Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
MatVit
Posts: 848
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by MatVit »

Image

Chiếc xích lô chở mùa xuân
Thanh Thương Hoàng
1

Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa. Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn xe cả ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn.

Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân - những ngày tháng cũ trước 75 - anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm.

Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhảy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

“Cô muốn đi đâu?”

Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói:”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

Tân hỏi lại:

“Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”

“Đúng!”

Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói:

“Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.”

Cô khách đáp:

”Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh.”

“Nghĩa là...?”

“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”

“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy:

“Nghĩa là...?”

“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì. Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách: ”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa?”

Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:

“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:

“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.

“Cô ăn được cả nước mắm?”

“Cũng hơi... khó chịu một chút lúc đầu.”

Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:

“Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”

“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”

“Cô tới đây lần đầu?”

Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc áo pull trắng và chiếc quần jean màu xanh đậm. Mớ tóc vàng óng ả của cô chảy dài buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.

“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi. Khách khẽ gật.

“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang nào vùng đó.”

Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân:

“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

Tân hóm hỉnh cười:

“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng các cô gái mơ ước.”

Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tầm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm món “võ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:

“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte, bang North Carolina. Lớn lên đi học và sống ở Washington DC.”

Tới chợ bến Thành cô bảo anh dừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.

“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”

“Tùy anh.”

Tân suy nghĩ một chút:

“Cô đã vào Chợ Lớn chưa?”

“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”

“Cô đã đến Hồng Kông?”

“Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ.”

Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:

“Xin lỗi, cô đã lập gia đình?”

“Phải, tôi đã lập gia đình gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình.

Từ đường Đồng Khánh, cô bảo Tân dừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:”Anh thấy đẹp đấy chứ?”

Tân thốt lên:

“Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”

“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:

“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”

“Vì tôi đã ở bên đó và có mua nước tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”

“Ồ, anh đã ở bên Mỹ?”

“Đi du lịch hay du học?”

“Tôi đi học.”

Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:

“Đi học? Thì ra anh sang Mỹ du học!”

“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sỹ quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường:

“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”

Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng màu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:

“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”

“Anh còn nhớ tên khóa huấn luyện?”

“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với bọn Pilot Hải Quân Mỹ.”

Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu. Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:

“Họ chắc không phải là người Việt?”

“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”

“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”

Ngưng chút cô nói tiếp:

“Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!”

Tân cãi:

“Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”



“Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực.”

“Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, tư bản... quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”.

Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục (Continental palace). Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:

“Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại... lại đi đạp xích lô?”

Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:

“Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”

“À, ra thế!”

“Anh bị tù có lâu không?”

“Gần mười năm.”

“Trời! Anh được tha lâu chưa?”

“Mới sáu tháng.”

“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”

“Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”

“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu...”

Tân cười nửa miệng:

“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn.

Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.

“Hôm nay cô muốn đi đâu?”

“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh.”

“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền?

Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh màu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi.

Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majestic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:

“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền công theo giờ đạp xe đấy!”

“Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi!”

Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:

“Cho chắc ăn!”

Cô khách cười:

“Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”

“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”


Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phộng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai coca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống coca -cola. Khi bóc gói đậu phộng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:

“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

Vứt hai gói đậu phộng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:

“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”

“Có chứ! Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người.”

“Anh còn nhớ tên?”

“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không!”

Cô khách Mỹ nói nhanh:

“Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về:

“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.”

Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:

“Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.”

Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lẩm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.

“Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.

“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa!”

“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”

“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu cảnh tù đày đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước.”

“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm?”

“Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đày và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”

“Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.”

Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất:

“Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”

“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không?”

“Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.”

Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.

“Còn cha mẹ anh?”

Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng:

“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù!”

Cô khách Mỹ kêu lên:

“Thế còn đứa nhỏ?”

“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ.

Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói:

“Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”

“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”

Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:

“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”

“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà.... Hẻm... Đường.... Thành phố Saigon.”

Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline co ý mới Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:

“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.”

Tân từ chối ngay:

“Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.””Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng.”

Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:

“Tạm biệt Tân, người bạn mới quý mến của tôi.”

Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn:

“Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:

Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:

“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”

“Cái gì? Cô ta đánh rơi tiền à?”

“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:

“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”

Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:

“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận số tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy.

Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe đáng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói?

Không! Nhất định không phải rồi! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy màu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường.

Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:

“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!”

Dứt lời anh ta bước về khách sạn. Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh: “Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.” Cô ký tên một chữ tắt “J”.

2

Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian.

Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:

“Chú Tân có tin vui nè!”

Tân cười nhạt:

“Tin vui? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:

“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhất lãnh quà từ Mỹ gửi.”

Tân sửng sốt:

“Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?”

Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt. Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:

“Sao? Quà của ai gửi vậy?”

Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

3

Washington DC. ngày... tháng... năm....
Tân thân mến,
Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy!
Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch.
Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”
Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư: “Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp: “Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.
Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ?
Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng.
Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giàu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp.
Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.
Chúc anh vui khỏe.

J.

Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay... Anh đã không cầm được nước mắt.

Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh dừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.

4

Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà ngoại đem về nhà nuôi.

Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh.

Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô.

Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân.

Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn.

Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều... nhẹ như lông hồng!

Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà.

Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học.

Tân viết thư gửi Jacqueline bày tỏ lòng biết ơn.

Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa.

Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô.

Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu.

Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi - Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chảy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân.

Có lý nào cô nàng yêu mình? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhói nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi.

Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu.

Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhảy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.

Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhạy của Tân cho biết đây là một tin lành.

Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể.

Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân.

Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm thì được thả.

Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu.

Jacqueline đã gặp ông trình bày hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam.

Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

5

Anh Hoàng thân quý,
Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm.
Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bặm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới.
Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới dòng chữ ghi tên Carter.
Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu.
Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Louisiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa.
Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền.
Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện.
Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán.
Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào.
Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe.
Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó.
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống.
Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.
Quý mến, Đỗ Tân

Thanh Thương Hoàng

User avatar
bichphuong
Posts: 588
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Câu Chuyện Đêm Giao Thừa
Nguyễn Đặng Bắc-Ninh



Tết sắp đến rồi. Trời vẫn rét căm căm, nhưng có lẽ mùa đông năm nay Seattle không có tuyết.

Nhiều năm giờ này băng giá đã phủ kín các cành cây khẳng khiu trụi lá. Toàn cảnh như một cánh rừng bằng pha lê lóng lánh, trông đẹp như trong cảnh thần tiên, nhưng bước ra ngoài trên mặt đất giá băng lại rất nguy hiểm. Trượt té gãy xương là chuyện thường.

Trên tam cấp chùa Việt Quang Thượng Tọa Thích Minh Chung co ro trong tấm áo tràng, run rẩy bước từng bước chậm chạp lên chính điện. Mấy năm gần đây sư cụ thấy mình yếu đi nhiều mà việc nhà chùa luôn bận rộn, nhất là vào những ngày cuối năm.


Ngôi chùa lâu năm này cũng ọp ẹp giống như cái tuổi già của sư cụ. Đắp vá chỗ này thì lại dột nát chỗ kia. Sau cơn mưa bão cuối tuần vừa qua, bức vách cạnh bàn thờ Tổ vôi vữa đã lở, để lộ một lỗ hổng bằng bàn tay. Sư cụ đã sai chú tiểu Minh Thông lấy giấy dầu dán đỡ lên tường che bớt hơi gió, nhưng trông vẫn thật khó coi.

Từ hôm đó tới nay sư cụ rất bận tâm về bức vách này. Mặc dù ngôi chùa từ trong tới ngoài đã được dọn dẹp đâu vào đấy, các bàn thờ hương nến đã bày biện sẵn sàng, lư đồng chân hương, chú Minh Thông đã lau chùi sáng bóng; nhưng ai bước lên tới chánh điện cũng thấy ngay chỗ vỡ trên tường.

Chợt chú tiểu Minh Thông đi đâu về hấp tấp lên cầu thang, mặt mũi hớn hở. Chú giơ lên một túi giấy lớn, lấy ra một bức tranh, như một tấm chăn nhỏ, trên thêu một cành mai vàng rực rỡ. Chú khoe trên đường từ chợ về, chú thấy có tấm bảng Garage Sale của hội Ái Hữu Phi Luật Tân. Họ đang bán đấu giá các món lặt vặt để gây quĩ cho trẻ mồ côi. Chú tạt vào và bức tranh bắt mắt chú ngay. Đám người tứ xứ tham dự không có nhiều và xem ra họ rất hờ hững với bức tranh có mỹ thuật Á Đông này. Chú mua được bức tranh với giá hai mươi đồng vì không ai trả giá cao hơn.


Thượng tọa trầm ngâm ngắm bức tranh. Trên nền vải dày và mịn, có hoa văn mờ mờ như một loại gấm quý, những đóa hoa mai được thêu thật tinh xảo nổi bật trên nền gấm màu ngà trông như một rừng mai vàng nở rộ chào đón Xuân về.

Người nghĩ ngợi giây lát rồi bảo chú Minh Thông bắc thang treo lên tường để che chỗ vỡ, vừa như một trang trí đẹp mắt. Chú tiểu thích chí cười tủm tỉm, trong lòng hân hoan vì ý Thầy giống như chú đã nghĩ mà chưa dám đề nghị.


*

Thấm thoắt chỉ còn hai ngày nữa là đến Giao Thừa. Năm cũ sắp qua, ai nấy đền nôn nóng sửa soạn đón mừng năm mới. Các Phật tử rộn ràng đến làm công quả. Người sửa soạn rau cỏ, người lo đậu gạo nấu bánh chưng chay, người quét dọn sân vườn, tìm chỗ thích hợp treo pháo mừng Xuân. Ai cũng khen bức tranh gấm thật đẹp và vẻ vương giả của cành mai tạo cho khung cảnh Tết trên chính điện thêm phần rực rỡ trang trọng.

Mọi việc đã tạm xong. Trời tối mịt, tiếng mưa rơi rả rích trên mái chùa. Sư cụ và chú tiểu đang dọn dẹp trong hậu liêu thì có tiếng người gõ cửa. Ai đến lễ giờ này?

Chú Minh Thông vừa hé cửa chỉ kịp đỡ lấy một thân hình mảnh dẻ lao đao suýt ngã. Nhìn ra là một người đàn bà trung niên khó đoán tuổi, mặt mũi xanh xao ướt nước mưa. Chú đưa bà vào phòng tiếp khách ngồi cho đỡ lạnh.

Sư cụ ái ngại bảo Minh Thông lấy khăn khô cho bà ta lau tóc, lấy nước trà nóng ra mời. Sư cụ nhìn bà khách gầy ốm nhưng y phục nhã nhặn. Bà ta có vẻ hiền hậu, nét mặt thanh tú.

Bà cho biết bà ở chung với gia đình người bạn gần khu chợ Tàu từ mấy năm qua, nhưng đã bị mất việc từ lâu. Trưa nay, bà được đến phỏng vấn làm nhân viên cho siêu thị Safeway gần chùa. Họ hẹn sẽ liên lạc với bà sau.

Chờ mãi không thấy chuyến xe bus, trời chiều mau tối lại lất phất mưa. Người run lên vì ướt lạnh, bà cố gắng lội bộ tới chùa và xin sư cụ cho tạm trú chân, sáng sớm mai bà sẽ đón chuyến xe bus đầu tiên về lại nhà người bạn.

Đang kể lể đôi mắt bà bỗng sáng lên, đứng bật dậy đến bên bức tranh thêu trên tường cạnh bàn thờ, đôi tay mảnh mai run rẩy vuốt nhẹ lên mặt gấm. Sư cụ và chú tiểu ngạc nhiên nhìn nhau. Người thiếu phụ lẩm bẩm như người trong cơn mộng du: “Tranh này của tôi, tranh của tôi. Hoàng Mai, Hoàng Mai… tranh này của tôi đây mà!”

Chú Minh Thông vội vã giải thích: Bức tranh thêu này của nhà chùa vừa mua để trang trí chính điện đấy mà, sao bà lại nói vậy?


Bà nghẹn ngào như muốn khóc: “Không, bức tranh này xưa kia là của tôi. Đây này, bà giở một góc của tranh, đưa chú coi mấy chữ thêu rất nhỏ ‘Tặng Phạm Hoàng Mai 1974.’ Tôi là Hoàng Mai. Quà đặc biệt của nhà tôi tặng trong ngày cưới.”

Chú tiểu bối rối nhìn Thầy. Sư cụ hiền từ:

– Nếu đã là vật kỷ niệm của bà thì nhà chùa xin hoàn trả lại bà.

Bà lắc đầu, đôi mắt ướt lệ:

– Thưa Thầy, con bây giờ nơi ăn chốn ở không có, còn giữ tranh làm gì, xin để cúng Chùa. Cuộc đời con kể như đã hết rồi.

Trước cái nhìn của sư cụ và chú tiểu, bà thở dài, từ từ kể:

– Thưa Thầy, vợ chồng chúng con hồi đó ở Đà Lạt. Con là cô giáo dạy lớp Ba. Chồng con là Trung Úy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Chúng con làm đám cưới năm 1974. Vì tên con là Hoàng Mai, nhà con đã tặng cho bức tranh thêu cành mai vàng này.


Tháng Tư năm 1975, hàng ngũ tan tác, ai nấy cuống cuồng tìm đường thoát hiểm như đàn kiến trên chảo nóng. Riêng con có trách nhiệm với đám học trò nhỏ, chồng của con lại đang hành quân trên vùng cao nguyên Buôn Mê Thuột, con không hề nghĩ đến việc chạy đi đâu.

Nhưng em trai của con đang làm việc cho một cơ quan Mỹ nên hối thúc ba mẹ con và con lên chuyến bay cuối cùng rời Việt Nam. Đồ vật mang theo rất giới hạn nên con chỉ vơ vội vài bộ quần áo cuộn vào bức tranh này lật đật theo mọi người lên máy bay mà lòng dạ ngổn ngang tan nát. Từ trại tị nạn, cả gia đình con cố liên lạc khắp nơi để tìm chồng con. Ngay cả Hồng Thập Tự cũng không tìm ra tin tức gì của anh.

Mấy năm sau, có người cho biết anh đã bị bắt đi tù cải tạo và trong một lần trốn trại đã bị bắn chết.

Bà cúi mặt, dấu những giọt nước mắt đang rơi xuống áo.

– Nam Mô A Di Đà Phật.

Sư cụ an ủi.

Bà tiếp:

– Sau đó gia đình con được bảo trợ về New Orleans, tiểu bang Louisiana. Thấm thoắt đã chừng ấy năm, cha mẹ con lần lượt qua đời. Hai chị em con ở chung nương tựa nhau mà sống. Kỷ niệm của chồng con chỉ là mấy tấm hình ngày cũ và bức tranh này.

Năm 2005, bão Katrina kéo đến. Nhà cửa đổ nát tan hoang. Em con và cả căn nhà trôi theo biển nước. Bơ vơ một mình trên đời, con rời lên tiểu bang này để xa những kỷ niệm đau thương và cũng vì khí hậu phong cảnh nơi đây giống như Đà Lạt. Con hiện thời ở nhờ chị bạn cùng học trường trung học Bùi Thị Xuân ngày xưa. Lắm lúc con nghĩ đời con cơ cực thế này là Trời Phật đã phạt con tội phụ bạc, không ở lại sống chết với chồng.


Bà cố nén mấy tiếng nức nở, nhưng những giọt lệ lại lã chã tuôn rơi.

Sư cụ ái ngại:

– Bà không nên nghĩ vậy. Đức Phật từ bi không bao giờ trừng phạt ai. Mỗi người đều có cái duyên và cái nghiệp. Đức năng thắng số. Bà nên tĩnh tâm khấn nguyện và cố làm lành để chuyển đổi cái nghiệp.

*

Đêm Giao Thừa, chùa Việt Quang sáng rực đèn nến, khói hương nghi ngút. Mọi người chen chúc nhau lên chính điện. Tượng đức Phật trên cao trong ánh vàng lung linh như đang mỉm cười nhìn xuống đám người đi lễ với ánh mắt từ bi độ lượng.
Image Sư cụ ngồi trên ghế cạnh bàn thờ Đức Lạt Ma, chúc lành cho khách thập phương và tặng trái cây cho mọi người coi như lộc Phật. Các Phật tử đến chúc Tết đầu năm đều khen bức tranh Hoa Mai mỹ thuật và có hồn. Thầy mỉm cười, nói chùa đã có duyên may được một khách thập phương cúng dường vào giờ chót.

Đã gần hai giờ sáng, những Phật tử lần lượt ra về. Một trong những người khách cuối cùng là ông Trung, một Phật tử thỉnh thoảng đến viếng chùa và đôi khi cũng có giúp những việc vặt cho chùa vì ông là một người khéo tay. Ông làm cho Macy’s đã nhiều năm. Công việc của ông là sửa nữ trang và đồng hồ cho khách. Ông ta sống lặng lẽ một mình, không giao du hay có thân quyến nào đến thăm. Ông ít nói nên không ai rõ trước đây ông làm gì, ở đâu.

Lễ Giao Thừa năm nay ông nấn ná ở lại sau cùng cũng là một chuyện lạ. Chờ mọi người về hết, ông đến gần sư cụ, ngập ngừng:

– Bạch Thầy, xin cho phép con hỏi về bức tranh Hoa Mai này. Ngày xưa gia đình con cũng có một bức tranh giống như vậy. Con tưởng trên đời không có tấm thứ hai vì chính tay con vẽ tranh và nhờ mấy vị nữ tu của nhà thờ trên Lâm Đồng thêu hộ.

Sư cụ ngạc nhiên:

– Ông có thể kể cho tôi sự tích bức tranh này được không?

– Thưa thầy, hoa mai vàng biểu tượng cho mùa Xuân của miền Nam, dù ở Đà Lạt hoa đào cũng rất đẹp và thơ mộng. Con đặc biệt thích hoa mai vì người vợ sắp cưới hồi đó của con cũng tên Mai, Phạm Hoàng Mai. Con cũng biết vẽ chút ít nên can đảm vẽ một bức tranh hoa mai vàng rồi nhờ thêu để làm quà tặng nàng trong ngày thành hôn. Cưới nhau chưa được bao lâu thì Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, chúng con tản lạc mỗi người một nơi. Bao năm đã qua đi, nghe đâu vợ con theo bà con vượt biên bằng đường biển, tàu chìm và cả gia đình nàng đã mất tích ngoài biển Đông rồi.

– Ông ở Seattle đã lâu chưa?

– Thưa Thầy, từ năm 1990. Trước 75 con là Trung Úy Bộ Binh. Đi tù cải tạo Cộng sản bảy năm. Khi được thả về thì nhà cửa đã bị chiếm mất. Cha mẹ anh em bị đuổi lên vùng kinh tế mới. Sống lay lắt ở Saigon mấy năm rồi theo diện HO rồi sang Hoa Kỳ. Tuổi đời chồng chất lại không gia đình, con dọn lên Seattle vì thời tiết và phong cảnh giống như thành phố Đà Lạt quê cũ. Đã xin được việc làm nên con định cư ở đây từ hồi đó.

– Ông vừa nói bà nhà tên Hoàng Mai? Bữa trước có một bà đến đây thấy bức tranh cũng bảo là tranh kỷ niệm của gia đình bà. Hình như tên bà ấy cũng là Mai.

Ông Trung tái mặt. Giọng ông run rẩy:

– Trời ơi, thế ra cô ấy vẫn còn sống? Vợ con vẫn còn sống?

Sư cụ từ tốn gật đầu:

– Tôi nghĩ người đàn bà đến đây hai hôm trước là bà Mai vợ ông. Sáng mai ông có thể gọi cho phòng nhân viên của Safeway để nhờ họ liên lạc với bà ấy dùm ông. Biết hoàn cảnh của ông bà, chắc họ sẽ giúp. Bà ấy nói ở chung với người bạn học cũ. Nghe đâu địa chỉ họ ở phía chợ Tàu, cũng không xa đây lắm.

Có lẽ ông Trung không nghe được những lời của sư cụ. Qua cửa kính, ông không nhìn thấy những cành cây khô trơ trụi run run trong gió lạnh buổi sớm đầu năm.

Trong mắt ông, bên ngoài là một khung trời Đà Lạt huyền ảo trong nắng mới, vạt nắng như tơ vàng rắc lên những tà áo trắng của những cô học trò Bùi Thị Xuân, trong đó có một tà áo đặc biệt cho ông, một bông Mai Vàng rực rỡ đang chờ đón ông ngày mai.

(Lấy ý từ truyện ngắn của Rev. Howard C. Schade)

hoangphong
Posts: 405
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by hoangphong »

Image

CHỈ LÀ HÀNG XÓM

Từ năm 9-10 tuổi, tôi đã biết bế em ru em ngủ hay dỗ dành khi em khóc. Càng ngày tôi càng kinh nghiệm vì mẹ tôi đẻ liên tục. Tôi là chị cả nên cũng vất vả theo, bế em hết đứa này đến đứa khác. Lúc ra sân chơi đùa với các bạn tôi cũng na theo đứa em, để nó ngồi một chỗ tôi nhảy dây hay chơi trốn tìm, nhiều khi em khóc nhề nhệ vì chị mải chơi. Thậm chí khi tôi và Bích Hợp, con nhỏ bạn thân cùng xóm rủ nhau đi chụp hình ở tiệm Nguyễn Kỳ mãi Tân Ðịnh tôi cũng không quên nhiệm vụ bế em. Chúng tôi đi một chuyến xe lam đến Gò Vấp rồi chuyến xe buýt từ Gò Vấp đến Tân Ðịnh. Bích Hợp chụp trước, đến lượt tôi nó trông em giùm. Em tôi thấy chỗ lạ, người lạ, nó khóc ré lên cố bám lấy chị, Bích Hợp phải… giựt nó ra khỏi tay tôi, em thì gào khóc bên ngoài mà bên trong sau tấm màn anh thợ chụp cứ luôn miệng giục tôi: “Nào… nào cười lên… cười lên thật tươi!”.

Hơn một năm sau tôi bế em đến tiệm Nguyễn Kỳ chụp hình lần nữa. Vừa thấy tôi anh thợ chụp hình hỏi:
– Lần này lại bế em nữa hả? Thằng nhỏ này có gào khóc như thằng nhỏ năm kia không đây?
Xưa nay chưa có khách hàng nào ghi “dấu ấn” như tôi cả, đi chụp hình mà còn lếch thếch bế em nhỏ theo. Hèn gì anh thợ chụp hình nhận ra tôi ngay.

Sau khi đi học về, mỗi buổi trưa tôi ngồi làm bài vở hay đọc sách truyện thì kiêm luôn nhiệm vụ đưa võng cho em. Tôi nối một sợi dây dài vào võng nên dù ngồi học ở bàn hay nằm lăn ra “đi-văng” mải mê đọc sách tôi vẫn thuận tiện kéo võng cho nó ngủ say. Khi em thức dậy nó hay khóc nhè, tôi bế nó ra tiệm tạp hóa nhà anh Luận đầu ngõ mua bánh. Bao giờ cũng là chiếc bánh tay cùi, vừa lạt vừa chút xíu mặn có hình dạng bàn tay cùi “ghê rợn” thế mà hai chị em tôi đều thích, chị một bánh em một bánh. Anh Luận có lần thắc mắc và mời chào tôi:
– Nhà anh bán nhiều thứ, bánh bích quy, bánh men, bánh dừa, bánh quả bàng ngon nè em, sao ăn bánh tay cùi hoài vậy?
– Em cho nó ăn bánh này quen rồi, mua bánh khác em nó không chịu.
Anh Luận cũng như tôi. Tôi vừa học bài vừa trông em; còn anh vừa học bài vừa trông hàng giúp mẹ khi bà đi vắng. Ba anh mất vài năm nay, chị gái anh đi lấy chồng ở Long Khánh, chỉ còn hai mẹ con với cửa hàng tạp hóa và mẹ anh làm chủ vài dây hụi đủ nuôi anh ăn học.
Không phải hôm nào chị em tôi cũng mua bánh, gặp anh Luận đầu ngõ, anh trêu chọc tôi:
-Bữa nay bánh tay cùi nhà anh ế hai cái kìa bé Bông!
Anh vẫn vui tính gọi tôi là bé Bông vì anh lớn hơn tôi 3 tuổi.

Thỉnh thoảng tôi đã “cúp” tiền bánh mẹ cho hai chị em để dành mua sách báo vì tôi càng ngày càng mê đọc, mượn sách bạn bè, thuê ở tiệm sách nhưng vẫn còn thèm mỗi khi đi qua sạp báo ngoài đầu đường. Tôi đọc đủ loại truyện, nào truyện tranh Thạch Sanh Lý Thông, Thanh xà Bạch xà, Lâm Sanh Xuân Nương… truyện tranh phương tây Lucky Luke bắn súng thần kỳ, Xì Trum bé bỏng tới truyện tiểu thuyết tình cảm và nhất là lúc này tôi đang tập làm thơ đăng báo.
Ðể tìm cơ hội may mắn bài được chọn đăng tôi đã gởi thơ đến vài tòa soạn báo, thế là phải theo dõi xem họ đã nhận được bài chưa? Và họ trả lời ra sao? Mỗi ngày tôi bế em đi bộ từ nhà đến một ngã ba đường lớn có xe cộ qua lại đông đúc, nơi đây một bên là tiệm Minh Ký Trà Gia một bên là sạp báo khá to, đủ các loại báo bày la liệt trên sạp và xung quanh sạp treo đầy những loại tạp chí thật hấp dẫn. Tôi chẳng bao giờ quan tâm đến tiệm Minh Ký Trà Gia bán hủ tiếu mì, bánh bao xíu mại ngon thế nào mà chỉ quan tâm đến sạp báo bên kia. Tôi thuộc tên tất cả những tạp chí như Truyện hay Thứ Tư, Tiểu Thuyết Thứ năm, Phụ Nữ Diễn Ðàn, Nghệ Thuật, Kịch Ảnh, Ðiện Ảnh v.v.

Mỗi ngày mẹ đưa tôi tiền mua một tờ nhật báo, thay vì mua xong là ra về nhưng tôi lần khân ở lại lật xem tờ báo này báo kia và kiên nhẫn đợi lúc có khách mua báo cô chủ sạp bận rộn với khách thì tôi càng được xem ké nhiều mục hơn, trang thơ văn tôi không bao giờ bỏ sót. Hôm nào có tiền mua thêm một cuốn tạp chí thì tôi hiên ngang đứng lì mở thêm mấy cuốn báo khác ra xem thật lâu mà không sợ phiền cô chủ sạp.

Một hôm tôi dò mục hộp thư đã nhận bài của các tác giả, giữa những giòng chữ chi chít và dài lòng thòng những tên lạ hoắc tôi thấy tên tôi hiện ra nổi bật nhất, rực rỡ nhất. Tôi sung sướng và hy vọng tràn trề.
Anh Luận đi đâu về thấy tôi đang bế em đứng xớ rớ bên sạp báo đã tấp xe gắn máy lại gần:
– Bé Bông mua báo xong chưa lên xe anh chở hai chị em về.
– Thôi, anh về trước đi.
– Bé Bông bế em từ đây về nhà là vẹo xương sườn luôn đó. Ủa, có chuyện gì coi bộ em vui thế?
Tôi e dè không dám khoe đang gởi thơ đăng báo chỉ nói chung chung:
– Em đọc mục kia nên vui thôi.
– “Mục kia” là mục gì? Em tìm bạn bốn phương hả? Ðừng có phiêu lưu nha cô bé.
– Không phải tìm bạn! Mục kia…bí mật, mai mốt em cho anh xem.
Tôi hớn hở ươm mộng bài thơ sẽ được chọn đăng để tôi sẽ mang sang khoe anh chơi. Anh sẽ không ngờ con nhỏ hàng xóm chuyên bế em mà vẫn có thì giờ mơ mộng làm thơ. Khi tôi cho anh xem tờ nhật báo và tuần báo đăng thơ của tôi, quả thật anh phục tôi lắm:
– A, bé Bông làm thơ hay quá, mai mốt làm cho anh một bài thơ.
Anh bỏ lơ lửng câu nói, tôi không hiểu ý anh và cũng không dám hỏi thêm.

Anh Luận thi đậu tú tài một, anh lên lớp đệ nhất; năm đó anh 18 tuổi còn tôi mới lớp đệ tứ thua anh xa lơ xa lắc. Mai kia anh sẽ vào đại học, có nhiều bạn bè mới học giỏi như anh và anh sẽ quên con nhỏ hàng xóm quèn này thôi. Hình như trong mỗi bài thơ của tôi đều “tình cờ” có hình bóng anh, có cả tên anh, trách móc vu vơ…
Từ mẹ anh, chị anh và cả tôi đều tin là anh sẽ đậu tú tài hai dễ dàng vì anh học giỏi thế kia mà, nhưng anh… lại rớt. Mẹ anh khuyên anh học lại sang năm thi nữa nhưng anh đăng lính Biệt động quân, làm mẹ anh khóc sưng cả mắt. Anh thuộc diện con một được tạm hoãn dịch mà lại tự nguyện dấn thân vào chốn sa trường. Hàng xóm kể là anh Luận thất tình một cô ở xóm Ông Tạ nên học không vô và chán đời đi lính, mà lại lính “thứ dữ” cho… chết luôn!
oOo

Trong buổi họp mặt đồng hương tại hải ngoại tôi gặp lại anh. Tôi chồng con đề huề, anh cũng vợ con đùm đề, ai cũng ở tuổi sắp làm sui đến nơi rồi. Anh vẫn vui tính như xưa, câu tao ngộ đầu tiên của anh là:
– Bé Bông đây hả, người chị đảm đang bế em trường kỳ, bế em giỏi nhất xóm mình và có lẽ giỏi nhất Việt Nam luôn.
Tôi cũng vui vẻ:
– Bé Bông vẫn nhớ món bánh tay cùi nhà anh Luận đây. Em đã bồng bế tổng cộng 6 đứa em, đã mua nhà anh bao nhiêu là bánh…

Tôi xúc động bao nhiêu anh cũng xúc động bấy nhiêu sau mấy chục năm xa cách, sau dâu biển, hai người xóm cũ vẫn còn dịp gặp nhau. Chúng tôi ngồi cùng bàn chuyện trò, chuyện hiện tại xong lôi chuyện xưa ra, anh xác nhận ngày ấy anh và cô người yêu cả hai đều non trẻ, hẹn thề cùng học hành chăm chỉ để thi vào đại học cho có tương lai sáng sủa. Nếu không đại học thì khi nào có nghề nghiệp đàng hoàng sẽ lấy nhau, vậy mà cô ham chồng giàu phản bội anh nên anh bị “sốc” và đau khổ chẳng còn tâm trí nào học hành, thí mạng “cùi” đi lính mà vẫn không chết được, vẫn lành lặn trở về. Sau này nghĩ lại anh tự trách mình tuổi trẻ nông nổi và ngu xuẩn, chỉ vì một người con gái mà hủy hoại cả tương lai của mình và làm khổ lây đến gia đình mình.

– Ngày ấy anh đang yêu, có trời mà cản.
– Ừ, may mà anh không nhảy sông nhảy biển tìm cái chết, nếu không, mẹ anh sẽ đau khổ đến thế nào.
Và anh trách đùa:
-Tại bé Bông ngày ấy không làm giùm anh bài thơ tha thiết tặng nàng, để giữ trái tim nàng ở lại bên anh.
Thì ra anh nhờ tôi làm một bài thơ để tặng người anh yêu. Vậy mà thuở tôi mười lăm mười sáu ấy có lúc đã bâng khuâng tự hỏi hay là anh ấy đã… yêu mình?
Tôi ở gần mà anh không thấy, không biết và chẳng yêu, tìm chi mãi xóm nào ở Ông Tạ quen cô gái kia để phải dò sông dò biển lòng người nông sâu, để rồi người ta cũng phụ bạc. Ngày xưa tôi đã trách thầm anh thế.
Chúng mình hàng xóm từng biết nhau, biết cả gốc gác gia đình, dễ dàng cảm thông nhau, sao không đến với nhau? Hay Bụt nhà không thiêng?
Bỗng nhiên anh cùng một suy nghĩ với tôi:
– Nói cho vui nhé bé Bông, à quên, bà Bông chứ! Phải chi ngày xưa tôi và bà… cưới nhau thì tình hàng xóm biến thành tình duyên sẽ đẹp lắm nhỉ. Không hiểu sao ngày ấy tôi chỉ xem bà như một đứa con nít như mấy đứa khác trong xóm, lúc nào cũng nhếch nhác bế em dù ở nhà hay đi ra ngoài đường. Ai mà yêu một đứa trẻ con như thế chứ?
Chẳng lẽ tôi kể với anh rằng con bé chuyên bế em ấy cũng đã từng làm thơ vì anh. Tôi chỉ đáp:
– Chắc mình không duyên nợ nên chỉ là hàng xóm thôi.
Và tôi nhớ lại những câu thơ ngày xưa tôi đã thổn thức:

Chúng mình là hàng xóm bấy lâu nay
Nhưng anh và em không duyên không nợ
Anh yêu chi người ở xa, xóm lạ
Ðể xóm mình buồn em cũng buồn theo.



Nguyễn Thị Thanh Dương

User avatar
khieulong
Posts: 6758
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by khieulong »

CHA TÔI CHẾT KHÔNG CẦN QUAN TÀI
Đào Nam Hoà

Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.
Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!

Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.

Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.
Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.

Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…
Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!

Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.

Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.
Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)

Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic!
Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông!

Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.

👣
Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.

Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.
Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.

Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.
10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.
Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:
-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
– Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.
Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!
👣
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.
Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975!

Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại.

Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …”

Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:
Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối.

Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.

Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:
– Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!

Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.
Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!
Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!


Đào Nam Hoà

User avatar
macco
Posts: 3549
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by macco »

Image

CHU HẢI CÓ GÌ LẠ KHÔNG EM?
Tặng Hoa—Chu Hải

1.
Khi yêu nhau, người ta có thể chấp nhận những lầm lỗi của người mình yêu, dù sự lầm lỗi có làm cho mình thương tổn. Bài hát chia tay vừa tắt và mới ngày hôm qua vệt son còn trên vai áo. Tôi nghĩ đến điều này khi tôi không còn nàng trong vòng tay. Con đường ngược gió sáng nay tôi lái xe đi về không có ai ngồi cạnh. Chiếc áo len vất hờ hững trên lưng ghế. Ngày chủ nhật tiếng chuông nơi giáo đường tự nó ngại ngần không chịu lan xa. Có những nỗi buồn không muốn gọi tên. Như những đêm dài không có bình minh chờ đợi.

Con đường đôi lúc bị ngăn đôi bởi hai hàng cây bằng lăng nước. Phía bên kia là quán cà phê có nàng ngồi trầm ngâm trước khi đi xuống phố. Tiệm nail của nàng nằm trong một khu thương mại sầm uất, gần miền South, có tên là khu Westlake—Tây Hồ. Từ nơi này, cách đây 5 năm, tôi gặp nàng.

Đã qua mùa thu sao vẫn còn có chiếc lá vàng rơi trên mui xe của nàng. Mới tuần rồi tôi thúc giục nàng đưa xe cho tôi đi thay nhớt máy, nhưng công việc bận rộn đến nỗi nàng không nhớ đến kỳ hạn. Mãi đến chiều hôm qua nàng mới nhớ lại và tôi là người có “bổn phận” phải làm công việc đó giùm nàng.

Suốt đời, tôi luôn đi bên cạnh những đoạn rời của người khác. Những đoạn rời lỡ làng và dang dở giống như một mảnh trăng không tròn trịa. Cũng không là một giấc mơ trong lòng của ai đó, hay một cơn mưa bay nghiêng dù chỉ trên một vai đời. Với sự thầm lặng cùng nỗi kiêu hãnh về nhan sắc, nàng luôn làm mọi người thấy trái tim mình đang ngập tràn giông bão…

Ngày cuối tuần không có nàng đi chung trên đường về. Một ngày có nắng reo vui. Từ góc đường Congress và đường số hai nhập vào nhau, các tòa nhà cao tầng che kín một mảng trời. Từng khung cửa kính vuông vức trên cao nhìn xuống dòng người xuôi ngược. Trời lạnh đột ngột và nhiệt độ xuống thấp. Nghe nói có tuyết ở Dallas ngày hôm qua và có thêm mưa tầm tã ở một vài nơi khác. Ðêm ném những hạt mưa và kéo theo những gió rét. Ngày tháng âm thầm đi qua trên vai người đàn ông già, mệt mỏ i. Những cơn mưa cũng vậy, ướt nhòa một nỗi nhớ.

2.
Tôi đi lạc mấy bloc đường trước khi tìm ra con đường Shady Park. Lâu lắm rồi tôi không có dịp đi về khu downtown của Houston. Những nhịp cầu chằng chịt đường 59, đường 45 chia hai hướng nam bắc đã làm tôi ngỡ ngàng. Một thời gian dài tôi loanh quanh không định hướng được lối về nhà của Bùi Chiến Công. Một cái tên nghe dữ dội, nhưng rất hiền khô bởi chủ nhà lúc nào cũng cười. Anh là một người luôn sùng bái những ly bia và mồi màng hơn là sùng bái những ồn ào, tranh chấp. Ðịa chỉ số 3050 cuối cùng tôi cũng đã tìm thấy trước khi đêm xuống. Ngôi nhà bộc lộ ra một dáng vẻ thơ mộng giống như một câu chuyện cổ tích—trong đó mái che sơn trắng nhìn ra một vạt rừng rộng. Con suối nhỏ chạy xuyên qua những lùm cây mà chỉ ban ngày mới nhìn thấy được. Có những giây leo bò trên đầu hồi đang run rẩy như hơi thở của nàng Bạch Tuyết vừa ngủ yên. Cuối đường ánh đèn dội xuống trên ngạch cửa của những căn nhà lân cận, như nói lên sự huyễn hoặc của đời sống. Trong đó cơm áo và công ăn việc làm đã xa rời và hạnh phúc thì đang tím lạnh bởi những cành mạc lan. Chính trong ngôi nhà này, cách đây mấy năm, vợ chồng nhà văn Nguyễn Hữu Nhật và Nguyễn Thị Vinh từ Na Uy đã từng ngủ lại. Có luôn cả Bích Xuân. Người phụ nữ diễm kiều của Paris và của vườn Lục Xâm Bảo.

Một tuần lễ mà Bích Xuân ghé lại nơi này, nghe đâu nàng không đem về Texas những vạt nắng mùa xuân, mà đem về những giông bão. Có những mưa bay và bão nổi ném trên vai những người đàn ông trong khi đàn bà thì vẫn bình an và dấu giếm sau nụ cười là roi đời bầm dập.
Tâm hồn họ luôn là một vườn xuân chưa nhú mầm bội phản và nắng gió chưa làm già háp dung nhan. Bích Xuân là một phụ nữ như vậy.

Khi tôi đến nơi và phải gài thắng tay để đậu xe vì xe nằm trong tư thế chúi đầu xuống một con dốc. Tôi không muốn thấy sáng hôm sau bước ra nhìn thấy xe của mình nằm ở đâu đó trong đám lá um tùm bên dưới, trong khi những con rùa, con rắn phơi mình trên mui.

Giang sơn của Bùi Chiến Công không bình thản cho một người viết văn đêm nay có cơ hội ngồi viết xuống chữ nghĩa. Chiếc laptop đem theo cũng không có dịp để ướp lạnh sương đêm và tình yêu cũng không kịp lai láng trên những mặt phím. Vì vẳng từ bên trong là tiếng người, tiếng những chén muỗng va chạm. Tiếng mở nút chai bia và tiếng cụng ly. Những người bạn tôi quen và chưa quen quy tụ nơi ngôi nhà đường Shady Park dường như không muốn tiễn chân một mùa Tết Âm Lịch, vì tôi nghe họ đang đòi “chúc mừng năm mới”. Ngoài vợ chồng Túy Hà và vợ chồng Bùi Chiến Công là bạn bè thân thiết thường gặp trong các sinh hoạt cộng đồng tại Houston, thêm Nguyễn Xuân Cương, gốc Bảo Lộc đang ồn ào không chịu để ai nói nhiều hơn mình. Hai người bạn mới một người tên Cư, một người phụ nữ, tên Hoa Nguyễn.

Ðã qua rồi cái thời thanh xuân và lửa tin yêu đang cháy đỏ trong lòng. Qua rồi cái thời mà nhìn thấy búp non trong vườn đã ngại ngần không muốn hái. Nhưng tôi ngồi giữa bạn bè và nghe trong lòng vang động lại những bước chân vào đời. Ngày đó tôi liều lĩnh biết bao. Tâm hồn tôi giống như mảnh trời đêm ủ chật những vì sao đang bước vào vùng bão lửa. Sự khao khát, sự hoài mong và trên cùng là sự đam mê làm vụng về ngôn ngữ.

Khi tôi biết Nguyễn Xuân Cương tại phòng sinh hoạt của Ðài Little Sài Gòn, ở Houston, tôi không thấy Cương ồn ào vui nhộn. Tôi nghe nói Cương ngày xưa là bạn thân của nhà thơ Tú Kếu- Trần Ðức Uyển. Dù Cương không thiết tha với thơ thẩn văn chương. Tâm hồn Cương ngày đó như một vườn bơ, một luống trà trở trăn theo đất. Tắm mát trái tim Cương, là sương mù và mưa bụi, đến nỗi nhìn đâu Cương cũng thấy cuộc đời đều lạnh và mỡ màng. Tôi cũng là một trong vài người bạn với Tú Kếu, khi anh về sống tại Bảo Lộc. Tú Kếu lập gia đình với Phượng, con gái út của ông chủ tiệm trà Tiến Ðạt. Ðám cưới linh đình thời đó—thời tôi là lính—Báo chí Sài Gòn loan tin và bạn bè trong đó hầu hết đều là văn nghệ sĩ đều đến chung vui với anh.

Tú Kếu bây giờ đã chết. Sau nhiều năm tù ở trại Ðại Bình, Bảo Lộc, Tú Kếu về sống ở Sài Gòn đường Trương Minh Giảng, nơi mà chị Phượng có một cơ sở buôn bán trà, cũng lấy tên Tiến Ðạt. Tú Kếu vẫn “ốm yếu ho hen” như ngày còn cộng tác với nhật báo Sống của nhà văn Chu Tử. Một đôi lần tôi ghé thăm anh, sau đó chúng tôi cùng uống cà phê nơi một quán nhỏ đường Huyện Thanh Quan. Người thi sĩ tài hoa của Sơn Tây, của “đồi núi Chí Linh và sông Hồng lộng lẫy” lúc đó vẫn hào sãng và còn phong độ. Cho đến khi tôi ra hải ngoại và biết tin anh mất vì bịnh alzheimer.

Những bài thơ anh sáng tác lúc sinh thời mang một màu sắc dữ dội và nhức nhối nhiều trái tim. Anh làm thơ giống vừa giỡn chơi vừa giác đấu với cuộc đời. Mỗi bài thơ là một nhát dao chủy thủ, rạch ròi và đâm suốt những tư cách vô lại.
Nguyễn Xuân Cương ồn ào kể lại thời kỳ vàng son ở Bảo Lộc, về Tú Kếu. Ðiều thú vị đầu tiên là Cương đọc cho chúng tôi nghe những câu thơ viết cho bạn hiền Tú Kếu, khi nghe tin anh lìa đời:

“Này ả phù dung, này lãng tử,
Này lời cao ngạo ý thâm sâu
Này khi bút chiến cùng thi tửu
Tất cả xin đừng hẹn kiếp sau”...

Điều thú vị thứ hai tôi biết thêm từ Cương, là anh luôn giành thế chủ động để nói mà không để cho ai nói. Trước “đài phát thanh Nguyễn Xuân Cương”, mọi vô tuyến đều phải ...im lặng…


3.
Gió bên ngoài khung cửa không kịp khép, làm xao động một bâng khuâng. Cái bâng khuâng tưởng chừng đã thầm lặng từ lâu, từ những ngày lính tráng. Giữa những câu nói loang thoáng, xen kẽ tiếng cười, tiếng cụng ly mời “chúc mừng năm mới’’, tiếng rền rĩ vì bia bọt chất ngất của Nguyễn Xuân Cương, tôi vừa nghe ai nhắc đến Chu Hải!

Giọng nói vút cao bằng âm sắc rất ư là Bắc Kỳ vừa khua gõ trong lòng tôi một cánh cửa đóng kín. Trong nhất thời tôi không kịp nhớ Chu Hải là một địa danh nằm ở đâu.

Tôi thất tình trở về Vũng Tàu từ một đêm mưa. Lâu lắm. Khi tôi chia tay với người đàn bà cuối đường gió—Mới đầu, nàng thổi qua vai tôi những ray rứt làm bằng tiếng hôn và nước mắt nóng hổi. Sau đó, chính nàng đã lau khô mọi ướt át hi vọng. Những cánh cửa khép lại và không chờ ai gõ cửa.

Năm 1970 nghe tin nàng đi lấy chồng. Những buồng tim tăm tối từ khước nghe một hồi đáp và những người đi qua đời nhau lặng lẽ. Và Vũng Tàu hết còn mênh mông một chân trời, một biển cạn.
Trên hai chuyến xe đò chật chội nối tiếp giữa hai đoạn đường Bảo Lộc- Sài Gòn và Sài Gòn- Vũng Tàu, tôi ngồi thu mình giữa những hành khách xa lạ. Giữa những mồ hôi và hơi người. Tôi hình dung đến những ngày trước mặt. Đêm chảy lùi sau lưng như một dòng sông mờ ảo. Tôi đau lòng mường tượng một dung nhan từng vùi dập tim tôi, và nghe bên tai tiếng gió đang thốc vào lòng xe những lời kể lễ, rằng có một thời mình yêu nhau…

Đó là những ngày chỉ còn lại mùa đông, tình yêu ai cũng mơ màng một bếp lửa. Nàng cũng vậy. Có những ngọn cháy đỏ trong tim nên tro than còn âm ĩ sau một cuộc chia lìa. Có những ngọn chưa dấy lên một lần mà đã tàn vào rã rời khao khát. Những năm tháng đi qua âm thầm như tiếng thở dài giấu giếm. Sự đau khổ lớn lao nhất trên trần gian này là hai người yêu nhau nhưng không thể tìm đến nhau. Thành phố của tôi và nàng tương phản nhau như tính tình của hai người. Của nàng là rừng, của tôi là biển. Biển và rừng có khi nào kết hợp vào nhau? Chúng tôi chỉ giống nhau ở một điều là cùng mang tình yêu đi vào đời mà không so bì hơn thiệt. Nhưng khi sa bại mất mát, tôi bị khánh tận, còn nàng vẫn đứng lại vững vàng.

Tất cả rồi sẽ trôi qua. Mọi ký ức rồi sẽ khép kín như một trang sách giấu chứa những điều chưa hiểu đã vội vã xuống hàng.

……….
Xe qua Long Thành. Qua Phú Mỹ. Qua mọi bờ cỏ xuân thì. Ðêm bay cùng nỗi nhớ bên ngoài. Vệt đèn pha trước mũi xe quét lên vạt đường trước mặt không soi kịp cảnh vật. Mọi thứ đang chạy ngược về sau. Vài phụ nữ thiếp ngủ nhưng vẫn ôm chặt hành lý trong mình. Khuôn mặt chìm trong bóng tối. Phần kia là mái tóc mảnh như một nhánh sông đang cố tìm đường ra biển.

Ðâu đây tiếng bánh xe rít róng mặt đường đêm vì vào khu vực có nhà cửa. Ðâu đây phố núi châm đèn. Tiếng của người lơ xe thúc hối: “Cô bác ai xuống Chu Hải sửa soạn hành lý...”. Có tiếng một cô gái vang lên, hối hả: ”Bác cho em xuống…”
Tiếng của một cô gái Bắc. Âm vọng như một nhánh cỏ nứt nẻ giữa dòng mưa, làm tôi ngỡ ngàng.

Chu Hải, ngày đó là một xứ đạo non trẻ, được thành lập sau ngày tôi vào lính. Ðó là một xóm nhỏ, nằm dựa lưng vào núi Dinh và sân bắn của Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. Bên kia đường là những ruộng mạ phơi phới cùng chạy song song với quốc lộ 15. Trước khi xe đò vào địa phận Bà Rịa, Vũng Tàu, Chu Hải có thể là một chặng xuống cuối cùng.

Xe dừng lại hẳn để thả cô gái xuống cùng với hành lý. Cô gái sẽ đi thêm một đoạn đường nửa để về nhà. Cô hãy mang trên vai nỗi mừng được đoàn tụ lại với người thân sau mấy tiếng đồng hồ ngồi bó gối trên xe. Cô sẽ về trên bước chân vui cùng cọng cỏ cong mình như một vầng trăng gầy yếu, mặc trên vai tiếng gió thầm thì...

Hôm nay, trong ngôi nhà vùng South 45, đường ra biển Galveston, tôi vừa nghe lại một địa danh tưởng chừng như mất biến trong ký ức. Người con gái trước mặt tôi, tròn trịa như một viên mực lăn đọng trên trang vở cũ, đã gợi lại trong tôi một quá khứ thương tật.

Mùa xuân của Vũng Tàu năm 1970, khi tôi chia tay với người con gái B’lao vừa thơm ngát môi đời. Mái tóc em vừa nghiêng xuống vai tôi cũng che giấu một màu son. Trong khi tôi biết rằng muốn trưởng thành con người phải chạm tay tới đau khổ.
Trước mặt tôi, cô gái có tên giản đơn không màu mè nhưng vẫn đại diện một hồn hoa—Hoa Nguyễn—vừa nhắc cho tôi nhớ rằng Vũng Tàu thân yêu của tôi, ngoài Bến Ðình— Bến Ðá—Bãi Trước—Bãi Sau, còn có một vùng đất mang tên Chu Hải. Có một thổ ngơi mà cư dân nơi đó đa số đều phát âm giọng Bắc không sai trật chính tả. Và tâm hồn họ ươm tụ phù sa sông Ðuống, sông Hồng. (Trong khi tôi viết văn mà đầy lỗi hỏi ngã. Mấy ông chủ báo gặp mặt tôi đều phàn nàn.) Có màu hoa gạo đỏ trong mường tượng của tôi, vẫn là những đốm lửa thắp trên phố từng đêm, trên từng cửa ô Hà Nội. Mỗi cửa ô là mỗi ngăn lòng nhức nhối.

“Chu Hải có gì lạ không em?” Tôi hỏi Hoa. Có thể nàng không nhớ nơi chốn từng sinh ra, từng lớn lên vì ngày đó nàng còn thơ dại. Nên nàng không thể trả lời.

Nhưng tận trong tim nàng, câu hỏi của tôi đã thắp lên một ánh sao từng ngủ quên trên bầu trời. Và ánh sao đó có thể chưa từng được đặt tên?

Nàng đâu biết rằng chỉ với một cái tên nhỏ nhoi nhưng đánh thức cả một quá khứ của người đàn ông đi qua biết bao bể dâu đời? Mà cho đến giờ phút này viết xuống vẫn không làm sao hiểu nổi…tại sao lòng đầy bão rớt?
Có bao nhiêu chiếc lá khẽ đậu xuống bàn tay như những câu thơ đậu xuống trang giấy lòng đêm nay? Và trên xứ người tạm dung có làm ai khao khát một cơn mơ rất vội. Trong đó, một người đang té vào nỗi nhớ. Té vào những yếu đuối già nua…

Tháng Chín, 2023
Phạm Ngũ Yên

User avatar
MatVit
Posts: 848
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by MatVit »

‘Cho dzề đi uống cà phê!’
Phạm Công Luận


Image
Nếu thích, cứ pha cà phê uống, đừng uống cà phê đóng chai.(Hình minh họa: Ruslan Sikunov/Pexels)


Có những buổi sáng sớm trong tuổi thơ, đánh thức tôi dậy không phải là tiếng đồng hồ reo. Cũng không phải là năm tiếng gõ của chiếc đồng hồ ODO nhà đối diện, mà là một mùi thơm nồng và khen khét, mùi cà phê từ nhà dì Năm bay tới.

Mùi thơm này dễ làm tỉnh thức trong không khí mát lạnh của một buổi sáng Tháng Chạp, giữa một xóm nhỏ còn nhiều cây lá và đầy các chậu kiểng bình dân. Hai lò đất nung bọc miếng sắt chung quanh để giữ không bị nứt hẳn đang ùng ục tuôn lửa đỏ từ những thanh củi nồng đượm. Cái vợt cà phê của dì hẳn đang được nhúng nấu trong nồi. Hẳn đang có vài người ngồi trong thứ ánh sáng mờ của quán tỏa yếu ớt từ cái bóng đèn vàng duy nhất, đợi ly cà phê nóng và đợi trời sáng dần.

Quán cà phê cũng là cái sân trước nhà có mái che của dì Năm. Dì tận dụng hết căn nhà cho chuyện kiếm tiền, dù chỉ nuôi có ba người con, quá ít so với các gia đình đông con thời đó. Dì sống ở phía sau nhà cùng ba đứa con và ông chồng mắc căn bệnh tiêu khát, bây giờ gọi là tiểu đường.


Phía buồng và phòng khách, dì cho hai mẹ con bà cụ Sáu thuê. Hai cô gái phụ bán cà phê ngủ ngay trong quán. Cứ một hai năm, dì phải tuyển người mới vì mấy ông trai độc thân trong xóm. Họ đến uống cà phê vài lần là quen biết, rủ rê mấy cô đi chơi và cuối cùng là xin cưới.

Những lần như vậy, công phu dì tuyển người phụ việc coi như tiêu tùng vì cô nào lấy chồng xong cũng xin nghỉ việc. Đã vậy có lúc dì còn phải thay mặt gia đình đàng gái trong đám cưới của mấy cô, nếu họ bị trục trặc xe cộ không lên kịp. Quán thiếu người bưng cà phê, lại phải ra bùng binh chợ Bến Thành tìm mấy đứa con gái dưới quê lên tìm việc, rủ về phụ bán.
Image
(minh họa: Hieu Do Quang/Unsplash)

Quán cà phê dì Năm góp phần hình thành mơ ước của tôi, là có lúc sẽ trở thành người lớn, đến quán ngồi và kêu ly cà phê sữa để nhấm nháp. Từ nhà mình, tôi luôn tự hỏi: Đó là thứ nước gì mà mùi thơm nồng nàn vậy, màu nước lại đen sánh vậy và cái vợt vải cũ kỹ sao có màu đen ngòm đến vậy?

Mùi cà phê đi suốt quãng đời thơ ấu của tôi. Buổi sáng nó khiến tôi tỉnh ngủ. Trên con đường đến trường, mùi hương ấy hòa quyện với mùi phở thơm lừng khi đi ngang qua tiệm điểm tâm trên con đường Nguyễn Minh Chiếu nhỏ hẹp. Không hiểu vì sao học trò tiểu học đầu thập niên 1970 phải đến trường quá sớm, khi trời còn tối đủ thấy được ánh lửa nồi nấu nước lèo phía xa.

Thằng nhóc chưa ăn sáng hít sâu vào ngực hương thơm của nước lèo tô phở, mùi ngò gai và rau quế… cùng hương cà phê, gộp chung thành một loại hương quyến rũ của thế giới tự do được sống theo ý mình của người lớn. Đó là điều ngộ nhận khiến tôi không thấy sợ hãi bước vào thế giới người lớn, và không hề có ao ước giữ mãi tuổi thiếu niên.


Tôi vẫn từ xa thưởng thức mùi hương ấy.

Cho đến một hôm, cáu kỉnh do bị bà ngoại la mắng vì thường mua nhầm cho bà cà phê đen thay vì cà phê sữa hoặc ngược lại, tôi dừng trên đường hớp thử chất nước đen còn nóng và hơi sánh kia. Đó là sự kết tinh của kẹo mạch nha và miếng than củi đang cháy? Tôi ngỡ ngàng nhận ra lâu nay mình mơ mộng quá nhiều. Nhưng rồi cảm xúc ấy giảm đi trong tuổi mười ba.

Chị thợ may trong lần tôi đến nhận đồ bận Tết pha cho tôi ly cà phê sữa, chính xác là ly pạc-sỉu, với sự ân cần cuả một người chị. Trên nền thơm ngọt của sữa đặc pha nước sôi, vị cả phê trở nên dịu dàng, khiến tôi thấy lại điều gì đã cũ khá dễ chịu trong nhữmg buổi sáng ngủ dậy trong mùi cà phê.

Tôi không có nhiều kỷ niệm sâu sắc với cà phê, kể cả với người yêu. Khi vào tuổi trưởng thành, nó là một thứ thức uống tôi thích, hầu như ngày nào cũng uống nhưng tôi không thần thánh hóa. Đối với tôi, chung trà, ly bia hay ly tonic trong buổi nói chuyện với người mình yêu thương hay quý mến có ý nghĩa hơn ly cà phê uống vội trước khi đi làm. Nhưng có lẽ nhờ vậy, những lần nhàn rỗi ngồi một mình nhấm nháp một ly cà phê ngon, cảm xúc của tôi tươi mới hơn.

Tôi dễ nhận ra cái gọi là “bản giao hưởng của hương vị” của ngụm cà phê bật lên trong miệng và lưỡi để tâm trí trở nên tỉnh táo, tinh tế và sảng khoái hơn.

Tôi đọc ở đâu đó rằng ở cà phê, chất caffeine chiếm một phần nhỏ của hạt nhưng nó quyết định mùi vị của thức uống này, khác với trà được làm từ nhiều loại hợp chất khác nhau, nhưng không có chất nào là nổi trội. Trà có nhiều thành phần hương vị khác nhau bổ sung cho nhau, nhắc lại khái niệm của phương Đông rằng tất cả chúng sinh đều được kết nối với nhau. Trong khi đó, ngược lại ở cà phê, chất caffeine là thành phần chính yếu và duy nhất, đứng ngoài các hương vị khác. Có lẽ đó là ẩn dụ cho một xu hướng của phương Tây xem trọng tính độc đáo, yếu tố quan trọng của sáng tạo. Đây là một phân tích thú vị.
Image
(minh họa: engin-akyurt/Pexels)

Tôi vẫn uống cà phê, cho đến khi còn có thể uống được. Tôi nhớ lại khi nuôi cha bệnh trong bệnh viện, một người cùng phòng bị đột quỵ nhẹ sáng nào cũng gào lên bằng một giọng nói đã ồ ề nhưng nhận ra được: “Cho dzề đi uống cà phê!” Ông nằm trong số muôn vạn đàn ông ở thành phố này, bắt đầu buổi sáng bằng ly cà phê thành nếp bất di bất dịch.

Bùi Giáng khẳng định một thú vui: “Ở đời sáng uống cà phê/ Quán trong hẻm nhỏ như quê quán nhà !” Hai câu thơ này ông dành cho Sài Gòn.

Tôi không mê cà phê đến độ như ai đó đoan chắc: “Nói tiền không thể mua hạnh phúc là nói dối. Tiền mua cà phê, và cà phê khiến tôi hạnh phúc!”

Tôi thấy mình hạnh phúc từ nhiều cách, thí dụ nếu như tôi viết xong bài này một cách suôn sẻ. Nhưng ít ra trong những ngày tháng êm đềm của tuổi nhỏ, hương cà phê nhà dì Năm là một ký ức dịu ngọt. Ký ức đó được tiếp nối, rất nhiều năm khi ba tôi còn sống. Bên cái bàn gỗ tròn có hai cánh gấp, ông pha cà phê phin hằng ngày để uống. Mùi thơm cà phê nóng tỏa ra phảng phất trong cái phòng ăn nhỏ mỗi sớm mai mát mẻ trên đất Sài Gòn.

Đó là hương vị của một thời bình yên, đầm ấm để tôi nhận ra rằng, cà phê hay bất cứ thức uống nào giúp ta gợi nhớ những kỷ niệm đẹp bên những người mà ta yêu thương, thì đó là thứ thức uống ta còn mong muốn thưởng thức, để ôn lại hạnh phúc đã qua.

User avatar
mexanh
Posts: 491
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Phạm Trần Ái Minh
Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn
5 tháng 7, 2024

Image
(Hình minh họa: Hannah Wei/Unsplash)
Người ngỡ đã ra đi , nhưng người bỗng lại về
Tình ngỡ sóng xa đưa, nhưng còn quá bao la. (TCS)


Sau khi tốt nghiệp đại học thuộc loại khá, cộng thêm thành tích hoạt động rất năng nổ trong suốt thời gian học, hắn được nhà trường giữ lại trong ban giảng huấn.


Nhưng chỉ làm việc được hơn hai năm trong không khí đạo mạo của ngành giáo dục, hắn mới biết dạng người hiếu động như hắn, không thể nào hợp với lối sống êm ả, đạm bạc của một ông thầy giáo của Sài Gòn – nơi luôn luôn sôi động, đổi thay đến mức chóng mặt trong thời kỳ mở cửa, hắn cựa quậy tìm đủ mọi cách để thay đổi, mong tìm được hướng đi thích hợp với cá tính của mình. Cuối cùng hắn đã tìm được một công việc khá tốt, hợp với ước mơ tại một công ty ngoại quốc trong thành phố.

Công việc mới, với cá tính xông xáo, thích khám phá của hắn được thoả mãn gần như trọn vẹn! Cứ vài ba tháng lại được công ty cử đi công tác, ngắn thì một vài ngày, lâu thì có khi kéo dài cả tuần lễ. Chỉ với khoảng hơn một năm làm việc hắn đã có dịp đi gần như khắp đất nước.

Lần này hắn đại diện cho công ty để mở một gian hàng trong cuộc triển lãm ở một tỉnh miền sông nước Cửu Long. Nơi đây không xa lạ gì với hắn, nó đã khắc ghi vào tâm hồn, trí nhớ hắn một câu chuyện tình buồn. Hơn sáu năm trước, khi đó hắn còn là sinh viên năm thứ hai, hắn yêu thương một cô em gái của người bạn thân nối khố của hắn từ thời trung học.

Cuộc tình tưởng như trọn vẹn, được đồng ý của cả hai bên gia đình hắn và cô bé, chỉ còn chờ hắn tốt nghiệp, có công ăn việc làm là xong. Nhưng vào một ngày trong dịp nghỉ hè, hắn cùng với cô bé xuống thành phố này để thăm viếng gia đình người chú của cô bé. Suốt gần một tuần lễ không một quán cà phê, một tiệm ăn đặc sản hay chốn vui chơi nào của thành phố bị bỏ sót bởi hắn và cô bé.

Nhưng bản nhạc tình yêu của hắn không không phải toàn là những âm vang hoan lạc. Nó đã bị xáo động vỡ tan bởi một lý do rất ngớ ngẩn, không đâu chỉ vì một vài câu cãi vã rất trẻ con, trong một quán cà phê vào một buổi chiều mưa tầm tã. Hắn đã thiếu tế nhị, không tâm lý để hiểu biết, cảm thông sự làm reo, muốn được hắn quan tâm của một cô bé mới chớm 20 tuổi. Cái tuổi đôi khi có tí chút nổi loạn, khác người, mục đích chỉ muốn được nghe vài câu nói ngọt ngào, vuốt ve làm hoà của hắn, người mà cô ta đang yêu mà thôi. Nhưng hắn đã sai lầm với vẻ im lặng và thái độ thách đố, bất cần. Hắn đã không thèm cản ngăn, xuống nước khi nhìn thấy cô bé giận hờn đứng dậy ra đi dù lúc đó trời đang mưa như trút nước.

Trở lại Sài Gòn, cũng vì cái tự ái rởm của một người con trai mới lớn, hắn vẫn im lặng, cố làm ra vẻ bình thản, mặc dù cảm giác nhớ mong và cô đơn luôn luôn day dứt trong lòng hắn. Rồi chỉ vài tháng sau đó, trong một lần dạo phố hắn thấy cô bé đang được săn đón, chiều chuộng bởi một người đàn ông khác, chững chạc và vững trải hơn hắn nhiều. Nhìn thấy họ, cảm giác đau khổ của một kẻ thất tình đổ ập đến làm cho hắn ngẩn ngơ, đứng xững lại giữa phố đông người. Đôi chân hắn như không còn đủ chống đỡ được thân thể hắn nữa, lúc đó hắn mới nhìn rõ cái sai lầm, tự ái rởm của mình đã đem đến sự tan vỡ mối tình đầu tiên trong đời hắn.

Chuyện buồn không dừng lại ở đó. Vào dịp thi cử cuối năm hắn nhận được thiệp cưới của cô bé. Chán chường bổ vây lấy hắn, việc học hành hoàn toàn được bỏ qua một bên, thay vào đó là những tối đi hoang, hoà nhập với bạn bè trong những bữa nhậu thâu đêm, suốt sáng. Cuối học kỳ, lần đầu tiên trong đời đi học hắn thấm thía cảm giác xấu hổ và trách mắng của bố mẹ vì trượt thi, phải học lại! Nhưng nhờ vào sự khuyên bảo của gia đình và vài người bạn chí thiết đã giúp hắn hiểu rõ một chân lý đó là: “Người ta chỉ có thể thoát ra khỏi cái sai lầm khi biết tìm đến cái đúng để sửa sai. Nếu tìm đến chán chường, buông xuôi thì chắc chắn chẳng giải quyết được gì mà còn làm cho người ta càng lún sâu vào thất bại.”


Chính nhờ sự tỉnh giấc đúng lúc đó, niềm vui trong học tập và khôn ngoan trong lối sống đã đến với hắn, giúp hắn thành công sau khi tốt nghiệp đại học. Với sáu năm khôn lớn đó, hắn đến với tình trường không còn vẻ ủy mị, yếu đuối của mối tình đầu tiên nữa. Hắn dễ dàng mở rộng con tim dành cho một bóng dáng nào đó, nhưng cũng sẵn sàng nhẹ lòng ra đi khi gặp phải những phiền phức, không vui! Với hắn, tình yêu đôi lúc được coi như mầu mè làm cho đời sống người ta không nhàm chán quá mà thôi. Danh vọng và tiền bạc mới là cái mà người đàn ông từng trải nên để ý.

Lần này ngẫu nhiên vì công việc của công ty, hắn được trở lại chốn xưa. Nhìn lại những dấu tích của mối tình đầu, dại khờ thời sinh viên còn vương lại trên những con đường, góc phố, quán ăn ở cái thành phố nhỏ bé quê mùa này. Hắn cảm nhận được rất rõ sự xúc động dâng trào trong tim mình khi nhìn lại những nơi kỷ niệm. Hắn hình dung ra bóng dáng nho nhỏ, e ấp của cô bé nép sát vào thân thể hắn ngày xưa. Cảm giác run run hoan lạc dù chỉ với cái nắm tay dạo phố hay những phút đê mê từ nụ hôn vội vàng lên má , trên môi cô bé …. Tất cả lại trở về trong ký ức, làm mềm con tim mà hắn đã tưởng rằng nó đã chai lì sau lần chia tay dưới trời mưa tầm tã của sáu năm về trước.

Rồi cũng ngẫu nhiên nhưng cũng có lẽ vì quen thuộc, khi bóng đèn đường vừa bật sáng, hắn đi vào con đường, chính là nơi ghi dấu kỷ niệm buồn chia tay của buổi tối mưa tầm tã đó. Hắn không quên, đây chỉ là con đường cụt, cuối đường có một căn nhà ngói cổ, dáng dấp một biệt thự nho nhỏ thời Pháp. Chủ nhân căn nhà cổ là một cặp vợ chồng khá đứng tuổi, cũng là chủ quán cà phê khá đơn sơ chỉ với sáu, bảy chiếc bàn thấp chân kê sát dưới mái hiên hay dưới những chòi lá đơn sơ, ẩn mình dưới những lùm cây ăn trái loà xoà trong khu vườn trước căn nhà.
Image
(Hình: Annie Spratt/Unsplash)

Đang lúc hắn lững thững bước chân, dìm mình vào hoài niệm , thình lình vài tiếng gọi đã kéo hắn trở lại với thực tại. Từ một quán giải khát bên đường, một cặp trai gái mừng rỡ, ngạc nhiên chạy đến gần hắn:

-Thầy Minh, thật ngẫu nhiên chúng em lại gặp được thầy ở đây! Mời thầy vào uống nước với chúng em….

Qua một chút ngạc nhiên ban đầu, hắn đã nhận ra họ, những sinh viên của hắn ngày xưa, khi hắn còn làm việc ở đại học. Sau vài câu thăm hỏi thông thường, cặp tình nhân cho hắn biết với vài ngày nghỉ họ cũng xuống đây thăm viếng hội chợ. Đứng nói chuyện với cặp sinh viên một lúc, hắn lấy cớ đang đến thăm gia đình người bạn ở cuối đường để từ chối lời mời rồi từ giã để tiếp tục tìm đến căn nhà cổ, nơi mà ngày xưa đã gieo vào trí nhớ hắn dấu tích của một mối tình buồn.

Căn nhà ngói vẫn vậy, mái nhà, tường vách vẫn phủ đầy rêu phong, chủ nhân căn nhà nếu không phải vì quá nghèo không có tiền để sửa sang thì phải là một người có tinh thần hoài cổ. Vẫn với những chiếc bàn gỗ thấp chân được bày biện dưới gốc cây hay trong các chòi lá hình như vừa được chỉnh trang sơ sài lại. Nếu có tí khác biệt với quán cà phê hơn sáu năm về trước, ngày nay quán đã được trang bị một dàn âm thanh rất chuẩn, không còn tiếng rè rè phát ra từ cuộn băng đã nhão nhẹt bởi thời gian của dàn máy ngày xưa nữa.

Nhìn vào chỗ hắn và cô bé ngồi ngày xưa, đã được chiếm cứ bởi một nhóm thanh niên đang ồn ào nói chuyện. Hắn đến một góc khuất dưới mái hiên căn nhà, gọi ly cà phê đen nhấm nháp, đưa mắt bâng quơ nhìn ra ngoài đường. Hắn thả lỏng trí nhớ trở về với những diễn biến của mối tình đầu đời không vui trong buổi chiều mưa tầm tã. Thỉnh thoảng hắn buông tiếng thở dài khi vài câu hát nào đó rất buồn từ chiếc loa treo dưới mái hiên diễn tả phần nào tâm tư hắn:


“Ngày tháng nào đã ra đi, khi ta còn ngồi lại. Cuộc tình nào đã ra khơi,khi ta còn mãi nơi đây… Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa!… Đôi khi ta lắng nghe ta, nghe sóng âm u dội vào đời buốt giá… Ôi tiếng buồn rơi đều, nhìn lại mình đời đã xanh rêu!” (TCS)

Hay:

“Những chiều không có em, phố buồn nằm im bóng. Ai chờ ai đây mà bâng khuâng, nhặt lấy chiếc lá úa, tiếc thời xuân xanh, tựa chiếc lá vàng kia khi mùa thu gọi hồn.

Những chiều mây trắng bay, những chiều không có anh, người yêu ơi, còn thấy nhớ gì hay không?

Từ đây một người đành sống kiếp cô đơn, âm thầm, âm thầm như những chiều không trăng sao…” (TH)

Tiếng nhạc kéo hắn về với hoài niệm, dìm sâu cảm xúc và trí nhớ hắn vào quá khứ của một thời mơ mộng, nhưng nó đã bị phá vỡ vì những làn khói thuốc mù mịt, tiếng ồn ào, cãi nhau chí choé của một nhóm khách mới vào, ngồi quanh chiếc bàn bên cạnh hắn. Với tí chút bực mình, hắn đứng dậy, chậm rãi ra khỏi quán. Hắn đi trở ngược lại con đường vừa đi qua, rời xa dấu vết căn nhà cổ của buổi chiều mưa hơn sáu năm về trước.

Đưa tay nhìn đồng hồ, thời gian vẫn còn quá sớm, tự nhiên hắn mong có một người nào đó để nói chuyện giải khuây. Hắn chợt nhớ đến cặp trai gái sinh viên đã chặn hắn vừa qua, hắn tiếc vì đã từ chối lời mời họ. Hắn rảo bước nhanh hơn với hy vọng họ vẫn còn đó để được nói chuyện, hòa nhập với họ mà đuổi đi được nỗi buồn hoài nhớ và cô đơn đang lan tràn trong lòng hắn.

Nhưng, với vẻ thất vọng, hắn đứng lại trước quán cà phê, đưa mắt nhìn vào trong quán, chỉ còn lác đác vài người khách phì phèo điếu thuốc ngồi quanh những chiếc bàn phía trong quán . Còn chiếc bàn phía ngoài, gần lề đường nơi cặp sinh viên ngồi đã trống không. Đang tiếc rẻ cho lỡ làng, hắn sửa soạn bước đi thì một cô gái từ trong quán vội vàng đến gần hắn, với nụ cười rất thân thiện, như đã quen biết hắn từ lâu, cô ta nói với hắn:

-Thầy Minh, em đang chờ thầy để được mời thầy vào uống cà phê đây! ….

Hắn cau mày nhìn sững cô gái, tự hỏi không lẽ đây lại là một sinh viên khác mà mình không nhận ra sao? Hình như hiểu rõ thắc mắc của hắn, cô gái lắc nhẹ đầu, nhưng vẫn không tắt nụ cười duyên dáng trên khuôn mặt tươi vui, bình thản nói với hắn:

-Em không phải là học trò của thầy đâu, nhưng qua những câu chuyện của anh chị sinh viên vừa rồi, em đã biết khá nhiều về thầy, đã làm em cảm mến thầy, muốn làm quen với thầy mà thôi.


Có lẽ một phần vì đang lúc cô đơn, muốn có ai đó để trút tâm tư hay ít ra cũng làm cho bớt nỗi cô quạnh trong cái thành phố buồn hiu hắt về đêm này. Nhưng có lẽ phần lớn vẫn là hình dáng khá xinh xắn, tánh tình cởi mở dễ thân thiện của cô gái Nam bộ đã làm cho hắn vui vẻ nhận lời. Mừng vui như một đứa con nít, cô gái nhanh nhẹn kéo chiếc ghế của chiếc bàn trống không, cũng chính là nơi mà cặp sinh viên đã ngồi. Rất lễ độ, cô gái kéo ghế mời hắn ngồi. Rồi cũng chẳng cần hỏi han gì, cô gái nói rất nhẹ bên tai hắn, trước khi bước vào phía trong quán:

-Thầy chờ em tí chút, em vào pha cà phê cho thầy nhé.

Không lâu, với chiếc khay trên tay có một tách cà phê đen nóng bốc mùi thơm ngào ngạt, một đĩa bánh ngọt nho nhỏ. Rất nhuần nhuyễn, cô ta xếp tất cả lên trên mặt bàn, rồi kéo ghế ngồi đối diện với hắn. Nụ cười tươi vui hình như luôn luôn trên môi, rất tự nhiên cô gái nói với hắn:

-Ly cà phê đen rất đậm, không đường, không sữa nhưng lại cần vài chiếc bánh ngọt đúng ý của thầy đây!

Hắn giương mắt nhìn cô gái với vẻ ngạc nhiên, chưa kịp phản ứng, Cô gái đã nhỏ nhẹ, tiếng nói hình như chỉ dành riêng cho hắn nghe:

-Đó không phải là thói quen, sở thích của thầy mỗi khi uống cà phê hay sao?

Đến lúc này thì hắn không thể nào im lặng được nữa, nhìn cô gái hắn hỏi:

-Đúng là lũ sinh viên đã nói nhiều về tôi với cô rồi phải không?

Ngập ngừng tí chút, đưa mắt nhìn cô gái, với vẻ đùa vui, hắn nói tiếp:

-Nhưng tôi nói thật, tìm hiểu đàn ông quá nhiều, có lẽ không phải luôn luôn là ưu điểm lắm cho cho một người phụ nữ đâu.

Chẳng cần chú ý đến nụ cười thích thú trên môi của hắn sau câu nói đùa cợt. Cô gái liếc mắt nhìn hắn, với giọng rất nhẹ nhưng rõ ràng:

-Với đàn bà, họ tìm hiểu cái gì đó về một người đàn ông, đôi khi lại rất cần thiết, nhờ đó họ có được dịp may để gần gũi người đàn ông mà họ cảm mến, thầy Minh ạ!

Câu chuyện giữa hắn và cô gái cứ tiếp tục trong trong vui vẻ như thế, nhưng cũng làm cho hắn ngạc nhiên với những ân cần rất đặc biệt mà cô ta đã dành cho hắn, dù cô ta chỉ nghe qua vài lời tán dương của cặp sinh viên về hắn. Cũng qua những trao đổi đó, hắn biết, Yến (tên cô gái) sau khi tốt nghiệp cấp cao đẳng ngành thương mại, rồi vào làm kế toán cho một công ty của người chú họ trong tỉnh, đến nay đã được gần ba năm. Ba của cô ta đang là phó giám đốc sở bưu điện tỉnh, nhưng cũng sửa soạn hồi hưu. Căn nhà quá rộng của gia đình đã được bà mẹ mở quán cà phê và vài món ăn nhẹ để kiếm thêm thu nhập. Quán được một cô cháu ruột của bà mẹ phụ giúp việc buôn bán. Công việc của cô cháu gái là bưng đồ ăn, nước uống cho khách. Mỗi khi cô cháu bận việc không đi làm được , nhất là vào buổi chiều tối sau khi về làm, Yến thường đến quán giúp mẹ trong việc buôn bán là lúc khách đông nhất.


Ngẫu nhiên, Yến nhìn và nghe thấy lời chào gọi của cặp sinh viên khi trông thấy hắn trước quán. Rồi qua những câu chuyện họ nói về hắn, một ông thầy lãng mạn, nhiều cảm xúc với thơ văn đã làm Yến thích thú. Rồi cô ta đã hoà nhập với cặp sinh viên trong cuộc nói chuyện về hắn. Chính vì vậy thói quen uống cà phê đen, không đường rất đậm với bánh ngọt và cả đến cá tính mơ mộng trong thơ văn, khá buông thả cảm xúc trong lối sống đầy nghệ sĩ tính của hắn cũng được nhóm sinh viên nói đến khá nhiều. Những cái đó đã vô tình làm cho Yến thích thú, tò mò và muốn gần gũi với hắn. Yến biết chắc chắn hắn sẽ phải đi trở lại con đường khi trở về vì đó là con đường cụt, nên đã chú ý ngồi chờ, tìm cách kéo hắn vào quán để làm quen.

Rồi cứ thế, giữa hắn và cô gái hình như không còn ngăn cách trong cuộc trò chuyện. Cảm giác buồn đau vì hoài niệm của mối tình lỡ dở đầu tiên trong đời hắn cũng được đẩy lùi vào lãng quên, thay bằng những nụ cười vui vì những câu chuyện dí dỏm, duyên dáng của cô gái. Hắn có cảm tưởng như bị cô gái kéo theo lối dẫn chuyện có vẻ như ngây thơ nhưng thấp thoáng cái lãng mạn, dám dấn thân, không tính toán trong lãnh vực tình cảm của cô gái.

Trong cái không khí thân tình, cởi mở đó, cô gái bất thình lình hỏi hắn vì lý do nào mà hắn tìm đến con đường cụt vắng vẻ về đêm này. Thắc mắc của cô gái đã vô tình kéo hắn ra khỏi niềm vui đang có trong cuộc gặp gỡ với cô ta, hắn lại trầm mình trở lại với cuộc tình buồn hơn sáu năm về trước. Rồi với sự tò mò muốn biết của cô gái về cuộc tình buồn của hắn, hắn chẳng ngại ngần kể rất chi tiết cho cô ta nghe. Cô gái im lặng nghe hắn kể lể, thỉnh thoảng nắm nhẹ bàn tay hắn, đưa ánh mắt nhìn hắn như muốn chia xẻ nỗi buồn đau của hắn. Có lẽ vì cảm động với sự im lặng, lắng nghe rất chân tình của cô gái đã làm cho hắn thực sự sống lại với kỷ niệm, rồi thi hứng trỗi dậy, hắn làm vội bài thơ nói về mối tình dang dở, đọc cho cô gái nghe:

Em đi rồi nhưng nỗi buồn để lại
Như món quà ray rứt tặng riêng ta
Ta về đây, hôm nay sao vắng lặng
Dấu tích đây rồi, ngày xưa thân ái

Gọi ta về với ký ức xa xưa
Nhặt giùm ta lá vàng rơi thủa đó
Bản nhạc buồn, hòa trộn tiếng mưa rơi
Em có còn vui sau ngày giã biệt

Có còn thích những bài thơ ướt át
Mà vần điệu là hồn ta ghép lại
Tặng cho em làm quả buổi chia ly.

Đọc xong bài thơ tự phát, hắn buông tiếng thở dài, với dáng điệu buồn bã, uể oải, đứng dậy, nói vài câu cám ơn lấy lệ với cô gái rồi bước ra khỏi quán. Cô gái cũng đứng lên, nhưng im lặng đưa mắt dõi theo cho đến khi hắn biến mất sau khúc quanh của con đường. Với tí chút thẫn thờ cô gái nói nhỏ: “Dù thế nào thì anh ta cũng có một tình yêu đúng nghĩa! Một người đàn ông lãng mạn, đáng yêu!”

Trở về khách sạn, giòng nước mát lạnh của phòng tắm đã gội rửa đi tất cả nhưng ưu buồn trong lòng hắn. Hắn nhanh chóng trở về với dạng người dễ quên, dạng người mà hắn sở hữu hơn sáu năm về trước, sau cú sốc tình cảm trong đời hắn.

Sáng hôm sau, trong tinh thần sảng khoái, hắn đến gian hàng của mình trong khu triển lãm để tiếp nối công việc của một người điều hành. Buổi trưa, sau khi giao công việc cho vài nhân viên, hắn sửa soạn đang định rời gian hàng đi ăn trưa. Từ đám đông khách thăm quan hội chợ, Yến, cô gái có lối nói chuyện lôi kéo đã cho hắn khá nhiều ấn tượng tối hôm qua chậm rãi đi ra, đến gần hắn. Với tí chút ngạc nhiên, hắn nói với cô ta:

-Lại gặp cô! Gian hàng của chúng tôi đang chờ đợi để phục vụ cô đây.

Cô gái mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, trả lời hắn:

-Em chẳng có thích thú gì để thăm quan hội chợ, em đến để gặp lại thầy, mời thầy đi ăn cơm trưa đây!

Cười thành tiếng, với giọng thích thú hắn trả lời:

-Tôi có cảm tưởng cô là người rất rộng rãi trong lãnh vực giao tế thì phải? Chưa trọn một ngày quen biết mà tôi đã hân hạnh được cô mời hai lần. Tối hôm qua và cả bây giờ nữa! Cô không thấy đang bị tôi bóc lột sao?


Cô gái có vẻ rất vui với câu trả lời của hắn, cũng lối đùa cợt, cô ta nói:

-Em không rộng rãi như thầy nghĩ đâu. Lần này em mời nhưng người trả tiền phải là thầy đó!

Nghe cô ta trả lời, hắn cười to hơn. Rất thân thiện, hắn khoác vai cô gái vừa kéo cô ta đi vừa nói :

-Thế thì quá rõ ràng và hợp lý rồi! Thôi chúng ta đi.

Sau buổi cơm trưa hôm đó, rồi lại những buổi trưa, buổi tối khác tiếp theo được lập lại, nhưng không chỉ là những bữa cơm trưa, cơm tối mà còn là những lúc hắn và Yến lang thang thăm phố xá hay ngồi quán cà phê tâm sự. Sự gần gũi, cảm mến nhau cũng vì vậy mà tiến triển, nhưng có một điều rất kỳ lạ. Cái kỳ lạ mà chính hắn cũng không lý giải được, cô gái vẫn không thay đổi chữ thầy xưng em. Hắn cũng vậy, vẫn chữ tôi và cô, quá lắm mới có chữ tôi và em. Đôi lúc hắn cũng muốn tìm cách đổi thay nhưng với cảm giác chỉ là sự quen biết tạm thời, rồi lại ra đi thì cũng chẳng cần chú ý đến những cái nho nhỏ bên lề cho phiền phức.

Hội chợ vào những ngày cuối, lại gặp buổi trời mưa nên khách thăm viếng đã có phần thưa thớt, công việc vì vậy cũng không có gì nhiều. Hôm nay hắn dặn dò công việc cho nhân viên rồi trở về khách sạn với ý định ngủ một giấc lấy lại sức bù cho những ngày bận rộn vừa qua. Sau khi tắm rửa xong, trong bộ pyjama sửa soạn đi vào giấc ngủ. Vài tiếng gõ cửa đã làm hắn bực mình, hắn nghĩ rằng lại bị làm phiền bởi người phục vụ của khách sạn. Uể oải đứng dậy, đưa tay vặn khoá cửa, đồng thời mở tung cánh cửa với dáng vẻ không vui. Nhưng ngay lúc cánh cửa mở ra đã làm hắn giật mình, sững người khi nhìn thấy người đứng trước cửa không phải là nhân viên khách sạn mà là Yến. Cô gái mới quen mấy ngày qua nhưng đã cho hắn khá nhiều ấn tượng.

Sự xuất hiện của Yến ra ngoài dự đoán đã làm hắn ngẩn ngơ, không kịp có phản ứng, ngoài việc im lặng giương mắt nhìn. Hình như cảm nhận được phản ứng bối rối của hắn, cô gái mỉm cười nói rất nhẹ:

-Thầy không muốn mời em vào phòng sao?!

Câu nói của cô gái đã giúp hắn lấy lại bình thản, nói vài câu chào hỏi xã giao, không quên xin lỗi cái luộm thuộm của trang phục và phòng ốc trước khi hắn kéo chiếc ghế ra mời cô gái. Ngồi xuống ghế, cô gái đưa mắt nhìn bao quát căn phòng, với dáng điệu không cần giấu giếm tình cảm hiện rõ trên khuôn mặt, cô ta nói như thủ thỉ với hắn:

-Có lẽ việc em đường đột vào phòng riêng của thầy ban đêm đã làm cho thầy khó chịu phải không ?

Bình tĩnh đã trở lại, không với vẻ buông đùa, hắn trả lời cô gái:

-Khó chịu thì hoàn toàn không, nhưng tôi nói rất thật, làm như vậy là điều không nên, nó quá đường đột, chỉ không tốt cho cô mà thôi!


Im lặng tí chút, hắn nói tiếp:

-Yến, em nên nhìn rất rõ vào sự kiện thực tế, thế nào thì chỉ còn ba ngày nữa, khi khu hội chợ chấm dứt anh sẽ rời xa đây. Tất cả đều bình lặng chấm dứt thì việc em đến đây vào phòng của anh là điều bất lợi, không tốt cho em đâu.

Cô gái đứng dậy, đưa ngón tay che sát vào miệng hắn, như muốn hắn đừng nói thêm. Tay bên kia vòng ra sau lưng hắn, kéo nhẹ hắn vào sát ngực, cô ta nói rất khẽ:

-Thầy đừng thay đổi xưng danh với em như vậy, Em cũng thế, chữ thầy và em sẽ mãi mãi được hiện diện trong giao tiếp của em và thầy. Em sẽ giữ mãi xưng danh này dù ở bất cứ trạng huống nào trong tình cảm của chúng ta.

Hắn ngỡ ngàng không hiểu. Có lẽ cô gái nhìn thấy sự thắc mắc trong ánh mắt, trong thái độ của hắn. Cô ta nói tiếp:

-Sau khi Hội chợ kết thúc thầy về lại Sài Gòn, em chẳng có lý do gì để giữ thầy ở lại, dù em rất muốn! Nói rất thật lòng, dù giữ được, em cũng chẳng muốn giữ thầy ở lại. Còn em cũng chẳng có lý do gì để phải rời xa nơi đây. Chính vì nghĩ như vậy, thì tại sao em và thầy phải thay đổi lối xưng danh cho vô ích. Hãy gọi nhau như vậy, không biết với thầy ra sao? Nhưng với em, dù chẳng phải là học trò của thầy, nhưng em vẫn cảm nhận được cái gì rất đẹp, rất nên thơ và lãng mạn trong con tim và cảm xúc của em khi em và thầy vẫn giữ lối xưng hô đó.

Hắn vẫn im lặng, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Sự lãng mạn của cô gái đã ra khỏi suy nghĩ và tưởng tượng của hắn. Lòng hắn chùng lại, hắn cũng vòng tay ôm lấy cô gái, nói rất nhỏ bên tai cô ta (hắn trở lại với vai vế người thầy!) :

-Tôi không ngờ em đối với tôi đặc biệt như vậy, nhưng chỉ với mấy ngày quen biết có lẽ tôi và em nên nên suy nghĩ nhiều hơn. Tình cảm vẫn là những cái rất mù mờ dễ làm người ta ngộ nhận, theo tôi thì bất cứ sai lầm nào, người phụ nữ vẫn là người chịu thiệt thòi nhất.

Cô gái âu yếm ép sát đầu vào ngực hắn, nói rất nhỏ như chỉ muốn chỉ con tim của hắn nghe:


-Thầy Minh, thầy có thể nghĩ em vội vàng, quá đường đột khi nói yêu thầy. Nhưng em biết chắc chắn em không sai lầm.

-Nhưng em có biết chỉ vài ngày nữa tôi sẽ rời xa em không ?…

Không để cho hắn nói tiếp, cô gái cắt ngang:

-Em đã nói với thầy rồi chuyện thầy ra đi, em ở lại, là điều rất thật và rất rõ ràng. Chẳng có điều kiện nào để gò bó giữa em và thầy trong tương lai cả. Điều rất dễ hiểu là em yêu thầy, dù chỉ là tình yêu đơn phương, một hướng. Yêu thầy dù biết là sẽ xa thầy.

Đưa tay nâng đầu cô gái lên, hắn nhỏ nhẹ:

-Như vậy không thiệt thòi cho em lắm sao?! Hãy nhìn vào thực tế, Yến ạ. Tôi là người chẳng có gì để cho em đặt niềm tin cho tương lai đâu!

-Tại sao thầy cứ nói đến mất mát trong tình yêu nhỉ? Người ta có thể chung sống với người mình yêu trong vài ngày, trong một buổi hay trong chốc lát vẫn còn hạnh phúc hơn là đem cả cuộc đời mình cho nghĩa vợ chồng một cách vô vị! Đôi khi còn khốn khổ nữa là khác. Hãy nhìn chung quanh biết bao nhiêu bà vợ đóng vai trò của một tên nô lệ, một con bé ô sin.

Rướn người lên, Yến đặt nụ hôn trên môi của hắn, rồi nói tiếp:

-Em ở lại đây với thầy hôm nay, ngày mai và cả ngày cuối cùng. Rồi em sẽ tiễn thầy ra đi, không có gì để thầy phải băn khoăn, ngại ngần cả. Xin đừng từ chối một người yêu mến thầy! Mối tình chỉ vội vàng, thoáng qua nhưng rất chân thành, chẳng có gì để em tính toán từ thầy cả.

Ngày hôm đó cũng như hai ngày cuối cùng của hội trợ, ngoài thời gian dành cho công việc, hắn và cô gái gần gũi nhau đúng nghĩa một cặp tình nhân thân thiết. Buổi sáng của đêm cuối cùng, hắn dự tính sau khi thức dậy sẽ cùng với cô gái dẫn nhau đi ăn sáng trước khi từ giã để hắn theo xe của công ty trở lại Sài Gòn. Nhưng khi thức dậy hắn cảm thấy vẻ im lắng trong phòng như có gì khác thường. Trên mặt chiếc bàn ngủ thấp lè xè cạnh giường, ngay tầm mắt của hắn, một lá thư xếp gọn ghẽ đặt dưới chiếc bút bi. Chẳng cần suy nghĩ, hắn biết là cô gái đã lẳng lặng rời xa hắn rồi. Với chút thẫn thờ vì hắn biết rằng hắn lại có thêm một cuộc tình đến và đi trong đời hắn. Cảm giác buồn thấm nhẹ trong lòng hắn, hắn vẫn nằm trên giường, nhắm mắt tưởng nhớ đến những ngọt bùi thoáng qua và cũng muốn dành một khoảnh khắc yên lặng để thay lời tiễn đưa một bóng dáng, một người đã gửi trọn yêu đương cho hắn. Dù chỉ là một thoáng qua nhưng hình như bóng hình đó chắc chắn đã ghi đậm vào tâm tư hắn những dấu ấn rất đẹp. Một lúc sau, buông tiếng thở dài hắn cầm lá thư lên đọc:

Thành phố …. ngày….. tháng …… năm……..

Thầy yêu mến,

Thế là chúng ta đã xa nhau rồi! Thật hạnh phúc cho những ngày mộng mơ vừa qua, nhưng cũng thật buồn đau cho lúc giã biệt mà chẳng biết bao giờ em và thầy gặp lại nhau. Chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thầy sẽ ra đi, còn em sẽ ở lại để gìn giữ những dấu tích của những ngày qua đẹp đẽ, hoan lạc của đời em.

Thầy yêu mến của em, cám ơn thầy đã cho em biết thế nào là cảm giác yêu đương. Dù rất ngắn ngủi, chỉ với khoảng một tuần lễ bên nhau nhưng em đã tìm được niềm mơ ước của trái tim mình. Em không và cũng sẽ chẳng bao giờ hối hận vì đã yêu thầy, mặc dù em có chút linh cảm đó chỉ là tình cảm đơn phương. Chính lúc ngồi viết những dòng thư cuối cùng này em vẫn còn giữ nguyên vẹn những cảm xúc tuyệt vời của những giây phút bên thầy. Em sẽ không bao giờ quên, sẽ mang nó mãi mãi như là một kỷ niệm tuyệt đẹp của đời em. Với em (dù chỉ là một tuần lễ yêu đương) thế cũng quá đủ cho một tình yêu mà em từng nuôi trong mộng mị.


Trong tương lai, dù vài tháng, vài năm hay hàng chục năm sau… bất cứ khi nào dù chỉ là giây phút thoáng qua mà thầy nhớ đến em. Nhớ đến cuộc tình nhỏ bé (nhưng với em nó lại là vĩ đại ) này, thầy hãy trở lại nơi đây, nơi mà em luôn luôn hiện diện, mong chờ thầy. Em sẽ đón thầy với tất cả tâm hồn của một người yêu đợi chờ một người yêu. Em sẽ không bao giờ rời xa căn nhà kỷ niệm, nơi đó em đã gặp thầy đầu tiên. Chính lần gặp gỡ đó em đã nghe được tiếng nói rất thật và lãng mạn của lòng em. Em đã tìm được tình yêu của đời mình, em đã yêu thầy, nhưng vì lý do nào đó nên em phải xa thầy!

Thôi, viết thế nào thì chúng ta cũng phải xa nhau. Em luôn luôn dành cho thầy những lời nguyện cầu tốt đẹp nhất.

(Yến)

PS-Chắc có lẽ thầy hiểu được lý do tại sao em phải viết lá thư này, bởi vì em không có đủ can đảm và nghị lực để đón nhận cảm xúc đau buồn lúc chia ly.

Image
(Hình minh họa: Aaron Burden/Unsplash)

Hắn trở lại Sài Gòn trong buổi chiều mưa rơi lất phất, nhưng đường phố vẫn náo nhiệt, đầy xe cộ và con người. Sài Gòn là thế, dù mưa hay nắng, dù buổi sáng tinh mơ hay đêm hôm khuya khoắt, vẫn có những người gò lưng kiếm sống bên cạnh người khác vô tư ăn uống, vui chơi. Chính cái xô bồ, đối chọi đó giúp người sống ở Saigon dễ dàng quên lãng hay không còn thời gian để nhớ những gì đã qua, dù là niềm vui hay nỗi buồn. Hắn cũng vậy không có gì là ngoại trừ cả! Trở lại Saigon hắn cũng phải phải đâm đầu vào công việc, bận rộn… Thời gian và việc làm không dành cho hắn khoảng trống để suy tư, mơ mộng. Chỉ vài ngày sau hắn gần như quên tất cả những chuyện vừa xảy ra ở cái thành phố nhỏ bé, miền sông nước Cửu Long mà hắn vừa từ đó trở về. Hắn trở lại với con người bình thản, không muốn lôi kéo vào những chuyện phiền phức mà hắn nghĩ rằng không cần thiết hay có thể tránh xa để khỏi bực mình.

Nhờ thành công trong cuộc hội trợ, mấy tháng sau công ty mở thêm chi nhánh ở Hà Nội. Là dân Hà Nội gốc cũng như có đủ năng lực nên hắn được đề cử làm giám đốc. Bố mẹ hắn thấy con trai đã có sự nghiệp chắc chắn nên nhờ một ông chú họ mai mối cho hắn với một phụ nữ xinh đẹp gốc Hà Nội. Ban đầu hắn có ý không bằng lòng với cái trò kiếm vợ cổ lỗ sĩ đó, nhưng với sự o ép của cha mẹ cũng như chính hắn cũng cảm thấy chán nản kiếp lông bông. Cuối cùng rồi đâu cũng vào đó, vợ hắn là nhân viên đại diện cho một công ty dược phẩm quốc tế tại Hà Nội, đầy đủ điều kiện đẹp, sang của một phụ nữ Hà thành. Rồi hai đứa con tiếp theo ra đời, cuộc sống cũng như con đường sự nghiệp của vợ chồng hắn được coi như khá lý tưởng trong xã hội về mọi mặt.

Hai mươi lăm năm lặng lẽ trôi qua, tuổi hắn đã vượt quá sáu mươi, mái tóc đã nhuộm bạc gần hết, hắn đã thực sự là một ông già đang hưu trí. Vợ của hắn trẻ hơn vài tuổi nhưng cũng sửa soạn ngơi nghỉ vào cuối năm. Đứa con trai sau khi tốt nghiệp đại học với khoảng 2 năm làm việc đã có vị trí khá tốt trong ngân hàng quốc doanh ngay trung tâm thủ đô. Đứa con gái cũng vừa hoàn tất chuyên ngành báo chí, đang bận rộn với công việc trong một tòa báo kinh tế, tài chánh.

Một buổi cuối tuần, khi thu dọn chồng sách báo, giấy tờ ngày xưa, ngẫu nhiên hắn thấy lá thư của Yến, người con gái miền Nam đã đi qua cuộc đời trai trẻ của hắn như một cơn gió mát mẻ thoáng qua với nhiều cảm xúc. Lá thư đã kéo hắn trở lại với dĩ vãng, dĩ vãng của một cuộc tình gần 30 năm về trước, đã cho hắn khá nhiều suy tư sau buổi chia tay. Nhưng vì bận rộn với công việc và nghĩ rằng đó cũng chỉ là một dạng tình cảm thoáng qua trong cuộc đời của một đứa con trai nên hắn đã cho vào quên lãng.

Hôm nay, ngẫu nhiên mà đọc lại lá thư, hoài nhớ lại vẻ chân tình, lời nói lãng mạn của cô gái đã một lần làm cho hắn phải lịm người vì cảm động. Tự nhiên hắn có cảm tưởng lời lẽ viết trong lá thư là một sự hứa hẹn chân thành, đầy quyết liệt của một người thực sự yêu thương hắn. Dù biết là thời gian đã quá lâu, 30 năm rồi! Nhưng hắn nghĩ nên có một sự đền bồi, dù sự đền bồi đó chỉ bằng cuộc viếng thăm, gặp lại như một sự tưởng nhớ đến một cố nhân.


Vài ngày sau, hắn đến thành phố miền Nam xa xôi đó. Gần 30 năm thành phố đổi khác rất nhiều, không còn là thành phố nhỏ bé, quê mùa ngày xưa nữa. Những con đường rộng rãi khang trang, những căn nhà cao tầng chen nhau trong các khu phố buôn bán sầm uất. Nhưng dù thay đổi thế nào cũng không làm cho hắn phải khó khăn khi muốn tìm lại căn nhà xưa.

Hắn thẫn thờ đứng trước nơi chốn xa xưa, vẫn là một quán cà phê, nhưng hoàn toàn không có vẻ nhếch nhác luộm thuộm của cái quán hơn 25 năm về trước. Phía trên cổng quán, treo một tấm bảng màu xanh lá mạ hình chữ nhật, viết tên quán với dạng chữ thảo “Cafe ĐỢI CHỜ”. Ý nghĩa của tên quán đã cho hắn một cảm giác là lạ, hình như nói lên cái gì đó chứa đựng sự lãng mạn, thuỷ chung bên trong. Chiếc vườn rộng và dài phía trước của quán dù có bị thu ngắn lại do con đường lộ được mở rộng, nhưng vẫn có đủ không gian kê mấy chiếc bàn thấp chân dưới gốc cây trong vườn, dành cho khách vào những buổi trời nắng ráo. Sau cái vườn là căn nhà 2 tầng mới xây theo kiểu biệt thự nhỏ với cái hiên nhà khá rộng. Tầng trệt dùng toàn vẹn cho việc kinh doanh. Khoảng một phần ba phía sau của tầng trệt dành cho chỗ để pha chế đồ ăn, thức uống cho khách. Ngay bên góc phải là quầy trả tiền, trên mặt quầy chỉ có một chiếc đèn nhỏ ánh sáng chiếu thẳng, quy tụ vào mặt bàn, còn lại không gian chung quanh rất mờ ảo.

Chính vì vậy dù hắn đứng bên ngoài, cố ý đưa mắt quan sát bên trong nhà nhưng cũng chỉ nhìn thấy mù mờ. Hình như ở phía sau, gần quầy thâu tiền có vài ba người đang chăm chỉ sửa soạn thức uống, đồ ăn cho khách. Trong đó có một thiếu phụ khá đứng tuổi, trang phục sang trọng ra vẻ là người chủ của quán.

Hắn có ý định tìm một bàn nào đó gần với chỗ quầy trả tiền, nhưng thấy khói thuốc lá mù mịt phía bên trong căn nhà nên đành tìm một chỗ ở ngoài hiên. Ngồi quay mặt ra bên ngoài, mắt nhìn bâng quơ theo dõi những hoạt cảnh sống động trên con đường trước cửa quán. Hắn thả lỏng tâm hồn để cảm xúc hòa quyện với những bài hát lãng mạn nhè nhẹ từ vài chiếc loa đính trên trần nhà vọng xuống:

Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng. Người ngỡ đã xa xăm, bỗng về quá thênh thang. Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều, như từng cơn gió lộng, xót một ngày đìu hiu.

Tình ngỡ chết trong nhau, nhưng tình vẫn rộn ràng. Người ngỡ đã quên lâu, nhưng người vẫn bâng khuâng… Khi cơn đau chưa dài, thì tình như chút nắng. Khi cơn đau lên đầy thì tình đã mênh mông.

Người ngỡ đã xa xưa, nhưng người bỗng lại về. Tình ngỡ sóng xa đưa, nhưng còn quá bao la. Ôi trái tim phiền muộn, đã vui lại một giờ như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa. (TCS)

Với chỗ ngồi khá xa, dưới ánh đèn mù mờ, tâm hồn hắn như lại bay bổng cùng âm thanh, lời hát của những bản nhạc tình yêu ướt át. Hắn làm sao có thể hình dung ra, phía bên trong, ngay nơi quầy trả tiền, người thiếu phụ sang trọng, đứng tuổi đã nhìn thấy hắn dưới ánh đèn, ngay từ lúc hắn ngơ ngẩn trước quán, rồi lúc hắn tỏ vẻ xúc động khi nhìn thấy tấm bảng tên quán. Cũng chẳng khác gì hắn, người thiếu phụ đó mở to đôi mắt, rướn cao người lên để xác nhận rõ ràng thị giác của mình. Bà ta ấp đôi bàn tay vào lồng ngực như muốn chấn áp sự hồi hộp khi nhìn thấy sự xuất hiện bất thình lình của hắn. Sau khoảnh khắc xúc động đó, hình như bà ta đã lấy lại được sự bình thản, đưa tay vẫy một cô gái trong nhóm người phục vụ của quán đến gần. Ghé sát vào tai cô gái, chỉ tay về hướng hắn đang ngồi, người phụ nữ với vẻ quan trọng và kín đáo nói khá lâu với cô gái điều gì đó. Ngay vài câu nói đầu tiên của người thiếu phụ đã làm cô gái sững sờ, ngước mắt nhìn bà ta. Nhưng sau đó cô gái luôn luôn gật đầu hay im lặng ra vẻ thông hiểu và đồng ý với những lời chỉ dẫn của bà ta.


Ngoài hiên căn nhà, hắn vẫn dìm mình vào suy tư, tưởng nhớ đến một lần thoáng qua đẹp đẽ trong đời hắn, hắn hoàn toàn không biết gì đến chung quanh. Cho đến một lúc, cô gái với chiếc khay trên tay, trên đó một tách cà phê đen đậm, tỏa khói nghi ngút cùng với một đĩa nhỏ đựng vài chiếc bánh ngọt. Cô gái tiến đến chỗ hắn ngồi, rất chậm chạp, yên lặng cô ta đặt tách cà phê và đĩa bánh ngọt lên trên bàn, gần ngay tầm tay của hắn rồi nói rất nhỏ như chỉ đủ cho hắn nghe:

-Thầy Minh, ly cà phê đen đậm không đường và đĩa bánh ngọt dành riêng cho thầy đây!

Hành động của cô gái đã kéo hắn ra khỏi cơn mê. Với vẻ ngạc nhiên tột cùng, hắn chưa kịp phản ứng thì cô gái nói tiếp:

-Chắc thầy còn nhớ dì của con. Dì Yến, người đã một lần yêu thương thầy trong mấy chục năm về trước….

Quá khích động, không để cho cô gái nói hết lời, hắn cắt ngang:

-Yến dạo này ra sao? Hiện nay cô ta ở đâu ? Chú đến đây cũng chỉ vì mong muốn được gặp lại Yến…..

Hình như nhìn tận mắt xúc cảm tột của hắn thể hiện trên khuôn mặt cùng với những câu hỏi dồn dập của hắn đã làm cho cô gái xúc động. Cô ta đờ đẫn nhìn hắn, với dáng điệu rất thân thiết. Hơi run run cô ta đưa tay nắm nhẹ lấy vai hắn với âm thanh gãy khúc, ngập ngừng cô gái nói với hắn:

-Từ ngày xa thầy, dì Yến của con đã nghỉ việc làm ở công ty để trông coi quán cà phê kỷ niệm này. Với tên quán là “Đợi Chờ” ý nghĩa là dì con luôn luôn tưởng nhớ đến thầy, mong ước thầy cũng nhớ đến dì mà đến thăm. Nhưng dì con đã chờ mong trong vô vọng, mấy mươi năm qua rồi, không một lần thầy đến thăm đã làm cho dì Yến thất vọng, buồn đau. Vì không thể chờ đợi thêm được nữa, lại thêm sức khoẻ không tốt nên dì đã chuyển lại quán này cho mẹ con. Với điều kiện là mẹ con không thay đổi tên quán và phải hứa là sẽ thay thế dì chờ đợi thầy như dì đã hứa với thầy xa xưa, cũng không được nói với thầy biết về nơi ở, tình trạng sống của dì.

Cô gái đã kể cho hắn nghe nhiều hơn về người dì đã chọn lựa sự cô đơn, luôn luôn nghĩ và sống với kỷ niệm của vài ngày hoan lạc sống bên hắn. Mấy chục năm qua một lòng chờ đợi hắn đến thăm, dù chỉ đến thăm thoáng qua một lần. Hắn cũng kể lể tất cả cho cô gái nghe về những thay đổi trong đời hắn trong mấy chục năm vừa qua. Cuối cùng với giọng nói ân hận hắn nói:

-Cuộc sống kỹ nghệ, những va chạm, ganh đua trong xã hội đã làm bản chất của chú bị che khuất! Chú đã mất đi cái tinh tế nhận thức trong tình cảm, để rồi không phân biệt được đâu là chân thật, đâu là giả dối! Chính với sai lầm đó chú đã không nhìn thấy giá trị đích thực của tình yêu sâu nặng mà dì của cháu đã dành cho chú. Nhưng tất cả đã muộn màng, đã lặng im đi vào quá khứ rồi! Chú biết làm gì đây khi nhìn thấy lỗi lầm của mình thì đã quá muộn.


Cô gái im lặng ngồi nghe hắn giải bầy, thỉnh thoảng cô ta quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ tự nhiên đưa tay vuốt mái tóc không gọn ghẽ, loà xoà trên trán. Nhưng thật ra cô ta chỉ muốn kín đáo xoá chùi đi những giọt lệ lăn dài trên gò má của mình.

Sau một lúc kể lể cho nhau nghe, tâm sự như đã được trải bầy, hắn và cả cô gái đã tìm được ít nhiều bình thản. Không gian im lặng lại trở về với hắn và cô gái. Hắn lại dìm mình vào suy nghĩ, cô gái hình như không muốn phá vỡ tư tưởng của hắn nên im lặng đi vào phía quầy trả tiền. Nơi đó người thiếu phụ đứng tuổi vẫn kín đáo dõi theo cuộc nói chuyện giữa cô gái và hắn. Dù không nghe được nhưng bà ta cũng đoán được khá nhiều nội dung cuộc trò chuyện giữa cô gái và hắn, nhờ vậy chỉ vài câu tóm lược của cô gái đã làm bà ta hiểu rất rõ vấn đề. Nước mắt dàn dụa trên hai gò má, cô gái ôm lấy người thiếu phụ với vẻ thiết tha:

-Mẹ, tại sao mẹ không ra gặp ba? Mấy chục năm rồi con và mẹ đã sống để mong đợi có ngày hôm nay, tại sao mẹ lại không cho con gặp gỡ ba. Không phải nhiều lần mẹ từng nói với con, sẽ có một lần nào đó ba sẽ tìm đến gặp mẹ con ta và chúng ta sẽ trùng phùng trong hạnh phúc. Con sẽ không bao giờ là đứa con không có cha nữa.

Bà mẹ run lên vì xúc động, khi nghe cô con gái nói. Choàng tay, ôm gì lấy con gái, trong nước mắt bà ta nói:

-Con ơi, hãy thương, hiểu cho mẹ và cũng tha thứ cho mẹ hơn! Chẳng có người mẹ nào lại không muốn con mình gặp được cha. Chẳng có một người đàn bà nào mấy mươi năm sống trong cô đơn, đợi chờ, trông mong người mình yêu thương, nhưng khi có dịp, lại tìm cách trốn lánh cuộc trùng phùng ! Nhưng con ơi, con hãy nhìn vào thực tế, hãy đoán ra những gì sẽ xảy ra cho con, cho mẹ và cả cho ba của con nữa! Hạnh phúc gia đình của ba con hiện nay, có nên vì mẹ con ta mà vỡ bể hay không ? Rồi với những lo lắng, trách nhiệm và lộn xộn trong cuộc sống ở tuổi già như ba con hiện nay không phải là điều nên có. Sự yên bình trong cuộc sống của mẹ con chúng ta hiện nay cũng không nên vì vội vàng, thiếu suy nghĩ để phải rơi vào xáo trộn.

Âu yếm vuốt tóc cô con gái bà mẹ nói tiếp:

-Hãy chờ đợi để không gây ra những phiền não con ạ. Hãy biết nhận cái gì và hãy biết vị trí nào để đạt được cái tốt nhất cho tất cả. Kể cả cho hạnh phúc gia đình của ba con nữa. Theo mẹ nghĩ dù hôm nay ba con không biết gì về con, về mẹ. Nhưng với người có suy nghĩ và rất nhạy cảm như ba con, chắc chắn ba con sẽ nhận biết được sự thật ở một mức nào đó. Với cái mức giới hạn đó đủ để cho mọi người hạnh phúc rồi con ạ , vấn đề chỉ sớm hay muộn mà thôi ba con sẽ hiểu rõ tất cả mà thôi.

Nâng mặt cô con gái lên, bà mẹ đẩy nhẹ người con và nói :

-Con hãy ra gần gũi với ba con đi! Mẹ nghĩ rằng con sẽ nhận thấy những lời nói của mẹ là đúng.

Miệng bà mẹ mỉm cười, nụ cười rạng rỡ như đem bà ta trở về với phút giây hạnh phúc ngày xưa. Bà ta nói với con gái trước khi cô ta rời vòng tay của bà ta:


-Mẹ biết chắc chắn như vậy chỉ vì mẹ đã yêu và cũng rất hiểu trái tim của ba con.

Cô gái im lặng đến gần hắn, nhẹ nhàng kéo chiếc ghế ngồi xuống sát vào hắn, thân thiện đưa tay nắm lấy cánh tay của hắn rồi ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn khuôn mặt hơi nhăn nheo, mái tóc hoa râm của hắn. Cặp mắt hắn rất buồn, nhìn bâng quơ không chủ đích hướng ra phía bên ngoài quán… Những cái đó cho cô ta biết rằng đó là hình ảnh một ông già đang khởi đầu mệt mỏi với sinh nhai và muốn ngơi nghỉ.

Cô gái tự nhiên cảm thấy thương yêu người cha mà bao nhiêu năm cô ta chỉ được nhìn thấy trong tưởng tượng qua những lời tâm sự, kể lể của bà mẹ. Với cảm xúc thương yêu tột cùng đó, cô gái run lên và phát ra tiếng khóc. Hành động thân tình và tiếng khóc của cô ta đã kéo hắn ra khỏi suy tư, quay mặt lại nhìn cô gái với vẻ ngạc nhiên. Có chút bàng hoàng hắn hỏi:

-Tại sao cháu khóc? Có phải những tâm sự không vui của chú đã làm cháu cảm động quá mà đau lòng không? Thôi, cho chú xin lỗi đã vô tình làm cho cháu buồn ….

Cô gái vội vàng ngắt lời hắn:

-Không, hoàn toàn không phải thế! Cháu khóc chỉ vì cháu thương dì Yến của cháu và cả chú nữa. Cháu chợt có một ước mơ, ngày nào đó chú lại xuống nơi đây, đúng lúc dì Yến cũng đến đây và hai người lại gặp nhau. Cháu lại được hàng ngày pha cà phê đen đậm đặc cho chú uống! Cháu lại được ngồi bên chú để nghe chú nói chuyện…

Cô gái nói một thôi, toàn là những ước mơ, những hình ảnh hạnh phúc mà hắn cũng đang vẽ ra trong con tim và tưởng tượng của hắn. Cuối cùng hắn đưa tay ôm nhẹ lấy vai cô gái, với lời nói chân tình, hắn nói:

-Chú hứa chắc chắn với cháu, chú sẽ xuống đây nhiều hơn thăm cháu và cũng mong có được dịp gặp lại dì Yến của cháu. Chú sẽ coi cháu thân thiết như một đứa con của chú. Chú rất sung sướng được đón chờ cháu đến thăm Hà nội. Chắc chắn cháu sẽ là người bạn rất thân thiết với hai đứa con của chú và của cả gia đình chú.

Nói xong hắn chuyển mắt nhìn vào phía bên trong quán, không còn một người khách. Đưa tay lên xem đồng hồ hắn mới biết trời đã về khuya. Có tí chút ngượng ngùng vì biết mình là người khách cuối cùng của quán. Hắn nói vài câu xin lỗi với cô gái rồi đứng dậy chuẩn bị ra khỏi quán, cô gái im lặng cũng đứng dậy nhìn vẻ chậm chạp có chút mệt mỏi của hắn, cô nói nhẹ:


-Chú đừng quên lời hứa, nếu có dịp chú hãy xuống đây! Cháu và dì Yến luôn luôn mong chờ để gặp lại chú.

-Chắc chắn chú sẽ không sai lời hứa, chú không lầm lỗi nữa. Người ta chỉ lấy cái đúng để sửa cái sai, chẳng bao giờ hai cái sai thành một cái đúng cả!

Nói xong hắn chậm rãi bước ra khỏi quán. Cô gái thẫn thờ đứng nhìn theo dáng dấp lù khù, đôi chân như dò dẫm khi chuyển động của hắn cho đến khi hắn biến mất sau khúc quanh bên ngoài chiếc cổng quán. Cũng lúc đó cô ta nghe thấy tiếng thở dài ngay sát sau lưng mình. Chẳng cần ngoái nhìn lại cô ta cũng biết đó là mẹ của mình. Bà cũng đang buồn bã dõi theo bóng dáng của người đàn ông mà bà đã bao năm thương nhớ, chờ mong. Cô gái ngước mắt nhìn mẹ, rồi nói nhẹ:

-Mẹ, con cảm thấy thấy thương ba quá ! Chẳng biết ba có xuống đây gặp lại mẹ con mình nữa hay không?

-Con đừng lo, ba của con không thất hứa với con đâu! Mẹ đoan chắc với con như vậy. Hơn nữa ai có thể cấm đoán con lên Hà nội gặp ba con, dù gặp nhau trong tư thế đứa con nuôi hay đứa cháu gái?

Còn hắn, tương lai không biết ra sao, hắn có sáng suốt để nhìn thấy sự thật cô gái mà hắn tâm sự vừa qua chính là đứa con gái của hắn hay không? Nhưng hiện tại, chắc hắn hoàn toàn mù tịt về thân phận của người thiếu phụ đứng dưới ánh đèn mờ ảo sau quầy tính tiền chính là mẹ của cô gái, đó là người con gái tên Yến đã đến với hắn 30 năm về trước. Người con gái yêu hắn đã cho hắn tất cả, chỉ mong được một vài ngày gần gũi hắn, người đàn bà đó chính là người thiếu phụ đứng dưới ánh đèn.

Thêm một điều khác nữa, hắn chẳng thế nào hình dung ra được, đó là cô gái có cái tên “Phạm Trần Ái Minh” Với cái tên này, dù hắn có là kẻ ngu ngơ cũng đoán biết được sự thật! Phạm là họ mẹ, Trần là họ của hắn, còn Ái Minh ý nghĩa của yêu thương dành cho hắn.

(Viết lại Zurich, Mai 2024 )

User avatar
nangchieu
Posts: 2079
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

Image

LÁ RỤNG VỀ CỘI
Đây là một câu chuyện tình được kể lại trong bối cảnh Qui Nhơn của những ngày cuối cùng tháng 3/75. Vì kể lại dưới hình thức là một truyện ngắn nên có chút ít thêm thắt vào cho có hậu. Trong hình là đỉnh đèo An Khê trước nơi chứng tích mối tình của hai nhân vật trong câu chuyện

Quan Dương

Apartment nơi chàng ở nằm trên tầng hai, phía sau phòng ăn là một balcony nhỏ, ở đây có một chiếc ghế nhựa, chàng thường ngồi lên đó, vừa hút thuốc vừa nhìn thiên hạ phía dưới. Hoặc mỗi khi có điều gì phiền não chàng cũng thường nhìn trời đất quạnh hiu thổi những ngụm khói cay xè đắng nghét vào không gian để trầm tư mặc tưởng. Phía dưới balcony là một khoảng sân rộng dùng làm parking. Mỗi chiều sau giờ tan sở những chiếc xe đủ loại, đủ màu sắc, cũ mới lẫn lộn từ các nơi về đậu san sát bên nhau. Để giải buồn chàng thường phân nhóm xe theo màu sắc và ví khu parking này như là nước Mỹ, còn tất cả màu sắc kia đại diện cho từng màu da của từng dân tộc qui tụ về đây để làm nên hợp chủng quốc. Chỉ một parking nhỏ thu hẹp này thôi, cũng đủ thấy giàu nghèo khó mà lẫn lộn.

Cái tật ghiền thuốc chàng không bỏ được, cho nên chiều nào chàng cũng phải ra balcony để giải quyết cơn ghiền, thét đâm thành thói quen. Và rồi không biết tự lúc nào, chàng phát giác ra chủ nhân của chiếc Toyota Cressida đời 89 màu bạc cứ mỗi ngày vào khoảng 4 giờ chiều về đậu phía dưới parking là một cô gái Việt Nam. Mặc dù chàng có thể quan sát từ phía sau lưng, nhưng chàng tự cả quyết như thế, bởi vóc dáng mảnh khảnh của cô gái rất dễ phân biệt trong đám Mỹ đủ màu, huống hồ cô gái lại có một suối tóc đen huyền thả ngang thắt lưng. Mái tóc đặc biệt này chỉ có ở những cô gái Việt Nam mà thôi. Mái tóc đó cộng với vóc dáng hài hòa đã gợi cho chàng nhớ lại vóc dáng của ai kia, mỗi chiều trong quá khứ đậm nét trong lòng. Chàng đâm ra tư lự muộn phiền. Ở đâu đó trên quê nhà dịu vợi trong đời, một hình bóng đã đi qua, bi thương và nhức nhối không thể phôi pha. Điếu thuốc trên môi chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi để cháy vừa đủ cho cô gái bước xuống xe, khóa cửa và bước vào khu Apartment trước mặt. Cô gái không bao giờ ngước nhìn lên để biết rằng mình đang được theo dõi, thành thử khuôn mặt đẹp xấu cỡ nào chàng rất mơ hồ không xác định.

Cứ thế mỗi chiều chàng ra balcony đứng hút thuốc để đợi cô gái về vào giờ nhất định và đậu xe ngay nơi parking đó. Cho đến một hôm, cô gái chợt tình cờ nhìn lên bắt gặp chàng đăm đăm nhìn mình. Trong khi chàng còn đang bối rối vì bị bắt gặp quả tang nhìn lén, thì cô gái nhoẻn miệng cười gật đầu:

"Chào chú”

Chàng ấp úng:

"Chào cô bé. Cô bé đi làm về?"

"Dạ"

Lần hội ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi. Nhưng không hiểu sao khi thấy được rõ ràng khuôn mặt cô gái chàng bỗng giật mình. Cảm giác cho chàng biết là khuôn mặt đó rất ư quen thuộc, chàng đã từng gặp ở đâu nhiều lần trong cuộc đời.

Khuôn mặt đó đã làm tôi choáng váng. Những lúc đêm về, ngước nhìn lên bầu trời hồn lang thang một mình trong không gian bao la giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh, bỗng nhiên tôi quá cô đơn. Một quá khứ tuổi thơ ở nơi nào xa thẳm trong tận đáy tâm tư bỗng hiện về tê buốt hãi hùng đến quá đỗi chạnh lòng. Đành cuả tôi giờ này đang làm gì ở thế giới miên viễn bên kia. Có thơ thẩn một mình nhìn lên bầu trời giống như tôi lúc này hay không? Bất giác tôi tự trả lời: nơi ấy nàng đơn độc quá không còn tôi bên cạnh để cùng tưởng nhớ về một chuỗi tháng năm qua không thể nào quên.

Đành ngồi sau lưng tôi, chiếc xe Honda Dam chỉ cần 5 phút chạy ngoằn ngoèo là đã ra khỏi thị trấn, nàng hỏi:

"Bây giờ mình đi đâu đây Tấn?"

"Đi đến tận cùng trời cuối đất"

Cùng trời cuối đất của tôi là chạy lòng vòng trên những con đường đất nhỏ. Nàng rất thích những con đường này, bởi vì dưới những lũy tre im vắng mà những tàng lá trên cao hai bên giao nhau chỉ để rớt xuống mặt đường những giọt nắng màu hanh vàng. Xe chạy qua, những giọt nắng bám lên người và nàng thích thú đưa tay ra hứng. Những lúc đó khuôn mặt nàng đầy rạng rỡ thanh cao. Còn tôi trần tục thì thích những con đường làng bởi vì nó đầy ổ gà lởm chởm, có lý do để nàng ôm chặt lấy tôi để khỏi bị rớt xuống đường. Thỉnh thoảng, một luồng gió nhẹ cuốn theo mùi thơm cuả cỏ, thổi làn tóc dài quyện lấy vai tôi. Một vài sợi tóc nghịch ngợm vuốt ve vào mặt làm tôi ngây ngây ngất ngất. Nàng cũng biết rõ là tôi ma giáo cố ý không tránh ổ gà, nhưng người thanh cao lại đồng loã với tên phàm tục để cho kỷ niệm tràn đầy tuổi đầu đời cuả hai kẻ yêu nhau.

Lần về phép đầu tiên từ quân trường Đồng Đế, năm đó thị trấn Ninh Hoà bị ảnh hưởng cuả một cơn bão không biết từ đâu đưa tới. Nước từ thượng nguồn KrongBut Ban mê Thuột đổ về con sông Dinh nhỏ xíu nằm giữa thị trấn. Con sông lưu lượng không đủ chưá nên nước tràn ngập các lối đi. Nhà nàng nằm trên bờ sông không hiểu sao vẫn còn đứng vững trước cơn phong ba bão táp. Mưa đã tạnh, chỉ còn tiếng nước bì bõm theo đôi giày nhà binh nặng trĩu đối vơí anh chàng sinh viên sĩ quan non trẻ như tôi. Nhà vắng, không một bóng người, chỉ có nàng đang nằm ngủ trên chiếc giường tre ọp ẹp. Nàng nằm ngủ tỉnh bơ xem như chuyện gió mưa là chuyện cuả trời đất còn chuyện ngủ là chuyện cuả riêng nàng, hai chuyện đó không dính nhập vào nhau. Về phép không báo trước, tôi định dành cho nàng một bất ngờ. Ai dè ngược lại nàng dành cho tôi một bất ngờ lớn hơn. Nàng nằm đó, nét con gái với những đường cong chưa phát triển hết cuả tuổi dậy thì đã làm cho tim tôi bỗng nghẹn ngào thảng thốt. Trong giấc ngủ nàng như hơi mỉm cười hơi thở nhẹ làm cặp vú bằng cái núm cau nhỏ xíu quên mặc áo ngực nhấp nhô như mời gọi. Tôi chỉ biết quì bên cạnh giường nàng giữa dòng nước để ngắm nhìn im lặng. Trong tôi là một nỗi đam mê thánh thiện, tiềm thức đã in sâu khuôn mặt nàng và làn tóc rối. Hệ thống quay phim trong đầu tôi làm việc, tôi quay đi quay lại khuôn mặt thánh thiện đầy man dại kia trong giấc ngủ và lưu giữ nó vào từng sợi máu trong hệ thống thần kinh não tủy. Mỗi khi nhớ đến tôi chỉ cần nhắm mắt, khuôn mặt nàng như một khúc phim quay chậm lần lượt hiện ra cùng với niềm thương yêu theo tôi cho đến cuối đời.

Khuôn mặt đó rất thân quen, chàng làm sao quên được. Chàng cố moi óc để nhớ, để suy luận cô gái này mình đã từng gặp ở đâu, nhưng không thể nào nhớ nổi. Cô gái chỉ vào khoảng 20 trở lại, còn chàng thì đã ngoài 40, có một khoảng thời gian quá cách biệt không thể tạo ra trường hợp gặp nhau. Nhưng không hiểu sao từ lúc tình cờ thấy được khuôn mặt cô gái chàng đâm ra vương vấn mơ hồ. Trước đây mỗi lúc ghiền thuốc chàng phải ra balcony để hút vì sợ khói làm ngộp căn phòng. Giờ thì chàng cố tạo ra cơ hội, chiều nào cũng vậy vào giờ nhất định ra ngoài balcony để có lý do nhìn vớ vẩn xuống bãi đậu xe, chờ đợi được nhìn cô gái đi làm về. Còn cô gái từ lúc biết có người từ trên cao nhìn xuống, không còn tắt máy lẳng lặng vào nhà như mọi khi. Sau khi đóng cửa xe lại, thế nào cũng ngước lên cười với chàng một tí. Chàng chỉ cần có thế, chỉ cần có bấy nhiêu đó mà thôi, hồn mình bỗng nhiên dịu vợi. Hai người đã mặc nhiên quen biết nhau: người chờ và kẻ được chờ.

Cô gái nhỏ gọi chàng bằng chú, chàng gọi cô gái bằng cô bé để thay thế tên gọi. Cả ngày chàng chỉ cần hai tiếng chào chú êm dịu phát ra từ cái miệng hình trái tim nhỏ nhắn kia. Đến nỗi đôi lúc chàng tự giật mình, không biết mình chờ đợi cô gái đến khát khao để nghe hai tiếng chào dịu dàng hay là để tìm lại một khuôn mặt, một bóng hình đã xa trong dĩ vãng? Chỉ biết hai ngày cuối tuần cô gái không đi đâu, vắng cô gái theo thói quen, chàng đâm ra buồn thơ thẩn. Chẳng lẽ nào cô gái lại chiếm lấy tâm hồn già nua đầy cằn cỗi cuả mình? Chẳng lẽ chàng đã yêu cô gái này như một cơ duyên tiền định? Một trái tim héo hắt muộn phiền đã ngủ quên một thời gian dài nay bỗng nhiên thức dậy?

Ngày ra trường tôi có mười ngày phép để chuẩn bị về đơn vị mới. Mười ngày đó tôi và Đành chính thức yêu nhau. Mười ngày khoảng thời gian không đủ dài để tôi dành tất cả cho nàng. Nhưng biết sao hơn, chiến tranh đang tàn phá quê hương. Ngoài Đành ra tôi còn có bổn phận cầm súng để góp phần bảo vệ nửa mảnh đất hình chữ S này đang bị Cộng Sản miền Bắc xâm lăng. Ngày tôi ra đơn vị, Đành đứng bên cạnh trong lúc chờ đón xe xuôi về miền Trung, hai con mắt nàng đỏ hoe. Tôi cố mỉm cười:

"Anh không bao giờ dám nghĩ là sẽ có một ngày mình có một cuộc tiễn đưa mà anh thì không thể hưá ngày trở lại."

"Em cũng thế. Chỉ sợ chuỗi thời gian sắp tới em không biết phải làm gì để khoả lấp được nỗi nhớ anh?"

Tôi đùa::

"Thì em "cứ đợi anh về " như trong tuồng cải lương là xong có gì đâu."

"Nhưng lỡ em không đợi được thì sao?"

"Em cứ việc lấy chồng là yên chuyện."

"Em không đuà với anh nữa"

Rồi nàng tuyên bố:

"Em đợi không được em sẽ tìm đến nơi mà anh sẽ đến."

Tưởng nàng nói cho suông miệng. Không ngờ tháng 1/75 đơn vị tôi đang trấn giữ đèo An Khê, Bình Định với nhiệm vụ ngăn chận sư đoàn 320 cuả Cộng Sản Bắc Việt từ mật khu An Trường cắt quốc lộ 19 nối liền PleiKu - Qui Nhơn. Giữa lúc hai bên đang ghìm nhau để thăm dò ý đồ chiến thuật cuả mỗi bên thì Đành từ Ninh Hoà ra thăm tôi. Nhìn nàng bơ phờ hốc hác lặn lội đường xa, sự xúc động khiến tôi nghẹn ngào. Nàng ở với tôi một tuần và cho tôi tất cả, kể cả tuổi thanh xuân mà hai đưá tôi cùng giữ gìn. Biết sao hơn, cả hai chúng tôi cùng ích kỷ trong tình yêu mà chiến tranh thì khốc liệt sẳn sàng chia cắt bất cứ lúc nào. Những buổi sáng, sau một đêm biết mình còn sống, tôi và nàng ngồi trên đỉnh đèo nhìn xuống đường 19 sâu thẳm chạy ngoằn ngoèo như một con rắn nhỏ. Buổi sáng ở đó, sương mù bao phủ đầy cánh rừng phiá dưới giống như mây bay trong truyện cổ tích. Tôi và nàng như là đang ở trên mây. Nếu không có chiếc áo jacket nhà binh quấn chung quanh người nàng cho đỡ lạnh và trên người tôi không trĩu nặng hai cấp số đạn trong tư thế sẵn sàng tác chiến thì tôi cứ ngỡ tôi và nàng đang ở một thế giới khác, thật bình yên, không chết chóc, không có chiến tranh và thù hận. Khi mặt trời vưà ló dạng ở phiá đông, chim rừng đã thi nhau ca hát. Tôi choàng tay qua vai Đành, nàng nép mình trong lòng tôi bé nhỏ. Tự lúc đó tôi biết rằng hồn tôi vĩnh viễn không thể thiếu nàng.

Áp lực chiến sự càng lúc càng nặng. Trước tình hình dầu sôi lửa bỏng, đơn vị tôi có thể di quân bất chợt. Tôi năn nỉ hết sức nàng mới chịu về. Chiếc xe Dodge cuả đại đội đưa nàng trở lại thị trấn Bình Khê. Khi chiếc xe nhà binh cũ kỹ lăn bánh, nàng nắm chặt lấy tay tôi, đôi mắt mở to ngơ ngác. Nàng cố thu hết hình ảnh cuả tôi lần cuối cùng trước khi bịn rịn thả tay tôi ra. Tôi ráng nhoẻn miệng cười méo xẹo để nàng yên tâm. Đôi mắt đó đã làm tôi choáng váng, không khóc nhưng sao long lanh như ngấn lệ. Nhìn vào đôi mắt nàng tôi thấy mình sao quá đỗi hiu hắt cô đơn.

Chàng chạm mặt cô gái ở lối vào Apartment một cách cố ý:

"Chào cô bé"

Cô gái đang suy nghĩ điều gì, giật mình mở to đôi mắt hốt hoảng:

"Ồ my god, chào chú."

Thoáng một cái, chàng thấy mình biến thành hai người đứng trong lòng đen đôi mắt cô gái. Trong khoảng thời gian một phần ngàn tích tắc, chàng chợt rùng mình. Chàng tình cờ bước vào đôi mắt đó, mà cả chính chàng và cô gái không hề hay biết. Cô gái hỏi chàng:

"Chú đi đâu thế?"

Chàng thật thà:

"Chú đâu có đi đâu. Chú cố tình đụng đầu với cô bé để làm quen. Bởi vì hình như chú đã từng gặp cô bé ở một nơi nào mà chú không nhớ nỗi “

Sợ cô gái hiểu lầm với lối tán gái cũ rích, xưa như trái đất, chàng thêm:

"Chú nói thật đó"

Cô gái cười:

"Cháu đâu có nói chú dối đâu. Hay là mời chú ghé lại phòng cháu chơi."

"Cô bé không ngại à?"

"Ngại gì. Cháu sống một mình, quen được chú, thêm một đồng hương nơi xa lạ này cũng là một điều hay."

Phòng của cô gái ngăn nắp, sạch sẽ không giống như cái ổ chuột của chàng. Chàng hỏi:

"Cô bé ở một mình?"

"Không, với một người bạn gái nữa"

"Thế cô bạn đâu rồi?"

"Nó nghỉ vacation về Florida thăm gia đình rồi"

"Còn gia đình cô bé?"

"Đây này..."

Cô gái chỉ chung quanh căn phòng

"Không, ý chú muốn hỏi về ba mẹ"

Mặt cô gái thoáng buồn:

"Cháu không có ba mẹ"

Sợ vô tình khơi lại một nỗi niềm thầm kín nào đó cuả cô gái, chàng lúng túng:

"Ồ... cho chú xin lỗi, chú không cố ý."

" Không sao đâu, cháu quen rồi. Còn chú?"

Chàng đùa:

"Chú cũng vậy, chú không có ba mẹ. Chú ở một mình"

"Ý cháu muốn hỏi vợ con chú kìa”

"Chú mồ côi vợ từ lâu lắm rồi"

"Thế ai bảo lãnh chú qua đây?"

" Không ai bảo lãnh hết. Chú đi theo chương trình HO. Khi phỏng vấn chú ghi danh theo kiểu con bà phước. Chính phủ Mỹ đưa chú qua đây dưới sự bảo trợ cuả hội thiện nguyện địa phương."

Chàng sợ cô gái không hiểu con bà phước là gì, chàng giải thích:

"Con bà phước nghĩa là tứ cố vô thân đó cô bé"

Cô gái nhìn chàng thương hại:

"Như vậy, đứng về một phương diện nào đó, hoàn cảnh của hai chú cháu mình giống nhau."

Kết quả những ngày ở với tôi trên đỉnh đèo An Khê, Đành mang thai. Đầu tháng 3/75 Tiểu đoàn trưởng cấp cho tôi ba ngày phép đặc biệt để về Ninh Hoà cưới vợ. Thị trấn hiền lành này cuả những ngày tháng 3/75 sống trong tình trạng lo âu hốt hoảng. Ban Mê Thuột mất, phòng tuyến đơn vị Dù trấn giữ Khánh Dương tan vỡ. Cộng Sản Bắc Việt đang theo quốc lộ 21 tiến quân về Nha Trang. Tất cả dân Ninh Hoà gởi gấm niềm tin vào sự chiến đấu cuả các trung tâm huấn luyện Đặc khu Dục Mỹ. Tôi cưới vợ trong cơn hấp hối cuả chính quê hương mình. Trước ngày trở lại đơn vị, tôi ngồi với nàng suốt đêm bên bờ sông Dinh để chờ trời sáng. Dòng nước đen xanh dưới những chòm sao lấp lánh, thấp thoáng một vài đám lục bình trôi dật dờ không biết giạt về đâu giữa cơn bão nổ hưá hẹn đổ ập xuống vùng đất hiền lành. Nàng hỏi tôi:

"Khi nào chiến tranh kết thúc hả Tấn?"

"Anh làm sao biết được. Anh chỉ là người lính chiến đấu theo lệnh. Nhưng anh nghĩ Ninh Hoà là ngã ba giao liên giữa hai quốc lộ 1 và 21. Đó là hai quốc lộ chính huyết mạch để phòng thủ Nha Trang, bất cứ giá naò cũng phải giữ không thể mất. Mà thôi, em đừng thèm nói chuyện chiến tranh nữa, nói chuyện mình đi. Anh chỉ còn ở với em vài tiếng đồng hồ thôi."

Giống như trăm ngàn đàn bà con gái trên cõi đời này, nàng ngả đầu trên vai tôi khi nói về tương lai:

"Anh thích con mình là con trai hay con gái?"

"Con gái giống hệt em"

"Em thích con trai. Con gái cứ phải hồi hộp đợi chờ cả đời, khổ lắm. Con trai bay nhẩy đây đó khỏi phải bận tâm. À này, con mình ra đời anh đặt tên nó là gì"

"Em chọn đi"

"Không, cho anh chọn trước"

Tôi đâu nghĩ một lúc nào đó mình sẽ có con, nên hơi mắc cỡ. Nhưng thấy nàng tha thiết đến nghiêm trang, tôi đề nghị:

"Hay là em chọn tên con trai, anh chọn tên con gái"

"Cũng được"

Như đã có chủ ý từ trước, nàng dứt khoát:

"Nếu là con trai em sẽ đặt tên cho nó là... Đăng Quang. Đến phiên anh"

"Anh à... Nếu con gái anh đặt tên cho nó..."

Bây giờ đang là cuối xuân, nhưng quê tôi đã là chớm hạ. Bởi cây sầu đông ven sông, những cánh hoa li ti bắt đầu rụng để kết nụ thành trái. Tôi nhìn những cánh hoa nhỏ xíu trắng loang loáng trên mặt nước, không khí thật yên lành như thể chiến tranh đã dừng chân ở một nơi nào xa lơ xa lắc.

"Anh sẽ đặt tên cho con là Uyên Hạ"

Tôi giải thích thêm:

"Uyên là đôi uyên ương giống hai đưá mình. Hạ là muà Hạ, cái muà con mình được tạo nên hình dáng. Em đồng ý không?"

"Nghe hơi caỉ lương, nhưng em đồng ý"

Tôi đưa ngón tay trỏ ra móc ngoéo với nàng. Đành chỉ vào đám lục bình trên sông:

"Cuối cùng nó sẽ về đâu anh nhỉ?"

"Ra cưả biển. Tất cả đều ra cưả biển"

Nàng thì thầm:

"Biển, đó là nơi đến cuối cùng. Sóng lặng yên lành hay bão tố. Trong chiến tranh kiếp sống cuả một con người đâu khác gì đám lục bình trôi bềnh bồng trên mặt nước."

Sáng hôm sau tôi trở lại đơn vị trên chiếc xe đò trống trơn. Bù lại, ngược chiều là những chiếc xe chật ních người. Dân chúng miền Trung bắt đầu di tản về các tỉnh phiá Nam. Trên báo chí hình ảnh cuộc tháo chạy khỏi Pleiku theo liên tỉnh lộ 7 cuả quân đội đã gây sự bất ổn cho mọi người. Pleiku bỏ trống, đèo An Khê trở thành tiền đồn chính để giữ vùng duyên hải trên quốc lộ 19. Việt Cộng pháo kích như mưa vào thị trấn Bình Khê trước khi ào ạt xua quân chiếm lấy. Đơn vị tôi bị bao vây trở thành ốc đaỏ không ai ngó ngàng đến. Chúng tôi không còn cấp chỉ huy và hậu cứ, đành phải tan hàng. Chúng tôi chia nhau từng toán nhỏ xé rừng thoát thân số mạng giao cho hên xui may rủi. Khi về đến Qui Nhơn, không thể nào diễn tả nỗi tuyệt vọng cuả tôi khi thị xã không bóng người. Tiểu Khu Bình Định và Bộ chỉ huy Cảnh Sát đang còn ngùn ngụt cháy. Hai cơ quan quyền lực nhất tỉnh bị mất bởi những tên du kích điạ phương không đáng một đồng xu bát gạo. Những tên không đáng một đồng xu bát gạo đó khi nghe chúng tôi còn kẹt lại Quân y viện Qui Nhơn đang tìm cách thoát ra biển đã tặng chúng tôi khoảng 10 trái súng cối 82 ly trước khi bao vây bắt loa kêu gọi chúng tôi đầu hàng. Ngày 01/04/75 lợi dụng trời đang chạng vạng tối, tôi và một thằng nữa vưà bò vưà lết ra bờ biển. Chúng tôi bò lết trong trạng thái vô thức, vô tri giác, bò không biết về đâu, làm gì, trong khi tứ bề thọ địch. Đang bò bỗng thằng bạn cắm đầu về phiá trước. Tôi chưa kịp đưa tay ra đở thì nghe tiếng hét lanh lảnh:

"Giơ tay lên. Đứng dậy"

Tôi ngoan ngoãn đưa tay lên khỏi đầu thật hiền lành. Suốt mấy ngày gần như không ăn uống thêm sự lo âu không biết bị bắt lúc nào đã khiến thần kinh tôi căng thẳng muốn nổ tung. Giờ bị bắt tư ïnhiên tôi thở phào nhẹ nhõm. Biển rì rào bên cạnh. Tôi hít một hơi thật dài, khẻ nhắm mắt để lắng nghe một tiếng nổ thật bình thản. Tiếng hét lúc nãy lại vang lên:

"Một tay để trên đầu, một tay tháo giày ra mau."

Khi tôi vừa buông đôi giày, hai thằng xông đến. Bằng tất cả sức vũ phu sẵn có, chúng kéo giật hai khuỷu tay tôi ra đằng sau, dùng dây dưà trói chặt. Đầu mũi súng chọt mạnh vào ngực tôi đau điếng:

"Đi.."

Tôi nhẹ nhàng đi trên biển, gió từ ngoài khơi thổi vào mát rượi. Lần đầu tiên được đi chân trần sau mười ngày đôi giày không cởi, ngay cả trong giấc ngủ, tôi có cảm tưởng mình đang đi trên nhung. Cát biển mịn dưới chân về đêm âm ấm chui vào từng kẽ ngón. Biển khiến tôi chợt nhớ có lần hưá với Đành khi nào về phép sẽ đưa nàng đi dạo biển Nha Trang về đêm.

Chuỗi ngày sau đó dưới mũi súng cuả những tên Việt Cộng trẻ con đầu óc đã được nhồi sọ chất đầy căm thù, đám tàn quân chúng tôi áo quần tơi tả hằng ngày phải bươi móc, dọn dẹp lại thành phố. Trong những ngôi nhà đổ nát vì chiến tranh xác của những đồng đội tôi những người không chịu đầu hàng và chọn cái chết , những đôi mắt mở trừng trừng không chịu nhắm lại dù tôi cố lén đưa tay vuốt mắt từng người . Những đôi mắt ngửa thao láo nhìn lên bầu trời dường như vẫn còn hy vọng tận cuối phương trời phiá Nam những chiếc máy bay xuất hiện như một kỳ tích để phản kích lại đối phương như mọi lần trước đó. Bây giờ là đầu tháng tư những chiếc loa hàng đêm trong trại giam ra rả hét ỏm tỏi vào tai về những chiến thắng bất ngờ dễ dàng ngoài dự trù mơ ước cuả chúng trên đường tiến quân về Sài Gòn. Những hy vọng mơ hồ cuả chúng tôi trở thành tuyệt vọng hoàn toàn. Nhưng tôi vẫn phải sống vì tôi không được chết. Nói cho đúng hơn, tôi thèm sống một cách tuyệt vọng lạ lùng.

Bọn chúng vẫn khai thác hàng ngày trên xác thân ốm yếu càng lúc càng tàn tạ này bằng mọi kiểu. Tôi là một người lính bại trận không còn gì để nói, cho nên bọn chúng xem tôi là một tên ngoan cố, cứng đầu. Để tránh đau đớn cuả mỗi lần tra tấn mà da thịt tôi dù thiếu ăn đói khát vẫn còn cảm nhận, đêm đêm trước mỗi ngày chúng dẫn tôi từ phòng biệt giam ra để hỏi cung, tôi tự diệt sức lực còn sót lai cuả mình bằng cách thủ dâm. Chỉ có cách đó mới đối phó với những ngọn đòn thù cuả bọn chúng. Tôi muốn mình không còn đủ sức để tỉnh khi ngọn đòn tra tấn đầu tiên phủ lấy lên người. Trước khi chìm vào cơn mê loạn, hình bóng cuả Đành hiện về nhức nhói đến buốt da. Tôi liên tưởng đến nàng, vì nàng là cứu cánh trong tâm hồn và thể xác khô cằn này. Khi thể xác cuả tôi bất chợt rung lên những khoái cảm đớn đau đến nghẹt thở, tôi gọi tên nàng mà không khóc được, bởi cơ thể không còn năng lượng để tạo ra nước mắt.

Vì tôi cứng đầu nên bọn chúng đã biệt giam tôi suốt năm năm trời không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sau này tôi mới biết rằng những năm này Đành cố gắng tìm tôi nhưng tôi vẫn biệt tích, vì thế nàng đinh ninh rằng tôi đã chết. Nàng chọn ngày 01/04 là ngày Qui Nhơn bị mất để làm đám giỗ cho tôi, và xem ngôi mộ tập thể ở dưới chân trụ cờ của Quân Y Viện Qui Nhơn là nơi tôi yên nghỉ. Mười năm biệt xứ từ trại tập trung tôi được thả về. Tôi trở lại con xóm nhỏ ven sông thị trấn Ninh Hoà ngày xưa. Cảnh cũ đã không còn. Căn nhà tranh nơi nàng nằm trải tóc tuổi thơ, bão tố năm nào không làm sụp đổ, nay giặc về chỉ còn là mô đất trống với cỏ dại mọc bao quanh. Cây sầu đông nơi đêm cuối cùng ngồi bên nàng trước ngày trở lại đơn vị đã bị chặt ngang lưng. Cạnh đó là đầu cuả một con đập bằng tre chắn qua sông. Rác rưới phiá trên dòng không lối thoát vướng vào hàng cây chắn ngang cứ dật dờ, dật dờ làm cho màu nước thêm đục ngầu. Những điều tôi biết về nàng rất ít. Chỉ biết sau khi mất nước, nàng sinh con gái, và khi chắc chắn tôi đã chết không còn hy vọng sống sót trên cõi đời này, nàng đã ẵm con đi đâu không rõ. Sau có người nói là nàng đã vượt biên, toàn thể chiếc ghe đều chết chìm trên biển.

Tôi đứng trên thành cầu nhìn xuống dòng sông. Con đập làm dòng nước lặng lờ không muốn chảy. Phải chi tôi còn nước mắt để nhỏ xuống con sông, những giọt nước mắt sẽ làm đầy con nước, để tất cả khổ đau cuốn phăng ra biển để gởi đến vợ con tôi. Con đập chắn ngang dòng sông nơi kỷ niệm giống như vết dao chặt ngang thân xác này mà không chảy máu. Mười năm tù tội đã biến bên ngoài hình dáng tôi thành một con người khác, nhưng bên trong những nỗi khổ đau không thể nào phai dù năm tháng có chất chồng dày dày lớp lớp. Vì nàng đã bất diệt trong tôi.

Chàng hỏi cô gái:

"Hoàn cảnh chú và cô bé giống nhau ở điểm nào?"

"Cháu từ đảo qua đây cũng theo diện con bà phước giống như chú." Nhìn bên ngoài cô gái gần như là Mỹ hóa, chàng không tin cô gái nói thật. Tuy thế chàng vẫn tò mò:

"Cô bé có thể kể cho chú nghe tại sao cô bé không có ba mẹ hay không?"

Cô gái tỉnh bơ:

"Tại vì ba mẹ cháu đã chết"

"Ồ …. cho chú xin lỗi"

"Không sao đâu chú."

Cô gái buồn buồn. Hình như có một hấp lực nào đó xui khiến chàng buột miệng:

"Kể cho chú nghe về ba mẹ đi"

Cô gái khẽ gật đầu rồi ngồi yên. Chàng đưa mắt thử xem con nhỏ tiếp tục làm gì. Bỗng nhiên khuôn mặt Cô gái xa xăm nhìn ra cửa

.. Mẹ nuôi cháu trong nỗi nhớ thương người chồng đã mất, chất chồng và áp bức chung quanh. Đối với xã hội hiện tại, mẹ con cháu chỉ là những cọng rơm khô được hiện hữu bên lề. Cháu vô tư và cầu mong mình yên lành như vậy, miễn cạnh cháu lúc nào cũng có mẹ bao bọc chở che. Nhưng chính quyền lại không muốn như thế, họ muốn đốt cháy luôn cọng rơm bé nhỏ này, bởi không gian đất trời đã là tài sản mà suốt 30 năm họ cố chiếm cho bằng được bằng mưu đồ gian manh. Ba cháu khi còn sống là lính, một trong những lý do đã ngăn chận phần nào thời gian sớm hơn ý đồ cuả họ. Cho nên khi chiến thắng chuyện rửa hận họ ngồi tính sổ là chuyện đương nhiên. Căm thù trút lên đầu mẹ cháu, người đàn bà trở thành goá buạ ở tuổi hai mươi. Mẹ cháu 20 tuổi với bào thai 5 tháng còn nằm trong bụng. Mờ tinh sương đã thức dậy tảo tần đón những gánh rau cuả dân làng ven thị trấn, để sáng đem ra chợ ngồi bán. Kiếm sống theo nhu cầu sinh tồn lại thường xuyên bị kết tội là chây lười lao động, quen thói ngụy ăn bám hút máu nhân dân. Mẹ cháu là một trong những đối tượng bị kiểm điểm phê bình hằng đêm bởi những tội lỗi mà ngay bản thân mẹ không hiểu được. Nhan sắc cuả một goá phụ ở tuổi 20 giống như một bông hoa đang nở, thêm một lý do để đám cường quyền cấp hạ tầng cơ sở đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân, gia ân bố thí để mong đòi hỏi một giây phút ngã lòng nào cuả người thiếu phụ cô đơn. Mẹ âm thầm chịu đựng, luồn lách tránh né, cầm cự qua ngày để mong sinh được cháu ra, dạy dỗ cháu nên người. Trong lòng mẹ, cháu là chứng tích kết hợp bởi máu và tim từ một mối tình bất tử. Mẹ vẫn âm thầm hy vọng trong một nhiệm mầu ba cháu vẫn còn sống trên thế gian này để mà trở lại. Nhưng thực sự ba cháu đã chết. Mẹ kể ở năm cháu lên 8 tuổi, cái tuổi chưa thấu hiểu nổi chuyện đời, nhưng có thể ghi nhận được những gì mà mình không thể nào quên. Mẹ kể vào một ngày cuối tháng 3, khi chiến tranh kể như chấm dứt tại thị xã Qui Nhơn thì ba cháu đã nằm xuống trong tư thế cuả một người chiến bại. Đối với kẻ chiến thắng, đó là cái chết tất yếu cuả một tên làm tay sai Mỹ ngụy đầy nhục nhã. Nhưng đối với mẹ, ba là một anh hùng vì người đã nằm xuống trên mảnh đất mà người có nhiệm vụ cầm súng để bảo vệ. Ba cháu đã chiến đấu cho đến phút cuối cùng không hề bỏ chạy như một số người. Ba đã chiến đấu chống lại cái phi nhân, bất nghĩa mà hôm nay mọi người đã thấy. Ba cháu không thành công vì ngươi là lính chịu chung số phận nghiệt ngã theo một qui luật, nhưng ba đã thành nhân, ít nhất ra đối với mẹ và sau này là cháu. Tám tuổi, một đêm mưa buồn trong túp lều tranh xa xôi quê nhà, mẹ ôm cháu vào lòng kể lại chuyện tình giữa ba với mẹ. Mẹ kể có những buổi sáng mây mù bao quanh trên đỉnh đèo An Khê, mẹ dựa vào vai ba bềnh bồng trên mây. Ba vững như ngọn núi để mẹ là mây quanh năm bao phủ. Mẹ chỉ con đập chắn ngang dòng sông trước nhà, mẹ nói nơi đó trước đây có một cây sầu đông. Đêm cuối cùng ba ngồi với mẹ nhìn những cánh hoa sầu đông nhỏ xíu lăn tăn gợn trên mặt nước để đặt tên cháu. Có một thoả ước giữa ba và mẹ, mẹ đặt tên con trai, ba đặt tên con gái. Khi ra đời vì cháu là con gái nên thừa hưởng cái tên do ba để lại như một di sản của người. Cháu còn nhớ có lần mẹ dẫn cháu đến biển Qui Nhơn mẹ chỉ vào cỗng của một cơ quan, mẹ nói trước đây là Quân Y Viện mà dưới chân trụ cờ là nấm mộ tập thể của 47 quân nhân VNCH tử trận. Trong nấm mồ đó có xác của ba cháu mà những đồng đội của người trong buổi chiều ngày 31/03/75 đã vội vã chôn như một nghĩa cử tuyệt vọng cuối cùng trước khi những kẻ miền Bắc tiến vào chiếm giữ. Mẹ nói những người đã chết khi nhiệm vụ gìn giữ tự do không thể chu toàn nên họ không thể nào nhắm mắt. Mẹ còn nói đời mẹ giống như những đám lục bình bập bềnh trên dòng sông quê nhà. Tất cả cuối cùng đều ra biển để phó thác cho may rủi. Thế rồi mẹ quyết định ra đi."

Cô gái xuất thần tiếp tục nói với khoảng không trước mặt, gần như chẳng hề biết có chàng đang ngồi bên cạnh. Cơ hồ như nếu không có chàng, cô gái vẫn có thể nói một mình, nói với chính mình nỗi đau chất chứa bao năm. Còn chàng, những giọt nước mắt tưởng đã khô cạn bao năm trong quá khứ đắng cay, trong hiện tại phũ phàng, trong tương lai muôn trùng bỗng nhiên rơi đầy khuôn mặt.

"Ngày thứ 15 lênh đênh trên biển vì lạc hướng đi, mọi người trên thuyền chỉ còn biết mong chờ phép lạ. Trong cơn nguy nan tâm lý chung người ta thường cầu xin đấng thiêng liêng vô hình thương xót. Thượng đế, hoặc là không có thực, hoặc là những người trong chuyến đi nặng đầy nghiệp chướng, cho nên đáp những lời cầu xin bi thương đó biển đem lại cho họ một lũ người dã man hung dữ còn hơn loài cầm thú. Những tên ác nghiệt này giật mạnh cháu từ trong tay mẹ vứt vào góc thuyền. Mẹ hét lên trong phản xạ cuả một con cọp cái bị cướp mất đứa con, nhào tới cào cấu cố dành lại được cháu. Mẹ mạnh mẽ phi thường trong tim óc, nhưng thể xác mẹ yếu đuối mỏng manh. Một tên đập báng súng vào mặt mẹ, cháu nghe tiếng súng nổ và mẹ rơi xuống biển. Cháu chỉ biết thét lên hãi hùng. Sau đó cháu ngất lịm không còn biết gì nữa. Sau này cháu được biết cháu là một trong năm xác chết còn sống bị bỏ sót lại trên ghe mà người ta cứu được. Cháu đã mất thời gian bao năm tháng để lấy lại quân bình, và cứ thế cháu lớn lên đầy muộn phiền trong trại tị nạn Bidong Mã Lai cho đến khi được một gia đình từ tâm bên Mỹ nhận bảo trợ để qua đây. Hiện cháu đang sống bình thản như một người đã chết, còn những người đã chết thì đang sống muôn đời trong tận cùng nỗi đớn đau mà cháu ấp ủ."

Cô gái ngừng nói. Tự nhiên cô nhoẻn miệng cười đưa chiếc khăn tay lên chậm chậm hai con mắt của mình. Ở đó là những giọt lệ long lanh:

"Cháu bỗng dưng bắt chú nghe chuyện của cháu, kỳ ghê. Nhưng cháu cũng không hiểu sao ở chú dường như có một cái gì khiến cháu cầm lòng không nổi. Một cái gì đó đã gây cho cháu vô cùng xúc cảm."

Chàng không trả lời cô gái, chàng chỉ hỏi một điều gần như lạc đề:

"Cô bé có còn giữ tấm hình nào cuả mẹ hay không?"

"Dạ còn, chú muốn xem à?"

Chàng gật đầu. Cô gái đứng dậy lục trong xách tay, lấy đưa cho chàng một tấm hình đen trắng. Tấm hình đã muốn ố vàng vì thời gian năm tháng. Trong hình một người đàn bà khoảng 24, 25 tuổi đứng gần bên một đưá bé gái. Sau lưng là căn nhà tranh, một bên chái quỵ hẳn xuống được chống lên bằng cây nạng gỗ. Căn nhà trông giống như một phế binh lạc loài cô đơn.

"Đây là mẹ cháu. Đưá bé gái này là cháu lúc đó lên năm tuổi."

Người đàn bà mái tóc cắt ngắn, không còn dài như xưa, nhưng khuôn mặt kia làm sao chàng quên được. Khuôn mặt đó đã tan thành máu nuôi cơ thể chàng suốt bao năm. Chàng hốt hoảng quay sang nhìn cô gái. Lúc này chàng mới phát giác ra rằng: mái tóc đó, khuôn mặt đó, đôi mắt đó, vóc dáng đó là của Đành hai mươi năm về trước. Thảo nào khi gặp cô gái chàng đã có cảm giác thân quen như đâu từ muôn kiếp. Thật giản dị, tại sao mãi đến giờ phút này chàng mới biết được?

Chàng cũng chợt nhớ, từ lúc quen cô gái đến giờ chàng vẫn chưa có dịp hỏi tên. Giờ thì chàng hỏi mà giống như kiểm chứng, xác nhận một điều:

"Cô bé có phải tên là... Uyên Hạ?"

Cô gái ngạc nhiên gật đầu, chàng tiếp:

"Mẹ cô bé tên... Đành?

Lần này thì cô gái thảng thốt:

"Tại sao? ....Tại sao chú lại biết tên mẹ cháu?"

Giống như vừa kéo xong một bi thuốc lào vào buổi sáng bụng trống, chàng nói trong cơn say dật dờ choáng váng như là nói cho riêng mình đã trở thành một hồn ma hiện về báo mộng:

"Vì sao à?...Vì tấm hình này là hình của vợ con ta. Vì mái tranh nghèo đổ nát phía sau là chứng tích nơi ta đã từng đến đó, từng ở đó từ những năm tháng còn thơ. Trước mặt còn có một dòng sông, lần cuối ta ngồi bên ai vào một đêm tối trời để đặt tên cho con là Uyên Hạ. Và bởi vì ba là người lính thua trận mà hai mươi năm về trước, mẹ con tưởng rằng ba đã chết

Quan Duong

User avatar
nangchieu
Posts: 2079
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

Chỉ Còn Là Kỷ Niệm
Tam Bách

Buổi trưa hôm ấy anh đến tham dự buổi họp mặt Tân niên Đồng hương của một tỉnh gần Sài Gòn ngày xưa, nơi anh đã từng phục vụ lâu dài trước năm 1975. Đây là buổi họp mặt thường lệ hàng năm. Đặc biệt năm nay, Trưởng ban tổ chức, một cựu sỹ quan từng làm việc tại quận, đã gọi điện thoại mời anh tham dự cho kỳ được. Giọng người cựu sỹ quan vẫn hóm hỉnh như xưa “Mời ông thầy đến tham dự buổi họp mặt cho vui. Chắc chắn sẽ có một thích thú bất ngờ dành cho ông hôm đó!”

Mỗi năm một lần, các cựu viên chức, giáo chức, đồng hương đã từng sinh sống, làm ăn, từng chia xẻ vui buồn, từng sống chết bên nhau trong cuộc chiến vừa qua, nay gặp lại tay bắt mặt mừng, hỏi thăm nhau ai còn ai mất, ngồi với nhau tâm tình chuyện cũ …

Trong thành phần tham dự họp mặt hôm ấy, có một người mới tham dự lần đầu, một cựu giáo viên từ Việt nam sang thăm bà con bên đất Mỹ, một cô giáo mà trước năm 1975 đã từng dạy tại trường trung học quận “núi đá ba chồng”: cô giáo Lan. Anh nhìn người thiếu phụ trung niên đứng lên chào đồng môn trong buổi họp mặt, nụ cười trên môi nhưng đôi mắt phảng phất buồn. Thân hình thiếu phụ hơi đẫy đà, nhưng anh vẫn nhận ra chiếc môi tròn như nũng nịu, vẫn đôi mắt sáng với hàng mi dài… Tất cả đã gợi cho anh một quá khứ thân thương. Người thiếu phụ đã bắt đầu bước xuống triền dốc tuổi thanh xuân, chính là cô giáo trẻ đẹp một thời anh đã gặp, đã từng quen biết, gắn bó tình cảm… ở thời điểm những năm 1971-1973.

* * *

Hồi ấy anh làm việc tại một quận trên quốc lộ 20. Anh đến phục vụ tại một địa phương này như một viên chức hành chánh gương mẫu, với phong thái trẻ trung phong nhã… Ngày đầu nhậm chức, các Trưởng chi đến văn phòng Quận gặp gỡ Phó quận để trao đổi vài câu chuyện làm quen; trong đó có ông Hiệu trưởng trường trung học địa phương. Đó là một thanh niên gầy thấp, nước da sạm nắng khác hẳn các bạn đồng nghiệp trắng trẻo cao ráo hơn. Với vẻ mặt tươi cười, ông ta ngỏ ý mời Phó quận đến thăm trường trung học do ông ta làm hiệu trưởng. Hôm sau, trên đường thăm các thân hào nhân sĩ, các vị lãnh đạo tôn giáo…, Phó quận ghé thăm trường Trung học như đã hứa. Ông hiệu trưởng đón tiếp niềm nỡ, đưa anh đi thăm các lớp và sau cùng đến lớp 9, do một cô giáo phụ trách. Cô giáo có thân hình cao gầy, “mình hạc xương mai”, dáng người yểu điệu; đặc biệt đôi mắt tròn to, lông mi dài cong vút. Cô mỉm cười chào tân Phó quận khi anh bước vào lớp học. Theo lệnh cô giáo, cả lớp đồng loạt đứng dậy nghiêm trang chào khách. Anh nhìn toàn thể lớp học, thầm khen các học sinh ngoan ngoãn, có kỷ luật. Các học sinh đều mặc đồng phục, nam sinh với quần dài xanh đậm, áo trắng ngắn tay; nữ sinh với bộ quần áo dài trắng. Riêng cô giáo thướt tha trong chiếc áo dài hoa, đôi môi và hai má ửng hồng, khiến khách đến thăm không biết do nghệ thuật trang điểm hay niềm vui sướng của cô giáo trước vị khách hào hoa đã làm cô ửng hồng đôi má…?

* * *

Tình hình an ninh quận “núi đá ba chồng” khá yên tĩnh; tuy nhiên tin tức tình báo cho biết những dân lái xe be vào rừng đốn gỗ, những người làm rẫy bái…thường tiếp tế gạo thóc, xăng nhớt, tiền bạc… cho địch ở vùng sâu ven sông La Ngà. Hình như chúng đang tập trung quân chuẩn bị tập kích vào quận. Trung tá quận trưởng chỉ thị Chi khu kiểm tra các đơn vị nghĩa quân, Cảnh sát tổ chức hành quân chận bắt những thành phần tiếp tế cho địch, Hành chánh quận kiểm tra các đơn vị NDTV về nhân số, vũ khí, bố phòng ban đêm…Hàng đêm, Phó quận cùng Trung úy Đức, đi thanh tra các chốt canh gác trong quận lỵ. Riêng hôm ấy, người sỹ quan trưởng ban NDTV bị bệnh, Phó quận đi công tác một mình. Khi xe chạy trước cư xá giáo chức, qua cửa sổ hé mở anh trông thấy thấp thoáng cô giáo Lan đang ngồi đọc sách, bèn ghé vào thăm…Cô giáo vui mừng lẫn ngạc nhiên khi đón tiếp anh, và trước khi đi pha trà mời khách, cô kéo tấm màn che cửa sổ cho kín đáo. Anh hỏi cô giáo:

– Xin lỗi cô Lan, tôi bất chợt vào thăm cô giáo lúc này có làm phiền cô không?

– Dạ không sao! Ông Phó đến thăm thật vinh dự cho em lắm chứ. Hơn nữa từ lâu em cũng mong được hân hạnh tiếp chuyện với ông …

Cô giáo Lan sinh ra trong một gia đình đông con miền Bắc, theo cha mẹ đi trên “tàu há mồm” vào Sài gòn lúc còn bé tí. Tốt nghiệp sư phạm, cô xin đi dạy tại vùng “núi đá ba chồng” vì nơi đây nhiều phong cảnh đẹp và lạ lùng khiến cô thích thú. Có lẽ đó cũng do bản tính của ông bố, từng làm việc vùng cao nguyên miền Bắc trước năm 1954, đã ảnh hưởng đến sở thích cô gái út của ông…Cô giáo Lan ngỏ ý mời anh, một ngày cuối tuần rảnh rỗi nào đó, đến nhà cô chơi và các cô giáo sẽ tổ chức nấu nướng ăn uống cho vui. Vì theo lời cô “quận này đẹp nhưng hơi buồn, mà chúng em đâu có nhậu nhẹt như các ông, nên chỉ tụ họp ăn uống tại nhà mà thôi!”… Ngoài đường có tiếng lao xao của toán NDTV đang tập họp để phân chia canh gác. Phó quận sực nhớ nhiệm vụ của mình, vội cáo từ cô giáo chủ nhà, ra xe tiếp tục đi công tác kiểm tra.

Một buổi tối, trung úy Đức lái xe đưa Phó quận đi kiểm tra NDTV như thường lệ. Khi đi qua nhà cô Lan, anh ta chạy chậm lại và nói nhỏ:

– Tối hôm trước hình như ông Phó có vào thăm cô giáo ở đây phải không?

– Có! Mà sao cậu biết hay vậy? Tối đó cậu bị bịnh ở nhà kia mà!

Người sỹ quan trẻ cười hóm hỉnh:

– “Đàn em” ở nhà nhưng có “đệ tử” kín đáo theo bảo vệ ông; để lỡ có chuyện gì tụi nó còn can thiệp kịp thời chứ “ông thầy”!

Anh ta nhìn vào nhà cô Lan nói tiếp:

– Ông Phó nhìn tấm màn cửa sổ trong nhà kia kìa…Khi ông ngồi gần cửa sổ, đèn bên trong hắt ra, bóng in lên tấm màn, làm sao ông “che mắt được thế gian”? Nhất là ông lại đậu xe trước nhà cô giáo nữa! Đàn em làm việc ở đây khá lâu, biết nhiều chuyện ở thị trấn nhỏ bé này, nên chỉ dám khuyên ông Phó cẩn thận, nhất là đừng đến thăm chơi ông hiệu trưởng cũng ở trong dãy cư xá giáo chức!

Phó quận mỉm cười cám ơn lời khuyên của người sỹ quan đặc trách NDTV quận bộc trực và tốt bụng đó. Trung úy Đức, trước đây là một giáo viên, nhưng không được biệt phái về nhiệm sở cũ nên đã xin về làm việc tại văn phòng hành chánh quận…Và cũng theo lời của người sỹ quan gốc giáo chức đó, anh được biết nhiều điều bí ẩn về ông hiệu trưởng. Thỉnh thoảng ông ta nghỉ phép vài ngày, sau đó ông ta trở về với thân hình gầy ốm đen điu. Có một đồng nghiệp hỏi lý do, ông ta giải thích là đi Vũng Tàu tắm biển nên da bị cháy nắng!

* * *

Trong một buổi họp tại quận, Trung tá Quận trưởng quyết định tổ chức cuộc hành quân hỗn hợp tại Ấp 125. Phó quận, Chi khu phó cùng một trung đội nghĩa quân, một trung đội Cảnh sát dã chiến tham gia cuộc hành quân. Phó quận và Trung úy Đức đi cùng xe jeep với Đại uý Chi khu phó. Ấp 125 cách quận lỵ khoảng mười lăm cây số, phần lớn dân trong ấp làm nghề đốn cây, các chủ xe be vào rừng kéo gỗ. Mỗi khi vào rừng, họ mang theo gạo, mì gói, xăng dầu … đôi khi còn nhiều hơn số lượng cần dùng … Cho nên, sau một ngày và hai đêm làm việc, Cảnh sát và an ninh Chi khu bắt một số đối tượng tình nghi thường liên lạc và tiếp tế cho VC; những thành phần cư trú bất hợp pháp, trốn quân dịch; đồng thời tổ chức lại NDTV để phòng vệ Ấp. Cuộc hành quân chấm dứt vào sáng Chủ nhật. Phó quận định theo xe Jeep của Chi khu trở về, thì tài xế xe Scout của quận đã lái xe đến đón . Anh ta kín đáo đưa cho Phó quận một phong thư và nói nhỏ:

– Cô giáo sáng nhờ em đưa cái thư này cho ông Phó…

Bên trong phong thư dán kín chỉ có mảnh giấy nhỏ với vài hàng chữ mềm mại: “Hôm nay ngày nghỉ cuối tuần mà ông Phó còn làm việc sao? Khi xong việc trở về, xin ông ghé qua “tệ xá” để chúng em được phép mời ông dùng bữa cơm thân mật trong gia đình…” Cuối thư không có chữ ký, nhưng anh biết tác giả là ai rồi! Anh lên xe quận, viện cớ có việc cần nên về trước, để lại sau lưng nụ cười ý nhị của viên Trung úy phụ tá NDTV quận, người “biết quá nhiều” về cô giáo …

Khi anh đến nhà cô giáo Lan, đã nghe tiếng cười nói của các cô bạn đồng nghiệp, mùi thức ăn thơm ngào ngạt tỏa khắp căn nhà. Cô chủ nhà từ bếp chạy ra cửa đón tiếp khách một cách thân tình, tươi cười đưa vào giới thiệu các nữ đồng nghiệp. Hôm nay cô Lan trông gọn gàng, tươi mát trong chiếc quần Jean màu xanh da trời bó sát đôi chân dài, chiếc áo polo ngắn tay hiệu Banlon màu beige khiến cho khuôn mặt cô tươi hẳn lên, trên đó đôi môi mọng tô hồng nhạt, tròn trĩnh như môi em bé nũng nịu, đôi mi dài như hai chiếc lông công khi xoè múa… Các cô giáo thi thố tài gia chánh, nấu nhiều món ăn đặc biệt dành cho vị khách đặc biệt. Trong bữa ăn, nhiều câu hỏi của các cô thật táo bạo, khiến vị khách bối rối. Nhưng những câu đối đáp thành thật, với một chút ý nhị khôi hài, khiến các cô vui cười thích thú. Cuối cùng anh đứng lên cáo từ, không quên cám ơn cô giáo chủ nhà và các bạn gái đồng nghiệp của cô. Cô Lan tiễn tận cửa khi anh ra về, quyến luyến nhìn theo với “con mắt có đuôi”.

* * *

Hiệp định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973, quy định việc đình chiến tại Việt nam. Sau những ngày đó, quân cán chính tại quận được lệnh cảnh giác đề phòng việc vi phạm nhưng bắn của VC. Khoảng một tháng sau ngày đình chiến, một buổi chiều Trưởng Ấp 110 đang ngồi trong trụ sở bị kẻ lạ mặt, từ ngọn đồi phía sau lẻn vào ném lựu đạn. Khi Nghĩa quân nghe tiếng nổ chạy đến, đã thấy Trưởng Ấp nằm bất động trên vũng máu và sau đó qua đời. Tỉnh gởi công điện chỉ thị Quận gởi gấp biên bản điều tra về vụ trưởng Ấp đã bị ám sát, tổ chức cuộc biểu tình để người dân phản đối VC ám sát người cán bộ do dân bầu, để Tỉnh có bằng cớ yêu cầu Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đến tận nơi điều tra…Một cuộc tuần hành đông đảo dân chúng tại Ấp 110 và dân chúng tại quận lỵ, với xe trang bị máy phóng thanh của Chi Thông tin dẫn đầu đã đi dọc theo quốc lộ. Họ hô to những khẩu hiệu lên án VC sát hại Trưởng Ấp 110… Khi đoàn biểu tình tập trung vào hội trường gần chợ, Trưỏng chi Thông tin đến Văn phòng quận mời Quận trưởng đến chủ tọa cuộc mít tinh. Trung tá Quận trưởng bận công tác, giao quyền cho Phó quận.

Khi anh bước vào, đã thấy người dân ngồi chật cả hội trường, phần lớn là dân xe be, chủ trại cưa, đàn bà trẻ em và thân nhân Trưởng Ấp bị sát hại. Sau khi Xã trưởng lên diễn đàn kết án VC sát hại dã man Trưởng Ấp 110 trong giờ làm việc tại Ấp…, Trưởng Chi Thông tin trao Phó Quận bản kiến nghị phản đối VC đã ám sát Trưởng Ấp do dân bầu ra, vi phạm lệnh ngừng bắn do Hiệp định Paris ấn định và yêu cầu Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đến tận nơi để điều tra nội vụ. Nhìn thấy đám đông người dân tham dự biểu tình, trong đó vợ con người Trưởng ấp bị ám sát đang ngồi ủ rũ đau buồn, anh thấy niềm căm phẫn dấy lên trong lòng. Anh bước lên máy vi âm, dõng dạc lên án hành vi ám sát hèn nhát của VC đối với một Trưởng ấp hiền lành, tận tâm phục vụ dân chúng, và hứa sẽ chuyển bản kiến nghị đến tận tay Ủy hội Kiểm soát Đình chiến khi họ đến đây điều tra nội vụ. Đồng thời không quên an ủi gia đình của Trưởng Ấp bị ám sát và chỉ thị Xã trưởng giúp họ sớm lập hồ sơ xin trợ cấp, đền bù phần nào nỗi đau đớn mất mát lớn lao của gia đình họ…

Phó quận bước xuống chỗ ngồi giữa tiếng vỗ tay của dân chúng. Anh dự định bước theo Trưởng chi Thông tin ra khỏi hội trường trở về Văn phòng quận, bỗng thấy người tài xế thân tín từ hướng sân khấu hội trường chạy đến nói nhỏ:

– Ông Phó đừng đi qua đám đông. Cô giáo mới cho biết có kẻ khả nghi trong hội trường…Ông bước ra cửa hông gần sân khấu kia, nhanh lên, em đi sau bảo vệ ông…

Anh liếc nhìn xuống đám dân chúng đang nhốn nháo đứng dậy ra về, vội quay ngoắc lại hướng sân khấu, ra cửa hông hội trường và lên xe Scout đang đậu sẵn. Người nghĩa quân kiêm tài xế xe quận đi sát sau lưng Phó quận, nhanh chóng lên xe mở máy chạy… Khi ra đến quốc lộ, anh nhìn thấy cô giáo đang đứng nép bên gốc cây, đầu đội nón lá, kín đáo nhìn về chiếc xe Scout đang chạy về hướng Văn phòng quận. Đó là lần cuối anh nhìn thấy cô giáo Lan…

Buổi chiều, Trưởng chi Cảnh sát đến gặp Phó quận tại Văn phòng, báo cáo tin tức với vẻ mặt dương dương tự đắc:

– Xin báo ông Phó biết, trưa nay có người mật báo, chúng tôi bắt được tên VC nằm vùng trước hội trường. Chúng tôi đang khai thác thêm, vì tên này nằm trong tổ ám sát Trưởng ấp 110. Cũng may cho ông Phó, nếu ông ra về bằng cửa chính thì gặp nguy rồi. Tên VC này đứng ngoài cửa chờ ông đi ra, sẽ ám sát ông rồi trà trộn vào đám đông chạy ra ngoài lộ, đồng bọn sẽ chở đi bằng xe Honda …

Viên Đại úy Trưởng chi ngừng lại, nhìn Phó quận dò hỏi:

– Nhưng sao ông Phó biết trước nguy hiểm mà đi ra bằng cửa hông hội trường?

Phó quận nhìn người Trưởng chi Cảnh sát nửa đùa, nửa thật:

– Thế ông Trưởng chi không biết tôi cũng có mật báo viên như bên Cảnh sát các ông sao?

Nói xong, anh nghiêm nét mặt nhìn Đại úy Trưởng chi khiển trách:

– Đúng ra Đại úy nên bố trí an ninh chu đáo hơn. Nếu tôi bị ám sát như Trưởng ấp 110 thì trách nhiệm thuộc về ai? Tôi yêu cầu từ nay trong những buổi mít-tinh đông đảo, nên cho Cảnh sát sắc phục ngồi ngay trong hội trường để lo việc bảo vệ an ninh, nhất là cho những viên chức xã ấp, các Trưởng chi, Quận trưởng, Phó quận… Nhưng dẫu sao, hôm nay Cảnh sát cũng đã thành công trong một công tác quan trọng như vậy, đáng khen ngợi!

Viên Đại úy Trưởng chi, vốn tự phụ là một sỹ quan Cảnh sát giỏi, biết ông Phó quận “xi vin” này đã khiển trách đúng, bèn ngỏ lời cảm ơn rồi đứng nghiêm chào, quay gót ra khỏi phòng.

Sau đó, Phó quận cho Trung úy Đức biết Cảnh sát đã bắt được tên nằm vùng VC âm mưu ám sát anh ở hội trường trưa nay. Anh muốn đến nhà cô giáo cám ơn đã cho biết tin tức kịp thời, giúp anh tránh khỏi hiểm nguy hôm ấy. Mấy hôm sau, Trung úy Đức cho biết cô giáo đã rời khỏi quận. Theo tin tức từ các đồng nhiệp của cô, cô giáo đã tự động xin đổi về Tỉnh, không rõ vì lý do gì? Cô ra đi thầm lặng, vội vã, từ chối cả tiệc tiễn đưa của các bạn đồng nhiệp. Riêng anh, anh đã thoáng hiểu lý do sự ra đi âm thầm của cô. Có thể bọn nằm vùng VC, thông qua viên hiệu trưởng đáng nghi ngờ kia, đã hăm dọa cô giáo vì “biết quá nhiều” về đồng bọn chúng? Cũng có thể cô giáo đã “đánh hơi” sự hiểm nguy kề cận – cũng giống như trường hợp Phó quận suýt xảy ra? Kể từ đó, anh không còn gặp cô giáo Lan, cô giáo xinh đẹp, có nhiều cảm tình với anh, cô gái trẻ có thừa can đảm, đã một lần cứu mạng anh!

* * *

Sau khi đi tù “tập trung cải tạo” về, anh gặp lại Đức ở “chợ trời thuốc tây” đường Nguyễn Kim. Người phụ tá NDTV của anh hồi còn làm việc ở quận, sau những năm tù “cải tạo” ở vùng rừng thiêng nước độc đã gầy ốm, cằn cỗi hẳn đi. Đức cho biết đã gặp cô Lan một lần ở Sài gòn. Cô giáo vẫn còn nhớ đến người Phó quận trẻ tuổi nhiều tình cảm ngày xưa và cô đã nhờ Đức chuyển lời thăm hỏi đến “ông Phó thân mến của cô”! Người cựu giáo viên ấy không còn đi dạy học nữa sau đợt “giảm biên chế”. Sau đó, cô đã nhận lời lấy ông hiệu trưởng, ông “xếp” cũ của cô. Ông hiệu trưởng “nằm vùng bí mật” năm xưa, người chồng bất đắc dĩ của cô giáo Lan xinh đẹp một thời, nay đã là một cán bộ cấp cao trong ngành giáo dục tại Tỉnh. Ông ta đã mở một tiệm bán “vật liệu xây dựng” để cô vợ đứng trông nom tại ấp 125. Nơi này, ngày xưa Phó quận đã từng đến công tác “ngủ ấp” hai đêm trong cuộc hành quân hỗn hợp để thanh lọc những phần tử tay sai của VC. Nay Ấp 125 đã phát triển trù phú, nhà cửa mọc lên như nấm sau cơn mưa hè. Những thành phần nằm vùng, những tên mang băng đỏ chạy theo “cách mạng giờ thứ 25”… đã phất lên làm giàu nhờ chiếm đoạt đất đai, rẫy bái của người dân tại đây để xây dựng nhà cửa, để bán chác…tạo nên cuộc sống phồn vinh ở xã hội mới.

Đối với anh, những kỷ niệm với cô giáo Lan tưởng đã theo thời gian trôi vào quá khứ lãng quên. Nhưng hôm nay, anh đã gặp lại cô trong một hoàn cảnh thật bất ngờ. Trưởng ban tổ chức buổi họp mặt tân niên, cựu Trung úy Đức, đã đưa anh đến gặp lại người xưa. Anh nhìn cố nhân, không nói nên lời…Anh chỉ biết cầu chúc cho cô một cuộc sống an bình, cả trong tâm hồn lẫn thể chất.

Hai hôm sau, anh và Đức đưa cô giáo lên phi trường LAX để trở về Việt nam. Khi chia tay ở phi trường, cô giáo nhìn anh nở nụ cười buồn, vẫy tay chào từ biệt rồi bước vào khu cách ly. Anh nhìn theo bóng dáng cô đơn ấy đang lầm lũi bước đi. Cô không đi lên chiếc thang cuốn chạy dọc theo hành lang, mà từ từ bước. Chiếc túi xách nặng trĩu trì kéo vai cô, như đứa trẻ níu tay mẹ đòi ở lại cái xứ sở mà người tỵ nạn ở đây chỉ xem như “vùng đất tạm dung”. Khi chiếc bóng cô đơn ấy đã khuất nơi ngã rẻ trong phi trường, anh thẫn thờ quay ra. Trong quá khứ, anh và cô giáo đã có một thời gắn bó tình cảm. Nay thì tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Cuộc gặp gỡ thoáng chốc đã khơi lại trong anh những tình cảm êm đềm ngày xưa. Để rồi hôm nay cô đành chia tay bạn bè thân mến ngày xưa, trở về sống với người chồng chỉ biết lo danh vọng phú quý; trở lại sống trong một xã hội mà ở đó sau năm 75’, những kẻ xu nịnh chạy theo chế độ mới đã vội quay lưng lại với quá khứ thân thương và nhân ái trước đây.

Anh đã tiễn đưa cô về bên ấy, lòng cảm thấy nao nao buồn và chợt nhớ đến những lời thơ trong bài “Tiễn Em” của Cung Trầm Tưởng:

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly…


Anh kéo cao cổ chiếc áo jacket để bớt lạnh và thầm nghĩ: chắc hẳn mùa này ở vùng “núi đá ba chồng”, gió đêm cũng làm lạnh lòng người ở lại lắm. Và chắc hẳn cũng lạnh con tim kẻ ly hương khi âm thầm nhớ lại hình bóng người xưa, mà giờ đây chỉ còn là kỷ niệm…


Tam Bách

Post Reply