TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Phim ảnh, âm nhạc đưa người ta vào thế giới ảo mộng quên đi bao nỗi muộn phiền của đời thường... Nơi đây chỉ ghi lại một phần nào đó của cái thế giới muôn mầu sắc và âm thanh đó mà thôi.

Moderator: Nguyễn_Sydney

User avatar
tiendung
Posts: 329
Joined: Wed Dec 01, 2010 10:09 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by tiendung »

Vĩnh biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Huỳnh Duy Lộc

Image
Nhạc sĩ Ngọc Chánh (ảnh: nhacxua)

Nhạc sĩ Ngọc Chánh vừa từ trần tại Nam California vào lúc 6g chiều thứ bảy 7 Tháng Một 2023 (giờ địa phương), ở tuổi 86. Nhớ tới Ngọc Chánh là nhớ tới những nhạc phẩm bất hủ ông viết chung với nhạc sĩ Phạm Duy như “Tuổi biết buồn”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Bao giờ biết tương tư”.

Sinh ngày 13 Tháng Ba 1937 tại Sài gòn, từ năm sáu tuổi, Ngọc Chánh đã học đàn guitar với một người bạn có ngón đàn Flamenco điêu luyện rồi học thêm với một nhạc sĩ Philippines. Năm 1960, Ngọc Chánh bắt đầu con đường âm nhạc với cây đàn dương cầm cùng ban nhạc chơi cho một vũ trường ở hồ tắm Cộng Hòa. Năm 1962, ông về chơi cho vũ trường Melody, vũ trường Lai Yun và về làm trưởng ban nhạc vũ trường Mỹ Phụng ở bến Bạch Đằng với Xuân Mỹ (saxo), Hoàng Liêm (guitar) và một nhạc công đánh trống gốc Hoa.

Năm 1964, ông về làm trưởng ban nhạc của vũ trường Eden Rock trên đường Tự Do. Trong thời gian này, ông thành lập ban nhạc Shotguns gồm những người bạn sinh hoạt văn nghệ trong Biệt đoàn Văn nghệ như Pat Lâm (ca sĩ), Hoàng Liêm (guitar), Elvis Phương (ca sĩ), Đức Hiếu ( trống), Duy Khiêm (bass) và chính ông (keyboard) để chơi nhạc ngoại quốc cho các câu lạc bộ của quân đội Mỹ.


Năm 1969, Ngọc Chánh thành lập Trung tâm băng nhạc Shotguns, thu âm ở một phòng thu trên đường Bùi Hữu Nghĩa. Vì cộng tác chặt chẽ với nhạc sĩ Phạm Duy nên Ngọc Chánh đã nhờ Phạm Duy đặt lời cho bản nhạc “Bao giờ biết tương tư” (năm 1972) ông đã viết cho phim “Điệu ru nước mắt”. Ngọc Chánh còn viết bản nhạc “Vết thù trên lưng ngựa hoang” cho bộ phim cùng tên của đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Lúc đầu, ông định nhờ nhà văn Duyên Anh viết lời, nhưng sau đó đã để cho Phạm Duy viết lời. Duyên văn nghệ giữa Ngọc Chánh và nhạc sĩ Phạm Duy còn mang lại cho nền tân nhạc Việt Nam một bài hát nữa là “Tuổi biết buồn” cũng do Phạm Duy đặt lời.
Image Ca khúc “Bao giờ biết tương tư” trong phim “Điệu ru nước mắt” (đạo diễn Lê Hoàng Hoa chuyển thể tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Duyên Anh) là lời giãi bày nỗi sầu tương tư khi tình yêu chợt đến.

Tình yêu đã đến thật bất ngờ và chàng trai đã biết thế nào là nỗi tương tư vì phải xa cách người yêu, để từng ngày qua là một ngày mong chờ được nhìn thấy bóng dáng của nàng. Tâm hồn chàng giống như một tờ giấy trắng tinh khôi chỉ mong được lấp đầy bằng những lời yêu thương, nhưng nỗi sầu muộn đã làm cho nụ cười tắt trên môi và dòng nước mắt hoen mờ đôi mi.

Một ngày kia, tình yêu đã trở lại, tà áo và đôi bàn tay quen thuộc của nàng đã làm vơi hết nỗi sầu tương tư, nhưng tình yêu tha thiết trong tâm tưởng của chàng không thể bày tỏ thành lời. Thiên đường mở ra trước mắt chàng là cõi tình với tình yêu đầy sức cám dỗ như trái táo trong Vườn địa đàng thuở xưa mang lại niềm hạnh phúc tuyệt vời pha lẫn đắng cay, và chàng đã bước vào, dù biết rằng ở cuối con đường, tình yêu chỉ là một giấc mộng đẹp chóng tàn.


____________

BAO GIỜ BIẾT TƯƠNG TƯ

Ngày nào cho tôi biết,
Biết yêu em rồi tôi biết tương tư
Ngày nào biết mong chờ,
Biết rộn rã buồn vui đợi em dưới mưa.

Ôi biết đem tin này,
Vắng như lòng giấy, tình yêu lấp đầy
Rồi biết quên câu cười,
Biết cho đôi dòng lệ rơi.

Tình yêu đã trở lại,
Đôi mắt đêm ngày vơi hết đọa đày
Tà áo em phơi bày,
Ngón tay em dài, tiếng yêu không lời.

Ngày nào lòng tôi đã
Biết vui biết buồn, ôm mối tương tư
Ngày nào cảnh thiên đường
Đã mở hé tình yêu là trái táo thơm.

Tôi ghé răng cắn vào
Miệng môi ngọt đắng
Tình yêu cuối đường
Là trối trăn cuối cùng,

Giấc mơ não nùng vợi tan.


Nhà thơ Du Tử Lê kể về việc Ngọc Chánh chọn giọng ca Anh Khoa để trình bày ca khúc “Bao giờ biết tương tư”:

“Về bản chất quý mến những tiếng hát trẻ, tới hôm nay, còn có người kể lại rằng, trước khi cho phổ biến ca khúc “Bao giờ biết tương tư”, nhạc sĩ Ngọc Chánh rất băn khoăn trong việc tìm kiếm giọng hát nam thích hợp với ca khúc ấy. Mặc dù khi đó, cộng tác mật thiết với ban nhạc Shotguns đang là “tứ quý nam”: Sĩ Phú, Duy Trác, Elvis Phương và Thái Châu, sau nhiều ngày cân nhắc, đắn đo, cuối cùng Ngọc Chánh đi đến quyết định bất ngờ là mời Anh Khoa làm người đầu tiên trình bày ca khúc mới ấy”.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by bichphuong »

Love Story – Biết dùng lời rất khó…
Lê Hồng Minh

Ngày 20 Tháng Ba 1971, nhạc phẩm chủ đề của phim “Love Story” (“Chuyện tình”) nhảy vọt lên đứng đầu bảng xếp hạng của thị trường nhạc nhẹ Hoa Kỳ, và ngự trị trên đỉnh cao này liên tục trong suốt một tháng! Nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng “Love Story” là một bản nhạc xuất sắc, gọi là kiệt tác là xứng đáng.

Còn Viện Phim ảnh Hoa Kỳ (American Film Institute) thì bình chọn đây là tác phẩm nằm trong TOP 10 của 100 bản nhạc phim hay nhất mọi thời đại. Nhạc phim “Love Story” đứng hạng thứ 9, xếp sau các nhạc phim kinh điển như “Casablanca”, “Cuốn theo chiều gió”, “Bác sĩ Zhivago”!

___________________

Bản nhạc chủ đề gắn liền với bộ phim này đến nỗi rất ít có ai còn nhớ tựa bài hát ban đầu của nó là “Where do I begin” (“Bắt đầu từ đâu”). Nhưng khi nghe những nốt nhạc dạo đầu trỗi lên, có lẽ mọi người đều nhận ra ngay và gọi đó là bài “Love Story”. Đó là khoảng không của một giai điệu nhẹ nhàng lãng mạn, miên man đến dịu dàng, đã gieo vào hồn người một chút cảm giác bâng khuâng, một thời xao xuyến rung động. Những nốt nhạc cứ trầm trầm khiến cho tâm hồn thoáng buồn, trong lòng loanh quanh khoảnh khắc tơ vương.


Thực ra Francis Lai sáng tác cho phim là nhạc nền, không có lời; sau khi phim công chiếu, ở bên Mỹ ông Carl Sigman viết lời bằng tiếng Anh, ở bên Pháp bà Catherine Desage viết lời bằng tiếng Pháp, hai lời này độc lập với nhau, không phải là bản dịch của nhau và khác biệt lớn nhất ở chỗ: Lời tiếng Anh là lời của chàng trai, còn trong tiếng Pháp lại là lời của cô gái (sắp từ giã cõi đời).

Những người hát thành công nhất là hai danh ca Andy Williams và Shirley Bassey. Ca khúc này cũng đã chu du vòng quanh thế giới với gần 800 phiên bản và được chuyển lời sang 25 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Phiên bản tiếng Việt “Chuyện tình”, do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với ca từ quen thuộc “Biết dùng lời rất khó…”.

SỐ PHẬN LẠ KỲ

Như đã chia sẻ, trước khi trở thành một bản tình ca nổi tiếng ướt đẫm nước mắt như mọi người đã biết, nhạc phẩm “Love Story” trước hết chỉ là giai điệu chủ đề bộ phim của đạo diễn Arthur Hiller. Bộ phim này ra mắt khán giả vào ngày 16 Tháng Mười Hai 1970, dựa theo quyển tiểu thuyết vô cùng ăn khách của Erich Segal. Khởi đầu, nó được viết như một kịch bản phim, nhưng “Love Story” chẳng rõ vì sao lại không được bất cứ một hãng phim nào mua bản quyền cả.

Sau đó tác giả phải viết lại thành truyện ngắn để đăng trên báo, rồi từ đó được hoàn chỉnh trở lại để chuyển thành một quyển tiểu thuyết dày 127 trang, phát hành đúng vào ngày “Lễ tình yêu Valentine” năm 1970. Erich Segal (1937-2010), dù là gương mặt không hề xa lạ với giới xuất bản hồi đó và cả sau này, nhưng ông là nhà văn chỉ nổi tiếng nhờ một tác phẩm duy nhất vừa kể trên, cho dù ông đã sáng tác nhiều cuốn truyện sau đó. Chính con gái của Erich Segal đã tâm sự: “Có hai thứ làm nên cuộc đời của cha tôi – đỉnh cao và vực thẳm, đó là tiểu thuyết Love Story và căn bệnh Parkinson”!
Image
Ringo Starr (ngồi), thành viên nhóm The Beatles, và Erich Segal (Getty Images)

Khi hãng phim Paramount công chiếu phim “Love Story” vào mùa Đông năm 1970 (với Ryan O’Neal vai Oliver và Ali MacGraw vai Jenny), dù được dự báo nó trở thành một quả bom tấn làm nổ tung mọi kỷ lục trước đó về doanh thu nhưng có lẽ chắc những ông chủ của hãng phim cũng không ngờ xuất phẩm của họ làm thổn thức rung động hàng triệu con tim trên thế giới như vậy, với câu chuyện thương tâm của đôi tình nhân trẻ, yêu nhau ở trường đại học, nhưng lại bị gia đình cấm cản ngăn cách.


Motif tình dang dở trái ngang giữa Jenny – một nữ sinh nhà nghèo, với Oliver – chàng trai con nhà giàu trở thành tấn bi kịch đẫm lệ, chắc cũng không quá xa lạ nhưng chính ca khúc chủ đề, hoặc lời thoại của phim… đã trở thành một trong những câu nói bất hủ của lịch sử điện ảnh Mỹ!

Một chi tiết khá thú vị là câu thoại nổi tiếng trong phim đã ăn sâu vào tâm trí người xem và thậm chí “tràn” ra cả cuộc sống thực tế của nhiều thế hệ, câu “Love means never having to say you’re sorry” (tạm dịch “Yêu là không bao giờ phải nói lời xin lỗi”)!

Câu thoại nổi tiếng này được mọi người biết “Love means never having to say you’re sorry/Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói lời hối tiếc” thực ra là một lỗi của diễn viên khi nói sai trong kịch bản, lẽ ra phải là “Love means not ever having to say you’re sorry”.

Viện Phim Mỹ đã xếp câu thoại trên ở vị trí thứ 13 trong top 100 lời thoại kinh điển nhất lịch sử màn ảnh. Không chỉ xuất hiện trong nhiều bài hát và tựa phim sau này, câu nói trên phổ biến đến mức trở thành tuyên ngôn mạnh mẽ cho tình yêu, được dùng trong nhiều đám cưới, bức thư tình.
___________________

Một trong những nguyên nhân khiến bộ phim tình cảm ướt át này được yêu mến đến vậy là nhờ phần nhạc của bộ phim, xâm chiếm hết cảm xúc của công chúng. Ca khúc này mỗi lần nghe lại đều mang đến cho ta một giai điệu nhẹ nhàng lãng mạn, miên man dịu dàng, gieo vào hồn người chút cảm giác bâng khuâng, để nhớ về một thời xao xuyến rung động. Những nốt nhạc trầm khiến cho tâm hồn thoáng buồn, trong lòng khoảnh khắc tơ vương.

Stanley Jaffe, ông chủ hãng phim Paramount khi giao đề bài cho nhạc sĩ người Pháp, Francis Lai, người soạn nhạc cho phim “Love Story”, nói ngắn gọn như ra lệnh: “Không cần lời, chỉ cần giai điệu”! Câu chuyện ly kỳ có lẽ đã bắt đầu từ đây…

NGƯỜI CHA ĐẺ FRANCIS LAI

Trước khi đến Paris lập nghiệp, nhạc sĩ Pháp Francis Lai (1932-2018) đã tốt nghiệp nhạc viện thành phố Nice. Thời thanh niên sôi nổi, ông trau dồi thêm nhạc lý với nhiều bậc đàn anh, trong đó có Bernard Dimey, người được xem là hướng dẫn ông trong lĩnh vực sáng tác nhạc phim. Những năm 1950, Francis Lai tách ra khỏi xu hướng hiện thực của dòng nhạc Pháp, và ở thời điểm những năm 1960, ông đã nổi tiếng khắp thế giới như là một trong những gương mặt tiêu biểu của trường phái lãng mạn.

Image
Nhạc sĩ Francis Lai (ảnh: Keystone/Hulton Archive/Getty Images)

Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông đã viết khoảng 600 bài hát và hơn 100 ca khúc cho phim. Thật ra, ông đã thành danh trong làng nhạc quốc tế từ năm 1966, nhờ soạn ca khúc chủ đề của bộ phim “Un homme et une femme” (tạm dịch “Một người đàn ông và một người đàn bà”) của đạo diễn Claude Lelouch. Phim này từng đoạt Cành cọ vàng tại Cannes và bốn giải Oscar. Từ năm đó trở đi, ông rất bận rộn với công việc do được nhiều đạo diễn mời hợp tác.

Ngoài nhạc phim, ông còn sáng tác rất nhiều ca khúc ăn khách trong lĩnh vực nhạc nhẹ. Tính tổng cộng, có trên dưới 60 nghệ sĩ tên tuổi từng hát nhạc của ông, từ danh ca Edith Piaf, Dalida, Aznavour, Patricia Kaas – phía nhạc Pháp; tới các bậc thượng thặng như Ella Fitzgerald, Elton John hay Carly Simon – phía nhạc Anh-Mỹ.

Với ca khúc “Love Story” do Andy Williams và Shirley Bassey lần lượt thể hiện, ông đã giành được một tượng vàng Oscar năm 1971 ở hạng mục “Ca khúc nhạc phim xuất sắc nhất”. Cũng trong năm 1971, bài hát này cũng mang về cho ông giải Quả cầu vàng danh giá.

Trong Francis Lai tồn tại một quan niệm khá độc đáo rằng, âm nhạc là thứ ngôn ngữ không biên giới, nên có thể chẳng cần đến ca từ mà nó vẫn có thể ăn sâu vào lòng người! Hầu hết bản nhạc (kể cả bài “Love Story”) do ông sáng tác đều không có lời, ca từ bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh chỉ được đặt sau đó mà thôi, và thường do những người khác đặt. Ông thố lộ rằng sở dĩ ông ưa nhạc không lời là xuất phát từ việc ông rất mê nhạc jazz!

Francis Lai góp phần vào thành công của hơn 100 bộ phim với những ca khúc chủ đề đi vào lòng người và nhiều người nhận định rằng, chỉ với một vài nốt nhạc thôi, Francis Lai đã làm cho các bộ phim trở nên đẹp đẽ và gây xúc động hơn. Chính vì thế những ca khúc bất hủ của vị nhạc sĩ được mệnh danh “ông vua của những câu chuyện tình” này đã luôn có chỗ đứng để mãi ngân nga trong trái tim của nhiều thế hệ người yêu nhạc từ trước đến giờ!
Image
Ryan O’Neal và Ali MacGraw trong ‘Love Story’, kịch bản chuyển thể từ tiểu thuyết của Erich Segal và được đạo diễn bởi Arthur Hiller (ảnh: Michel Ginfray/Sygma/Sygma via Getty Images)

5 NỐT THỔN THỨC KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

Sau khi nhận “đơn đặt hàng” của chủ hãng phim Paramount, Francis Lai tìm được giai điệu của khúc nhạc “Love Story” vào lúc… nửa khuya. Ban đầu ông định sáng tác trên bốn nốt nhạc căn bản ấy, nhưng nghĩ lại nếu làm như vậy thì thấy gần giống với cấu trúc của một giai điệu vô cùng ăn khách đã trở nên đình đám hai năm về trước là nhạc phẩm chủ đề của bộ phim “Romeo & Juliette” (“A time for us” của Nino Rota).

Do vậy trong câu mở đầu của mỗi đoạn, ông cho thêm một nốt nhạc nữa, biến thành năm, trong khi các câu kế tiếp chỉ có bốn, nhưng có lẽ cũng vì thế mà giai điệu trở nên lâm ly hơn. Vì sự thêm vào một nốt nhạc này, mà đến tận hàng thập niên sau, bản nhạc này vẫn “đẹp không tì vết”, phần lớn cũng vì giai điệu tự nó đã đứng vững, không lời mà vẫn lôi cuốn lạ thường. Nhiều người đúc kết rằng mỗi bài hát thì sẽ cũng sẽ có những giai thoại nào đó đi theo nó, nhưng với trường hợp của “Love Story”, bản tình ca này đã trở thành huyền thoại!

Bộ phim “Love Story” có tiết tấu khá nhẹ nhàng trên giai điệu dìu dặt của bản nhạc nền đó, và đây được xem là điều ấn tượng. Đạo diễn phim đã sử dụng một hình ảnh cho cảnh ban đầu phim và lúc bộ phim kết thúc: Một người đàn ông ngồi đối diện hàng rào trong công viên tuyết phủ trắng. Anh ta vừa mất đi một người yêu anh nhiều hơn bản thân người đó, và anh cũng yêu người đó hơn chính bản thân mình. Nhưng, anh vẫn tự nhủ: “Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói hối tiếc”.

Image
Ali MacGraw và Ryan O’Neal trong ‘Love Story’ (ảnh: ullstein bild/ullstein bild via Getty Images)

Chính vì khá đắt “show” viết nhạc cho phim (điển hình là bài hát trong những bộ phim diễm tình như “Bilitis”, “Emmanuelle” rất được yêu thích) nên Francis Lai đã có tới hai lần từ chối khi hãng phim Paramount có dự án chuyển thể tiểu thuyết “Love Story” lên màn bạc, bởi vì vào thời điểm đó, ông đang phải soạn nhạc chủ đề cho… bốn phim khác nhau. Nhà sản xuất người Mỹ Bob Evans thấy vậy mới gọi điện thoại cho nam tài tử Alain Delon cậy nhờ anh thuyết phục, vì biết rằng hai người là bạn thân của nhau. Nể bạn, nên Francis Lai mới nhận lời, nhưng dường như ông cũng loay hoay mãi vẫn không tìm ra được một giai điệu ưng ý để thể hiện.

Được mệnh danh là ông vua sướt mướt, nghe nhạc của Francis Lai, nếu ai không bùi ngùi thì cũng trở thành thơ thẩn, rất dễ bị đeo đuổi không dứt ra được bởi những giai điệu cứ quẩn quanh quẩn quanh. Chọn Francis Lai viết nhạc phim, giới chủ hãng phim Paramount “chắc cú” rằng chỉ cần những giai điệu không lời của Francis Lai cùng với hình ảnh diễm lệ của bộ phim nói về một cuộc tình đẹp và đau đớn, là “ăn tiền”, là đủ. Thậm chí quá đủ!

Khi được chủ hãng phim nhấn mạnh rằng phải làm sao đó để nó luôn… ám vào đầu công chúng giai điệu bài hát và hình ảnh bộ phim, chứ không cần bất cứ lời hát nào, bởi phần lời bài hát ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến hai điều trên, thậm chí có nguy cơ sẽ làm trôi tuột đi tất cả, Francis Lai đã cho ra đời bản nhạc phim có giai điệu như tuôn chảy từ trái tim, như cửa sổ mùa thu đón chào nắng mới, có một nỗi buồn xen lấn nhưng lại dịu ngọt và tan chảy chậm rãi.

Trên nền nhạc ấy, cuộc tình hai nhân vật chính bỗng lung linh như cổ tích, như thể cái chết không xóa nhòa được sự tận hiến. Khi bộ phim chính thức phát hành, nó đã xô đổ mọi kỷ lục và trở thành phim “bom tấn” của năm 1970. Cùng với đó, bài nhạc trong phim được yêu thích một cách đặc biệt. Tất cả các đài phát thanh đều được yêu cầu phát đi phát lại phần biểu diễn của dàn nhạc Henry Mancini.
Image
Ryan O’Neal và Ali MacGraw trong ‘Love Story’
Và một “hệ quả” đã xảy ra: Nhiều ông chủ của các hãng đĩa gọi điện về cho Paramount yêu cầu được biến bài nhạc này thành ca khúc có lời. Họ nói rằng đang có một loạt các ca sĩ gạo cội yêu cầu được hát bài hát trong phim và yêu cầu này là không thể từ chối! Ba ngày sau khi phim công chiếu, “ông trùm” điện ảnh Stanley Jaffe gật đầu đồng ý với điều kiện: Bài hát này chỉ được phát hành sau nhiều tuần nữa bởi ông vẫn không muốn bộ phim và phần nhạc tuyệt vời của Francis Lai bị ảnh hưởng.

Và Carl Sigman, người khả dĩ nhất có thể cho ông một phần lời bất hủ, được chọn để giao trọng trách này, bởi sự nghiệp của ông gắn liền nhiều bài nhạc phim phổ lời rất nổi tiếng như “Till”, “What Now My Love”… kèm theo lời nhắn: Đây là một bộ phim sướt mướt nên phần lời cũng phải như vậy, càng buồn càng tốt, còn “viết kiểu gì thì tùy ông”. Và chỉ trong vòng một ngày sau đó, Carl Sigman đã viết xong lời bài hát, cũng nhanh như kiểu Francis Lai đã làm!

Dưới cây bút của mình, Carl Sigman đã làm cho bản nhạc trở thành một bài hát, có tựa đề “Jenny – A love story” (“Jenny – Một câu chuyện tình”). Bao trùm bài hát là một nỗi buồn được tả qua sắc lá Tháng Tư với những chiếc lá rơi buồn bã. Đó là tâm trạng của chàng trai Oliver ngồi chờ đợi Jenny khi nhớ lại những hơi thở ngọt ngào của Jenny đã bỏ lại phía sau.

“Nàng đến và ra đi như những cơn mưa mùa hè, như chiếc lá vô tình chạm vào Tháng Tư buồn bã” và rồi “nàng chia sẻ cùng tôi thế giới đặc biệt của nàng, nàng trải dài nó ra với tất cả tình yêu của mình và rồi đột ngột biến mất. Tôi với tay nhưng vẫn không chạm vào được”…


Khi trình bày thử được nhiều người khen, nhưng hóa ra đời đâu có đơn giản như vậy. Bob Evans, một sếp có số má trong hãng Paramount và còn là bạn trai ngoài đời của… Ali MacGraw (người thủ vai Jenny trong “Love Story”) sau khi xem xong phần lời đã nói rằng nó quá buồn bã và kéo cảm xúc chùng xuống. Evans yêu cầu Sigman… viết lại.

Carl Sigman tức điên lên và nói rằng sẽ không sửa bất cứ một từ nào. Sau một hồi đi vòng vòng trong phòng, bỗng Sigman dừng lại, và tự hỏi rằng “Where do I begin?” (tạm dịch “Tôi bắt đầu từ đâu đây?”). Nói xong, ngay lập tức Sigman lấy tờ giấy, kéo ghế ngồi xuống bàn và từ đó ca từ tuôn chảy. Ngay dòng đầu tiên, tựa bài hát ông đã viết luôn: (“Where do I begin”) Love Story”. Ở thời điểm này, mạch câu chuyện bắt đầu… chuyển hướng và đó là giây phút lịch sử để tạo nên một bài hát huyền thoại như chúng ta đã biết!

Sigman đã “hóa thân” cho câu chuyện cũ để đổi màu câu chuyện ấy, bỏ đi tên các nhân vật trong phim, chuyển nội dung từ thể bi quan sang thể hồi tưởng với đầy ắp những lời tán dương tuyệt diệu…

“Tôi biết bắt đầu từ đâu, để kể một câu chuyện tình tuyệt diệu đến nhường nào, một chuyện tình ngọt ngào mà nàng đã mang đến cho tôi, lấp đầy cả một thế giới trống rỗng. Nàng đến và biến đời tôi thành đáng sống, với những bài ca thiên thần cùng mộng tưởng hoang dại, lấp trong tôi tình căng tràn”…

Viết xong xuôi, Sigman cảm giác như mình vừa bị hút hết hơi ra khỏi người. Nhưng ông khoan khoái tựa lưng vào ghế và nghĩ “Tay Evans đó đã đúng, phần lời trước quả thực quá tệ”.

Ngày hôm sau, phần lời của bài hát được chính thức mang tên (Where do I begin) Love Story. Bài hát được gửi đến các ông chủ nhiều hãng đĩa danh tiếng và chờ ngày phát hành.

Trong lịch sử ghi âm Mỹ, chưa có trường hợp nào mà cùng một bài hát lại có đến ba phiên bản của ba nghệ sỹ khác nhau cùng phát hành… một ngày. Nhưng chuyện này đã xảy ra với (Where do I begin) Love Story, khi hãng dĩa Columbia vì quá đau đầu với cuộc chiến cover bài (Where do I begin) Love Story giữa ba ông hoàng Tony Bennett, Andy Williams và Johnny Mathis nên quyết định phát hành bài này vào cùng thời điểm, ngày 20 Tháng Ba 1971.

Cả ba ca sỹ này đều là con cưng của hãng Columbia và ai cũng đều muốn mình là người hát đầu tiên nên cuối cùng ông chủ hãng đĩa quyết định: Tung cả ba bản ra thị trường để cả ba ca sỹ có cơ hội thi tài với nhau, mà công chúng sẽ là người phán xử công bằng.


Kết quả: Andy Williams thắng gần như tuyệt đối. Ông được mời lên kênh NBC (với hàng chục triệu khán giả theo dõi mỗi đêm) hát bài này 12 lần liên tục. Đĩa đơn này còn thắng tuyệt đối với hàng triệu đĩa bán ra. Ở Nhật, bài này bán được 600,000 bản tiếng Anh trong bốn tuần và 600,000 bản tiếng Nhật chỉ trong vòng có ba tuần mà thôi.

Trong khi đó, phiên bản của Tony Bennett dù hát khá tình cảm nhưng nhịp điệu lại khá chậm và nó không thu hút bằng Andy Willlams. Johnny Mathis là người xếp ở vị trí cuối cùng khi ông chỉ thắng nhờ bài hát nằm trong album mà không phát hành thành single.
Image
ANDY WILLIAMS VÀ SHIRLEY BASSEY – BÁU VẬT SỞ HỮU VẬT BÁU

Năm 1971, (Where do I begin) Love Story trở thành bài hát… toàn cầu và được rất nhiều nghệ sỹ tên tuổi cover. Bài hát trở thành bài “hit” lớn nhất trong sự nghiệp của nhà viết lời Carl Sigman và rất nhiều ý kiến cho rằng, ông chính là người cha thứ hai của “Love Story”, bên cạnh Francis Lai, đưa bài hát ra khỏi ánh hào quang của một bộ phim và độc lập trở thành một bài hát kinh điển.

Nếu chỉ dừng lại ở bản nhạc của Francis Lai và phần viết lời của Carl Sigman thì chưa phải hết chuyện. Thế giới đã sinh ra Francis Lai và Carl Sigman thì cũng sẽ sinh ra Andy Williams và Shirley Bassey – một nam và một nữ danh ca, người nam da trắng, còn người nữ da màu – cả hai người đều được coi là vô đối trong ca khúc này!
Image
Andy Williams, 1965 (ảnh: David Redfern/Redferns)
Howard Andrew “Andy” Williams (1927-2012) là một ca sĩ và người sáng tác nhạc người Mỹ. Trong sự nghiệp âm nhạc lẫy lừng của mình, ông đã thu âm 44 album, với 18 đĩa vàng, ba đĩa bạch kim và năm đề cử giải Grammy. Nhắc tới ông thì không thể không nhắc tới “Moon River” – ca khúc trong bộ phim kinh điển “Breakfast at Tiffany’s”, từng đoạt Oscar ca khúc hay nhất năm 1962. Ông còn là người dẫn chương trình cho “The Andy Williams show”, một show truyền hình tạp kỹ, kéo dài từ năm 1962 tới năm 1971, và nhiều sản phẩm truyền hình đặc biệt. Nhà hát Moon River ở Branson, bang Missouri, được đặt theo tên của bài hát được biết đến nhiều nhất mà ông hát: “Moon River”.

Sinh năm 1927 tại Wall Lake, Iowa, Andy Williams bắt đầu sự nghiệp ca hát chuyên nghiệp từ năm lên 8 tuổi khi tham gia ban nhạc Williams Brothers Quartet cùng ba anh trai. Tới năm 1951 ban nhạc tan rã, Andy vừa chuyển hướng sang các hoạt động truyền hình, vừa tiếp tục theo đuổi âm nhạc.

Năm 1956 ông sánh vai với Elvis Presley trở thành ngôi sao, và tiếp tục được yêu mến ở những thập niên 1960, 1970 sau đó với một loạt bản hit như “Butterfly”, “Love Story”, “Can’t get used to losing you”, “Almost there”… Giọng ca ngọt ngào, trữ tình của ông từng được Tổng thống Ronald Reagan ngợi ca là “báu vật quốc gia”.

Ởcác danh ca nữ, giọng hát trội nhất nhạc phẩm (Where do I begin) Love Story chỉ có thể là Shirley Bassey. Phiên bản của Shirley rất dễ nhận ra nhờ khúc nhạc dạo đầu với bộ gõ. Ngoài cách nhả chữ độc đáo, hát thoát theo làn hơi nhưng vẫn rõ âm trong những đoạn cao trào, Shirley Bassey còn có sở trường chuyển nhịp hất câu, mà người nghe thường tìm thấy nơi giọng ca vàng Frank Sinatra.

Thành danh từ những năm 1962-1963, Shirley Bassey nhờ vào nhạc phẩm “Love Story” mà đăng quang thành nữ hoàng của dòng nhạc phim vào thập niên 1970. Hầu hết ca khúc chủ đề của loạt phim điệp viên 007 trong giai đoạn này đều do bà ghi âm. Trong đó có nhạc phẩm “Diamonds are forever”, phát hành năm 1971, tức là hầu như cùng thời với nhạc phẩm “Love Story”. Được xem là giọng hát trau chuốt mài giũa tựa như một viên đá quý nên cũng từ đó mà giới chuyên môn đặt cho Shirley Bassey biệt danh “Diva kim cương” (Diamond diva) là vậy!

Giai điệu của tình khúc “Love Story” cứ hoài mãi ngân vang lên cho những hình ảnh khép lại một câu chuyện tình đẹp và đẫm nước mắt của người ngồi xem, để rồi đâu đó dưới hàng ghế khán giả, chắc chắn có không ít khán giả độ tuổi trung niên ở hôm nay sẽ bất chợt hát theo lời Việt mà nhạc sĩ Phạm Duy viết cho ca khúc bất tử này.

“BIẾT DÙNG LỜI RẤT KHÓ!”

Năm 1970 ở Sài Gòn, thanh niên ai ai cũng rất yêu thích ca khúc “Love Story” do ca sĩ Andy Williams trình bày. Dựa vào lời tiếng Anh, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt “Chuyện tình” mà giờ ai cũng thuộc với đoạn mở đầu gần như… năn nỉ: “Biết dùng lời rất khó để mà nói rõ, ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá…”.

Không phải bàn cãi, cũng như nhiều ca khúc quốc tế khác mà ông đã Việt hóa, có thể nói nghệ thuật chuyển ngữ của nhạc sĩ Phạm Duy qua ca khúc này đã lên tới đỉnh cao nhất.

Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ
Ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá
Chuyện tình đáng nhớ, tuy cũ như là biển già trắng xóa
Cuộc tình quý giá như những ngọc ngà nàng dành cho ta
Ôi biết nói gì?

Với một lời quý mến, mà nàng nói đến
Khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt
Cuộc tình thứ nhất, muôn kiếp muôn đời là tình vĩnh viễn
Vì nàng đã hiến đôi cánh tay mềm nghìn đời quyến luyến
Lòng ta đầy kín, lòng ta đầy kín
Là muôn nghìn chuyện yêu đương, câu hát thần tiên
Và những mộng huyền mênh mang, đầy kín hồn hoang
Man mác tình duyên
Thôi hết cuộc đời im tiếng
Ðời lẻ loi đã tan, ta đã được nàng
Làm gì còn tiếng than, nắm đôi tay thiên thần
Ði suốt mùa Xuân…

Sẽ còn được biết mấy? Một đời luyến ái
Yêu sẽ lâu dài hoặc là quá ngắn? Thật là khó đoán
Nhưng vẫn cho rằng cuộc đời có hết, loài người có chết
Sao sáng trên trời ngày nào sẽ tắt
Em vẫn gần ta!


_____________

Ký ức của nhiều thanh niên Sài Gòn ngày ấy – mà người viết bài có duyên gặp ở thời điểm hiện nay – là kỷ niệm từng nô nức đi xem phim “Love Story”. Họ chạy theo mốt mặc áo thun có in hình đôi diễn viên với câu nói nổi tiếng trong phim: Love means never having to say you’re sorry (Yêu là không bao giờ phải nói hối tiếc).


Tiểu thuyết “Chuyện tình” của Erich Segal mà bản tiếng Việt của Phan Lệ Thanh dịch ngay sau đó cũng được phát hành. Lúc đó khán giả mới biết kịch bản phim “Love story” do chính Erich Segal viết, sau đó ông chuyển thành tiểu thuyết.

Năm 1987, Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nay là NXB Hội Nhà Văn) in “Love Story” với bản dịch của Hoàng Cường, với tựa đề “Câu chuyện tình yêu”. Cuốn sách này không tạo được hiện tượng như in lần đầu ở Sài Gòn năm 1972, vì thiếu đi cuốn phim trứ danh và ca khúc tuyệt vời hỗ trợ. Một phần, do năm 1972, thanh niên Sài Gòn đã quá lo âu và mệt mỏi vì chiến tranh nên họ muốn tìm quên lãng trong những cuốn tiểu thuyết, bộ phim lãng mạn. Và “Love Story” đã đáp ứng được điều đó, khi mỗi cuốn sách đều có một phước phận của riêng nó.



Với việc đặt lời Việt cho nhạc phẩm này, nhiều người biết hiện còn một phiên bản lời Việt khác có tựa đề “Tình sử” do Ngọc Chánh viết, từ trước năm 1975 đã được ca sĩ Thanh Lan trình bày. Sau này tại hải ngoại, phiên bản lời Việt “Tình sử” này cũng đã được giọng ca Ngọc Lan hát chung với phiên bản lời Pháp “Une histoire d’amour”, tuy nhiên tựa đề tiếng Việt “Tình sử” đã đổi thành “Chuyện tình”. Đâu đó ở trên internet, chúng ta cũng có thể sẽ bắt gặp một phiên bản lời Việt được ghi là “Chuyện tình” (Phạm Duy) nhưng với lời hát khác hoàn toàn phần đặt lời của nhạc sĩ Phạm Duy mà lâu nay chúng ta vẫn biết, chắc là của một fan khuyết danh nào đó!

Khi nghe một bản nhạc cũ bằng chính âm thanh cũ của ngày xưa, chúng ta như được sống lại kỷ niệm về một quãng thời gian đáng nhớ cùng với những niềm vui, những nỗi buồn và ký ức của riêng mỗi người. Phải chăng nghe “When do I begin” hay “Biết dùng lời rất khó” là cũng là nghe và mường tượng về kỷ niệm, mà nhờ kỷ niệm ấy, âm thanh của bài nhạc ấy đã ở lại trong tâm hồn ta lâu hơn, sâu hơn, đằm thắm hơn.

Ngày nay mở YouTube ra nghe chẳng có gì là khó, nhưng ai trong chúng ta nếu có cơ hội nhìn thấy những bản nhạc cũ in từ trước 1975, hỏi có xúc động không? Những bản nhạc tờ rời ngày ấy dù được in khá đơn sơ, trang trí có phần mộc mạc giản dị, nhưng nhờ có nó mà chuyển tải âm nhạc và những câu chuyện xung quanh nó đến thật gần với mọi người.

Có người còn kể lại khi còn nhỏ, nhìn thấy các anh của mình ôm guitar ngồi hát, trước mặt là những bản nhạc đơn giản như thế, là đã xuất hiện cảm xúc mãnh liệt, dâng trào. Có người còn nói, thời điểm đó, nhìn hình của tờ nhạc rời in bằng ba thứ tiếng Việt-Anh-Pháp thì là một cơ hội không thể quý báu và tiện lợi hơn, cho việc… học ngoại ngữ. Còn thời điểm hiện tại, muốn tiếp cận một bản nhạc như thế thiệt là khó!

Trong bản nhạc được in ngày trước có hai lời tiếng Anh và tiếng Pháp đề ngay dưới lời Việt, nên thật dễ để so sánh cách chuyển ngữ bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy và từ đó tìm ra những điều thú vị nho nhỏ.

Bản chuyển ngữ tiếng Việt của nhạc sĩ Phạm Duy đã theo theo sát lời tiếng Anh hơn nhưng ông sửa câu văn “rặt Anh ngữ” thành “rặt Việt ngữ” thiệt là tài tình. Ý nghĩa của đoạn tiếng Anh là “bắt đầu từ đâu bây giờ, để nói về câu chuyện mà tình yêu có thể trở nên thật tuyệt vời”, được ông sắp xếp gọn ghẽ lại thành “biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ, ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá”.

Người nhạc sĩ lúc này đang đứng ở chủ thể của câu chuyện nên ông bày tỏ sự “lúng túng” của người kể: “Để mà nói rõ”… rồi lại “ôi biết nói gì”, thay vì chỉ đơn thuần kể lại như bản gốc!

Ông đã biến câu “một sự thật đơn giản về tình yêu mà nàng đem lại cho ta” trở thành “cuộc tình quý giá” với so sánh “như những ngọc ngà”. Câu tiếng Anh “she brings to me” nghe có phần hơi đơn giản, nhưng nhạc sĩ Phạm Duy lại “nâng cấp” nó lên thành “nàng dành cho ta” nghe thân mật gần gũi hơn. Và còn nữa, “Ôi biết nói gì?” trong khúc ca tiếng Việt nghe “đã” hơn, thay vì dịch theo cách Mỹ “Bắt đầu từ đâu bây giờ?”.

Và trong khi bản gốc viết “với câu chào hello đầu tiên, nàng đã đem ý nghĩa đến cho đời sống trống rỗng của tôi”, Phạm Duy đã Việt hóa thật tự nhiên thành “Với một lời quý mến, mà nàng nói đến khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt”. Phạm Duy dùng hình tượng cụ thể để nói về tinh thần: Thay vì chỉ “bước vào đời” thì “khi bước chân vào” sẽ trở nên rõ ràng hơn và đầy hình tượng hơn; rồi thay vì chỉ “vắng” thì thành “vắng ngắt”, với cấp độ cao hơn. Biết nói gì hơn nữa về thiên tài Phạm Duy!

Với cá nhân tôi, qua ba đào của thời cuộc, ngần ấy năm của nhạc phẩm này kể từ khi nó ra mắt cũng là ngần ấy thời gian kể từ ngày tôi ra đời. Rồi lớn lên, rồi sống với những ký ức mà Love Story cũng như những ca khúc thời đó để lại, tôi luôn thấy mình biết ơn biết chừng nào những Francis Lai, những Andy Williams, những Phạm Duy… Họ đã tưới mát tâm hồn tôi. Tôi biết ơn họ nhiều đến mức đôi khi tôi không phải biết nói như thế nào… Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ…

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by bichphuong »

Thế giới có bao nhiêu ca bệnh giống Bruce Willis?
Lương Thái Sỹ

Image
Bruce Willis được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ thuỳ trán thái dương (frontotemporal dementia) – một căn bệnh nghiêm trọng hiếm gặp (ảnh: Rich Fury/Getty Images)

Từ việc nam diễn viên phim hành động Bruce Willis mắc chứng mất trí nhớ thuỳ trán thái dương (frontotemporal dementia-FTD), các chuyên gia đã cung cấp thêm một số thông tin ít được đề cập về căn bệnh chưa có thuốc chữa này…

Đa số bệnh nhân từ 40-60 tuổi

Nam diễn viên Bruce Willis đã được chẩn đoán mắc FTD, một loại chứng mất trí nhớ hiếm gặp. FTD là một loại bệnh sa sút trí nhớ ảnh hưởng đặc biệt đến thùy trán và thùy thái dương của não và cũng là dạng sa sút trí nhớ phổ biến nhất ở những người dưới 60 tuổi. Căn bệnh này còn được gọi là thoái hóa thùy trán (frontotemporal degeneration) và hiện chưa có cách điều trị hoặc chữa khỏi.

Gia đình Willis cho biết Tháng Ba 2022, ông được chẩn đoán mắc chứng mất ngôn ngữ, rối loạn giao tiếp khi sắp nghỉ hưu, nhưng trong thông báo mới ngày 16 Tháng Hai, gia đình nói thêm “tình trạng của Bruce đã tiến triển và hiện chúng tôi đã có chẩn đoán cụ thể hơn: Chứng mất trí nhớ trước trán”.


Theo The Washington Post, các nhà thần kinh học cho biết sa sút trí tuệ vùng trán thái dương là một loại bệnh thoái hóa thần kinh cùng họ với bệnh Alzheimer và Parkinson. Hiện có khoảng 50,000 đến 60,000 người ở Mỹ mắc FTD và chủ yếu ở những người trong độ tuổi từ 40 đến 60. Joel Salinas, nhà thần kinh học hành vi, trợ lý giáo sư thần kinh học tại cơ sở y tế NYU Langone Health kiêm giám đốc y tế của Isaac Health cho biết thuật ngữ chính xác nhất là “thoái hóa thùy trán” để chỉ rõ quá trình diễn ra trong não.

Các chuyên gia cho biết chính các protein bất thường như TDP-43 tích tụ trong não là nguyên nhân gây ra FTD. Về lâu dài, những protein gây bệnh này sẽ gây nhiễm độc thần kinh và cuối cùng làm chết tế bào. Paul Schulz, giáo sư thần kinh học và rối loạn thoái hóa thần kinh tại Trường Y McGovern thuộc Đại học UT Health Houston giải thích:

“Có ít nhất 15 đột biến gene liên quan đến FTD và mỗi loại có thể gây ra một FTD khác nhau. Điều đó có nghĩa là mỗi loại có thể có những nguyên nhân khác nhau. Cũng có nhiều bệnh nhân bị FTD mà không xác định được đột biến gene. FTD của họ có thể do nguyên nhân môi trường như chấn thương đầu dù cần nhiều nghiên cứu hơn nữa”.

Chẩn đoán không dễ

Các triệu chứng bệnh có thể khác nhau và phụ thuộc vào nơi các protein bất thường bắt đầu tích tụ, ở thùy trán hoặc thùy thái dương. Các bác sĩ cho biết có thể mất vài năm để một bệnh nhân được chẩn đoán đã mắc FTD, vì các triệu chứng rất đa dạng và cũng có thể gặp ở những người mắc các bệnh khác.

Một bệnh nhân bị bất thường ở thùy trán sẽ có hành vi bốc đồng và mất kiềm chế được gọi là “hoạt động biến thể hành vi” (behavioral variant activity), khá phổ biến trong những người bị FTD. “Ví dụ, một người lịch sự có thể trở nên thô lỗ và một người tử tế có thể trở nên tự cho mình là trung tâm vũ trụ! – Andrew Budson, trưởng khoa thần kinh nhận thức & hành vi, phó Giám đốc giáo dục và Giám đốc Trung tâm Khoa học thần kinh nhận thức chuyển dịch (Center for Translational Cognitive Neuroscience) tại Veterans Affairs Boston Healthcare System nhận định – Cũng có thể do thiếu tự chủ mà đôi khi ăn quá nhiều, ví dụ một bệnh nhân của tôi đã ăn nguyên một lọ sốt mayonnaise!”.


Ryan Darby, trợ lý giáo sư thần kinh học và Giám đốc Phòng khám Sa sút trí tuệ trán thái dương tại Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt bổ sung: “Sự chán nản với xã hội cũng là một triệu chứng. Thậm chí người mắc FTD có thể gây án vì mất kiềm chế và có những hành vi không phù hợp với xã hội. Họ mất đi sự đồng cảm và lòng trắc ẩn đối với người khác”. Khi sự bất thường phát triển ở thùy thái dương, đặc biệt là phần liên quan đến lời nói và ngôn ngữ, bệnh nhân có thể mắc “chứng mất ngôn ngữ tiến triển nguyên phát”, đó là những gì Bruce Willis mắc phải. Những người mắc chứng mất ngôn ngữ cảm thấy khó hiểu ngôn ngữ hoặc khó tạo ra ngôn ngữ, hoặc cả hai”.

Nhà thần kinh học Brad Dickerson, Giám đốc Frontotemporal Disorders Unit thuộc Bệnh viện Đa khoa Massachusetts kiêm giáo sư thần kinh học tại Trường Y Harvard, cho biết:

“FTD là nguyên nhân gây ra hai dạng phụ chính yếu của chứng mất ngôn ngữ. Đó là dạng ngữ pháp và dạng ngữ nghĩa. Dạng ngữ pháp sẽ gặp vấn đề trong việc tạo ra các câu cần đến ngữ pháp đúng; còn dạng ngữ nghĩa liên quan đến ý nghĩa của từ. Dạng ngữ pháp có thể là do protein tau tích tụ trong não, ảnh hưởng nhiều hơn đến thùy trán. Trong khi dạng ngữ nghĩa có thể là do protein TDP-43, ảnh hưởng nhiều đến thùy thái dương của não”.

Các chuyên gia cảnh báo một số người có thể phát triển protein bất thường trong các phần của não liên quan đến chức năng vận động và chuyển động của mắt mà không biết do FTD. Các dấu hiệu đầu tiên của FTD có thể rất tinh tế, chẳng hạn thay đổi hành vi, lời nói hoặc cử động.

Salinas nhấn mạnh: “Các bệnh thoái hóa thần kinh như FTD bắt đầu với những thay đổi nhỏ, như mất khả năng quan tâm đến người khác, suy giảm nhận thức hoặc có hành vi ngẫu hứng. Tiếc thay, chúng thường không được phát hiện trong thử nghiệm lâm sàng. Khi những thay đổi này tiến triển và dễ thấy hơn, chúng mới được chẩn đoán là suy giảm nhận thức hoặc suy giảm hành vi nhẹ. Đến khi chúng bắt đầu cản trở các hoạt động bình thường hàng ngày, chẩn đoán sẽ nâng lên thành “chứng sa sút trí tuệ”.

Sa sút trí tuệ có ít nhất ba giai đoạn, nhẹ, trung bình và nặng. Bệnh nhân sa sút trí tuệ giai đoạn cuối ít tương tác và gặp khó khăn khi ăn và nuốt. Tiến triển của bệnh có thể khác nhau. Tuổi thọ trung bình của người bệnh FTD khoảng từ 7 đến 13 năm, tuy nhiên một số bệnh nhân chết sau vài năm, trong khi những người khác có thể sống 20 năm từ lúc chẩn đoán”.
Image
Minh họa: robina-weermeijer-unsplash

Chưa có cách chữa

“Giống như Alzheimer hiện vẫn chưa có thuốc chữa trị FTD – Chi-Ying Lin, giáo sư thần kinh học tại Đại học Y Baylor nói –Hiệu quả của những viên thuốc điều chỉnh trí nhớ hoặc nhận thức của người bệnh Alzheimer đều dựa trên kết quả khám nghiệm tử thi đối với người bệnh. Những chất ức chế cholinesterase gọi là Donepezil hoặc Rivastigmine, có thể sử dụng trong giai đoạn nhẹ của Alzhiemer và FTD. Phương pháp điều trị thứ hai là memantine, một chất đối kháng thụ thể NMDA, tuỳ vào tình trạng bệnh, từ vừa phải đến nghiêm trọng.

Ở những người bệnh Alzheimer, uống thuốc này, tốc độ suy giảm nhận thức có thể chậm lại. Nhưng ở bệnh nhân FTD, không có dữ liệu chứng minh. Các bác sĩ thường hướng dẫn bệnh nhân FTD và gia đình họ kiểm soát các triệu chứng bệnh. Bệnh nhân có thể cần giúp đỡ quản lý sự lo lắng, trầm cảm, hung hăng, kích động và hành vi ám ảnh. Budson lưu ý: “Các loại thuốc SSRI (thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc) trong họ thuốc Prozac có thể giải quyết được một số vấn đề về hành vi trong chứng mất trí nhớ thái dương biến thể hành vi. Liệu pháp ngôn ngữ cũng hữu ích đối với các giai đoạn ban đầu của chứng mất ngôn ngữ tiến triển nguyên phát, nhưng chưa có loại thuốc nào hiệu quả”.

FTD có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai dù một số trường hợp có thể do di truyền. Darby nói: “Có tiền sử gia đình, một số loại bệnh mất trí nhớ hoặc thoái hóa thần kinh chiếm khoảng 40% trường hợp FTD. Và trong 10% trường hợp, có một gene được xác định là gene trội trên nhiễm sắc thể bình thường. Vì vậy, nếu bạn mang gene này, có khả năng hoặc gần như chắc chắn bạn sẽ mắc bệnh FTD vào một thời điểm nào đó”.

Nhưng không giống Alzheimer, nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ vùng trán và thái dương không tăng theo tuổi tác. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân mới cần được hỗ trợ nhiều hơn trong các hoạt động hàng ngày, gồm cả việc mặc quần áo, đi vệ sinh, tắm rửa và ăn uống.

_________

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by muanuadem »

Oscar 2023 và “nhóm xử lý khủng hoảng”
Mỹ Anh
23 tháng 2, 2023

Image
Sự kiện Oscar ngày càng mất sức thu hút (ảnh: David McNew/Getty Images)

Chương trình trao giải Oscar năm nay sẽ có một “nhóm xử lý khủng hoảng”, được thành lập nhằm có thể xử lý mọi sự cố theo thời gian thực. Đây là giải pháp của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS) sau sự cố ồn ào trong chương trình Oscar 2022 khi diễn viên Will Smith gây sốc thế giới bằng cú tát trời giáng nhằm vào người dẫn chương trình Chris Rock.

Chủ tịch AMPAS Bill Kramer nói với tạp chí TIME rằng nhóm xử lý khủng hoảng (crisis team) đã “thực hiện nhiều kịch bản” để “sẵn sàng cho mọi tình huống”. Trong buổi lễ năm ngoái, AMPAS rõ ràng là quá lúng túng trước hành động cực kỳ vô văn hóa của Will Smith. Sau khi tát Chris Rock, Will Smith vẫn trở về chỗ ngồi và thậm chí được gọi tên lên nhận giải (hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn trong King Richard). Mặc dù Smith sau đó tự nguyện rút tư cách thành viên khỏi AMPAS nhưng phải mất thêm vài ngày ban tổ chức mới đưa ra quyết định về tư cách thành viên của đương sự. Cuối cùng Will Smith bị cấm tham gia dạ tiệc Oscar và các sự kiện khác của AMPAS trong 10 năm.
Image
Oscar 2022: Will Smith tát Chris Rock – sự kiện mãi là vết nhơ lịch sử điện ảnh Mỹ (ảnh: Neilson Barnard/Getty Images)

Kể từ khi đảm nhận vị trí chủ tịch AMPAS vào Tháng Bảy 2022, Bill Kramer đã dành nhiều thời gian để chấn chỉnh nhằm lấy lại thanh danh cho AMPAS. Kramer trước đây từng thành công trong việc ra mắt Academy Museum, nơi tính đến nay thu hút hơn một triệu lượt khách kể từ khi mở cửa vào Tháng Chín 2021. Kramer tự hào nhấn mạnh rằng một nửa số khách là những người thuộc thế hệ trẻ (dưới 40 tuổi), những người vốn chịu ảnh hưởng mạnh của mạng xã hội và có phần thờ ơ với những hoạt động văn hóa truyền thống “kiểu Mỹ” chẳng hạn xem Oscar.


Bill Kramer muốn đưa giải Oscar trở lại hào quang khi xây dựng chương trình với những câu chuyện hậu trường, tương tự cách làm khi giới thiệu các minh tinh màn bạc giúp thu hút giới trẻ đến Academy Museum. Ông cũng có kế hoạch đưa lên sân khấu chương trình Oscar những giải thưởng liên quan kỹ thuật (technical awards) vốn không được phát sóng vào năm ngoái; đồng thời thêm những buổi diễn hoạt náo vui nhộn.

Hai năm qua, sự thu hút của chương trình Oscar đã giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Lễ trao giải lần thứ 94 (2022) thu hút 15.4 triệu người xem trên kênh ABC với 3.2 lượt người xem ở độ tuổi từ 18 đến 49, theo ghi nhận của Nielsen. Năm 2021, chỉ có 9.85 triệu người xem Oscar! Ngày 9 Tháng Hai 2020 (trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát ở Mỹ), lễ trao giải Oscar chỉ thu hút được 23.6 triệu người xem (trong khi hãng ABC vẫn trả khoảng $100 triệu mỗi năm cho quyền phát sóng chương trình cho đến năm 2028).

Những người tổ chức chương trình, trong thực tế, có vẻ rất nỗ lực để đảo ngược tình trạng trượt dốc kéo dài nhưng càng làm càng cho thấy họ loay hoay lúng túng. Để thu hút sự quan tâm, họ đã mời những gương mặt nổi tiếng trong giới trẻ như Regina Hall, Amy Schumer và Wanda Sykes để dẫn giới thiệu trao giải; chuyển một số giải thưởng xuống phân đoạn được ghi âm trước; mời người hâm mộ bình chọn trên Twitter cho bộ phim yêu thích…

Tuy nhiên, khán giả nói chung vẫn “ngó lơ” Oscar. Chương trình Oscar đạt đỉnh điểm vào năm 1998, khi 55.2 triệu khán giả theo dõi và xem Titanic càn quét các giải thưởng. Ánh hào quang rực rỡ lần thứ hai trong lịch sử Oscar xảy ra vài năm trước đó: 1995, khi Forrest Gump giành giải cao nhất, trong chương trình có trung bình 48.3 triệu người xem. Tuy nhiên, kể từ đó, chương trình Oscar liên tiếp tuột dốc không phanh.

Ban tổ chức phải vật lộn để chống trả những khuynh hướng văn hóa khác hấp dẫn giới trẻ hơn. Trong thực tế, nhiều chương trình Oscar gần đây được xây dựng rất kém, vô cùng nhàm chám và rất thiếu sự sáng tạo. Điều đáng nói là tất cả sự tuột dốc về xây dựng chương trình không phải đến từ nguyên nhân thiếu tiền.
Image
Bill Kramer, Chủ tịch AMPAS (ảnh: Gilbert Flores/Variety via Getty Images)

Chương trình Oscar vẫn hốt bộn bạc từ doanh thu quảng cáo. Năm 2022, dựa vào tỷ lệ được ước tính bởi Standard Media Index (SMI), chương trình Oscar thu được đến $1.71 triệu cho mỗi 30 giây quảng cáo – tăng từ $1.53 triệu năm 2021! Một “dân trong nghề” thậm chí nói với tờ IndieWire rằng, một số vị trí 30 giây có giá lên tới $2.2 triệu trong chương trình Oscar 2022. Theo công ty dữ liệu Kantar, doanh thu quảng cáo cho chương trình Oscar là $102 triệu vào năm 2016, $114 triệu vào năm 2017, $132 triệu vào năm 2018, $114 triệu vào năm 2019, $129 triệu vào năm 2020 và $115 triệu vào năm 2021.

Thật ra AMPAS cần có một nhóm “xử lý khủng hoảng” quan trọng hơn: Tái thiết kế chương trình sao cho thật sự hấp dẫn, với đầy tính sáng tạo và đầy yếu tố bất ngờ, hệt như chính những gì họ đã làm vào thập niên 1990. Chẳng có gì có thể cứu mình bằng sự tự thay đổi.

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by mexanh »

Hotel California
Lê Hồng Minh


Image

“Hotel California” nằm trong album cùng tên ra đời năm 1976 của ban Eagles. Đây là thời điểm nhóm nhạc rock huyền thoại này ở đỉnh cao danh vọng.
Mỗi bài trong album xoay quanh cuộc sống những ngôi sao danh tiếng, ở đó có những mối quan hệ được tính toán, những cuộc tình nhanh như điện, đầy rẫy cô đơn và cả những mất mát.
“Hotel California” bắt đầu bằng khúc song tấu guitar gần một phút: Đoạn nhạc ngọt ngào, bâng khuâng, lúc bắt đầu thì chậm và càng lúc càng dồn dập; để rồi trên nền âm thanh ấy, Eagles cất lên những lời nhức buốt:

“… On a dark desert highway
Cool wind in my hair
Warm smell of colitas
Rising up through the air…”

“… Trên xa lộ sa mạc u tối
Gió mát lùa vào mái tóc tôi
Mùi hương của colitis thơm nồng
Vút lên trên không trung…”

Image
The Eagles, 1979 – trái sang: Glenn Frey, Don Henley, Joe Walsh và Don Felder (ảnh: Fotos International/Getty Images)

“Hotel California” dẫn đầu Billboard Hot 100 trong một tuần vào Tháng Năm 1977. Ba tháng sau khi phát hành, nó được chứng nhận “Vàng” bởi RIAA (Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ) khi đạt một triệu bản tiêu thụ! Với “Hotel California”, Eagles cũng thắng giải Grammy 1978 cho hạng mục “Thu âm của năm”. Năm 1994, The Eagles thể hiện ca khúc này trong album “Hell Freezes Over” với phiên bản mới được thể hiện với… tám cây guitar. Trong “Farewell 1 Tour-Live from Melbourne”, bài hát được thể hiện lại gần giống với bản gốc nhưng có thêm trumpet ở phần mở đầu.

Năm 1998, đoạn coda guitar của “Hotel California” được bình chọn là độc tấu guitar hay nhất mọi thời. Năm 2009, bài hát được RIAA chứng nhận “Bạch kim” cho doanh số tải với ba triệu lượt download. Năm 2015, nó được tạp chí Guitar World xếp vị trí số một trong danh sách những ca khúc thể hiện bằng guitar 12 dây hay nhất mọi thời. “Hotel California” đã được trình diễn khoảng 2,204 lần bởi 167 nghệ sĩ khác nhau tính đến cuối năm 2021; trong đó có ít nhất 1,057 buổi biểu diễn trực tiếp của Eagles… Tạp chí Rolling Stone xếp “Hotel California” vị trí 49 trong danh sách “500 ca khúc hay nhất mọi thời”; và nó cũng là một trong 500 bài hát của ”Rock and Roll Hall of Fame”.

__________
Image
Eagles – trái sang: Don Felder, Bernie Leadon, Don Henley, Glenn Frey, Randy Meisner trong một buổi diễn khoảng năm 1974/1975 (ảnh: RB/Redferns)

Có vô số “huyền thoại” về sự ra đời của “Hotel California”. Tuy nhiên, câu chuyện thật ra khá đơn giản, theo bài viết của Jordan Runtagh trên chuyên san âm nhạc uy tín Rolling Stone ngày 8 Tháng Mười Hai 2016. Thời điểm đó, Don Felder thuê một ngôi nhà bên bờ biển ở Malibu, và đang tận hưởng làn gió biển trong khi thong thả gảy guitar. Kể với Guitar World năm 2013, Don Felder thuật: “Tôi mặc bộ đồ tắm, ngồi trên ghế bành, ướt sũng, với cây guitar thùng 12 dây và bắt đầu khảy, và thế là những hợp âm của ‘Hotel California’ cứ thế tuôn ra.”

Sau khi hoàn thành phần giai điệu cơ bản, Don Felder lấy máy ghi âm TEAC 4 rãnh để lưu, chèn thêm tiếng đệm của máy đánh trống và bass. Bản phác thảo này mang phong cách nhạc reggae. Mùa Xuân 1976, khi nhóm Eagles gặp nhau để thực hiện album thứ năm, Don Felder gom các băng cassette ghi lại phác thảo demo bằng nhạc cụ (của ca khúc tương lai “Hotel California”) để nhóm cùng soạn lời. Cả Don Henley lẫn Glenn Frey đều rất thích bản nháp của Don Felder. Thoạt đầu, nhóm đặt tên ca khúc là “Mexico Reggae” và sau đó đổi thành “Hotel California”.

Kể từ khi ra đời, “Hotel California” luôn là một bí ẩn mà người hâm mộ tìm kiếm. Xung quanh tựa đề ca khúc này là nhiều câu chuyện kỳ lạ được thêu dệt từ trí tưởng tượng của người hâm mộ. Một số người cho rằng, ca khúc viết về một khách sạn có thật mang tên Hotel California. Có một Hotel California thật ở thị trấn nhỏ Todos Santos nằm tại bán đảo Baija California (Mexico) nhưng chỉ là sự trùng hợp không liên quan.
Image
Eagles – trái sang: Glenn Frey, Don Felder, Don Henley, Joe Walsh và Timothy B.Schmitt (ảnh: GAB Archive/Redferns)

Một số người nói bài hát này có liên quan bệnh viện tâm thần Camarillo, vì “Khách sạn California” là biệt danh của bệnh viện này. Người ta còn đồn rằng bài hát liên quan một quán trọ ma mị bị ám bởi quỷ Satan. Cũng có lời đồn rằng bài hát nói tới những kẻ lập dị mua một nhà thờ cũ và đổi tên thành… “Khách sạn California”… Tuy nhiên, “Hotel California” đơn giản là một bài hát phản ánh chủ nghĩa vật chất tồn tại ở miền Nam California những năm 1960, là câu chuyện về một thời điểm khủng hoảng có thật của nước Mỹ, tác động mạnh đến giới nghệ sĩ Mỹ, khiến họ lao vào lối sống thực dụng…

Một cách chính xác, “Hotel California” không chứa nhiều ẩn ý sâu xa gì như những thêu dệt tưởng tượng của người hâm mộ. Chính Glenn Frey cũng nói: “We decided to create something strange, just to see if we could do it”. Nói cách khác, bất kỳ ý nghĩa nào được gợi lên trong đầu người hâm mộ khi họ nghe và “hiểu” “Hotel California” theo cách của họ cũng đều là ngoài ý muốn (unintended) chứ không mang ý nghĩa ẩn chìm (hidden) mà (tác giả) Eagles muốn đề cập. Glenn Frey nói rõ rằng, cái không khí mà người đàn ông trong bối cảnh thôn dã lạ lẫm khiến anh ta có cảm giác mơ hồ không rõ rệt với những gì mình đang chứng kiến cũng giống như những gì được kể trong tiểu thuyết The Magus năm 1965 của nhà văn người Anh John Fowles…
Image
Eagles (trái sang): Don Felder, Don Henley, Joe Walsh, Glenn Frey, Randy Meisner (ảnh: RB/Redferns)
______

Những ai thuộc thế hệ sinh vào thập niên 1950 đến 1970 chắc chắn không thể quên tuyệt khúc “Hotel California”. Giới thanh niên Sài Gòn sau 1975 đặc biệt chết mê chết mệt với “Hotel California”. Khắp các ngõ hẻm, người ta thấy các cậu biết khảy đàn chút đỉnh cũng đánh “Hotel California”. Nhiều sân khấu ca nhạc ngoài trời ở Sài Gòn thời đó như Trống Đồng, 126, Phú Thọ… cũng thường xuyên chơi solo guitar “Hotel California” khi ca sĩ chạy “sô” chưa đến kịp. Đến tận nay, “Hotel California” vẫn được khảy tại các… bàn nhậu, với sự say mê thuần khiết và trong lành…

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by nguyenthanh »

Những bộ phim Hàn đáng xem sẽ dừng chiếu trên Netflix
Y Nguyên

Image


Trong năm 2023, sẽ có một loạt phim truyền hình dài tập ăn khách trên Netflix sẽ khóa lại, không còn xem được nữa. Nhiều người thích các kịch bản và diễn viên của Hàn Quốc sẽ tiếc nuối, nếu chưa kịp xem – dĩ nhiên, bắt đầu ngay bây giờ vẫn còn kịp.

Mặc dù các phim này luôn được giới thiệu là Netflix Originals, cũng cần nên hiểu là không có nghĩa là Netflix trả tiền thực hiện các phim này, mà chỉ là hãng này chịu trả phí cao để trở thành nhà phân phối độc quyền trên toàn thế giới bên ngoài Hàn Quốc.

Lý do khiến những bộ phim truyền hình Hàn Quốc này ngừng chiếu là vì quyền phát trực tuyến mà Netflix trả tiền chỉ có trong một khoảng thời gian giới hạn. Thông thường dao động trong khoảng từ năm đến mười năm tùy thuộc vào thỏa thuận. Và dưới đây là những loạt phim thú vị, mà bạn cần lưu ý ngay, trước khi không thể truy cập được nữa.
Image Prison Playbook

Phần: 1 | Số tập: 16

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: 23 tháng 1 năm 2023

Hiện đang đứng thứ 24 trong danh sách phim truyền hình cáp có nhiều người xem cao nhất mọi thời đại, bộ phim từng là phim truyền hình cáp có số người xem cao thứ ba của Netflix. Bạn nên thử xem qua trước khi nó ra đi. Chuyện phim nói về một vận động viên ném bóng ngôi sao phải vào tù và học cách thao túng thế giới mới của mình.
Image Bad Guys: Vile City

Phần: 1 | Số tập: 16

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: ngày 8 tháng 3 năm 2023

Một bộ phim hành động và hiện thực vượt qua mọi phim truyền hình Hàn Quốc. Phim nói về một công tố viên được lệnh hạ gục một thủ lĩnh kinh doanh độc ác đang kiểm soát thành phố, chiến dịch được tập hợp những người phải “đen” hơn cả xã hội đen để có thể chiến thắng.
Image A Korean Odyessy

Phần: 1 | Số tập: 20

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: ngày 9 tháng 3 năm 2023

Phiên bản ăn theo của Hàn Quốc, dựa theo của câu chuyện cổ điển Trung Quốc Tây du ký, nhưng hoàn toàn mới lạ và đầy bất ngờ. Kịch bản xoay quanh nỗ lực giành lấy sự bất khả chiến bại của một sinh vật thần thoại đã phản tác dụng, khi anh ta tìm thấy người phụ nữ làm rung động trái tim mình.
Image Live

Phần: 1 | Số tập: 18

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: ngày 16 tháng 3 năm 2023

Netflix đã có được phim này trên hệ thống của mình, nhờ mối quan hệ với Studio Dragon, xưởng sản xuất đằng sau Live. Một bộ phim truyền hình có các tình tiết tố tụng cảnh sát không thể nói khác hơn là khen ngợi. Hy vọng rằng Live sẽ là một trong những bộ phim truyền hình Hàn Quốc được quay trở lại Netflix vào một thời điểm nào đó trong tương lai gần. Truyện phim mô tả các sĩ quan cảnh sát tại một bộ phận tuần tra bận rộn nhất của Hàn Quốc làm việc cật lực cả ngày lẫn đêm với tư cách là những người gìn giữ luật pháp và hòa bình — nhưng thực tế thì khác xa với trật tự. Image Wolf Brigade

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: 24 tháng 5 năm 2023

Là một trong những bộ phim Hàn Quốc được cấp phép bản quyền trình chiếu quốc tế đầu tiên trên Netflix. Nội dung của Wolf Brigade dựa theo Wolfenstein, một trò chơi điện tử nổi tiếng.
Image Hymn of Death

Phần: 1 | Số tập: 3

Ngày cuối cùng để xem trên Netflix: ngày 5 tháng 12 năm 2023

Một số phim truyền hình hay nhất trên Netflix là phim cổ trang. Với các chọn lọc để quảng bá lịch sử phong phú, Hàn Quốc không thiếu các sự kiện để dựng nên các bộ phim mới xuất sắc. Ba tập phim mô tả trong thời kỳ thuộc địa của Nhật Bản, một nhà viết kịch đã phải lòng giọng hát nữ cao Yun Sim-deok, một trong những phụ nữ thời đại mới nổi tiếng của Hàn Quốc.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by bichphuong »

Khi tượng Oscar ngả màu sang “vàng”
Oscar 2023: Chiến thắng của châu Á

Mỹ Anh


Image
Trái sang: Jamie Lee Curtis, James Hong, Ke Huy Quan, Dương Tử Quỳnh (Michelle Yeoh), Jonathan Wang, Daniel Kwan, Stephanie Hsu, và Daniel Scheinert – với chiến thắng giải Phim hay nhất cho ‘Everything Everywhere All at Once’ (ảnh: Rodin Eckenroth/Getty Images)
Khoảnh khắc lịch sử đã đến với giới điện ảnh châu Á tại Oscar lần thứ 95, trong chương trình trao giải Oscar ngày 12 Tháng Ba 2023. Viện Hàn lâm nghệ thuật khoa học điện ảnh Hoa Kỳ (AMPAS), từng bị chỉ trích nặng trong suốt nhiều năm lịch sử của họ, khi luôn “quá trắng”, đã thay đổi dần khi chuyển sang “đen”, và bây giờ họ bắt đầu “vàng”…


Chiến thắng của “Everything Everywhere All at once” tại Oscar lần thứ 95 vào Chủ nhật 12 Tháng Ba 2023 là một cột mốc quan trọng đối với những tài năng điện ảnh châu Á. Đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy AMPAS bắt đầu chấp nhận sự khác biệt để đón nhận và tôn vinh một bộ phim mà, trên lý thuyết, không thuộc truyền thống “tư duy chấm giải” của các thành viên trong “hệ thống” vốn cực kỳ khắt khe, thiên kiến và bảo thủ của AMPAS.

Hãng A24 đã thắng đậm với bảy giải, trong đó có giải Phim hay nhất, Đạo diễn hay nhất và Kịch bản gốc xuất sắc nhất cho Daniel Kwan và Daniel Scheinert; Nữ diễn viên hay nhất cho Dương Tử Quỳnh; Nữ diễn viên phụ cho Jamie Lee Curtis; và Nam diễn viên phụ Ke Huy Quan.

Daniel Kwan trở thành người châu Á thứ hai lập “hat trick” – với chiến thắng ở hạng mục Phim hay nhất, đạo diễn và kịch bản – sau Bong Joon Ho với phim “Parasite” (2019). Daniel Kwan cũng là đạo diễn châu Á thứ tư giành chiến thắng – sau Lý An (“Ngọa hổ tàng long” và “Life of Pi”), Bong Joon Ho và Chloé Zhao (“Nomadland”). “Everything Everywhere” là phim thứ ba đoạt giải Phim hay nhất với các nhà sản xuất châu Á, trong đó có nhà đồng sản xuất Jonathan Wang.
Image
Dương Tử Quỳnh, người châu Á đầu tiên trong lịch sử Oscar giành chiến thắng giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (ảnh: Kevin Winter/Getty Images)
Với Dương Tử Quỳnh, đây thật sự là một chiến thắng lịch sử. Cô trở thành nữ diễn viên da màu thứ hai và là người châu Á đầu tiên được AMPAS công nhận sau 95 năm lịch sử Oscar. 22 năm sau Halle Berry (với “Monster’s Ball”), người đầu tiên phá được bức tường màu da khi giành giải Nữ diễn viên chính, Dương Tử Quỳnh đã vượt qua đồng nghiệp lừng lẫy Cate Blanchett, để giành chiến thắng. Kỳ tích lịch sử với “dấu ấn châu Á” của Dương Tử Quỳnh đến sau 40 năm kể từ khi Ben Kingsley, người gốc Ấn Độ, trở thành nam diễn viên chính châu Á đầu tiên đoạt giải với phim “Gandhi” (1982).

Và với Ke Huy Quan, anh là người châu Á thứ hai giành chiến thắng ở hạng mục Nam diễn viên phụ, sau Haing S. Ngor với “The Killing Fields” (1984).

Có thể hiểu tại sao châu Á đang “bùng nổ” phấn khích. Khắp Kuala Lumpur, người ta vội vã dựng các tấm panô gọi Dương Tử Quỳnh là “niềm tự hào của Malaysia”. Mẹ của Dương, bà Janet Yeoh, 84 tuổi, nói rằng bà luôn tin ngày lịch sử này sẽ đến với con gái bà. Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim cũng nói tương tự.

Hành trình của tôi bắt đầu trên một chiếc thuyền. Tôi đã trải qua một năm trong trại tị nạn. Bằng cách nào đó, tôi đã kết thúc ở đây trên sân khấu lớn nhất của Hollywood – KE HUY QUAN
Đối với tất cả những cậu bé và cô bé nhìn [vẻ ngoài] giống như tôi đang xem đêm nay, đây là ngọn hải đăng của hy vọng và khả năng. Đây là bằng chứng cho thấy ước mơ lớn và ước mơ sẽ thành hiện thực – DƯƠNG TỬ QUỲNH
“Với thành tựu này, sự nghiệp lẫy lừng và gương mẫu của Dương Tử Quỳnh chắc chắn tiếp tục là nguồn cảm hứng và động lực lớn cho giới diễn viên, nam cũng như nữ, trong nước chúng tôi, đồng thời tạo động lực lớn hơn nữa cho sự phát triển ngành công nghiệp điện ảnh địa phương,” Thủ tướng Anwar Ibrahim nói.
Image
Ke Huy Quan với giải Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất (ảnh: Kevin Winter/Getty Images)


Năm nay, Ấn Độ cũng nhận tượng Oscar đầu tiên, không chỉ một mà đến hai: “Naatu Naatu,” bản hit bằng ngôn ngữ Telugu từ phim “RRR,” giành giải bài hát gốc hay nhất; và “The Elephant Whisperers” giành giải Phim tài liệu ngắn xuất sắc nhất. Chiến thắng của nhà soạn nhạc M.M. Keeravani và người viết lời Chandrabose đã nhận được lời chúc mừng từ Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. “Tôi cảm thấy đây là khởi đầu của mọi thứ để thế giới – đặc biệt thế giới phương Tây – tập trung nhiều hơn vào âm nhạc Ấn Độ và âm nhạc châu Á,” nhạc sĩ M.M. Keeravani nói.
Image
Lady Gaga trình diễn tại Oscar lần thứ 95, ngày 12 Tháng Ba 2023 (ảnh: Myung J. Chun / Los Angeles Times via Getty Images)

Phải nói là người hâm mộ đã chờ rất lâu mới chứng kiến sự trở lại của những gương mặt châu Á tại Oscar, kể từ 2004, với các đề cử cho Ben Kingsley (Ấn Độ), Shohreh Aghdashloo (Iran), và Ken Watanabe (Nhật). Những tài năng châu Á khác được công nhận năm nay, khi có mặt trong bảng đề cử, là Kazuo Ishiguro (Nobel Văn chương 2017) với kịch bản “Living”, chuyển thể từ Ikiru (To Live) của Akira Kurosawa; và Domee Shi, đạo diễn phim hoạt hình Turning Red (Pixar).
Image
Stephanie Hsu (trái) và David Byrne trình diễn tại Oscar lần thứ 95 (ảnh: Kevin Winter/Getty Images)
Image
Màn trình diễn ‘Naatu Naatu’ (nhạc phẩm từ phim “RRR”) của các nghệ sĩ Ấn Độ (ảnh: Rich Polk/Variety via Getty Images)

Sự hiện diện những gương mặt “da vàng”, biến Oscar thành “màu vàng” trên thảm đỏ lẫn sân khấu Oscar 2023, nhìn chung, là một sự kiện đáng nhớ. Tổng cộng, hơn 3,100 tượng vàng Oscar đã được trao ở tất cả hạng mục nhưng người châu Á chỉ mới ôm được 43 tượng, trong đó có bốn tượng mới nhất của Daniel Kwan, Dương Tử Quỳnh, Ke Huy Quan và Jonathan Wang (với vai trò nhà sản xuất “Everything Everywhere All at once”) – một nhà làm phim người Mỹ gốc Đài Loan.

Những giấc mơ là thứ mà bạn phải tin vào. Tôi gần như đã từ bỏ giấc mơ của mình. Gửi đến tất cả các bạn ngoài kia, xin hãy giữ cho những giấc mơ của bạn được sống – KE HUY QUAN
Sự kiện cho thấy, AMPAS nói riêng và Hollywood nói chung, đã có cái nhìn khác trong khái niệm “đại diện về văn hóa” trong nghệ thuật thứ bảy, chấp nhận và tôn vinh những tiếng nói mới cũng như tài năng sáng tạo mà chiến thắng của họ đã giúp mở rộng cánh cửa hơn để bất kỳ kẻ mơ mộng nào cũng có thể hy vọng “đột nhập” Hollywood và chứng tỏ tài năng của họ không thua kém ai khác, bất luận màu da và sắc tộc.

_____________ OSCAR LẦN THỨ 95 PHIM HAY NHẤT

“All Quiet on the Western Front”

“Avatar: The Way of Water”

“The Banshees of Inisherin”

“Elvis”

“Everything Everywhere All at Once” *WINNER

“The Fabelmans”

“Tár”

“Top Gun: Maverick”

“Triangle of Sadness”

“Women Talking”



NỮ DIỄN VIÊN PHỤ

Angela Bassett, “Black Panther: Wakanda Forever”

Hong Chau, “The Whale”

Kerry Condon, “The Banshees of Inisherin”

Jamie Lee Curtis, “Everything Everywhere All at Once” *WINNER

Stephanie Hsu, “Everything Everywhere All at Once”



NAM DIỄN VIÊN PHỤ

Brendan Gleeson, “The Banshees of Inisherin”

Brian Tyree Henry, “Causeway”

Judd Hirsch, “The Fabelmans”

Barry Keoghan, “The Banshees of Inisherin”

Ke Huy Quan, “Everything Everywhere All at Once” *WINNER



PHIM NƯỚC NGOÀI (INTERNATIONAL FEATURE FILM)

“All Quiet on the Western Front,” Germany *WINNER

“Argentina, 1985,” Argentina

“Close,” Belgium

“EO,” Poland

“The Quiet Girl,” Ireland



PHIM TÀI LIỆU NGẮN – DOCUMENTARY (SHORT)

“The Elephant Whisperers” *WINNER

“Haulout”

“How Do You Measure a Year?”

“The Martha Mitchell Effect”

“Stranger at the Gate”



PHIM TÀI LIỆU DÀI (DOCUMENTARY FEATURE)

“All That Breathes”

“All the Beauty and the Bloodshed”

“Fire of Love”

“A House Made of Splinters”

“Navalny” *WINNER



CA KHÚC NGUYÊN THỦY (ORIGINAL SONG)

“Applause” from “Tell It like a Woman”

“Hold My Hand” from “Top Gun: Maverick”

“Lift Me Up” from “Black Panther: Wakanda Forever”

“Naatu Naatu” from “RRR” *WINNER

“This Is A Life” from “Everything Everywhere All at Once”



PHIM HOẠT HÌNH (ANIMATED FEATURE FILM)

“Guillermo del Toro’s Pinocchio” *WINNER

“Marcel the Shell With Shoes On”

“Puss in Boots: The Last Wish”

“The Sea Beast”

“Turning Red”



KỊCH BẢN CHUYỂN THỂ (ADAPTED SCREENPLAY)

“All Quiet on the Western Front”

“Glass Onion: A Knives Out Mystery”

“Living”

“Top Gun: Maverick”

“Women Talking” *WINNER



KỊCH BẢN NGUYÊN THỦY (ORIGINAL SCREENPLAY)

“The Banshees of Inisherin”

“Everything Everywhere All at Once” *WINNER

“The Fabelmans”

“Tár”

“Triangle of Sadness”



NAM DIỄN VIÊN CHÍNH

Austin Butler, “Elvis”

Colin Farrell, “The Banshees of Inisherin”

Brendan Fraser, “The Whale” *WINNER

Paul Mescal, “Aftersun”

Bill Nighy, “Living”



NỮ DIỄN VIÊN CHÍNH

Cate Blanchett, “Tár”

Ana de Armas, “Blonde”

Andrea Riseborough, “To Leslie”

Michelle Williams, “The Fabelmans”

Michelle Yeoh, “Everything Everywhere All at Once” *WINNER



ĐẠO DIỄN

Martin McDonagh, “The Banshees of Inisherin”

Daniel Scheinert and Daniel Kwan, “Everything Everywhere All at Once” *WINNER

Steven Spielberg, “The Fabelmans”

Todd Field, “Tár”

Ruben Ostlund, “Triangle of Sadness”



THIẾT KẾ PHIM TRƯỜNG (PRODUCTION DESIGN)

“All Quiet on the Western Front” *WINNER

“Avatar: The Way of Water”

“Babylon”

“Elvis”

“The Fabelmans”



QUAY PHIM (CINEMATOGRAPHY)

“All Quiet on the Western Front” *WINNER

“Bardo, False Chronicle of a Handful of Truths”

“Elvis”

“Empire of Light”

“Tár”



PHỤC TRANG (COSTUME DESIGN)

“Babylon”

“Black Panther: Wakanda Forever” *WINNER

“Elvis”

“Everything Everywhere All at Once”

“Mrs. Harris Goes to Paris”



KỸ THUẬT ÂM THANH (ACHIEVEMENT IN SOUND)

“All Quiet on the Western Front”

“Avatar: The Way of Water”

“The Batman”

“Elvis”

“Top Gun: Maverick” *WINNER



PHIM HOẠT HÌNH NGẮN (ANIMATED SHORT FILM)

“The Boy, the Mole, the Fox and the Horse” *WINNER

“The Flying Sailor”

“Ice Merchants”

“My Year of Dicks”

“An Ostrich Told Me the World Is Fake and I Think I Believe It”



PHIM NGẮN (LIVE ACTION SHORT FILM)

“An Irish Goodbye” *WINNER

“Ivalu”

“Le Pupille”

“Night Ride”

“The Red Suitcase”



NHẠC NỀN NGUYÊN THỦY (ORIGINAL SCORE)

“All Quiet on the Western Front” *WINNER

“Babylon”

“The Banshees of Inisherin”

“Everything Everywhere All at Once”

“The Fabelmans”



HIỆU ỨNG ĐẶC BIỆT (VISUAL EFFECTS)


“All Quiet on the Western Front”

“Avatar: The Way of Water” *WINNER

“The Batman”

“Black Panther: Wakanda Forever”

“Top Gun: Maverick”



DỰNG PHIM (FILM EDITING)

“The Banshees of Inisherin”

“Elvis”

“Everything Everywhere All at Once” *WINNER

“Tár”

“Top Gun: Maverick”



HÓA TRANG (MAKEUP AND HAIRSTYLING)

“All Quiet on the Western Front”

“The Batman”

“Black Panther: Wakanda Forever”

“Elvis”

“The Whale” *WINNER

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by nangchieu »

Johnny Depp và Cannes 2023
Lương Thái Sỹ

Image
Johnny Depp và diễn viên Maïwenn (trái) tại LHP Cannes 2023 (ảnh: Michael Buckner/Variety via Getty Images)

Một năm sau phiên tòa gây tranh cãi với người vợ cũ Amber Heard, tài tử Johnny Depp 59 tuổi trở lại như một người hùng tại liên hoan phim Cannes với buổi ra mắt bộ phim mới “Jeanne du Barry”…

“Jeanne du Barry” nhận được sự chào đón nồng nhiệt nhất và lộng lẫy nhất khi được chọn chiếu trong đêm khai mạc Liên hoan phim Cannes 2023. Người hâm mộ xin chụp ảnh selfie và chữ ký, với những tấm biển ghi “Chúng tôi yêu Johnny!” và “Viva Johnny!”. “Jeanne du Barry” được khởi chiếu trên toàn nước Pháp cùng thời điểm ra mắt tại Cannes. Huy hoàng lại đến với Johnny Depp. Tuần trước, Dior trao cho Depp $20 triệu trong hợp đồng nước hoa nam lớn nhất từ ​​trước đến nay…

Johnny Depp luôn được yêu mến tại Pháp. Anh từng mua cả một ngôi làng gần St. Tropez, nơi có ngôi nhà anh sống suốt 14 năm với nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Pháp Vanessa Paradis (Depp đã rao bán ngôi nhà trên thị trường với giá $55 triệu). Trong “Jeanne du Barry”, Depp nói tiếng Pháp khi anh đóng vai vua Louis XIII say đắm cô kỹ nữ Jeanne du Barry do Maïwenn thủ vai.

Chưa đầy một năm kể từ khi những chi tiết tồi tệ về mối quan hệ không ổn định của Depp với vợ cũ Amber Heard được phát suốt sáu tuần trong một phiên tòa trở thành một “hiện tượng văn hóa” mà nhiều nhà quan sát xem là phản ứng dữ dội nhắm vào phong trào nữ quyền #MeToo”, sự xuất hiện của Depp tại lễ khai mạc Cannes có vẻ là sự sắp xếp chủ ý, để “Jeanne du Barry” lấn át tin tức về các bộ phim nổi bật nhất tại Cannes trong nhiều năm qua như “Killers of the Flower Moon” của Martin Scorsese, “Asteroid City” của Wes Anderson, “May December” của Todd Hayne (với Natalie Portman và Julianne Moore) và “The Zone of Interest” của Jonathan Glazer (dựa trên tiểu thuyết của Martin Amis và là phim đầu tiên của đạo diễn này sau 10 năm, kể từ “Under the Skin”).
Image
Maïwenn trong buổi họp báo giới thiệu phim ‘Jeanne Du Barry’ tại Palais des Festivals, Cannes 2023 (ảnh: Guillaume Horcajuelo/Pool/Getty Images)

Ngoài “Jeanne du Barry”, Liên hoan Cannes cũng sẽ ra mắt loạt phim “The Idol” sắp chiếu trên HBO với sự tham gia của con gái Depp, Lily-Rose Depp, trong vai một siêu sao nhạc pop bị quản thúc bởi một thủ lĩnh giáo phái (do Abel Tesfaye, còn gọi là Weeknd đóng). Loạt phim này cũng vướng vào tranh cãi và nhà sáng tạo bộ phim “Euphoria” Sam Levinson phải quay lại hoàn toàn sau khi đạo diễn Amy Seimetz đã quay được 80%. Theo các nhà phê bình, “The Idol” quá gợi dục, nói về một người phụ nữ thích bị lạm dụng.

Trong suốt chiều dài lịch sử, Liên hoan phim Cannes thường gây ồn ào với những bộ phim khiêu khích kích động những tiếng la ó, phản đối bỏ về! Năm 2009, “thảm đỏ LHP Cannes đã nhuộm máu” là câu mở đầu bài viết của Kirk Honeycutt trên chuyên san điện ảnh Hollywood Reporter khi Cannes vừa khai mạc. Gần như tất cả phim được trao giải tại LHP Cannes 2009 đều đậm đặc cường độ bạo lực. The White Ribbon – được dựng với kỹ thuật đen trắng, không nhạc nền – thuật câu chuyện về một dàn đồng ca thiếu nhi tại ngôi làng ở miền Bắc Đức ngay trước khi Thế chiến thứ nhất xảy ra.

Như đạo diễn Haneke (từng đoạt Giải thưởng lớn tại Cannes 2001 với The Piano Teacher) nói, The White Ribbon kể về “nguồn gốc của tất cả các loại khủng bố, xét về chính trị hay tôn giáo”, với đầy ắp sự thù hận và oan nghiệt mà một số hành động bạo lực kinh hoàng lại do chính bàn tay trẻ em gây ra. Với Giải thưởng lớn (giá trị thứ hai tại Cannes), tác phẩm A Prophet của đạo diễn Pháp Jacques Audiard đã được trao. Trong A Prophet, người ta thấy một thanh niên trẻ mù chữ trở thành tên tội phạm “bậc thầy” sau 6 năm bóc lịch trong tù và làm đàn em của một tên “đại bàng”.

Gây ngạc nhiên nhiều nhất và bị chỉ trích nặng nhất có lẽ là giải đạo diễn cho Brillante Mendoza (Philippines) với phim Kinatay đầy chi tiết ghê rợn. Kinatay kể về một vũ nữ thoát y bị bắt cóc, bị hiếp và tra tấn đến chết bởi một nhóm tội phạm ma túy; trong đó có cảnh nạn nhân bị chặt từng khúc bằng con dao cùn!

Và tại Cannes 2006, dư luận đã sốc khi thấy những tác phẩm mang đến Cannes toàn phim khiêu dâm! “Bọn trẻ bây giờ xem phim khiêu dâm từ rất sớm, trước khi chúng thật sự nếm mùi chăn gối” – phát biểu của Larry Clark, một trong những đạo diễn bộ phim sặc mùi tình dục Destricted. Trong cuốn phim ngắn này, Clark phỏng vấn nhiều thiếu niên về chủ đề tình dục và sau đó cho một đối tượng trong đó xuất hiện cùng một diễn viên khiêu dâm. “Khi tôi còn nhỏ, chẳng ai nói với tôi gì cả (về chủ đề tình dục). Bây giờ, người ta có thể lên mạng và tìm bất cứ gì. Thiếu niên đang dí mũi vào phim khiêu dâm và họ nghĩ đó là cách để chăn gối” – Clark nói tiếp, về cuốn phim mang tính “giáo dục” của mình (ít nhất đó cũng là cách nghĩ của Clark).
Image
Cannes lần thứ 76 tổ chức từ ngày 16 Tháng Năm đến ngày 27 Tháng Năm 2023 (ảnh: Gao Jing/Xinhua via Getty Images)

Mang đến Cannes phim Shortbus, đạo diễn Mỹ John Cameron Mitchell cũng đồng ý rằng thế hệ trẻ ngày nay đang tăng cường độ sử dụng Internet để thay thế tình dục thật. Trong Shortbus, Mitchell sử dụng loạt diễn viên không chuyên đồng ý tham gia những cảnh sex thật một cách trần trụi và ông cũng không nghĩ rằng bộ phim mình là một thứ khiêu dâm trá hình hay đại loại như vậy. Ngoài ra, còn có nhiều phim khác cũng biến loạt màn bạc tại thành phố nghỉ mát Cannes thành phòng ngủ, chẳng hạn Princess của đạo diễn Đan Mạch Anders Morgenthaler.

Bộ phim này có thể khiến bất kỳ nhà mô phạm hay xã hội học nào nhăn mặt bất bình. Nội dung kể về câu chuyện một thầy dòng quyết định phá hủy toàn bộ “di sản” gồm các cuộn phim khiêu dâm của người chị/em quá cố mình (vốn là diễn viên khiêu dâm) và nhận đứa con gái 5 tuổi của cô ấy về nuôi. Điểm khác biệt giữa Princess với các phim đề tài khiêu dâm khác trình chiếu tại LHP Cannes là Morgenthaler thể hiện nó bằng ngôn ngữ hoạt hình.

“Tôi quyết định làm một phim về ảnh hưởng khiêu dâm trong xã hội bởi tôi thấy phim khiêu dâm đang thâm nhập mọi ngóc ngách, từ quần áo đến đồ chơi. Có “một cách khiêu dâm” để kinh doanh, bởi sex luôn giúp dễ bán. Tôi rất giận về vai trò lan tràn của hình ảnh khiêu dâm”. Gần tương tự Anders Morgenthaler, nhóm đạo diễn Anh-Na Uy cũng hợp tác để sản xuất phim khiêu dâm kỹ thuật số Free Jimmy… Sex trở thành chủ đề chính tại Cannes năm nay với mật độ phim dày đặc đến mức nhà điều phối chương trình LHP Cannes, Henri Behar, phải thừa nhận rằng chẳng bao giờ Cannes đầy mùi vị sex đến vậy.

Cannes cũng có lịch sử lâu đời tôn vinh những quý ông có tài năng nghệ thuật xuất sắc nhưng đối xử tệ bạc với phụ nữ. Roman Polanski đã giành giải Cành cọ vàng cho bộ phim “The Pianist” năm 2002, trong khi đangđối mặt với cáo buộc tấn công tình dục một bé gái 13 tuổi năm 1977. Ông không gặp vấn đề gì khi đến Pháp nhận giải. Đây cũng là liên hoan đã tôn vinh bộ phim “Cafe Society” của Woody Allen chiếu khai mạc năm 2016, hai năm sau khi con gái riêng của đạo diễn, Dylan Farrow, viết một bài báo cáo buộc ông lạm dụng tình dục cô.

Và ngay trước chương trình LHP Cannes năm nay, một trong những nữ diễn viên hàng đầu của Pháp, Adèle Haenel (“Portrait of a Lady on Fire”) đã viết một lá thư thông báo bà sẽ bỏ nghề vì “sự tự mãn của những kẻ xâm hại tình dục trong ngành công nghiệp điện ảnh Pháp” (bà đề cập đến những cáo buộc chống lại Polanski và Gerard Depardieu).

Cá nhân nữ diễn viên Maïwenn, đóng chung với Johnny Depp trong “Jeanne du Barry”, cũng là một nhân vật gây tranh cãi. Bà kết hôn với đạo diễn Luc Besson lúc mình chỉ 16 tuổi trong khi Luc Besson 32 tuổi. Họ gặp nhau khi bà 12 tuổi! Maïwenn là người phản đối phong trào #MeToo và hiện lùm xùm vụ tấn công một nhà báo Pháp trong một nhà hàng khi giật tóc và nhổ nước bọt vào mặt anh ta.

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by ngayngo »

Phim bộ Hàn Quốc trên Netflix sắp tới có gì hấp dẫn?
Đoan Thư
25 tháng 6, 2023

Image

Phim bộ Hàn Quốc không chỉ thu hút khán giả châu Á. Dân Mỹ cũng ghiền coi những bộ phim dài tập được dựng rất hấp dẫn với kịch bản hoàn hảo của công nghiệp điện ảnh chuyên nghiệp Hàn Quốc.

Một trong những bộ phim truyền hình Hàn Quốc đang làm mưa làm gió, thu hút khán giả Netflix ở Mỹ là The Glory dài 16 tập. The Glory đã trở thành bộ phim được đông đảo khán giả yêu thích trong năm nay và hiện được xếp hạng là series phim truyền hình không nói tiếng Anh phổ biến thứ năm trên Netflix.

Sau khi phát hành loạt tập đầu tiên vào Tháng Mười Hai 2022, tám tập cuối của The Glory nằm trong số 34 tựa phim Hàn Quốc mà Netflix cho biết sẽ phát hành từ giờ đến cuối năm 2023. Đây là đợt ra mắt ào ạt nhất của phim bộ Hàn Quốc trên Netflix, cho thấy sự phát triển kinh khủng của công nghiệp giải trí Hàn Quốc nói chung trên thị trường thế giới, trong đó có Mỹ. Tháng Tư 2023, đồng Giám đốc điều hành Netflix Ted Sarandos đã gặp Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol tại Washington và cho biết Netflix sẽ đầu tư $2.5 tỷ vào thị trường Mỹ trong bốn năm tới.

K-drama trên Netflix đã có một khởi đầu ấn tượng trong năm nay, với nhiều thể loại khác nhau. Ngoài bộ phim chính kịch nặng nề The Glory, khán giả cũng thích thú với thế giới đen tối của những người giao hàng trong Black Knight; bộ đôi mẹ con đáng yêu trong The Good Bad Mother; hoặc bộ phim hài lãng mạn Love to Hate You. Ngoài ra, từ nay đến cuối năm, Netflix còn tung ra tiếp những bộ phim sau:

Bloodhounds

Ngày phát hành: 9 Tháng Sáu

Dựa trên webtoon cùng tên của hãng Naver, bộ phim hành động ly kỳ Bloodhounds xoay quanh câu chuyện hai võ sĩ trẻ bước vào thế giới của những kẻ cho vay nặng lãi. Geon-woo (diễn viên Woo Do-hwan, từng xuất hiện trong The King: Eternal Monarch), một học sinh trung học bỏ học muốn trả nợ cho gia đình, so găng trên võ đài quyền Anh với Woo-jin (diễn viên Lee Sang-yi, từng đóng trong bộ phim tình cảm hài Hometown Cha-cha).
Image
Bloodhounds (Netflix)

Dù thoạt đầu đụng độ nhau với tư cách đối thủ sống mái, nhưng sau đó hai người hợp tác trong hành trình tìm kiếm công lý chống lại những kẻ cho vay nặng lãi giàu có và quyền lực. Bloodhounds được đạo diễn bởi Jason Kim. Ai xem phim bộ Hàn Quốc nhiều hẳn còn nhớ bộ phim hài hành động ăn khách năm 2017 Midnight Runners của Jason Kim. Với Bloodhounds, đây là lần đầu tiên Kim làm việc với Netflix.

D.P. (Mùa 2)

Ngày phát hành: Quý 3 năm 2023

Mùa đầu của D.P., phát hành năm 2021, miêu tả sự trần trụi kinh khủng của “văn hóa” ngược đãi trong hệ thống nghĩa vụ quân sự bắt buộc của Hàn Quốc, đến nỗi nhiều tân binh phải cố thoát khỏi. Tựa phim “D.P.”, có nghĩa “deserter pursuit”, nói đến một nhóm lính có nhiệm vụ săn lùng những tân binh đào ngũ. Dù mùa thứ nhất chỉ có sáu tập nhưng bộ phim gây được tiếng vang lớn, đặc biệt đối với các cựu quân nhân, khiến thậm chí Bộ Quốc phòng Hàn Quốc phải lên tiếng về tình trạng bạo lực và lạm dụng trong quân đội. Đạo diễn Han Jun-hee trở lại với mùa thứ hai, cùng các diễn viên Jung Hae-in và Koo Kyo-hwan.
Image
D.P. (Netflix)

A Time Called You

Ngày phát hành: Quý 3 năm 2023

Với những ai thích du hành thời gian, A Time Called You – phiên bản làm lại của bộ phim truyền hình Đài Loan Someday or One Day năm 2019 – là bộ phim dành cho mình. Ahn Hyo-seop, một trong những nam tài tử bảnh bao sang chảnh trong bộ phim lãng mạn Business Proposal năm 2022, sẽ đóng cặp với người đẹp Jeon Yeo-been (từng xuất hiện trong Vincenzo). A Time Called You kể về một người phụ nữ quay ngược thời gian và gặp một thanh niên trông giống người yêu quá cố của mình. Bộ phim gốc của Đài Loan (Someday or One Day) cũng rất ăn khách, thành công đến mức dẫn đến sự bùng nổ du lịch tại nhiều địa điểm được sử dụng làm phim trường.
Image
Jeon Yeo-been và Ahn Hyo-seop trong A Time Called You (Netflix)


Sweet Home (Phần 2)

Ngày phát hành: Cuối năm 2023

Nam tài tử điển trai Song Kang sẽ trở lại trong mùa hai của bộ phim kinh dị Sweet Home. Phần đầu của Sweet Home, phát hành Tháng Mười Hai 2020, kể về cậu học sinh trung học Cha Hyun-soo (do Song Kang thủ vai) chuyển đến một khu chung cư tồi tàn và phát hiện rằng toàn bộ tòa nhà bây giờ đã bị quái vật chiếm cứ. Ai xem phim kinh dị Hàn Quốc chắc đều biết rằng, Hollywood chỉ đáng… xách dép điện ảnh Hàn Quốc về thể loại kinh dị. Phim kinh dị Hàn Quốc coi… rất “bệnh”, rất “điên”, với mức độ quái phải nói là hơn quái đản, đạt đến đỉnh điểm của rùng rợn. Sweet Home mùa một thành công đến mức người ta lên kịch bản thêm hai mùa nữa. Và mùa thứ hai dự kiến phát hành vào quý 4 năm 2023. Mùa hai Sweet Home cũng có sự góp mặt của nhiều diễn viên ban đầu.
Image
Cảnh trong Sweet Home (Netflix)

Doona!

Ngày phát hành: Cuối năm 2023

Bộ phim lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn này có sự tham gia của thần tượng K-pop Bae Suzy trong vai chính Doona. Nổi tiếng như cồn nhưng Doona sớm rời sân khấu sống với chàng sinh viên đại học Lee Won-joon (do Yang Se-jong thủ vai). Đạo diễn của Doona! là gương mặt quen thuộc: Chính là người ngồi ghế đạo diễn của bộ phim nhiều tập từng gây sốt toàn cầu: Crash Landing on You.
Image
Suzy, diễn viên chính trong Doona! (ảnh: The Chosunilbo JNS/Imazins via Getty Images)


Gyeongseong Creature

Ngày phát hành: Cuối năm 2023

Park Seo-joon, tài tử có mặt trong The Marvels (bộ phim sắp ra mắt vào Tháng Mười Một 2023), trở lại màn ảnh nhỏ với vai chính trong Gyeongseong Creature. Park Seo-joon từng xuất hiện trong Itaewon Class năm 2020, bộ phim truyền hình được giới phê bình đánh giá cao. Trong Gyeongseong Creature, Park cùng dàn tài tử hạng A, đóng vai một chủ tiệm cầm đồ giàu có ở Gyeongseong, nay là Seoul, thề chiến đấu đến cùng với những con quái vật thần thoại sinh ra từ lòng tham con người. Bộ phim kinh dị có bối cảnh vào mùa xuân 1945, trước khi Thế chiến II kết thúc và Nhật Bản thôn tính Hàn Quốc. Những diễn viên khác trong Gyeongseong Creature có Han So-hee (The World of the Married), Claudia Kim (Fantastic Beasts: The Crimes of Grindelwald) và Wi Ha-joon (Squid Game).
Image
Han So-hee và Park Seo-joon in Gyeongseong Creature (Netflix)

Daily Dose of Sunshine

Ngày phát hành: Cuối năm 2023

Bộ phim nhiều tập này được chuyển thể từ Morning Comes To Psychiatric Wards Too, một webtoon của Lee Ra-ha. Kịch bản được thiết kế nhằm lấy nước mắt khán giả, Daily Dose of Sunshine đưa người xem vào một khu điều trị tâm thần, nơi làm việc của y tá mới vào nghề Da-eun (được diễn bởi Park Bo-young; từng xuất hiện trong Strong Girl Bong-soon, Oh My Ghost). Phim được đạo diễn bởi Lee JQ, người cũng từng đạo diễn bộ phim ăn khách All of Us Are Dead.
Image
Park Bo-young trong Daily Dose of Sunshine (Netflix)

muoiot
Posts: 100
Joined: Sat Sep 19, 2009 6:52 pm

Re: TIN TỨC PHIM ẢNH CA NHẠC

Post by muoiot »

Hai bố già thực thụ
P. Nguyễn Dũng
21 tháng 7, 2023

Image
Al Pacino và Robert De Niro (ảnh: Michael Buckner/Variety/Penske Media via Getty Images)


Trong giới diễn viên điện ảnh hàng đầu Hollywood, Al Pacino và Robert De Niro là hai bạn thân của nhau, từng thủ vai bố già và nay lại là hai bố già thực thụ!

Cùng sinh ra và lớn lên ở New York trong gia đình cùng gốc Ý và họ đều trở thành hai nghệ sĩ gạo cội với danh thơm rộng khắp thế giới, chủ yếu với các phim của đạo diễn Mỹ gốc Ý tài hoa Martin Scorsese. Lớn hơn Robert de Niro 3 tuổi, Al Pacino (nay đã 83 tuổi) từng là Bố già Michael Corleone trong Godfather II và The Godfather III, còn Robert de Niro chính là Bố già Vito Corleone khi còn trẻ, tức bố của Bố già Michael Corleone sau này.

Hồi Tháng Năm 2023, khi một đài truyền hình ở Canada giới thiệu Robert de Niro, nay 79 tuổi, là bố của sáu người con thì tài tử này cải chính, “Không tôi là bố của bảy đứa con!” Thực tế là trước đó không lâu, vào ngày 6 Tháng Tư, ông đã mừng đón đứa con thứ bảy chào đời, bé gái Gia Virginia Chen De Niro, mẹ là Tiffany Chen, bạn gái của De Niro. Còn sáu chị và anh của nó là Drena, 51, Raphael, 46; Julian và Aaron, song sinh, 27; Elliot, 24 và Helen Grace, 11. Ông có sáu người con này với bốn vợ và bạn gái.

Không lâu sau đó, đến lượt bạn già Al Pacino của diễn viên già Robert de Niro cũng lên tiếng cho biết chỉ sau vài ba tháng nữa, ông sẽ lại làm bố. Đó sẽ là con thứ tư của ông với cô bạn gái mới Noor Alfallah, chỉ 29 tuổi, chuyên nghề sản xuất phim ảnh! Giới paparazzi phát hiện Al và Noor thân yêu bên nhau từ Tháng Tư 2022.
Image
Al Pacino và Robert De Niro trong buổi ra mắt phim ‘Heat’ tại Tribeca Festival 2022, United Palace Theater, New York City, ngày 17 Tháng Sáu 2022 (ảnh: Dimitrios Kambouris/Getty Images for Tribeca Festival)

“Làm bố luôn là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi,” Al nói với tuần báo giải trí People. Quả thật Al luôn là một ông bố tốt của Julie Marie nay 33 tuổi (sinh bởi bạn gái cũ của Al là Jan Tarrant, một hướng dẫn viên nghệ thuật diễn xuất); cặp song sinh Anton và Olivia, 22 tuổi (sinh bởi bạn gái cũ Bevery D’Angelo từ 1997 đến 2003).

“Sự nghiệp diễn viên của Al đã bùng nổ với phim The Godfather và hai năm sau đó là trong The Godfather Part II. Tôi cũng có mặt trong phim này, thủ vai Vito Corleone lúc trẻ, tức tôi là bố của Al trong vai Micheal Corleone,” De Niro hồi tưởng. Đây cũng là phim đột phá lên đỉnh danh vọng của ông, vì vai Vito Corlone đã mang về cho ông giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, dù trước đó ông từng được chú ý đến với phim hình sự Mean Streets của Martin Scorsese năm 1973.
Image
Robert DeNiro và Al Pacino tại chương trình Oscar 2020 (ảnh: P. Lehman/Future Publishing via Getty Images)

Với tượng vàng Oscar làm vốn, De Niro chứng minh thêm tài nghệ của mình trong một phim hình sự khác cũng của Scorsese là Taxi Driver, năm 1976. Hẳn khán giả vẫn còn nhớ trường đoạn gã Travis cực kỳ căng thẳng gằn giọng một mình trước gương mà nói miết “You talkin’ to me” trong phim này. Vai này và cả vai trong phim The Deer Hunter (1978, đạo diễn Michael Cimino) về đề tài cuộc chiến tại Việt Nam đều giúp De Niro được đề cử Oscar.

Phải đợi đến năm 1995 thì Al Pacino và Robert de Niro mới có vai trong cùng phim, mà đó là vai đối thủ của nhau trong Heat, một phim hình sự rất hay của Michael Mann. Trường đoạn dài vài phút họ đối diện nhau bên chiếc bàn ăn là một cảnh căng thẳng rất hấp dẫn. Lại thêm 13 năm trôi qua, khán giả mới lại thấy Al và De Niro đóng chung trong Righteous Kill.

Khi không diễn chung với nhau thì họ cũng gặt hái thành công lớn, De Niro với các phim gangster Mỹ-Ý Goodfellas, Casino… và cả phim hài Meet the Fockers; còn Al với các phim hình sự Scarface; Sea of Love; Serpico; Carlito’s Way… và các phim tình cảm Frankie and Johnny; Scent of a Woman.

Lớn tuổi hơn, hoạt bát dễ trò chuyện hơn nên Al thường nhanh miệng trả lời thay cho De Niro, bênh vực De Niro, một người rất kiệm lời, dễ nổi cáu khi bị các nhà báo “bao vây” với nhiều câu hỏi về đời tư, sự nghiệp. Và De Niro không bao giờ tỏ ra khó chịu vì ông anh Al hay nói thay mình. Họ đã quen cách ứng xử này từ lâu lắm rồi.

“Khi chúng tôi lần đầu gặp nhau thì tôi khoảng hơn 20 tuổi, anh ấy lớn hơn vài tuổi, mà đó là chuyện xảy ra cách nay hơn 50 năm,” De Niro kể. “Tôi thì nhớ rõ lần ấy. Anh chàng ta được mọi người gọi là Bob, tôi chẳng thấy anh ta làm việc gì cả, anh ta lông bông trên phố nhưng tướng tá của anh ta toát ra sức hút lạ lắm và chúng ta thành bạn của nhau,” Al nói.

Họ dễ thân nhau vì thời thế và hoàn cảnh của họ hồi đầu thập niên 1970 đẩy đưa họ. “Khi ấy cả hai chúng tôi còn rất trẻ, chưa có gì trong tay, cùng tập tành làm diễn viên, thất nghiệp dài dài, vậy mà rồi chỉ ngày trước ngày sau đã được mọi người biết đến, yêu mến và tán dương,” Al tâm sự. “Có thể nói rằng chúng tôi là bàn đạp và chỗ dựa của nhau, chúng tôi giúp nhau thăng tiến, tồn tại và vui sống”.
Image
Al Pacino và Robert De Niro cùng được trao giải Best Acting Ensemble cho phim ‘The Irishman’, Critics’ Choice Awards 2020 (ảnh: Matt Winkelmeyer/Getty Images for Critics Choice Association)

Năm 2019, người hâm mộ lại được xem đôi bạn “bố già” diễn chung trong phim hình sự gangster The Irishman, cũng của Martin Scorsese, về trùm Jimmy Hoffa. “Phải nhìn nhận rằng tôi và De Niro may mắn hơn những đôi bạn thân khác, chẳng hạn như Paul Newman và Robert Redford. Họ thân nhau lắm, muốn cùng được làm việc chung với nhau lần nữa nhưng đến nay nào có cơ hội đâu?”. Paul Newman và Robert Redford diễn với nhau rất thành công trong phim cao bồi Butch Cassidy and the Sundance Kid (năm 1969) nay được xem thuộc dạng classic và sau đó là phim hình sự The Sting, năm 1973.

Vai Bố già (năm 1972) mang về cho Al Pacino một đề cử Oscar nhưng ông chỉ được ôm tượng vàng với phim tình cảm Scent of a woman thực hiện sau đó 20 năm. Nhưng ông còn nhiều lần được đề cử Oscar với các phim Serpico (1973), The Godfather Part II (1974), Dog Day Afternoon (1975), … And Justice for All (1979), Dick Tracy (1990), Glengarry Glen Ross (1992) và The Irishman (2019).

Liệu The Irishman có là phim cuối cùng Al và De Niro đóng chung hay không? “Ai biết được chuyện gì sẽ đến?” Al nói. “Trước mắt chúng tôi có thể sẽ hợp tác làm chung… một sân chơi cho hai đứa nhóc,” De Niro nói…

Post Reply