúp Delon tỏa sáng.
Delon trở thành ngôi sao tại Pháp và được cả đàn ông lẫn phụ nữ Nhật Bản thần tượng, nhưng chưa bao giờ thành công ở Hollywood mặc dù từng hợp tác với những tên tuổi trong lãnh vực điện ảnh Mỹ, gồm có Burt Lancaster, tài tử người Pháp này vào vai sát thủ tập sự Scorpio trong tựa phim cùng tên năm 1973.
Những khoảnh khắc làm nên tên tuổi của Delon cũng gồm có tựa phim kinh dị khiêu dâm năm 1969 “La Piscine” (“The Swimming Pool”), trong đó Delon đóng chung với tình nhân ngoài đời thực Romy Schneider, trong một câu chuyện đầy ghen tuông và quyến rũ xảy ra ở French Riviera.
Chào đời tại ngoại ô Paris vào ngày 8 Tháng Mười Một 1935, Delon được đưa vào trại trẻ mồ côi khi mới bốn tuổi sau khi cha mẹ ông ly hôn.
Delon từng bỏ nhà đi ít nhất một lần và bị đuổi khỏi trường nội trú nhiều lần trước khi gia nhập Thủy Quân Lục Chiến năm 17 tuổi và tham chiến tại Đông Dương do Pháp cai trị. Tại đó, ông cũng gặp rắc rối liên quan tới một chiếc xe jeep bị ăn cắp.
Quay về Pháp vào giữa những năm 50, ông làm nhân viên khuân vác tại chợ buôn bán thực phẩm Les Halles ở Paris đồng thời lui tới khu đèn đỏ Pigalle trước khi dọn tới các quán cà phê theo kiểu dân du mục ở khu vực St. Germain des Pres.
Tại đó, ông gặp tài tử Pháp, Jean-Claude Brialy, giúp ông tham dự Đại Hội Điện Ảnh Cannes, nơi ông được một nhà tuyển mộ tài năng người Mỹ chú ý, sau đó sắp xếp cho ông một buổi thử vai.
Ông ra mắt trong tựa phim đầu tay vào năm 1957, “Quand la femme s’en mele” (“Send a Woman When the Devil Fails”).
Delon vừa là một thương gia vừa là một tài tử, ông tận dụng diện mạo để bán mỹ phẩm và tham gia đua ngựa với những người bạn cũ trong thế giới ngầm. Ông cũng đầu tư vào một chuồng ngựa đua khi hợp tác với Jacky “Le Mat” Imbert, một nhân vật máu mặt trong một băng đảng đang cát cứ tại Marseille.
Delon nói với Paris Match trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 rằng ông ngán ngẩm cuộc sống hiện đại và chuẩn bị sẵn một nhà nguyện cũng như lăng mộ cho ông trong khuôn viên của tư gia gần Geneva, và cũng chuẩn bị cho cả con chó chăn cừu Bỉ, Loubo.
Lần cuối cùng Delon xuất hiện rầm rộ trước công chúng là để nhận giải thưởng Cành Cọ Vàng danh dự tại Đại Hội Điện Ảnh Cannes vào Tháng Năm 2019.
Tháng Tư 2024, một thẩm phán đưa ra phán quyết rằng Delon bị “quản lý tài sản,” tức là ông không còn toàn quyền tự do quản lý tài sản của mình. Ông được luật pháp bảo vệ vì lo ngại về sức khỏe và tâm thần. (TTHN)
August 18, 2024
PARIS, Pháp (NV) – Tài tử người Pháp Alain Delon, ngôi sao từng làm tan chảy trái tim của hàng triệu người hâm mộ điện ảnh dù cho vai diễn của ông có là kẻ sát nhân, côn đồ hay sát thủ trong thời kỳ hoàng kim sau chiến tranh đi chăng nữa, vừa trút hơi thở cuối cùng, ba người con của ông cho biết hôm Chủ Nhật, 18 Tháng Tám. Ông thọ 88 tuổi.
Từ lúc bị đột quỵ năm 2019, sức khỏe của Delon bắt đầu suy giảm, hiếm khi rời khỏi điền trang tại Douchy, thuộc vùng Val de Loire tại Pháp, thông tấn xã Reuters đưa tin.
Tổng Thống Emmanuel Macron tán tụng Delon, rằng ông là một đại tài tử của nền văn hóa Pháp.
Tài tử Alain Delon ở Đại Hội Điện Ảnh Cannes để nhận giải Cành Cọ Vàng ngày 19 Tháng Năm, 2019 ở Cannes, Pháp
(Hình: Pascal Le Segretain/Getty Images)
“Alain Delon từng đóng những vai diễn huyền thoại và khiến cả thế giới mê mẩn. Diện mạo khó quên của ông làm rúng động tâm can khán giả. U sầu, hào nhoáng, bí hiểm, ông không chỉ là một ngôi sao: ông là một tượng đài của Pháp,” Macron viết trên X.
Với đôi mắt xanh hút hồn, đôi lúc Delon còn được gọi là “Frank Sinatra của Pháp” vì dung mạo điển trai, nhưng Delon không thích bị so sánh với Sinatra. Không giống như Sinatra, vốn luôn luôn phủ nhận qua lại với Mafia, Delon công khai thừa nhận những mối quan hệ mờ ám trong thế giới ngầm.
Năm 1970, trong một cuộc phỏng vấn với The New York Times, Delon được hỏi về những nhân vật ông quen biết trong giới xã hội đen, một trong số họ là một trong những “Bố Già” cuối cùng của giới giang hồ tại hải cảng Marseille thuộc vùng Địa Trung Hải.
“Tôi quen biết phần lớn các thành viên băng đảng trong số đó… họ đều là bằng hữu của tôi trước khi tôi trở thành tài tử,” Delon nói. “Tôi chả quan tâm bạn bè mình làm gì. Ai cũng phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Cho nên bạn tôi làm nghề gì đối với tôi không quan trọng.”
Delon bắt đầu bước ra ánh hào quang trong hai tựa phim của đạo diễn người Ý, Luchino Visconti, là “Rocco and His Brothers” năm 1960 và “The Leopard” năm 1963.
Delon sánh vai cùng Jean Gabin trong tựa phim “Melodie en Sous-Sol” (“Any Number Can Win”) năm 1963 của Henri Verneuil và tạo ra tiếng vang trong “Le Samourai” (“The Godson”) năm 1967 của Jean-Pierre Melville, trong đó Delon thủ vai kẻ giết mướn, ít lời thoại và nhiều cảnh độc diễn, giúp Delon tỏa sáng.
Delon trở thành ngôi sao tại Pháp và được cả đàn ông lẫn phụ nữ Nhật Bản thần tượng, nhưng chưa bao giờ thành công ở Hollywood mặc dù từng hợp tác với những tên tuổi trong lãnh vực điện ảnh Mỹ, gồm có Burt Lancaster, tài tử người Pháp này vào vai sát thủ tập sự Scorpio trong tựa phim cùng tên năm 1973.
Những khoảnh khắc làm nên tên tuổi của Delon cũng gồm có tựa phim kinh dị khiêu dâm năm 1969 “La Piscine” (“The Swimming Pool”), trong đó Delon đóng chung với tình nhân ngoài đời thực Romy Schneider, trong một câu chuyện đầy ghen tuông và quyến rũ xảy ra ở French Riviera.
Chào đời tại ngoại ô Paris vào ngày 8 Tháng Mười Một 1935, Delon được đưa vào trại trẻ mồ côi khi mới bốn tuổi sau khi cha mẹ ông ly hôn.
Delon từng bỏ nhà đi ít nhất một lần và bị đuổi khỏi trường nội trú nhiều lần trước khi gia nhập Thủy Quân Lục Chiến năm 17 tuổi và tham chiến tại Đông Dương do Pháp cai trị. Tại đó, ông cũng gặp rắc rối liên quan tới một chiếc xe jeep bị ăn cắp.
Quay về Pháp vào giữa những năm 50, ông làm nhân viên khuân vác tại chợ buôn bán thực phẩm Les Halles ở Paris đồng thời lui tới khu đèn đỏ Pigalle trước khi dọn tới các quán cà phê theo kiểu dân du mục ở khu vực St. Germain des Pres.
Tại đó, ông gặp tài tử Pháp, Jean-Claude Brialy, giúp ông tham dự Đại Hội Điện Ảnh Cannes, nơi ông được một nhà tuyển mộ tài năng người Mỹ chú ý, sau đó sắp xếp cho ông một buổi thử vai.
Ông ra mắt trong tựa phim đầu tay vào năm 1957, “Quand la femme s’en mele” (“Send a Woman When the Devil Fails”).
Delon vừa là một thương gia vừa là một tài tử, ông tận dụng diện mạo để bán mỹ phẩm và tham gia đua ngựa với những người bạn cũ trong thế giới ngầm. Ông cũng đầu tư vào một chuồng ngựa đua khi hợp tác với Jacky “Le Mat” Imbert, một nhân vật máu mặt trong một băng đảng đang cát cứ tại Marseille.
Delon nói với Paris Match trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 rằng ông ngán ngẩm cuộc sống hiện đại và chuẩn bị sẵn một nhà nguyện cũng như lăng mộ cho ông trong khuôn viên của tư gia gần Geneva, và cũng chuẩn bị cho cả con chó chăn cừu Bỉ, Loubo.
Lần cuối cùng Delon xuất hiện rầm rộ trước công chúng là để nhận giải thưởng Cành Cọ Vàng danh dự tại Đại Hội Điện Ảnh Cannes vào Tháng Năm 2019.
Tháng Tư 2024, một thẩm phán đưa ra phán quyết rằng Delon bị “quản lý tài sản,” tức là ông không còn toàn quyền tự do quản lý tài sản của mình. Ông được luật pháp bảo vệ vì lo ngại về sức khỏe và tâm thần. (TTHN)