Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Hạt tình hồi sinh Cái tin mụ Ty sắp lấy chồng Việt Kiều, truyền miệng loan đi nhanh như gió, làm chấn động cả mấy làng trong huyện Triệu Phong. Không ai tin là chuyện thật, người ta công khai xôn xao bàn tán. Nhưng cái tin nầy đã làm nức lòng và lên tinh thần đám đàn bà goá, và các cô gái muộn chồng trong cả tỉnh. Mụ Ty đã già khú đế, trên sáu mươi tuổi rồi, xấu xí ốm o, khô đét vì đói ăn nhiều năm, chỉ còn da bọc xương, răng cái còn cái mất, lại mù loà, dơ dáy, nghèo rớt mùng tơi, có thời đi ăn xin. Thế mà có Việt Kiều ở Mỹ về xin cưới. Câu chuyện gần như hoang đường, người tỉnh táo khó lòng tin được. Người ta bàn tán:


“Chắc có âm mưu thâm độc chi đây, chứ cưới mụ Ty về mà làm gì? Đem bán cho nhà thổ, chúng cũng rượt đánh đến bể đầu. Mụ đó mù loà yếu đuối, cũng không đủ sức làm nô lệ hầu hạ cho ai được. Đừng nói chuyện tình dục, già đến thế, chắc cũng đã mốc meo, héo quắt đi rồi. Mụ chỉ còn xương với da, chỉ có đem mà nấu cao, giả “cao hổ cốt” may ra còn có lý.”

Đám đàn ông bàn thêm:

“Con gái trẻ đẹp hơ-hớ thiếu chi mà đi cưới mụ già. Cưới về đem đặt lên bàn thờ mà lạy chắc? Hay là thằng cha Việt Kiều đó đau bệnh điên, làm chuyện trái đời, chơi bạo lấy tiếng? Nghe không hợp lý chút nào. ”

Ông thầy pháp thường hay gọi hồn người chết về nói chuyện thế gian cũng bóp đầu, bóp trán, hứa sẽ kêu hồn bố mẹ mụ Ty về hỏi cho ra lẽ. Ông nói thầm với bà con:

“Không chừng thằng cha Việt Kiều là phù thủy, cưới mụ Ty về để giết chết mà luyện “thiên linh cái”, vì mụ Ty dù sao cũng còn “đồng trinh”, chưa biết đến hơi trai.”

Mấy mụ đàn bà yếu bóng vía rùn vai, lè lưỡi sợ hãi, và họ tin ông thầy pháp nói có lý.

Chính quyền địa phương cũng họp chi bộ đảng cộng sản nhiều lần, để thảo luận và tìm hiểu lý do tại sao gã Việt Kiều kia cưới mụ Ty. Có âm mưu gián điệp của đế quốc Mỹ gài vào, dò xét tình hình “ta” không? Bí thư xã báo cáo lên quận. Bí thư quận nói:

“Không phải âm mưu gián điệp, vì cả Tổng Thống Mỹ Cờ-Lin-Tơn còn đi phất phơ ăn phở giữa chợ ở Việt Nam mình nữa kia mà. Nhưng cũng phải đề cao cảnh giác, để không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra cho xã, huyện nhà.”

Nghị quyết chung của chính quyền xã là gây khó khăn tối đa cho tên Việt Kiều kia chán nản, mà bỏ ý định bí mật lạ lùng kia đi. Họ tin rằng, nắm quyền trong tay, thì thừa sức ngăn cản được cuộc tình duyên tréo ngoe nầy.

Phần mụ Ty, nghe bàn vào, tán ra, người nầy nói một câu, kẻ khác bàn vài câu, cũng đâm ra hoang mang, và sợ. Nghi ngờ đến cái tấm lòng của ông Thu, người Việt Kiều muốn cưới mụ làm vợ. Những lời bàn tán kia, đều có lý, không phải dựng đứng lên.

Hơn năm mươi năm trước, khi ông Thu mới mười lăm tuổi, gặp bà Ty, thì bị “cú sét ái tình” đánh cho ngã gục. Cả gan về nhà xin cưới vợ, bị bố ông đánh cho một trận đòn quắn đít, nên tình yêu cũng tắt ngúm từ đó. Rồi mấy mươi năm thời cuộc nổi trôi, chiến tranh, tù đày, đi Mỹ, chạy theo cơm áo, ông Thu không có thì giờ, không còn kiên nhẫn, hứng thú, để theo đuổi bất cứ một bóng hồng nào. Cho đến khi ông đã hưu trí, về thăm quê ngoại, biết bà Ty cũng phòng không chiếc bóng, mù lòa, đói khát. Hai người gặp lại nhau. Ông nhớ lời ước hẹn năm xưa: “kiếp sau đền bù sum họp”, nên muốn cưới bà Ty đem về Mỹ. Nhiều người bà con nội ngoại đều can gián ông. Họ bảo rằng, nếu lấy vợ, thì nên kiếm một người có trình độ, trẻ, đẹp, khỏe mạnh, để còn chăm sóc, nương tựa khi đau yếu trong trong tuổi già. Lấy mụ Ty về, không nhờ vả được gì, còn phải lo ngược lại cho mụ. Thêm khổ thân già. Vả lại, trình độ kiến thức quá cách biệt, rất khó sống chung, khó hoà hợp, khó thông cảm. Chỉ gây bực mình và làm khổ nhau. Họ khuyên ông cho mụ Ty một số tiền lớn để sinh sống, rồi thôi, không tội chi mà đèo bòng cái gánh nợ thổ tả đó.

Gia đình, bạn bè gián tiếp sắp đặt, làm như tình cờ, đưa đến cho ông gặp nhiều cô, nhiều bà. Có trẻ đẹp, có xồn xồn, cả chưa chồng và cả goá phụ. Các bà, các cô nầy, nhìn ông hau háu, tha thiết, với ánh mắt hy vọng, khẩn cầu. Ông thấy nhẫn tâm và tội nghiệp họ. Có người còn nhỏ, chỉ đáng hàng con, cháu ông thôi. Ông nói rằng, tất cả bọn họ đều đáng thương, chỉ vì cơm áo, mà phải tha thiết với một kẻ già nua như ông. Nhưng mụ Ty là kẻ đáng thương nhất, đáng được đền bù nhất. Quan trọng hơn hết là mối tình hơn nửa thế kỷ trước, có phôi pha phần nào thật, nhưng vẫn còn âm ỉ trong tim. Cậu Út của ông Thu nói:

“Yêu là cái khỉ gì? Bọn con nít ngu, mới bày đặt yêu đương. Mình già rồi, khôn quá, hết ngu rồi. Lấy vợ, lấy chồng là phải suy xét hơn thiệt, trắng đen, cân lường. Còn trẻ, bồng bột, ngu nên ủi đại, không nghĩ đến hậu quả về sau. Bởi vậy, cháu phải suy nghĩ thật kỹ trước khi lấy mụ Ty”

Ông Thu nói với cậu út:

“Lạ thật, năm mười lăm tuổi, muốn lấy vợ bị ngăn cản đã đành. Bây giờ sáu mươi sáu tuổi, muốn lấy vợ, cũng bị ngăn cản dữ dội. Thế thì chờ đến khi xuống lỗ mới hết trắc trở sao?”

Xóm giềng và họ hàng của nhao nhao xúi giục mụ Ty thách cưới thật cho cao. Đòi cho được hai trăm phần quà. Mỗi phần có một hộp trà, một hộp bánh, sáu quả cau, một liễn trầu. Đòi thêm hai cái kiềng vàng, cặp xuyến vàng, một đôi bông tai. Phải đãi ăn năm chục người. Mụ Ty nghe mà lo lắng bảo:

“Mình thách cưới cao quá, lỡ người ta không lo nổi, rồi bỏ đi thì uổng. Mà mình thì đã tra (già) lắm rồi. Cả đời tui chưa đeo kiềng, đeo xuyến, chừ có đeo vô, cũng cấn chết, mà trẻn (xấu hổ) nữa.”

Một bà nạt lớn:

“Tra thì tra, chứ chẳng lẽ cho không, cóc đòi chi cả? Đừng tự làm mình mất giá. Hắn không cưới thì thôi.”

Nghe nói vậy, mụ Ty giật mình tái mặt, ngồi thừ người ra. Một bà khác tiếp lời:

“Nì, mụ đừng lo, Việt Kiều giàu lắm. Người nào cũng lái xe hơi, ở nhà lầu. Mình không đòi là dại. Mà cũng phải đủ lễ “tam sênh” mới được. Ba lễ, dạm mặt, đám hỏi, đám cưới đàng hoàng, chớ không phải đem xe về bắt cóc chạy đi. Làng nước không chịu cho mụ chịu thiệt thòi mô. Mụ mà không đòi, thì chúng tôi cũng đứng ra, đại diện nhà gái mà đòi”

Mụ Ty hốt hoảng nói nho nhỏ:

“Thôi thôi, mấy mự, mấy thím ơi. Mần rình rang chi thêm xấu mặt. Mấy chục năm ni, có đám cưới mô trong làng mà đủ ba lễ? Tui nghèo khổ, chớ có phải cành vàng lá ngọc chi mô.”

“Đám cưới trong làng mình, không đủ ba lễ là vì bên rể nghèo. Phải “giản đơn” lại, chớ không thì trai, gái, không vợ, không chồng cả làng sao? Mình nhắm sức người ta có, mới đòi. Mụ lo chi?”

Thấy bà con áp lực quá, mụ Ty ôm mặt khóc. Người ta bồi thêm:

“Mụ mà dại, thì có cả làng khôn. Đòi là đòi cho mụ, chớ có đòi cho chúng tui mô. Sính lễ mà đòi được, thì mụ cũng cất đi, sau nầy làm của, phòng khi nầy khi kia, chớ chúng tui có lợi chi?”

Mụ Ty đem những lời thách cưới của bà con nói lại cho ông Thu nghe. Nhưng mụ không quên thêm một câu rằng, nếu ông không có, và không chịu thì thôi, mụ không đòi hỏi chi cả.

Ông Thu cười và nói, đó là “chuyện nhỏ”. Vòng, xuyến, hoa tai, nếu mụ muốn, thì ông sẽ mua cho mụ. Nhưng hai trăm phần cưới cau trầu, trà bánh, thì không, phí phạm vô ích. Mụ Tỵ nghe mà mừng, sung sướng và nói:

“Thôi, thôi, đừng vòng xuyến chi cả. Xưa nay không đeo, bi chừ đeo vô, ngứa ngáy không chịu được mô. Đeo vô, trẻn lắm.”

Khi gặp lại mụ Ty trong hoàn cảnh mù loà, đói rách lạnh lẽo, ông Thu muốn đem mụ về Sài Gòn ở tạm. Thuê nhà, thuê người chăm nom mụ trong thời gian chờ đợi. Khi đầy đủ thủ tục, và được sở di trú Mỹ chấp thuận, ông sẽ đưa mụ về California. Nhưng vì bà con, làng nước xúi giục, mụ Ty nhất định không chịu ra khỏi làng, khi chưa có đám cưới, chưa có hôn thú, và chưa có giấy máy bay đi Mỹ. Mụ khóc và nói:

“Bà con dặn tui đừng có đi mô cả. Đi ra khỏi làng, vô tận Sài Gòn xa xôi, lỡ anh đổi ý, bỏ tui bơ vơ nơi xa lạ, mần răng mà tui có tiền, có phương tiện về lại làng. Mà về lại cũng không được mô. Thiên hạ cười cho thúi đầu. Tra chừng ni tuổi rồi mà còn bỏ làng đi theo trai, bị phụ tình, mang xác về. Xấu hổ lắm.”

Ông Thu ôm đầu thở dài. Biết mụ Ty đã bị xóm giềng bàn ra, tán vào, khuyên bảo nầy nọ. Không hẵn những lời khuyên đó hoàn toàn vô lý. Ông nhỏ nhẹ nói với mụ Ty.

Mụ Ty nói rất tự nhiên:

“Mấy chục năm sống nơi đây, cũng đã quen rồi, tui không thấy khổ nữa. Đói thì có, rách thì có. Nếu đủ cơm ăn hàng ngày là quá quý rồi. Tui không dám mơ ước chi hơn.”

“Nhà ai nấy ở. Không ai dư chỗ cho thuê mô. Ở nhà ni, có chết mô mà sợ. Nếu ở nhà ni mà chết, thì chết từ lâu rồi. Cứ cho tui ở nhà ni, đừng bắt tui đi nơi khác. Tội nghiệp.”

Ông Thu chịu thua, không muốn ép mụ Ty dọn đi nơi khác, phiền lòng mụ. Ông nhờ người bà con bên ngoại thuê thợ tu bổ lại căn chòi, lợp lại mái, che phên, làm cửa lưới ngăn muỗi, câu điện, bắt cho một chiếc quạt máy. Mụ Ty nói:

“Sửa phên, lợp nhà thì được. Câu điện chi cho phí. Tui mù loà, ngày như đêm, cần chi đèn đóm. Bắt quạt máy mần chi, lỡ nó rớt xuống, bể đầu. Khi mô nóng, ra ngồi bên hè, lấy mo cau mà quạt cũng đủ mát rồi.”

Ông Thu thuê một đứa cháu họ của mụ Ty, đến ở chung để chăm sóc, đi chợ, nấu nướng cho mụ. Mỗi ngày mụ được ăn cơm không độn khoai sắn, có cá kho, thịt luộc. Mụ Ty sung sướng hớn hở. Mụ nói với đứa cháu;

“Ăn sang phung phí như ri, ngày mô cũng thịt, cá, thì có núi của cũng sập. Thôi, đừng hoang phí nữa. Cứ cơm trắng với mắm nêm, mắm ruốc, rau luộc là đủ, sung sướng lắm rồi.”

Đưá cháu cười nói:

“Dượng Thu đã đưa tiền cho chú Hai, dặn phát tiền chợ cho cháu. O đừng lo. O mà ăn ngon, thì cháu cũng được ăn ngon theo. Cả đời, chưa khi mô cháu được ăn no, sung sướng, như bây chừ cả. Cháu hỏi thiệt, O đừng giấu cháu nghe. O bỏ thứ “bùa” chi, mà dượng Thu Việt kiều mê O dữ rứa? Dạy cho cháu với. Cháu thương thằng Bường, mà hắn cứ lờ tít đi, như không biết chi hết.”

“Mụ nội mi. Bùa chú chi mô. Người ta ở bên Mỹ, tau ở đây, mù loà, có bùa cũng không bỏ được. Miềng ăn ở ngay thật, hiền lành, trời thương nên đem dượng Thu mi về đây cho tau.”

Mụ Vàng người trong xóm, trước đây thường hay cho mụ Ty khoai sắn, ghé nhà ngồi nói chuyện, trước khi ra về nói:

“Mai mốt o qua Mỹ, làm ra tiền, đừng quên tui. Nhớ gởi về cho nhiều nhiều, để tui xây gạch, lợp ngói căn nhà nghe.”

Chú Trọng dặn dò tha thiết:

“Tui biết chị tốt lắm, qua Mỹ thế nào cũng gởi tiền về cho tui mua cặp trâu, đi cày thuê. Cả đời tui, mơ ước có được con trâu, chị không giúp, thì không khi mô có. Đừng vì giàu sang sung sướng mà quên bà con nghèo.”

Mụ Ty hoang mang lắm, nhưng cứ nói thật những ý nghĩ trong lòng mụ:

“Sợ không có, chứ có thì phải nghĩ đến bà con, phải chia xẻ cơm áo cho nhau chớ. Như bà con đã chia khoai sắn cho tui sống mấy chục năm ni. Cậu đừng có lo. Tui mà có của thì chia hết. Nghe bà con nói chuyện, tui nghĩ là Tây, Mỹ nó ngu lắm, để tiền, để của ngoài đường, cho mình qua đó mà hốt, như hốt cứt trâu ngoài ruộng”

Mụ Viện, nhà ở xóm trên, có đứa con gái ba mươi lăm tuổi bị ly dị. Cô nầy về ở với cha mẹ. Mụ Viện đến năn nỉ mụ Ty, đề nghị thẳng thừng:

“Chị tra (già) rồi, đi Tây, đi Mỹ làm chi, bên đó lạnh lắm, chịu không nổi mô. Mà đã tra dư ri (già như thế nầy), còn đi lấy dôn (chồng), thiên hạ, làng nước, con nít, chúng nó cười cho thúi trốt (thối đầu). Trẻn lắm (xấu hổ). Thôi thì chị nhường ông Việt Kiều đó cho con Thại nhà tui, hắn còn trẻ, chịu được lạnh, có thể giúp ông Việt Kiều nhiều chuyện, đẻ cho ông vài ba đứa con. Phần chị, thì ở đây đã quen, đi mô cho mệt.”

Mụ Tý nghe mà rưng rưng nước mắt, vì xưa nay đã quen bị thiên hạ chèn ép mà không dám kêu ca. Mụ nói nho nhỏ, sợ mất lòng mụ Viện:

“Chuyện đó, thì tùy ông Việt Kiều, nếu tui chịu nhường, liệu ông nớ có chịu hay không?”

Mụ Viện giục:

“Răng mà không chịu. Con Thại còn trẻ, còn đẹp, khỏe mạnh, chứ có ốm o bệnh hoạn như, như ai đó mô. Thì chị cứ nói cho đến khi ông nớ chịu. Không nói thì mần răng người ta biết.”

“Tui không dám nói mô.”

“Tại răng mà không dám nói? Có chết chóc chi mô?”

Mụ Ty khóc rấm rứt:

“Chết tui cũng không dám nói. Chị có gan thì nói thẳng với ông Thu đi. Nói được thì tui chịu nhường”

Nói đến đó, mụ Ty tủi thân quá, khóc oà lên. Tưởng như đã mất ông Thu rồi. Đứa cháu săn sóc mụ Ty, nghe mà giận quá, xen vô, nói lớn tiếng:

“Cái mụ Viện ni vô doang (vô duyên) chưa tề. Người ta ưng dau (yêu nhau) cả mấy chục năm ni, đêm ngày thương dớ (nhớ). Chị Thại con của mụ, mập thù lù, bị chồng chê, bị ly dị, chớ có quý báu chi. Có tình nghĩa chi mà nhảy vô đòi giành ăn. Ở bên đó, đầm Tây, đầm Mỹ đẹp như tiên, như thánh, trắng như trứng gà bóc, ông còn chưa chịu nữa, huống chi con của mụ, thấm vô mô.”

Mụ Viện giận dữ nghiến răng gào lên:

“Nì, cái con quỷ cái, tau bả (vả) cho văng răng ra bi chừ. Việc chi mà mi xía vô chuyện người ta? Mi biết chi mà nói. Câm cái mồm lại.”

Đứa cháu trả treo:

“Nói ngang xương dư rứa (như vậy), quỷ sứ nghe cũng không lọt tai. Tức đến nghẹn họng.”

Có nhiều người nữa, đến bắt mụ Ty hứa hẹn đủ điều. Ông chủ tịch xã cũng nói với mụ Ty, yêu cầu ông Thu giúp đỡ, ủng hộ một món tiền, đủ để xây lại lại trụ sở uỷ ban hành chánh xã cho khang trang hơn. Mụ Ty đạo đạt những lời yêu cầu của bà con đến ông Thu. Ông cười hiền:

“Tội nghiệp bà con quá. Chắc qua Mỹ, tui với mụ phải tổ chức một băng cướp, đi ăn cướp ngân hàng, đem tiền về giúp bà con mình.”

Mụ Ty không hiểu lời nói đùa của ông Thu, hốt hoảng nói:

“Đi ăn cướp? Tui không làm được mô. Tui mù loà, mần răng mà chạy trốn cho kịp. E cũng ở tù rục xương. Rứa thì lâu ni, ở bên Mỹ, eng làm việc chi?”

“Đi cày”- Ý ông Thu muốn nói đi làm cực nhọc như đi cày vậy, nhưng mụ Ty không hiểu, hỏi:

“Ruộng có diều (nhiều) không? Được mấy sào? Qua bên đó, tui cũng giúp xay lúa, giã gạo được”

“Bây chừ thì về hưu rồi, nghỉ đi cày.”

“Rứa thì lấy chi mà ăn?”

“Tiền để đèng” (để dành) – Ông Thu nói tiếng Quảng Trị cho mụ Ty dễ hiểu.

Mụ Thu xuống giọng, nói nhỏ như sợ người khác nghe được:

“Để đèng diều (nhiều) không? Được năm lạng không?”

“Được”

“Rứa thì giàu quá! Chôn cho kỹ. Coi chừng bị trộm hết, không có ăn, khổ lắm đó.”

Gian nan lắm, ông Thu mới hoàn tất được thủ tục, đưa mụ Ty về Mỹ. Phía chính quyền Việt Nam làm khó khăn, ông phải vất vả chạy mua giấy khai sinh, phải nhờ người đút lót tiền mua các loại giấy tờ chứng minh cần thiết. Bộ ngoại giao và di trú Mỹ nghi ngờ ông âm mưu đưa người nhập lậu qua khe hở của pháp luật. Ông cố gắng giải thích về sự thành thật của ông, mà không ai tin. Giá như ông cưới một cô gái trẻ, đẹp, thì được dễ dàng thông qua. Ông kể câu chuyện tình hơn nửa thế kỷ của ông cho viên chức ở toà đại sứ Mỹ nghe, họ càng không tin hơn, cho rằng ông bịa chuyện. Cuối cùng, ông phải thuê luật sư can thiệp, và nhờ thêm dân biểu, nghị sĩ vùng ông ở viết thư cho bộ ngoại giao và sở di trú. Thời gian thủ tục giấy tờ dài hơn gấp đôi bình thường.

Trên máy bay về Mỹ, ngồi bên cạnh mụ Ty, ông Thu thấy tình thương dạt dào rộn lên trong tim. Nhìn mụ Ty ngồi dựa ngửa đang lơ mơ ngủ, ông thấy mụ đẹp hơn cả “con Ty” mười bốn tuổi ngày xưa có cái răng khểnh. Ông hứng khởi, hát nho nhỏ bản nhạc Suối Mơ của Văn Cao: “… từng hẹn mùa xưa xây nhà bên suối, nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương ngát, đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi…”

Mụ Ty, quay mặt lại nói:

“Eng hát hay quá”

Ông Thu cười:

Ông Thu vuốt nhẹ bàn tay khô xương, sần sùi của mụ Ty, mà lòng vui rộn rã.

Tràm Cà Mau

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Tình Người Phi Công

Đây là lần đầu tiên bốn người chúng tôi được phép gia đình cho đi Đalat chơi 2 tuần trong dịp nghỉ hè. Còn đến mấy hôm nữa lên máy bay mà chiều nào 3 bạn cũng đến nhà tôi dự định đủ thứ chuyện.

Minh Châu lên tiếng:

– Mẫu Đơn ơi, kỳ này đi chơi bạn không được mặc áo dài trắng nữa nha.

Hải Yến:

– Đúng đó, áo dài trắng chỉ để đi học thôi. Đi chơi phải mặc quần tây, áo đầm.

Tú Anh:

– Tại sao bạn không được mặc áo dài trắng Mẫu Đơn biết không?

– Mẫu Đơn đâu có biết.

Bốn chúng tôi học cùng lớp 11 nhưng Mẫu Đơn nhỏ tuổi nhất, hiền nhất và cũng đẹp nhất. Mọi nét trên gương mặt không có gì đặc biệt nhưng mắt, mũi, miệng đó hài hòa vào nước da trắng nuột thì lại là một mỹ nhân phúc hậu tuyệt vời tinh khiết, ngơ ngác và thật ngây thơ với chiếc áo dài trắng tha thướt cao gầy nên có biệt danh là Búp Sen Trắng.

Xe vào phi trường Nhatrang hơi sớm, chúng tôi lên nhà hàng ở tầng lầu một uống nước chờ máy bay Air Việt Nam. Ngày trước nơi đó là chỗ của người Pháp trú ngụ thường có những buổi dạ vũ thâu đêm vịnh nguyệt thưởng hoa.

Đang tìm bàn trống bỗng một người đứng dậy nhường chỗ cho chúng tôi, anh mặc thường phục nhưng kiểu cách nói chuyện với những chàng phi công ngồi gần đó, biết anh tên Khải, bay khu trục cơ A1 Skyraider. Hôm nay anh được nghĩ dưỡng sức 2 tuần ở Đalat.

Chúng tôi đến Đalat ngụ trong ngôi biệt thự của anh tôi, do vợ chồng người bà con làm quản gia săn sóc nhà cửa, nhà có sẵn xe hơi nhưng chú quản gia và 4 chúng tôi đều không biết lái.

Sáng nay cả bốn chúng tôi ra chợ Hòa Bình mua trái cây, lại gặp anh chàng Khải phi công đến làm quen.

– Nghỉ phép lần này chúng tôi gồm 3 người, nhưng hai bạn kia có mục đích riêng rồi.

Minh Châu hỏi:

– Anh biết lái xe không ?

– Biết. Các anh lái máy bay được thì xe nào cũng lái được hết. Mướn anh làm tài xế đi! Năm nào anh cũng được lên đây nghĩ dưỡng sức 2 lần, anh biết nhiều thắng cảnh ở đây lắm!

Bắt đầu từ hôm đó anh vừa là tài xế vừa là hướng dẫn viên cho chúng tôi. Sáng anh chạy vespa đến nhà rồi lấy xe đưa chúng tôi đi thăm hồ than thở, đồi thông hai mộ, thác cam ly, suối vàng, vườn mận, vườn hoa hồng, sân đánh gù, cưỡi ngựa… Có đêm đưa chúng tôi đi uống cà phê nghe nhạc, đứng sắp hàng mua bánh mì pagette nóng dòn trong tiết trời lạnh băng thật hấp dẫn khẩu vị. Hôm nào dì năm, vợ chú quản gia, làm món ăn ngon đặc biệt chúng tôi liền mời anh ở lại dùng cơm. Anh bày cách để vào lò sưởi những củ khoai lang hay đậu phộng mà không bị cháy, anh kể cho chúng tôi nghe về đời lính và những chuyến bay đại bàng vẫy vùng xé mây cỡi gió nơi lưng chừng trái đất. Học sinh chúng tôi thời đó nam hay nữ đều đọc qua quyển Đời Phi Công của Toàn Phong nên nam sinh có mộng ước sau này sẽ theo nghề phi công, những chàng trai thiên thanh khí phách hiên ngang ưu tú.

Sáng nay tôi đang còn mơ màng trong giấc ngủ, giọng ngâm nho nhỏ của Mẫu Đơn bên tai, tôi nằm yên thưởng thức:

Lặng nghe sóng hát tình ca

Lúc trầm khi bổng ngân nga biển trời

Dạt dào sóng nói bao lời

Yêu bờ nhiều lắm ngàn đời chẳng phai

Nha Trang sóng biếc trải dài

Đảo xanh một dải khiến ai nao lòng

Nắng chiều ươm sắc vàng ong

Đắm mình xuống biển tan trong sóng tình

……………………………….. (Đặng Minh Mai)

Minh Châu và Hải Yến chạy ào vào phòng nên Mẫu Đơn ngừng lại. Hai bạn leo lên giường lùa tôi và Mẫu Đơn vào giữa. Hải Yến nói:

– Yến và Minh Châu đang bàn về tương lai, những nghề tụi mình sẽ chọn khi xong lớp 12. Yến sẽ chọn học làm cô giáo, Châu sẽ học bác sĩ, Mẫu Đơn cũng học bác sĩ.

Châu vừa cười vừa nói:

– Mẫu Đơn không được học bác sĩ.

– Tại sao ?

– Vì Mẫu Đơn trắng quá, còn Châu lại đen nên người ta sẽ kêu bác sĩ trắng, bác sĩ đen mà quên mất tên chúng mình.

Thật ra nước da Minh Châu ngâm đen nhưng rất có duyên, bạn có đôi mắt to lấp lánh, lông mi dài cong thật đẹp, bạn rất thương Mẫu Đơn ngây thơ nên hay chọc.

– Vậy Mẫu Đơn học nghề như Hải Yến .

Yến lại nói:

– Không được. Bạn mà làm cô giáo thì học trò đến học hết, Yến sẽ thất nghiệp.

– Mẫu Đơn dạy con nít học mà.

– Cũng không được luôn, vì con của Yến sẽ kêu Mẫu Đơn là mẹ và tan trường Yến đến đón nó sẽ không chịu về nhà.

Thấy Mẫu Đơn sắp khóc, tôi lên tiếng:

– Học ngân hàng với Tú Anh.

– Không. Mẫu Đơn không thích đếm tiền.

– Làm ngân hàng vui lắm! Người đến gởi tiền vì họ dư tiền nên rất vui! Ai đến rút tiền, có tiền trong tay họ cũng vui nữa.

Chúng tôi lo tán dóc quên luôn giờ khắc. Dì năm vào gõ cửa nói có anh Khải đến, mới nhớ hôm nay đã hẹn anh đến đây ăn sáng rồi anh đưa chúng tôi đi chụp hình.

Chúng tôi trang điểm thay quần áo thật nhanh để còn ăn sáng, không để anh Khải chờ lâu. Hôm nay Mẫu Đơn diện áo đầm trắng, tóc gắn 2 chiếc nơ màu xanh nhạt lung linh, những sợi nubang dịu dàng buông lơi thả dài đậu xuống bờ vai lênh đênh mềm mại. Tất cả đều ồ lên vì bạn như một nàng tiên, không ai mặc màu trắng đẹp tinh khôi như bạn. Ba chúng tôi đều biết anh Khải rất thích Mẫu Đơn nhưng anh vô cùng tế nhị, anh hiểu tình bạn thân thiết của chúng tôi nên dù có cảm tình đặc biệt với Búp Sen Trắng, anh vẫn đối xử đồng đều, không săn sóc một mình Mẫu Đơn và cũng không nói chuyện riêng. Tánh lịch sự của anh làm chúng tôi nể phục và mến những anh chàng phi công nhiều hơn.

Anh yêu Mẫu Đơn nhẹ nhàng như những làn gió vân du đồng xanh bát ngát, như mây xanh quấn mềm quanh sườn núi hay vắt trên bầu trời quê hương năm tháng anh bay qua, anh thầm lặng mà không vội vã, anh trao tình yêu cho Búp Sen Trắng một cách vô cùng ưu ái nâng niu để Búp Sen Trắng thấy tình yêu thiêng liêng mầu nhiệm, anh thăng hoa thời gian bên nhau đẹp như khúc nghê thường chơi vơi bình yên dịu ngọt.

Sau chuyến đi Đalat về, 3 chúng tôi tìm mọi cách cho anh và Búp Sen Trắng có cơ hội gặp nhau. Mẹ Mẫu Đơn mất đã lâu, người kế mẫu là bạn thân của mẹ, bà yêu thương và lo lắng cho Mẫu Đơn hơi quá nên trở thành nghiêm khắc.

Những lúc 4 đứa ngồi ở biển chờ anh Khải đi bay về để trao Mẫu Đơn cho anh, chúng tôi thường đùa.

– Hay là Mẫu Đơn đừng vào đại học, hãy tìm một trường nào dạy làm vợ mà học. Anh Khải đẹp trai cao ráo, không quân kiểm tra sức khỏe của anh, mắt, mũi, miệng, răng, tai và bộ đồ lòng lại hoàn toàn khỏe mạnh, thì Mẫu Đơn học bác sĩ làm gì.

Nói xong là ba chúng tôi cười ngặt nghẽo rồi chạy ra ba ngã để Mẫu Đơn đứng lóng ngóng không biết đuổi theo hướng nào bắt lại, tiếng reo vui rộn rã hòa cùng biển trời mây nước.

Đôi khi 4 đứa rủ nhau đến nhà anh, bác gái là người đàn bà gương mẫu, chồng chết từ lúc còn trẻ mà ở vậy nuôi con. Bác rất thương Mẫu Đơn, bác nói cô bé đẹp phúc hậu. Chúng tôi đều hỏi:

– Còn con thế nào.

Bao giờ bác cũng cười và nói.

– Các con đều đẹp cả. Tuổi 18, 19 là tuổi trăng tròn, sáng nhất, đẹp nhất!

Anh Khải treo hình chúng tôi đầy phòng khách, có cả tấm hình 4 đứa nằm gối đầu trên vai, trên lưng nhau thật tự nhiên thân mật, hoặc nắm tay nhau từ trên đồi chạy xuống.

Hải Yến có dáng đẹp, anh đợi lúc Hải Yến bước qua chiếc cầu nho nhỏ, tay e ấp dịu dàng nhẹ nâng tà áo trong vạt nắng vàng là anh chụp, hoặc Hải Yến đưa bó hoa hồng lên cao, chúng tôi nhón gót lên cùng nhau dành giựt.

Minh Châu có đôi mắt đẹp mơ như sao trời, anh chụp Minh Châu ngã người ra sau, đôi mắt huyền long lanh biết cười cùng chiếc miệng sen hồng duyên dáng.

Tôi có bàn tay đẹp, anh chụp lúc hai tay tôi ôm quả dưa hấu như vỗ tròn niềm vui đan nhau quấn quít, màu xanh đen của dưa làm nổi màu trắng của những ngón tay thon dài ngà ngọc.

Và Mẫu Đơn đang ngồi ôm đầu gối vì đi mõi chân, anh đến gần kêu tên, cô bé giật mình nghiêng đầu nhìn lên ngơ ngác hiền thục nguyên trinh, anh bấm máy hình liên tục rồi lựa ra một tấm hình thật đẹp. Các anh phi công mỗi ngày đều bay trên bầu trời cao rộng nên cực kỳ lãng mạn, anh thích nét thánh thiện nên chúng tôi muốn cười nói gì cũng được, vẫn có những hình ảnh mảng mầu kỳ ảo vô biên.

Anh rủ chúng tôi cùng đến nhà Mẫu Đơn để anh xin gia đình Mẫu Đơn cho một lời hứa như đính hôn, rồi anh sẽ đợi ngày Mẫu Đơn học xong. Chúng tôi nghĩ anh sợ Búp Sen Trắng nở, hương thơm bay tỏa ra ngan ngát, ong bướm nghe mùi thơm tìm đến.

Gia đình Mẫu Đơn không hứa hẹn gì cả, chỉ nói Mẫu Đơn còn nhỏ, nhưng sau đó chúng tôi biết là họ không bằng lòng. Lý do:

1/ Anh không còn đủ song thân (dù là ba anh là một người yêu nước có tiếng ở trong Quốc dân đảng, bị Việt Minh ám sát).

2/ Nhà anh nghèo.

3/ Anh là một phi công, mạng sống quá mong manh, chết sống không biết lúc nào (anh là con một và còn mẹ già, anh được miễn đi lính, nhưng giòng máu yêu nước từ cha ông truyền lại quá mạnh nên anh phải đi bảo vệ đất nước).

Anh đến nhà Mẫu Đơn xin mấy lần đều bị từ chối, lần sau cùng anh đưa bác gái đến cũng được trả lời Mẫu Đơn còn quá nhỏ. Chúng tôi sợ anh nản lòng nhưng anh nói dù chướng ngại bao lâu, anh vẫn không nản lòng, anh chỉ sợ mạng sống anh không còn lúc đó anh mới đầu hàng.

Anh chẳng ngại thời gian đâu

Chỉ cần em hứa bao lâu cũng chờ..!

Nhớ em anh viết vần thơ

Câu thương câu nhớ câu chờ đợi em

( Thanh Tâm)

Khải chưa bao giờ này sinh ý nghĩ oán trách gia đình Mẫu Đơn không chấp nhận mình, anh hiểu chính anh còn dám hy sinh thân xác mình cho quê hương yêu dấu, thì cha mẹ nào cũng muốn con mình có được người chồng đầy đủ vật chất lẫn tinh thần để bảo bọc con của họ vững bền hạnh phúc.

Gia đình bắt Mẫu Đơn đi du học để quên mối tình đầu, chọn Canada hay Nhật tuỳ ý. Mẫu Đơn chọn Nhật Bản, chúng tôi kêu chọn Canada nhưng bạn chỉ cười và không nói gì. Hôm đưa bạn ra sân bay để đi du học có anh Khải, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy hai người sắp rời nhau lại không buồn. Sau này mới hiểu các anh Không Quân bay loại Skyraider hay A 37, F5, mỗi 6 tháng phải đi Nhật thử độ cao 1 lần. Mẫu Đơn đã biết và có kế hoạch rồi, dẫu người nơi góc biển trông đợi kẻ cuối chân mây nhưng vẫn còn bên nhau mỗi năm 2 bận.

Rồi tháng 3 năm 75 miền Trung cao nguyên Kontum, Ban Mê Thuộc bị bỏ trống, dân chúng ào xuống Nhatrang. Còn người dân Nhatrang thì tìm phương tiện đi vào miền nam. Những năm sau này gia đình Mẫu Đơn làm ăn thất bại, vé máy bay Air Việt Nam lại không mua được dù có tiền. Mẹ anh Khải đã mất, anh đến nhà Mẫu Đơn, đưa cả gia đình di tản vào Sài Gòn, rồi qua Mỹ.

Dù chưa bao giờ biết đầu hàng trước thử thách chông gai, nhưng đôi khi Khải sợ tình yêu của mình cũng đi vào huyền thoại trái ngang như cung trầm chỉ còn lại dư hương mênh mang thương nhớ, không ngờ anh cũng có một mái ấm hoàn toàn hạnh phúc với cha mẹ cùng vợ đẹp giỏi giang, ngây thơ trong trắng để anh nâng niu như kho báu, như biệt danh mà các bạn đã đặt BÚP SEN TRẮNG vô vàn thanh khiết, hai dòng sông rồi cũng hòa vào một ở nơi cho vẹn tròn mơ ước.

Anh tặng em một tình yêu trọn vẹn
Em giang tay nhận lấy cất vào tim
Cảm ơn anh tình nồng trao nhau đó
Em mơ màng hạnh phúc chẳng có tên.

(Ngọc Dung)

TRUONG KIM BAU

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Post by mexanh »

Image

NGƯỜI MẸ CÔ ĐƠN.

Phan
Sáng nay rỗi việc, tôi nhận lời ủy thác của anh bạn nhờ tôi chở một bà cụ với hai cái va li và một tấm nệm từ Dallas đi Arlington, vì xe anh không chở được tấm nệm nên anh mới nhờ tôi.

Tôi đến căn nhà mới xây (theo địa chỉ). Nhìn qua cũng biết giá trị căn nhà hơn hai trăm ngàn. Tôi nghĩ nhà đất ở đây rẻ, chứ căn nhà mới này ở Cali, hay Boston, thì bạc triệu. Người Việt Dallas giàu quá khi tôi vừa lái qua những căn nhà xập xệ của người Mễ chừng vài chục ngàn.

Xe lăn bánh, tôi không khỏi ngậm ngùi với hành trang nghèo nàn của bà cụ nhỏ thó, bệnh hoạn. Ngoài tấm nệm, hai cái va li cũ, lớn nhỏ không đều, lại khác hiệu, đủ biết chủ nhân không giàu; một bà cụ gần đất xa trời còn lỉnh kỉnh túi xách, rổ nhựa đựng quần áo chưa giặt-có cả hũ thức ăn khô gì trong đó nữa… “Người đàn bà đi cầu hôn thần chết”. Tôi đặt tên cho cụ trong tư tưởng kín bưng của mình.

Thấy cụ thở không ra hơi lúc lên xe làm tôi cũng hơi lo. Nhưng nhìn kiếng chiếu hậu thì cụ không đến nỗi khiến tôi phải đổi lộ trình vô bệnh viện gần nhất. Tôi mong đến nơi càng sớm càng tốt.

Xe ra xa lộ bon bon rồi. Cụ khoẻ lại sau cú leo lên cái xe hơi cao.

Cụ hỏi tôi, “Anh được mấy cháu?” -để mở đầu tâm sự của người mẹ cô đơn trên nước Mỹ bao la… Cụ vô chuyện lòng nhẹ hều như hơi thở của cụ ban nãy…

“…Ông nhà tôi ngày xưa là sĩ quan Phòng 7 – Tổng tham mưu. Sau 75 đi tù. Nhưng tôi nhờ được tay cán bộ lớn bảo lãnh chồng tôi ra. Tôi chỉ nói chồng tôi là người bắt điện thoại ở Tổng tham mưu ngày trước… Vì thế, ông nhà tôi về sớm, nhưng không được đi theo diện H.O là vậy! Ông ấy về sớm, nhưng buồn chán nên chết sớm…”

Bà cụ khóc trong kính chiếu hậu – thật cay đắng! Tôi nghĩ thế, nhưng không hiểu cay đắng lẽ gì? Cay đắng cho người vợ lính trong chiến tranh và hoà bình ở quê xưa, hay cay đắng cho chuyện nhờ cậy bên thắng cuộc, và hậu quả…

Cụ tỉ tê cho tôi nghe, từ băng sau xe, tiếng cụ rặt giọng Bắc làm tôi nhớ mẹ tôi nhiều…

“… tôi kém phước anh ạ! Tôi có mười hai người con. Chín đứa còn ở Việt Nam, ba đứa bên Mỹ. Tôi không đi ở nhà con này, con kia như anh nghĩ đâu. Tôi đi ở thuê nhà người ta đây! Vì con gái tôi ở Arlington thì nó đang sống chung với chồng con và bố mẹ chồng của nó. Tôi đâu ở chung được. Thằng con trai thì cũng sống chung nhà với vợ con và bố mẹ vợ của nó. Tôi cũng không ở chung được. Còn căn nhà mà anh đến đón tôi là nhà thằng con cả. Cả đời tôi mới ở nhà con đúng mười ngày thì phải nhờ anh đến dọn đi đây…”

“Bác qua Mỹ lâu chưa? Trước đây, bác ở đâu?” Tôi hỏi cụ,

“Tôi qua Mỹ được 9 năm. Mỗi năm tôi ở Mỹ 9 tháng, về Việt Nam 3 tháng – toàn ở mướn chứ không ở với con cái nào được, như tôi đã nói. Nhưng bây giờ tôi phải ở Mỹ lâu dài để trị bệnh. Khổ là tôi không thể ở nhà thằng con cả được. Hôm tôi mới từ Việt Nam qua, tháng trước. Tôi ở nhờ con cháu ở Apartment vì tôi bệnh quá nên cũng cần có người ở bên tôi đêm hôm. Nhưng phòng nó chật chội và phiền phức quá nên thằng cả đến đón tôi về nhà nó ở. Tôi cũng bất đắc dĩ vì bệnh hoạn chứ đâu muốn làm phiền con cái. Nhưng buồn lắm anh ạ! Tôi ở được đúng mười ngày thì hôm nay phải dọn đi thôi. Tôi định dọn về Houston, ở với đứa con gái của người hàng xóm với tôi bên Việt Nam xưa kia. Nó hứa giúp tôi. Nhưng con gái tôi đã xin trị bệnh cho tôi ở Arlington, nên tôi phải dọn về Arlington để trị bệnh vài tháng. Không chết thì tôi dọn về Houston với con gái người hàng xóm…”

Tôi nghe tâm sự buồn nên cũng kém vui mà thưa cụ, “Bác lớn tuổi rồi, lại bệnh hoạn. Đâu thể xa con cái ruột của bác được, vì khi hữu sự thì ai lo cho bác. Và sao lại đi sống với người con của người bạn ở mãi Houston. Bác nên suy xét lại chuyện đó cho cảm giác của con cái bác. Các anh chị có hoàn cảnh đã khó, bác làm mẹ nên không nên… xử sự như thế! Bác hiểu ý cháu chứ! Bác ở share phòng ở nhà người dưng vì hoàn cảnh, nhưng gần con gái bác là ổn lắm rồi!”

“Thì bây giờ tôi dọn đến ở với hai vợ chồng ông này ở Arlington. Họ đã hơn sáu mươi tuổi, nhà không con cái. Ông chồng ở nhà ăn tiền bệnh, vợ còn đi làm. Tôi cũng gần con gái tôi rồi, có gì nó chạy sang giúp tôi… Anh nói cũng phải nhỉ!”

“Cháu xin lỗi…”

“Anh ạ! Họ cho tôi thuê một phòng, không hạn chế sử dụng restroom anh ạ! Tôi thật mừng. .”

“Bác nói sao…?”

“Cơ khổ. Ở nhà thằng con cả, thì con trai lớn nó ở riêng phòng lớn nhất, có restroom riêng trong đó. Không ai được vào phòng nó.”

“Rồi! Thằng đó là bác sĩ hay nha sĩ?”

“Không.. Nó là dược sĩ. Nhưng sao anh hỏi vậy?”

“Cháu đoán thôi! Bác đừng nghĩ xấu về những người tuyệt đối vệ sinh nên không chung chạ được với ai! Hiểu thế, tốt hơn cho bác. Mọi phiền não nhẹ bay… ô-kê!”

“Ô-kê. Tôi hiểu ý anh rồi…”

“Cơ khổ. Còn lại hai vợ chồng thằng cả, thằng con nhỏ và tôi, bốn người xài chung một restroom. Mỗi sáng, tôi đã chịu khó nín nhịn chờ đợi, hỏi con trai, con dâu, cháu nội đã sử dụng restroom xong chưa, rồi mới đến mình. Thế mà thằng con cả vẫn quát vào mặt tôi chiếm dụng restroom lâu quá, chỉ vì một hôm nó đau bụng bất tử sau khi đã dùng restroom trước đó.

Tôi ở mới có chục ngày, mà sáng nào nó cũng cằn nhằn tôi đi restroom xoành xoạch suốt đêm thì nhà cửa nào chịu nổi… Tôi khổ quá! Mình bệnh hoạn, tuổi già, thật là phiền phức…”

“Sao bác không ở bên Việt Nam với con cháu đông vui. Thui thủi bên này một mình làm gì cho khổ.”

“Thì bệnh thì phải đi tìm thầy, tìm thuốc chứ sao anh… Hóa trị với xạ trị thì tiền đâu cho đủ ở bên Việt Nam…”

“Cháu không hiểu được anh con cả của bác sao lại để bác bệnh hoạn, tuổi già như thế này mà đi ra ở share phòng với người dưng? Bác có chuyện gì ai lo? Cơm nước hàng ngày ai nấu cho bác ăn, ai giặt giũ cho bác…?”

“Thì phước phần là thế! Tôi bây giờ chỉ còn cậy vào đứa con gái. Nó cũng đã sáu mươi tuổi rồi. Nhưng còn làm dâu hàng ngày. Tôi lại còn làm khổ nó miếng cơm, tô cháo, gói quần áo cần giặt giũ… Nó làm sao mà kham nổi lo lắng cho chồng con, bố mẹ chồng ngày hai bữa, lại còn mẹ ruột bệnh hoạn phải chạy tới chạy lui. Tôi định về Houston là vậy!

Tôi nghĩ mà buồn cái thằng Cả nhà tôi sướng từ bé. Nó chẳng thiếu thứ gì vì thời trẻ tôi làm ăn được lắm! Cung phụng nó đủ điều hơn người. Nó đi đại học, ra trường, thì mê con vợ nó bây giờ đó. Nó về nhà bảo tôi cưới vợ lúc gia cảnh tan hoang. Tôi bấm bụng bảo nó, ai lại đi cưới vợ tháng Bảy. Cho mợ một tháng để dọn dẹp nhà cửa, và cho qua tháng ngâu đã con. Nói thế để có thêm chút thời gian nghĩ cách cho con chứ mẹ nào từ chối được con cái chuyện nó muốn lập gia thất. Ai ngờ nó đi báo với bên nhà gái, bố mẹ nó đi vượt biên, chết hết rồi!

Có con cái nào như thế chứ! Đám cưới nó không có mặt tôi mà nó nhẫn tâm được. Nó bỏ nhà, bỏ mẹ, bỏ đàn em đi sống riêng, đến khi tôi gượng dậy làm ăn lại được thì nó mới mò về nhà, quát tháo…

Tôi làm ăn lại được thì mới có tiền cho gia đình thằng con trai với gia đình đứa con gái vượt biên, bây giờ chúng ở Arlington là vậy! Còn thằng cả thì làm ăn khá nên cho con nó đi du học, tìm cách ở lại rồi bảo lãnh bố mẹ với em nó qua sau…”

“Tức là thằng cháu đích tôn của bác. Anh chàng làm dược sĩ đó, sanh đẻ bên Việt Nam?”

“Phải.”

“Cháu hiểu rồi! Không có gì thắc mắc nữa! Anh ấy không giống những người trẻ sanh đẻ bên Mỹ là vậy!”

“Cái thằng ấy làm tôi buồn còn hơn bố nó. Nó đi kiểm tra căn phòng tôi ở. Nó hỏi tôi đạo gì? Tôi nói, trên có Trời, Phật. Rồi đến Thần, Thánh… Nó bảo tôi: Cái đạo của bà là đạo cô hồn, chẳng ra gì hết. Tội lỗi, tội lỗi quá!

Nó hỏi tôi đẻ chi cho lắm, để chẳng ở với ai được, rồi làm phiền gia đình nó? Tôi bảo thời bà nào có biết kế hoạch hoá gia đình là gì đâu!

Tôi thấy phải dọn ra khỏi nhà thôi. Nhưng mấy hôm không khoẻ nên còn vướng bận để nó nói tôi, sao bà không ở bên Việt Nam cho xong. Già cả, bệnh hoạn còn lết sang Mỹ làm gì… để phiền cho gia đình nó!

Tôi đi chậm vì chân tôi yếu. Tôi đâu có lết như ăn mày. Anh hiểu không, anh hiểu cái chữ lết nó làm tan nát lòng dạ tôi. Tôi đau đớn hơn ung thư nhiều…”

Nước mắt bà cụ lại chảy thành dòng trên gương mặt nhăn nheo. Làm tôi nghĩ đến cha nào con nấy. Lẽ ra người ta phải học thành nhân trước khi thành tài, thì đời nay tranh nhau lấy bằng… súc vật, để kiếm thật nhiều tiền, đi xe hiệu, ở nhà mới… Người con cả ở nhà mới xây mà để mẹ bệnh hoạn đi ở share phòng. Cụ nói trong nước mắt, “nhẽ như người ta, nó cũng đưa tôi đi, sắp xếp cho tôi chỗ ăn chỗ ngủ ở nơi lạ lẫm quê người này chứ! Anh thấy đấy, anh xin số điện thoại của nó để khi anh đưa tôi đến nơi thì gọi cho nó biết. Nó bảo không cần đấy phỏng! Nhưng khi nó thấy anh chất đồ, ràng buộc cẩn thận như người chuyên nghiệp, người làm việc có trách nhiệm, lương tâm… xe anh lại tốt và mới. Thì nó xin anh số điện thoại để khi nó cần chở đồ sẽ gọi anh. Đấy…”

Biết nói gì để an ủi bà cụ hơn là im lặng chia chung nỗi ngậm ngùi của phận người. Muốn kể cho bà cụ nghe chuyện Đức Phật đi hoằng pháp, nhưng người ta không biết ngài chính là Đức Phật nên hỏi ngài, “Thưa ngài, Đức Phật ở đâu, làm sao tìm gặp Người?” Đức Phật trả lời, “Phật ở trong nhà bạn. Cha mẹ của bạn là Phật. Hãy trở về nhà phụng dưỡng cha mẹ cho thật tốt, là thờ phụng Phật.”

Nhưng kể ra câu chuyện đó là bất nhân với bà cụ vì người nghe phải là cha con anh cả. Càng nên kể thêm những chuyện nhân quả cho những người quên học bài học làm người trước khi học thành tài để giàu có. Phải chăng phong thổ địa dư làm nên người anh cả trong bài ca dao bất hủ,

“bốn con ngồi bốn góc giường
mẹ ơi, mẹ hỡi, mẹ thương con nào
mẹ thương con út mẹ thay
thương thì thương vậy có tày trưởng nam
trưởng nam ăn được gì đâu
một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam”

Thôi làm thằng anh Hai như đứa bé mồ côi theo phong thổ địa dư xứ nó, câu chuyện ngắn chữ mà dài ý, kiệm lời mà sâu xa. Nó không tốt nghiệp đại học nào, không có bằng cấp gì… mà ai cũng xem trọng cái khí khái của nó. Chuyện kể mắc cười mà người đọc chậm nước mắt như sau:

… một cái xe hơi bóng loáng đang chạy trên đường. Không ai biết bên trong xe có người mẹ giàu có, đang dỗ dành cậu ấm của mình ăn miếng bánh kem đi con, ngon lắm đó! Nhưng thằng bé nhà giàu cáu gắt với mẹ vì không muốn ăn, nó bấm kiếng xe hơi xuống và ném quách miếng bánh kem xuống đường.

Trong khi thằng bé mồ côi nhanh mắt thấy được, nhanh chân chạy đến, nhanh tay xớt ngay miếng bánh lên tay mình. Phải cái xe vận tải nhanh hơn lao tới nó. Nó thì nhanh hơn thần chết là lao mình thoát thân – miếng bánh tõm xuống miệng cống. Công cốc.

Con em gái nó khóc ré lên,

“Anh Hai thiệt tình! Làm bánh lọt xuống cống rồi lấy gì ăn?”

“Thôi nín đi em…”

Nó xoè bàn tay còn dính kem của nó ra, “Nè, cho em ba ngón. Anh Hai hai ngón.”

Anh Cả với anh Hai khác nhau ở tư cách chứ không phải văn bằng, địa vị hay nhà, xe… Nhưng nói ra làm gì cho thêm đau lòng bà cụ…

Tôi đến căn nhà mà bà cụ sẽ ở trọ vài tháng để chữa bệnh. Tôi biết bà cụ này không chết đâu, sức khoẻ có tệ nhưng nghị lực lớn lắm! Khoẻ lại là cụ sẽ đi Houston. Linh tính tôi mách bảo về bà cụ mới gặp lần đầu nhưng hiểu cụ như thân vì tôi cũng không thích làm phiền, để khổ cho người nhà.

Con gái cụ xin nghỉ làm nửa buổi để giúp cụ dọn vô nơi ở mới. Tách xách theo túi cơm, canh nấu vội cho mẹ có cái ăn. Tội cả hai người bị hoàn cảnh hành hạ đến khổ tâm. Đêm nay, người con khó ngủ vì lo mẹ có ngủ được không ở chỗ lạ. Trong khi sáng mai chị vẫn phải thức dậy đúng giờ để còn đi làm. Chị còn phải lo chồng con, cha mẹ chồng… thêm người mẹ ruột bệnh hoạn cũng cần bàn tay con cái giúp đỡ lúc tuổi già, đau yếu,… Còn cụ, đêm nay có ngủ không, trong căn phòng lạ, khi nghĩ tới người con cả và thằng cháu đích tôn của mình. Ai rót cho cụ ly nước sau cơn ho khan đêm khuya, hay cụ tự hứng nước mắt mình để giải khát nỗi cô đơn trên xứ Mỹ lạnh lùng.

Tôi thì không ngủ được đêm nay rồi, vì bà cụ… đúng là “má tui”! Hoàn cảnh nào cũng chơi ngon, chơi đẹp, xả láng sáng về sớm. Tôi dọn nệm cũ trong căn phòng ấy ra, vì ông chủ nhà ăn tiền bệnh thì làm được gì, nhìn ông đi… còn chậm hơn bà cụ. Tôi bỏ nệm của cụ lên giường thẳng thớm, xách đồ vô phòng cho cụ xong xuôi… Tôi chào từ biệt để ra về. Nhưng cụ,

“Này anh ạ! Cảm ơn anh đã giúp tôi tận tình. Nhưng thế này, hôm qua, bạn anh có nói với tôi là một trăm đồng tiền xe. Thì đây, tôi xin gởi anh một trăm. Tôi xin gởi thêm anh hai chục… biếu anh uống cà phê, chơi thôi!”

Đúng là bà già chịu chơi chơi tới cùng giăng mùng chơi tới sáng, nên tôi nói, “Thôi bác cất hết đi. Coi như cháu giúp bác. Cháu không làm nghề này, chỉ vì sáng nay rảnh và xe cháu chở được tấm nệm nên cháu mới đi giùm ông bạn cháu thôi.”

“Đâu thế được! Anh cầm lấy cho tôi vui. Tôi còn một việc nhờ anh giúp, là sáng nay tôi không ăn sáng ở nhà thằng cả. Bởi tôi kể chuyện ngày xưa thì cháu nội bảo là bà chẳng có chuyện gì mới để nói hay sao? Tôi ở trong nhà từ sáng tới… sáng mai thì biết đâu chuyện mới để nói. Tôi kể về thằng cả ngày còn bé, thì vợ nó nói nhàm quá, kể hoài… Mà giời không cho tôi câm nên tôi đói vì giận – không ăn. Tôi định bụng bảo anh chở tôi đi ăn sáng khi ra khỏi nhà. Nhưng bây giờ thì tôi mời anh đi ăn… bữa kỷ niệm với tôi. Anh chở tôi đi ăn… món gì thật ngon vào. Tôi không có nghèo đâu, còn đồng nào trong túi thì cứ tiêu đồng ấy cho nó vui vẻ. Mình đi thôi anh ạ!”

Từ chối cách gì cũng không được với bà cụ. Ra nhà hàng thì lại chưa tới giờ mở cửa… Tôi bảo cụ, bác cháu mình vô chợ rảo chơi, cho bớt nóng. Bà cụ kể chuyện đi thi quốc tịch bị rớt. Nhưng tôi cho là cụ quá giỏi tiếng Anh nên… rớt. Dù cụ đi thi quốc tịch không mất tiền vì đã tám mươi. Nhưng lần sau đi thi lại thì bớt nói tiếng Anh… sẽ dễ đậu hơn. Vì người hỏi thấy người được hỏi trả lời được là hỏi tới, hỏi tới… Bác chỉ cần nhớ cháu dặn là bác không bao giờ nói: Tôi không biết – I don’t know. Mà bác chỉ nói: Tôi biết. Nhưng tôi quên – I know. But, I’m forgetting.

Bác quên chừng hai, ba câu là đậu liền. Vì người già có quyền quên, nhưng công dân Hoa Kỳ không có quyền không biết Tượng Nữ thần Tự do đặt ở đâu; Tổng thống đầu tiên của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tên là gì, Tổng thống đương kim là ai?…

Bà cụ thật lanh trí, chỉ cần nghe và hiểu được một từ trong câu hỏi là cụ đoán ra cả câu hỏi – và biết trả lời bằng tiếng Anh – đúng. Nên bị hỏi tới, hỏi tới, hỏi tới… rớt luôn là vậy! (Thường mấy tay phỏng vấn thi quốc tịch Mỹ nhưng là người Mễ ở Texas không có thiện cảm nhiều với người Việt thì ai cũng biết và thường nghe nói tới trong chuyện thi quốc tịch ở xứ cao bồi. Gặp người phỏng vấn mình là Mỹ đen là dễ nhất, Mỹ trắng khó hơn, nhưng công bằng. Chỉ có Mễ là không ưa Việt Nam…)

Tôi đi ăn tô mì với bà cụ rồi chia tay. Biết nói gì hơn những lời chúc may mắn cho việc chữa trị bệnh tật của bà cụ. Chúc cụ chóng hồi phục, chừng nào muốn đi Houston thì gọi cho hay. Tôi không làm nghề đưa đón nhưng với bà cụ thì tôi khoái cái lối chơi xả láng trước đi, đời có bao lâu mà hững hờ…

Tôi sẽ nhớ câu “còn đồng nào trong túi thì cứ tiêu đồng ấy cho nó vui vẻ.” Tôi sẽ đưa cụ đi Houston khi cụ không thay đổi quyết định, vì nghĩ cho cùng những ngày ở trọ trần gian của cụ cũng chỉ còn ít ỏi như những đồng tiền còn lại trong túi thì tiêu hết đi, tiếc gì, miễn vui vẻ là được. Cũng cóc cần chừa mặt mũi cho con cái khi con đẻ tống mẹ bệnh hoạn ra đường ở tuổi gần đất hơn trời…

Phan

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Vĩnh Phúc- viết về Duyên Anh

Nhà văn Duyên Anh qua cái nhìn của một người bạn thân, Vĩnh Phúc, Senior Producer của đài BBC. Dưới đây là bài viết của Vĩnh Phúc từ Luân Đôn.

oOo

Hôm nay, mở e-mail, tôi thấy một bài, tựa đề 20 năm nhà văn Duyên Anh lìa cõi tạm. Tôi ngồi lặng người, để mặc cho bao nhiêu ký ức về Duyên Anh chợt dồn dập trở về.

Tôi còn nhớ như in, chiều ngày 30 tháng chạp năm Bính Tý, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được tin Duyên Anh qua đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo dương lịch thì là ngày 6/2/1997.

Tang lễ cử hành 10 giờ sáng 14/2/1997, hỏa thiêu lúc 14 giờ cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định phải kể lại những điều tôi biết về Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn hiểu rõ hơn về anh, đồng thời đính chính những hiểu lầm của người đời, do vô tình hay cố ý.

Ngay khi Duyên Anh sống trên đảo Pulau Bidong chờ được sang Pháp sum họp với vợ con, anh đã liên lạc với tôi ở Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đã xảy ra. Hồi đó, có người kể lại với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh làm ăng ten khi đi tù cộng sản, nên họ dọa đánh.

Cũng trong thời gian này, con gái Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey bản thảo hai truyện “Đồi Fanta”, và “Một người Nga ở Sài Gòn”. Tôi thấy trong “Đồi Fanta” tác giả mượn lời mấy đứa trẻ bụi đời để chửi các nhân vật lãnh đạo cũ của VNCH như Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo.

Tôi dùng bút chì đánh dấu những chỗ đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lý do chúng chỉ làm rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh nghe theo lời khuyên mà bỏ những đoạn văn đó. Tôi mừng vì nghĩ rằng môt con người cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và biết nghe lời khuyên hợp lý rồi chăng ?

Nhưng không lâu sau thì chứng nào vẫn tật nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao tình suốt gần hai thập niên 1980, 90, đã có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi.

Có thể nói rằng Duyên Anh mang một cuộc sống nội tâm nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề ngoài khinh mạn, bướng bỉnh, phá phách ? Có những chuyện riêng tư dường như Duyên Anh chỉ giữ kín trong lòng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân nhất, từng gắn bó với Duyên Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hi sinh rất nhiều cho Duyên Anh cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn. (Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh, cô Minh).

Đây là ví dụ cho thấy tình thân giữa hai người bạn, và sự hi sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như thế nào: Hồi hai người còn nghèo, với đồng lương thư ký và chỉ đi làm bằng chiếc xe mô bi lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe Vespa mới toanh đầu đời cho Duyên Anh.

Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, thì chính Đặng Xuân Côn là người vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài nhi, khiến cho các bác sĩ và y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ !

Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc đời Duyên Anh có lẽ từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi vợ theo đạo Chúa. Song hình như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo.

Nguyễn Ngọc Phương – vợ Duyên Anh – là con nhà đại điền chủ miền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em phó tổng thống thời Đệ Nhất Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi là kinh Ông Đề, chính do cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm ruộng. Dù lấy vợ nhà giàu và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ gì cả, vì mẹ ruột Ngọc Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà dì ghẻ khắc nghiệt.

Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết mấy lần về thái độ xem thường của cậu em vợ, để rồi khi đã có danh vọng thì Duyên Anh “tuyết hận” (chữ của Duyên Anh)

Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều nên tôi được biết khá rõ về tính tình của vợ Duyên Anh. Chính vì giữa hai vợ chồng không có được mối quan hệ hòa thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm cho nhau, nên gia đình thỉnh thoảng xảy ra cảnh bất hòa.

Theo ông Trần Kim Tuyến, hồi những năm trước 1975, cứ trung bình khoảng 2, 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến khóc lóc nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lãm, báo Xây Dựng) đi tìm Duyên Anh vì anh chàng cãi nhau với vợ, đã bỏ nhà đi biệt.

Hai vị niên trưởng lại phải cho người đi dò la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đình. Đã đành vợ chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có khi xô”. Nhưng với Duyên Anh hình như tình trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh thoảng”.

Sau này, khi đã lâm cảnh mất nước, mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà cũng vẫn còn cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi tôi cứ giả thiết : nếu Duyên Anh lấy một người vợ tính tình nhu mì, biết cách chìu chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng, thì có lẽ Duyên Anh đã không gây gổ và có cuộc sống gia đình thật hạnh phúc. Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền thì lại ham chơi vung vít.

Khi sống cuộc đời tị nạn ở Paris, không còn tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn còn. Cộng thêm hoàn cảnh sống gò bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn và chỉ còn cách tìm sự khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi cho tôi hồi cuối năm 1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh thổ lộ tâm sự với tôi, còn bình thường không hề hé môi.

Trước đó không lâu, Duyên Anh tỏ ra buồn và cô đơn vì cuộc sống ở Paris không thích hợp với mình, nên đã làm bài thơ Lưu đầy gồm 100 câu gửi tặng tôi. Hiểu rõ tâm trạng Duyên Anh, tôi đã viết trả lời bằng bốn câu có giọng hơi trách móc như sau:

“Đến được đây ta ở lại đây
Có ai vui kiếp sống lưu đầy
Sao vội quên câu “sông có khúc…”
Địa ngục, thiên đàng, ai tỉnh say ?”

Viết như vậy, nhưng tôi biết rất rõ rằng Paris không phải nơi có thể cầm chân Duyên Anh được. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cho Duyên Anh biết rằng đất Mỹ cũng chưa hẳn sẽ là nơi thích hợp với anh. Bởi vì bây giờ thời thế đã đổi khác. Những người bạn mà anh tưởng có thể chia bùi xẻ ngọt, những người trước kia đã nhờ vả anh hoặc tỏ ra hào sảng với anh; tất cả bây giờ đã đổi khác rồi. Sẽ khó trông mong gì ở họ. Có kẻ gặp vận may trở nên khá giả, nhưng họ làm mặt xa lạ chứ không nồng nhiệt với anh.

Có những người còn tình nghĩa nhưng lâm cảnh “ốc chưa mang nổi mình ốc làm sao mang cọc cho rêu”. Tôi cũng nhắc nhở Duyên Anh rằng nếu vẫn cứ muốn đi Mỹ thì phải rất thận trọng. Vì đất Mỹ vốn có lối sống rất bạo động, mà bằng cách ăn nói, viết lách đụng chạm, gây thù oán với nhiều người của Duyên Anh thì khó tránh được tai họa.

Nhưng sau khi đọc hai lá thư cuối cùng của Duyên Anh viết từ Paris, tôi mới hiểu rõ thêm những nguyên nhân thúc đẩy Duyên Anh có quyết định dứt khoát. Trước nhất là sự việc liên quan đến buổi ra mắt 3 băng cassette nhạc do Duyên Anh thực hiện. Trước đó một thời gian Duyên Anh viết cho tôi, nói rằng cần tiền để làm việc này. May mắn là một mạnh thường quân giúp một khoản lớn, một vài anh em khác ủng hộ những món nhỏ. Và Duyên Anh ngỏ ý “vay” tôi một khoản nhỏ, hứa bán xong cassette sẽ trả ngay. Tôi đã gửi “ủng hộ, chứ không vay mượn gì cả”.

Chẳng ngờ, khi buổi ra mắt băng nhạc được tổ chức khá xôm tụ với hi vọng tràn trề của Duyên Anh, thì bất ngờ vợ Duyên Anh ập đến phá đám. Bởi vì vị mạnh thường quân của Duyên Anh là một phụ nữ.

Người này tôi đã biết, và khoảng nửa năm trước đã mời tôi cùng Duyên Anh về nhà ăn cơm. Đây là một phụ nữ đã có hai con gái học trung học và đại học ở Mỹ. “Bị” mời thì tôi đến, nhưng tôi không tỏ ý kiến tán thành hay phản đối mối liên hệ này của Duyên Anh.

Vì tôi nghĩ bạn tôi đã quá khôn ngoan từng trải và nhiều tài hoa do đó đi đến đâu cũng có rất nhiều người mến mộ. Đó là chuyện… bình thường. Còn tôi “tài hèn trí đoản”, nên chỉ biết an phận mà thôi. Vì vụ đánh ghen bất ngờ đó mà Duyên Anh và vị mạnh thường quân được bằng hữu đưa vội ra cửa sau, biến mất; còn quan khách cứ tự động giải tán trong sững sờ.

Sau đó, vợ Duyên Anh tịch thu hết băng nhạc, cho nên không ai mua được, và chỉ một số rất nhỏ bạn thân của Duyên Anh có được các băng nhạc đó mà thôi. Sau vụ này Duyên Anh viết thư cho tôi.

Tất nhiên, không khí gia đình Duyên Anh càng kém vui hơn. Có lẽ sự dằn vặt của vợ đã khiến cho Duyên Anh đi đến quyết định dứt khoát là bỏ gia đình, bỏ Paris để đi Mỹ, mặc dù chưa có quốc tịch Pháp, mà cũng chẳng có một thứ bảo hiểm nào cả, trong đó bảo hiểm du lịch là tối quan trọng.

Chính vì vậy mà khi bị hành hung ngày 30/4/1988, Duyên Anh lâm vào tình trạng rất bi đát. Trong lá thư cuối viết từ Paris, Duyên Anh tỏ cho tôi biết quyết định dứt khoát. Hình như khi sang Mỹ, Duyên Anh đến ở với gia đình Đặng Xuân Côn một thời gian ngắn, rồi đi gặp một số bạn cũ và mới, rồi cũng viết cho một hai tờ báo (hồi đó báo chí Việt Nam ở hải ngoại còn phôi thai lắm). Và dĩ nhiên, Duyên Anh cũng đả kích vung vít khá nhiều người. Đụng chạm lớn nhất có lẽ là với mặt trận Hoàng Cơ Minh mà nghe nói hồi đó đang phát triển mạnh lắm.

Những hệ lụy do Duyên Anh tạo ra khiến đưa đến vụ hành hung thô bạo. Tôi thương và buồn cho Duyên Anh. Không lâu sau khi Duyên Anh đến Paris từ Pulau Bidong, tôi đã sang ngay để phỏng vấn và tường thuật trên BBC.

Còn nhớ, tôi đã chỉ mặt Duyên Anh mà bảo : “Thôi nhé. Từ nay hãy chôn bỏ những thằng Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyện v.v… mà chỉ giữ lại thằng Duyên Anh nhé ! Để cho người ta thương và tránh gây thù chuốc oán. Vả lại, viết lách và làm báo ngoài này rất khác với trong nước như cách các ông quen làm trước 1975”.

Khi đó, Duyên Anh đã cười, trả lời, “Tôi hứa với ông và thề sẽ chỉ giữ lại một thằng Duyên Anh thôi”. Và vợ Duyên Anh đã đúng khi nói : “Anh Duyên Anh thề cá trê chui ống !”

Những huyền thoại quanh vụ Duyên Anh bị hành hung

Đã 29 năm rồi, kể từ cái ngày định mệnh 30/4/1988, ngày nhà văn Duyên Anh bị đánh suýt vong mạng. Lúc đó là 5 giờ sáng giờ Luân Đôn. Chuông điện thoại reo, tôi ngạc nhiên bật dậy khỏi giường và lẩm bẩm, “Ai gọi sớm thế !” Đầu dây bên kia, tiếng vợ Duyên Anh khóc và kể rằng chồng bị người ta đánh hôn mê bất tỉnh, chắc là chết mất !

Tôi sững sờ, hỏi xem tình trạng Duyên Anh ra sao. Chị Ngọc Phương vẫn mếu máo, bảo, “Đưa vào nhà thương, nhưng vì anh Duyên Anh không có giấy tờ, không có bảo hiểm, nên chúng nó vất nằm một xó như con chó, không biết gì cả. Anh làm ơn gọi ngay cho bệnh viện, bảo lãnh cho anh Duyên Anh, thì họa may họ mới chữa cho. Anh làm ngay đi !”

Tôi hỏi tên bệnh viện, số điện thoại, và tên bác sĩ trực hôm đó. Vợ Duyên Anh cho mọi chi tiết. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ được ông bác sĩ hôm đó có tên Fernandez (?) nên đoán ông ta gốc Mễ. Tôi gọi ngay, xin nói chuyện với ông ta, xưng tên họ, là senior producer trong đài BBC London, cho số điện thoại sở cũng như nhà riêng, kèm theo địa chỉ.

Tôi cho biết Duyên Anh là một nhà văn nổi tiếng của VNCH, từ Paris sang Mỹ chơi, chứ không phải một tên vô gia cư. Và tôi thay mặt gia đình Duyên Anh, hứa sẽ thanh toán mọi phí tổn của bệnh viện. Sau đó, tôi gọi luôn đại diện Pen Club International ở Mỹ, nói cho biết sự thể, và đề nghị họ cũng gọi cho bệnh viện để giới thiệu thân thế và sự nghiệp Duyên Anh.

Tôi lại gọi đại diện Secours Catholique của Pháp (một tổ chức thiện nguyện Công giáo) yêu cầu họ làm tương tự. Rồi sau được biết là Đặng Xuân Côn và con trai lớn của Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Chương đã từ Texas bay sang ngay để săn sóc cho Duyên Anh và lo mọi thủ tục giấy tờ.

Tôi yên tâm vì Đặng Xuân Côn và Thiên Chương đã có mặt ngay bên cạnh Duyên Anh. Rồi được biết là sau một thời gian chữa trị trong bệnh viện, Duyên Anh được cho về. Một mạnh thường quân dấu tên (sau này nghe nói là Bùi Bỉnh Bân), đã bí mật đem Duyên Anh về tiếp tục săn sóc.

Theo gia đình Duyên Anh thì người này phải giữ hoàn toàn bí mật, vì vào thời điểm đó người Việt tị nạn sống ở Mỹ rất hoang mang sau vụ Duyên Anh bị hành hung. Trước đó đã thỉnh thoảng có người bị khủng bố hoặc sát hại vì bày tỏ thái độ chính trị.

Vợ con Duyên Anh còn sợ rằng kẻ thù sẽ tiếp tục truy tìm để làm cho Duyên Anh chết luôn hầu bịt miệng. Cơ quan FBI gặp bế tắc vì cộng đồng người Việt tại Orange County không có ai dám hợp tác để giúp cho cuộc điều tra truy tìm hung thủ. Người ta sợ và hèn!

Trong khi đó, lại không thiếu những tin đồn, những lời rỉ tai trong quần chúng cũng như trong giới cầm bút về tình trạng sức khỏe của Duyên Anh. Những người bạn tốt muốn tìm hiểu sự thực cũng mù tịt, trong khi có người tung tin là Duyên Anh đã về Pháp rồi.

Thậm chí có một vài ông trong giới cầm bút còn tuyên bố (như thật) rằng tổng thống Mỹ ra lệnh dùng một chuyến bay riêng để đưa Duyên Anh về Pháp, có nhân viên FBI đi theo bảo vệ ! Ông khác lại nói rằng tổng thống Pháp ra lệnh đem một máy bay đặc biệt sang đưa Duyên Anh về Pháp.

Ấy thế mà người Việt mình quả thật quá dễ tính, cứ tin là có thật. Nực cười nhất là cho đến tận ngày nay mà vẫn còn có nhiều người tin như vậy ! Vậy sự thật ra sao ? Sự thật là sau một thời gian chờ đợi cho Duyên Anh phục sức để có thể ngồi máy bay về Pháp, tổ chức thiện nguyện Secours Catholique của Pháp gửi tặng 2 vé máy bay. Một cho Duyên Anh và một cho một người thân đi theo săn sóc. Chỉ có vậy thôi.

Và từ đó, tại Paris, mỗi tuần Duyên Anh phải vào bệnh viện mấy lần để cho bác sĩ theo dõi sức khỏe, rồi được cho tập vận động nhẹ nhàng, nếu không thì sẽ bị bại liệt luôn. Thế rồi, với thời gian, với việc tập vận động, lần lần Duyên Anh sử dụng được tay trái và chân trái.

Nghĩa là nửa người bên trái phục hồi tuy không mạnh như xưa, còn nửa bên phải vẫn liệt. Tôi lại luôn luôn gọi qua Paris khích lệ để Duyên Anh đừng nản chí. Tôi thường nhắc Duyên Anh về một thí dụ mà chính Duyên Anh đã viết trong truyện của mình về tấm gương nghị lực và ý chí phấn đấu không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, đó là con gọng vó, một loài nhện nước chân dài lêu khêu trông như những gọng của cái vó đánh cá.

Trong một đoạn văn, Duyên Anh tả con gọng vó đứng trên một dòng nước chảy xiết. Nó bị dòng nước cuốn xuôi, nhưng không chịu thua. Nó gắng hết sức vượt lên, ngược dòng. Rất nhiều lần nó bị cuốn xuôi, nhưng nó nhất định không chịu khuất phục, lại vượt lên ngược dòng. Và tôi đã nhắc Duyên Anh hình ảnh con gọng vó để cho Duyên Anh lên tinh thần, khắc phục nghịch cảnh.

Duyên Anh hứa với tôi sẽ làm như con gọng vó. Qủa nhiên, một thời gian sau, Duyên Anh đã viết bằng tay trái khá nhanh, tuy không đẹp được như ngày xưa viết bằng tay phải. Ngày xưa Duyên Anh nổi tiếng viết khá nhanh, chữ nhỏ li ti như con kiến, và rất đều, thẳng tắp. Bây giờ viết tay trái không nhanh và đẹp bằng, nhưng chữ cũng nhỏ và đều đặn.

Họa vô đơn chí

Duyên Anh bị hành hung 30/4/1988, còn đang thời kỳ phục hồi sức lực và gặm nhấm đau thương thì thảm họa lại bất ngờ chụp xuống đầu anh một lần nữa. Đó là sự mất đi đứa con gái duy nhất mà Duyên Anh rất thương vì cháu rất thông minh lanh lợi : Vũ Nguyễn Thiên Hương cùng chồng tử nạn trong chuyến máy bay trở về, sau chuyến đầu tiên về thăm quê nội làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chồng của Thiên Hương là David McAree, một thanh niên hiền lành gốc Tô Cách Lan. David nói tiếng Việt khá giỏi và trước kia có thời gian làm cho đài BBC.

Khoảng gần cuối năm 1988, một hôm vợ Duyên Anh gọi điện thoại than phiền với tôi rằng con gái muốn đem chồng về thăm quê nội, nhưng chị không muốn. Chị cố thuyết phục và ngăn cản, nhưng nó vẫn giữ ý định. Cuối cùng, chị nói, “Tao bảo mày không nghe, mày cứ đi, nếu mày có rớt máy bay mày chết, tao cũng không thương đâu !” Tôi kêu lên, “Sao chị ăn nói gì kỳ cục vậy ? Nói gở như vậy, nếu rủi có chuyện gì xảy ra thì chị sẽ ân hận suốt đời đấy !”

Rồi vì bận rộn công việc, tôi cũng quên chuyện đó. Cho tới một hôm, em trai của Thiên Hương là Thiên Sơn gọi điện thoại sang báo tin, “Bác ơi ! Chị Hương cháu tử nạn máy bay rồi ! Bố cháu bảo cháu báo tin cho hai bác”. Tôi như bị điện giật, sửng người đi một lát mới hỏi, “Sao ? Còn thằng David ? Bố cháu nay ra sao ?” Sơn đáp : “Cả anh David cũng chết luôn. Bố cháu chỉ ngồi yên, không nói gì”

Thì ra, vợ chồng cháu Hương về Việt Nam, ghé về quê nội thăm họ hàng. Ở chơi ít ngày, David còn nhảy xuống tắm ở ao làng, cả làng ra xem. Không ngờ trên chuyến bay đến Bangkok trước khi về Pháp thì máy bay đâm xuống ruộng lúa khi gần tới thủ đô Thái Lan làm 76 người thiệt mạng. Bà mẹ góa của David McAree xin đem hài cốt của con trai và con dâu về chôn trong hai ngôi mộ cạnh nhau gần nhà ở Tô Cách Lan.

Một thời gian sau, vợ chồng Duyên Anh được Thiên Chương là con trai lớn cùng Đặng Xuân Côn từ Mỹ sang, đưa đi thăm mộ Thiên Hương ở Tô Cách Lan. Họ ghé nhà tôi ở Luân Đôn làm trạm nghỉ chân ít ngày.

Vợ Duyên Anh không ngớt cằn nhằn chồng tại sao để cho bà sui gia giành lãnh hết tiền bồi thường của hãng hàng không. Phần Duyên Anh chỉ nói, “Cái mạng con mình đã mất rồi, còn chẳng giữ được, tranh giành tiền bạc để làm gì ?”

Những tháng năm cuối đời

Bị tàn tật, chỉ sử dụng có nửa người bên trái, lại bị thêm thảm họa mất con gái, Duyên Anh như chết lịm hẳn đi. Nay trong mắt người vợ, Duyên Anh mất giá hẳn. Cho nên Duyên Anh lại càng phải nghe những lời cằn nhằn vốn đã quá quen thuộc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh rất muốn thoát khỏi không khí tù túng của gia đình.

Thỉnh thoảng Duyên Anh sang ở với tôi ít ngày. Trong những dịp như thế, tôi lại đưa lên thành phố Cambridge cho anh thăm ông Trần Kim Tuyến và nhà văn lão thành Lãng Nhân Phùng Tất Đắc.

Những lúc như thế, Duyên Anh vui lắm, cứ như cá gặp nước. Tuy nhiên, tôi vì bận công việc nên khó thu xếp thời giờ để luôn luôn giúp bạn vui. Ngay như ở Paris, không dễ gì để Duyên Anh có thể đi đây đi đó gặp gỡ bạn bè. Họa hoằn mới nhờ được người đem xe đến chở đi. Và người có lòng tốt cũng lại ngại ngùng không muốn làm phật lòng bà Duyên Anh.

Hình như bà không muốn chồng đàn đúm, vui vẻ với bạn bè. Ngày xưa Duyên Anh còn khỏe mạnh, sẵn tiền bạc, danh vọng, thì có lý do chính đáng để bà giữ chồng vì sợ tính nết trăng hoa của chồng đã đành. Nhưng nay Duyên Anh đã tàn phế, thất thế, không tiền bạc, mà bà cũng không muốn cho chồng ra ngoài.

Khoảng giữa năm 1995, chẳng hiểu vì sao, Duyên Anh phải kéo lê cái va li nhỏ, được bà đầm hàng xóm kêu giùm cái xe taxi, để đến tá túc ở nhà bà Bích Thuận. Rồi bà Bích Thuận bị vợ Duyên Anh gọi điện thoại dùng lời lẽ khá bất nhã.

May quá, dịp đó bác sĩ Tuyến đang có mặt ở Paris, liền mua vé máy bay cho Duyên Anh sang Luân Đôn, định đến ở nhà tôi. Nhưng lại gặp rủi, là vì đúng ngày hôm sau tôi phải lên đường đi Việt Nam công tác sáu tuần lễ. Nên Duyên Anh phải lên Cambridge ở 3 tuần với bác sĩ Tuyến. Sau đó ông lại mua vé cho Duyên Anh sang Mỹ.

Sang California, Duyên Anh được một số đàn em cưu mang : ở với Vũ Trung Hiền một thời gian, rồi Nguyễn Kim Dung đón về ở một thời gian. Trong những năm này, có lần Duyên Anh trở về Paris để lấy quốc tịch Pháp. Nghe nói cũng thời gian này, FBI cử nhân viên sang Paris gặp Duyên Anh, cho biết họ đã tìm ra kẻ hành hung Duyên Anh trước kia.

Nếu Duyên Anh muốn thì khởi tố, họ sẽ bắt và đưa hung thủ ra tòa. Nhưng Duyên Anh trả lời rằng anh không muốn làm gì nữa. Người Mỹ làm việc quá chậm, còn anh thì đã cảm thấy chán hết mọi chuyện rồi. Thôi hãy bỏ đi ! Cho nên vụ án này chìm và bị quên luôn !

Không phải tới năm đó Duyên Anh mới “bỏ qua” vụ án. Năm 1991 Duyên Anh sang nhà tôi. Tôi đã phỏng vấn để phát trên đài BBC. Khi được hỏi về vụ bị hành hung, Duyên Anh trả lời không còn thù hận gì những kẻ hành hung mình. Duyên Anh bảo họ cứ sống thản nhiên, đừng lo ngại. Theo anh, có thể người ta nghĩ rằng anh đã sợ. Nhưng ai muốn nghĩ sao tùy ý.

Điều xót xa đau đớn cho Duyên Anh là trong những tháng năm cuối đời, khi đã thất thế, thân thể tàn tật, chỉ có thể sử dụng được tay trái và chân trái, nói năng cũng chậm chạp, đầu óc không còn minh mẫn như xưa, nên lắm khi cần phải có người giúp đỡ trong các sinh hoạt hàng ngày.

Vốn là người nhiều nghị lực và tự ái, Duyên Anh cố gắng, không muốn nhờ vả ai cả. Ngay trong gia đình đã thiếu đi tình thương yêu và sự an ủi săn sóc của một người vợ hiền. Cứ nhìn cảnh Duyên Anh ngồi ăn cũng đủ thấy hoàn cảnh bi đát của anh. Thường thường, Duyên Anh thích được ăn cơm để trong cái tô lớn, có chan canh, để có thể dùng tay trái xúc bằng muỗng mà ăn. Gặp những món ăn cứng, thái miếng to, hay phải gắp bằng đũa thì chịu chết !

Đã vậy, còn bị đổ vãi ngoài ý muốn. Có khi chỉ vì một sự bất ưng ý nào đó, tô cơm đang ăn bị lấy đi, đem đổ vào thùng rác! Cho nên, đã từ lâu rồi, Duyên Anh chỉ muốn vùi đầu vào ly rượu để quên đời, quên sầu tủi.

Tiểu sử nhà văn Duyên Anh (1935-1997)

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ.

Ông sinh ngày 16/8/1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề : bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo..

Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm.

Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như : Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…

Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình.

Các tác phẩm mổi tiếng phải kể đến “Ðiệu ru nước mắt”, “Luật hè phố”, “Dzũng ÐaKao”, “Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang”, “Nặng nợ giang hồ”, “Bồn Lừa”…

Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975,ngày 8/4/1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo. Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11/1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như “Đồi Fanta”, “Một Người Nga ở Sài Gòn”. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này.

Ngày 6/2/1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp.

Vĩnh Phúc

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image
Không còn Mẹ
Tháng giêng có nhiều ngày lạnh và mưa, đan trộn vào những ngày nắng ấm tìm về. Buổi sáng dường như thấm lạnh hơn, từ lúc cánh cửa khép lại cho người ở bên trong đến bên cửa sổ, dõi mắt nhìn theo chiếc xe chầm chậm rời nhà khi bóng tối chưa tan. Cà phê một mình chợt không còn mùi vị, cho mãi đến cuối tuần khi có hai người. Chợt nhận ra, năm mới đã bắt đầu như thế.

Gần tết, lòng bâng khuâng xa vắng. Nỗi nhớ từ đâu bỗng ùa về dẫu đã dặn lòng đừng ngoảnh lại kiếm tìm, hãy sống với những gì đang hiện diện ngay đây. Biết phải làm sao khi một bầy con gái, đứa nhỏ nhất nhà năm nay cũng đã bắt đầu nhờ chị nhuộm tóc để che đi dấu thời gian. Năm chị em trong khoảng cách của 16 năm, giờ không còn thuở xôn xao đón tết. Còn lại chăng là nỗi nhớ quặn lòng, người mẹ hiền xưa đã ra đi

-Em ơi. Gần cuối năm chị nhớ mẹ nhiều.
-Chị ơi. Tết sắp đến rồi, em nhớ mẹ làm sao.
-Chị có như em không? Cảm nghe buồn, nhớ mẹ hơn bao giờ.
Đứa em gái út hồn nhiên, bận rộn chạy đuổi theo cuộc sống cũng than.
-Càng gần tết em càng nhớ mẹ.

Không còn mẹ, mất đi nhiều lắm. Sâu như biển, rộng như bầu trời, dịu dàng như vầng trăng tỏa sáng những đêm khuya…Thấy đó mà sao không với tới. Cho đến khi thật sự mất mẹ rồi mới cảm nhận được khoảnh trống vắng không gì bù đắp được.

Mẹ ơi! Không phải đợi ngày gần tết con nhớ mẹ. Con nhớ mẹ mỗi ngày dẫu vẫn nói cười bên dòng đời trôi chảy không ngừng. Một năm, hai năm… rồi bốn năm. Con thường nhận đôi dòng ngắn, gửi gắm sự quan tâm dài theo với thời gian. “Huynh vẫn lặng lẽ đi vào khu vườn cũ. Không có bông hoa nào ở đó từ sau lúc muội mồ côi. Dẫu vậy huynh sẽ còn trở lại, cho đến khi nào muội xếp lại nỗi mất, nỗi buồn tưới tẩm lại vườn xưa”. “Vết thương nào rồi cũng lành. Xin đừng ôm mãi nỗi đau. QM hãy đứng dậy vun xới lại khu vườn nhỏ êm đềm, cho khách vãng lai có lại chốn dừng chân nhiều bóng mát, ngắm cỏ hoa sau những lúc mỏi mệt, ê chề vì cuộc sống”. Còn nhiều nữa những câu nhắc nhỡ, từ người gần con nhất đến người xa. Dẫu con buông trôi không viết nhiều năm, những đặc san Phật học vẫn thường xuyên gởi tới. Con nhận đủ hết những ân tình đầy ắp, dặn lòng phải làm gì để đáp tạ ơn đời. Ơn cha mẹ đã cho con cuộc sống, cho con hành trang cần thiết vào đời. Cho con gia tài là đức độ, từ bi. Là tấm gương ngời sáng của người biết sống. Biết coi cuộc đời là chốn tạm dung. Coi đau khổ là mưa, là nắng cần cho những hạt giống lành đơm hoa, kết trái mai này.

Chiều 30 tết mẹ đi vào giấc ngủ, rồi xa đời sau lúc giao thừa. Hai đứa con gái ở lại đón giao thừa cùng mẹ, bên câu niệm Phật không ngừng sau lúc mẹ ra đi. Sáng mồng một thất thểu rời bệnh viện. Chợt nhận ra chúng con mồ côi cả mẹ lẫn cha. Con về nhà nhìn chỗ nằm quen thuộc, từ đây chỉ còn lại mình con. Ba năm được chia cùng mẹ từng bữa ăn, giấc ngủ. Cùng đứa em gái kế lấy bệnh viện làm nhà. Gọi bệnh viện Methodist ở Sugar Land là khách sạn 5 sao, vì cả hai cùng ăn, ngủ, tắm gội dài ngày nơi đó. Chia với mẹ nỗi đau của nhiều lần bị té gẫy xương. Nỗi mừng hồi phục, nôn nao lúc bác sĩ cho rời bệnh viện. Nhờ bên mẹ mà chúng con càng thấu rõ, có thân là có khổ, vô thường không bỏ sót một ai. Sức mỏi, hơi tàn sau bốn lần giải phẫu vì xương mòn rỗng. Chứng kiến những cơn đau của mẹ để thấy mình bất lực, không thể đau nỗi đau này thay cho mẹ dù trong khoảnh khắc. Hạnh phúc của con là được đi cùng mẹ, đoạn sau cùng của một đời người. Con nhiều lần không dám nghĩ, hạnh phúc này thật quá mong manh. Tất cả mọi người, rồi ai cũng mồ côi. Con vừa mong kéo dài hạnh phúc còn có mẹ, vừa nguyện cầu cho mẹ chấm dứt nỗi đau, sau quãng đời dài mang thân bệnh. Con an tâm tin tưởng như lần đưa tiễn cha đi. Mẹ chắc chắn sẽ về cảnh giới an lành, có duyên gặp Phật để tiếp tục những gì còn dang dở. Con lau nước mắt, cắt vải xếp thành những vành khăn tang trắng cho đàn con của mẹ và lũ cháu, chắt trong nhà. Con nhớ mẹ, nhớ luôn lời mẹ nói. Càng giản dị càng có thêm cơ hội để giúp cho người cần giúp. Ngày trước con tự học may áo để may áo cho em, cho mẹ. Con làm sao biết có một ngày con cắt vải trắng làm thành những chiếc khăn tang. Đó là ngày người chị dâu thương mến ra đi. Với tình thương dành cho người đã mất, người còn ở lại, con tiếp tục làm khi có ai cần, không chút đắn đo. Thương mẹ, từ anh chị lớn đến con cháu nhỏ ngày hai lần niệm Phật, tụng kinh tiễn mẹ đi. Khi tụng bài chú Đại Bi và kinh Bát Nhã, con gõ mõ, em Hồng lãnh phần chuông. Sau buổi tụng kinh anh Lưu cười than thở. “Sư cô” gõ mõ nhanh quá làm đám “đệ tử” tụng theo muốn đứt hơi! Nói thế nhưng các anh chị em và con cháu, lúc nào cũng làm theo sự hướng dẫn của con. Thủy, Hồng mỗi buổi sáng ghé nhà con để ba chị em cùng tụng một thời kinh cho mẹ trước lúc đi làm trong 49 ngày. Các anh chị em đến chùa, ra viếng mộ ở nghĩa trang đều đặn theo lời dặn, cũng là cơ hội để anh em xúm xít bên nhau. Con tin chắc ba mẹ sẽ ấm lòng, an tâm nhiều khi nhìn thấy đàn con thuận hòa, thương yêu chăm sóc cho nhau. Anh chị lớn lo cho em nhỏ, cùng lúc không đắn đo, thắc mắc khi em gái yêu cầu những việc cần làm để bày tỏ tình thương dành cho cha mẹ, cùng xoa dịu nỗi khổ của tha nhân.

Đứa em trai mẹ cưng nhất, sau khi vào phòng đóng cửa khóc thỏa thuê như đứa trẻ, đã hỏi con rằng. Mẹ mất rồi, tết này chị không gói bánh hay sao? Con biết em nhớ mẹ, nó mong tìm lại chút hương vị tết như khi còn mẹ. Cũng mừng. Khi mẹ yếu, con tập tành làm bánh, kho thịt kho tàu, làm dưa giá…cho ngày tết. Cũng như mẹ, con không đo lường liều lượng, may sao cả nhà đều thưởng thức món con làm. Cũng bởi mẹ nấu ăn ngon quá đỗi, làm các con dâu, con gái trong nhà ngại ngùng khi nấu đãi mọi người. Con đem nỗi buồn gởi trong nỗi bận rộn đầu năm, cùng với Thủy gói thật nhiều bánh ít nhân dừa. Không chỉ con trai của mẹ, mà hai đứa cháu nội cũng mê bánh ít. Có lẽ vì chúng được đặt tên bằng nơi chốn mẹ chào đời, nên yêu thích món bánh trái miền quê hiền lành đó. Cháu Mỹ Thạnh của mẹ bây giờ đã lớn cùng với những năm học đại học xa nhà. Tết dẫu không về, cháu vẫn nhận được bánh ít nhân dừa gởi qua bưu điện. Bến Cát sắp trở thành thiếu nữ, đã tham gia đội lân ở chùa như ba nó ngày xưa. Con vui nhiều mỗi lúc đến chùa, nhìn những đứa cháu nội của mẹ học phật pháp, học tiếng Việt và ăn ngon lành những món ăn chay.

Ngày chủ nhật cận tết, ba chị em hẹn nhau gói bánh. Con thay mẹ rửa, lau khô lá, xếp sẵn hình cái phễu. Nhờ lá sạch nên để lâu bánh vẫn không hư. Nhân bánh với 4 trái dừa rám nạo bằng nút phéng. Cái bàn nạo “homemade” nhẹ tênh giống đồ chơi, nhưng thật tuyệt vời vì không cần dùng sức với tay cầm vừa vặn bằng gỗ đánh vẹc ni bóng loáng. Có nhiều người “đặt hàng” sau đó, nhưng phải xếp hàng chờ vì người sản xuất chưa có thời gian rỗi rảnh. Con tặng chị dâu cái bàn nạo độc nhất vừa mới có, được làm theo yêu cầu để chị đem về Atlanta, vì có mua cũng không nơi nào bán. Hồng nghe nói 4 trái dừa làm nhân hơi ít bèn mua thêm 4 trái, nạo đem sang. Hơn 10 giờ đêm em gởi text cho con. Nạo dừa em mệt muốn đứt hơi. Bây giờ mới ngấm, thương các chị. Món ăn ngon có được do bao công sức của người thân. Con xào dừa, không nhớ với bao nhiêu đường. Chỉ nhìn, đoán chừng không quá ngọt để mấy đứa em vừa ăn xong lại muốn ăn thêm. Không bỏ vanila, con dùng lá dứa tươi có sẵn. Cây lá dứa đem về từ Florida của cậu Phương cho. Chúng con thừa hưởng gia tài của mẹ, từ bộ xững hấp bánh cho đến cách nấu ăn. Không nhớ, không ghi liều lượng. Con chuẩn bị lá, làm nhân. Có cả nhân bánh đậu xanh cúng tết vì khi xưa ba thích. Thủy đem bột nếp tới nhồi cùng nước ấm. Có thêm đứa em nữa, không khí rộn ràng hơn. Hồng lăng xăng chụp hình rồi mới bắt tay làm. Nếu mẹ còn chắc sẽ lắc đầu cười. Hát dở mà sắm tuồng lâu là vậy. Kết quả tuyệt vời như khi còn mẹ. Mỗi đứa lo một phần nhưng khi ráp vào nhau, bột, nhân, lá khít khao vừa đủ.

Hai đứa em ra về, sau khi được chia phần. Con hấp thêm vài lần bánh nữa thì xong. Thủy đã nhanh tay sắp những chiếc bánh đầu tiên đem lại thắp nhang ở bàn thờ, rồi dù làm chẳng ngừng tay nhưng vẫn nhớ để mà thử bánh sau lúc nhang tàn. Em suýt xoa. Ngon tuyệt chị ơi! Nghĩ là nhân có vẽ bị khô, nhưng sau khi hấp thật là thơm, dẻo, ngọt vừa. Con mỉm cười khi một lúc sau, em gọi sang báo cáo. Chị ơi! Sau khi sắp bánh cúng xong, bữa ăn trưa hôm nay của là em là bốn cái bánh ít nhân dừa, chưa kể một cái thử trước bên nhà chị. Chắc phải đợi tới sang năm, em mới cho phép em…ăn tiếp! Ngon quá, không thể nào ngừng được cho nên em cho nó…tới luôn! Hai chị em giống mẹ, thường cảm thấy no ngang sau khi đã nấu xong. Có lẽ chỉ cần nhìn mọi người vui, thưởng thức món ăn cũng đủ no. Thủy lần này đạt kỷ lục của một một lần ăn, bỏ qua luôn chuyện “giữ eo”.

Còn lại nồi thịt kho tàu khổng lồ như nồi nấu phở của nhà hàng. Nghĩ đến niềm vui ngày tết lúc chia cho từng người để mang về, con rán sức bê nồi thịt đã kho xong mềm rục. Mùi thịt kho tết tỏa khắp nhà thơm ngát, không giống như mùi thịt kho bình thường của trong năm. Nhớ mẹ con nhớ luôn lời cậu Út hôm nào. “Đi khắp nơi, thưởng thức bao nhiêu món ngon, vật lạ nhưng không có món ăn nào ngon như món thịt kho tàu của chị Hai”. Những đứa trẻ còn mê trứng luộc kho chung. Con tăng dần số lượng trứng, năm nay thành con số 40. Chuẩn bị hoa quả, bánh trái, thức ăn chay cúng tổ tiên, ông bà cùng giỗ mẹ đầu năm, trời vào đêm lúc nào con cũng không hay. Nghĩ thương mẹ khi còn sức khỏe, một mình cực nhọc, làm việc chẳng ngừng tay đến nỗi quên ăn, để dâng lên lòng tưởng nhớ biết ơn cửu huyền thất tổ, cùng cha mẹ quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp đã qua. Bản tính chân chất, mẹ thường chắp tay khấn rõ, con đứng cạnh bên nghe và in sâu trong tâm khảm của con. Mẹ luôn luôn trải lòng ra, khấn nguyện cả những linh hồn không nơi nương tựa hoặc ngưòi thân đã lãng quên. Phần còn lại là tình thương dạt dào dành cho lũ cháu con khi thấy chúng quây quần, xúm xít cùng nhau quanh những bữa ăn. Con đã làm như mẹ từng làm. Lúc nào con cũng cảm nhận mẹ đang ở bên con. Mẹ có mặt bên ly cà phê buổi sáng con pha. Xưa, mẹ dành ly cà phê đó cho ba, cho chị Ngọc. Nay con dành cho hết những người thân lẫn người con chưa gặp bao giờ. Đứa cháu ngoại của mẹ trước khi đi học hoặc đi làm, tới lấy ly cà phê có phảng phất mùi nhang, bỏ thêm vào những viên đá dù mùa đông hay hạ. Một lần con vắng nhà. Buổi sáng con trai gọi tìm. Mẹ ơi, chỉ cho con cách pha cà phê của mẹ. Mọi người không giấu nỗi ngạc nhiên. Con cũng ngạc nhiên khi chợt nhận ra. Không biết từ bao giờ, đứa con trai lớn bắt đầu uống ly cà phê cúng mỗi sớm mai như bà ngoại thuở xưa. Cho nên đã 22 tuổi vẫn chưa pha cà phê lần nào là vậy. Riêng con đâu khác gì hơn. Dẫu biết nấu ăn, làm việc nhà rất sớm, từ ngày sang đất Mỹ con vẫn được mẹ nấu từng bữa ăn, giặt từng chiếc áo cho đến năm 31 tuổi. Con tự biết đó là những tháng năm hạnh phúc nhất đời con, bởi thời gian được sống bên ba mẹ dài hơn tất cả.

Mai chị về. Năm này nữa là lần thứ năm kể từ khi mẹ mất, anh chị về ở lại một tuần. Con mở cửa căn phòng ngày xưa hai mẹ con mình ở, bây giờ dành đón khách phương xa. Hình của mẹ, của con vẫn còn đó y nguyên. Sàn nhà con lau đẫm ướt có trộn thêm nước mắt. Dẫu tình thương dành cho mẹ không sao nói hết, vẫn nhận ra điều thiếu sót riêng con. Vị giáo sư kính quý ở xa, thường an ủi những lần con nhắc mẹ. Cô nói, khi cha mẹ không còn mình mới nhận ra sự thiếu sót, vô tình không còn cơ hội để mà bù đắp lại. Nhưng cha mẹ thì lúc nào cũng thương yêu, rộng lượng, bao dung. Chỉ cần em sống thiện lành, sống với tâm hỷ, xả, từ, bi. Đó chính là sự thành tâm của lòng tưởng nhớ, báo ân dành cho hai đấng sinh thành. Con biết con có phước, được thân gần thầy lành, bạn tốt là những người anh thiện tri thức phương xa. Nhưng trong phút giây quên hiện tại, con nếm trải nỗi đau chưa từng có xưa giờ. Tưởng chừng như sắp ngất đi. Con thoáng nhìn thấy khuôn mặt mẹ ngày té ngã sóng soài trên chuyến đi cruise đầu tiên và cũng là cuối cùng của mẹ với đại gia đình năm đó.

Mở cửa đón mừng anh chị bằng tay còn lại, chị xót xa nhìn cánh tay phải bó bột kèm sợi dây đeo qua cổ của con. Trời ơi! Sao em không cho chị biết trong phone. Con cười. Em được nghỉ vacation ít nhất là 6 tuần. Năm nay ở nhà ăn tết lớn với chị, không bỏ đi làm nữa. Coi như số em may. Xương chưa gẫy nên không giải phẫu. Được chơi 6 tuần thay vì nghỉ tới nửa năm. Quan trọng nhất là không ai…biểu tình, vì bánh trái, món ăn dành cho tết đã làm xong trước lúc anh chàng bên cánh phải đình công. Hai chị em con thực sự có những ngày ấm áp, vui nhiều. Chị đúng là cánh tay mặt của con. Bày dọn cúng ông bà, cúng giỗ mẹ ngày mùng một, chị đảm đang, chu đáo nhắc con đừng làm động cánh tay đau. Vui nhất là mấy món soup con mới học nấu dành đãi anh rể, đâu ngờ cũng là những món cho con khi cầm muỗng bằng tay trái. Càng ngày chị càng giống mẹ nhiều. Để ý, chăm sóc từng món ăn ưa thích, từng viên thuốc uống dành cho người em rể. Con nhiều lần thầm nghĩ, nếu mẹ vẫn còn, thì người đồng hành cùng con sẽ được chia tình mẹ. Lòng mẹ vốn bao la, êm ái dịu dàng như những cơn mưa, trải lên cánh đồng khô hạn, qua từng tháng năm bị tách rời giòng suối ngọt ngào, bởi phải xa mẹ khi còn rất trẻ. Con biết mẹ thường im lặng, lúc nào cũng lắng nghe với tâm từ cùng sự cảm thông. Thay cho phán đoán, khen chê đúng hay sai, là ánh mắt hiền từ thấu hiểu, biểu lộ tình thương lan tỏa. Mẹ dẫu không còn sức để làm thêm điều gì nữa, chỉ cần lòng bi mẫn của mẹ thôi đủ xoa dịu nỗi buồn, nỗi khổ của nhiều người. Nhìn cách mẹ kham nhẫn, chịu đựng những cơn đau hoành hành bất kể ngày đêm, cùng lúc vẫn quan tâm chia sẻ hạnh phúc cùng nỗi khổ của mọi người không phân biệt, nên ai gần mẹ cũng đều cảm nhận sự an ổn và tình thương không giới hạn.

Những ngày có chị là những ngày vui như tết. Con quên bàn tay sưng cứng, tê đau mãi cho đến lúc đêm về, sau khi nghe chị chúc ngủ ngon. Anh chị Phong từ Atlanta về ở bên nhà Thủy, mỗi ngày sang nhà con ăn chung bữa sáng, bữa trưa với đủ món mặn, chay. Trước và sau khi đi làm về, ngày nào Thủy cũng ghé để tận hưởng những ngày có chị, nên đùa. Hotel nhà em chỉ 3 sao nên không có điểm tâm free. Anh chị chịu khó qua khách sạn 5 sao bên đó đông vui, có đủ ngày ba bữa. Với các anh chị xa nhà sớm, không có nhiều cơ hội gần nhau, ai cũng quý những lần được gặp nhưng mấy đứa em gái không bỏ qua cơ hội trêu anh. Anh có nhớ câu ông bà mình thường nói hay không? “Ăn nhiều chứ ở chẳng bao nhiêu” anh hỉ? Em út xin nghỉ tết, thêm Hồng được rảnh rang nên anh chị em con cùng đi chùa lễ Phật đầu năm. May mắn, con tìm được chiếc áo dài có thể mặc vào dẫu cánh tay bó bột thật to. Ngôi chánh điện cũ đã san bằng chờ xây lại. Chị dâu sợ con không đi vững, nắm tay dắt con bước chậm qua. Như giấc mơ. Chớp mắt, dấu tích xưa đi vào quá khứ. Nơi chốn ngập đầy hình ảnh mẹ trong mùa Vu Lan, mùa Phật đản sinh cùng những ngày chủ nhật suốt bao năm, giờ không bao giờ nhìn thấy nữa. Mai này ngôi chánh điện mới sẽ hình thành. Mảnh đất cũ thay vào hình ảnh khác.

Hôm chị về trời trở lạnh và mưa. Chị cảm động cầm cái bàn nạo dừa mới toanh vừa đánh vẹc ni, được trao tay khi người em rể hug chào trước lúc đi làm. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Anh rể lặng lẽ mang hành lý ra xe, sẵn sàng cho đoạn đường gần ngàn dặm trở về. Đứa em nhẩm tính đã 32 năm rồi, là 32 lần anh lái xe về kể từ khi ba mẹ đặt chân đến đất tạm dung. Trước đây, thời gian về thăm nhà có khi là mùa xuân, mùa hạ, hay đông. Từ khi không còn mẹ thì ngày giỗ mẹ là ngày anh chị về xum họp. Ôm chặt em gái trong tay từ giã, chị ân cần dặn nghỉ ngơi, cho xương mau lành lặn để có đôi tay bình thường trở lại. Môt tuần lễ bên chị trôi nhanh quá. Căn nhà rộn rã tiếng cười giờ im vắng như chưa từng im vắng thế. Mỗi ngày nhìn chị nói cười, cùng lúc những khớp xương đau như có ai đang đục, xoáy bên trong. Con là người chứng kiến khi gần bên mẹ, bên chị và cả người đi cạnh đời con. Tất cả đều chấp nhận, thân này chẳng thuộc về mình. Gìn giữ cách nào đi nữa, vẫn là ‘nó muốn đau thì nó đau” thôi. Ngắn hay dài, nỗi đau nào rồi cũng hết khi mình thay áo mới, xong cuộc hành trình đi ngang qua cỏi tạm.

Thích nghi mọi hoàn cảnh chính là gia tài lớn nhất, ba mẹ đã trao truyền cho một đàn con. Không còn mẹ nhưng con luôn nhận biết, mẹ ở trong con mọi lúc mọi nơi. Nghĩ tới điều lành dù rất nhỏ để làm, là lòng biết ơn vô bờ bến cùng tình thương không giới hạn con dâng lên mẹ, người mẹ hiền trong đời này con có diễm phúc được làm con.

Mẹ kính yêu, mẹ biết phải không?

Thảo Ly.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Khi mùa xuân qua…
Phan

Mùa Xuân vừa qua, như lâu lắm rồi. Tuy cành non còn chưa vững gió chiều vào hạ thì tháng Năm đã về. Ôi tháng Năm của tuổi nhỏ rình rập tờ lịch trên tường từng ngày trước nghỉ hè để được tha hồ vui chơi. Rồi tháng Năm biết nhớ ngôi trường như ngục tù bao la của tuổi nhỏ mà khi xa nó thì lòng thấy bâng khuâng. Đến tháng Năm bái biệt mái trường mà lòng thấy chơi vơi, hụt hẫng vì đã biết không trở lại nữa vào mùa thu tới.

Những tháng Năm trên vạn nẻo đường, chợt nhớ chợt quên những mùa hè cổ tích như tuỳ bút “tháng Năm rồi đó em” thì tháng Năm vẫn về…
Tháng Năm. Tôi ngang qua Paris. Chen chúc những dòng xe bất tận thật ngột ngạt. Quận 13 nổi tiếng ở Paris có nhà sách Khai Trí. Nhưng không còn hồn xưa của nhà sách Khai trí ở đại lộ Lê Lợi, Sài gòn. Nhà sách Khai trí ở quận 13 Paris nổi tiếng món bánh mì thịt. Nhìn những quyển sách đóng bụi thời gian trên tường của cái tiệm bánh mì thịt nổi tiếng Paris, chỉ trớ trêu mang tên nhà sách Khai trí.
Những phận người giạt trôi theo vận nước đã đành. Nhưng nhìn ở một góc cạnh nào đó, văn hoá Sài gòn lưu vong cũng bụi mờ, váng nhện đến đau lòng.

Tôi rời Paris – không hẹn ngày trở lại. Bấm máy định vị và trực chỉ sang Amsterdam – Hà lan. Tôi lái xe xuyên qua một Paris còn đó những kiến trúc cổ, lâu đài, những bức tượng điêu khắc công phu… gợi nhớ biết bao về văn học, hội họa và âm nhạc tây phương thời phục hưng. Và, những tòa nhà kính mới mọc lên sau này, chắc chắn là mang dáng vóc hiện đại, cao ngất ngưỡng tới chói lòa tầm mắt bởi mặt trời tháng Năm.

Tiếc cho một Paris được ái mộ toàn cầu thì người đến không khỏi chạnh lòng với những lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ nền cũ lâu đài bóng tịch dương…

Tôi rời Paris không tiếc nuối điều gì ngoài những vạt Popies đỏ thẩm. Trong cái thành phố – không có chỗ đậu xe khi tôi chở bạn bè ghé ăn tô mì ở quận 13 Paris cho biết! Các bạn tôi ăn xong thì mua cho tôi ổ bánh mì vì tôi vẫn chưa có chỗ đậu xe để vô ăn chung với bạn bè cho vui.

Paris là những làn đường xe chạy liên tu bất tận-không biết về đâu, những đường hầm thắp đèn 24/24. Nhưng hễ lộ ra một dạ cầu, một vạt đất dốc khi qua đường hầm… thì hoa Popies tháng Năm đỏ rực.

Paris có thể thay đổi theo thời đại với những toà nhà chọc trời bằng kính. Nhưng Paris hôm nay chỉ như khiêu vũ với bầy sói. Một Paris của muôn đời là tưởng nhớ – bất tử.

Vâng. Tháng Năm đã về. Màu hoa Popies đỏ thắm trên cánh đồng Flanders trăm năm trước không đỏ hơn hoa Popies ở Paris nhốn nháo hôm nay, có cả đài tưởng niệm công nương Diana! Kiến trúc có thể làm thay đổi bộ mặt Paris, nhưng hoa Popies ở Paris thiên về tưởng nhớ thì bất tận.

Tôi qua khỏi phi trường Charles-de-Gaulle. Ngoại ô Paris như đường quốc lộ 4 về miền tây Việt nam thời xưa. Hai bên đường chỉ xanh ngắt màu lá. Đường như đường làng, khác xa, khác hẳn những xa lộ xuyên bang bên Mỹ.
Tôi trao tay lái cho cô bạn đã từng sống ở Paris khi trẻ, sau khi lập gia đình mới định cư bên Đức. Những vạt hoa Popies tù túng ở Paris ám ảnh tôi về lòng người Paris; cái hồn Paris sống trong chen chúc nhà cao tầng bằng kính thật không hợp.
Thôi thì đọc lại In Flanders Fields-Trên những cánh đồng ở Flanders trên điện thoại. Bài thơ xúc cảm này mở đầu với những bông hoa poppy nở rộ trên những cánh đồng trận địa nước Bỉ. Bông hoa poppy từ đó trở thành biểu tượng tưởng nhớ những chiến sĩ đã nằm xuống vì lý tưởng tự do. Nên từ năm 1922, những bó hoa poppy bằng giấy màu đỏ được các cựu chiến binh bày bán trên đường phố trong ngày Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong – Memorial Day hằng năm.

Bài thơ và tác giả của nó đã thuộc về con người và thời đại trăm năm trước. Nhưng vì sao nhân loại có tục lệ mang hoa poppy trong thời gian tưởng niệm những người chiến sĩ đã chết trên các chiến trường cả trăm năm qua và mãi mãi về sau chỉ vì lý tưởng tự do. Bài thơ Trên những cánh đồng Flanders như thế này bạn ạ!

Trên cánh đồng Flanders
Giữa những hàng hàng bia mộ
Hoa poppies nở
Dập dờn
Ðánh dấu nơi chúng tôi yên nghỉ
Trên trời
Những con sơn ca vẫn can đảm hót
Tiếng hót chợt vang lên đôi lúc
Giữa tiếng đại pháo rền dưới kia
Chúng tôi là những người đã chết
Chỉ mới mấy ngày trước đây thôi
Chúng tôi vẫn sống
Cảm nhận bình minh
Thấy được ánh hoàng hôn
Yêu và được thương yêu
Và giờ đây
Chúng tôi nằm yên nghỉ
Trên những cánh đồng Flanders
Hãy tiếp nhận cuộc chiến đấu của chúng tôi chống kẻ thù
Từ những bàn tay buông xuôi
Chúng tôi trao lại bó đuốc
Ðể các bạn giương cao
Ôi, nếu vì lẽ gì bạn quên lời thề, đập vỡ niềm tin
Với chúng tôi những người đã chết
Chúng tôi sẽ không bao giờ nhắm mắt
Dẫu hoa poppies vẫn nở dập dờn
Trên những cánh đồng Flanders

Bài thơ In Flanders Fields của Trung tá Quân Y John McCrae, thuộc quân đội Gia Nã Ðại, là một trong những bài thơ viết về chiến tranh được lan truyền nhiều nhất theo thời gian. Nó là di sản của trận chiến khốc liệt ở tuyến đầu Ypres thuộc nước Bỉ vào mùa xuân năm 1915. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cũng khá đặc biệt là bác sĩ John đã phục vụ quân đội trong nhiều năm, đã từng phục vụ ở chiến trường Nam Phi. Nhưng Trung tá John McCrae vẫn không thể nào làm quen được với những cơn đau, những tiếng kêu thét, máu, và nước mắt ở Quân y viện.
Tại đây, ông là bác sĩ giải phẫu đã trải qua mười bảy ngày đêm liên tục chăm sóc cho các thương binh thuộc đủ mọi quốc tịch: Gia Nã Ðại, Anh, Ấn Ðộ, Pháp và Ðức. Quả thật là kinh hoàng! Ông nghĩ mình không thể nào chịu đựng nổi. McCrae ghi lại trong hồi ký như sau: “Tôi ước mong có thể ghi lại trên trang giấy một số cảm nhận về mười bảy ngày ấy… Quả là mười bảy ngày trong Địa ngục. Nếu cuối ngày thứ nhất ở đây có ai bảo rằng chúng tôi phải trải qua mười bảy ngày như thế thì tôi sẽ chắp tay cúi đầu nói không, không thể nào chịu đựng nổi.”
Thế rồi một cái chết trong hằng hà những cái chết bởi lý tưởng tự do mà thành chiến tranh mà bác sĩ John đã thấy qua, nhưng gây ấn tượng mạnh với người trai trẻ McCrace. Chuyện rằng, Trung úy Alexis Helmer quê ở Ottawa, đã bị giết vì bom nổ trong ngày 2 tháng Năm 1915. Trung tá McCrae đã làm lễ an táng và cầu hồn cho Helmer ở một nghĩa trang nhỏ bên cạnh Quân y viện, mặc dù nơi đây không có nhà nguyện.

Ngày hôm sau, ngồi ở băng sau xe cứu thương gần Quân y viện, John McCrae bắt đầu viết. Dù không phải là việc xa lạ với McCrae, ông đã từng viết nhiều bài viết cho báo y học. Nơi ông viết nằm bên cạnh nghĩa trang và ông có thể nhìn thấy những bông poppies vươn lên từ bờ các chiến hào của vùng trận địa Bắc Âu này.

Người lính trẻ nhìn thấy McCrae làm việc chính là Cyril Allison, một Trung sĩ nhất, 21 tuổi. Hôm ấy lãnh nhiệm vụ đưa thư đến cho Quân y viện. Trung tá McCrae ngẩng lên nhìn Allison rồi cúi xuống im lặng tiếp tục viết. Khuôn mặt ông lộ vẻ mệt mỏi nhưng rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng ông lại nhìn ra ngôi mộ Alexis Helmer.

Viên Trung sĩ quân bưu vẫn đứng ở đó. Hai mươi phút sau thì xong bài thơ, McCrae ngừng viết, nhận thơ từ Allison mà không nói gì hết, và trao cho Allison những thơ từ cần gởi đi. Ông đưa luôn cả bài thơ mới viết cho Allison đọc. Allison hết sức cảm động khi đọc nó. “Bài thơ tả đúng y khung cảnh trước mắt chúng tôi. Ông ấy dùng từ blow (gió thổi dập dờn) rất chính xác vì sáng hôm ấy ngọn gió đông không ngớt thổi qua nghĩa trang, làm lay động những bông hoa poppies. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng bài thơ sẽ được đăng báo!”
Quả thật bài thơ suýt nữa đã không được phổ biến. Không vừa ý với nó, McCrae vứt bỏ bài thơ, nhưng một người bạn sĩ quan nhặt lại và gởi cho các báo ở Anh. Tờ The Spectator ở London không chịu đăng, nhưng tờ Punch đã in bài thơ trong số báo ra ngày 8 tháng 12 năm 1915. Riêng Trung tá thi sĩ John McCrae không được may mắn, ông chết vì bệnh sưng phổi năm 1918 lúc đang ở Pháp.

Bài thơ Trên những cánh đồng Flanders từ đó được lan truyền rộng rãi. Năm 1918 Moina Michael, làm việc cho một tổ chức thanh niên thiện nguyện phục vụ các chiến binh Hoa Kỳ trên các chiến trường. Ngày 9 tháng 11 năm 1918, xúc động khi đọc bài thơ In Flanders Fields, Michael đã tự nguyện mang một bông poppy màu đỏ trên ngực áo như một biểu tượng tưởng nhớ những chiến sĩ đã nằm xuống trong khi thực hiện niềm tin.

Sau ngày ấy, trong một buổi hội của tổ chức, Michael bày những bông hoa poppies màu đỏ tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh tính mạng cho niềm tin. Và Michael bắt đầu bán những bông poppies đỏ để gây quỹ hỗ trợ các thương binh và chiến sĩ ngoài mặt trận. Chẳng bao lâu hoa poppy đỏ được biết đến và chấp nhận là biểu tượng tưởng nhớ những người con thân yêu của tổ quốc đã hy sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ ngoài tiền tuyến.

Chúng ta không thể nào quên những người đã hy sinh xương máu cho mảnh đất tự do này. Kể từ Thế chiến thứ I đến nay đã trăm năm trôi qua; người lính cuối cùng của Đệ nhất thế chiến đã chết; cuộc chiến tranh mang tầm cỡ thế giới chỉ còn trong thư viện cho những hậu thế nghiên cứu.
Nhưng từ đó, bao tang thương dâu biển, biến cố dập dồn, nhiều cuộc chiến tranh đã nổ ra cuốn theo bao nỗi đau, nước mắt và máu của những người lính. Họ đã chiến đấu trên toàn cầu mặt đất và cả bầu trời không biên giới… Họ chiến đấu mọi nơi để thắp sáng một niềm tin, một lý tưởng, vì tự do của loài người, vì hạnh phúc của đồng loại.

Những bông hoa poppies màu đỏ nhắc mọi người nhớ tới họ, tri ân các chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh cho ngày hôm nay của chúng ta. Các tổ chức Cựu chiến binh Hoa Kỳ đã phát động ngày Poppy Day trong thời gian từ 15 đến 21 tháng Năm năm nay để mọi người tri ân những người lính đã vị quốc vong thân.

Riêng với người Việt chúng ta trên nước Mỹ, chúng ta cũng nên xin chọn một bông poppy màu đỏ cho cha anh của chúng ta, những người chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến 20 năm trên đất nước mình. Xin các chú bác hãy yên nghỉ trong màu đỏ của hoa poppy tháng Năm – là lòng tưởng nhớ của con cháu xa xứ…

Phan

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Má!
Nguyễn Thị Thêm
Chi lấy khăn chậm những giọt nước mắt ứa ra lăn dài xuống má. Chị lau vội vàng để cả nhà không thấy chị đang khóc.

Mà chị cũng mau nước mắt thiệt, tuổi gần bảy bó mà cái tội khóc nhè vẫn không bỏ được.
Bài hát "Gánh hàng rong" hình ảnh người đàn bà với đôi quang gánh xuôi ngược để mưu sinh sao giống má chị quá. Chị nhắm mắt lại, nhớ về Mẹ mà xao xuyến.

Má là một cô gái miệt vườn miền Nam chơn chất. Má thứ Sáu nên người ta gọi là "Cô Sáu". Má đẹp nhất nhà và cũng rất giỏi giang. Con gái miệt vườn rất khéo và có tay buôn bán. Chị cũng không biết má gặp ba chị lúc nào. Nhưng có lẽ gia đình ông ngoại không đồng ý một chàng rể người nẫu sống tha phương cầu thực, nên chị không nghe má nói về đám cưới của mình. Chỉ biết khi chị bắt đầu hiểu biết thì má đã là một bà già. Một bà già trong đôi mắt chị dù má khoảng ngoài 50.

Kể từ khi con biết nhớ,
Má đã già, một bà cụ gầy nhom
Tóc búi cao mặc áo vá vai sờn
Quần đen đã bạc màu theo năm tháng
*
Má cười, nụ cười hiền thương lắm
Hàm răng kia xệu xạo cái thấp, cao
Tuổi chưa già mà đã ngoáy trầu
Môi cắn chỉ, đỏ tươi màu hạt lựu
*
Chiếc áo túi, cái túi may thiệt bự
Giả bộ lấy đồ, mò vú má thiệt vui
Má nhột la lên, rồi má lại cười
" Nhớ hồi nhỏ, bỏ bú con thiệt khó"

Cuốn phim đời hiện về là khi chị bắt đầu đi học và thằng em Út khoảng 3, 4 tuổi. Chiều chiều hai chị em ra hông nhà, cạnh cây dừa cao lêu nghêu, đứng đó ngóng hoài con đường ngõ xóm. Hai chị em chờ má về. Thằng Út chỉ nhìn và khóc. Nó không nói được gì vì dường như sự nhớ má đã làm nó chui vào góc tối tự kỷ. Nó buồn bã, câm nín. Cả ngày lẫn đêm nó lặng lẽ như cái bóng. Còn chị cố tìm mọi cách cho em nói, cho em vui mà bất lực.

Đó là lần má về quê chồng rước bà nội chị vào chữa bệnh và nuôi dưỡng. Người ta hay nói con gái miền Nam chỉ biết ăn và diện. Nhưng nếu lấy má làm tiêu biểu thì chị tin rằng ít ai có thể vượt qua. Má làm dâu từ lúc hơn 30 tuổi đến lúc nội mất là má tuổi gần 70. Một bà già 70 tuổi, ốm nhom, răng rụng móm xọm. Chăm sóc mẹ chồng 94 tuổi răng đầy đủ và mập mạp. Cứ nghĩ tới hình ảnh đó, mắt chị cay xè.
Bà nội chị không phải là người hung dữ. Bà thật hiền và ít nói. Nhưng phong tục ngoài quê và nếp sống phong kiến vẫn giữ mãi trong lòng. Bà có cái uy của một bà mẹ chồng và má chị là một con dâu có bổn phận phải phục vụ. Hai mắt bà nội chị đã mờ sau lần giải phẫu nên việc đi lại trong nhà rất khó khăn. Chồng đi làm, các con đi học, trong nhà chỉ có nội và má chị. Má buôn bán, lo cho bầy heo trong chuồng, gà vịt ngoài vườn, chợ búa, cơm nước cho chồng cho con và phục vụ mẹ chồng.

Nội kêu “Hai quơi!” một tiếng mà má chị phải chạy đến liền. Sợ nội bước đi lỡ té làm sao.
Mỗi khi dọn cơm, má chị phải nắm tay nội lần chỉ các món ăn. Nội không muốn ai đút. Tay nội lần theo các tô má để theo thói quen để nội tự ăn. Chén cơm để trước mặt, canh là bên tay trái, cá hay thịt kho bên tay phải, món xào ở kế bên. Món tráng miệng để ngoài mâm. Ăn xong nội kêu “Hai Quơi! Dọn con!" là má chị đem nước và khay trầu tới cho nội. Thường thường dọn cơm cho nội xong má chị không đi liền, bà đứng nhìn nội một hồi lâu, xem nội có cần giúp không? Thấy ổn bà mới đi làm chuyện khác.

Bà nội và má chị đều ăn trầu. Bà mẹ chồng ăn trầu có xỉa thuốc. Cau khô, cau tươi gì bà cũng nhai rôm rốp vì răng bà đã nhuộm đen, đều rưng rức, không hư một cái nào. Còn má chị, người con dâu thì phải ăn trầu ngoáy. Ống nhổ mỗi người một cái, khay trầu cũng vậy. Khay trầu mẹ chồng có thêm bịt thuốc rê. Khay trầu con dâu có bộ ống ngoáy và cau khô thì phải ngâm cho thật mềm.

Cả ngày mẹ chồng nàng dâu ít khi nói chuyện. Không phải là ghét nhau mà vì bà nội chị tai đã lãng. Nói gì bà cũng hỏi lại và nói đó rồi lại quên. Má chị bận rộn cả ngày nên bà nội cũng thèm có người tâm sự. Chị là nhân vật được bà nội chọn để gửi gấm tâm tình. Cứ nghe tiếng chị về là nội lên tiếng liền: “Chín! Con về rồi hử? " Thế rồi nội than đau răng, nhức mắt... cuối cùng là "Mi cho nội thuốc đi con. Thuốc mi cho răng mà nó hay chi lạ!” Chị lấy một viên xuyên tâm liên và rót nước cho nội. Nội uống với ánh mắt vui mừng. Bao nhiêu chuyện trong ngày được nội kể lại hay hỏi thăm, " Nẫu thế này.. Hén thế kia...” Nội nắm tay chị rồi mân mê, sờ soạng. Nội chị là vậy đó. Thật dễ thương.

Bà nội chị, một bà già xứ nẫu Bình Định cả đời không ra khỏi góc làng quê. Bà lại là con gái nhà giàu nên có biết làm lụng chi đâu. Lấy chồng, đẻ con, chồng thương yêu, cưng chiều hết mực. Ông nội rước thầy đồ về dạy học cho con. Thế rồi ông nội bị bệnh qua đời. Chồng mất sớm khi tuổi đời còn trẻ, lại không biết làm ăn. Bà nội yếu đuối không đường xoay xở. Ông thầy đồ xót thương hoàn cảnh mẹ góa con côi, ông gánh vác lo cho cả gia đình và theo ngày tháng ông trở thành người chồng thứ hai của bà nội.

Rồi ông nội hai cũng mất, nhà lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát. Ba chị tuổi còn nhỏ phải đi làm phụ mẹ nuôi em. Để thoát cảnh đói nghèo ba chị theo người dì vào Nam lập nghiệp. Làm được bao nhiêu, ba chị dành dụm gửi về cho mẹ sửa nhà, nuôi em ăn học.

Khi hai người thành vợ chồng, trách nhiệm lo cho mẹ và em chồng là gánh nặng đè lên vai của mẹ chị. Ba chị là người con rất mực có hiếu. Nghe tin mẹ đau mắt, ông kêu vợ về quê đem mẹ vô nam. Đây là lần đầu tiên mẹ chị một thân tìm đường về quê chồng. Hơn một tháng đường xa, mẹ chị bỏ con dại ở nhà để làm tròn đạo dâu con. Sau đó đưa nội lên nhà thương lớn ở SaiGon mổ mắt và phụng dưỡng đến cuối đời.
Để gia đình em trai có cuộc sống tốt đẹp hơn, ba chị đã giúp đỡ người em kế mình vào Nam lập nghiệp. Khi chú chị có công ăn việc làm, gia đình ổn định, thì những người bà con cùng làng quê cũng tìm cách vào theo. Họ đến nương nhờ nhà chị. Má chị là người gánh vác nặng nề nhất.

Má giỏi lắm, một tay buôn bán lo đời sống gia đình và gánh gồng một đoàn người từ Bình Định vào Nam lập nghiệp. Nhà chị lúc nào cũng đông. Mỗi bữa ăn ba bốn mâm cơm mà người ăn đa số là thanh niên lực lưỡng.

Má xay bột làm bánh cam, bánh ít, nấu chè rồi gánh đi bán. Tiếng rao của má nghe tội nghiệp giữa nắng trưa. Má vừa đi bán dạo vừa hỏi để gom tỉn nước mắm ( Ngày xưa người ta đựng nước mắm trong cái tỉn bằng đất nung rồi hàn kín miệng). Má mua những tỉn không chở lên Sài Gòn bán cho vựa rồi mua tỉnh đầy về bán. Nhà đông nhân khẩu, má đấu thầu mua hột cao su để mọi người có công ăn việc làm. Má nấu rượu, nuôi heo nái và đi cất hàng từ Sài gòn về bán lại cho xóm giềng. Ở nhà là một tiệm tạp hóa, thế mà má nhớ giá cả không sai một đồng. Ngày còn bé chị cũng biết phụ má buôn bán, cũng đội một trẹt bánh cam đi vòng xóm mời mọc. Cũng biết ngồi để mua hột cao su. và cũng đã từng theo má xuống suối nhổ rong lá hẹ về nấu cho heo ăn.

Một gánh hàng rong mẹ tảo tần
Gót chân nứt nẻ đã bao lần
Bàn tay nhăn nhúm không trao chuốt
Để lệ con rơi , nhớ mẫu thân.

Chị hình dung má chị như một con rối trong cái xã hội lỗi thời. Phải gánh vác nhà chồng như một quy luật bất biến, tự nhiên. Mà phải đâu ba chị chung tình cho cam. Ba chị là một người đàn ông đẹp trai và phong độ. Biết bao mối tình đi qua đời ông. Còn Má chị, chỉ cúc cung phục vụ cho một người chồng, gia đình chồng. Yêu thương chăm sóc những đứa con riêng của chồng với những người đàn bà khác.
Chị hỏi, “Má ơi! tại sao như vậy?”
Má chỉ cười và trả lời, “Vì mình là đàn bà.”
“Đàn bà. Tại sao đàn bà phải chịu thiệt thòi nhiều vậy,” má chị khẽ nói
“Rồi con cũng sẽ như vậy. Một người phụ nữ đoan chính chỉ có một chồng, còn đàn ông họ có quyền năm thê, bảy thiếp."
Trong đầu óc non nớt của chị lúc ấy, chị nhủ thầm, "Chị sẽ không lấy chồng vì như vậy là bất công."
Thế nhưng má không hề biết đến hai chữ bất công. Cuộc đời má gắn liền với bổn phận. Trong thân thể gầy gò khô héo đó vươn lên một cái gì thật đẹp. Như một viên kim cương nhỏ bé mà giá trị biết bao.

Má như giọt sương mai buổi sáng.
Lấp lánh chói lòa dưới mặt trời
Là viên kim cương không ai mua được
Thương đế chỉ dành cho chúng con thôi.

Má không bao giờ nghĩ mình cao cả. Má chỉ làm hết sức mình để cho chồng , con và mọi người vui. Má coi những gì mình cho ra là bình thường ai cũng làm được.

Má không là núi, chẳng là mây
Má chỉ là mẹ của xưa nay
Khói bếp làm bù đầu tóc rối
Bay mãi lên cao quyện mỗi ngày.

Má không phải chỉ có năm đứa con má sinh ra mà má còn có thêm sáu đứa con riêng của chồng thương yêu má. Trái tim của má mở ra cho hầu hết mọi người. Những đứa con chồng lại càng yêu thương, kính phục má hơn ai hết.

Má mất, ba dòng con để tang.
Các em nước mắt chảy hai hàng.
Thương má lớn, người mẹ hiền nhân hậu.
Mở rộng trái tim để cưu mang.

Bây giờ là tháng 5, ngày Chủ Nhật 13/5/2018 là ngày Mother's Day. Quà các con ở xa đã gửi về kịp lúc cho chị. Chắc chắn là các con ở gần sẽ mời chị đi ăn.
“Nấu ăn cả năm rồi. Hôm nay là ngày lễ Mother's Day để người khác phục vụ cho má.”
Con chị nói thế mỗi khi chị đề nghị ăn ở nhà. Chị không thích phải xếp hàng rồng rắn để chờ ăn. Chị chỉ muốn cả nhà vui vẻ ăn những món chị nấu. Nhưng ngày lễ này thì đành chịu thua các con. Chị cũng nhận được nhiều lời chúc trên Facebook, trên mail của em, của bạn bè và những đứa con kết nghĩa.
Trong niềm vui đó, chị lại nhớ má mình vô cùng, nhớ má hơn bao giờ hết. Chị thương má muốn khóc.
Cả cuộc đời của má không hề có "Một ngày của Mẹ." Người mẹ như một ân huệ từ trên trời ban xuống cho những đứa con. Cứ nhận một cách thoải mái và không nghi ngờ. Những hy sinh, những vất vả của mẹ bỏ ra cho con như một sự tự nhiên. Chưa bao giờ các con của má ôm má hôn một cái hay nói một lời cám ơn má dù đó là ngày Tết.

Có chăng là giận hờn má cái này, trách má cái kia. Cảm thấy má bỏ ra chưa đủ, chưa công bằng. Chỉ khi má bệnh thật nặng, phải đem vào bệnh viện, đối diện với sự sống chết, các con mới giật mình thảng thốt nhận ra má mình đã già, má không còn bao nhiêu ngày tháng.

Tại sao như vậy? Chị cũng được đi học mà. Cũng được giáo dục "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”?

Chị cũng là đứa con gái duy nhất má thương yêu và gần gũi. Thế nhưng, chỉ những ngày má nằm bệnh viện chị mới cảm thấy má quan trọng nhất và chị sợ hãi sẽ bị mất má. Chị nhìn má chị thật kỹ, chị ôm lấy má và hôn trên đôi má gầy gò xanh xao. Da mặt của má thật mịn, thật đẹp, tay má gầy gò trơ xương, những đường gân nổi lên thật tội. Nhất là những ngày nằm ở nhà thương, những đường kim tìm mạch để vô nước biển bị sai, bầm tím cả hai bàn tay, cổ tay của má.

Má không bao giờ than đau mỗi lần chích như vậy. Má nhắm mắt lại chịu đau để y tá làm việc. Má cám ơn mỗi khi làm xong. Mỗi khi y tá chích không đúng mạch máu, má vẫn bình tĩnh chịu đựng. Khi y tá ngoáy mũi kim chị có cảm giác như ai bóp mạnh vào trái tim mình, đôi lần chị chạy ra ngoài để khóc. Thương má quá đi.

Má là cây chuối bên nhà ngọt mật
Vú sữa đầu mùa vị ngọt thanh tao
Là cây khế cây dừa trồng ở vườn sau
Là hoa Mai, hoa Sứ, hoa Ngọc Lan sân trước.
*
Má là... cả cái gì thân thiết nhất
Không thể hình dung, không thể trình bày
Má nằm trong tim, nhịp đập mỗi ngày
Trong hơi thở vẫn thơm mùi của má.

Người ta hay kháu nhau. Xã hội Tây Phương chỉ chú ý tới vật chất. Không có tình người. Con cái không biết gì về cha mẹ.
Không đúng, điều ấy hoàn toàn sai. Ngay từ lúc các cháu bé đi học lớp mầm, lớp chồi, lớp mẫu giáo, các cháu đã được dạy về tình gia đình. Những bức tranh, những hình dán dễ thương được viết cho mẹ, cho cha. Ngày sinh nhật cha mẹ, ngày lễ mẹ, lễ cha được nhà trường và xã hội tôn trọng và đề cao.
Chỉ có những kẻ vô thần, những đứa con bất hiếu hư hỏng mới không biết thương yêu, kính trọng cha mẹ. Còn xã hội nào, tôn giáo nào cũng đề cao tình phụ mẫu. Một con người không biết nghĩ đến người sinh dưỡng của mình thì chắc chắn người đó không thể là người tốt. Sẽ không giúp ích gì được cho xã hội. Nếu có thành công thì cũng chỉ là một con người ích kỷ, làm giàu bất chấp tốt xấu.

Năm ngoái, ngày Mother's Day cháu của chị đã dậy thật sớm. Tự tay chuẩn bị một bữa ăn sáng tươm tất cho cả gia đình. Có hoa, có quà cho mẹ, cho ngoại. Thiệp tự tay cháu làm để cám ơn mẹ, cám ơn bà.
Khi cháu ôm hôn chị và tỏ lời cám ơn chị đã khóc. Khóc vì vui mà cũng vì hối hận. Chị chưa từng làm như vậy với mẹ chị bao giờ.

Má ơi ! Con xin lỗi má, mặc dù con chưa làm điều gì cho má phải đau buồn về con. Nhưng con cũng chưa làm hết bổn phận cho má được thật vui vẻ hay sung sướng. Cả cuộc đời má vất vả hy sinh cho chúng con. Khi con bắt đầu khôn lớn thì chiến tranh đến hồi ác liệt. Tàn cuộc chiến mẹ con mình phải cách xa. Về gần được bên má, cái đói của thời bao cấp lại đè nặng cuộc đời. Con của má lại tiếp nối theo bước chân của má là làm dâu, làm vợ, làm mẹ. Con bươn chải quên bản thân mình để lo cho gia đình nhỏ của con..
Má ơi!, con đã không cận kề bên má, lo lắng , săn sóc cho má khi tuổi má về chiều.
Khi cuộc sống ổn định, con muốn trả hiếu cho má thì má đã khuất núi lâu rồi.
Ở trên cao má hãy tha thứ cho con. Đứa con gái mà má rất mực thương yêu.

Hàng đêm con lạy Phật Quan Âm.
Cúi đầu cung kính vái lâm râm.
Nguyện trên chư Phật luôn gia hộ
Má được phước lành kiếp tái sanh.
*
“Lễ Mẹ” tháng năm đã về rồi
Con buồn nhớ Má lệ thầm rơi
Ví dầu con có bao nhiêu tuổi.
"Mồ côi" con má vẫn ngậm ngùi.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Cha con
(Trích đoạn tiểu thuyết American Pastoral)

Philip Roth

Image
Philip Roth [1933-2018]
Lời người dịch: Philip Roth, đại thụ của văn học Mĩ đương đại, vừa tạ thế hôm thứ ba 22/5/2018 tại New York. Cùng với Saul Bellow và John Updike, ông làm thành bộ-ba cột trụ nâng đỡ nền văn học Mĩ suốt nửa sau thế kỉ XX và sang cả thế kỉ XXI. Đến nay thì cả ba đã ra đi.

Sau Thế chiến II văn xuôi Mĩ như đi vào thời kì Phục Hưng Mới. Bước ra khỏi bóng mát của những cây cổ thụ ở nửa đầu thế kỉ như John Dos Passos, Ernest Hemingway, William Faulkner, Henry Miller, John Steinbeck, một thế hệ những cây bút có thực tài, tin tưởng nhiệt tình vào sự tự do tuyệt đối trong sáng tạo và luôn luôn trung thành với nghệ thuật, đã đem lại khí hậu mới cho văn học Mĩ và thật sự thể hiện được tiếng nói của thời đại mình. Có thể liệt kê ra đây một số những tên tuổi quen thuộc được cả thế giới mến mộ như John Updike, Grace Paley, Hubert Selby, Flannery O'Connor, John Cheever, Bernard Malamud, Saul Bellow, J.D. Salinger, J.F. Powers, Raymond Carver, Ann Beattie, Andre Dubus, Richard Ford, Mary Gaitskill, Joyce Carol Oates, Erica Jong, Toni Morrison, Joy Williams, Jayne Anne Phillips, Tim O'Brien, Tobias Wolff, vân vân. Danh sách dài lắm, có lẽ kể không xiết.

Nhưng không thể không nhắc đến Philip Roth.

Ngay với tác phẩm đầu tay, cuốn Goodbye, Columbus (Giã từ, Columbus) xuất bản năm 1959, Roth đã thành công rực rỡ, và tập truyện này (gồm một truyện vừa và năm truyện ngắn) được trao tặng giải National Book, giải thưởng văn học cao quý nhất của nước Mĩ. Nói đến giải thưởng, người ta không khỏi chóng mặt khi đếm lại những giải thưởng ông được trao tặng trong suốt quá trình sáng tạo. Không kể những giải nhỏ, những giải thưởng sau đây đã lọt vào tay ông: năm lần PEN, một lần Ambassador Book, một lần Pulitzer, hai lần National Book, hai lần National Book Critic Circle. (Điều phi lí là giải Nobel Văn chương tìm mọi cách né tránh ông.) Năm 1998, toà Bạch Ốc vinh danh ông với Huân chương Nghệ thuật Quốc gia. Năm 2001, ông được Hàn lâm viện Văn học & Nghệ thuật trao tặng huy chương vàng bộ môn tiểu thuyết. Năm sau Sáng hội Văn chương Quốc gia trân trọng vinh danh ông như là người có những đóng góp cao quý nhất vào văn học Mĩ. Năm 2005, dự án Philip Roth Toàn Tập khởi in và hoàn tất năm 2012, đây là vinh dự hiếm hoi cho một nhà văn còn tại thế.

Philip Roth sinh năm 1933 tại Newark, bang New Jersey, nơi ông dùng làm bối cảnh địa lí cho rất nhiều tiểu thuyết của ông kể cả cuốn American Pastoral (Miền thôn dã Mĩ quốc) trích dịch dưới đây. Thời trẻ ông theo học tại đại học Chicago và tốt nghiệp Thạc sĩ Anh ngữ. Năm 1955 ông bị gọi nhập ngũ nhưng chỉ ít lâu sau phải giải ngũ vì bị thương trong lúc huấn luyện tại thao trường. Ra lính, ông học tiếp lên Tiến sĩ nhưng nửa chừng bỏ dở và từ năm 1959 ông bắt đầu viết bài điểm phim cho tạp chí New Republic. Cũng vào năm đó, cuốn Goodbye, Columbus ra đời; tác phẩm đoạt giải National Book, và sau đó được dựng thành phim truyện. Tuy thế, phải đợi mười năm sau, cuốn Portnoy's Complaint (Lời than vãn của Portnoy) mới thật sự gây tiếng vang sâu rộng và tạo phản ứng mạnh mẽ từ giới phê bình cũng như độc giả khắp nước. Cuốn sách viết về cậu trai đang ở tuổi dậy thì với những ám ảnh tình dục và liên hệ không mấy tốt đẹp giữa cậu và bà mẹ Do Thái.

Do Thái, đúng hơn đời sống người Do Thái trên đất Mĩ, chiếm phần lớn nội dung tiểu thuyết của Roth. Không khác những nhà văn đi trước ông như Malamud và Bellow, những nhân vật trong truyện của Roth gần gũi con người ông nhất bao giờ cũng là Do Thái, nhưng đó là những con người Do Thái không đẹp đẽ, dễ yêu chút nào. Người đọc thường có cảm tưởng nhìn thấy chính ông với những ám ảnh của các nhân vật trong truyện. Bị chỉ trích, ông trả lời: “Xuất bản một tác phẩm giống như xách chiếc va-li của mình đem vứt nơi công cộng rồi bỏ đi. Không cách nào nhà văn có thể bảo đảm chuyện gì xảy đến cho cuốn sách của mình khi nó được tung ra ngoài thế giới.” Càng về sau Roth càng vật vã với vấn nạn khủng hoảng căn cước.

Từ những năm 60, Roth dạy văn chương tại nhiều đại học khác nhau, phần lớn bên miền Đông nước Mĩ. Năm 1972, ông xuất bản cuốn The Breast (Cái vú)—nhái theo tác phẩm Hoá thân nổi tiếng của Franz Kafka, trong đó nhân vật chính diện David Kepesh một hôm thấy mình “hoá thân” thành cái vú đàn bà khổng lồ. Kepesh xuất hiện lần nữa trong The Professor of Desire (Vị Giáo sư của dục vọng) (1977) và The Dying Animal (Con thú đang chết) (2001). Thập kỉ 80 không thấy Roth viết nhiều, chỉ có cuốn The Counterlife (Đời sống phản) xuất bản năm 1986 là đáng kể; nhưng tình trạng lắng đọng tạm thời đó chấm dứt ở thập kỉ 90 khi Roth ào ạt trở lại với sức sáng tác sung mãn hơn bao giờ hết và liên tiếp giật hết giải thưởng văn học này đến giải kia. Cuốn The Human Stain (Vết nhơ con người) xuất bản năm 2000 được dựng thành phim do Nicole Kidman và Anthony Hopkins thủ diễn các vai chính. Cuốn tiểu thuyết viết về quan hệ tình ái giữa ông giáo sư già một trường đại học nhỏ với người đàn bà mù chữ làm lao công trong trường. Những cuốn quan trọng khác là: Patrimony (Di sản tổ tiên) (1991) được giải National Book Critics Circle; cuốn Operation Shylock (Chiến dịch Shylock) (1993) được giải PEN/Faulkner; cuốn Sabbath's Theater (Khán trường của Sabbath) (1995) được giải National Book. Ở tuổi tác khá cao, Roth vẫn sáng tác không ngừng, mỗi năm vẫn đều đặn cho ra đời một cuốn sách, và trái với lẽ thông thường nơi nhiều nhà văn khác, càng về sau tiểu thuyết ông càng có giá trị văn học, minh chứng bởi những giải thưởng văn học ông liên tiếp nhận lãnh hằng năm. Cuốn A Plot Against America (Kế hoạch phá hoại nước Mĩ), xuất bản năm 2005, viết theo thể tiểu thuyết phản lịch sử, trong đó Charles Lindberg thay vì Franklin Delano Roosevelt đắc cử Tổng thống năm 1932 và nước Mĩ rơi vào tình trạng quân phiệt như Đức Quốc xã. Lịch sử trong cuốn sách là một lịch sử giả định, và được nhiều người xem là có tính tiên tri, nó dự báo việc Donald Trump lên làm Tổng thống nước Mĩ. Sau cuốn Indignation (Phẫn nộ) viết năm 2008, người ta tưởng ông đã ngưng viết, nhưng năm 2010, ở tuổi 77, ông cho xuất bản cuốn Nemesis và đây mới là tác phẩm cuối cùng của một sự nghiệp đồ sộ trên 30 cuốn sách. Sức sáng tác của ông bền bỉ và giá trị tác phẩm cao đến độ ngay cả những kẻ nghi hoặc nhất cũng phải kinh ngạc. Hai lần tạp chí TIME bình chọn ông là nhà văn lớn nhất của nuớc Mĩ.

Trích đoạn Cha Con (tựa do người dịch đặt) nằm trong phần hai của cuốn tiểu thuyết American Pastoral (Miền thôn dã Mĩ quốc) xuất bản lần thứ nhất năm 1997 và được trao tặng giải Pulitzer. Bối cảnh lịch sử là thập kỉ 60 với những xáo trộn và phân hoá chưa từng thấy trong xã hội Mĩ do tác động trực tiếp của cuộc chiến tại Việt Nam và những biến đổi sâu sắc trong đời sống dân Mĩ – như cuộc cách mạng tình dục – đem lại. Swede Levov, nhân vật chính trong truyện, thời niên thiếu là một lực sĩ nhiều triển vọng, đẹp trai, được nhiều người mến mộ. Anh thuộc thế hệ Do Thái thứ ba sinh sống ở Newark, bang New Jersey. Cha anh có nghề làm găng tay da và khi trưởng thành Swede thừa hưởng gia tài cha mẹ để lại, trở thành chủ nhân một doanh nghiệp lớn và trở nên giàu có. Swede lấy vợ, hoa khôi New Jersey, và sinh được mụn con. Đó là Merry, cô gái xinh đẹp và hết sức thông minh. Anh mua đất nơi vùng thôn dã Old Rimrock cách xa thành phố, xây nhà cho vợ con ở. Cuộc sống gia đình anh tưởng như nơi thiên đường.

Nhưng thiên đường sụp vỡ khi Merry năm mười sáu tuổi đặt bom phá tan cửa hàng tạp hoá gần trường học và làm thiệt mạng một người đàn ông. Merry không phải là cô gái hư hỏng, ngược lại ngay từ khi còn bé thơ cô đã học hành giỏi giang, cha mẹ cô yêu thương cô hết mực và dốc lòng chăm sóc cô đến nơi đến chốn. Tuy vậy, Merry không trở thành cô gái tiểu thư con nhà khuê các. Mầm mống của tai hoạ bắt đầu từ khi cô có chút trí khôn, đầu óc của cô gái nhỏ không hiểu do đâu bỗng chứa đựng toàn những tư tưởng phẫn nộ, phản loạn. Mỗi ngày phải nhìn những hình ảnh chết chóc phi lí của cuộc chiến tranh bên Đông Dương, cô thù ghét khôn tả cuộc chiến đó và cô đổ tội lên các lãnh tụ quốc gia nơi cô sinh trưởng. Cô phản loạn đến độ cô nghe theo các nhóm phản chiến đi vào con đường bạo động nhằm đánh thức lương tâm nước Mĩ. Cô không biết hay cố tình không cần biết hành vi đó của cô đã gây đau khổ dường nào cho hai người sinh thành ra cô.

Swede đau khổ vô cùng. Con gái anh, sau vụ đánh bom, trốn biệt và bị công an liên bang lên án, truy tầm. Anh sống trong lo âu, sợ hãi, nhưng một hôm, năm năm sau khi Merry bỏ trốn, qua móc nối của người đàn bà trong phong trào phản chiến, anh tìm gặp lại Merry…

Roth luôn luôn dành tình cảm đậm đà cho các nhân vật của mình. Đây là đặc tính của ngòi bút ông, trích đoạn dưới đây cho thấy điều đó. Cảm xúc tuôn chảy không ngừng, người đọc có cảm tưởng như chính ông chịu cái đau của nhân vật. Swede gặp con gái xong, ra về trong hoảng loạn. Về nhà anh càng hoảng loạn hơn khi nhìn vợ. Vợ anh ngoại tình với tay kiến trúc sư, người chính tay xây cất ngôi nhà hoành tráng của vợ chồng anh, ngôi nhà bên trong thiên đường nơi miền thôn dã nước Mĩ. – Trịnh Y Thư

.. Image
Chiếm trọn góc toà nhà cao tầng tường gạch lở lói là cái bệnh viện chó mèo, bên cạnh khu đất trống nơi bánh xe phế thải vứt bừa bãi, cỏ dại cao tận đầu người mọc vô trật tự, hàng rào sắt lưới mắt cáo gãy đổ xiêu vẹo bên lối bộ hành nơi anh đứng đợi con gái mình . . . cô sống ở Newark. . . bao lâu rồi. . . nơi đâu, khu xóm nào trong thành phố này? Không, đầu óc anh không thiếu khả năng tưởng tượng—tưởng tượng những điều kinh khiếp giờ đây với anh trở nên quá dễ dàng, mặc dù anh vẫn không hình dung nổi làm thế nào từ Old Rimrock cô có thể xiêu lạc về tận nơi đây. Mất rồi những ảo tưởng cho anh bám víu hòng kềm hãm mọi kinh ngạc đang lăm le ào tới.

Nơi cô làm việc cho thấy cô chẳng còn tin tưởng gì vào lời kêu gọi đi thay đổi lịch sử nước Mĩ nữa. Lối thoát hoả hoạn, cái thang sắt rỉ sét của toà nhà, nếu có ai đặt chân lên, chắc nó sẽ gãy lìa khỏi neo móc và rơi ập xuống thôi—cái thang, nhiệm vụ của nó không phải để cứu người trong trường hợp hoả hoạn, nó treo toòng teng nơi đó thật vô dụng như minh chứng cho nỗi cô độc mịt mùng bấu chặt vào cuộc sống. Với anh, nó không hề hàm chứa ý nghĩa nào khác—toà nhà đó không tượng trưng cho bất kì ý nghĩa nào. Vâng, chúng ta đang sống cô độc, sâu thăm thẳm nỗi cô độc, và luôn luôn chờ đón trước mặt chúng ta tầng cô độc sâu hơn. Chúng ta chẳng thể nào chối bỏ được điều đó. Không, cô độc không làm chúng ta lạ lùng kinh ngạc, kinh ngạc như khi chúng ta nếm mùi nó. Bạn có thể dốc lòng dạ mình ra, nhưng làm thế thì được gì, thay vì hướng nội và cô độc thì bạn hướng ngoại và cô độc. Hỡi Merry yêu dấu ngu xuẩn, ngu xuẩn của tôi, ngu xuẩn hơn cả người cha ngu xuẩn của con, phá sập nhà cửa dinh thự đem lại ích lợi gì đâu. Cô độc nếu có những toà nhà và cô độc nếu không có những toà nhà. Chẳng ai phản đối được sự cô độc—tất cả những cuộc tấn công bằng bom đạn trong lịch sử có bao giờ gây vết trầy nhỏ nào lên nó đâu. Chất nổ tàn hại độc phá nhất của con người cũng chẳng đụng tới nó. Hỡi đứa con dại khờ của tôi, đứng sừng sững đầy khiếp hãi trước mặt không phải là Chủ nghĩa Cộng sản mà là nỗi cô độc thường tình, bình nhật. Lễ Lao động con hãy đi diễn hành với bạn bè để vinh danh nó, siêu lực của những siêu lực, sức mạnh phủ trùm lên mọi vật. Hãy đặt hết niềm tin, hãy thờ phượng—hãy quỳ xuống phủ phục không phải trước mặt Karl Marx, hỡi đứa con nói lắp, phẫn nộ, ngu muội của tôi, không phải Hồ Chí Minh, không phải Mao Trạch Đông—hãy quỳ xuống và phủ phục trước mặt Chúa Cô Độc vĩ đại!

Con cô đơn quá, cô thường bảo anh vậy lúc cô còn là cô gái bé thơ, và anh không hiểu cô học chữ đó từ đâu. Cô đơn. Từ ngữ thốt ra từ miệng đứa trẻ lên hai nghe sao thê thiết. Nhưng cô biết nói quá nhiều và quá sớm, ngay từ buổi đầu cô đã ăn nói thật dễ dàng, sắc sảo—và biết đâu đó chính là cái gì ẩn nấp đằng sau tật nói lắp, những chữ cô thành thuộc một cách kì quái trước khi những đứa trẻ khác biết cách phát âm tên của chính mình, một tình trạng quá tải vốn liếng từ vựng trong đó có cả câu nói kêu rêu “Con cô đơn quá.” Cô chỉ trò chuyện được với anh. “Bố ơi! Mình nói chuyện này đi.” Thường câu chuyện xoay quanh mẹ cô. Cô bảo anh mẹ bình phẩm quá nhiều về quần áo, tóc tai cô. Mẹ muốn cô phải ăn mặc như người lớn chứ không như những đứa trẻ khác. Merry thích để tóc dài như Patti, nhưng mẹ muốn cô cắt tóc ngắn. “Chắc mẹ sẽ hài lòng vui sướng lắm nếu con mặc đồng phục như hồi đó mẹ mặc ở trường St. Genevieve.” “Mẹ là người bảo thủ, thế thôi. Nhưng con thích đi sắm hàng với mẹ mà.” “Đi mua sắm với mẹ con chỉ thích lúc ăn trưa, ăn trưa vui lắm. Đôi khi chọn quần áo cũng thích. Nhưng lúc nào mẹ cũng n-n-n-n-nói quá nhiều.” Bữa trưa ở trường học cô chẳng bao giờ chịu ăn thức ăn mẹ cô bới cho cô đem theo. “Bánh mì kẹp thịt thấy mà ghê. Xúc xích gan thấy mà ghê. Cá tu-na để trong túi ướt nhẹp. Món duy nhất con thích ăn là thịt dăm bông Virginia, nhưng phải lột vỏ bì. Con cũng thích ăn s-s-súp nóng nữa.” Nhưng khi cầm theo bình thuỷ đựng súp đến trường, cô cứ làm vỡ bình. Nếu không tuần lễ đầu thì tuần thứ nhì. Dawn mua cho cô loại bình không vỡ nhưng ngay thế cô vẫn đập nó vỡ tan như thường. Đó là mức độ đập phá nơi con người cô.

Đi học về, trong lúc nướng bánh với Patti, bạn cô, Merry lúc nào cũng phải đập trứng vì Patti bảo đập trứng làm cô nhợn nhạo. Merry cho đấy là chuyện vớ vẩn, thế là một hôm cô đập quả trứng ngay trước mặt Patti và cô gái này nôn thốc ra. Đó là tính đập phá trong con người cô—đập bình thuỷ và đập trứng. Và vứt đi tất cả những gì mẹ cô bắt cô đem theo lúc đến trường. Không bao giờ than phiền, chỉ không chịu ăn. Khi Dawn bắt đầu nghi ngờ hành vi đó của con gái và hỏi cô ăn gì trong trường, Merry có lẽ vứt thức ăn mà chẳng hề mở hộp xem có gì bên trong. “Đôi lúc mẹ nghĩ con là đứa trẻ bất trị,” Dawn bảo cô vậy. “Không đâu. Con không b-b-b-bất trị như thế đâu nếu mẹ đừng hỏi con ăn gì trong trường.” Điên tiết, mẹ cô nói, “Merry, thật chẳng dễ dàng chút nào để làm nên con người con, phải không?” “Mẹ à, con nghĩ để làm nên con người con có lẽ còn dễ dàng hơn là lại g-g-gần con.” Với cha cô, cô tâm sự, “Con nghĩ trái cây cũng chẳng có gì h-h-hấp dẫn nên con vứt đi luôn.” “Và cả sữa con cũng vứt.” “Bố à, sữa hết lạnh uống sao nổi.” Nhưng dưới đáy hộp đồ ăn trưa bao giờ cũng có đồng mười xu để mua kem, và cô chỉ ăn có thế. Không thích mù-tạt. Đó là lời than phiền khác của cô ít năm trước khi cô bắt đầu than phiền về Tư bản chủ nghĩa. “Bố ơi, trẻ con làm cái gì?” Cô hỏi anh. Câu trả lời là Patti. Patti ăn bánh mì kẹp thịt có mù-tạt và phó-mát; Merry, trong những lần tâm sự trò chuyện với cha, không thể nào hiểu nổi điều đó. Bánh mì quết phó-mát nướng chảy là cái gì Merry thích ăn hơn cả. Phó-mát Muenster nướng cho chảy ra rồi ăn với bánh mì trắng. Ở trường học ra, Merry rủ Patti về nhà, và bởi Merry vứt hết thức ăn trưa rồi, hai đứa trẻ lúi húi nướng phó-mát ăn với bánh mì. Đôi khi chỉ là phó-mát nướng trên mảnh giấy nhôm. Cô dám chắc cô có thể sống ăn độc món phó-mát nướng chảy nếu có ngày cô phải sống như thế, cô bảo cha cô vậy. Có lẽ đó là hành vi vô trách nhiệm nhất của đứa trẻ—sau buổi học về nhà nướng phó-mát trên giấy nhôm rồi nhồm nhoàm ăn—cho đến khi cô ném bom phá nổ tan tành cửa hàng tạp hoá. Ngay chuyện Patti làm cô khó chịu cô cũng chẳng bao giờ nói ra, bởi cô sợ Patti đau lòng. “Đến nhà chơi mãi cũng có lúc p-p-p-phát chán chứ.” Nhưng với Dawn cô luôn luôn làm ra vẻ cô muốn Patti ở chơi lâu hơn. Mẹ ơi, Patti ở lại ăn cơm tối với mình được không? Mẹ ơi, Patti ở lại ngủ đêm chung với con được không? Mẹ ơi, Patti đi giày bốt của con được không? Mẹ ơi, mẹ chở con và Patti xuống quê chơi đi.

Năm lớp năm cô tặng mẹ món quà nhân Ngày Hiền Mẫu. Ở trường, các cô cậu học sinh được hỏi làm gì cho mẹ, cô viết lên tấm vải lớn mỗi thứ sáu trong tuần cô sẽ nấu cơm tối cho mẹ, một nghĩa cử khá rộng rãi nơi đứa trẻ lên mười nhưng cô không quên lời hứa đó phần lớn chỉ vì cô muốn chí ít một lần trong tuần có món ziti nướng trên bàn ăn; thêm nữa, nếu nấu ăn cô không phải dọn bàn rửa bát. Có Dawn phụ giúp, thi thoảng cô nấu món lasagna hoặc sò nhồi thịt, nhưng món ziti nướng bao giờ cũng do cô chính tay làm lấy. Đôi ba thứ sáu có nui trộn phó-mát nhưng thường vẫn là ziti nướng. Điều quan trọng là phải canh chừng cho phó-mát chảy ra, mặc dù quan trọng không kém mặt trên phải cứng giòn. Anh là người có nhiệm vụ dọn dẹp bát đĩa mỗi lần cô làm món ziti, và lần nào anh cũng phải rửa ráy một đống đồ dùng. Nhưng anh yêu thích chuyện đó. “Nấu ăn thích lắm nhưng dọn dẹp thì chẳng vui thú tí nào,” cô tâm sự với anh, nhưng anh không thấy vậy khi Merry nấu ăn. Anh nghe nói trên đường 49 có nhà hàng làm món ziti nướng ngon nhất New York, anh liền đưa gia đình đến ăn ở tiệm Vincent đều đặn mỗi tháng một lần. Anh đưa vợ con vào xem Radio City hoặc một vở nhạc kịch Broadway nào đó rồi kéo nhau vào tiệm Vincent. Merry thích tiệm này lắm. Anh chàng chạy bàn trẻ trung tên Billy cũng tỏ ra yêu mến cô đặc biệt vì cậu em anh chàng cũng bị tật nói lắp giống cô. Anh ta kể cho Merry nghe về những ngôi sao TV và điện ảnh đến ăn ở tiệm. “Ghế bố em đang ngồi kìa, thấy không? Signorina, thấy cái ghế đó không? Tối qua Danny Thomas ngồi ngay đấy. Em biết Danny Thomas nói gì khi có người lạ đến làm quen không?” “Kh-kh-kh-không.” “Ông ấy nói 'Hân hạnh được gặp ông.'” Sáng thứ hai, ngày hôm sau, tại trường, cô lặp lại những gì Billy của tiệm Vincent ở New York kể cô nghe tối hôm trước. Có đứa trẻ nào vui sướng hơn không? Một đứa trẻ ít phá hoại hơn? Một signorina be bé được cha mẹ yêu thương hơn? Không.

Mụ đàn bà da đen người to béo như con ngựa kéo xe thồ, mụ mặc quần màu vàng bó sát đùi, chân đi giày cao gót, khập khiễng tiến đến anh, một tay mụ chìa ra mảnh giấy nhỏ. Vết thẹo chằng chịt trên khuôn mặt mụ. Anh biết mụ đến báo tin con gái anh đã chết. Mảnh giấy viết thế. Chữ viết của Rita Cohen trên mảnh giấy. Mụ bảo anh: “Thưa ngài, ngài có thể chỉ đường cho tôi đến Salvation Army được không?” “Có Salvation Army quanh đây à?” Anh hỏi lại mụ. Trông mụ chẳng có vẻ gì là đang nói sự thật. Mụ đáp lời, “Ừm, tôi nghĩ vậy,” Mụ giơ lên mảnh giấy, “Trong này nói thế. Ngài biết nó ở đâu không, thưa ngài.” Bất kì câu nói nào bắt đầu hay chấm dứt bằng tiếng ngài thường có nghĩa là “Tôi muốn tiền,” và vì thế anh rút túi đưa cho mụ xấp giấy bạc, mụ lảo đảo quành bước rồi biến dạng vào hầm cầu, nhưng sau đó anh chẳng thấy bóng dáng ai hiện ra.

Anh đứng chờ bốn mươi phút và có lẽ bốn mươi phút nữa, có lẽ đến khi trời tối, tối mịt không chừng, người đàn ông mặc trên người bộ com-lê trị giá bảy trăm đô la, đứng dựa lưng vào cột đèn điện như gã lang thang không nhà áo quần rách rưới, người đàn ông với nhân dáng bề ngoài cho thấy ông ta là nhân vật chỉ biết đi dự hội họp và quan tâm đến chuyện kinh doanh, xã hội, chứ không thể là người chủ ý ra đứng lảng vảng trên con lộ đổ nát gần trạm ga xe lửa, người đàn ông có lẽ là kẻ giàu có từ phương xa đến ngỡ mình lạc vào khu chị em ta, và đang giả tảng nhìn bâng quơ lên bầu trời trong lúc đầu óc đầy ắp những điều bí mật và nhịp tim thình thịch đập (quả đúng như vậy.) Trong trường hợp Rita Cohen nói thật, một sự thật khiếp hãi, có lẽ anh sẽ đứng canh chừng nơi đó suốt đêm cho đến khi trời ửng sáng ngày hôm sau, với ý tưởng trong đầu anh sẽ bắt gặp Merry đi làm. Nhưng may mắn biết bao, sau bốn mươi phút cô xuất hiện, người đàn bà dáng thanh cao, nhưng chắc anh chẳng bao giờ nhận ra đó là con gái mình nếu anh không được mách trước đấy chính là nơi anh sẽ tìm thấy cô.

Một lần nữa trí tưởng tượng của anh thất bại. Anh có cảm tưởng anh không điều khiển nổi các cơ bắp trong người anh nữa, một khả năng anh thuần thục từ năm hai tuổi—anh không ngạc nhiên nếu mọi thứ trong người anh, kể cả máu, tung toé đổ xuống mặt đường. Làm sao anh chiến đấu nổi. Làm sao anh đem chuyện này về nhà đối diện khuôn mặt tinh khôi của Dawn. Những ngọn đèn điện sáng trưng của trần nhà bếp hiện đại chẳng thể nào soi đường cho cô ra khỏi cảnh này để trở về chốn cũ. Một nghìn tám trăm đêm buông thả cho trí tưởng tượng nổi trôi trong đầu người cha kẻ sát nhân vẫn không thể giúp anh chuẩn bị đối đầu với cuộc sống lẩn trốn của cô hiện tại. Không phải vì thế mà FBI vẫn không phăng ra manh mối. Thật quá khủng khiếp cho anh chỉ cần lướt qua ý nghĩ làm thế nào cô có thể trở thành con người như ngày hôm nay. Nhưng quay lưng lại chính con gái mình ư? Trong sợ hãi? Còn tâm hồn cô để nâng niu yêu thương chứ. “Đời sống!” Anh tự nhủ. “Không thể để mất con được! Đời sống của mình, của con!” Ngay lúc đó Merry nhận ra anh, và cho dù làm được, anh không thể quay lưng bỏ chạy, bởi đã quá trễ rồi.

Nhưng nếu bỏ chạy, anh sẽ chạy đến cái gì đây? Đến Swede, kẻ chạy đua không biết mệt chăng? Đến thằng cha Swede, phúc đức thay, quên bẵng hắn là ai và đầu óc trống trơn chăng? Đến Swede Levov của ngày xửa ngày xưa . . . Anh cũng có thể tìm đến nhờ mụ đàn bà da đen to béo mặt đầy thẹo giúp đỡ, hỏi mụ về chính anh, “Thưa bà, bà biết tôi đang ở đâu không? Bà biết tôi đang đi đâu không?”

Merry trông thấy anh. Làm sao cô không thấy anh được? Làm sao cô không thấy anh ngay cả khi anh đứng trên con đường nơi hiện hữu sự sống chứ không phải cái chết, nơi cảnh người đua chen bừng bừng sức sống đầy mạnh mẽ chứ không phải khoảng chân không vắng lạnh hoang tàn này? Cha cô đấy, người đàn ông điển trai thân hình cao gần hai thước, chẳng cô gái nào có được người cha điển trai đến vậy. Cô chạy băng qua đường, con người khiếp hãi này, và giống như đứa trẻ vô tư lự như anh có thời cảm thấy thích thú hồi tưởng chính anh cũng vậy—cô bé gái từ xích đu bên ngoài ngôi nhà đá chạy ùa vào—cô ôm chầm lấy anh, hai tay vòng lên bá cổ anh. “Bố! Bố!” Tiếng cô thốt ra từ bên trong tấm mạng che kín nửa mặt dưới—không thấy miệng và cằm cô đâu, tấm mạng chỉ là miếng giẻ rách xé ra từ chiếc vớ ni lông cũ—cô cất tiếng gọi con người cô thù ghét thật trơn tru, không chút gượng gạo, như bất kì đứa trẻ nào, và giống như người lâm vào thảm kịch không biết mình là con cái nhà ai.

Cha con cứ thế khóc mùi mẫn, người cha vững vàng, người quản chế mọi trật tự, người không thể để bất kì dấu hiệu hỗn loạn nào xảy ra—giữ không cho hỗn loạn lại gần là con đường đã chọn của trực giác tiến đến đích thực, điều hẳn nhiên chắc nịch thường ngày của đời sống—và cô con gái, cô chính là sự hỗn loạn đó.



Cô theo đạo Jain. Cha cô không hiểu đó là cái gì cho đến lúc với giọng nói đều đều như lời kinh cầu—giọng nói trơn tru có lẽ cô nói trong nhà nếu cô được chữa khỏi tật nói lắp trong lúc sống dưới sự bảo bọc yêu thương của cha mẹ—cô bảo anh Jain là một giáo phái nhỏ bên Ấn Độ. Anh có thể chấp nhận điều đó không khó khăn, nhưng anh không rõ Merry sống như bây giờ bởi giáo lí bắt vậy hay do chính cô tự đặt ra, ngay cả nếu cô quả quyết tất cả mọi sinh hoạt của cô bây giờ đều là sự biểu hiện niềm tin tôn giáo. Cô che mặt bằng tấm mạng để tránh gây nguy hại đến các vi sinh vật sống trong không khí. Cô không tắm rửa bởi cô tôn trọng mọi sinh thể khác kể cả loài côn trùng. Cô không rửa ráy, cô nói, “vì rửa ráy gây tác hại đến nước.” Cô không đi đâu lúc trời tối, ngay cả trong phòng riêng, bởi cô sợ bàn chân cô đè bẹp làm chết sinh vật nào đó. Cô giải thích bên trong bất cứ hình thái vật chất nào cũng có linh hồn nhốt bên trong; hình thái đời sống càng thấp, linh hồn nhốt bên trong càng đau đớn. Con đường duy nhất để giải thoát khỏi vật chất và đạt tới “cõi chân phúc vĩnh cửu dựa vào cuộc sống tự túc” là con đường tiến tới một “linh hồn toàn bích.” Cô kính cẩn gọi thế. Người ta chỉ có thể đạt tới cõi toàn bích này qua sự tu tập khổ hạnh, quên mình và qua học thuyết ahimsa, tức bất bạo động.

Năm “lời nguyện” đánh máy trên mấy tấm cạc nhỏ dán trên tường bên cạnh một đống nệm cao su cáu ghét nằm dưới sàn nhà bẩn thỉu. Đó là chỗ ngủ của cô, và bởi không còn gì khác ngoài đống cao su trong góc phòng và đống giẻ rách—áo quần của cô—ở góc bên kia, đó cũng là nơi cô ngồi gặm những gì lây lất nuôi sống cô. Ít lắm, vô cùng ít, dựa vào sắc diện của cô hiện tại; trông cô như đang ở Delhi hay Calcutta, không ai có thể tưởng tượng nổi cô chỉ cách Old Rimrock năm mươi phút lái xe, cô là người đang chết đói không phải vì niềm tin chân thành của mình vào đức tu khổ hạnh mà là con người cùng khốn bị mọi người khinh khi ghét bỏ, đang lê lết đôi chân yếu đuối bước những bước đi tội nghiệp.

Căn phòng nhỏ lắm, nhỏ ghê rợn hơn cả phòng giam nhà tù trẻ vị thành niên mà những đêm nằm trằn trọc trên giường anh tưởng tượng có ngày vào thăm cô sau khi cô bị bắt giữ. Từ bệnh viện chó mèo đi về phía trạm ga xe lửa đoạn rẽ sang hướng tây, anh theo cô về phòng sau khi chui qua gầm cầu dẫn đến xa lộ McCarter, cái gầm cầu dài không quá năm mươi thước nhưng là nơi người lái xe phải khoá cửa xe cẩn thận mỗi lần chạy ngang. Gầm cầu tối đen, lối đi bộ bừa bãi những món vật không ai hình dung nổi là gì lẫn lộn với bàn ghế cũ gãy nát, lon bia, chai lọ. Bảng số xe dưới chân. Mười năm rồi không ai buồn dọn dẹp chỗ đó. Có lẽ chẳng bao giờ. Mỗi bước chân đi anh nghe tiếng thuỷ tinh vỡ rào rạo dưới đế giày. Ngay giữa lối đi bỗng có quầy rượu nằm chình ình. Nó ở đâu ra? Ai đem nó đến đây? Một cái quần đàn ông. Dơ bẩn. Người đàn ông là ai? Chuyện gì xảy đến cho gã? Swede sẽ không kinh ngạc chút nào nếu anh chợt nhìn thấy cánh tay hay ống chân của ai đó nằm dưới đất. Một túi rác chận ngay lối đi. Màu đậm. Cột chặt. Cái gì nằm trong túi rác? Nó to vừa để chứa xác một người chết. Và cũng có thân xác những người sống, lẫn lộn ngập ngụa trong đống rác, những con người mặt mày hung tợn lẩn trong bóng tối. Và bên trên thành cầu, tiếng xe lửa chạy ầm ầm—tiếng xe lửa chạy về trạm ga nghe từ bên dưới đường sắt. Năm, sáu trăm chuyến xe lửa mỗi ngày, ngay trên đầu.

Để đến phòng trọ của Merry bên cạnh xa lộ McCarter, bạn phải bước qua cái gầm cầu đó, cái gầm cầu khiếp hãi như bất kì gầm cầu xa lộ nào trên thế giới chứ không riêng gì ở Newark này.

Cha con đi bộ bởi cô không muốn lên xe cho anh lái. “Bố! Con chỉ đi bộ chứ không đặt chân lên ô tô bao giờ,” thế là anh đành bỏ xe lại đại lộ Railroad cho ai đó đến lấy trộm, và cuốc bộ mười phút đồng hồ bên cạnh cô đến phòng trọ, đi được mươi bước suýt nữa nước mắt anh đã trào ra nếu anh không luôn tự nhắc nhở thầm, “Đây là đời sống! Đây là đời sống cha con mình! Mình không thể để mất con,” và nếu anh không nắm tay cô trong lúc đi xuyên qua cái gầm cầu kinh khiếp đó, “Đây là bàn tay con mình, bàn tay Merry. Không có gì trọng đại hơn bàn tay con gái mình.”

Cô kể anh nghe những chặng đường cô trải qua.

Và anh nghe với tâm trạng gì? Thắc mắc: Giả như có lúc trong đời sống gia đình trước khi cô đi vào con đường lầm lỡ, lúc đó là lúc nào và ở đâu? Suy nghĩ: Chẳng bao giờ có lúc đó, chẳng bao giờ có một Merry ngoan ngoãn vâng lời, suốt chừng đó năm trời cô đánh lừa vợ chồng anh, cho vợ chồng anh cảm tưởng cô an toàn nằm dưới sự bảo bọc của cha mẹ. Suy nghĩ: Vô ích thôi, mọi việc anh làm. Chuẩn bị, tập tành, trách nhiệm; quên mình để chu toàn những điều thiết yếu, những gì quan hệ nhất; xây dựng một cách có hệ thống, quan sát tỉ mỉ mọi vần đề, lớn hay nhỏ; không phó mặc, không buông thả, không lười nhác; kiên trì làm tròn mọi bổn phận, năng nổ đáp ứng mọi yêu cầu . . . danh sách dài như Hiến pháp nước Mĩ, những tín điều của anh—và tất cả đều vô ích. Tất cả chỉ là sự hệ thống hoá những điều vô ích. Còn lại là chính anh, kẻ bị trói buộc bởi muôn vàn trách nhiệm.

Suy nghĩ: Con mình không ở trong tay mình, nó chẳng bao giờ nằm trong tay mình cả. Số phận nó nằm trong tay một thế lực khốn nạn. Cái gì hết sức là điên rồ. Tất cả chúng ta đều thế. Người lớn không mang trọng trách này. Chính họ không ai chịu trách nhiệm này. Có cái gì khác.

Vâng, ở tuổi bốn muơi sáu, năm 1978, sau gần ba phần tư thế kỉ xác trẻ nít và cha mẹ chúng bị băm vằm quăng ra bừa bãi khắp nơi, Swede mới nhận thức là tất cả chúng ta đều nằm dưới sự kiềm toả của thứ thế lực vô cùng điên khùng đó. Ông bạn ơi, chỉ là vấn đề thời gian thôi. Tất cả chúng ta đều chịu chung số phận!

Anh nghe tiếng chúng cả cười, bọn Weathermen, bọn Panthers, đoàn binh ô hợp đầy phẫn nộ của những con người Bất Tha Hoá bạo tàn, bọn chúng gọi đích danh anh là kẻ tội phạm và thù ghét anh cay đắng chỉ vì anh là kẻ có của. Cuối cùng Swede nhìn ra! Chúng sung sướng đến mê say, hả hê vì huỷ hoại được cô gái cưng của anh, đời sống riêng tư anh cũng bị chúng phá nát, rốt cuộc chúng lùa anh lọt vào chân lí của chúng, một chân lí như chúng biết là chân lí của mỗi người đàn ông, đàn bà, trẻ nít Việt Nam, mỗi cộng đồng da đen trong nước Mĩ, bất kì người nào trên mặt đất bị rút rỉa bởi bọn tư bản tham lam tàn độc. Sự điên khùng chính là lịch sử nước Mĩ! Đó là đế quốc Mĩ! Đó là Chase Manhattan và General Motors và Standard Oil và Newark Maid Leather! Xin mời các ngươi vào, bọn chó tư bản! Hân hoan chào mừng nhân loại nằm-dưới-sự-dày-xéo-của-nước- Mĩ!

Cô thuật lại bảy mươi hai tiếng đồng hồ sau vụ nổ bom, cô trốn tại nhà riêng của Sheila Salzman, người nữ bác sĩ trước đây giúp cô chữa bệnh nói lắp, ở Morristown. Cô an toàn mò đến nhà Sheila, được bà cho vào nhà và ban ngày ẩn náu trong phòng đợi bên cạnh văn phòng làm việc của bà còn ban đêm cô ngủ ngay trong văn phòng. Thế là bắt đầu cuộc sống lẩn trốn của cô. Trong vòng hai tháng trời, cô có đến mười lăm cái tên giả khác nhau và cứ bốn năm ngày lại phải di chuyển chỗ ở. Nhưng khi đến Indianapolis, cô làm quen với một đại diện phong trào, người này chỉ biết cô là thành phần phản chiến đang sống lẩn trốn chính quyền. Cô ra nghĩa trang thấy trên bia mộ tên đứa bé sơ sinh sinh cùng năm với cô, cô lấy tên đứa bé làm tên mình rồi đi xin giấy khai sinh, và từ đó cô có cái tên khác là Mary Stoltz. Sau đó, cô còn đi xin thẻ thư viện và số An sinh Xã hội, và bằng lái xe khi cô mười bảy tuổi. Trong gần năm trời—qua sự giới thiệu của người đại diện—Mary Stoltz kiếm sống bằng nghề rửa chén trong nhà bếp một viện dưỡng lão, cho đến một buổi sáng ông ta gọi điện thoại và bảo cô phải đến gặp ông ta ngay tức khắc tại bến xe đò Greyhound. Tại bến xe, ông ta nhét vào tay cô cái vé xe đi Chicago, bảo cô ở lại đó hai ngày rồi mua vé đi thẳng sang Oregon—phía bắc thành phố Portland có khu trại tập thể nơi cô có thể dùng làm nơi ẩn náu. Ông ta cho cô địa chỉ khu trại tập thể và ít tiền để mua quần áo, thức ăn và vé xe đò, cô đến Chicago, tại đây, ngay đêm đầu tiên, cô bị hãm hiếp. Bị bắt cóc, hãm hiếp, trấn lột. Mới mười bảy tuổi đầu.

Tại nhà bếp một quán rượu tồi tàn dưới mặt đường và không được tử tế như nhà bếp viện dưỡng lão, cô rửa bát kiếm tiền đi Oregon. Ở Chicago không ai trợ giúp cô và cô cũng không dám bắt liên lạc với người trong phong trào bởi cô sợ không may có chuyện gì sai lầm cô sẽ bị công an bắt. Ngay cả dùng điện thoại công cộng gọi cho người đại diện phong trào ở Indianapolis cô cũng không dám. Cô bị hiếp lần nữa (tại phòng trọ thứ tư) nhưng lần này cô không bị cướp tiền, và vì thế sau sáu tuần lễ rửa bát cô dành dụm được ít tiền đủ để lên đường sang Oregon.

Thời gian ở Chicago, nỗi cô độc phủ trùm, cô cảm thấy nó như dòng nước xuyên chảy qua người cô. Không ngày nào, có hôm không giờ khắc nào cô không nghĩ đến chuyện ra gọi điện thoại về nhà ở Old Rimrock. Nhưng lần nào cũng thế, trước khi kịp nghĩ ngợi đến căn phòng thời thơ ấu của mình vốn có thể hoàn toàn biến đổi con người hiện tại của cô, cô tạt vào tiệm ăn nào đó rồi ngồi tại quầy ăn, gọi nhà bếp làm cho mình cái bánh mì kẹp thịt cùng li sữa đánh kem va-ni. Lần nào cũng một câu nói tương tự, đoạn cô ngồi nhìn miếng thịt mỡ heo co rút trên mặt chảo nóng, nhìn lát bánh mì nhảy lên từ lò nướng, cẩn thận rút cây tăm cắm trên ụ bánh khi phần ăn được mang lên, vừa ăn vừa uống sữa đánh kem, đặt hết tinh thần nhai từng cùi rau diếp nhạt thếch, cho thấm vào miệng vị béo xông khói của miếng thịt mỡ heo chiên giòn và vị ngọt của lát cà chua mềm mại, nuốt vào bao tử mọi thứ cùng với bánh mì quết xốt me-on-ne, kiên nhẫn cho xương quai hàm và hàm răng làm việc, nghiền nát từng miếng trong miệng để nỗi u hoài trong lòng dịu xuống—cô chăm chú đặt hết tinh thần vào phần ăn như đàn bò mẹ cô nuôi chăm chỉ nhai rơm trong máng—cho cô can đảm một mình tiếp tục cất bước. Cô ăn hết đĩa bánh và uống cạn li sữa đánh kem, lòng hồi tưởng lại chặng đường đã qua và hình dung ra chặng đường trước mặt. Khi rời Chicago, cô khám phá ra một điều, đó là cô không cần có một mái nhà; cô sẽ không bao giờ để tình cảm mình chi phối phải nặng lòng lưu luyến mái ấm gia đình.

Ở Oregon, cô dính líu đến hai vụ đặt bom.

Thay vì ngưng tay, cô thấy tinh thần phấn chấn hơn sau vụ đánh bom gây tử vong người đàn ông tên Fred Conlon; sau Fred Conlon, thay vì bị lương tâm đánh gục, cô rũ sạch mọi sợ hãi vu vơ và niềm ăn năn hối hận. Nỗi kinh hoàng sau khi giết người, dù không chủ tâm, một người vô tội, một người tốt lành như bất kì con người tốt lành nào cô muốn gặp, không hề dạy cô bài học về điều ngăn cấm cơ bản nhất, và dù được cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, trong cơn mê loạn say sưa cô không nhìn ra. Cái chết của người đàn ông tên Conlon chỉ làm gia tăng niềm tin tưởng cuồng nhiệt của cô vào lí tưởng cách mạng, cô không nhụt chí dùng những phương tiện, dù tàn bạo đến đâu chăng nữa, để tấn công vào thành trì tội ác. Chống đối lại bất cứ thứ gì tốt đẹp trong cái nước Mĩ sa đoạ đều cao đẹp chứ không hoa hoè như những món đồ xinh xắn cô treo trên tường phòng ngủ của cô, cô chứng minh được như thế.

“Chính con là người đặt bom?” Anh hỏi cô.

“Vâng, chính con.”

“Ở Hamlin và Oregon, cũng chính là con?”

“Vâng.”

“Ở Oregon, có ai chết không?”

“Có.”

“Ai?”

“Người ta.”

“Người ta,” anh lập lại. “Bao nhiêu người chết, hả Merry?”

“Ba.” Cô trả lời.

Tại khu trại tập thể, đồ ăn thức uống không thiếu. Ở đó, người ta tự trồng trọt nhiều loại thực phẩm và vì thế cô không phải đêm đêm đi mò rau cải trái cây hư thối bên ngoài siêu thị như thời gian cô mới đặt chân đến Chicago. Cũng tại nơi đây cô bắt đầu ngủ với người đàn bà cô yêu, bà ta là vợ anh thợ dệt. Merry học chạy máy dệt từ anh thợ những lúc cô không bận lắp ráp bom. Lắp ráp bom trở thành tay nghề của cô sau khi cô thành công đặt quả thứ hai và thứ ba. Cô yêu thích sự kiên nhẫn và chuẩn xác cần thiết để nối dây nhợ từ thanh thuốc nổ vào bộ phận nổ và từ bộ phận nổ vào cái đồng hồ báo thức Woolworth. Đây là lúc tật nói lắp của cô dần dà biến mất. Cô không bao giờ nói lắp trong lúc làm việc với thuốc nổ.

Bỗng xảy ra chuyện bất hoà giữa vợ chồng anh thợ dệt, hai người cãi nhau kịch liệt và Merry phải bỏ khu trại tập thể ra đi để tìm lại sự yên ổn trong trại.

Giữa thời gian nương náu ở Idaho, nơi cô làm việc trong những rẫy khoai, cô quyết định trốn sang Cuba. Đêm đêm trong căn phòng khu ba-rắc của nông trại cô học tiếng Tây Ban Nha. Sống chung đụng với những thành phần lao động trong nông trại, cô càng cảm thấy tin tưởng hơn vào con đường mình đang theo đuổi, mặc dù những gã nông dân uống rượu vào say sưa làm nhiều điều sằng bậy dễ sợ và cô lại bị hiếp nhiều lần. Cô tin là sang Cuba cô có thể sống bên cạnh những công nhân mà không phải e sợ sự bạo hành từ họ. Ở Cuba cô vẫn là Merry Levov chứ không phải Mary Stoltz.

Tại thời điểm này cô đi đến kết luận là sẽ chẳng bao giờ vận động được cuộc cách mạng bên trong nước Mĩ để lật đổ mọi lực lượng kì thị, phản động và tham tàn. Chiến tranh du kích trong thành thị là vô ích thôi khi phải đương đầu với một siêu cường nguyên tử không hề ngần ngại dùng bất cứ biện pháp nào để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của nó. Bởi cô không hỗ trợ được cuộc cách mạng bên trong nội địa nước Mĩ, hi vọng duy nhất của cô là hiến thân cho cuộc cách mạng đã mở màn. Nếu được vậy, cuộc sống lưu vong của cô có cơ chấm dứt và giai đoạn mới thật sự bắt đầu.

Năm kế đó cô tập trung mọi cố gắng tìm đường xuống Cuba, tìm đến Fidel, người giải phóng giai cấp vô sản và xoá tan mọi bất công với chủ nghĩa xã hội. Nhưng tại Florida lần đầu cô chạm trán với công an liên bang. Tại Miami có một công viên đầy dân tị nạn Dominica la cà. Nơi đây thật tốt cho cô tập nói tiếng Tây Ban Nha và chẳng bao lâu cô biến thành cô giáo dạy tiếng Anh cho đám thanh thiếu niên. Chúng mến cô lắm và gọi cô là La Farfulla, cô gái cà lăm, cô bỏ qua, tha cho chúng trò tinh nghịch nói lắp theo cô những chữ tiếng Anh cô dạy chúng đọc. Nhưng cô nói tiếng Tây Ban Nha khá lưu loát, không ngọng ngịu, ngập ngừng chút nào. Thêm một lí do nữa để chạy theo cánh tay cách mạng thế giới.

Một hôm, Merry thuật tiếp, cô để ý thấy một gã da đen lạ mặt đi lang thang đến công viên kín đáo quan sát cô dạy học bọn thanh thiếu niên. Cô nhận ra ngay điều này có nghĩa là gì. Một ngàn lần trước đó cô nghĩ FBI đang theo dõi cô và một ngàn lần cô lầm tưởng—ở Oregon, Idaho, Kentucky, Maryland, FBI theo dõi cô lúc cô đứng bán hàng trong tiệm tạp hoá; lúc cô ngồi ăn trong tiệm ăn; lúc cô rửa bát nơi phòng ăn tập thể; lúc cô về nhà nơi cô cư ngụ trên con phố tồi tàn; lúc cô trốn trong thư viện nơi cô đọc báo và nghiền ngẫm tư tưởng những nhà cách mạng, thông hiểu Marx, Marcuse, Malcolm X, và Frantz Fanon, nhà lí thuyết người Pháp mà mỗi câu văn của ông, như bài kinh cầu trước giờ đi ngủ, đã giúp cô vững vàng chõi dậy tương tự như li sữa đánh kem và đĩa bánh mì kẹp thịt. Phải luôn luôn ghi nhớ người đàn bà Algeria biết được vai trò của bà vừa là “người đàn bà cô độc ngoài đường” vừa là người, bằng bản năng, mang trên vai sứ mệnh cách mạng. Người đàn bà Algeria không phải là gián điệp bí mật. Không hề được tập luyện, không hề được chỉ bảo, không hề ồn ào, bà bước ra đường với ba quả lựu đạn trong sắc tay. Bà không chủ

tâm đóng một vai trò nào. Không có nhân vật nào để mô phỏng hay bắt chước. Mặt khác, có sự bi kịch hoá đầy mãnh liệt, sự liền lạc giữa người đàn bà và cuộc cách mạng. Người đàn bà Algeria chỗi dậy thẳng tiến tới mức độ của bi kịch.

Suy nghĩ: Và cô gái New Jersey tuột dốc xuống tới trình độ xuẩn ngốc dại khờ. Cô gái New Jersey cha mẹ gửi đi ăn học tại trường Montessori bởi cô quá giỏi giang, cô gái New Jersey tại trường Trung học Morristown điểm hạng chỉ có A và B—cô gái New Jersey vươn thẳng lên trình độ những trò chơi điếm nhục. Cô gái New Jersey vươn tới trình độ của căn bệnh thác loạn thần kinh.

Khắp nơi, tại các thành phố cô lẩn trốn, cô nghĩ cô trông thấy người của FBI theo dõi cô—nhưng Miami mới là nơi sau cùng cô trông thấy nguy cơ hiện rõ trong lúc cô dạy tiếng Anh cho lũ thanh thiếu niên ngoài công viên thành phố. Tuy vậy, cách nào cô phụ lòng lũ trẻ được? Cách nào cô ngoảnh mặt quay lưng lại lũ trẻ sinh ra đời không có gì trong tay đó? Lũ trẻ mà ngay với chúng cũng là rác rưởi trong thế giới loài người. Hôm sau ra công viên cô lại thấy gã lang thang da đen trẻ tuổi cầm tờ báo che mặt giả vờ nằm ngủ trên băng ghế, cô bỏ đi ngay và khi ra tới mặt đường cô chạy thục mạng, cô chạy mãi cho đến khi cô gặp người đàn bà mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, người đàn bà da đen to béo có con chó bên cạnh. Bà cầm trong tay cái li nhỏ lắc lắc lên xuống miệng nói thều thào, “Mù mắt, mù mắt, mù mắt.” Trên vỉa hè dưới chân bà là chiếc áo choàng bằng len rách bươm, và Merry nghĩ cô có thể trốn trong chiếc áo choàng đó. Nhưng cô chẳng thể nào cướp đại chiếc áo từ người đàn bà; thay vì thế cô hỏi người đàn bà cô có thể giúp bà ăn xin được không, bà trả lời được, Merry hỏi bà cô có thể mượn bà chiếc áo choàng và cặp kính đen được không, bà trả lời, “Cô gái cưng, cái gì già cũng có thể cho cô được,” thế là Merry mình mặc chiếc áo choàng cũ kĩ dày cộm, mắt đeo kính đen đứng dưới bầu trời nắng chang chang ở Miami tay lắc lắc cái li xin tiền trong lúc người đàn bà van vỉ “Mù mắt, mù mắt, mù mắt.” Đêm đó cô trốn dưới hầm cầu, nhưng ngày hôm sau khi cô mò lại chỗ bà già da đen ăn xin, lần nữa cô trá hình trong cái áo choàng và cặp kính đen, và cuối cùng cô vào sống chung với bà già và con chó của bà, từ đó cô trở thành người săn sóc bà.

Đó là thời điểm cô bắt đầu đọc sách về tôn giáo. Bunice, tên người đàn bà, hát cho cô nghe mỗi sáng khi còn nằm trên giường nơi cô ngủ chung với bà và con chó. Nhưng Bunice bị ung thư và qua đời, đó là thời kì u tối nhất: ở bệnh xá, khu ung thư, nhà quàn, cô là người thân duy nhất bên cạnh bà, cô mất đi người cô thương yêu nhất trên đời . . . cô chưa bao giờ khổ tâm như vậy.

Thời gian Bunice nằm trên giường chờ chết, cô tìm thấy trong thư viện một số sách vở và sau khi đọc cô dứt khoát từ bỏ truyền thống Do-Thái-Thiên-Chúa để tìm kiếm cho bằng được tôn chỉ đạo đức vô thượng ahimsa, một tôn chỉ hướng thượng đời sống cùng lời nguyện sẽ không bao giờ gia hại bất kì sinh vật nào.

Cha cô không còn thắc mắc ở thời điểm nào đời sống cô vuột khỏi tầm tay kiểm soát của cha mẹ, anh cũng không tiếp tục suy nghĩ tất cả những gì anh làm đều trở nên vô ích và cô con gái anh bị khống chế bởi thế lực điên khùng nào đó. Thay vì thế, anh nghĩ Mary Stoltz không phải là con gái anh, bởi lí do giản dị con gái anh không thể nào chịu đựng nổi ngần đó khổ đau. Cô là đứa bé gái sống ở Old Rimrock, được nâng niu chiều chuộng hết mực bên trong thiên đường. Không đời nào có chuyện cô làm việc trong rẫy khoai và ngủ đêm dưới gầm cầu suốt năm năm trời, khốn đốn trong nỗi hãi sợ bị ruồng bắt. Cô không thể ngủ với người đàn bà mù mắt và con chó của mụ. Indianapolis, Chicago, Portland, Idaho, Kentucky, Maryland, Florida—không bao giờ Merry có thể một mình sống tại những nơi chốn đó, một người cô độc lang thang không cửa không nhà rửa bát kiếm ăn, trốn tránh cảnh sát, kết bạn với những kẻ nghèo hèn trong công viên thành phố. Và không bao giờ cô lại có ngày quay về Newark này. Không. Sáu tháng trời sống ngay đây, đi bộ xuyên qua con đường hầm, mặt che bằng tấm mạng và cứ thế đi bộ một mình, sáng cũng như tối, ngang bãi rác phế thải và tất cả những đồ vật bẩn thỉu—Không! Câu chuyện không thể có thật, mục đích của nó là tiêu huỷ nhân vật ác, kẻ đó chính là anh. Câu chuyện là bức biếm hoạ, bức biếm hoạ được thổi phồng, và cô là diễn viên, cô gái này là kẻ chuyên nghiệp, được chúng thuê với mục đích làm cho anh đau đớn bởi anh là cái gì hoàn toàn tương phản với chúng. Chúng muốn kết liễu đời anh bằng câu chuyện kẻ ti tiện sống lưu vong ngay tại vùng đất nơi gia đình cô nhiều đời thành đạt giàu có, và vì thế anh nhất quyết không chịu tin những gì cô kể. Anh suy nghĩ trong đầu, Hãm hiếp? Bom? Miếng mồi ngon cho bất kì thằng điên nào? Khổ ải không đủ diễn tả những gì cô trải qua. Địa ngục mới đúng. Merry không thể nào sống sót nổi. Cô chẳng thể nào sống sót sau khi giết chết bốn mạng người. Cô chẳng thể nào nhẫn tâm giết người vô tội và vẫn nhơn nhơn tiếp tục sống sau đó.

Rồi anh nhận ra cô không thể tồn tại. Bất kì sự thật là gì, bất kì chuyện gì thật sự xảy ra cho cô, lòng quyết tâm từ bỏ cuộc sống đáng khinh khi của cha mẹ cô đã đẩy cô xuống vực thẳm và huỷ diệt chính con người cô.

Cố nhiên tất cả những điều này đều có thể xảy đến cho cô. Khắp nơi trên mặt đất này mỗi ngày đều có những chuyện như vậy. Anh không hề có ý niệm người ta hành xử ra sao.

“Cô không phải là con gái tôi. Cô không phải là Merry.”

“Bố nghĩ như thế cũng được. Biết đâu đó lại là điều hay nhất.”

“Meredith, tại sao con không hỏi bố về mẹ con? Bố phải nhắc con sao? Mẹ con sinh ra ở đâu? Khuê danh của mẹ con là gì? Tên ông ngoại con là gì?”

“Con không muốn nói về mẹ.”

“Bởi vì con chẳng biết gì về mẹ con cả. Hay về bố. Hay con người con đang giả dạng. Con hãy nói về căn nhà bên bờ biển cho bố nghe. Tên cô giáo dạy con ở lớp một là gì? Lớp hai là gì? Này, cô hãy cho tôi biết tại sao cô lại đi giả dạng làm con gái tôi!”

“Nếu con trả lời bố những câu hỏi đó, bố chỉ khổ tâm thêm thôi. Con không biết bố muốn khổ đến đâu.”

“Ồ, này cô gái trẻ tuổi, cô đừng lo lắng tôi bị khổ tâm—cô cứ trả lời những câu hỏi của tôi. Tại sao cô giả dạng làm con gái tôi? Cô là ai? 'Rita Cohen' là ai? Hai người rắp tâm làm chuyện gì? Con gái tôi đâu? Tôi sẽ đi thưa cảnh sát trừ phi cô cho tôi biết tất cả sự thật và chỗ ở con gái tôi.”

“Bố, những gì con đang làm chẳng ai có thể đi kiện cáo.”

Chế độ luật pháp khốn nạn. Ngoài cái đạo Jain cực kì khốn nạn còn cái luật pháp cứt đái này nữa.

“Không,” anh bảo cô, “bây giờ thì không—bây giờ chỉ là sự khốn nạn cho tôi thôi! Nhưng chuyện cô làm trong quá khứ thì sao!”

“Con làm chết bốn mạng người,” cô trả lời anh, bình thản và ngây thơ như cô có lần bảo anh, “Hồi chiều con nướng bánh đấy bố ạ.”

“Không!” Anh hét to. Đạo Jain, luật pháp, sự ngây thơ cực kì ngu xuẩn, tất cả sự tuyệt vọng, tất cả tách rời cô ra khỏi bốn mạng người chết. “Không được! Không thể như thế này được! Cô không phải là người đàn bà Algeria! Quê cô không phải là Algeria, cũng không phải Ấn Độ! Cô là cô gái Mĩ nhà cửa ở Old Rimrock, New Jersey! Một cô gái Mĩ vô cùng, vô cùng lầm lỡ! Bốn mạng người! Không!” Và giờ đây anh không chịu tin vào sự thật, giờ đây anh thấy những tội lỗi cô làm phi lí hết sức và không thể nào có thật. Cô là đứa con thừa hưởng mọi ưu đãi phúc lành và vì thế chuyện cô đi vào con đường lầm lỡ là chuyện không bao giờ có thể xảy ra. Cả anh nữa. Chẳng bao giờ có chuyện đứa con do chính anh sinh đẻ có thể giết chết bốn mạng người. Chẳng bao giờ có chuyện đó bởi cô có tất cả những gì đời sống ban phát, đòi hỏi, và tất cả những gì xảy đến cho cô từ ngày cô mở mắt chào đời không thể nào biến cô thành kẻ giết người. Giết người? Gia đình này làm gì có chuyện đó. Không có chuyện đó trong cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Họ Levov này chỉ bị gán cho cái tội tày đình đó thôi. Không, cô không phải, không thể là con gái anh. “Nếu cô khoe khoang không bao giờ nói dối, không bao giờ lấy của ai cái gì, lớn cũng như nhỏ—tất cả những thứ vớ vẩn đó, Merry, những thứ vớ vẩn hoàn toàn vô nghĩa—tôi xin cô hãy cho tôi biết sự thật.”

“Sự thật giản dị lắm. Đây là sự thật. Bố phải gạt bỏ mọi dục vọng và tính ích kỉ đi.”

“Merry! Merry! Merry!” Anh kêu lên, và không kềm chế nổi nữa, với tất cả sức mạnh cường tráng của người đàn ông, anh nhào lên cô trong lúc cô ngồi thu mình trên đống cao su dơ bẩn. “Merry ơi! Đây không phải là con! Con không bao giờ nhúng tay làm nổi những chuyện kinh khủng như vậy!” Cô không chống cự lúc anh lấy tay giật phăng tấm mạng che mặt. Tấm mạng cắt ra từ vớ chân đàn bà, nó che cằm cô nơi đáng lí phải là chỗ của gót chân. Thật không có gì hôi hám hơn món vật người ta đi dưới chân và cô lấy che miệng. Mình yêu thương con, con yêu thương mình—và kết quả nó lấy vớ chân làm khăn che mặt. “Nói! Nói ngay!” Anh ra lệnh.

Nhưng cô không chịu nói. Anh cạy miệng cô. Anh bôi xoá lằn ranh trước đây anh không bao giờ bước qua—không bao giờ dùng bạo lực với con cái. Nhưng giờ đây tất cả mọi cảm thông đều bị xoá nhoà. Không còn sự cảm thông nào nữa, mặc dù anh biết bạo lực rất phi nhân và cũng vô ích thôi, và sự cảm thông—đối thoại hợp lí giữa đôi bên cho đến khi tìm ra điểm đồng thuận—thật cần thiết để đạt đến kết quả lâu dài. Người cha, người không bao giờ dùng sức mạnh với con cái, người quan niệm bạo hành là hiện thân của phá sản đạo đức, dùng ngón tay cạy miệng con gái mình và bắt cô thè lưỡi ra. Một cái răng cửa trong miệng cô bị mất, một trong những cái răng đẹp. Điều đó chứng minh đây không phải là Merry. Suốt chừng đó năm đeo niềng răng, biết bao công lao giữ gìn cho hàm răng đẹp, cho lợi răng tốt, cho nụ cười xinh—đây không thể nào là cô con gái anh.

“Nói!” Anh lại ra lệnh cho cô, và cuối cùng mùi hôi thối từ thân thể cô xông lên mũi anh, mùi hôi thối nhất từ một con người, hôi thối hơn bất kì con người nào ngoại trừ đó là kẻ sống rệu rã hay xác chết rệu rã. Lạ thật, mặc dù cô bảo anh cô không tắm rửa bao giờ bởi làm thế sẽ tác hại đến nước, trước đây ít phút anh chẳng ngửi thấy mùi gì cả—lúc anh ôm cô ngoài đường hay khi ngồi đối diện cô trong căn phòng tối mờ mờ—không gì ngoài cái mùi là lạ, chua chua, thum thủm khiến anh liên tưởng đến toà nhà đẫm mùi nước tiểu lưu cữu. Nhưng mùi anh ngửi thấy bây giờ, trong lúc bắt cô há to miệng, là mùi hôi thối của con người, một con người điên loạn loay hoay tìm kiếm lạc thú trong đống cứt của chính mình. Mùi hôi thối từ người cô bốc lên anh. Thật kinh tởm. Con gái anh là con người hư thối nồng nặc mùi hư thối của cặn bã. Mùi thối từ cô là mùi thối của tất cả những gì hữu cơ tan rữa. Nó là mùi thối của cái gì không liền lạc. Nó là mùi thối của con người cô bây giờ. Cô có thể nhúng tay vào những chuyện kinh khiếp đó chứ, và cô đã làm, cái tôn chỉ phải biết quý trọng đời sống là sự bỉ ổi sau cùng.

Anh cố tìm kiếm một cơ bắp nào bên trong anh để bít kín cổ họng, cái gì đó giúp anh ngưng lại ngay đây, đừng đẩy anh sâu thêm nữa xuống vũng lầy nhầy nhụa, nhưng tuyệt nhiên không có cơ bắp nào như thế. Ruột gan anh quặn thắt thức ăn chưa kịp tiêu hoá cùng chất chua, lưỡi anh thấy lợm vì vị đắng a-xít từ bao tử xông lên, và lúc anh hét “Cô là ai!” anh mửa thốc mửa tháo xuống mặt cô.

Trong bóng tối nhờ nhờ của căn phòng, khi nằm đè lên cô anh biết thật rõ cô là ai. Cô không cần mở miệng với khuôn mặt trần trụi không che đậy cho anh biết cái không thể giải thích đã vĩnh viễn thế chỗ cái anh vẫn đinh ninh trong đầu xưa nay. Nếu cô không mang nhãn hiệu Merry Levov trên người nữa vì hết tật nói lắp, đôi mắt vẫn là mắt cô, không sai chạy vào đâu được. Bên trong hốc mắt sâu hoắm và to quá khổ, đôi mắt đó là mắt anh. Dáng người cao cao là anh, đôi mắt của anh. Toàn thể con người cô là anh. Cái răng hở thì bị nhổ hoặc bị ai đánh văng đâu mất.

Lúc anh lui ra cửa cô không nhìn theo mà hốt hoảng nhìn quanh căn phòng chật hẹp như thể trong lúc điên cuồng anh đã gia hại không biết bao nhiêu vi sinh thể vô hại sống chung với cô trong cô độc.

Bốn mạng người. Thảo nào cô biến mất. Thảo nào anh biến mất. Đây là con gái anh, và không ai hiểu nổi cô. Tôi là cha kẻ sát nhân này. Anh mửa lên mặt cô, khu

User avatar
macco
Posts: 3543
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image

NHỨC NHỐI CON TIM
Tràm Cà Mau


Nhiều người tưởng rằng, đau tim là bệnh của ai khác, chứ không phải họ. Lầm to, ai cũng có thể chết bất thần vì đau tim, mà không có một triệu chứng nào báo trước cả. Đau tim, một trong những bệnh giết chết nhiều người nhất tại nước Mỹ. Nhờ khoa học tiến bộ, biết đích danh chết vì bệnh tim. Chứ bên Việt Nam mình thì cứ gọi là "trúng gió", trúng gió mà chết, nhiều lắm. Bị trúng gió, thì cạo gió, và xoa bóp huyệt đạo lung tung, cũng cứu được rất nhiều người. Đó cũng là một cách kích động cho trái tim đập lại, cho máu lưu thông, mà thoát chết. Cái gì cũng là "trúng gió" cả.



Câu chuyện "trúng gió" tại Mỹ cũng rất nhiều. Trong sở tôi, có một ông chưa được 60 tuổi, buổi trưa gục đầu trên bàn và chết mà không ai biết. Ông bạn ngồi bên cạnh đến lay nhẹ và nói: "Dậy, dậy, trong giờ làm việc mà ngủ, người ta thấy kỳ lắm". Ông nầy chết trong khi đang làm việc. Đâu phải công việc khó khăn, mệt nhọc và căng thẳng thần kinh lắm cho cam. Công việc cũng nhàn nhã, thong dong, không ai thúc hối, thế mà vẫn chết.

Một ông khác, tuổi trên 50, còn độc thân, đi ăn trưa về, vừa buớc vào thang máy, thì quỵ xuống. Bạn đồng nghiệp kêu xe cấp cứu, đến bệnh viện thì đã chết rồi. Nhiều người ngạc nhiên, vì ông nầy trông trẻ trung, dáng vóc khỏe mạnh, lanh lẹ và độc thân, không có ai mè nheo, cằn nhằn đến độ bực mình mà chết.

Một ông bạn, suốt đời không có triệu chứng gì về đau tim cả. Chỉ có bà vợ hay la mắng rầy rà làm ông buồn mà thôi. Một hôm ông ngồi đọc báo chờ vợ trước siêu thị. Bà vợ đẩy xe ra cửa, và nạt ông chồng: "Còn ngồi đó nữa sao? Không phụ tôi đẩy xe ư? Đàn ông gì mà lười biếng quá". Ông vội vã đến đẩy xe cho vợ, mới đi được mấy bước thì quỵ xuống. Bà vợ nạt: "Già rồi mà đi đứng còn hấp tấp, không ý tứ gì cả. Sao không đứng dậy, mà còn định nằm vạ đến bao giờ?" Thấy chồng nằm vạ lâu, bà cúi xuống kéo áo ông, thấy hai con ngươi đứng tròng. Bà hốt hoảng la lên. Nhưng không kịp nữa. Ông đã bị đứng tim chết rồi. Chính bà kể lại và khóc lóc.

Báo đăng, có ba ông bác sĩ gây mê, chưa đến 50 tuồi, đều chết vì bịnh tim. Cả ba ông đều không có triệu chứng gì về đau tim. Một ông vừa lái xe về nhà. Bà vợ ở phòng trên nghe tiếng ga-ra mở cửa. Chờ mãi không thấy chồng, chạy xuống ga-ra, thì thấy ông gục đầu trên tay lái mà chết. Ông đã bị đứng tim. Một ông khác, vừa chuyển thuốc mê vào cho bệnh nhân sắp mổ, thì gục xuống, và đi luôn. Một ông khác, cũng chết đột ngột tương tự. Đau tim mà chết. Không biết nghề bác sĩ gây mê nầy có lo lắng lắm không, mà giết chết nhiều người tuổi còn khá trẻ.
Image

Ngày nay, 50 tuổi được xem là còn trẻ, chứ ngày xưa, vua Khải Định đã ăn mừng "tứ tuần thượng thọ" rồi đó. Thời nầy, 40 tuổi thì xem như còn xuân xanh lắm, nhiều anh chưa chịu lấy vợ, nhiều chị chưa chịu lấy chồng, vì còn trẻ mà, vội chi? Bạn tôi, đi làm việc về, đút chìa vào ổ khóa cửa mãi mà không được, cứ trật ra ngoài hoài. Rồi bỗng nhiên quỵ xuống trước cửa nhà. Trong phút nguy cấp đó, anh biết không phải bị "trúng gió", vội vã mò điện thoại cầm tay, kêu số cấp cứu 911. Anh được chở kịp vào bệnh viện, và đêm đó, bác sĩ đè ra mổ tim ngay. Cứu anh sống. Nhưng không làm việc được, tay yếu không lái xe, trí óc không còn sáng suốt. Vẫn sống bình thường. Hai năm sau, trong khi đang tắm, qụy xuống, và chết vì tim. Có người phỏng đoán, anh chết vì tắm nước quá mát. Máu dồn ra ngoài da để bảo vệ thân thể, tim không còn máu, nên "đi" luôn.

Ông bạn ngồi cạnh tôi, người Mỹ, tuổi chưa được 50, dáng người gầy, thon thả, mỗi chiều sau khi tan sở, chạy bộ ven bờ sông. Một hôm nọ, vợ ông không thấy ông về, điện thoại hỏi thăm khắp nơi. Hôm sau điện thoại vào sở xem ông có đi làm không. Đi tìm mãi, cảnh sát báo cho bà biết, tìm ra xác ông bên bờ sông. Ông chết vì bị đứng tim.

Một ông bác sĩ mổ tim, tập thể dục mỗi ngày. Cũng không có triệu chứng gì trước về căn bệnh tim. Hôm đó ra sân quần vợt. Vừa đưa vợt lên, thì té qụy xuống, và chết luôn. Không cứu kịp. Một ông khác, trưa nào cũng lái xe đến sở của cô con gái, để cha con cùng đi ăn, và chuyện trò cho vui. Một hôm, trên đường đi, ông thấy đau trong ngực, và biết cần cấp cứu ngay. Ông rán hết sức, lái xe đến thẳng phòng cấp cứu của bệnh viện và khai là đau tim. Nhân viên bệnh viện thấy ông còn lái xe được, và để ông chờ. Chờ lâu quá, ông chết ngay trong phòng làm hồ sơ tiếp nhận cấp cứu. Đáng ra, ông phải dừng lại, và kêu xe cấp cứu ngay. Bởi lái xe, nguy hiểm cho người khác nếu ngất xỉu trên tay lái. Hơn nữa, nếu đi xe cấp cứu, bệnh viện sẽ cứu ông ngay khi mới vào.

Nhiều người rất sợ vào nằm chờ trong phòng cấp cứu của bệnh viện. Vì trên đường thì xe hú còi ầm ỉ, gấp gáp lắm, nhưng khi đến bệnh viện, thì để cho người bệnh nằm chờ dài cổ ra, chờ cho chán chê, mà chẳng ai dòm ngó đến. Rồi chán nản quá, họ đứng dậy, ra về mà không cần báo cho bệnh viện biết.

Bạn tôi, buổi tối ngồi xem truyền hình với đứa con trai. Khi hết phim, cháu đến thức bố dậy đi ngủ: "Bố ơi, hết phim rồi, vào đi ngủ." Lay hoài không thấy bố dậy. Cháu bé khóc: "Bố đừng làm con sợ." Và bạn tôi đã chết tự bao giờ mà không biết. Chỉ có hai bố con sống với nhau. Tội nghiệp thằng bé, không biết phải làm gì trong tình thế đó. Nhiều trường hợp khác nữa, thấy tận mắt, nghe tận tai, nhiều quá không kể hết được. Thế mà, tôi cũng như mọi người khác, cứ tưởng bệnh tim là bệnh của ai, chứ không phải của mình.

Y hệt chuyện chết chóc, ai đó chết, chứ mình thì không, như sống mãi muôn đời.

Nhiều năm trước, khi đi ra ngoài trời lạnh, tôi cảm thấy nhói nhói trong tim. (Nói theo bạn tôi, là cảm thấy đau nhè nhẹ như khi bị phụ tình). Tôi cũng không cần báo cho bác sĩ biết. Một hôm đi khám bệnh, trong lúc nói chuyện đùa cho vui, tôi tiết lộ cái "nhói nhói như bị phụ tình" đó. Ông bác sĩ nầy tử tế, đưa tôi đi đo tâm động đồ. Không biết sao hôm đó, tâm động đồ của tôi bất thường, lặng đi hai nhịp. Nhiều người cho biết, bình thường thì cảm thấy tim đau, nhưng khi đo nhịp tim, thì tim đập bình thường, nên không có dấu hiệu nào cả, bác sĩ cho là tim đập bình thường. Sau đó, tôi được đưa đi thử nghiệm nhiều cách khác nữa. Làm luôn cả thử nghiệm "phóng xạ" (nuclear scanning), bơm chất cản quang vào máu, và soi xem các cơ tim hoạt động ra sao. Tôi được nằm và chuồi vào một cái máy, như sắp phóng tôi vào trong không gian, ở các phim giả tưởng. Sau đó, được xét nghiệm bằng siêu âm xem các van tim hoạt động có bình thường không. Bác sĩ gia đình nói cho tôi biết, có một mạch máu rất nhỏ dưới đáy nhọn của tim bị nghẹt nhẹ.
Image



Về sau, tôi nói điều nầy với ông bác sĩ chuyên môn bệnh tim, ông cười và mĩa mai tôi. Vì các thử nghiệm đó, không thể kết luận nghẹt mạch máu tim. Chỉ khi nào làm thử nghiệm soi mạch máu (angiography) mời biết rõ có nghẹt hay không. Bác sĩ gia đình cho tôi uống thuốc trừ mỡ trong máu (cholesterol), uống mỗi ngày, uống đều đều. Một hôm tôi đọc được tài liệu cho biết, uống thuốc trị mỡ lâu ngày, có thể đưa đến bệnh gan trầm trọng. Bạn tôi cũng dọa tôi về bệnh gan, đưa cho tôi nhiều thống kê đáng sợ về những người bị hư gan vì uống thuốc đau tim. Có lẽ tôi thiên vị, thương lá gan hơn thương trái tim, cho nên tôi ngưng uống thuốc trừ mỡ.

Sau đó, tôi thường nghĩ, đâu cần uống thuốc trừ mỡ, không uống, tôi vẫn sống nhăn răng ra đây, có can gì đâu. Cho đến một hôm, tôi thấy cánh tay trái mỏi trong bắp thịt, hơi tê tê, nhói nhói. Tôi tưởng vì cắt tỉa mấy cây hường mà ra. Nếu đau tay vì tỉa hoa, thì phải đau tay mặt mới đúng, nhưng tôi cố giải thích sao cho tự yên tâm mình. Nghĩ rằng, rồi bắp thịt sẽ hết đau. Nhưng sau đó, nhiều hôm đang tập thể dục nữa chừng, thì mệt dữ dội, phải ngưng tập năm bảy phút mới tập lại được. Sau đó, mỗi lần xách cái gì nặng, cũng mau mệt khủng khiếp. Những lúc đi ra ngoài trời lạnh, thì mệt ngất, đi không được, phải quay về. Thêm vào các triệu chứng đó, là thỉnh thoảng nghe nhói trong tim, ở ngực, nhưng không xác định được chắc chắn đau chỗ nào. Có đêm đang ngủ, nghe nhói tim thức giấc dậy. Những lúc nầy, là tim đau, nếu được "thăng" ngay, thì khỏe khoắn và nhẹ nhàng lắm. Không đau dớn chi nhiều cả.

Với những lời khai bệnh như trên, ông bác sĩ gia đình vẫn cười, cho rằng chưa đáng chuyển qua bác sĩ chuyên môn, và chỉ cho uống thuốc. Dù ông nầy rất tử tế, rất tốt. Khi tôi khai có ngày bị đau nhói trong ngực và mệt đến hai ba lần, ông mới chuyển qua bác sĩ chuyên môn về tim. Qua lời khai, ông bác sĩ nầy biết ngay là tôi bị nghẽn mạch máu tim. Ông giải thích, và cho tôi biết có 3 cách chữa trị.

Thứ nhất là uống thuốc để cầm cự. Thuốc không chữa được bệnh, mà chỉ làm mạch máu giản to ra, cho máu dễ lưu thông hơn, khi nào không uống thuốc, thì mạch máu không gỉản, và lúc đó có cơ nguy.

Cách thứ hai là đút vào chỗ nghẽn một cái ống kim loại như cái lò xò lưới, rồi cho ống phình ra, ép chất mỡ vào thành mạch máu, để máu có thể lưu thông qua "ống cống" đó.

Cách thứ ba, là lấy ống tĩnh mạch ở chân, rồi nối bắc cầu băng qua chổ nghẽn, cho máu lưu thông theo đường mới.

Cả ba cách, chất mỡ vẫn còn nằm đó, nguồn bệnh vẫn còn đó, nhưng máu huyết được lưu thông, thì bớt đau, hoặc bớt nguy hiểm cho tính mạng. Ông hẹn ngày, và nói sẽ đút cái "ống cống" vào mạch máu cho tôi, dễ lắm, chưa đầy nữa tiếng thì xong. Chỉ nằm bệnh viện một hôm rồi về nhà. Tôi yên chí lớn. Sá gì một hai cái ống kim loại nằm trong thân thể. Đúng ngày hẹn, ông bác sĩ cho đè tôi ra, cắt mạch máu ở háng, đút cái ống thông lên tận tim. Thật lạ, tôi không thấy đau đớn chi cả. Chỉ khi ông bơm thuốc nhuộm vào mạch máu qua cái ống, thì cảm thấy nóng nóng, ấm ấm. Tôi nhìn vào màn truyền hình, thấy màu đen tỏa ra nhiều nhánh như hệ thống thượng nguồn của sông rạch. Ông bác sĩ chỉ cho tôi chỗ mạch máu bị nghẹt. Ông nói, mạch nầy đã nghẹt 100% nếu không thì sẽ thấy máu đi vòng qua bên kia. Ông cho biết hai mạch bị nghẹt nặng, một mạch khác bị nghẹt 60%. Không thể đặt "ống cống" thông (sten) được. Ông cắt cử bác sĩ giải phẩu cho tôi, và định luôn ngày mổ banh ngực. Tôi cũng hơi ngạc nhiên, và không ngờ tình trạng trái tim của mình tệ đến thế. Rồi tôi làm đủ các thủ tục. Được dặn dò điều gì phài làm trước ngày lên bàn mỗ. Cho tài liệu đọc, để biết sơ sơ về mổ cái gì, mổ ra làm sao, và làm cái gì trong lúc mổ.

Để biết lý lịch và kinh nghiệm của ông bác sĩ sắp giải phẩu cho tôi, tôi mở internet ra, vào Google, rồi đánh máy tên ông bác sĩ vào. Mở cái web có tên ông ấy ra, tôi sẽ biết rỏ năm sanh, học trung học ở đâu, đại học ở đâu, tốt nghiệp năm nào, làm ở nhà thưong nào bao nhiêu năm, làm gì, đưọc huy chưong, tưởng thưởng nào. Tôi không ngờ, ông bác sĩ sẽ mổ cho tôi, là trưởng khoa tim ở bệnh viện tôi sắp nằm, và ông nầy có rất nhiều kinh nghiệm trong việc mổ tim.
Image

Tôi về nhà, lục internet xem về mổ tim. Qua mạng lưới Google, tôi tìm mục mổ tim (open heart surgery), tìm ra được rất nhiều bài viết, phim chiếu rất rõ ràng, hay. Có nhiều mục chiếu video cuộc mổ tim. Chiếu từ khi rạch ngực, cưa đôi cái xương sụn nối với các xương lồng ngực, banh lồng ngực ra, và khâu vá, mổ, đóng lại. Xem thì hơi ớn, vì thấy ghê quá, banh toác bộ xương sườn ra, mà mằn mò, khâu vá như một ông thợ may vụng về tập may, trong khi trái tim vẫn đập thoi thóp co bóp. Nếu không "cóc cần" mọi sự, thì e cũng lo lắm. Ai sắp mổ ngực, nếu sợ chết, thì đừng xem các video nầy mà sợ. Không thấy, không biết, thì yên tâm hơn. Đỡ sợ.

Trước khi mổ tim mấy ngày, bệnh viện dặn dò tôi làm phải giữ gìn sức khỏe kỹ lưỡng, đừng để bị ho hen, cảm cúm, Vì nếu bị bệnh khác, thì cuộc mổ sẽ hoãn lại, hoặc bị nhiểm trùng trong khi mổ, rất khó bình phục và nguy hiểm. Họ phát cho tôi khá nhiều tài liệu để đọc, nhiều giấy tờ dặn dò làm việc gì trước, việc gì sau, phải ghi xuống giấy để nhớ theo thứ tự. Cái bàn của tôi, vung vải giấy tờ lộn xộn. Biết là có thể "đi đong" cái mạng già trong cuộc giải phẩu, tôi làm một bảng liệt kê nhắc nhở và dặn dò bà xã phài làm gì, làm gì, nếu tôi không còn nữa. Điều cần nhất là đừng có khóc lóc, buồn bả, vì chết cũng là một tiến trình của đời sống. Đừng có làm đám tang um sùm, đừng tụng kinh gõ mõ cầu siêu, cũng đừng cáo phó, đừng vòng hoa, đừng hòm tốt. Giản dị đem thiêu, rồi lấy tro. Sau đó, làm gì với mớ tro đó cũng được.

Trước khi mổ mấy hôm, tôi giữ gìn vệ sinh kỹ lắm. Mặc thật ấm áp, ăn uống điều độ, ăn chất hiền lành, ngủ nghê đầy đủ. Ít dám đi ra ngoài, tránh đám đông. Thế mà trước khi mổ hai hôm, gia đình đứa cháu kêu điện thoại, nói là còn chừng bốn mươi lăm phút nữa thì sẽ ghé thăm. Họ đi xa bốn trăm dặm để thăm tôi, lẽ nào từ chối được. Họ nói là nghe cậu sắp đi mổ, đến thăm và chúc may mắn. Tôi và vợ vôi vã dọn dẹp lại căn phòng khách bừa bãi, lộn xộn, quét nhà, lau chùi, đang bệnh mệt, lại mệt thêm, giữa mùa đông mà mồ hôi vã ra. Mấy lần vợ chồng mệt quá, gắt nhau. Cả gia đình đưá cháu gồm năm người, vừa ho hen, vừa hít mũi sụt sịt. Họ ngồi trong phòng khách mà nhảy mũi lia lịa, làm bà xã tôi sợ hải, tái mặt. Tôi cũng ngại mình bị nhiễm bệnh, chỉ cười mà không dám nói ra. Họ ngồi chơi chừng một tiếng đồng hồ. Tôi cũng mệt lắm, nhưng không dám đi nằm. Sau khi gia đình đứa cháu đi rồi, chúng tôi vội vàng bày lại giấy tờ cần thiết ra bàn lại, và nhất định không bốc điện thoại. Ai kêu cũng không bắt. Bệnh viện có gì khẩn cấp thì nhắn lại trong máy. Bây giờ, tôi mới có cái kinh nghiệm là đừng đi thăm ai trước khi họ sắp lên bàn mổ, và đừng thăm họ sau khi họ mổ xong về nhà. Vì thời gian nầy, sức khoẻ của họ rất mong manh, rất dễ bị nhiễm trùng từ người khác. Vã lại, họ đang mệt, đừng làm họ mệt thêm, mình thì vì thương mến họ, đến thăm viếng, nâng đỡ tinh thần, và nếu không thăm, thì sợ bị trách là vô tình. Nhưng nếu chờ họ bình phục rồi đến thăm thì tốt hơn, vui hơn.

Bệnh viện hẹn tôi 5 gờ sáng. Tôi phải dậy lúc 3 sáng giờ sửa soạn, 4 giờ thì anh bạn hàng xóm lái xe đưa tôi đi. Đến nơi, bệnh viện còn đóng cửa. May nhà tôi không xa bệnh viện, có nhiều bệnh nhân phải ngủ tại khách sạn đêm trước đó, để kịp giờ hẹn. Những y tá, nhân viên làm thủ tục giấy tờ trước khi lên bàn mổ rất dịu dàng, vồn vã, tử tế. Cũng làm cho tôi cảm thấy vui trước khi lên bàn mỗ. Nhắc tôi rằng, đời còn có nhiều người dễ thương lắm. Một ông y-tá già, cầm cái dao cạo điện, hỏi han tôi ngọt ngào, và ông bắt đầu cạo lông lá cho tôi, cạo từ dưới háng cạo lên bụng, ngực. Trơn tru, sạch sẽ. Ông vừa cạo vừa mĩm cười. Sau đó, tôi được đẩy vào phòng mỗ. Trên đường vào phòng mỗ, tôi nghĩ rằng, mình đã về hưu được đúng hai năm, đã được nghỉ ngơi, thong dong, đi chơi, vui thú, làm biếng, không lo lắng, không bận rộn, nhàn nhã, thảnh thơi. Thế thì hôm nay, nếu cuộc giải phẩu thất bại, cái thân nầy được chở xuống nhà xác, thì cũng khỏe, không có gì để tiếc nuối cả. Nghĩ thế, tôi sướng quá, và cười thành tiếng. Ông y-tá đẩy xe ngạc nhiên, chắc chưa thấy một "thằng điên" nào vui vẻ cười tươi như vậy trước khi được mổ tim, nguy hiểm đến tính mạng. Ông hỏi tôi cười cái gì, giờ nầy mà còn cười được, không lo lắng hay sao. Tôi cho ông biết lý do tại sao tôi cười sung sướng, ông vỗ vào chân cái bộp, và khen tôi chí lý.

Thực tâm mà nói, thì sống chết đối với tôi, cũng không quan trọng lắm. Không chết trẻ, thì chết gìa. Không chết bây giờ, thì sau nầy cũng chết. Con người phải già, phải chết, để cho các thế hệ trẻ lớn lên thay thế, thế giới sung sức hơn. Cứ thử giả dụ như, con người không chết, thì bây giờ, cả thế giới đầy cả người già lụ khụ, già chiếm chín phần, trẻ chỉ một phần. Thế giới nây toàn ông bà già mấy trăm tuổi, chống gậy lê từng bước, xe lăn đầy phố phường, đường xá. Thế thì lấy ai mà sản xuất, nuôi nấng nhân loại. Bởi vậy, tôi bình tỉnh, và nghĩ rằng được sống cũng vui, mà được chết, cũng vui không kém.

Vào phòng mỗ, từng y tá tự đến giới thiệu tên tuổi, và cho tôi biết phần hành của họ. Tôi cũng vui vẻ chào, nói vài lời xả giao bình thường. Khi bác sĩ gây mê đến, xưng danh, và nói cho tôi biết, ông sẽ chuyền thuốc mê cho tôi. Tôi chỉ kịp chào xã giao, và sau đó, mê man ngay, không còn biết trời trăng chi nữa cả. Giá như, có chết khi đó, thì cũng được nhẹ nhàng, êm thấm, mau và tiện lắm. Tôi hoàn toàn không biết việc gì đã xẫy ra.

Chừng mười giờ sau, tôi mơ màng tỉnh dậy trong phòng "hồi sinh". Nghe tiếng bà y tá kêu lớn, và vặn nhạc lớn, kêu tôi mở mắt ra, đừng nhắm mắt lại. Tôi cố gắng hết sức, mà hai mí mắt cứ kéo trì xuống, cứ he hé chút xíu, lại bị nhắm lại. Tôi cũng nhớ là mình đang qua cuộc giải phẩu tim. Nghe tiếng bà xã tôi phụ kêu với bà y tá, tôi cố gắng mĩm cười cho vợ yên lòng. Nhưng không biết miệng có cười được hay không. Khi tôi mở mắt đưọc, tôi thấy bà y tá, bà chị tôi và bà xã đang đứng bên giường lo lắng. Tôi đếm được hai mươi mấy cái ống nối vào ngực, vào họng, vào tay, vào mũi, và có tiếng xì xèo của cái máy bơm nào đó, mà tôi tưởng đâu bên cạnh giường có cái hồ nuôi cá, máy bơm nước đang chạy. Tôi thầm nghĩ, thế là cũng chưa "đi đong" cái mạng già được. Thuốc mê làm tôi hơi buồn nôn và chóng mặt.

Suốt đêm hôm đó, một bà y tá da den, mập ú, thức và chăm sóc tôi. Chừng mươi phút, mười lăm phút, bà vào châm thêm thuốc vào bình dang treo, châm thêm máu, xem lại biểu đồ nhịp tim, ghi chú vào sổ. Công việc liên miên, không biết thủ tục bắt buộc, hay bà là người có lương tâm, nên làm việc hết lòng. Rồi rút máu tôi, tiêm thêm thuốc, nhiều lần kê lại gối nằm sau lưng tôi, hỏi han tôi rất tử tế, dịu dàng. Cổ tôi khô như đốt. Bà cho tôi cục nước đá nhỏ như viên kim cương, ngậm trong miệng cho đỡ khát. Khi đó, đúng là quý viên kim cưong ngậm trong miệng. Không được uống nước. Tôi khôi hài, tự ví bà y tá là Đức Bà Quan Âm đang ban giọt cam lồ (cục nước đá) cho người khổ nạn. Suốt một đêm, bà không ngủ, loay hoay quanh giường tôi. Tôi thật tình cảm động. Có những người vì nghề nghiệp, chỉ làm cho xong bổn phận, làm vừa phài thôi. Bà y tá nầy, làm với cả tấm lòng, tưởng như tôi là thân nhân ruột thịt trong gia đình.

Vừa mổ xong chiều hôm qua, mà sáng nay, lúc 5 giờ sáng, y tá đã bắt tôi ngồi dậy trên ghế, dây nhợ lòng thòng hơn hai chục sợi dính từ mũi, miệng, ngực, bụng, chim. Tôi không thể tưởng tượng được, có là muốn hành hạ bệnh nhân chắc. Mệt và chóng mặt lắm. Bà y tá bảo tôi phải ngồi như vậy trong một giờ đống hố. Ngồi được chừng 25 phút, hết sức chịu đựng, tôi xin bà cho nằm, vì mệt quá.

Nằm phòng hồi sinh được hai đêm, sáng hôm sau họ đẩy tôi xuống phòng bệnh thường, và bắt tôi tập đi bộ mỗi ngày và tắm. Khiếp, vết thương dài hơn hai tấc, còn rỉ máu còn tươi , và nhiều cái lỗ trên ngực, có ống lớn bằng ngón tay nối từ trong tim, trong phổi lòng thòng ra ngoài, dính với cái máy, cái bình. Thế mà bắt tôi tắm vòi sen, tắm xong y tá dùng khăn chậm khô ngực, không dám lau. Trước khi đi mổ, bà xã tôi ép ăn, để có đủ sức khỏe mà qua cuộc giải phẩu. Tôi ăn cho vợ vui. Nhưng sau khi mổ xong, bị bón. Cái ruột già căng cứng như muốn nổ ra. Ba bốn ngày không đi tiêu được. Không được rặn, vì sợ các mối chỉ may tại nơi mổ bung ra. Hai y tá cho tôi uống nước trái mân đen, cũng không hiệu quả. Tôi phải dùng đến thủ thuật đề cho phân ra, mà cũng vô hiệu. Cái bụng cứng ngắt, rất đau đớn, khó chịu. Y tá cũng không giúp tôi được gì. Đêm nằm trên giường, tôi nghĩ thầm, chắc mình không chết vì bệnh tim, mà chết vỉ vỡ ruột già. Cứ lăn lộn mãi, có khi thiếp đi chừng năm phút. Tôi gần như mê sảng.

Trong thời gian đau ốm, bịnh hoạn, khi nào tôi cũng giữ được tinh thần khôi hài, ngạo nghễ, xem thường, thế mà hôm nầy, tinh thần tôi xuống lắm. Khi nữa đêm, tôi hé mắt ra, trong bóng mờ, thấy một bà y tá da đen. Lúc nầy là đổi phiên trực gác của các y tá chăm sóc con bệnh. Ngọn đèn phiá sau người y tá làm thành một vòng hào quang trên đầu bà. Tôi vốn không tin theo một tôn giáo nào, và cũng chẳng tin vào thần thánh, nhưng buột miệng thều thào hỏi: "Có phải bà là thiên thần mà Thượng Đế gởi xuống để giúp tôi không?" Bà cười, nhẹ nhàng đặt tay lên trán tôi, và hỏi, bà có thể làm gì để giúp tôi không. Tôi nói với bà, là tôi có cảm tưởng cái ruột già của tôi sắp nổ tung vì bón mấy hôm nay. Bà mau mắn cho tôi thuốc nhét hậu môn. Không kết quả. Bà bảo tôi nằm nghiêng, co chân, và trải nhiếu khăn ra giường, quấn nhiều khăn làm vòng đai bao quanh vùng khăn trải. Rồi bà đưa ngón tay vào hậu môn, mà móc phân ra từ từ, từng chút một. Cẩn thận, nhẹ nhàng. Khi phần cứng của phân moi ra hết, thì phần bên trong chạy phọt ra. Tôi thấy người nhẹ như đang bay bổng lên không trung. Như trên vai mọc cánh, đang bay lượn giữa trời. Khỏe hẵn. Bà y tá dọn giường, và cho tôi viên thuốc ngủ. Tôi cám ơn bà. Nụ cười trên môi bà hiền từ làm tôi liên tưởng đến những bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi nắm lấy tay bà mà cám ơn. Dù đã được uống viên thuốc ngủ, nhưng khi bà đi rồi, tôi vẫn cảm động thao thức mãi. Nằm không yên, tôi lấy giấy bút, trong cơn xúc động vì lòng tử tế, vì tình người lai láng, tôi viết một bài thơ, nhan đề là "Belinda", tên của bà y tá. Có lẽ cũng là loại thơ con cóc. E rằng, lời lẽ cũng ngô nghê như một ông ngoại quốc làm thơ bằng tiếng Việt. Viết xong bài thơ, tôi yên tâm ngủ một giấc dến sáng.

Đêm hôm sau, tôi đưa cho bà. Đọc xong, bà cảm động, ôm tôi mà khóc. Bà nói riêng cho tôi biết, bà là nữ Mục Sư đang điều hành một nhà thờ tin lành trong thành phố nầy. Đúng là bà có trái tim của một nữ Thánh. Có lẽ, trước khi đi mổ lớn, chỉ nên ăn thức ăn lỏng, đừng ăn chất đặc, chất xơ, vì thế nào cũng bị bón. Ông bác sĩ giải phẩu cho tôi cũng rất tử tế. Nhiều hôm sau ca mổ, đã 9 giờ đêm, ông còn ghé thăm tôi, hỏi han kỹ lưỡng, dịu dàng. Cái lưng ông còng xuống, có lẽ do cứ cúi xuống lâu trên bàn mổ mải thành còng lưng. Tôi nghĩ, đa số những người làm việc trong bệnh viện nầy, ngoài mục đích mưu sinh, còn cả một say mê nghề nghiệp, và cả tấm lòng nhân từ.

Sau khi mổ, vết cắt lớn, mà tôi không thấy đau đớn, nhức nhối gì cả. Hồi phục rất mau, vết thương kéo da cũng nhanh, làm các y tá và bác sĩ ngạc nhiên. Cũng nhờ một ông bà con có kinh nghiệm dặn, khi nào cảm thấy đau nhức sơ sơ, thì xin thuốc giảm đau ngay, đừng để cho đau quá, vì phải có thời gian, thuốc mới hiệu nghiệm. Trong thời gian dưỡng bệnh, tôi ráo riết ôn lại tiếng Pháp để chuẩn bị đi chơi Âu Châu, nên cũng không có thì giờ nghĩ đến bệnh, đến đau đớn.
Image

Dẫm lên chân bác sĩ, tôi viết sơ về các bệnh dau tim, như múa một đường quyền hoang dại. Sách viết rằng, bệnh liên quan đến tim, rất nhiều khi là "những bước chân âm thầm", không báo trước. Bệnh tim có nhiều loại khác nhau. Thông thường nhất là suy tim, nghĩa là tim không chuyển vận máu đủ cho nhu cầu. Cứ 100 ngưòi Mỹ, thì có 1 người bị bệnh nầy. Nước Mỹ có hơn 2 triệu người suy tim. Tốn phí bệnh viện rất lớn. Trong một năm, những người bị suy tim chết đến 15%, Kế dến đau tim bẩm sinh, sinh ra đã bị đau tim rồi, vì cấu tạo tim mạch không được bỉnh thường. Cứ 1000 em bé sinh ra, có đến 6 đến 8 em bị đau tim bẩm sinh. Bệnh nầy chữa được, bác sĩ sẽ mổ và điều chỉnh lại. Sau nữa là nghẽn mạch máu tim và động tim. Một năm có hơn 1.5 triệu người Mỹ bị bệnh nầy. Sẽ có hơn 500 ngàn ngưòi chết, và khoảng 300 ngàn người đưọc mổ tim. Kế đến là bệnh tim đập sai nhịp và bất tỉnh. Sau đến là van tim bị hư hỏng, rồi đến bệnh mạch máu bị thương tật, bị phình, teo. Cuối cùng là màng bao tim bị bệnh.

Ai muốn biết rõ hơn, xin vào thư viện mượn cuốn "Mayo Clinic Heart Book" mà đọc, rất hay, viết cho người thường đọc. Kinh nghiệm của những người đau tim cho biết, khi có ít hay nhiều triệu chứng sau đây, thì đừng nên coi thường: đau ngực, thở gấp, hay mệt, sưng, bất tỉnh, nhức đầu lâm râm, nhịp đập tim bất thường, tê tay hay chân, màu da không bình thường, té xỉu, thay dổi bất chợt về thị giác, nói năng, và cảm xúc.

Khi nào thì nên đi bác sĩ? Khi triệu chứng đau tim mới có, triệu chứng càng lúc càng nặng, triệu chứng trở nên trầm trọng, triệu chứng làm thành lo lắng, triệu chứng tái diễn. Những người yêu nhiều thì thường bị nhói tim, không biết có chuyển qua bệnh đau tim không. Nhưng những người ăn nhiều chất béo bổ, chắc chắn sẽ đau tim, cho nên có rất nhiều người sợ các chất béo, ngọt, mặn, như sợ thuốc độc. Lo lắng, bị áp lực, muộn phiền nhiều cũng sinh ra đau tim. Bởi vậy, có ông Mỹ đau tim nằm chung bệnh viện với tôi, nói đùa rằng: "Bà nào muốn làm goá phụ sớm, thì cứ cằn nhằn ông chống cho nhiều vào, rồi thế nào cũng được mãn nguyện sớm." Mấy bà nghe, háy nguýt ông sắc như dao chém./.

Tràm Cà Mau

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Giọt Mưa trên tóc
Tiểu Tử

Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:
– Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

– Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?
Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:
– Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”… Một “cái gì”… Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:

“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng…”. Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng…” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường… đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau…

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:
– Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng…
– Sao Nghĩa biết?
Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.
Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:
– Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.
– Họ đi thoát không?
– Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.
Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:
– Không biết họ đi có thoát không?
Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:
– Gia đình Kim có định… có định… đi không Kim?
Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:
– Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?
Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết…
Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng…

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, đèo nhau trên xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:
– Còn Nghĩa? Có tính đi không?
Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:
– Kim trả thù hả?
Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:
– Thì… hỏi là hỏi vậy thôi.
Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.
Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.
– Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?
Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:
– Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó… Nó…
Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.
Nghĩa tiếp:
– Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!
– Cái gì uổng?

mưa xuân2
Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:
– Thì…
Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:
– Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.
Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.
Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.
Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:
– Thôi, “bye” nghe Kim.
Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.

***

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:
– Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.
Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:
– Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?
Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”. Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng: “Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”.

Vậy mà bây giờ… bây giờ… Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song… Vậy mà bây giờ… bây giờ… Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ… những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày… bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?… Kim?… Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:
– Con đem trả sách cho thằng Tuân.
Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:
– Trả cho nó học.
Ba gật đầu:
– Ờ… Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?
Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:
– Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.
Nghĩa “dạ” rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?… Ra sao?…”.

Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh…
Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:
– Ai đó?
– Dạ thưa cháu.
Nghĩa trả lời.
– Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?
Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:
– Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao…
Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách!

Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng gie ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút… như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ… Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi… Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ…

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:
– Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?
Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ… cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn… Vĩnh viễn…”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu… tình yêu… tình yêu…

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên…

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh: “Nghĩa đi hả?”

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa? Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt….

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt… mai mốt… Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng…

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:
– Chừng nào?
Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:
– Khuya!
Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa… Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như… siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất… Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.

***

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn…

Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ…

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

Tiểu Tử

Post Reply