Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
saohom
Posts: 2215
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by saohom »


CON ĐƯỜNG QUANH CO

Mẹ tôi rất can trường. Trong cuộc di cư 1954 chỉ có mẹ tôi theo bên nội vào Nam trong khi bên ngoại đã bán vội nhà cửa, ruộng vườn thì lại bị ngăn chận phải ở lại miền Bắc. Mẹ thúc giục chị em chúng tôi đọc kinh sớm, tối cầu nguyện cho ông bà ngoại, các cậu, các dì, và hay cùng bố tôi kể chuyện ngoài Bắc, nhưng tôi không thấy mẹ tôi khóc ngay cả khi nhận được những tấm thiệp ông ngoại hay các cậu viết gởi từ Bắc vào Nam cho tới lần nhận được tấm thiệp báo ông ngoại tôi mất. Lần ấy mẹ tôi khóc như đập nước vỡ oà sau những tháng năm chất chứa trong lòng. Mẹ vừa khóc vừa kể lể những tình tiết về chuyện bên ngoại tôi bị ngăn chận vì tư thù nên phải ở lại. Mẹ tôi chỉ kể lại lần duy nhất ấy, và tôi cũng không bao giờ hỏi lại, vì chuyện ấy liên can tới người bà con xa. Vả lại bố mẹ tôi sống trong niềm tin vào Chúa quan phòng, có chuyện gì vui buồn thì chỉ tạ ơn và cầu nguyện.

Chuyện xảy ra gần 70 năm, bố mẹ tôi đều đã qua đời, mà còn gây xúc động trong tôi, vẫn như mới đây. Rồi đến chuyện ra đi của gia đình nhỏ chúng tôi sau 1975, đã 45 năm, cũng là những vết thương chưa lành, mỗi lần đụng tới là muốn bật máu. Dân tộc Việt chúng ta có một lịch sử dài mang quá nhiều đau thương. Chuyện quang phục quê hương là ước mơ của hết thế hệ này đến thế hệ khác. Cứ mỗi lần nghe những tên tuổi trong cộng đồng, hay người quen biết nằm xuống, lòng tôi lại xốn xang như vừa có một chuyến tàu vụt qua, như một khối thời gian tan biến mà không có dấu tích gì để lại, mặc dù biết mình có là gì đâu!

Trong tâm trạng ấy, tôi nghĩ mình hơi thông cảm được với người Do Thái trong sự chờ mong Đấng Cứu Thế, trông đợi dân tộc được giải phóng như các ngôn sứ đã loan báo trong lịch sử bốn ngàn năm của họ. Lịch sử của họ cũng chứa đầy thương đau vì bị ngoại bang đô hộ, bị lưu đày ở lân bang, mang gông cùm nô lệ của thời cổ không khác gì kiếp trâu ngựa. Cho nên khi Ông Gioan xuất hiện từ trong hoang địa trong bộ áo da lạc đà kêu gọi dân chúng: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” thì người ta xôn xao nghĩ tới Ngôn Sứ Isaia đã loan báo trước đó rằng: “Đây, Ta sai Thiên Thần của Ta đến trước mặt người để dọn đường.” (Is 40: 1–5, 9–11)

Thế là đám đông đến vây quanh. Người thì lắng nghe, kẻ thì tò mò, kẻ khác lại vặn hỏi: Có phải ông là đấng toàn dân trông đợi không? Ông Gioan trả lời: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1:8).

Dân Do Thái dù tôn thờ Thiên Chúa, có một lịch sử gắn liền với chương trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, nhưng không phải có nhiều người nghĩ dân tộc họ sẽ được giải phóng bằng con đường thuần tôn giáo là sám hối, sửa mình, ăn chay, và cầu nguyện... Họ có các nhóm vũ trang, hành động bạo lực một cách có tổ chức. Cũng như các phong trào nổi dậy của mọi thời, tổ chức của họ thường có tuyên truyền và thanh trừng. Tuyên truyền để giành chính nghĩa, thanh trừng để diệt thù trong, ngăn thù ngoài. Và cũng như mọi thời, khi tình hình chính trị chín mùi, khối quần chúng rất khó đứng bất động. Họ hoặc là phải lựa chọn, hoặc bị lôi kéo. Cũng là tranh đấu cho chính nghĩa dân tộc đấy nhưng tổ chức khác nhau, đường lối khác nhau, cương lĩnh khác nhau... khác tới mức bị thanh trừng hay tiêu diệt là chuyện thường ngày trong khi viễn ảnh dân tộc độc lập, tự do, hạnh phúc thì xa vời vợi!

Tới chỗ này, ta có thể đặt câu hỏi. Thời đó không biết đã có những đầu óc hay lý thuyết chính trị khét tiếng như thời nay không? Khét tiếng như cộng sản, như quân phiệt chẳng hạn? Theo tôi thì có thể có dù hình thức khác nhưng chiều sâu hoặc độ “khét” cũng có hạng lắm bởi vì Đế Quốc Roma khoảng 500 năm trước Công Nguyên đã có Nghị Viện rồi, mà chắc có nhiều bạn đã biết về hai bài diễn văn xoay chuyển cả nghị viện 180 độ, từ phải sang trái của Brutus và Antonius. Nước Do Thái chỉ là thuộc địa của Roma nhưng lại có lịch sử và tôn giáo thay đổi được đế quốc Roma thống trị mình, và từ đó làm nên nền văn minh của hơn một nửa thế giới. Thế cho nên các tổ chức chính trị của người Do Thái thời đó cũng có thể có những đặc tính của những tổ chức chính trị thời nay, chẳng hạn như giành độc lập bằng mọi giá – miễn sao đạt mục đích, mọi phương tiện đều tốt, nghĩa là dùng cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Thời nay, “cứu cánh biện minh cho phương tiện” được chế độ cộng sản và một số tổ chức dùng làm phương châm hành động. Hệ quả của nó là sự tàn bạo – “giết lầm hơn bỏ sót”. Cộng sản tiêu diệt tôn giáo vì tôn giáo đặt niềm tin vào Đấng toàn năng, tối thượng, và nhân ái. Cộng sản huỷ diệt lịch sử để viết lại theo đúng đường lối của đảng cộng sản, để quần chúng chỉ được nghĩ một chiều. Sau nửa thế kỷ nhuộm đỏ một phần thế giới, giết nhiều chục triệu dân, khối cộng sản đã sụp đổ trừ Trung Cộng và vài nước chư hầu. Nhưng như con quái vật giẫy chết, nó đang vùng vẫy trong ba chục năm qua, và tỏ ra hung hãn khủng khiếp. Sự khủng khiếp được phô bày không cần che đậy trong cuộc bầu cử tổng thống của một nền dân chủ kiểu mẫu cho toàn thế giới là Mỹ Quốc.

Khủng khiếp vì một thế lực ngầm điều khiển chính phủ Mỹ theo một đường lối toàn cầu. Khủng khiếp vì đường lối ấy lập một trật tự mới, phá bỏ mọi biên giới quốc gia, chống Thiên Chúa, thờ Satan. Khủng khiếp vì nhóm người được gọi là tinh hoa ấy sẽ nắm quyền sinh sát toàn cầu bằng thuốc chủng, bằng dịch bệnh. Khủng khiếp vì họ nắm trọn quyền truyền thông trong tay để nuốn nói gì thì nói, muốn ai hoặc điều gì đúng hay sai thì tuỳ ý họ. Khi tất cả các mạng lưới thông tin toàn cầu đều nói gian là ngay thì người ta mất hẳn ý niệm về xấu, tốt. Khủng khiếp vì họ sử dụng kỹ thuật vi tính cao độ để thay đổi ý chí của một đất nước, và rồi sẽ đến cả toàn cầu, muốn cho ai có đủ phiếu thắng cử thì người đó thắng... Nếu bạn không cho việc ấy khủng khiếp biến con người thành con vật hay những con robot thì không biết có gì trên đời có thể khiến bạn rùng mình.

Những cuộc di tản, di cư, trốn thoát trong quá khứ dù đau thương nhưng còn có một tương lai. Trong cuộc chiến toàn cầu này, nếu người lương thiện thua, họ biết chạy đi đâu? Phải chăng đã có những linh mục, giám mục, và hồng y lên tiếng cảnh báo rằng, chúng ta đang “nhìn xuống vực thẳm”! Vâng không những chỉ nhìn mà còn đang đứng mấp mé bên bờ vực.

Không ai muốn bị rơi xuống vực. Cũng không ai muốn đi hoặc sống bên bờ vực, chỉ trừ có nhóm hoạt đầu là muốn xô nhóm quần chúng không nghe theo chúng rơi xuống vực thẳm. Vì không muốn nên ai cũng tìm chỗ bám víu. Quần chúng tìm chỗ bám víu khác nhau tuỳ theo họ được nghe, và được tuyên truyền như thế nào. Họ bỗng đứng vào hàng ngũ có chính kiến đối nghịch nhau, mà ai cũng cho mình là đúng. Người có sức thì quần thảo nhau bụi mù để giành chính nghĩa. Trong đám mù bụi ấy có người không thể phân biệt sáng, tối, ngày, đêm. Người khôn ngoan ngước nhìn trời và biết hướng đi của cuộc chiến.

Sự loan báo của Gioan Tiền Hô nói lên hướng nhìn khác biệt của thánh nhân với những tuyên truyền trong đám bụi mù chính trị đương thời: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, còn Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần”. Bởi vì Ngôn Sứ Isaia đã loan báo: “Đây Thiên Chúa đến trong quyền lực; cánh tay Người sẽ thống trị.” Đám mây mù của tự do, dân chủ, công bằng, miễn học phí, không phải trả tiền nhà thương, tiền thuốc... làm tối mắt nhiều người, và người ta “tranh đấu bằng mọi giá, tranh đấu đến cùng”, bằng mọi phương tiện miễn sao đạt được cứu cánh. Trong đám mù ấy người ta sẽ không nhìn được gì hết nếu không ngước lên để thấy được sự khác biệt: Thiên Chúa và Satan. Thiên Chúa của Chân Thiện Mỹ ngự trị, và Satan quyền năng của gian trá, bạo lực, tội ác và huỷ diệt thống trị.

Cầu cho lương tri của chúng ta sáng đủ để chọn bước ra khỏi con đường quanh co tránh xa vực thẳm.***

December 5, 2020
Nguyễn Văn Thông

User avatar
saohom
Posts: 2215
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by saohom »

Image

Món nợ tuổi hai mươi

TRẦN TRUNG ĐẠO

Tôi đọc nhật ký Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi của anh Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật ký dày 296 trang tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngã Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972.

Tôi đã có lần đề cập đến Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng.

Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đình đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền.

Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam.

Anh viết cuốn nhật ký từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đã gửi cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tròn một năm trong đời quân ngũ.

Các hệ thống truyền thông của đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị.”

Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung đội truyền tin và cũng là người đã mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn còn nguyên vẹn.

Sau khi vượt sông Ba Lòng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc còn rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đỡ, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết.

Anh đặt tên nhật ký là Chuyện Đời nhưng được thay bằng Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi khi phát hành vào năm 2005.

Giống như Nhật Ký Đặng Thùy Trâm, nhật ký Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đã trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại Việt Nam.


Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng vì tập làm nhà văn nên văn trong nhật ký của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật ký: “Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường… Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay vì ghi lại những gì xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù…”

Ngoại trừ tình yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết này vì tôn trọng tình cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lý luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng vì ở tuổi còn nhỏ sự gần gũi và va chạm với xã hội còn khá ít.

Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép Đã Tôi Thế Đấy của Nikolai Ostrovsky.

Lại cũng Paven!

Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”

Thép Đã Tôi Thế Đấy là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven… Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!” Anh hổ thẹn vì chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!”

Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin.





Chẳng lẽ anh không biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đã sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi còn rất trẻ. Trần Quốc Toản (1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần Bình Trọng (1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết vì tổ quốc chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy não kia.

Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của ký giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đã sống và chết trung liệt như thế nào. Ký giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:

“Một buổi chiều biệt đội của đại uý được tin là sau khi bị đội lính dõng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao nguyên Giai.

Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi cửa chính bị đạp tung ra thì thấy Thiệp đã thức giấc vì tiếng động của vụ tấn công còn vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được gì.Thấy chủ soái thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông [vua Hàm Nghi], nhưng vì quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và còn đang xao động.”

Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, còn nhỏ tuổi hơn anh Thạc.
Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành trình đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện gì với nhau.

Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ sĩ còn trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi.
Nhưng có một điều chắc chắn họ đã từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không còn làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống bên thành tàu Biên Hòa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi nhục giống nhau.

Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đã trở thành những bãi chiến kinh hồn nhưng trong nhật ký ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hãnh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”

Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật.

Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam!

Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của mình vì đảng đã có sẵn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh.

Trong nhật ký ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay câu nói của Lê Duẩn: ”Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có tình cảm riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất”. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật ký một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc gì thêm.

Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xã hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của ý thức hệ CS đang dồn dập tấn công.

Trong nhật ký ngày 27 tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời mình: “Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.”

“Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường mòn.\

Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đã mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh không chống đỡ nổi, đã gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được.

Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội.

Trong nhật ký ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính mình: “Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập – Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…”

Anh không thể tự trả lời. Tuy nhiên, đoạn nhật ký trong cùng ngày đã giải thích lý do một học sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lý lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ – Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!”

Anh Thạc nhiều tài năng đã chết một cách oan uổng chỉ vì như anh viết “vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai.”
Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người gì cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.

Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972: “Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa.”

Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lý lịch” trong nhật ký và điều đó cho thấy “vết đen” lý lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào.

Anh khổ tâm, đau đớn vì lý lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xã hội miền Bắc, đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên cao.

Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xã Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lý lịch. Chính trị lý lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế tục về dòng giống nhưng còn bảo đảm mục đích của chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

Chính Adolf Hitler, đối thủ hàng đầu của Stalin, đã từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lãnh đạo đảng. Stalin phê bình quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lý lịch dựa trên giai cấp xã hội.

Anh Thạc có yêu nước không?

Tôi tin là có. Không những anh Thạc mà rất đông tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện lên đường “giải phóng miền Nam” cũng vì lòng yêu nước. Nhưng tình yêu nước của các anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp.

Miền Nam mà các anh được đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những cánh đồng bát ngát, những vườn cây sai trái, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa.

Người dân miền Nam mà đảng vẽ trong nhận thức các anh là những người đang rên xiết trong gông xiềng “Mỹ Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền hòa chỉ mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một thế kỷ bị thực dân đô hộ.

Cũng trong nhật ký ngày 24 tháng 5, anh Thạc tin rằng Sài Gòn ngày đó là một “Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù.”

Anh Thạc hiểu thế nào là tổ quốc?

Trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc in ở phần cuối của nhật ký, anh phân tích tổ quốc: “Được mang ngòi bút của mình phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng” hay trong nhật ký ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản.”

Tổ quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa” hay “gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản” như anh viết nằm bên sông Volga, sông Hoàng Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu.

Đoạn văn anh viết được trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hoá, nghị quyết, bài giảng kinh tế chính trị ở trường mà anh đã nhập tâm. Không phải chỉ một mình anh Nguyễn Văn Thạc mà phần lớn nhà văn miền Bắc không ít thì nhiều đều phạm tội đạo văn của đảng.

Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa tổ quốc và đảng, giữa ý thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị.

Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của đảng không những có khả năng điều khiển hành động mà còn có thể sai khiến cả nhận thức của anh.

Trong nhật ký ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết: “Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù.”

Anh không biết “Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng khiếp thật. Ai dạy anh viết những câu sắt máu vượt qua tuổi tác của anh như thế, chắc chắn không phải cha mẹ anh mà từ bộ máy tuyên truyền của Đảng.

Anh Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục tiêu hàng đầu của tuyên truyền tẩy não CS là đào tạo những con người biết tuân phục. Thuần khiết toàn xã hội qua sách lược trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS. Đó là lý do tại sao các lãnh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro, Pol Pot đều thích hôn nhi đồng. Hình ảnh “hiền từ” của họ bên cạnh nhi đồng là hình ảnh phổ biến nhất tại các nước CS.

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền Bắc trong bài thơ ông viết năm 1970:

Bác Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.

Bộ máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một cách sáng tạo” từ cả hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và Trung Cộng nên không lạ gì họ đã lừa gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc một cách dễ dàng.

Đọc lại nhật ký của anh Nguyễn Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương tiện tuyên truyền.

Trang nhật ký cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc viết: ”Kẻ thù không cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại – Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.”

Anh Thạc không trở lại. Nhật ký ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là địa chỉ “Ngã ba đồng lộc.” Hết.

Những trang giấy còn lại của cuốn nhật ký cũng không phải là những dòng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngã xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đã đổ xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và những vùng đất miền Nam thân yêu khác.

Anh Nguyễn Văn Thạc đã chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã chết. Hàng trăm ngàn cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng phải sống phần đời còn lại trong khó khăn túng thiếu với số tiền phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là ba triệu đồng một tháng cho cả gia đình.

Tất cả những mất mát và chịu đựng đó chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đã xác định từ cương lĩnh đảng CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định trong cương lĩnh 1991: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.”

Ngoại trừ những kẻ bị tẩy não, một người có nhận thức và theo dõi thời cuộc đều đã nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài và “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bánh vẽ.

Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đã chết và còn sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà đảng không thể nào trả nổi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.

hoangphong
Posts: 394
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by hoangphong »

Hạt Bụi Nào Trong Mắt
Chiều thứ hai, đi làm về, Bill nhận được lá thư của gia đình từ Việt Nam. Vừa bóc thư, Bill vừa lầm bầm:
– Không biết kỳ này ông già lại ca bản gì nữa đây.
Những hàng chữ viết nắn nót trên tờ giấy mỏng như đập vào mắt Bill:

Bân con,
Bố suy nghĩ mãi rồi mới viết lá thư này trong lúc buồn buồn nhớ tới các con. Bố đặt tên con là ‘Bân’, chữ ‘Bân’ (斌) có nghĩa là ‘lịch thiệp’ và có chữ ‘Văn’ đứng cạnh vì bố hằng mong mai sau lớn lên, con sẽ theo con đường văn chương, làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu, một giấc mơ mà bố ôm ấp, nhưng biết đời mình không thể đạt thành.
Như con biết, 17 tuổi bố bỏ học, dở thầy, dở thợ, vất vả với đời sống, rồi, cuối cùng, trở thành anh công chức quèn, lấy vợ, nuôi con, và mong cho con nối được giấc mộng không thành của đời mình.
Khi con bước chân vào đại học, bố đã vui mừng, tưởng rằng con sẽ thành người như bố ước mơ. Tiếc thay vận nước điêu linh, con cũng như bao nhiêu thanh niên đều phải thi hành nghĩa vụ, và rồi trôi nổi tới phương trời xa! Bố mẹ ngày ngày chờ con về, và ngày con trở về thăm nhà lần đâu tiên, bố đã để rơi giọt nước mắt mừng vui trên đôi má nhăn nheo. Nhưng rồi, bố nghe con nói về nếp sống mới, và bố ngỡ ngàng. Không, bố không còn kỳ vọng có con làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu như bố từng mơ ước trước đây, nhưng có gì như hụt hẫng mỗi lần cha con chuyện trò.
Ngày xưa, có lần bố đạp xe đi làm, bị một chiếc xe chở đầy lính Mỹ vượt qua mặt, những người lính cười nói ồn ào, vứt xuống lòng đường thanh kẹo cao su như bố thí, bố đã tức tủi nghẹn ngào. Ngày con về, nói cười hả hê với những danh từ xa lạ, bày ngổn ngang những món quà đắt giá cũng làm bố ngỡ ngàng. Nhưng bố chỉ thật sự chua xót khi giơ tay vuốt tóc đứa con trai của con. Tên nó là gì nhỉ, Tim hay Tím gì đó. Nó lắc đầu tránh bàn tay của bố và lầu bầu cái gì đó mà bố không hiểu. Bố biết là có lẽ từ đây giòng họ Nguyễn Hữu sẽ không còn trên thế gian!
Con à, có lẽ bố già quá rồi nên không còn thích nghi với những thay đổi của cuộc sống. Bố nhìn con, nhìn cháu và lòng bố xót xa. Con bây giờ là Bill chứ không phải là Bân. Tóc con cột đuôi gà, chứ không còn hớt cao như xưa. Thế nhưng tóc của vợ con lại ngắn ngủn, nửa nâu, nửa vàng, ôm sát khuôn mặt kiêu kỳ. Thằng Tim ‘Hey man’ chứ không “Thưa bố’ như con thủa nào. Cuối đời mà bố vẫn bơ vơ. Bố nói thế, con hiểu không, Bân?
Tuy nhiên bố cũng cám ơn các con rất nhiều. Tiền các con gửi về giúp bố mẹ hàng tháng đủ cho bố mẹ sống thoải mái lúc tuổi già. Căn nhà nhỏ gần rạch Thị-Nghè khang trang hơn cũng là nhờ các con. Chiều chiều, đứng nhìn dòng nước, bố thấy lòng mình cũng dịu dàng như con nước trôi.
Bây giờ đã gần ngày Noël. Bên phương trời đó, có lẽ các con đang bận rộn mua sắm, hội hè. Bố bây giờ ít ra khỏi nhà. Ngay cả những ngày Tết, bố cũng chỉ thắp hương khấn ông bà, xin các người tha thứ và, dù sao đi nữa, cũng xin phù hộ cho các con ở phương xa.
Bố chỉ cầu mong sao cho gia đình con luôn luôn đưọc hạnh phúc, thuận vợ, thuận chồng. Và nếu bố được khuyên con đôi lời thì bố mong rằng con hãy nghĩ tới cội nguồn. Dù sao đi nữa, con vẫn là người Việt da vàng, cố giữ lấy phần nào nếp sống của tổ tiên.
Lần tới, có về thăm nhà, con cố đưa bố ra ngoài Bắc. Bố muốn về thăm lại núi Ba Vì và quê Bất Bạt một lần trước khi nhắm mắt xuôi tay. “Bên này đất nước nhớ thương nhau.” Chúng mình cùng quê với Quang Dũng đó con.
Chúc các con những ngày vui.
Bố của con,

Nguyễn Hữu Cầu.

Gấp lá thư đút vào túi Bill thở dài:
– Ông già càng ngày càng lẩn thẩn. Không biết là sống thêm được bao năm nữa.
Bỗng nhiên, Bill chợt bùi ngùi, nghĩ thầm:
– Ngày xưa ông chỉ mong mình đậu Cử Nhân văn chương, đi dạy học, sống đời thanh bạch; thế nhưng, lưu lạc sang xứ này, mình lại kiếm ra khối tiền, nhưng chỉ có mỗi cái bằng Master … Card nên ông ấy vẫn buồn. Thôi, sang năm mình về một mình, không mang theo vợ con, nhất là cái thằng Tim cà chớn, rồi đưa ông ra Bắc thăm quê hương như ông ấy muốn!
Bill ngồi xuống bàn, cầm bút, định viết vài hàng trả lời bố, nhưng một ý tưởng chợt lóe ra trong đầu, Bill vỗ bàn:
– Tại sao mình không mời ông già sang chơi với mình ít lâu. Biết đâu chừng những gì ông già thấy tận mắt sẽ giúp ông hiểu thêm về đời sống ở Mỹ, sẽ thông cảm và thương yêu con cháu hơn.
o0o
Cụ Cầu leo lên chiếc xe Van, thắc mắc:
– Sao anh lại phải đi cái ‘xe tải’ như thế này? Không đủ tiền mua xe nhỏ hả con?
Bill mỉm cười:
– Ở đây ai có ‘xe tải’ là khá đó bố, còn xe nhỏ thì ai mà chả có! Cả nhà đều muốn ra phi trường đón bố nên con phải lái chiếc xe lớn này.
– Thế hả? Bố cứ tưởng…
Cụ Cầu nhướng mắt nhìn ra ngoài. Sao chẳng có ai đi bộ nhỉ? Mà toàn xe hơi không à, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy, mà sao xe gắn máy lại chạy nhanh hơn cả xe hơi? Ăn mặc thì cứ như thằng điên, đầu còn đội cả nón sắt!
Xa lộ 101 kẹt cứng, chầm chậm, nhưng rồi Bill cũng về đến nhà ở San Jose. Bill thở phào đỡ bố ra khỏi xe:
Nhà mình đây. Bố nghỉ cho đỡ mệt, rồi sẽ tính sau.
Cụ Cầu ngơ ngắc nhìn căn nhà to lớn trên sườn đồi. Thế này thì ở sao cho hết. Nhà chúng nó có bốn người. Con thì một đứa đi học xa, chỉ còn một đứa ở nhà. Cụ nhìn con:
Này anh Bân, thế cái nhà này bao nhiêu tiền?
Bân thở ra:
– Vài trăm ngàn bố ạ.
– Vài trăm ngàn? Thế tiền đâu mà lắm thế.
– Tiền nhà băng cho muợn. Ở đây ai cũng nợ cả, bố ạ. Mình trả góp hàng tháng mà!
– Thế anh làm bao nhiêu tiền một tháng cho đủ để trả tiền lời?
– Vài ngàn thôi. Nhưng con dặn bố thế này nhé. Bố hỏi con làm bao nhiêu một tháng thì được, chứ đừng hỏi người quen. Ở đây, họ kỵ những câu hỏi như vậy, không như ở VN mình.
– Thế à. Lạ nhỉ…
Phải mất đến cả tháng, cụ Cầu mới quen dần, mới không còn lúng túng với vòi nước nóng lạnh trong phòng tắm, mới biết làm thế nào để hệ thống báo động không kêu ầm ĩ khi mở cửa ra vào, mới hết giật mình vì tiếng điện thọai reo, và mới dám nhấc máy nghe xem có phải Bân gọi từ sở về. Những náo nức ban đầu khi Bân đưa cụ đi thăm Little Sài Gòn, thử thời vận ở Las Vegas, đã nhạt nhòa. Cụ bắt đầu cảm thấy hiu quạnh. Hàng ngày, hai vợ chồng Bân đi làm, và Tim đi học, chỉ còn mình cụ quanh quẩn trong nhà, xem mấy cuốn băng nhạc cũ, hoặc thơ thẩn ngoài sân nhìn hoa cỏ. Hàng xóm chẳng quen ai. Lâu lâu, có ông Ấn Độ già đi ngang nhà nhe hàm răng móm mém cười, nhưng hai người ngôn ngữ bất đồng, chẳng nói với nhau được một câu.
Buổi chiều, Tim đi học về là nó trốn biệt trong phòng, có hỏi nó câu nào thì cũng như không. Thằng bé ú ớ khoa chân, múa tay, hoặc chỉ toét miệng ra cười!
Bân thương bố nên dắt cụ đi bộ ra đường lớn, chỉ cách cho cụ đi xe buýt tới khu chợ VN để cụ đi dạo, và nhặt báo chợ về đọc cho đỡ buồn. Bân ghi số điện thoại nhà, điện thoại sở, đưa cho cụ và dặn dò:
– Bố cứ leo lên xe buýt, xuống phố chơi cho vui. Có lạc thì gọi điện thoại cho con, hoặc cứ ngồi trên xe buýt, cuối cùng xe cũng về đến chỗ cũ! Đừng sợ bố ạ.
Thấy Bân dặn dò mình như con nít, cụ Cầu vừa buồn cười, vừa tức:
– Có sợ cái ‘đếch’. Núi rừng Bắc-Việt tôi còn biết đường đi. Phố xá ở đây rộng rãi, đường trải nhựa, đi dễ như bỡn. Anh cứ để mặc tôi!
Cụ Cầu nói thế, nhưng rồi hai lần Bân phải lái xe tới đón cụ về. Lần thứ nhất, cụ nhởn nhơ đi bộ từ nhà ra đường lớn, rồi lang thang sao đó đi luôn lên xa lộ 680! Cụ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và mặc người cảnh sát nói gì cụ cứ lắc đầu, đưa cái ID card ra như thể là bị hỏi giấy tờ ở VN. Họ đành ‘bắt’ cụ về station, tìm thông dịch viên Việt Nam, lúc đó cụ mới đưa số điện thoại ra để cho họ gọi Bân đến đón cụ về.
Lần thứ hai, cụ ngồi trên xe buýt, nhưng quên chỗ xuống xe. Xe chạy tuốt lên đến tận Menlo Park, rồi ngừng lại, không chạy nữa vì cuối đường, và tài xế hết phiên! Cụ xuống xe, tìm điện thoại công cộng gọi cho Bân, nhưng không hiểu operator muốn nói gì nên đành chịu đứng đó, cứ thấy người da vàng nào là lên tiếng gọi “Ông ơi cho hỏi thăm” hoặc “Bà ơi cho hỏi thăm”. Mấy tiếng đồng hồ sau mới có một cô bé Việt Nam đi qua, giải thích cho cụ là cụ đã sang area code 650 rồi, chứ không còn ở vùng 408 nữa nên opeartor nhắc cụ bỏ thêm tiền mới gọi được. Cô gái giúp cụ gọi Bân và, về đến nhà, cụ cứ tấm tắc:
– Không biết con cái nhà ai mà tử tế thế. Lại không nhận cả tiền gọi điện thoại mình đưa trả.
Bân hỏi:
– Thế bố có hỏi tên và số điện thoại của cô ấy không để con gọi cám ơn.
Cụ Cầu cười:
– Sợ vãi đái nên chẳng nhớ gì!
Sau hai tai nạn đó, cụ Cầu hết muốn đi ‘giang hồ’ một mình. Bân sợ bố buồn nên xin nghỉ phép, đưa bố lên Seatle thăm người bạn già nhiều năm không gặp. Bác Bảo nằm liệt giường trong nhà già, bật khóc nức nở khi thấy bạn vào thăm. Cụ Cầu cũng rớt nước mắt nắm tay bạn:
– Cũng đến hơn chục năm rồi mới gặp lại bác. Nghe tin bác bị bệnh mà không ngờ đến nông nỗi này.
Bác Bảo cố cầm nước mắt:
– Khổ lắm bác ạ. Chỉ muốn chết cho nhẹ nợ.
– Giời bắt sao thì đành chịu vậy thôi. Thế các anh các chị ấy có vào thăm thường không?
– Có bác ạ. Cuối tuần nào chúng nó cũng thay nhau vào thăm. Ngày thường đứa nào cũng bận đi làm, đi học, chẳng có ai ra vô, chỉ có mấy bà y tá Mỹ đen lâu lâu vào lật mình như lật con nít ấy.
Bân và Phú, người con trai bác Bảo, bỏ ra ngoài để cho hai người bạn già nói chuyện tâm tình. Phú thở dài:
– Thế nào cụ cũng cho mình là bất hiếu. Nhưng không làm được gì hơn anh ạ. Tôi đã nghĩ đến chuyện đưa ba tôi về VN, nhờ một người họ hàng xa chăm sóc để cụ có người chuyện trò hàng ngày, thế nhưng vẫn không đành lòng vì xa xôi quá, chúng tôi làm sao mà thăm viếng thường xuyên. Đằng nào cũng khổ. Ông cụ nhà anh còn khoẻ quá, thân hình thẳng băng, và bước chân còn vững trãi.
Bân gật đầu:
Vâng. Bố tôi còn khoẻ, nhưng tuổi cũng đã cao. Chỉ là vấn đề thời gian. Trước sau gì rồi chúng ta cũng sẽ có cùng một vấn đề.
Cụ Cầu mắt đỏ hoe, câm nín trên đường về. Lâu lâu, cụ thở dài. Xe chạy qua một rừng thông cụ nói với con giọng buồn buồn:
Cảnh ở đây đẹp quá. Cứ như Đà Lạt ở Việt Nam mình. Thế nhưng cô đơn trong nhà già thì thật là đáng sợ. Cảnh đẹp mà làm gì, và cuộc đời đến lúc này còn có gì để tiếc thương.
Bân cũng không biết nói gì hơn, nghĩ thầm, không biết mai sau chuyện gì sẽ xảy ra cho bố mình và cho cả chính mình!
o0o
Cụ Cầu nhất định đòi về VN ngay, chứ không ở hết sáu tháng như dự trù. Cụ bảo vợ chồng Bân:
– Bố nóng ruột quá. Vẫn biết mẹ các con rất khỏe mạnh, nhưng đi lâu, bố chẳng yên tâm. Các con lấy chỗ máy bay cho bố về. Bố cũng đã thấy nước Mỹ. Ngày xưa, có bao giờ nghĩ rằng có ngày mình được đến chơi đất nước này. Bà nội con suốt đời không ra khỏi cổng làng. Bố như thế cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Bân nài nỉ mãi, nhưng cụ Cầu không thay đổi ý muốn, nên anh ta đành lòng đưa bố ra phi trường. Nhìn bố vẫy tay giã từ, Bân muốn khóc vì chẳng biết bao giờ mới gặp lại. Bân hứa với bố là sẽ về thăm nhà thường hơn, nhưng không biết là có giữ được lời vì cuộc sống quay cuồng trên đất nước người. Thằng Tim sống gần ông nội ba tháng nên cũng đã quen thân, chứ không còn xa lạ như lúc ban đầu. Khi cụ Cầu vuốt tóc nó giã từ, nó không còn né tránh, trái lại Tim vòng tay ôm cụ như nó thường hun bố mẹ mỗi lần đi đâu về.
– Good bye, Grand-Pa.
Tim đưa tay vẫy ông nội và, khi bóng cụ Cầu đã khuất sau cánh cửa phi trường, Tim hỏi Bân:
– Are we going to see Grand-Pa again?
Bân vuốt tóc con:
– Yes, son. We’ll see him again. Grand-Ma too.
Một tuần sau khi cụ Cầu ra về, Bân lại nhận được thư bố. Từ ngày cụ Cầu ra về, Bân cứ ngơ ngẩn buồn. Những ngày qua cha con gần gũi, Bân cảm thấy mình hiểu và yêu quí cha hơn. Hình như ông cụ đã đổi tính ít nhiều, không còn khó khăn như xưa, và có cái gì mơ hồ trong tình cảm của cụ mà Bân chưa nhìn ra.
Bân chậm trãi bóc lá thư. Bao giờ cũng vẫn vậy, thư trên giấy mỏng, nét chữ nắn nót như thể người viết để cả tâm hồn vào những dòng chữ.

Các con của bố,
Bố đã về tới Sài Gòn, nhưng hơi mệt vì đường xa nên hôm nay mới viết cho các con. Mẹ con đón bố ở phi trường, không ôm hôn như Mỹ, không cả cầm tay, nhưng nước mắt lưng tròng, đầy ắp ân tình. Bố mới đi có ba tháng, mà thấy như là đã xa mẹ con một đoạn đời.
Mẹ con cám ơn những món quà các con gửi. Vải vóc và bánh trái mẹ con đem biếu hàng xóm láng giềng, chỉ giữ lại mấy lọ dầu gió và hộp sâm, phòng khi trái gió, trở trời. Hàng xóm ở VN mình dù sao cũng thân thiết chứ không như người xa lạ ở chỗ các con.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Sống gần các con có vài tháng ở bên đó, nhưng bố đã hiểu các con nhiều hơn. Ngày xưa, có lẽ bố đã quá khe khắt với các con mà không biết là mình đã lỗi thời, ôm mãi những giá trị cổ điển của những ngày tháng cũ. Danh vọng làm khổ con người. Bố làm khổ bố, và cả con nữa, Bân, vì những ước mơ hão huyền cho giòng họ Nguyễn Hữu. Nghĩ lại, bố mới thấy những võng lọng vua ban cho tổ tiên cất dấu trong nhà từ đường ở quê nhà Sơn Tây không phải là những gì đáng hãnh diện trong khi đa số họ hàng nghèo đói, quanh quẩn trong mảnh đất khô cằn.
Các con tha phương, và cũng chẳng có danh vọng gì, nhưng dù sao, các con cũng có đời sống vật chất đầy đủ, và yên vui. Lẽ dĩ nhiên các con cũng có những băn khoăn, lo lắng về đời sống, nhưng đó không phải là những dằn vặt làm héo hon con người. Bố mừng cho các con, và cám ơn các con đã lo lắng cho bố mẹ vào lúc tuổi già.
Thấy tình cảnh bác Bảo, bố cũng cảm thương, nhưng thôi, cứ cho đó là số phận. Bố mẹ chọn nơi này để sống hết cuộc đời thay vì sang ở với các con như các con đã yêu cầu. Đất nước này dù sao cũng là quê nhà, có anh có em, có hàng xóm láng giềng, và dù cho có chân yếu, tay mềm thì cũng vẫn còn có người cho mình nương tựa lẫn nhau. Các con cứ yên tâm, đừng lo nghĩ cho bố mẹ lúc này.
À, còn điều này nữa. Thằng Tim không phải là đứa trẻ hư hỏng như bố nghĩ trước đây. Qua bên đó, bố mới biết là nó được nuôi dạy và lớn lên trong môi trường tự do nên hành động và cư xử phóng khoáng thế thôi, chứ thực ra, nó vẫn đầy tình cảm gia đình. Bố nghĩ lại những gì được dạy bảo như vòng tay thưa gửi, cúi đầu dạ thưa, chưa chắc đã là đường lối tốt. Bố không chắc, nhưng biết đâu lối giáo dục đó đã chẳng đưa đẩy con người vào vòng quỵ luỵ, dễ trở thành tay sai cho ngoại bang!
Bân con, bố chưa bao giờ khen con, cũng như ông nội không bao giờ khen bố, nhưng con cần biết là con không làm gì cho bố phải thất vọng hay buồn tủi đâu. Bố nói thế chắc là con cũng đã hiểu lòng bố lúc này.
Lúc nào rảnh, vợ chồng con về chơi với bố mẹ. Nhớ mang cả thằng Tim về, nghe con.
Bố của con,

Nguyễn Hữu Cầu.

Bân gấp lá thư, mắt mờ như muốn khóc.
– Bố ơi, có bao giờ con oán trách bố đâu, nếu con làm gì được cho bố vui lòng thì con cũng làm hết sức mình.
Thằng Tim ở trên lầu chạy xuống, hỏi:
Daddy, are you crying?
Bân lắc đầu, nói bằng tiếng Việt:
Không, có hạt bụi nào bay vào mắt bố đó thôi.

Trần Quang Thiệu‏

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »

Công Tử Vượt Biên


Sài Gòn , vào những năm 1977 , 1978 , nếu có ai lỡ lời nói hai chữ vượt biên thì mọi người đều e dè , sợ sệt . Chỉ cần lỡ lời vài ba câu có dính líu đến hai chữ vượt biên là có thể đi tù cải tạo mút mùa . Vậy mà y lại có cái biệt danh thật là ngộ nghĩnh và hết sức ngang tàng : Công Tử Vượt Biên .

Tôi biết y rất rành , rành hơn bất cứ người bạn thân thiết nào của y , là vì một lý do rất đơn giản . Nhà tôi là chỗ trú chân đầu tiên của y mỗi lần vượt biên thất bại , trốn về Sài Gòn chờ móc nối chuyến kế . Mỗi lần như vậy , nhiệm vụ của tôi là đạp xe tới nhà y báo cho gia đình chuyến đi lại thất bại , cần thêm tiền chi tiêu và không quên nhắn thêm câu : Ba Má , tìm cho con mối khác .

Mỗi lần thất bại như vậy , tôi lại càng thấy rõ sự trưởng thành và quyết tâm của y . Bẩy lần vượt biên không làm y nản chí mà trái lại càng làm y thêm kinh nghiệm và mưu lược hơn . Trong cuộc đời tôi , y là người bạn tôi mến phục và học hỏi được nhiều nhất . Người bạn mà có lẽ khó kiếm được trong lúc sống dưới chế độ mà « cái cột đèn nếu có chân nó cũng vượt biên » . Tôi không biết được tình bạn ngày xưa đối xử giữa Bá-Nha và Tử-Kỳ như thế nào . Riêng tôi , lúc nào khi nghĩ tới y tôi đều nhủ thầm . Một trong những cái may mắn nhất trong đời tôi là được quen y . Tôi gặp y vào năm cuối cùng của trung học , trường Nguyễn Bá Tòng , Gia Định , lớp 12C1 .

Tôi còn nhớ ngày đầu tiên gặp y trong sân trường Nguyễn Bá Tòng . Y là học sinh duy nhất chuyển từ trường tư Lasan Taberd tới . Chúng tôi thì ngược lại , phần lớn chuyển từ trường công Hồ Ngọc Cẩn qua . Sáu chúng tôi , băng con nhà nghèo hiếu học , đang đứng chơi trước cửa lớp , thì thấy y . Y tuy tới một mình nhưng rất là tự nhiên và tự tin . Trong khi đó băng chúng tôi thì lại e dè , ngại ngùng khi đối mặt . Có lẽ là vì tại Tường , một người bạn trong đám chúng tôi khi thấy y , nói nhỏ :
– Cái thằng đó học sinh trường Tây . Ông già nó giầu có tiếng trong xóm tao đó . Chị tao ngày xưa làm thợ dệt cho nhà nó . Nó con út , số bọc điều . Giầu tiền xài không hết . Tao nghe nói nhà nó bị kiểm kê tài sản đến hai ba lượt rồi . Vậy mà nó vẫn phây phây như thường .

Minh , người học sinh giỏi nhất trong đám tôi nhìn Tường hỏi :

– Thế nó học cừ không ?
– Tao không biết . Nhưng mà mấy thằng Tây con chắc chẳng học hành gì đâu . Tối ngày đi chọc gái rồi mút xúc-cù-là .

Tôi nhìn y từ trên xuống dưới để cố tìm xem có chất xúc-cù-là trong người y như Tường nói không . Cảm tưởng đầu tiên của tôi về y là giữa hai chúng tôi là hai thái cực . Y dáng dong dỏng cao , mái tóc bồng bềnh , quăn tự nhiên . So với chiều cao của người Việt Nam , thì y bỏ xa . Tôi thì ngược lại . Bạn bè thường gọi là « Lùn Mã Tử » . Tóc tôi lại thưa , loại rễ tre , xỉa thẳng đứng lên trời . Y đẻ trong gia đình giầu có , nhà tôi thì lại thiếu ăn hàng ngày . Tôi con cả , y con út . Có lẽ chúng tôi chỉ có một điều giống nhau . Học tầm thường , chả có gì đặc biệt . Tôi nhủ thầm như vậy trước khi bước vào lớp học đầu tiên của niên khoá 1978-1979 .


Không những tôi lầm , mà cả Tường cũng lầm luôn . Sự học vấn và kiến thức của y làm ngạc nhiên không những chúng tôi mà cả thầy chủ nhiệm Vật Lý Nguyễn Văn Lành . Tôi còn nhớ thầy có nói : « Em rất có khiếu về Vật Lý . Sau này có cơ hội nhớ theo ngành này . Em nhé » . Chỉ trong hai tuần lễ học , bọn chúng tôi phần lớn chuyển từ Hồ Ngọc Cẩn qua , đã phải bầu y nắm một chức vụ quan trọng nhất trong lớp , đó là trưởng ban học tập .

Sở dĩ chức này quan trọng là vì trưởng lớp do chi đoàn chỉ định , trưởng ban học tập do học sinh bầu . Trưởng ban học tập phải là tay cự phách . Nó đòi hỏi không những thầy cô tin yêu mà anh em nể phục . Trưởng lớp phải là chi đoàn hay cảm tình đoàn . Trưởng ban học tập không cần nhưng phải là tay chiến , dám đối mặt với cả thầy cô lẫn chi đoàn . Y không những không chi đoàn mà còn lại là thành phần chế độ bất dung- tư sản mại bản .

Có lẽ y chiếm được hết cảm tình của lớp chúng tôi qua cách đối xử đặc biệt đầu tiên với cô giáo Hoá-Học Nguyễn Thị Hoàng-Hoa , Phó Chủ Nhiệm lớp . Sau một tuần lễ học , cô khảo bài bốn học sinh trong lớp . Tất cả đều không thuộc bài . Cô tức giận đỏ mặt , hét ầm ầm . Cả lớp im lặng . Y bỗng nhiên đưa tay lên xin phát biểu . Cô gật đầu . Y nói :
– Thưa cô , chúng em không thuộc bài thật là không đúng . Nhưng thái độ của cô đối xử với chúng em cũng không được hoàn toàn đúng lắm .

Cả bọn chúng tôi đều trố mắt nhìn y như một con quái vật . Cô nổi tiếng là dữ nhất trường . Thầy giám hiệu cũng phải kiêng . Cô đẹp , giỏi , hơi lớn tuổi , chưa lập gia đình nên … chẳng sợ ai . Tôi nhớ : mặt cô đang từ đỏ chuyển sang tái xanh . Cô vừa nói vừa thở :
– Em nói rõ tôi nghe chỗ nào tôi đối xử không đúng ?

Y ung dung trả lời :
– Chúng em không thuộc bài , cô la thì đúng nhưng không vì vậy mà cô tức giận , nhăn nhó . Cô sẽ mau già , đau tim , chết sớm . Chúng em không thuộc bài , cô có quyền la nhưng không có quyền tự hành hạ thân thể mình như vậy ! ! !

Cô nhìn y một lúc rồi không nhịn được phải phì cười . Cả lớp chúng tôi phá lên cười theo . Đời cô từ đó cũng thay đổi nhiều vì học được một nhân sinh quan mới từ y .

Y học giỏi không chỉ một vài môn mà đặc biệt ở tất cả các môn học . Từ Toán , Lý , Hoá , cho đến Luận Văn , Anh Văn , Sinh Vật , và cả … Chính Trị nữa . Thầy Khải dân Tập Kết , chuyên dậy môn Chính Trị Học , có lần ngạc nhiên hỏi : Kiến thức em về bác Hồ thật là uyên bác . Có nhiều chuyện về bác không hiểu em đọc từ đâu mà thầy cũng chưa từng nghe tới bao giờ .

Sau này , Tường có kể tôi nghe y nói y lấy những lời nói của những danh nhân và lãnh tụ nổi tiếng trên Thế Giới rồi cứ việc sửa George Washington , Charles De Gaule … thành Giặc Hồ nói .

Không mời mà y tự nhiên coi như đã nhập vào băng chúng tôi . Không những thế mà thái độ y như đứng đầu băng chỉ huy anh em . Minh ức lắm . Vì y bị giáng chức , xuống thứ 2 . Minh có biệt danh là Đại Tướng vì tên họ là Dương Văn Minh . Một trong những Đại Tướng có quyết định rất lớn đến sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam . Phạm Tất Đồng tự Thủ Tướng đứng thứ 3 . Kế tới là Tường Kiếm Hiệp , Khánh Khổ , Sáu Luận và tôi « Lùn Mã Tử » .


Chúng tôi thường gọi y là Công Tử . Sau vài lần vượt biên hụt , đổi thành Công Tử Vượt Biên . Biệt danh của Sáu Luận sau bị Công Tử đổi thành « Luận Bò » . Lần đầu nghe , tôi thích lắm vì nghĩ Công Tử giống tôi , cho sức học của tôi hơn nó . Công Tử giải thích : Không đâu , nó vẫn hơn mày , nhưng tại nó cứ hay cãi bậy với tao . Nó biết sai vẫn cãi cối . Nên là con bò rừng .

Luận Bò hình như rất thích cái biệt danh này hơn . Được có tiếng hay tranh cãi với Công Tử là một vinh hạnh . Tôi buồn bã trở lại vị thứ bẩy của mình . Tuy đứng cuối trong nhóm nhưng vẫn là thứ bẩy của lớp . Tôi vẫn đứng trên nhiều người lắm , trên cả thằng chi đoàn trưởng lớp . Công Tử , dĩ nhiên đứng đầu lớp .

Một lần Tường Kiếm Hiệp khám phá ra trường Lê Văn Duyệt có một cô học sinh rất mi nhon , hay đạp xe ngang qua trường tôi đi học . Hôm đó cả bọn ở lại trễ chờ . Cô bé tuyệt vời , nhỏ nhắn , xinh đẹp thật vừa xứng với kích thước … của tôi .

Tôi đang ngây ngất ngắm thì bỗng Công Tử phán : Con nhỏ này , tưởng gì chứ cho tao 3 ngày là tao sẽ ẵm em đi học ngay . Cả bọn nhao lên , chửi bới um sùm . Công Tử nói : Tụi bay dám cá không , nếu tao làm được thì từ đây sẽ là đại ca nhóm . Còn không , bao tụi mày một chầu . Đi đâu ăn cũng được . Chúng tôi đồng ý .

Ba ngày sau , Công Tử đạp xe chở nàng ngang qua trường chúng tôi . Tôi nhìn nàng ôm eo ếch của Công Tử thật tự nhiên và tình tứ ! ! Phải chi trong đời tôi được một lần đạp xe chở nàng đi học nhỉ ? Từ đó tất cả đều phục tùng tuy rằng sau này khám phá ra cô bé là em họ của Công Tử ! ! !

Chuyến vượt biên đầu tiên của Công Tử vào cuối Tháng Mười Một năm đó . Chúng tôi được tin , hùn tiền , đãi Công Tử bữa tiệc cuối cùng tại vườn nhà Tường Kiếm Hiệp vào chiều Thứ Bảy . Sở dĩ nhà Tường được chọn là vì ở cuối xóm dưới . Chung quanh nhà là ruộng rau muống . chúng tôi tha hồ nói năng phản động tới chế độ mà không sợ sự soi mói của mấy tên Công An Phường .

Căn nhà Tường nhỏ 3 gian , vá víu bằng đủ mọi loại vật liệu kiếm được . Mái nửa lá nửa tôn , thỉnh thoảng chen vài viên ngói mẻ , vách chỗ gạch chỗ đất , có chỗ vá cả bằng miếng các tông bự . Tường sống với ba và chị . Ba Tường và Tường chuyên môn cắt , bó rau muống để chị Tường đem bán ngoài chợ nhỏ . Trước khi mất nước , chị Tường làm thợ dệt cho nhà Công Tử . Ba Tường phải kiêm luôn việc bán rau . Giữa nhà đặt một cái bàn nước cọc cạch , mấy cái ghế xiêu vẹo và hai tấm phản hai bên để ngủ và ngơi . Đặc biệt chung quanh vách nhà là những giá sách với đầy áp sách … kiếm hiệp . Bố con Tường mê đọc chuyện kiếm hiệp và … cắt rau muống . Đặc biệt dù nghèo cũng không muớn , mà chỉ mua chuyện về đóng thành sách , trưng khắp nhà .

Hôm đó chúng tôi đãi Công Tử bằng một con gà luộc , một đĩa dồi chó và ba chai bia quốc doanh . Thủ Tướng nói phải cho Công Tử ăn món quê hương để suốt đời nhớ … bọn Việt Cộng ! ! !

Công Tử ở lại nhà Tường mãi tới đêm khuya để nói chuyện với ba Tường . Tôi tưởng họ đang bàn chuyện đất nước hoặc kinh tế Thế Giới . Sau nghe mới biết họ đang nói chuyện … kiếm hiệp ! !

Tối Chủ Nhật hôm sau , Công Tử đáp chuyến xe lửa đi Nha Trang rồi xuống ghe ra khơi . Ngày Thứ Hai kế là ngày dài nhất của bọn chúng tôi . Ngồi nhìn chỗ trống của Công Tử trong lớp , bọn chúng tôi lúc bồi hồi , lúc phập phồng , lúc lo lắng . Chúng tôi phải báo cáo láo với Thầy Lành là Công Tử bị ốm nặng .

Qua sáng Thứ Năm , Công Tử lù lù bước vào lớp , cả bọn nửa buồn nửa vui . Buồn vì Công Tử đi chưa được , vui vì lại gặp được người mình ưa thích .

Giờ ra chơi , cả bọn bu lại hỏi . Công Tử kể :
– Tao xuống ghe nhỏ để ra ghe lớn . Đợi tới gần sáng chả thấy ghe mẹ gì mới biết bị lừa , nên về thăm tụi mày lại .

Tháng sau , Công Tử lại từ gỉa chúng tôi để đi Phan Thiết . Mặc dù tài chánh eo hẹp , chúng tôi cũng cố gắng tổ chức lại một bữa tiệc tiễn tại vườn nhà Tường . Lần này thiếu món dồi vì nghe nói thịt chó ăn xui .

Hình như thịt gà cũng xui nên Công Tử lại trở về đi học lại . Hai lần sau đó , chúng tôi chỉ đãi uống chứ không ăn . Khánh Khổ than với tôi : Khổ quá , Công Tử chưa tới Mỹ thì mình đã phải khai phá sản . Lúc nào y cũng có thể than khổ .

Lần thứ 5 Công Tử đi ở Vũng-Tầu thì bị bắt và đưa vào Bình-Ba cải tạo lao động . Chúng tôi không thể giấu được trường mãi . Lúc đó thầy trò trong cả trường mới biết tới một nhân vật có biệt danh « Công Tử Vượt Biên » .

Chi đoàn họp liên tục , phê bình , kiểm điểm sáng tối . Bọn chúng tôi thủ khẩu như bình . Huyền thoại về Công Tử được mọi người mọi lớp truyền tụng hơn cả huyền thoại về … Hồ Chí Minh .

Mỹ Ngọc , hoa khôi của trường tuyên bố sẵn sàng ra đi với Công Tử bất cứ lúc nào dù là đi … kinh tế mới . Bích Huyền , Bích Ca , hoa hậu song sinh đều đồng ý cùng nâng một khăn , sửa một áo nếu Công Tử có … sức . Thầy chủ nhiệm bị giám hiệu gọi lên khiển trách vì để Công Tử nghỉ ốm nhiều mà không báo cáo . Cô Hồng-Hoa thỉnh thoảng trong lúc giảng bài đi xuống ngồi vào chỗ trống của Công Tử , đăm chiêu nghĩ ngợi thương nhớ về một người học trò ưu tú của mình .

Bốn tháng sau , bố mẹ Công Tử tìm được mối chạy 5 cây vàng để Công An thị xã Vũng-Tầu lén chở Công Tử về Sài Gòn .

Sợ phường khóm gây rắc rối cho nhà mình , Công Tử tới nhà tôi trú ngụ vì bố tôi là Tổ Trưởng Tổ Dân Phố có thể biết trước ngày nào phường khóm tới khám nhà .

Công Tử , tôi và đứa em kế chia nhau căn gác lửng cuối nhà . Căn gác nhỏ chỉ kê vừa 2 cái bàn học và trải cái chiếu gai . Vậy mà Công Tử ở đó hơn nửa năm .

Trong năm đó Công Tử Vượt Biên hụt 2 lần nữa . Lần sau nhờ có kinh nghiệm nên không bị tó . Tôi trở thành người đưa tin giữa Công Tử và gia đình . Mỗi lần sang nhà Công Tử nhắn tin , tôi đều ghé lại nhà Luận Bò để cho tin tới mọi người trong nhóm .

Đối diện nhà Luận có một bông hoa biết nói mà Luận theo đuổi từ hồi mặt mới mọc mụn . Luận thường tự hào gọi nàng là Thiên Hạ Đệ Nhất Niên .

Niên thường ngồi cạnh cửa sổ nhà để xếp hàng mà nhà Niên dệt mướn . Thỉnh thoảng cuồng chân , nàng đi dạo vài vòng trước nhà . Lúc nào Niên cũng mặc áo vàng in bông cúc nổi và quần xa tanh bóng đen . Tôi thắc mắc , Luận thật tình trả lời : « Hỏi Công Tử đó . Tao tốn cả đời theo đuổi không thành . Công Tử chỉ nhập nhóm ca với em mấy ngày là em mê tít . Mẹ kiếp , giọng Công Tử Bắc kỳ the thé vậy mà mắt em cứ lim dim , phê giọng trầm và ấm ! ! » .

Đó là lần đầu tiên tôi mới hiểu tại sao Luận hay so đo , ghen tương với Công Tử .

Niên dáng thanh và cao . Nếu mang guốc cao gót , tôi chắc Luận chỉ đứng tới tai Niên . Công Tử đứng với Niên thật là xứng đôi , như Rồng với Phượng . Niên đứng với Luận như Phượng với … Ngưu . Tôi chắc chính Luận cũng biết vậy . Khi tôi về là Luận vội chạy qua nhà Niên để cho tin và cũng để … chiêm người đẹp .

Chiều hôm ấy tôi cố tình nói chuyện về Luận rồi đưa đẩy tới Niên . Tôi có hỏi sao Công Tử không tìm cách liên lạc với Niên . Công Tử trả lời :
– Mày nghĩ tao đang nghỉ Hè hay sao mà thăm với viếng . Việt Cộng biết chuyện giữa tao và Niên . Tao chắc nó bám Niên kỹ lắm . Nếu tao gặp Niên là sẽ gặp … Bác ngay . Cuộc đời có những cái mình phải hiểu để sống . Số tao sinh ra là để vượt biên , đi Mỹ học , số Niên là ở đây ca hát … xây dựng chủ nghĩa . Hai đường đi hai nẻo , phải dứt khoát thì mới làm được cái mình muốn .

Rồi Công Tử kể tôi nghe chuyện tình với Niên . Câu chuyện tình đầy tính chất … xã hội chủ nghĩa .

Mùa Hè năm trước , tất cả các học sinh trong phường phải đăng bạ sinh hoạt đoàn thể . Như thường lệ Công Tử ra trình diện trễ 2 ngày . Tên Việt Cộng uỷ viên thanh niên thấy gai mắt , cho Công Tử đứng chờ chơi . Đang lúc đó thì Niên tới phàn nàn là tổ ca của nàng thiếu Nam , chỉ toàn mấy em gái choai choai mười hai mười ba thôi . Công Tử kể : « Tên uỷ viên nghe xong , sực nhớ tới tao , nó đưa hàm răng vàng ố , ám khói thuốc lào ra cười hô hố chỉ tao nói :
– Đồng chí xung phong vô tổ ca ngồi kia kìa . Tao đứng dậy tính phản đối , thấy Niên quay qua nhìn , tao gật đầu ngay .

Cũng như mọi chàng trai đất Việt , lần đầu tiên gặp người đẹp , Công Tử bỡ ngỡ nói một câu hết sức … lãng mạn cách mạng . Dân Việt Nam ăn toàn bo bo không , sao lại có người như Niên , xinh đẹp như vậy . Niên đỏ mặt , đổi đề tài , hỏi nhà Công Tử ở chỗ nào trong phường để nàng biết , tới gọi đi họp khi cần . Công Tử kể tiếp :
– Tao chỉ nhà , Niên không tin nói nhà tao chỉ đến bà chị kế tao là hết . Tao nói ông gìa anh mới nhận anh làm con nuôi tối qua .

Hôm sau Niên đi hỏi dò sự thật trong xóm mới biết Công Tử là con Út trong nhà , ít khi ra đường nên phần lớn mọi người không biết tới . Gặp Công Tử , Niên hỏi :
– Anh làm gì mà tối ngày cứ ru rú ở trong nhà không ?

Công Tử đáp :
– Tại chưa gặp Niên nên không muốn ra ngoài , bây giờ thì lúc nào cũng nằm ngoài đường .

Từ đó phường 7 , quận Phú-Nhuận có chuyện tình để mọi người kháo cho qua những tháng ngày vô vị dưới chế độ ba khoan . Khoan sống , khoan hưởng và khoan yêu . Họ nhìn Công Tử và Niên để ước sao cho cuộc tình được êm đẹp và thành tựu . Hình như Công Tử và Niên cũng thấy . Họ lúc nào cũng quyến luyến và ước mơ .

Mùa Hè chấm dứt , chị phụ trách sinh hoạt phường , tổ ca , Quách thị Cẩm-Niên đặt bút phê vào sổ sinh hoạt của Công Tử : tiên tiến vượt chỉ tiêu . Tên uỷ viên than niên phường gầm gừ phản đối ngầm .

Một ngày cuối Đông năm 1979 , Công Tử đưa tiền cho đứa em gái tôi dặn ra chợ Phú Nhuận mua sôi và thịt vịt . Hôm đó nhà chúng tôi được thưởng thức một món mà mọi người ưa thích . Tôi có linh cảm xa nhau thật nhiều . Tối hôm đó Công Tử nói : Bố mẹ tao đóng tiền bán chính thức xong rồi . Ngày mai em họ tao tới đón tao xuống Rạch Gía .

Công Tử đưa tôi xem thẻ căn cước mới có tên Tầu là Lý Phu Trình . Tôi nói : Công Tử Vượt Biên giờ trở thành Cái Nị Dượt Piên . Chúng tôi cười nói nhiều tới khuya .

Ba tháng sau , không thấy tin tức gì của Công Tử , tôi ghé qua nhà hỏi . Bà mẹ Bắc Kỳ , thật Việt Nam , thấy tôi bà ôm mừng khóc : Nó đã tới được Mã Lai rồi con ạ . Tôi từ giả vội để chạy qua nhà Luận báo tin .

Mọi lần thì khác , nhưng lần này vừa thấy chiếc xe đạp Mỹ mà Công Tử để lại cho tôi đậu trước nhà Luận , Niên có linh cảm tin mừng , chạy vội băng qua đường .

Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt Niên . Niên có gương mặt trái soan . Cặp mắt không to không nhỏ , rất đi đôi với khuôn mặt . Mũi Niên hơi cao , có sóng , không tẹt như mũi người Việt Nam . Mái tóc dài ngang lưng , không dầy không thưa nhưng đen nhánh như hai hàng lông mi của nàng . Da Niên trắng tựa như người sinh đẻ ở Gia Nã Đại . Mái tóc đen dài , gương mặt trái soan , làn da trắng , chiếc áo vàng in hình bông cúc nổi , cái quần xa tanh bóng đen , những thứ ấy tương xứng , đối chọi làm Niên đã đẹp càng đẹp thêm . Không chỉ đẹp , dáng Niên cao cao trông sang và quyền quý . Phải nói Niên là một kỳ công tuyệt mỹ của tạo hoá . Bây giờ tôi mới hiểu hết câu nói đầu tiên , ngớ ngẩn của Công Tử khi gặp Niên . Dân Việt Nam ăn toàn bo bo không , sao lại có người như Niên , xinh đẹp như vậy .

Niên bước vào nhà Luận , căn nhà tự nhiên như sáng hẳn ra . Không hiểu từ mái tóc Niên hay từ thân thể Niên , cũng có thể từ sự tưởng tượng của tôi , tôi như thấy một mùi thơm ngọt dịu thoảng qua . Niên không để ý gì cả , chỉ hỏi vội :
– Có tin gì của ảnh , chưa anh ?

Tôi gật đầu đáp :
– Tới Mã Lai rồi .

Chưa đầy một phút sau , hai dòng nước mắt vui mừng đã chảy dài trên gương mặt xinh đẹp của Niên . Tôi cảm động cũng không cầm được nước mắt . Luận Bò cũng khóc . Chúng tôi nhìn nhau , khóc vui mừng thật dễ dàng .

Chín tháng sau tôi mới nhận được lá thư đầu tiên của Công Tử gửi từ một nơi có cái tên lạ hoắc của tiểu bang Texas : College Station .

Thủ Tướng gật gù giải thích :
– Thì đúng rồi , Công Tử phải ở chỗ những người giỏi của nước Mỹ . College Station là chỗ của những người ít nhất phải có bằng Đại Học ở .

Chúng tôi đều đồng ý .

Tôi mang thư qua nhà Công Tử khoe . Hai ông bà nhìn tôi một lúc rồi khẽ nói :
– Hai bác có chuyện muốn nói với cháu . Trước khi nó đi , hai bác có đóng thêm một chỗ , phòng nếu đi không xong sẽ có mối khác cho nó . Lúc nó đi có nói nếu trót lọt thì để dành cho cháu để cám ơn gia đình cháu đã giúp nó . Tiền Bác đã đóng rồi , lấy về cũng không được . Cháu về thưa với Bố Mẹ , rồi sang cho Hai Bác hay .

Trên đường về , tôi bàng hoàng như người bị say sóng . Bố tôi nghe xong nói :
– Trời Phật thương gia đình mình rồi con ơi . Cơ hội ngàn vàng con đừng bỏ . Con phải đi để cứu các em con và cứu cả bố mẹ thoát khỏi chế độ Cộng Sản này … Con đi Bố chỉ mất chức … Tổ Trưởng là cùng . Chức cái quái gì , toàn là làm không công cho tụi nó không . Đã vậy chúng con phê bình Bố là không quản lý tốt .

Hai tuần sau , tầu tôi cập bến Mã Lai . Tôi cũng được chuyển qua đảo Pulau Bidong như Công Tử .

Vì thuộc diện chờ nước Mỹ hốt rác nên tôi ở đảo gần 2 năm . Sau khi bị từ chối bởi Úc , Pháp , Ý và Thuỵ Sĩ , tôi mới được Mỹ hốt . Tôi tới Houston vào cuối Đông năm 1982 . Trời năm đó lạnh và u ám .

Công Tử ra đón tôi ở phi trường . Vẫn phong thái và kiểu nói của năm xưa , tôi thấy trời đất chuyển ấm và sáng dần :
– Lùn Mã Tử , tao trốn mày gần nửa vòng trái đất , vậy mà mày cũng bám theo . Làm sao tao có thể dứt mày được đây ?

Tôi trả lời :
– Khánh Khổ nói số mày đẻ bọc điều , sinh ra để sống trong nhung lụa . Số tao với nó là số khổ , do đó tao phải bám sát mày . Chỉ cần một tí cái bọc điều của mày , là hưởng suốt đời không hết .

Đúng như Đại Tướng đoán trước , chương trình học 4 năm của Đại Học Mỹ , Công Tử chỉ tốn 3 năm hơn . Tôi vào trường được hơn 1 năm , Công Tử tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí và chuyển lên Fort Worth làm cho một hãng máy bay quốc phòng nổi tiếng .

Ngày tôi ra trường , Công Tử lái xe về mừng . Gặp tôi , Công Tử thành thật :
– Tao tính mua tặng mày một món quà thật lớn . Nhưng tuần sau tao xong Cao Học , mày lại phải trả nợ , mua đồ mừng tao . Do đó đổi ý không mua gì cả . Mày mới ra trường chưa có nhiều tiền , chơi cái trò tư bản này không xong đâu .

Tôi có hỏi Công Tử có tiếp tục học lên Tiến Sĩ không ? Công Tử trả lời :
– Phải ngưng một thời gian , ba má tao nói ngưng học , đi lấy vợ học mới … thông ra thêm . Ông bà cũng già rồi , tao tính về thăm một chuyến , tiện thể tính bề gia thất .

Ngập ngừng một lúc tôi mới nói Công Tử một điều mà tôi đã giấu hơn 6 năm nay :
– Niên đã lấy chồng lâu rồi , chắc giờ con cũng đã lớn .

Lần đầu tiên trong cuộc đời , tôi thấy mặt Công Tử đổi sắc . Công Tử nhìn tôi một lúc như muốn hỏi điều gì , nhưng rồi thôi , chỉ quay đi nhìn về một hướng xa xa .

Tôi hiểu Công Tử muốn hỏi gì nên khẽ đáp :
– Luận Bò .

Lê Như Đức
Houston – Đầu Đông 2000

lequyen
Posts: 283
Joined: Sun May 22, 2011 6:22 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by lequyen »

Image

Uống Cà Phê Tháng Tư

Trần Mộng Tú

Ta ngồi một mình
ly cà phê cạn
lòng như tháng tư
đứt ra từng đoạn



Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm hay sao!

Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu. Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù lòa.

Tháng tư của bốn mươi sáu năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được

Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.

Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy lạc lõng lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình. Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình lạc lõng ngay chính trên quê mình.

Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.

Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.

Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương


Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop. Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe khẻ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở cùa người ngòi ở bàn gần mình.

Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết trang mạng của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu súng đang nhả đạn.Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh… Tất cả hiện ra trên khung hình nhỏ.

Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.

Bốn mươi sáu năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:

Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.

Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.

Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.

Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.

Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; Sợ phải xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh sách tự vận của các cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan. Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.

Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần...

Bốn mươi sáu năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc…

Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.


Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản. Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.

Anh ạ! Tháng Tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về.


Trần Mộng Tú

User avatar
dauden
Posts: 575
Joined: Mon Aug 24, 2009 6:09 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by dauden »

Cây Khế Ngày Xưa
LTS: Trong những số báo trước, Sàigòn Times đã hân hạnh giới thiệu cùng qúy độc giả hai bài ký của nhà văn Phan Lạc Tiếp. Trong số báo tuần này, SGT xin trân trọng giới thiệu một truyện ngắn của ông, nhan đề Cây Khế Ngày Xưa, vừa được ông ưu ái gửi cho sau khi ông trở lại Hoa Kỳ. Truyện Cây Khế Ngày Xưa, được ông sáng tác vào năm 1999, nghĩa là hơn 30 năm sau ngày ông viết bài ký Cây Na. Nhưng đúng như nhận xét của nhà văn Võ Phiến, “Đọc ký của ông, dễ nghĩ đến truyện; và khi đọc truyện của ông nhiều lần tôi lờ mờ nghĩ đến ký...”, quả thực truyện Cây Khế Ngày Xưa “ngồn ngộn chất liệu sống” được tác giả thêu dệt một cách tài tình, giản dị và trong sáng. Đọc truyện, người đọc vừa cảm động lại vừa ngạc nhiên khi thấy hình ảnh quê nhà, kỷ niệm ngày xưa được tái tạo một cách chân thành, đơn sơ, nhưng sao muôn phần thắm thiết... Đọc truyện của ông, người đọc, nhất là những người Việt xa quê, đều rưng rưng niềm xúc cảm, nhớ lại những bóng hình, những kỷ niệm của ngày xưa... để rồi nhận thấy, trong cái “ngày xưa” của tác giả, thấp thoáng có cả cái “ngày xưa” của chính mình... Ngày xưa, khi còn bé bỏng sau lũy tre làng, ai ai mà chẳng khao khát được đi xa, được đến những bến bờ hoang lạ, những thành phố sầm uất... Nhưng rồi lớn lên, khi lịch sử nghiêng ngửa, cuộc đời run rủi, ta được đi xa, được đến những nơi đô hội, lúc đó, “cúi mái đầu sương điểm”, ta mới nhận ra không ở đâu trên trái đất này có những đường nét quyến rũ, muôn phần thân thương, đáng yêu, bằng ở quê nhà... Chân thành cảm ơn nhà văn Phan Lạc Tiếp, một người đã thể hiện tuyệt vời tâm hồn đôn hậu và tấm lòng hoài cổ dành cho người xưa, quê cũ, qua truyện ngắn Cây Khế Ngày Xưa; và sau đây, xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn của ông cùng qúy độc giả.

* * *

Mẹ tôi sinh ra tôi năm trước, năm sau mẹ tôi lại sinh em bé. Sữa mẹ chỉ đủ cho em bé, nên tôi phải ăn nước cơm thay sữa. Khi tôi lên ba mẹ tôi lại sinh em bé nữa, nên nhà neo quá. Mẹ tôi nhờ Bác Đồ Gái cho chị Đan ra “đỡ tay đỡ chân cho thím”. Chị Đan hơn tôi vừa một giáp. Lúc tôi lên ba thì chị Đan đã mười lăm. Từ lúc có chị, hầu như lúc nào tôi cũng ở bên cạnh chị. Chị cho tôi ăn, thay quần áo và tối đến hai chị em đắp chăn kín chùm đầu.

Những đêm trời không có trăng, bầu trời đầy sao lấp lánh. Chị đưa tôi ra sân chỉ cho tôi hình ông Thần Nông lưng cong một dãy ngôi sao, và có hai cái giải mũ cũng là hai giải sao nhưng mờ nhạt cao vút lên trời. Ông Thần Nông lúc đầu hôm còn ngồi đó, đến khuya đã cúi xuống, chị bảo “ông Thần Nông đi cấy đấy”. Tôi nhìn quanh bầu trời, sao bát ngát, chị bảo “mỗi ngôi sao cầm tinh cho một con người”. Lâu lâu có một ngôi sao đổi ngôi, bay loè ra thành một vệt dài, chị bảo “thế là có một người mới mất đấy”. Ôi chao, sao nhiều quá đếm chả nổi, thì chị bảo cách đếm: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng…...” Tôi đếm như thế, thả hồn mình vào bầu trời bát ngát, cao rộng rồi chìm vào giấc ngủ. Nhiều hôm trời chuyển mưa, có khi có bão, sấm chớp ầm ầm, tôi sợ lắm, nhất là mẹ tôi lại đi chợ vắng nhà. Nằm trong chăn, nhìn qua cửa sổ, bầu trời vần vũ, tối đen, tôi thắc mắc không biết những ông sao bây giờ ở đâu. Những lúc như thế chị vào nằm cạnh tôi cho tôi đỡ sợ và chị hát, giọng hát ngọt ngào bát ngát:

“Đêm qua chớp bể mưa nguồn
Hỡi người tri kỷ (a) có buồn hay (a) không"”...

Nghe chị hát, tâm hồn tôi trở nên yên ổn và tôi chìm vào giấc ngủ hồi nào không hay. Những hôm trời nắng, chị lấy cơm nguội với tôm khô kho khế, đem ra gốc cây khế cho tôi ăn. Cơm nguội bùi, tôm ngọt đậm, các lát khế chua chua. Tôi chạy nhảy tung tăng, chị bưng bát cơm chạy theo tôi. Có khi chị ngồi trên hòn đá dưới gốc cây khế, hoa khế tím rơi đầy trên nền đất mịn. Chị nhìn lên cây khế, cành khế gió thổi xôn xao, chị lại hát:

“Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót (a) lòng mày khế ơi...”

Có khi chị lấy cái sào dài khoèo quả khế chín vàng ở trên cành cao cho tôi ăn. Tôi ăn một tị là chán. Chị xé từng cánh khế, chấm muối ớt ăn thật là ngon. Chị xít xoa, đôi mắt long lanh và có khi chảy cả nước mắt, mà chị vẫn cười.

Tháng tám đến, mẹ tôi mua cho tôi một ông tiến sĩ giấy, loại vừa vừa, mặt vẽ bằng giấy nhưng có vạt áo dài xoè ra, hai tay là hai vòng giấy xun xun vòng trước ngực. Tôi bày ông tiến sĩ vào cái mâm chõng bằng tre. Các em gái tôi đứa thì được cái đèn con thiềm thừ, đứa thì được cái đèn con cá, đôi khi còn có cả một đàn con giống bằng bột nhuộm màu xanh, đỏ. Mắt các con giống là những hột cườm. Đẹp thì có đẹp, nhưng tôi không thích các thứ đó. Tôi thích cái tàn, cái tán như lũ trẻ con hàng xóm, cắm quanh cái kiệu bát cống có trạm những đầu rồng. Nhưng nhà tôi nghèo, nhưng thứ đó đắt lắm. Để bù lại, chị Đan mua thêm cho tôi một quả bưởi đào, lột vỏ xoè ra như một bông sen, bày bên những quả hồng ngâm xanh ngắt. Đến hôm rằm, lúc trăng sáng nhất, trẻ con nhà giầu đem kiệu ra rước ở Ngã Ba. Tiếng trống rước to nhỏ rập rình như ngày mở hội làng. Những đèn nến, đèn lồng thắp sáng lung linh. Các kiệu ấy trở nên đẹp lạ lùng. Vì ngoài ông tiến sĩ to, mặt là cái vỏ trứng gà điểm nhãn sắc sảo, môi son, áo mão bằng trang kim lóng lánh, để giữa những tàn, lọng, bát bửu hệt như ở sân đình những ngày tế thần hoàng. Chị Đan dẫn tôi đi xem. Chị bảo: “Ai học giỏi, thi đỗ tiến sĩ thì được hàng tổng, hàng huyện đón rước như thế đấy. Em cố mà học cho giỏi, đỗ cho cao cho chị mừng...” Rồi chị kể chuyện hai vợ chồng anh học trò nghèo qua câu hát:

“Sáng giăng giải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách (chứ) bên nàng quay tơ.”

* * *

Năm tôi lên sáu thì chị về nhà chị. Tôi tấm tức, khóc hoài vì nhớ chị. Bây giờ tôi ngủ chung với hai đứa em, đắp chung một cái chăn bông rộng mêng mông như che kín được cả trời. Buổi đầu hôm ba anh em bò từ cuối giường lên đầu giường, đùa vui, cười rúc rích. Khi đã mệt và bắt đầu buồn ngủ, tôi lại nhớ chị quá. Quanh tôi như trống trải, thiếu vắng thế nào. Tôi bồi hồi nhớ chị. Tôi nhớ những lời chị hát, nhớ mùi bồ kết, mùi chanh toả ra thơm ngây ngất từ làn tóc chị.... Tôi như " chột" đi khi không có chị.

Ngày Tết đến, đêm ba mươi trời tối đen như đặc lại. Tôi đi từ nhà trên xuống bếp như ôm cả cái náo nức chờ đón mùa xuân vào lòng. Mẹ tôi ngồi bên bếp lửa. Ánh lửa bập bùng. Có thể đó là một nồi cá chép kho cùng với thịt để ăn với bánh chưng. Có thể đó là nồi măng khô ninh với chân giò. Trên gác bếp có treo mấy cái giò mỡ, kẹp chặt trong những thanh tre dài. Mỡ thấm cả ra ngoài lá chuối xanh, đọng lại trắng ngần. Trên nhà trên, đèn nến lung linh, ánh lên các nét chữ sơn son thiếp vàng ở những bức đại tự. Cảnh con hạc soải cánh bay đi, còn ngoảnh cổ lại để nhìn cành tùng khẳng khiu trơ vơ chờ đợi, trên nền câu đối vải. Thầy tôi trong áo the, khăn xếp, đi đi, lại lại, thấp những tuần hương lên khắp các bàn thờ. Những lúc như thế, giờ của năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến thì chị Đan đến. Chị mặc áo dài tứ thân, thắt bao hoa lý. Chị bưng cái mâm gỗ có đậy lồng bàn. Chị đặt mâm lễ vật trước bàn thờ, mở lồng bàn ra. Đó là một mâm chè lam. Những thỏi chè vuông dài màu xám có rắc một làn bột bỏng màu trắng ở xung quanh. Chị lễ phép thưa: “Mẹ cháu bảo để đem chút lễ vật đến cúng ông bà bên ngoại...” Thầy tôi cười: “Bác Đồ cẩn thận quá. Năm nào cũng nhớ đến các cụ...” Chị nhìn tôi, cười và bảo: “Mai, à sang năm mới chứ, em nhớ đến xông đất nhà chị nhá...” Tôi chỉ đợi có thế, tôi mừng là chị chẳng bao giờ quên tôi. Chị về. Những bước chân chị bước trên lối ngõ có lờ mờ hình cái cung vẽ bằng vôi trắng mà anh cả tôi mới vẽ hồi chiều. Đêm đen thẫm bưng lấy mắt, lạnh ngọt. Tiếng những cái khánh đất va vào nhau kêu cung kinh ở trên ngọn cây nêu dựng ở sát tường hoa gần cổng, những âm thanh rời rạc, khô cứng như phát ra từ một cõi nào mơ hồ, huyền hoặc.
Sáng mùng một đầu năm, sau khi lễ ông bà ở nhà và đã được thầy mẹ tôi mừng tuổi, tôi muốn đến nhà chị Đan ngay. Anh cả tôi dắt đi. Tôi mặc cái áo dài mới. Cái áo gọi là mới, chứ thực ra cái áo này anh tôi đã mặc rồi, đã cũ, mẹ tôi “soạn” lại, cắt ngắn đi cho tôi mặc và mới được nhuộm thâm lại ngày trong năm. Quần chúc bâu trắng sột soạt, đi đôi guốc, bước lóc cóc trên đường gạch, tôi đến nhà chị. Dọc đường gặp biết bao nhiêu là người, ai cũng mặc quần áo mới, có người đã bắt đầu đi lễ ông vải. Có những anh lớn hơn tôi độ vài ba tuổi cắp cái cháp đen đựng trầu cau, theo người lớn đi lễ các nhà thân thuộc. Ngoài chùa vẫn còn lặng lẽ. Tiếng chuông êm ả chuyền đi. Qua góc ao đình, nơi có cây bàng nằm lả ngọn ra mé nước, rẽ trái là lối vào nhà chị. Dinh cơ của các ông bá, ông lý ở phía trong, tường gạch cao ngất.

Nhà chị, nhà tranh nằm ngay phía ngoài, đầu con ngõ. Hai cánh cổng có dán hai bức tranh thiên bồng vẽ hai ông tướng mặt đỏ, râu dài, cầm gươm canh cửa. Tôi chưa gọi chị đã mở cổng đón tôi. Anh tôi dứng đằng sau. Chị bảo: “Thôi chú về đi, lát nữa tôi đem trả em...” Anh tôi cười rồi về. Tôi xà vào lòng chị. Chị mặc áo mới, yếm mới. Tóc chị thơm thật là thơm. Chị hôn lên má tôi. Rồi chị vạch túi áo cánh trắng ra, đưa cho tôi một đồng xu đồng mới tinh, đỏ au. Tôi sướng lắm, cầm vào lòng bàn tay thật chắc. Chị lại hôn tôi nữa rồi mới dắt tôi vào nhà, lên nhà trên mừng tuổi bác Đồ Gái. Bác Đồ Gái ngồi sẵn trên phản ở gian giữa, bác cười: “Lớn rồi đấy, sắp đi học rồi đấy cháu nhỉ... Cháu tôi lên mấy rồi nào...” Bác Đồ Gái mừng tuổi cho tôi một đồng chinh màu vàng mỏng mảnh. Cám ơn Bác Đồ xong, tôi lại chạy ra với chị. Chị nhìn tôi, ôi đôi mắt chị sao mà âu yếm thế. Tôi xà vào lòng chị và quên mất đồng xu, đồng chinh tôi đã buông ra, rơi ở đâu rồi. Chị vuốt tóc tôi. Chị nói: “Em được nhiều tiền mừng tuổi quá nhỉ...” Lúc đó tôi mới hoảng hốt nhớ đến các đồng tiền mừng tuổi, không biết tôi đã để đâu rồi. Tôi khóc thì chị cười. Chị xòe bàn tay ra, đồng xu và đồng chinh mừng tuổi nằm giữa lòng bàn tay chị. Chị lấy giải yếm lau nước mắt cho tôi, rồi chị lấy giải rút quần của tôi xâu các đồng tiền, buộc lại. Buông tà áo dài của tôi xuống, chị kéo tôi vào lòng chị. Hơi ấm hoà trong mùi tóc của chị thơm nồng bay tỏa bao phủ quanh tôi, chị nhẹ nhàng ghì cằm chị vào đầu tôi và chị đọc những câu thơ mà sau này tôi mới biết là của Nguyễn Bính:

...Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giầy
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày...

Lời thơ dịu dàng, lãng đãng ru tôi vào giấc ngủ. Khi tôi tỉnh dậy, bác Đồ Gái nói đùa: “Con trai lớn rồi đấy. Sắp lên bảy rồi. Tuổi cắp sách đến trường rồi.”

“Vâng, năm nay tôi lên bảy. Tôi đã lớn. Tôi không chơi đùa lêu lổng như những năm còn bé...” Đó cũng là đoạn văn đầu tiên, sau khi tôi đã học hết vần bằng, vần trắc trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Đồng Ấu.

Buổi học đầu tiên của tôi chị Đan cũng đưa tôi đi. Tôi học ở nhà chú Phương, con cụ lang. Chú Phương mặc quần áo trắng hồ lơ, tóc chải ngược về phía sau và cài lại bằng một vòng giây thép uốn. Chú đi guốc, gót cân đỏ chót. Ngồi bên cạnh tôi là Cái Gái. Cái Gái đã lớn lắm, cao bằng chị Đan, là con Cô Thầy. Cái Gái bị tật từ nhỏ, chân đi khòng khoèo, tay cầm bút thật là vụng, viết mãi chẳng được một chữ, nước rãi còn chảy ra nhoè cả mặt chữ. Cái Gái phải gọi tôi bằng anh, vì họ hàng sao đó, “bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi”. Cái Gái gọi tôi bằng anh ngọt sớt. Học được mấy hôm tôi đã viết đủ các mặt chữ cái kể cả “chữ in” cũng như “chữ viết”. Và chỉ độ một tháng tôi đã học hết vần bằng và vần trắc, tôi đã đọc được các bài ngắn mà bài đầu tiên là bài “Hôm nay tôi đi học...” Dưới bài bao giờ cũng có câu cách ngôn như: Ăn vóc học hay.

Cái Gái lúc ấy vẫn còn lết bết với mấy chữ n, m mà mực tím nhoè nhoẹt vì nước rãi. Hàng ngày tôi phải viết hộ Cái Gái cho hết trang. Bù lại Cái Gái bao giờ cũng trả công cho tôi rất hậu. Khi thì một quả chuối tây, khi thì một cái kẹo bột. Và chẳng bao lâu tôi đã viết ám tả được rồi. Tôi thích lắm, tôi viết các câu thơ của Nguyễn Bính vào một cuốn sổ nhỏ. Các câu thơ này trước đó tôi đã thuộc lòng qua các câu hát của chị Đan và của anh tôi nữa.

Cô Thầy là mẹ của Cái Gái. Cô Thầy làm nghề Thầy Bói, hai mắt mù cả. Nhà cô ở tận Ngõ Đồng Mát, cuối con đường gạch, lối đi ra đồng. Cô rất là đông khách. Nhất là các ngày ba, ngày bảy là ngày phiên chợ Nủa, khách phải ngồi đợi ở sân. Nhà cô tuy là nhà gianh nhưng cất cũng đẹp, có nhà trên, nhà ngang và nhà bếp như hình chữ U mà các cụ bảo là hình chữ Môn. Gian giữa để bàn thờ ông vải. Gian bên có hình con cá hoá long mầu tím vẽ thẳng vào tường. Những vảy cá xanh tím ẩn hiện trong lớp thuỷ ba. Gần nóc nhà là bàn thờ Thổ Công, cái mũ giấy óng ánh trang kim. Bên cạnh là bàn thờ Ngũ Hổ, có hình vẽ năm con hổ năm mầu thật là dữ ngồi quanh cái hộp vuông như cái hòm ấn vua ban. Sát bàn thờ chính là cái ghế ngựa, nơi cô làm lễ và tiếp khách. Tuy là ở nhà nhưng Cô Thầy ăn mặc rất chỉnh tề, áo cánh bên trong, áo dài bên ngoài, cô còn thắt lưng dài to bản mầu tím.
Bắt đầu buổi xem bói bao giờ cô cũng ôm theo cái cháp đen. Mở cháp ra, cô bày những đồng tiền xám xịt mà người ta bảo đó là những đồng tiền lấy từ trong mả người chết, gọi là tiền cải mả, nên rất linh thiêng. Cô sờ lên mặt những đồng tiền, xếp úp các đồng tiền lại. Rồi cô cười và nói với thân chủ:



- Nào cho tôi biết ngày sinh tháng đẻ nào"...



Người khách trịnh trọng xưng tên tuổi. Cô lấy ngón tay cái bấm lên những đốt tay, giương đôi mắt chỉ có lòng trắng như nhìn vào một cõi xa xăm huyền bí nào. Nếu là người trẻ, thường thì cô cười và nói: “Cô đây xem về tình duyên phải không"...” Người khách thưa “vâng”. Cô đốt một nén hương, đặt ngang miệng đĩa đựng các đồng tiền cải mả và tiền đặt quẻ, lâm râm khấn “...thất thập nhị hiền thu nhập tiền nhang..." Cô hạ đĩa tiền xuống, lấy những ngón tay sần sùi bốc những đồng tiền trên đĩa, dơ cao rồi buông xuống đĩa. Cô nói: “Sơ vi đơn”. Mỗi lần như thế gọi là một lần gieo quẻ. Tùy theo những đồng tiền xấp, ngửa, ba lần gieo là một quẻ. Căn cứ vào đó mà cô đoán quẻ cho thân chủ. Với những cô còn trẻ, mới lấy chồng, tôi thường thấy cô nói: “Số cô trắc trở. Tưởng là chuột sa chĩnh gạo lại hoá ra chuột sa chĩnh nước đây, phải không cô...” Thân chủ chỉ biết “vâng”. Cô Thầy lại nói: “Thật là vui từ trong cửa vui ra, buồn từ ngã bảy ngã ba buồn về đấy cô ạ.”


Nếu là người già cả xem gia đạo, Cô Thầy cũng gieo quẻ như trên, nhưng thường là “Động mả ông tam đại đây bà ạ. Mà như là có cái rễ cây nó đâm vào ngôi mộ của cụ nhà đây...” Người đàn bà thân chủ chỉ còn biết “lạy thánh mớ bái, xin Thầy chỉ bảo cho.” Lúc ấy thường thì Cô Thầy bảo thí chủ ra ngoài bờ rậu, ngoảnh mặt về phía đông, ngắt một cành lá đem vào cho Cô xem lại. Cô đếm những chiếc lá để định quẻ và thí chủ phải đặt quẻ lần nữa. Vì động mả rất là quan trọng, nên Cô thường nói: “Phải lễ Phật trước, lễ quỷ thần sau”. Người xem bói chỉ còn biết nghe theo lời Cô dạy, sửa một cái lễ khá cầu kỳ, “Phải lấy đủ đất đình, đất chùa, đất chợ, đất ngã ba và đất giếng; nước vang hoà với nước vôi; chín cái kim làm xương. Tất cả trộn vào nhau, nặn thành hình con rùa, đem táng ở đầu ngôi mộ ông tam đại. Nước vang hòa với nước vôi rảy quanh mả một nửa, còn một nửa hắt qua mái nhà gian giữa...” Ngoài ra còn phải sửa một cái lễ: “mâm trên sôi chuối, vàng tốt một trăm, mũ vàng một chiếc; mâm thứ hai cơm canh...” Sợ gia chủ không nhớ được, Cô thường bảo “Phải viết ra, và có thằng cháu tôi đây, nó học giỏi lắm, viết cho bà...” Thường thì Cô bảo lấy cái bao hương xé ra, lộn mặt trong, viết các lời chỉ dẫn, và bao giờ tôi cũng đươc 5 xu. Đó là những đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được trong đời. 5 xu của những năm đầu 40 mua được mấy cái bánh tẻ. Khi khách đã về, Cô thường nói: “Biết khi nào Cái Gái mới viết được thông thạo như cháu.”
Từ khi tôi đi học thì chị Đan không còn ở nhà tôi nữa. Bác Đồ gái ra bảo với mẹ tôi rằng: “Thím cho cháu nó về. Em bé cũng đã lớn, mà cháu nó cũng gần 20 rồi đấy, thì cũng phải có thời giờ cho người ta trông vào...” Chị Đan về nhà chị. Chị giúp Bác Đồ Gái dệt cửi. Những hôm tan học sớm, tôi ra nhà chị. Thấy tôi bao giờ chị cũng mỉm cười, ngừng tay thoi và thế nào cũng có cái gì cho tôi ăn. Khi thì một quả hồng ngâm, khi thì bát cơm nguội ăn tép kho. Ăn xong tôi đọc cho chị nghe các bài học thuộc lòng mới nhất, như:


Xuân đi học coi người hớn hở
Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng
Hỏi rằng sao đã vội vàng
Trống chưa nghe đánh đến tràng làm chi
Thôi hãy gượm đừng đi anh ạ
Này con khăng tôi đã sẵn rồi...


Tôi lớn dần lên với các bài học ấy và tôi cũng dần xa chị. Chị chỉ ra nhà tôi “làm giúp” khi nhà tôi có giỗ ông, giỗ bà mà thôi. Năm ấy, năm Ất Dậu 1945, đêm mùng 9 tháng 3, có tiếng súng lốp bốp từ miệt trên tỉnh vọng về. Sáng ra người ta kháo nhau rằng Nhật nó đảo chính Tây rồi. Ở Ngã Ba, gia đình ông Tây Ký Rượu đã đóng cửa trốn đi đâu mất tăm. Rồi máy bay hai mình của Đồng Minh bay trên bầu trời cao vút, thật nhanh. Nhanh gấp mấy lần những chiếc máy bay của Tây bốn cánh vuông vức kêu ò oè, bay chậm rì mãi chưa qua khỏi vùng trời làng tôi. Lúc ấy tôi vẫn hay ra nhà chị Đan, nhưng có khi không gặp chị. Hỏi Bác Đồ Gái, bác bảo: “Ấy độ này cô ấy cứ ăn rồi lại đi. Bạn bè thậm thà thâm thụt, bác cũng chả biết...”


Một hôm trước phiên chợ Nủa, chị ra nhà tôi chơi, lúc về chị nói nhỏ cho tôi nghe: “Mai em ra Ngã Ba, có cái này hay lắm...” Tôi hỏi gặng chị thì chị bảo: “Cứ ra Ngã Ba thì sẽ biết.” Hôm chợ Nủa, lúc phiên chợ bắt đầu đông, từ phía Cổng Chợ Bò có một đoàn người đi đến. Dẫn đầu là một người vác một lá cờ đỏ sao vàng thật lớn. Theo sau là đoàn người, toàn là trai trẻ, và có cả đàn bà nữa, họ ăn măc thật gọn ghẽ. Người thì vác con dao phạt bờ, người thì vác cái giáo, cái mác. Mặt ai cũng hằm hằm rất là dữ. Vừa đi họ vừa dơ những nắm đấm lên cao và hô vang những câu:


- Đả đảo phát xít Nhật!
- Đả đảo lũ tay sai phong kiến!...


Và đi cuối cùng có một anh tay cầm khẩu súng lục, mắt sáng quắc. Hình như anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi và tôi sợ. Đoàn người đi qua mặt tôi thật nhanh, đông không biết bao nhiêu mà kể. Họ đi qua chợ. Chợ đang đông, muốn vỡ. Nhưng họ không rẽ vào chợ. Họ đi tuốt ra Cổng Giếng, rồi tụ lại ở Gò Gai, hô vang những khẩu hiệu tại đó, rồi họ tản đi rất nhanh, biến đi đâu tài quá. Chợ lại họp như thường. Các vị chức sắc trong làng lo lắng. Có người bảo: “Phải đi cáo quan huyện. Chứ để thế này có ngày oan gia...” Từ đó trong làng người ta bàn tán, người này “ở trong bóng tối”, người kia được “móc nối”, toàn những tiếng thật là mới mẻ.


Rồi những người đi buôn từ ngoài tỉnh về bảo: “Ở ngoài tỉnh Mặt Trận đã cướp chính quyền rồi...” Cả làng rộn rã. Một buổi tối, thay vì mõ rao, là một người cầm loa, đến những đầu ngõ lúc nửa đêm, bắc loa gọi: “Alô, alô. Ngày mai, từ sáng sớm, tất cả nam, phụ, lão, ấu tập họp tại sân đình để đi biểu tình...” Đó là một đêm thật lạ. Cả làng như cùng thức dậy với tiếng loa. Mới sáng sớm, mọi người ra đình đã thấy có một lá cờ đỏ sao vàng, buộc vào một cáo sào dài, dựng ở giữa sân cỏ. Cả làng tụ lại. Có mấy anh thanh niên, nghe đâu từ trên huyện về, có súng lục giắt ở cạp quần. Các thanh niên này mời mọi người xếp hàng tề chỉnh, sẵn sàng gậy gộc, giáo mác để lên huyện cướp chính quyền. Trong đám thanh niên đứng ra hô hào ấy, tôi thấy có cả chị Đan. Chị Đan của tôi. Người đã bế ẵm tôi, đã hát ru tôi những ngày tấm bé. Chị buộc tóc sau gáy. Quần túm lại. Nhưng oai nhất và khiếp nhất là chị cuốn quanh bụng một cái bao lớn, và giắt ở đó một khẩu súng lục, lòi cái chuôi súng ra ngoài. Chị leo lên cái bàn, dơ nắm đấm lên cao và hô “bài phong, phản đế”. Tôi nhìn theo chị, vừa thấy xa lạ, vừa có phần hãnh diện với những đứa nhỏ đứng xung quanh: “Chị Đan của tao đấy”. Khi đoàn người xuất hành, chị nhìn thấy tôi, mắt chị như dịu lại một khắc và như mỉm cười, rồi chị khuất đi rất nhanh theo đoàn người đi cướp chính quyền.


Từ đó nhà Bác Đồ Gái chỉ có mình bác. Có người bảo: “Cái Đan nó làm to thế mai kia tha hồ mà nhờ.” Bác Đồ Gái chỉ cười và đáp: “Ối chao, nhờ đâu chả thấy, chỉ thấy mấy tăm mất hút. Lâu lâu vác xác về, cả bè cả lũ, ăn hại chứ báu gì...” Từ đó cuộc sống mới đã cuốn hút chị Đan của tôi và những thanh niên cùng lứa tuổi đi khỏi lũy tre làng. Chị từ giã cây khế, quên các bài ca dao tình tứ thuở nào. Chị đi theo “đời sống mới để giành cơm áo”. Cũng từ đó tôi lớn dần. Cuộc chiến bùng lên với bao nhiêu oan nghiệt, khủng khiếp. Cuộc chiến đã hút tôi ra khỏi xóm làng, đưa tôi vào Nam, đã đem tôi tới những vùng biển rộng. Những đêm trăng sáng, biển lặng, ở trên con tàu chiến lênh đênh, nhìn về núi non, đất nước, lòng tôi chất chứa những bồi hồi. Tôi nhớ những người thân, nhớ con đường cũ, gốc đa xưa, tôi nhớ đến chị Đan, nhớ đến Cái Gái, nhớ những người bạn một thời thơ ấu cũ, nhớ cây khế của một thuở nào xa... Rồi cuộc chiến đột ngột tàn và đem tôi ra khỏi đất nước với bao cay đắng, ngậm ngùi. Những năm sau 75, tôi sót xa tự hỏi: “Càng lúc ta càng xa đất nước, làng xưa. Có bao giờ trở lại" Chắc là vô vọng...”


Vậy mà tháng tư năm 94, tôi đã trở về quê cũ, làng xưa. Sau bao nhiêu ngậm ngùi tái ngộ, tôi có hỏi đến Cái Gái, mới hay “Ồ Cái Gái, con Cô Thầy đó hả, chết lâu rồi”. Tôi hỏi đến chị Đan thì “Bà ấy đã mất. Chúng em có chuyển quà của bác cho con gái bà ấy”. Mỗi người nói một câu về chị Đan. Cuộc đời của chị được chắp nối lại như một huyền thoại đã xa, đầy bùi ngùi, chua sót: “Ấy lúc đầu là thế, mọi người cuồn cuộn ra đi. Cô Đan tham gia cách mạng từ trong bóng tối, rồi thoát ly, bỏ làng đi và đi mãi. Chỉ những lúc đau ốm mới tìm về. Bà Đồ đã già, bao năm còm cõi có một mình một bóng, lại phải cặm cụi săn sóc cô ấy. Ăn trả bữa được ít ngày rồi cô ấy lại ra đi. Nói ra dài lắm. Tình duyên thì trắc trở. Cũng buồn. Xưa cô ấy vui là thế, ở tuổi già thì lặng lẽ, ốm đau. Đôi lúc nhớ đến những ngày còn trẻ, bà ấy vẫn thường nhớ đến và hỏi thăm bác. Vâng, những lúc như thế bà ấy thường lặng im, rớm lệ... Đất nước hoà bình được mấy năm thì bà ấy được nghỉ hưu. Cũng chả ai biết rõ trước đó bà ấy đã làm gì, ở đâu. Nghèo khó còn hơn ngày xưa. Sống trong lặng lẽ được mấy năm thì bà ấy mất, tính ra cũng đã trên mười năm rồi. Tiếc rằng khi bác gửi quà biếu bà ấy thì bà đã không còn nữa để mừng vui, để nhận...”


Trong nỗi bùi ngùi của ngày đoàn tụ, của nhớ thương, xúc động, tôi luôn phải tự nhủ: “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh...” Bình tĩnh, nhờ đó tôi đã vượt được nhiều xúc đông như muốn vỡ oà ra. Nhưng đêm chót ở quê nhà, trước khi cả nhà đi ngủ, các ngọn đèn đã được tắt, bầu trời bỗng hiện ra tối đen. Những con đom đóm ở đâu hiện về, lập loè bên những ngọn tre. Tôi như vừa được vứt từ bầu trời xuống, tôi như vừa sống lại, thấy lại những đêm như thế này từ trên năm mươi năm cũ, những năm tôi còn bé. Bầu trời chi chít những vì sao. Những vì sao lấp lánh, như chào hỏi, như mời, như gọi, như chớp mắt ngậm ngùi. Tôi bàng hoàng vô hạn. Một làn gió lạnh tạt qua, lòng tôi se sắt. Tôi vẫn nhìn lên bầu trời. Hình ông Thần Nông hiện ra đang “cúi đầu cấy lúa”. Giải mũ dài là hai hàng ngôi sao bao đời vẫn y như thế. Tôi nhớ chị Đan quá. Tôi cứ nhìn mãi lên bầu trời. Thấp thoáng có một ngôi sao ánh lên, sa xuống rồi tắt. Một ngôi sao đổi ngôi. Có phải một người nào vừa mới mất" Lúc chị Đan mất, có ngôi sao nào rơi lạc như thế không"...


Sáng hôm sau theo chương trình đã định, chúng tôi phải sẵn sàng để có xe từ Hà Nội về đón. Nỗi vui đoàn tụ chưa qua, nỗi buồn chia xa đã đến. Trên xe chật ních những người. Khi xe bắt đầu chạy, tôi bỗng thấy trong xe có thoảng mùi thơm của tóc ai mới gội. Mùi bồ kết tan trong mùi chanh phảng phất đâu đây. Tôi nhớ chị Đan quá. Xe chạy qua cánh đồng làng, ven đường có giải đất chi chít những nấm mộ. Những cọng cỏ xanh trên chóp mộ ngả nghiêng đùa đùa theo làn gió thổi, tiệp với mầu lúa xanh bát ngát đang thì con gái. Trong các nấm mộ ấy, nấm mộ nào là mộ chị Đan, nơi chị đã lặng lẽ gửi tấm xương tàn. Tôi lặng đi, buồn. Nỗi buồn chỉ một mình tôi biết. Ngoài trời nắng vẫn nhạt nhòa mênh mang. Tôi nói nhỏ, nói thầm, lời nói bay tan theo làn gió thổi: “Chị Đan, em xin lỗi chị. Bao nhiêu năm chị em mình xa nhau, nhớ nhau. Vậy mà từ ngàn trùng xa cách em về thăm quê, em đã không đến thăm mộ chị được...” Nước mắt tôi ứ lên đầy mắt. Trong không gian bỗng như vang động tiếng hát của chị Đan. Chị đang hát trong làn gió mát dưới gốc cây khế của bao năm nào đã xa, quá xa. Chị cười mà hai hàng lệ chảy:

Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua sót lòng mày khế ơi!

Chị Đan ơi!...

Phan lạc Tiếp

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »

Con gái rượu
Vũ Thế Thành

Như con hổ già trong gánh xiếc bỗng nhiên nhớ rừng, người già thường cô đơn, dễ tủi. Họ cần sự cảm thông và chia sẻ, mỏng manh trước những bất cần. Tiện nghi vật chất hờ hững. Thế giới tâm linh trở nên gần gũi hơn…
Tôi gặp cha con họ trong một quán phở gần nhà thờ Ba Chuông, hồi năm 80 hay 81 gì đó.

Tối đó trời mưa. Đi chơi về khuya, tôi táp vào quá phở. Quán vắng khách, chỉ có 2 người: ông già và cô gái. Họ đang uống rượu, thủ thỉ nói chuyện. Hơi lạ!

Tô phở đã kết thúc mà mưa chưa dứt. Sàigòn mưa tháng bảy nhì nhằng bất kể lúc nào, tối khuya hay nửa đêm về sáng cũng chẳng chừa.

“Chú em qua đây làm một ly cho ấm bụng”, ông già nâng ly nói vói qua. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh. Mưa rả rích thế này, đang thèm rượu, mà uống một mình, cay ai chịu nổi. Không khách sáo, tôi bước qua bàn ông và cạn ly.

Ông chỉ qua cô gái với chút hãnh diện: “Đây là con gái tôi. Nó làm ở tổ hợp đan lát. Hôm nay nó lãnh lương, rủ bố đi nhậu”. Cô gái trạc hai mươi, tóc ngắn, có da thịt, trông có vẻ quyết đoán.

Ông tự giới thiệu là họa sĩ. Trước năm 75, có triển lãm tranh ở nhiều nơi, kiếm tiền rủng rỉnh, tay chơi một thời. Bây giờ chẳng ai mua tranh, đi vẽ thuê panô, áp phích qua ngày. Tôi dốt hội họa bẩm sinh, dốt thời đi học, và bây giờ vẫn dốt, nên không hào hứng lắm với chuyện tranh ảnh, nhưng nghe ông kể cuộc đời lãng tử của ông, chuyện văn nghệ sĩ Sàigòn cũng thấy vui vui. Chuyện vãn tôi đoán ông khoảng ngoài năm mươi, tóc dài chấm vai, thưa, nhiều sợi bạc, mắt hõm sâu, tinh anh, mặt gầy, xương xẩu, áo sơ mi đuôi tôm rộng thùng thình. Trông ông có vẻ già hơn tuổi nhiều.

Tô mồi gân bò còn hơi đầy, nhưng xị rượu gần cạn. Có vẻ như cha con họ uống nhiều, nói nhiều và nghe nhiều hơn là ăn. Tôi gọi thêm xị rượu: “ Xin phép chú, từ chai này cháu tính, mời chú và cô em…”. Ông xua tay, hơi to giọng: “ Chú em gọi rượu được, tính tiền được, nhưng không được gọi tôi bằng chú, phải gọi là anh, mình là dân nghệ sĩ…”. Ông già chơi thế mới…nghiệt. Tôi hơn cô gái chừng năm, sáu tuổi chứ nhiêu, lỡ cỡ… Tôi rót rượu mời ông, mời cô gái. Cô chỉ nhấp môi, lí nhí : “ Cám ơn…chú”. Lỡ cỡ là ở chỗ đó! Ông già cười ha hả: “ Con này nó chỉ đá mồi”.

Rượu ngấm qua bờ môi… Bỗng nhiên ông đứng dậy, lảo đảo, một tay vịn mép bàn, ông hát:

“Ngày mai lênh đênh trên sông Hương.

Theo gió mơ hồ hồn về đâu?

Sóng sầu dâng theo bao năm tháng.

Ngóng về đường lối cũ tìm em…”

Tiếng hát không cần nhịp, lúc ngắn lúc dài, khi hát khi nói, lúc nhỏ lúc to,… Lưng ông còng, khom người xuống, tay phải áp vào tim, dang ra diễn đạt, trông ông còng đến thảm hại.

Ông hát không cần người nghe, ông hát cho chính ông, hát để trang trải nỗi lòng. Rồi ông thẳng người lên:

“ Thương em thì thương rất nhiều,

mà duyên kiếp lỡ làng rồi.

Xa em, lòng anh muốn nói….”.

Giọng ông khàn, gào lên như tiếng con gà bị cắt tiết. Tôi nhìn sang cô gái, mắt cô chăm chăm nhìn ông. Tôi buột miệng:“Mẹ đâu?”. Mắt cô vẫn không rời cha, môi mím chặt: “Bỏ đi rồi!”. Tôi thấy khóe mắt cô có giọt nước…

Những năm tháng đó, lòng người đổ vỡ nhiều, kẻ đi người ở, tâm trạng lao đao, nhân tình thế thái. Giọng hát của ông họa sĩ dở nhất trên đời, nhưng nghe ông hát, nhìn ông diễn mới cảm ra được số phận thế nào. Tiếng hát không đi vào lòng người thì đi về đâu? Ánh mắt của cô con gái nhìn cha đã ám ảnh tôi cả một đoạn đường dài.

Cách đây không lâu, tôi có đọc một truyện ngắn của một cô gái kể về cha mình. Cha cô là một người đàn ông có trách nhiệm, nghiêm khắc, thương con. Từ ngày qua Mỹ, ông làm quần quật để lo cho các con ăn học. Mục tiêu của ông là thế, rồi dựng vợ gả chồng. Mẹ cô tiếng Anh kém, nên chỉ ở nhà nội trợ. Đến tuổi, mẹ cô lãnh tiền già, ba cô lãnh lương hưu. Mẹ cô bỗng đổi tính đổi nết, ăn nói ngang ngược, suy diễn lung tung. Ba cô trở nên ít nói, suốt ngày trong phòng, niềm vui duy nhất là đứa cháu ngoại. Rồi một hôm, cha cô bỏ đi, để lại mảnh giấy nhắn, đừng lo cho ông và cũng đừng tìm ông. Cô lo lắng, dọ hỏi khắp nơi. Không ai biết tin về ông.

Một hôm cô nhận được thiệp mừng sinh nhật của ông gửi cho con gái cô. Ông nhớ cháu ngoại. Thư không có địa chỉ người gửi. Cô xin nghỉ phép, lần theo dấu bưu điện tìm cha. Hai cha con gặp nhau ở quán cà phê. Cô mời ông về nhà để cô chăm sóc, nhưng ông từ chối. Ông cho biết ông đang trông cửa hàng cho một người bạn học. Bà ta đã góa chồng, hiện ở với đứa con gái trạc tuổi cô. Cả hai đều quý ông, và ông cảm thấy thoải mái khi ở đó. Trông cha cô khỏe ra, vui hơn, cô thấy yên tâm.

Vài năm sau, ông về thăm nhà, ngày hôm sau bị đột quỵ, rồi mất ở bệnh viện vài ngày sau đó. Mẹ cô cũng than khóc như bất cứ bà vợ mất chồng nào khác. Ở nghĩa trang, cô thấy xa xa, hai người phụ nữ mặc đồ đen, một già, một trung niên, lặng lẽ đứng dưới gốc cây, một trong hai người đang dùng khăn chậm nước mắt. Linh cảm cho cô biết họ là ai. Cô tiến về phía họ, định nói lời cám ơn vì đã chăm sóc cha cô những năm tháng cuối đời, nhưng cả hai đã quay lưng bước ra khỏi nghĩa trang. Cô cảm thấy có điều gì đó ân hận và nuối tiếc…

Chuyện chấm dứt ở đây.

Cô thương cha, cô muốn phụng dưỡng, chăm lo ăn uống, sức khỏe cho ông. Cô cũng hiểu cha cô buồn bực, khổ tâm vì những lời nói ngang ngược của mẹ. Là con, cô cảm thấy mình khó xử. Cô muốn cha vui. Nhưng liệu cô có hiểu, người già như cha cô, khi xong nghĩa vụ với con cái, thường có xu hướng quay về với quá khứ, với những ước mơ thời trẻ, không phải để thực hiện hay nuối tiếc, mà để sống với nó, đắm chìm với nó như một níu kéo mà phần lớn cuộc đời, vì cơm áo gạo tiền, vì trách nhiệm với gia đình họ không dám phiêu lưu.

Người già thấm thía số phận hơn người trẻ. Lý trí và cảm xúc, cố chấp và khoan dung, tự tôn và nhẫn nhục. Yếu tố mâu thuẫn trong những cặp đôi này đan xen vào nhau, vế sau thường trội hơn vế trước.

Như con hổ già trong gánh xiếc bỗng nhiên nhớ rừng, người già thường cô đơn, dễ tủi. Họ cần sự cảm thông và chia sẻ, mỏng manh trước những bất cần. Tiện nghi vật chất hờ hững. Thế giới tâm linh trở nên gần gũi hơn.

Với người già, thức ăn trở nên nhạt nhẽo, sức khỏe là điều miễn cưỡng. Con cái quan tâm đến cha mẹ già như một đối tượng khách quan, chữ hiếu được làm tròn bằng sự chăm sóc duy ý chí với những kiến thức khoa học hiện đại. Nước mắt chảy xuôi là quy luật, nhưng chảy ngược như thế liệu có phải là những thứ người già cần?

Khi cha mất, cô mới nhận ra nhu cầu tinh thần của ông. Người đàn bà lặng lẽ ở nghĩa trang đã làm cô hiểu ra điều đó. Cô hiểu, nhưng chưa thấu được những giọt nước mắt “không chính danh” của người phụ nữ kia đã phải nuốt ngược vào tim. Tử Kỳ mất rồi, cây đàn Bá Nha còn để làm gì? Cô chưa với tay được tới tri âm.

Chưa với tay được, có lẽ vì cô chưa bao giờ ngồi… nhậu với cha cô. (chữ “nhậu”ở đây mà hiểu theo nghĩa cụng ly chan chát, thì buồn chết). Không khí bàn nhậu thường làm tâm hồn người ta chùng lại, đôi khi nói với khoảng không, nói mà như không nói. Trong những khoảng khắc đó, cô có thể bắt gặp được cha cô. Người già biết quãng đời còn lại của họ như gió thoảng, sống chỉ là sống nốt cho hết tuổi đời…

Tôi không có duyên để gặp cha con ông họa sĩ lần thứ hai. Chẳng biết bây giờ họ ra sao. Nếu gặp lại, có thể tôi vẫn nhận ra ông. Ông không thể già hơn được nữa.

Còn cô gái, bây giờ cũng xấp xỉ 50, nếp nhăn trên khóe mắt, và còn biết bao biến đổi khác. Chỉ một lần gặp, rồi ba mươi năm trôi qua, làm sao có thể nhớ được khuôn mặt. Nhưng nếu gặp nhau ở quán rượu, chỉ cần bắt gặp ánh mắt của cô nhìn cha, có thể tôi sẽ nhận ra. Đó là ánh mắt xót xa thương cảm vô bờ, rõ ràng là ánh mắt của người mẹ, không phải của đứa con. Chắc chắn tôi sẽ nhận ra.

Vũ Thế Thành

User avatar
nangchieu
Posts: 2061
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

Một người đàn bà “Mẫu” cho tất cả đàn bà

Tràm Cà Mau

Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn.

Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả.

Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.

Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác. Ngoài tình cảm thắm thiết chia xẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.

* * *

Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là ” tam thập nhi lập.” Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để bề nói ép uổng.

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng chuyên chính của bà vợ nhà.

Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rỉ nói với tôi: ”Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mầy, một ngày thôi cũng đủ.” Nghe thế thì không sợ sao được?

Trong sở tôi, có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xẩy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỹ sư giả bên Pháp về.

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.

Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra.

Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, ít át, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai, từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?

Không nỡ để thấy mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp. Mẹ tôi đến thăm xã giao nhà Lam hai lần dể dò xét gia thế , và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói: “ Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?”.

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu.

Tôi cố bào chửa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói: “Mẹ thương con, mẹ không muốn sau nầy con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu”.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.

Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tối thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt.

Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ xỉ vả tôi: “Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả.

Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.”

Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ. Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu.

Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau nầy. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc dục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói: “ Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm”.

Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo: “Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui”.

Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói : “Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh . Em nào cũng vậy cả.” Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời: “Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.”

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng . Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia dình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu, và bảo: ”Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.”

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành dộng theo lối đó.

Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.

* * *

Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi. Tôi thấy mình tan loang vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo.

Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ: “Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế nầy, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.” Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tách thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc.

Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát nước bể Ðông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẵng làm nên được việc gì cả.”

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc nầy, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, vì ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có một phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định.

Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn. Tôi nghĩ, nếu những lúc nầy mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tội tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lổi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lổi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mĩa, nói những lời tàn nhẩn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo: ”Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn”.

Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác. Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, dắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai thở than hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói: “Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.”

Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nỗi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế cho gia đình.

Mỗi ngày, Mai thường đọc báo, và khoanh cho tôi các bài hay, các tin tức cần thiết. Nàng ghi danh cho tôi học ở Ðại Học Luật Khoa Sài Gòn, mua bài gởi về tỉnh. Nàng đọc và làm tóm tắt từng bài học, ghi các ý chính của từng đoạn vào bên lề giấy. Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Mai đọc bài cho tôi nghe, và nói lại đại cương của vấn đề. Ban đầu, tôi chìu vợ mà nghe những bài học khô khan đó. Nghe lơ là, không quan tâm lắm.

Nhưng về sau, tôi thấy cũng hiểu được nhiều điều hay của luật pháp, kinh tế, các vấn đề xã hội khác. Tôi thành chăm chỉ. Nhờ vậy mà ngày tháng ở tỉnh lẻ thành bận rộn trong êm đềm. Sau bốn năm, hai vợ chồng đều tốt nghiệp cử nhân Luật khoa và tôi xin chuyển ngành. Tôi thường nói đùa với bạn bè rằng, vợ tôi là giáo sư duy nhất mà tôi theo học trong chương trình cử nhân luật khoa. Tôi thật sự khâm phục vợ, vừa đi dạy trẻ kiếm thêm tiền, vừa chăm sóc con cái, nấu nướng, và học bài, ôn bài cho tôi mà khi nào cũng vui vẻ, dịu dàng, không than phiền, kêu ca.

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi.

Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tình mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẵng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia xẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè. Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng không tài sản.

Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối bán tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền.

Bằng tiền bạc, Mai mua chuộc được tên cán bộ cai tù, cho nó một cái đồng hồ, hứa hẹn cho thêm cái đài (radio) và hứa thêm khi tôi được thả về, sẽ cho một chiếc xe đạp. Ðó là ba niềm ước mơ cao sang của nhân dân anh hùng miền Bắc dạo đó: “Ðạp, đồng, đài”, ai có ba thứ nầy thì được xem như tột đỉnh giàu có. Thanh niên có đủ “đạp đồng đài” thì có thể cưới bất cứ cô gái nào trong xứ.

Tên cai tù đã tiếp tế cho tôi thuốc men, mì gói và các thức cần thiết,và phục vụ tôi như một tên đầy tớ trung thành. Nhờ thuốc từ gia đình,tôi thoát chết qua hai lần bệnh nặng không hy vọng sống sót. Sau nầy, gã cai tù tội nghiệp đã trở thành kẻ chịu sự sai khiến của tôi trong trại cải tạo. Tôi đã sai nó mua cho anh em nhiều thứ cần thiết, bí mật đưa tin tức về cho gia đình.

Trong thời gian tôi đi tù, một người bạn cũ của ông anh Mai, trước kia có theo đuổi nàng, sau vào bưng biền theo Cộng Sản, hắn đã đến viếng thăm và nói xa gần, rằng muốn giúp đỡ nếu Mai chịu hắn. Hắn sẽ xin việc làm cho Mai và sẽ tìm cách bảo lãnh cho tôi. Mai đã khéo léo nói cho nó bỏ đi và về sau tránh tiếp xúc.

Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc dục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân.

Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi : ”Mình hãy xem cuộc đời nầy như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xẩy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian nầy. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.”

Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ mới. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa bao cấp (kinh tế chỉ huy, kinh tế tập trung-TC)

Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên. Ngày chia tay, Mai rất bình tỉnh, mà tôi thì trong lòng nhũn ra vì yếu mềm, cố cầm dòng nước mắt cho khỏi tuôn trào. Mai dặn dò: “ Anh phải giữ gìn sức khỏe. Em đủ sức lo cho các con và bản thân.

Ðừng bao giờ quên cả dân tộc đang khổ đau, đợi chờ! Thôi anh đi“. Tôi ôm vợ vào lòng, nước mắt chảy tràn đầy gò má. Tôi cố cầm tiếng nấc cho Mai đừng biết tối đang khóc.

Lời dặn dò của vợ làm tôi cứ ngỡ mình đang ôm cả khối hào quang sáng rực, ôm cả mặt trời chói lọi trong vòng tay. Tôi tự hứa sẽ không phụ lòng kỳ vọng của vợ trong phút chia ly. Tôi tự hứa, ra đi không phải chỉ để tìm tự do riêng cho bản thân mình thôi.

Chuyến đi không thành, phải dời lại một tháng sau. Nhiều người bỏ cuộc nên thuyền trống. Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.

Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái. Ðể cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh dành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng.

Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn cực khổ trong trại tị nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt.

Những thiếu thốn, khó khăn trong trại tị nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ Cộng Sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tị nạn.

Chúng tôi đến Mỹ vào mùa đông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày.

Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần, hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về nuôi những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới.

Trong vòng ba tháng, chúng tôi đi xin việc cả trăm nơi khác nhau, đâu cũng gõ cửa, đâu cũng xin việc. Hai vợ chồng lội bộ dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thơ của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã.

Khi bỏ nước ra đi, hầu như ai cũng mang trong lòng một hứa hẹn, một trách nhiệm âm thầm, không nói ra nhưng vô cùng tha thiết. Nhiều đêm Mai thì thầm: “Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không, hay chỉ mãi mê lo cho đời sống riêng tư?”

Mai thường an ủi tôi: “Thôi, mình ráng làm ăn, rồi làm được những gì nhỏ nhất có lợi cho quê hương thì làm. Em tin tưởng sẽ có một ngày nào đó, chúng ta sẽ có cơ hội đóng góp cho quê hương nhiều hơn.”

Chúng tôi đi làm việc toàn thời gian, và làm thêm những việc sửa chữa lặt vặt cho các gia đình trong nhà thờ họ đạo. Các bà cụ dành việc làm cho tôi với tinh thần giúp đỡ, trả cho tôi những thù lao nhiều hơn trị giá thực sự. Chúng tôi chỉ để dành một số tiền nhỏ phòng khi bất trắc và ăn tiêu hết sức tiện tặn. Hàng tháng, Mai gởi tiền giúp đỡ các gia đình bà con, bạn bè đang đói khó, gia đình những người đau khổ trong tù đày, các bạn đang quay quắt ở các vùng kinh tế mới. Giúp nhiều nhất cho những người tù không có thân nhân bới xách, thiếu thốn thuốc men, thiếu thốn chất bổ dưỡng. Vợ tôi thường bảo, dù cho những giúp đỡ nầy như muối bỏ biển trong một quê hương đầy đói rách, nhưng có còn hơn không. Mai vui sướng trong việc xẻ chia chút dư thừa vật chất cho những người cùng khổ.

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà. Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, dành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang. Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm.

Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị thương tổn. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẳn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm.

Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền. Tôi đem nhận xét nầy nói với Mai, nàng cho rằng những người đàn bà đó, chỉ đáng thương, vì không ai dạy cho họ điều khôn ngoan phải đạo mà có lợi cho họ hơn là có hại.

Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng: ”Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu.

Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.” Thế là tôi tìm dược nguồn vui và yên tỉnh tâm hồn.

Khi tôi bị thất nghiệp, Mai càng an ủi vỗ về tôi nhiều hơn, để tôi không có cái mặc cảm mình vô tích sự, sống nhờ vào người khác. Nàng nói, cứ từ từ tìm rồi việc khác, đừng nóng lòng, không gấp chi, vì một người đi làm, nếu ăn tiêu tiện tặn lại, thì cũng không thiếu thốn. Vả lại công việc, thì cửa nầy đóng, sẽ có cửa khác mở. Mai khuyên tôi ở nhà nghỉ ngơi một thời gian cho khỏe. Bởi vậy nên tôi không hốt hoảng lo âu như vài người bạn khác. Một anh nói chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, đùa rằng: “ Phải đi tìm việc gấp chứ, không thì ăn được của vợ một miếng cơm, thì phải mửa ra ba miếng máu”. Tôi không tin và không vui khi nghe câu đùa cợt đó.

Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai: “Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?”.

Nàng nói: “Ngày xưa đọc sách, em không nhớ tác giả nào đã viết rằng, con chó suốt đời không làm gì cả mà được mọi người thương yêu, vì cách xử sự của nó. Nó không giận hờn, không đòi hỏi, không trách móc. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.”

Tôi thành thực mà nói rằng đã học rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.

Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại nầy cũng là bài học tốt về sau.

Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.

Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.

Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.

Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói: “Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học.

Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng, có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trờ chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền. Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc. Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy một bữa cơm.

Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn. Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu, mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm.

Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ tôi cũng thấy việc làm của tôi là có lý. Anh bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, thì phải mất một con bò khác.

Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nó nghe gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bửa cơm.

Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.”

Mai kết luận rằng; ” Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương.”

Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan, dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền nhân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: ”Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”.

Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.

Tràm Cà Mau

User avatar
macco
Posts: 3544
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by macco »

Chị Sui tương lai Thằng con tôi quen với bạn gái được khoảng 7 năm. Tôi và Má con nhỏ tự kêu nhau là chị Sui tương lai và thường xuyên gọi phone tán chuyện của hai con thật vui và tương đắc. Hai bà sui chẳng màu mè xạo sự khen con mà toàn kể ra tật xấu làm biếng của con mình khiến hai đứa nhỏ sợ lắm. Lâu lâu tụi nó âm mưu lấy phone của mẹ mình xóa đi số phone của mẹ đối phương để hai bà hết đường liên lạc nhưng tụi nó đâu biết là Má tụi nó đâu có dỏm, cũng biết lục trong trang web của hãng điện thoại trên mạng mà tìm lại số phone của người ta. Cứ thế mà tình thông gia vẫn thông qua đường dây điện thoại rất đậm đà thân thiết đến nổi chị Sui tương lai của tôi cứ căn dặn:

- Chị ơi! Nói dại lỡ mà sau này hai đứa nó không lấy nhau thì chị em mình cũng nhớ liên lạc nói chuyện nhé chị.

- Ờ, không tình thông gia thì là tình bạn. Đừng lo!

Không hiểu chị Sui tương lai ăn mắm ăn muối thế nào mà nói lại đúng, hai đứa nhỏ giận nhau và chia tay. Hai bà sui tương lai quính cả lên, phone qua phone lại tìm hiểu tình hình để giúp hai đứa nhỏ hòa với nhau nhưng cũng công cóc. Chị Sui tương lai giờ biến thành chị Sui hụt than thở:

- Em nhìn hủ tương ớt trong tủ mà nhớ thằng nhỏ quá. Mỗi lần nấu phở chỉ có mình nó ăn tương ớt, em để dành đây chứ không dẹp may đâu nó trở lại.

Nhưng thằng nhỏ chẳng bao giờ trở lại để ăn hủ tương ớt của chị Sui hụt nữa. Hai đứa nhỏ chia tay thật sự! Thằng nhỏ xóa tên và xóa hết hình ảnh của con nhỏ trong facebook. Rồi nó cắt tóc kiểu Mohawk có cái bờm như con sâu giữa đầu và hai bên cạo trọc để tang cho mối tình đầu. Nhìn thằng nhỏ giờ trông du đãng và ngầu hết sức. Ai chê nó cũng tỉnh bơ nhất định không đổi kiểu. Ai khuyên nối lại cuộc tình nó cũng trơ như đá. Tình tang!

Rồi nửa năm sau tôi thấy trên face book thằng con đưa lên hình một cô gái có tên họ Việt Nam thật dễ thương và công bố nghe ngon lắm:

- Đây là vợ tương lai của tôi!

Với người yêu cũ đâu bao giờ nghe nó giới thiệu như vậy và cũng chẳng nghe nó nói đến chuyện cưới xin. Bây giờ chưa chi đã giới thiệu như vậy chắc hợp nhãn lắm hay sao nên tôi hỏi:

- Ủa, con quen cô bé này hồi nào mà giới thiệu nghe ngon lành quá vậy? Trông hình thấy đẹp quá há.

Thằng con tỉnh bơ:
- Con mới quen mấy ngày nay thôi. Đang cua!

Rồi nó nói tiếp:
- Hai tuần sau thằng Lộc diễn văn nghệ hở Má? Má giữ cho hai đứa con hai vé nhen.
- Ừ, sẵn Má xem mắt con nhỏ luôn. Trông hình thấy dễ thương ghê.

Tôi thật là kỳ cục!!! Dù thường quan niệm “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, không trọng bề ngoài nhưng thấy người xinh đẹp thì tôi lại có cảm tình trước tiên. Suy ra đâu phải chỉ có đàn ông mới là phường háo sắc!!!

Mới hỏi thăm thì một tuần sau thằng con đem người đẹp về giới thiệu. Con nhỏ bên ngoài cũng dễ thương như hình trong facebook bẽn lẽn chào tôi bằng tiếng Việt hơi ngọng chút xíu mà thôi. Tôi thầm khen thằng con mình có khiếu cua gái và giỏi nữa là biết kiếm người Việt Nam mà yêu thì còn gì bằng. Nói gì thì nói, nếu được làm sui với người Việt mình thì tình sui gia mới thắm thiết chứ với người ngoại quốc biết gì mà nói. Ngôn ngữ bất đồng, phong tục tập quán khác nhau nếu gặp nhau chỉ biết trơ mắt ngó mà thôi, chán lắm.

Hỏi han con nhỏ mới biết nó đang sống với Mẹ và người anh trai. Tôi mời luôn Mẹ cô bé đến xem buổi diễn văn nghệ để có dịp gặp mặt biết đâu là chị Sui tương lai sau này.

Hai mẹ con giống nhau y đúc! Chị ấy trông rất trẻ trung, xinh đẹp, vui tính. Sau này hai đứa nhỏ thân nhau hơn thì tôi và chị Sui tương lai thứ hai cũng thân nhau như chị em. Phone qua phone lại còn hơn với chị Sui hụt ngày xưa. Tôi còn mời chị ấy đến nhà chơi và ngủ đêm lại nhà nữa.

Chị Sui tương lai 2 hoàn cảnh tội nghiệp lắm. Ngày xưa lấy được ông chồng tu xuất vừa đẹp trai vừa giỏi. Hai vợ chồng mở tiệm bán đồ điện tử làm ăn khấm khá mua được nhà lớn trong khu nhà giàu. Nhưng xui sao ông chồng bị người khác cua ẵm hết tiền bạc trốn đi mất để lại chị ấy cùng hai con còn nhỏ dại mới lên 4 và lên 3. Tiệm bị niêm phong, nhà cũng bị ngân hàng kéo. 3 mẹ con phải bỏ xứ qua Minnesota sống với bà con. Chị ấy phải đi làm cu li vất vả nuôi hai con khôn lớn. Ông chồng tàn nhẫn ra đi không liên lạc thăm hỏi hai chục năm nay. Mỗi lần nói động đến ông ta là chị ấy khóc òa tội hết sức. Chị ấy bảo:

- Ông ta bỏ em cũng được đi. Còn hai đứa con mà cũng nhẫn tâm bỏ luôn không đoái hoài gì cả.

Tôi hỏi:
- Rồi từ ấy đến nay Hương có quen ai không? Hương đẹp như vậy ắt phải có người theo đuổi?

- Sau này em có quen một người nhưng mẹ của anh ta không cho tiến tới với em vì em đã có hai con. Anh ta về Việt Nam cưới vợ nên em chia tay. Đàn ông họ sợ trách nhiệm lắm, thấy mình có hai con ai dám rớ. Giờ nghĩ lại chuyện không bước thêm bước nữa lại càng tốt. Đọc báo thấy cha dượng hay sàm sỡ với con riêng của vợ mà giật mình. Con gái mình cũng xinh đẹp, lỡ có chuyện gì thì đau khổ lắm.

- Mình nghe Trâm bảo mới đây Ba nó có liên lạc hỏi thăm hở?

- Hai năm trước hai mẹ con em về Việt Nam chơi có ghé thăm gia đình em của Bố nó ở Huế. Chắc họ cho Bố nó số phone của em để liên lạc. Ông ta gọi bảo là ngày đêm đều nhớ đến hai đứa nhỏ nhưng em không tin. Nếu nhớ sao lại bỏ rơi không quan tâm gì cả.

Nói đến đây chị ấy lại khóc òa rồi ráng nín lại ngay, thổn thức nói tiếp:
- Ổng đòi tham dự đám cưới của con Trâm sau này nhưng nó không chịu. Nó bảo là nó lớn lên không có bố thì coi như không có luôn cho khỏi rắc rối. Nó không chịu nói chuyện với ông ấy.

- Thì ông ta bỏ con từ hồi mới lên ba nó đâu còn ấn tượng gì về Bố là phải. Lúc còn bé Trâm có hỏi gì về Bố không?

- Có một lần nó đi học lớp 1 về hỏi sao bạn con có Bố mà con không có. Em buồn quá khóc òa nên từ đó nó không bao giờ hỏi về Bố nữa. Có lẽ nó cũng hiểu hoàn cảnh của mình nên biết lo lắm. Em thì nhát và dở nên nó phải lo đủ thứ chuyện trong nhà ngoài ngõ.

Tôi gật đầu đồng ý:
- Mình cũng thấy Trâm đảm đang và khôn khéo lắm. Nó sinh trưởng và lớn lên bên Mỹ mà biết nói tiếng Việt cũng giỏi luôn.

Vợ chồng tôi chịu cô bé này lắm. Tự nhiên chứ không màu mè gì cả. Mỗi lần mời ăn là ăn thật tình. Gặp món khoái khẩu và ngon là ăn 2 tô hay 2 dĩa. Đi ăn buffet cô bé là đối thủ của chồng tôi cùng là người cuối cùng ngưng ăn. Chồng tôi khen ăn nhiều như vậy là người có sức khỏe rất tốt. Thằng con tôi bây giờ nghe lời bồ một phép, bớt làm biếng mà phụ ba nó cắt cỏ hoặc xúc tuyết, và nhất là bỏ đi kiểu tóc Mohawk để lại kiểu bình thường. Con bé còn sửa cách ăn mặc của thằng nhỏ không cho mặc theo kiểu lụng thụng Mỹ đen nữa trông thay đổi đẹp trai hẳn lên. Cậu con Út của tôi cũng chịu chị dâu tương lai này lắm vì cô bé biết chơi bóng rổ và biết săn sóc lo lắng cho nó.

Hai đứa nhỏ quen nhau được một năm thì đính hôn. Thằng con của tôi khăn gói tới nhà vợ tương lai ở rể trước. Vậy là hơn 50 phần trăm chắc ăn làm sui với nhau rồi. Đi chơi đâu tôi cũng rủ chị Sui tương lai đi cùng.

Tội nghiệp, chị Sui lâu nay một thân một mình lo đi làm nuôi con nên chẳng bao giờ đi chơi đâu cả ở cái xứ Vạn hồ cảnh thiên nhiên đầy dẫy này. Chị ấy lại rất thích chụp hình nên ông xã tôi tha hồ chụp cho nàng và cả cho vợ. Tôi lâu nay được chụp nhiều rồi nên nhường cho ông xã chụp hình cho chỉ nhiều hơn. Chị Sui tương lai thích lắm, chỉ một cảnh nghiêng qua, ngó lại, đứng lên, ngồi xuống chụp đến mấy tấm. Chàng của tôi thì giỏi chiều nên tha hồ mà nháy! Có lần thấy chàng lom khom chụp hình cho nàng trông ngồ ngộ nên tôi lấy máy khác nháy cho hai người một tấm và đem bỏ lên face book chú thích thêm 2 câu thơ chọc ghẹo:

- Ngắm hoài con mắt muốn đui,

Tình-hình ngó bộ tình sui đang hừng!

Ông xã của tôi không vừa đáp lại:
- Đã hừng nhưng vẫn lừng khừng,

Tình-hình này chắc ngập ngừng chẳng lâu.

À há! Địch thủ này khá đây. Tôi ghẹo tiếp:
- Trời sinh một cặp biết đâu,

Tình-hình này chắc qua cầu váy bay.

Chàng đáp ứng ngay:
- Qua cầu váy chỉ lung lay,

Tình-hình này chắc thò tay vén dùm…..

Cứ thế mà chơi chữ Tình-Hình, vợ chồng tôi làm thơ vui ghẹo nhau đắc ý lắm. Bạn bè cũng chen vào làm thơ chọc vui ơi là vui. Tôi còn hứng chí đọc thơ cho chị Sui nghe và chị ấy cũng tập làm thơ luôn nhưng vì không biết sử dụng computer nên chỉ vừa “rặn” thơ vừa đọc cho vợ chồng tôi nghe thấy thương hết sức. Ông xã nghe tôi bảo thương chị Sui ghê, ảnh cũng nói:
- Em thương chỉ một, anh thương chỉ mười!

Người ta thường bảo “Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”, tôi sao không ghen, kỳ ghê ta. Tôi cũng chẳng hiểu mình nữa. Nhiều khi tôi nghĩ nếu có vài nàng hiền, vui, nấu ăn ngon, biết dọn dẹp, tâm đầu ý hợp với nhau thì rủ về ở chung cùng lo cho gia đình và cho chàng thì vui biết mấy. Nhớ hôm bữa reunion bạn học cũ ở nhà tôi, mấy nàng cùng nhau lo bếp núc ăn uống và dọn dẹp vừa nhanh vừa khỏe. Phân công nhau làm việc rồi dư thì giờ hát hò, đùa giỡn thật quá tiện lợi.

Một lần có văn nghệ Việt Nam được tổ chức ở Casino cách nhà hơn một tiếng lái xe, tôi nhờ bạn bè mua vé dùm và mời chị Sui đi xem vì nghe chỉ nói chưa bao giờ được đi xem văn nghệ ở Casino. Bạn bè tôi khi nghe tôi giới thiệu chị Sui đều trầm trồ thăm hỏi. Một chị bạn cứ chạy theo chồng tôi thì thầm:
- Trời ơi! Chị Sui của Hoàng đẹp và trẻ quá!

Còn ông chồng của chỉ hồi giờ nổi tiếng sợ vợ bỗng dưng lúc đó quên cả đất trời, đổi chỗ đến ngồi cạnh chúng tôi và hỏi thăm:
- Nghe giọng chị sui có phải người Bắc không? Chị ở vùng nào vậy?

- Dạ, em nghe mẹ em nói quê ở Thái Bình.

Anh chàng nhận ngay đồng hương:
- Tôi cũng người Thái Bình. Ở làng nào chị biết không?
- Dạ em không biết. Để em về hỏi bà cụ.

Chị Sui là sui của chúng tôi, mắc mớ gì mà ông bạn này cũng kêu là chị Sui, tức cười quá. Về nhà thế nào cũng bị vợ bắt quì vì cái tội mê gái dám xé lẻ bỏ bà ngồi một mình.

Lại có ông bạn cùng hãng, hôm sau khi nghe tôi khoe hình con dâu đã bảo:
- Tôi thấy mặt con dâu của chị rồi mà.

Tôi ngạc nhiên:
- Ủa, gặp con dâu của tui hồi nào vậy?

Ông bạn tỉnh bơ:
- Thì tối hôm qua xem văn nghệ ngồi cạnh chị rồi chị giới thiệu cho tôi đó.

- Trời, cái ông này. Chị Sui của tui chớ con dâu hồi nào. Tui cũng giới thiệu cho ông là chị Sui ông quên rồi hở?

Ông ta ngạc nhiên:
- Ủa, chị Sui hở? Sao trẻ quá ta! Chị Sui bao nhiêu tuổi rồi vậy?

- Hơn tui một tuổi, nhỏ hơn ông vài tuổi thôi.

Vậy mới thấy là chị Sui của tôi trẻ và đẹp hết xảy con cào cào. Trẻ đến nổi hôm tiệc đính hôn của hai trẻ, tôi nghe cậu em của tôi hỏi một câu xanh rờn:
- Em là bên nhà gái hay nhà trai vậy?

Tôi ngạc nhiên nghe nó hỏi như vậy? Thằng khỉ hỏi ai vậy ta? Đến khi thấy chị Sui ngồi khuất sau lưng nó và nó đang hỏi chị ấy làm tôi phá lên cười muốn đứt ruột:
- Trời, bộ em không biết đó là chị Sui của chị hở?

Thằng em tẽn tò:
- Ủa, chị Sui hở? Em tới trễ không nghe giới thiệu nên không biết. Chị Sui sao nhỏ xíu vậy? (Ý nó nói chị Sui sao trẻ quá vậy)

Chị Sui của tôi nghe thế cũng cười và vui lắm. Được người ta khen trẻ ai mà chẳng thích. Thấy chị ấy vui tôi cũng mừng cho chỉ, mong sao chị Sui sẽ luôn có được niềm vui để bù đắp những gì mà ông chồng đã gây ra cho mình. Không biết nếu bây giờ được gặp lại vợ con, ông ta có tiếc không nhỉ!

Bữa tiệc đính hôn thật đơn giản và vui. Hai bên gia đình sui gia chẳng cần mở lời giới thiệu nhau làm như quen tự kiếp nào. Chị Sui tương lai được mời uống bia hai má ửng hồng thật là xinh. Chỉ bảo:
- Em mà uống hết chai bia là xỉn có gì cũng nói hết á.

Tôi chọc:
- Lỡ có người hát “Em có thương thầm anh không….” thì có nói thật không?

Chị Sui cười và hát:
- Nếu có thương tôi, thì hãy thương tôi bây giờ…..

Ông Sui tương lai của chỉ nghe mà ngất ngây. Hình như ông này cũng thuộc loại rượu vào lời ra nên ổng ngâm nga:
Hỏi bà con tới chung vui,
Làm chung một lễ bốn người được không?
Trời mưa bong bóng phập phồng,
Con đi lấy chồng mẹ lấy sui gia.

Hình như tôi bắt đầu hơi lo lo nên đã nghĩ bụng kiếm ông bạn nào còn độc thân vui tính làm mai cho chị Sui tương lai. Hai con của chỉ đã lớn không còn là gánh nặng nữa và chỉ bây giờ cũng là độc thân vui tính. Có ai muốn thì ghi danh nhé!

Thanh Mai

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by khieulong »

--Vợ Chồng già _ Ai cũng vậy mà thôi !
Con cái trưởng thành ra ở riêng hết chỉ còn ông bà sống trong căn hộ 3 buồng nơi khu tập thế sát bờ sông. Như mọi ngày cơm nước xong, bà dọn dẹp bếp núc, ông lên nhà bật Tivi, pha ấm trà nhân trần thư thả ngồi uống xem mấy chương trình thời sự.

Khi bà từ dưới bếp lên, ông rót cốc trà nóng đưa tận tay bà, chuyển kênh phim cho bà xem, rồi họ lặng lẽ theo dõi phim trên truyền hình cho đến khi bà đấm lưng thùm thụp đứng dậy vào ngủ trước. Ông xem thêm chút rồi tắt Tivi kiểm tra cửa rả rồi đi nằm. Ngang qua phòng bà đã thấy bà ngáy pho pho.

Chả biết từ bao giờ họ gọi nhau là ông, là bà thay cho cách gọi anh, em ngọt ngào theo suốt mấy chục năm. Cũng chẳng nhớ từ bao giờ ông bà ra nằm riêng mỗi người mỗi phòng. Chắc tại bà kêu ông ngáy to nhất là hôm nào vui bạn bè uống vài chén rượu. Ông cũng phàn nàn bà có thói quen cứ dọng chân xuống giường thình thịch mỗi khi mỏi.

Cái gì mãi rồi cũng thành quen. Đôi khi bà muốn gọi ông là anh như ngày nào cho tình cảm mà thấy ngượng ngùng. Lắm lúc người ngây ngấy sốt đắp cả cái chăn dày vẫn lạnh, ông định qua phòng bà nằm cạnh tìm chút hơi ấm lại lo bà mất ngủ, cũng thôi.

Tối nay, khi bà vừa dưới bếp lên ngồi xuống ghế định xem Tivi thì điện vụt mất. Ông loay hoay bật lửa châm chiếc đèn dầu. Ông bà ngồi đối diện nhau mà chẳng nói lời nào. Không gian tĩnh mịch quá. Nghe rõ cả tiếng gió rì rào ngoài cửa sổ. Bỗng bà bật tiếng:

- Nghe đâu như tiếng con ễnh uôm nó kêu.

Ông nhướng mắt hỏi lại:

- Con gì kêu?

- Con uềnh uôm chứ con gì? Bà dấm dẳng.

- Con ễnh ương chứ. Từ cha sinh mẹ đẻ tôi chưa nghe ai nói con uềnh uôm như bà. Ông gằn giọng.

Thế là họ cãi nhau. Kết quả là sáng hôm sau bà không thấy ông ngồi uống trà bên bàn nữa. Bà lẩm bẩm:

"Lại sang thằng cả tá túc chứ gì. Thây kệ".

Trưa bà ngồi ăn cơm một mình thấy chả ngon lành gì. Tối bà ngồi coi Tivi mà chả xem chương trình gì ra đầu ra đũa. Đêm bà nằm nhớ thời có mang thằng lớn. Ông mừng lắm, hỏi bà:

- Em định đặt tên con là gì?

- Anh đặt đi, bà nũng nịu: Tuỳ anh.

Không ngờ khi sinh con trong giấy khai sinh, ông thấy tên con được bà đặt là Tùy Anh, Nguyễn Văn Tuỳ Anh.

Đến đứa con gái thứ hai, bà hỏi ông đặt tên gì? Ông âu yếm nhìn bà bảo: Tuỳ em. Và kết quả tên đứa thứ hai được ông đặt là Tuỳ Em, Nguyễn Thị Tuỳ Em.

Cả tuần vắng bóng ông nhà cửa trống tuềnh trống toàng làm bà nghĩ lại.

Mấy ngày ở với con với cháu cũng thấy vui mà sao lòng ông vẫn như lửa đốt. Cảm giác thiêu thiếu nơi ông, cũng làm ông nghĩ lại. Hôm ông quay về, bà đón ông nơi bậu cửa, ông chưa kịp nói điều mình định nói bà đã đon đả:

- Tôi hỏi người ta rồi ông ạ. Nói như ông mới đúng. Là con ễnh ương. Tôi nói sai.

Ông cười gượng gạo:

- Không bà nói mới đúng. Nó là con uềnh uôm. Tôi sai rồi.

Lời qua tiếng lại thế là lại cãi nhau. Tiện khăn gói ông sang nhà cô gái út. Vợ chồng già lại ly biệt thêm lần nữa.

Kết

Khi còn trẻ, còn sống trong tình yêu người ta nhìn nhau qua cặp kính màu hồng, lúc nào cũng thấy những điều tốt đẹp, để rồi thêm gần gũi. Khi về già, họ nhìn nhau qua cặp kính của bác sĩ, cặp kính của nhà giáo..., nhìn đâu cũng thấy vi trùng, coi chồng như học trò để giảng dạy..., rồi thêm xa cách.

Tình yêu và sức khoẻ như năng lượng trong mỗi con người, cùng với năm tháng nó cũng bị tiêu hao đến mòn kiệt.

Thôi thì đã là vợ chồng, thời son trẻ sống bên nhau là hưởng thụ thì lúc về già hãy sống bên nhau vì chịu đựng vậy. Vạn vật cũng có thời, con người sao tránh được. Vợ chồng già hết tình còn nghĩa. Hãy xem nghĩa làm trọng.

Đấy là tôi tự bảo mình và nhắn nhẹ với bao cặp vợ chồng già khác nữa để khỏi vô cớ chia lìa nhau trước khi trở về với cát bụi.

Hùng Lý

Post Reply