Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
MatVit
Posts: 832
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by MatVit »

Con đường xưa em đi

Phạm hoài Vũ


Mấy người bảo em kiếm một nghề gì đó mà làm, chẳng hạn, cắt may, làm đầu, mở quán cà-phê, … nói là để … gì đấy, hoàn lương, không làm gái nữa. Em hỏi những ông khách thuộc hạng lắm chữ, hoàn lương là gì, các ông ấy đều nói, hoàn lương là quay trở về cuộc sống lương thiện.

Ô hay. Em có mất lương thiện bao giờ đâu mà bảo em quay về cuộc sống lương thiện. Em không trộm cắp. Em không dối trá. Em không điêu ngoa. Em không lừa đảo. Em không vu oan giá họa cho ai. Em không như con Châu bạn em. Nó nghỉ học từ hồi lớp mười, sau được bố xin thế chân làm văn thư cơ quan đúng ngày ông ấy về hưu. Nhưng để xin được chỗ thế chân, nghe đâu bố nó cũng phải lo lót tới ba bốn cây vàng, từ ông giám đốc, đến ông tổ chức, cả ông gì gì cao hơn nữa.

Nghe đâu cả giám đốc, tổ chức và các ông gì gì đều là con các bạn chiến đấu với ông nội nó. Các cụ cùng bạn đồng ngũ từ thời chiến tranh. Thế mà họ nỡ cầm tiền của bố nó. Tưởng họ đối xử như con cháu trong nhà mới phải. Thế mà ăn bẩn. Cái đám ấy mới đích thực là không lương thiện. Còn bây giờ con Châu cũng đã thành quái. Mọi người đến xin chữ ký, đóng dấu, phải dúi cho nó cái phong bì, người một trăm, kẻ dăm chục, … có người cho đến vài trăm, tùy việc. Nhưng lộc vào đều đều, suốt ngày này qua tháng khác. Kiếm phết. Nó khoe thế. Tởm lợm! Em bảo nó, mày ăn bẩn. Ăn bẩn như con chó. Như nó mới cần hoàn lương. Mấy ông bà sếp phải hoàn lương nhiều hơn. Họ còn ăn khốn nạn hơn vậy.

Em làm gái đi khách, vui vẻ với họ. Họ trả công em. Ơ hay, cũng lao động đấy chứ. Nói theo kiểu thị trường bây giờ thì loại lao động của em là lao động dịch vụ. Dịch vụ tình cảm. Những người đến với em đều có tâm tư tình cảm éo le. Anh bị vợ xét nét, hắt hủi. Anh bị vợ mắng chửi, thời nay gọi là bạo hành gia đình. Anh thì vợ đau ốm liên miên. Có anh vợ mất, không muốn đi bước nữa, sợ phức tạp cảnh vợ nọ con kia. Có anh bị vợ xâu xé khi làm tình, cắn nát cả ngực, cắn tím bắp tay. Gọi là gì nhỉ ? À, các anh ấy gọi là bạo dâm. Chỉ mới nghĩ đến làm tình với vợ là đã hết hồn hết vía. Vì thế các anh ấy tìm đến bọn em để được an ủi. Em hỏi các anh ấy, sao không bỏ ngay cái hạng vợ ấy đi, thì anh nào cũng bảo là không đành lòng, vì thương những đứa con vô tội.

Đằng kia, con Châu, vừa được cơ quan trả lương, vừa ăn dấm ăn dúi những đồng tiền đút lót của mọi người. Ai đến không có đồ dấm đồ dúi thì … À, hãy đợi đấy. Em Châu này còn đủng đỉnh chán. Thế mới là không lương thiện. Nó khoe đã nhận cả phong bì của cái bà Mão hàng xóm. Bà ấy nghèo vét đĩa, chỉ có cái bàn bán trà thuốc ở vỉa hè, kiếm tiền chợ, giật gấu vá vai. Ông con trai nghiện hút, trộm cắp, trấn lột phải đi trại. Đi trại chán rồi về, đâu hoàn đấy, vẫn mỗi ngày vài tép. Không chỉ hút hít, mà còn tiêm chích, sốc thuốc lăn đùng ra chết. Con dâu đêm nào cũng lang thang lê lết với một lão xăm trổ đầy mình. Nghe đâu lão đánh tiếng sắp cưới nó làm vợ. Lão bảo đã muốn giúp nó thoát cái thằng chồng nghiện hút từ lâu, nay mới đến lúc. Chồng chết rồi, con vợ bỏ mặc hai thằng lỏi con, nhếch nhác để bà nội lo liệu. Vậy mà hôm bà ấy ra cơ quan xin giấy cho hai thằng cháu côi cút đi học, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, bà ấy cũng đưa cái phong bì. Đầu tiên nó lí nhí cái gì đấy ra cái điều ngại ngùng, dúi đi dúi lại bà bà cháu cháu. Nhưng sau thấy bà ấy khẩn khoản, nó nghĩ bụng… tội gì. Mở phong bì ra được hai chục ngàn đồng bọ. Nó bĩu môi. Rồi cũng đút vội vào túi quần lòi cả mép phong bì xanh đỏ.

Đằng này em cầm tiền của các anh đàng hoàng, bóc bánh trả tiền. Các anh cũng vui vẻ. Các anh được em chiều chuộng. Thấy các anh cho nhiều, em ngại. Các anh bảo việc gì mà ngại. Thấm gì so với các anh phải cung phụng cho các ông bà quan chức.

Em học xong lớp mười một, chỉ một năm nữa là thành cô tú, nhưng cứ nhìn mấy chị lớp mười hai mà ngẫm phận mình. Ngán ngẩm. Chúng nó thi đỗ đại học, học xong cử nhân, kỹ sư, bác sỹ đủ cả. Nghe tưởng hoành tráng. Đi xin việc rạc cẳng. Lo lót hàng chục ngàn đô cho đủ hạng ông to bà lớn không xong. Bọn con gái thì sau khi thử việc còn được các ông ấy nói là … là … mời đi nhà hàng, kéo vào nhà nghỉ, rồi giở những trò khốn nạn. Ít hôm sau khoác bộ đồ đồng phục công sở vênh váo hẳn lên… Nhưng thỉnh thoảng đượm buồn nghĩ đến cái thân phận chẳng khác gì con đĩ.

Thế thì thôi. Em làm đĩ luôn cho khỏe. Sau chưa đầy một năm em sắm con xe ba ngàn đô. Ăn tiêu, trang điểm, sắm sửa thoải mái, toàn hàng hiệu… những đồ xịn toàn là Adidas với lại Louis Vuitton. Về quê mọi người lác mắt. Gặp ai cũng hỏi em làm gì lắm tiền thế. Với người làng em bảo theo bạn đi buôn lậu tận trên biên giới. Với bạn thân em bảo đi làm gái. Ô hay. Thế mà ối đứa xin theo. Em bảo, chúng mày đang làm cơ quan danh giá, sao lại đâm đầu theo tao làm gái. Có cùng đường như tao mới phải đi làm gái chứ! Đứa nào cũng bảo, chỉ được cái danh hão. Đói bạc mặt, thiếu xèng. “Xèng” nghĩa là “Tiền”, theo cách nói chệch của bọn gái chúng em. Em bảo chúng nó: “Được, chúng mày muốn tao liệu. Dễ thôi. Nhưng khi bị bắt thì đừng có khai là tao dụ dỗ, phỉnh phờ… Gái thời nay tự lao vào cả đấy. Chẳng đứa nào phỉnh phờ dụ dỗ đứa nào.

Em chào hàng các anh. Em nhắn tin có con bạn trẻ, xinh lắm. Anh nào chẳng hám của lạ. Em bảo các anh đưa nó một triệu. Bằng nửa tháng lương của nó. Đứa nào cũng chia cho em một nửa. Nhưng chỉ lần đầu thôi. Từ lần sau chúng nó được ăn cả một triệu. Mỗi chủ nhật chúng nó làm một vụ như thế, kiếm một triệu ngon ơ. Một tháng bốn triệu, gấp đôi lương rồi. Các anh gặp được em mới cũng vui vẻ cho xèng em. Em cũng được nửa triệu nữa. Chẳng phải vòi vĩnh gì. Các anh ấy tự đưa. Giống như dịch vụ môi giới. Y chang các hội làm ăn buôn bán.

Em sống đều đều như vậy, chẳng phải đăng ký cửa hàng cửa hiệu, chẳng phải thuế má, môn bài, cũng chẳng phải lo lót ông nọ bà kia, mà lại được các ông anh cưng chiều, bạn bè ngưỡng mộ.

Nhưng bỗng dưng cái ông anh em gặp ở quán rượu, em sẽ kể sau, bảo xin việc cho em đi làm. Anh bảo em phải lo cuộc sống lâu dài. Anh không nói nghề này nhơ nhuốc, xấu xa như mọi người vẫn nói. Anh bảo, tuổi xuân của ai rồi cũng đến buổi xế chiều. Làm sao em đi khách mãi được.

Em trố mắt nhìn ông anh. Anh nói trúng tim em, nhưng em hỏi anh nói đùa hay nói thật. Em cứ nhìn chằm chằm vào anh. Rồi tự dưng hai hàng nước mắt trào ra. Em ôm siết chặt ông anh như không bao giờ muốn buông ra nữa. Trời ơi. Sao anh không là chồng em. Sao anh không là bố em. Sao anh không là ông ngoại của em. Trời ! Sao anh không là tất cả những gì quý giá nhất của em.

Nhưng rồi em bỗng chững lại. Buông anh khỏi vòng tay. Đẩy tay anh đang ôm phủ sâu phía bụng dưới của em. Nâng chân anh đang đè nặng người em. Em bảo, em chẳng có bằng cấp gì, ai mà nhận em làm việc. Anh ư hứ một tiếng, rồi nhổm lên, hỏi em đã xem phim Giầy thủy tinh của Hàn Quốc chưa? Phim ấy em xem rồi. Em bảo anh, là em rất thích. Đúng là em thích thật.

Anh vẫn như không nghe em nói, ngồi bật dậy cạnh em, nhắc lại rành rẽ cho em nghe. Anh bảo phim ấy kể về một cô nàng trạc tuổi em, học chưa hết trường phổ thông, mà lập nghiệp, thành bà chủ một công ty phần mềm điện thoại di động.

Phim Hàn Quốc khác phim ta. Những cô gái gọi là hoàn lương trong phim ta đều trở thành kỹ sư, bác sỹ. Mấy ông bà làm phim cứ làm như bọn kỹ sư, bác sỹ là những hạng người lương thiện lắm. Lấy đó làm khuôn làm mẫu cho những đứa hoàn lương. Các ông bà làm phim lú lẫn hết rồi. Kỹ sư thì chôm chỉa đồ xí nghiệp mang bán Chợ Trời cho bọn buôn đồ ăn cắp. Bác sỹ thì ăn bẩn của người bệnh, không được ăn thì mặt mày sưng xỉa, mặc cho bệnh nhân chết mỏi chết mòn. Em đọc trên mạng, thấy người ta nói bọn làm phim mắc chứng sính bằng cấp. Với phim Hàn Quốc thì các nhân vật thành đạt đều là những con người bình thường, chẳng có bằng cấp gì, nhưng tuyệt vời, những con người tài ba trong cuộc sống thường ngày của họ. Xem xong phim Hàn Quốc, chúng em đều thấy, dường như ai cũng có thể tự làm được như vậy.

Sau đêm đó, anh gọi điện hẹn mang ô-tô đưa em đến xí nghiệp liên doanh với nước ngoài ở mãi tít tận cái thị trấn nào đấy em chẳng bao giờ nghe tên, gần thành phố Bắc Ninh, để làm cái việc gọi là “phỏng vấn”. Em hỏi bọn bạn, làm phỏng vấn là làm cái gì, thì chẳng đứa nào nói được rành rẽ. Em sực nhớ một lần hồi đi tiếp thị rượu, nghe lỏm các ông anh cười đùa kể chuyện phỏng vấn, Chuyện là một hôm, ông chủ tịch nông trường được lệnh cấp trên, nói tiếp đoàn phóng viên đến phỏng vấn. Ông trố mắt chẳng hiểu “phóng viên” là cái thứ cán bộ kiểu gì ở cấp trên, và họ đến “phỏng vấn” là làm trò gì với cấp dưới. Nhưng ông cũng truyền lệnh cho nông trường viên chuẩn bị sẵn sàng để mấy ông phóng viên cấp trên đến phỏng vấn nông trường viên cấp dưới.

Bọn đàn bà con gái nhao nhao hỏi… phóng viên phỏng vấn là làm cái trò gì với nông trường viên. Họ kéo đến trụ sở nông trường đòi ông chủ tịch hướng dẫn, họ chắc mẩm ông chủ tịch là người biết hết mọi thứ trên đời. Ông chủ tịch vò đầu bứt tai, nói ông cũng cóc biết nó phỏng vấn là làm cái con khỉ gì. Cuối cùng ông cũng phán ra những lời dõng dạc: “Tao cũng chẳng nghe cấp trên nói họ đến phỏng vấn là làm cái cóc khô gì. Thôi tốt nhất, bọn đàn bà con gái chúng mày mau mau đi tắm rửa sạch sẽ để chờ bọn phóng viên… Biết đâu, phóng viên phỏng vấn tức là nó đòi làm cái việc đấy. Còn tao phải tìm con kế toán làm sẵn cho các đồng chí cấp trên mấy cái phong bì”

Em hỏi ông anh của em về phỏng vấn, thì anh ấy bầy cho em cách trả lời các câu hỏi. Anh dặn dò rất kỹ, là người ta chỉ muốn thử cái đầu óc nhanh nhạy và sự khéo tay của em. Anh vẫn bảo là độ khéo tay của em thuộc hạng có đẳng cấp. Thế là em gặp vận may, được tạm tuyển vào bộ phận lắp ráp điện tử.

Em chờ mãi, xem cái ông tuyển dụng có … lôi em đi ăn tối, rồi kéo em vào nhà nghỉ như con bạn em nói không. Nó ra sức chém gió, dứt khoát, ra điều từng trải lắm, rằng đàn ông thằng nào cũng đểu như thế cả. Em bấm bụng, nếu anh ta rủ thì em sẽ tìm cách thoái thác. Em phải từ chối thôi. Những ông cán bộ phỏng vấn chắc chắn không thật lòng như các ông anh ngày ngày em tiếp. Bọn này trở mặt như trở bàn tay, khi cần nó lại vu vạ là mình khêu gợi nó trước, bêu mình là bọn đàn bà đi lên bằng … háng. Bây giờ trong thiên hạ khối kẻ không đi lên bằng đầu gối nữa rồi. Đi lên bằng đầu gối đã xưa như Diễm. Bây giờ chúng nó đi lên bằng háng.

Nhưng em nghĩ nát cả đầu, phải nói lời từ chối ra sao, thế này, thế nọ, để người ta khỏi mất lòng, hoặc phải tìm cách hoãn binh, hoãn binh ngày này qua tháng khác, chẳng hạn, hôm nay em đang gặp ngày đèn đỏ, hoặc em đang bị lên mấy cái mụn nhọt, và nói ra điều tình cảm, hẹn anh hôm khác. Tuy người ta gọi em là đĩ, nhưng em cũng suy nghĩ lắm, nó rủ được mình lên giường một lần, nó vần vò thân xác mình, nhưng rồi quen mui thấy mùi đòi ăn mãi, mình làm sao bắt nó buông tha. Mà nó còn khinh mình như con chó ghẻ. Nhưng tịnh vô không thấy anh ta lộ ra cái gì như muốn gạ gẫm em.

Thì ra trên đời này vẫn còn có những thằng đàn ông tử tế.

Ít ra em cũng thấy được hai thằng tử tế. Một ông phỏng vấn tuyển dụng em ở cái công ty vừa nhận em vào thử việc. Một nữa là cái ông anh đại gia vẫn qua lại với em. Lạ thật đấy. Một lần em hỏi anh, vì sao anh sẵn tiền không kiếm một con bồ non, mà cứ phải đi lại với bọn gái đĩ như em. Anh ta cười… “Này anh nói em nhá, đĩ có cái giá trị của đĩ”. Ối dào, giá trị cái con mịa gì. Anh này khéo vờ vịt. Nhưng rồi anh ta cứ thế tiếp tục, làm em nghệt mặt tin sái cổ: “Em biết không, cặp bồ thì bị ràng buộc. Ràng buộc năm này qua tháng khác. Đĩ thì khác. Thích thì gặp, không thích thì thôi. Đĩ không trách móc. Đĩ không hờn dỗi. Đĩ không ăn vạ. Đĩ không ghen tuông. Đĩ không trói mình trách nhiệm. Tiền tươi thóc thật sau mỗi phi vụ là xong. Đĩ không yêu sách này nọ làm khổ mình. Lỡ có bầu thì đĩ xin anh xèng, tự đi phá thai. Lỡ anh thương, bảo giữ thai đẻ con cho anh, thì đĩ lại bảo, em chưa có điều kiện nuôi con cho anh được. Em phải giữ nhan sắc để còn làm gái kiếm xèng. Còn bồ có bầu thì bắt anh phải có trách nhiệm, đòi mua cho bồ căn hộ cao cấp để nuôi con. Bồ còn đòi, mang bồ về làm vợ nhí. Có ông lúc chết đưa đám ma mới tá hỏa ra, không chỉ có một bà vợ già, một bà vợ trẻ đội mấn, bỗng dưng lại còn … tòi thêm một em “chanh cốm” nữa cũng lù lù, lại thêm một con vợ nhí đội mấn, lại một thằng cu choai choai đội vành rơm chống gậy, thêm nữa một con chíp chíp lăn đường. Cả làng chửi cho cái thằng thất đức, nhưng cũng có người suýt xoa khen anh tốt phúc.

Nghe anh thao thao một hồi, em hỏi, vì sao anh ta nhiều lý lẽ về cái nghề đĩ thế. Anh nói đùa, mà có khi là thật, anh là nhà nghiên cứu cái gì… xã hội học về đĩ. Anh cười, gọi là nhà nghiên cứu “Đĩ học” cũng được. Nghe anh nói, em cũng thấy vui vui trong bụng.

À, thì ra em có giá trị của em. Đĩ có giá trị của … Đĩ.

Thật ra đôi khi em gọi vị đại gia là “anh”, là “thằng đại gia” là hỗn. Nhưng đấy là cách nói của bọn gái chúng em. Em vẫn biết vậy. Vì anh ta ngang lứa với ông ngoại em. Ông ngoại em sáu ba, anh ta sáu mốt. Nhưng anh ta cặp với em. Anh ta là khách ruột của em. Em vẫn gọi là “anh”, đùa giỡn, cợt nhả, quần thảo, vật lộn với anh trên giường quen rồi. Đôi khi nhắn tin, em còn rên rỉ làm nũng .. “Chồng ui”, “Anh iu ui”, “Người tình của em ui”… Đủ kiểu cho anh ta sướng. Khi nào em nhớ thì em gọi điện hoặc nhắn tin cho anh. Nói nhớ là có lúc thôi. Phần lớn các cuộc gọi là vào lúc em kẹt xèng, Nhưng vẫn cứ nói là “nhớ” cho nó tình cảm. Mà anh ta cũng thích được nghe em nói như vậy. Khôn ranh, già đời như anh, biết thừa là em nói nhăng cuội, chẳng nhớ nhung gì.

Được nhận làm thử việc rồi, lòng em vẫn không yên. Đi làm thật sao? Từ nay chấm dứt cuộc đời làm gái. Từ nay được mặc bộ đồng phục với dòng chữ ngời ngời cái tên nghe rất oách của xí nghiệp liên doanh “Suziku Co”. Sau giờ làm trên đường về vẫn còn mặc đồng phục đầy hãnh diện. Có khi mặc cả đồng phục về làng để mẹ cũng được thơm lây. Từ giờ mẹ được ngẩng cao đầu nhìn thẳng vào mắt mọi người, vì con gái mặc trên mình bộ đồ mang dòng chữ trắng “Suziku Co” trên nền xanh của áo, được nhổ toẹt vào mặt những đứa rách việc thầm thì bêu riếu con mình làm gái. Trước đây mẹ chỉ cúi đầu câm lặng.

Hãnh diện thì hãnh diện thật, nhưng mà như bọn bạn bè em nói: Đói bạc mặt. Ư hừ. Đói bạc mặt, nhưng mà xin việc đâu có dễ. Xin được việc là cơ hội vàng thôi thúc em. Thế là em dứt khoát quyết định. Quyết định là quyết định thật. Quyết định dứt bỏ một quãng đời làm gái của em.

Em đã qua một tháng thử việc và được tuyển dụng chính thức.

Em phải làm theo giờ hành chính. Thời gian rất chi là kẹt, xèng thì thiếu mà không có thời gian nào đi gặp các anh để được làm nhẹ bớt những cơn túng thiếu giày vò thân xác. Không biết có ai thấu hiểu sự giày vò của những cơn túng thiếu. Trời ơi. Mua gói xôi cũng phải so đo tính toán, ăn xôi với muối vừng hay là ăn ruốc. Mà ruốc gì đâu cho cam. Rặt bã sắn dây xào ma-gi, thêm tí mì chính. Lắm lúc quẫn quá em đã lóe ý nghĩ ăn cắp của con bạn sống cùng phòng có cái ví tiền luôn để hớ hênh. Nhưng rồi em cố nén cơn túng thiếu không để hai ngón tay đụng vào cái mép ví của nó. Mẹ ơi. Mẹ có hiểu cho con. Nhục ơi là nhục. Ô nhục hơn làm gái. Cái thân làm gái này chưa bao giờ bị giày vò như thế. Cái thân làm gái này chưa bao giờ nghĩ đến đoạn ăn cắp tiền của bạn.

Thế mới biết làm gái xênh xang. Không vật vã thế này.

Ngày nào em cũng giằng co với mình. Em muốn bỏ chỗ này trở về chốn cũ, ngày ngày với đống chăn gối của nhà nghỉ cùng các ông anh. Nhưng rồi em lại nghĩ đến sự hãnh diện của mẹ, đến ánh mắt sáng long lanh của mẹ khi nhìn mọi người trong làng ngoài xóm. Rồi em lại nghĩ đến ông anh đã kéo em về với đời thường. Em đã khóc vì tấm lòng nhân hậu của anh. Em là gì của anh mới được chứ? Em chẳng là gì sất. Em là một con gái gọi. Vậy tại sao anh giang tay cưu mang em? Chỉ nghĩ đến đó là em thấy trấn tĩnh lên. Nó kéo chân em lại. Em không nỡ phản bội tấm lòng của anh… Ôi. Hình như thế nào ấy nhỉ … em thuộc về anh mất rồi. Không. Em chẳng bao giờ còn có tư cách được sống trong cái diễm phúc ấy. Em chỉ là thân phận một con gái gọi.

Em nhớ lần đầu gặp anh trong quán rượu. Dạo ấy em làm tiếp thị cho một hãng rượu tây. Em đến bên bàn các anh, giọng chèo kéo:

- Em chào các anh ạ. Xin mời các anh nếm rượu của hãng chúng em.

- Này, một ông anh cười. À này, cảm ơn em đã mời nếm rượu. Nhưng các em dụi mắt nhìn cho kỹ nhá, các anh đây đều đáng tuổi .. là … là … anh bố của em đấy.

- Ơ hay, em cười tít mắt. Ơ hay nhỉ, anh của bố con cũng mời. Con mời các bác… anh của bố con nếm rượu.

Một anh vỗ vai em:

- Gọi là bác, nhưng mà xưng “em”

- Dạ, em lại đon đả, em mời các bác nếm rượu của hãng em ạ.

Tàn cuộc đêm đó, một anh vẫy vẫy khi em đang mời rượu ở bàn khác. Em đến bàn anh, tưởng anh gọi em phục vụ. Không phải. Thì ra anh hỏi số điện thoại, rồi nháy máy cho em, bảo em nhớ tên anh, là anh Bình. Anh rút ví cho em tờ giấy hai trăm ngàn đồng. Em sướng rên. Em nói cảm ơn anh, và cũng nói anh ghi tên em là Linh. Anh hỏi em nói lại cho rõ. Em nói lại là Linh. Anh hỏi lại, là “Linh” hay là “Ninh”? Em ở quê mới lên hả. Em không “lói” ngọng đấy chứ. Anh cố tình nói ngọng để trêu em là con nhà quê mới lên chốn thị thành, phố xá. Em cười nhắc lại, tên là Linh, Linh “Lờ cao ạ”. Linh là “Linh tinh” ạ. Dạ, em không nói ngọng đâu ạ. Nói là anh, nhưng như em đã nói, đáng ra phải gọi là ông ngoại mới đúng.

Em làm tiếp thị rượu, ra vào các quán rượu đối đáp cợt nhả với khách quen rồi. Một lần, đứa bạn trong hội tiếp thị rủ em về Cẩm Phả chơi. Cẩm Phả là quê nó. Cũng là nơi gắn bó cả cuộc đời ông ngoại của em. Nhà nó trên một con phố nhỏ, em nhớ, gọi tên là phố Lê Lợi. Con phố đổ ra đầu Dốc Trục 2. Ông ngoại vẫn kể lại, chân Dốc Trục 2 ngày xưa là một bãi rộng lầm lầy than bụi. Sáng sáng tấp nập xe tải chở thợ mỏ lên lò Lộ Trí, lên tầng Đèo Nai, cả đi Cọc Sáu nữa. Nay là một vườn hoa rực rỡ. Nhưng ông ngoại vẫn tiếc cái khung cảnh náo nhiệt của bãi xe lầm lội ngày xưa. Ông ngoại bảo, nó lầm lầy than bụi, nhưng thân thương lắm. Nó là cuộc sống một thời của ông ngoại, một thời lam lũ.

Một buổi chiều, chúng em từ trên phố Lê Lợi ở đầu Dốc Trục 2 đi xuống. Mấy anh thanh niên mỏ đi ngược từ chân dốc lên, trêu ghẹo:

- Này, em thổi cơm chưa mà đã đi nhởn đấy?

Anh ta hỏi giọng cứ tự nhiên như thể đứa nào trong đám chúng em là vợ anh ta. Gặp phải con bạn em đáo để không vừa. Nó cười tươi ngọt xớt, nói cái giọng rất chi là lễ phép:

- Dạ, thưa anh, cơm em thổi rồi ạ. Cả cơm, với lại cái đầu cá, em đã trộn sẵn sàng vào cái đĩa của anh vẫn để ở đầu hè ấy ạ. Anh về ăn đi, rồi nằm một chỗ mà trông nhà. Ngoan nhá.

Em phì cười. Nó nói, làm như anh là con chó nhà nó không bằng.

Mấy thanh niên cười ha há, biết gặp con này đanh đá chẳng vừa, đành lên giọng làm lành:

- Hi hi. Em gái giỏi! Thế này thì anh phải về nói bố mẹ mang trầu cau sang thưa chuyện với nhà em gái thui. Anh ta nói “thui” ra cái điều thân thiết với chúng em.

*

Thế là em đã làm việc được gần một năm. Em làm việc theo giờ hành chính, vì vậy anh thường chỉ có thể hẹn em vào chủ nhật. Nhưng anh bận suốt, có khi bẵng đi hai ba chủ nhật em không gặp được anh. Tự nhiên em thấy dội lên một nỗi niềm gì đó, thương anh. Ở tuổi sáu mươi như anh còn đang sung sức. Vợ anh mất đã lâu lắm rồi. Bà ấy bị ung thư dạ con. Cháu nội anh ấy chỉ kém em ba tuổi. Em sinh chín ba. Cháu nội anh ấy sinh chín sáu. Năm nay nó vào đại học. Nó suốt ngày đi chơi với bạn. Bố mẹ nó công việc bận rộn, đi sớm về khuya, có khi làm việc cả ngày nghỉ, bỏ mặc anh ấy một mình. Anh mở công ty tư vấn thiết kế gì gì đấy. Hết công việc ở công ty thì trở về với cuộc sống cô đơn. Em thương anh ấy thực lòng. Và em đã thương anh ấy theo kiểu bọn gái chúng em.

Một lần em gọi điện hẹn anh. Nói anh vào nhà nghỉ lấy phòng, rồi nhắn tin hẹn em đến. Anh lấy phòng, nằm xem ti-vi chờ em. Đúng giờ hẹn cửa phòng kẹt mở. Nhưng không phải em, mà là con bạn em. Anh nhảy tuột khỏi chăn, mặc mỗi cái quần xịt, đứng sững như trời trồng bên cạnh giường, hỏi: “Cô không nhầm phòng đấy chứ”. Con bạn em cười nhanh nhẩu, nói một mạch: “Dạ không ạ. Em là bạn cái Linh. Nó thương anh, bảo em đến với anh, Em tên là Trang ạ. Thôi, anh làm quen với em đi”. Anh ngần ngừ, rồi bảo Trang ngồi xuống ghế cạnh bàn nước. Anh hỏi Trang làm gì. Trang bảo đi học, sinh viên năm thứ hai. Anh tròn xoe mắt, lẩm bẩm “Sinh viên năm thứ hai”… “Sinh viên à”. “Ư hứ. Hội này có cả sinh viên? Công nhân, nông dân, học sinh thi trượt, viên chức, và bây giờ có cả sinh viên”. Nó ngớ ra, không hiểu ông anh lẩm bẩm cái gì.

Rồi nó cười hích hích.

Làm quen đơn giản chỉ có thế. Và từ đấy anh qua lại với Trang. Cái nghề làm gái chúng em không rềnh rang như cưới hỏi, cũng không nhiêu khê kính mời, kính thưa, kính gửi như họp hành ở trường em học hồi trước, mà cũng không cầu kỳ như lễ hội, cũng chẳng điệu nghệ như diễn kịch, đóng phim. Thế là xong. Mà thường khi chung thủy lâu bền. Đơn giản, chung thủy không phải vì cái gì viển vông cao xa, mà một kẻ vì tiền, một người vì tình. Tiền thì thật, nhưng tình đâu có thật.

Anh ấy hỏi Trang, sao em đang đi học mà lại theo các chị làm cái nghề đi khách ngớ ngẩn này. Anh ta ra cái điều lịch sự, gọi là “đi khách” chứ không gọi là “làm đĩ” hay là “làm gái gọi”. Anh ta không gọi là “làm đĩ nhơ nhuốc” mà gọi là “đi khách ngớ ngẩn”. Cái bọn lắm chữ có khác. Họ làm cho mình không đến nỗi xấu mặt. Nhưng chẳng biết thật bụng họ nghĩ thế nào.

Trang tròn mắt, sao lại ngớ ngẩn hả anh? Trang bảo, em cần tiền đi học. Em làm thân với các anh. Được các anh thương, bù đắp cho em tiền đi học. Thế là gặp may hơn lũ bạn bè. Thế là hạnh phúc chứ!

Trang kể, em theo học hệ dân sự của một trường đại học quân đội. Em phải đóng học phí, phải đóng tiền nhà, phải mua sách vở, tài liệu, tiền lo lót lúc thi kiểm tra, còn phải trang trải mọi nhu cầu của cuộc sống, rồi sinh nhật bạn bè, mừng đám cưới, phúng viếng đám ma. Đủ việc.

Bố Trang chết vì một tai nạn đúng hôm mưa to bão lớn, khi cùng dân làng đi cứu đê. Mẹ Trang làm nông nghiệp, Còn một đứa em trai mẹ phải gánh vác. Anh tin là Trang nói thật. Anh hẹn mỗi tuần gặp Trang một lần, cho em một triệu, mỗi tháng em có bốn triệu, một năm bốn mươi tám triệu. Anh nhẩm tính, tiền học mất mười một triệu một năm, tiền nhà mười hai triệu, vừa vặn còn hai lăm triệu cho mười hai tháng. Trừ học phí, tiền nhà, cuộc sống sinh viên thế là tạm ổn, thậm chí là còn phong lưu so với các bạn.

Trường của Trang ở xa Hà Nội. Trang chỉ có thể về gặp anh vào chủ nhật. Một lần Trang khoe được là sinh viên giỏi. Anh lại thưởng cho Trang. Một lần vào chủ nhật Trang nhắn tin xin lỗi không về được. Anh hỏi Trang bận gì? Bận đi chơi với bạn trai à ? Hay là giận anh à? Trang bảo em không giận, em cũng chẳng có bạn trai. Chủ nhật này em bận học lớp cảm tình. Người ta đặt kế hoạch em phải được kết nạp trước khi tốt nghiệp để đạt cái gì đấy, hình như gọi là đạt “chỉ tiêu phát triển ”. Anh hỏi em làm gì ở lớp mà được theo học lớp cảm tình. Lớp trưởng à? Trang bảo, em không phải lớp trưởng, mà là bí thư đoàn.

Anh hỏi Trang, có định làm việc nhà nước không mà phấn đấu. Trang bảo chuẩn bị sẵn để lỡ xin được vào làm việc ở cơ quan nhà nước thì mình đã có cái giấy giới thiệu sinh hoạt. Nếu làm việc ở hãng tư nhân thì thôi không nộp giấy nữa. Thế là được cả đôi đường. Anh thầm khen, em gái thời nay khôn như rận. Em gái cũng phấn đấu. Nhưng chủ nhật này em gái bận đi học cảm tình thì không kiếm được xèng.

Nghĩ đến đây anh lại thương Trang. Anh thương Trang, chủ nhật không gặp anh thì không có tiền, anh nẩy ra ý định gửi vào tài khoản ATM cho em. Anh nhác thấy em có thẻ ATM trong một lần em mở ví nhét tiền vừa nhận của anh. Vì anh gọi điện hỏi tài khoản mà anh biết được tên thật của em không phải là Trang, mà là Hoàng Lan Anh, quê ở thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tài khoản của em ở Ngân hàng Vĩnh Lộc.

Nghe các cụ nói, Chiêm Hóa ngày xưa là căn cứ kháng chiến, là nơi đóng quân của một cơ quan gì đó. Trên biển lưu niệm gắn chữ nổi, gọi là “Nhà nghiên cứu Kỹ thuật Quân giới”. Vùng đất này suốt những năm dài cưu mang kháng chiến, cứ tưởng nay đã đổi đời. Thế hệ cha ông góp tiền, góp thóc, xả thân cho kháng chiến, thế hệ cháu con bán thân mình để có cái nuôi thân.

Thế là em chẳng giấu gì anh cả. Trường của em thì ở một thành phố cách Hà Nội khoảng dăm sáu chục cây số. Chỉ có ngày chủ nhật, Trang mới về Hà Nội gặp anh. Em chẳng giấu anh cái gì sất. Công khai hết nhân thân của gái. Gái bây giờ hay thật. Đánh bài ngửa hết. Sợ gì mà phải nói dối. Cứ nói trắng phớ ra, ai làm gì mình nào!

Các cơ quan bây giờ cũng làm ngơ cho cái bọn làm gái chúng em, làm như không biết có chúng em trên đời này. Báo chí lên án nọ kia, gọi là tệ nạn xã hội. Các cơ quan lờ tịt, để mặc cho các tệ nạn tung hoành và bọn gái nhởn nhơ. Đơn giản là vì có các tệ nạn thì nhà nghỉ mới có khách, mới có xèng để biếu xén đều đều. Thành phố càng nhiều các thứ tệ nạn thì cơ quan thu nhập càng cao.

Con Châu khoe, thỉnh thoảng cũng được theo chân các chú cô cán bộ đi kiểm tra nhà nghỉ, ghi ghi chép chép, cũng kiếm được cái phong bì. Lần đầu tiên đi kiểm tra, nó mở ra giật mình. Được nửa triệu. Mỗi tháng đi kiểm tra nhắc nhở mươi nhà, nhẹ nhàng thôi, riêng cái Châu cũng có thu nhập bằng hai ba tháng lương. Các quan thì chắc phong bì dầy hơn. Không biết bao nhiêu. Chẳng dám hỏi. Đó chẳng phải việc mình. Nhưng một buổi trưa, sau khi gọi là đi “kiểm tra” nhà nghỉ, ông sếp ngẫu hứng mời cả hội đi ăn phở, ra cái điều hào phóng rút phong bì trả tiền, con Châu liếc nhìn. Lại giật mình hơn. Trời ơi. Hẳn sáu tờ. Gấp sáu lần nó. Hèn nào các ông bà đi nhắc nhở đều đều. Một tháng cũng kiếm vài ba chục triệu. Bằng nhà nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng. Con Châu được phân công viết báo cáo các hoạt động kiểm tra nhắc nhở. Cơ quan được đánh giá đầu tầu mẫu mực. Thỉnh thoảng con Châu còn được phân công viết cái gì … báo cáo điển hình để lãnh đạo trình bầy trong những hội nghị tổng kết về phòng chống tệ nạn… của thành phố. Oách thật.

Ờ… ờ. Em nhớ, một lần gặp con Châu nghe nó kể chuyện xong, em bảo, thế là chúng mày lừa dối cấp trên. Thế là cả thầy tớ nhà mày không lương thiện, Thế là cả thầy tớ nhà mày phải đi hoàn lương. Nó cười hí hí. Nó bảo chẳng cứ thầy tớ nhà tao, mà thầy tớ mọi nhà đều điêu trác hết. Thế là cả làng này, cả huyện này mất lương thiện. Cả làng cả huyện này phải đi hoàn lương. Thế thì trại hoàn lương không có chỗ chứa. Cũng chẳng đủ cháo loãng cho chúng nó ăn. Thôi, khỏi hoàn lương là ngon lành nhất. Với lại, trên ti-vi có ông quan to nói, cho chúng nó đi hoàn lương hết thì lấy ai làm cái việc đầy tớ của dân? Thiếu đầy tớ hầu hạ thì dân lại phải tự làm hết mọi việc, lấy thời gian đâu để làm lụng kiếm cơm và cung phụng cho bọn đầy tớ.

Chung quy lại, chỉ còn bọn đĩ chúng em là lương thiện. Chắc vì bây giờ nhận ra bọn đĩ lương thiện, nên người ta không nói như các cụ xưa nữa, gọi là làm đĩ, mà gọi là làm gái. Gặp bạn bè khoe “Tao đi làm gái”. Còn tự hào được là “gái gọi”. Có đứa còn nói chữ, dù nó chẳng biết là chữ gì, nhưng cứ nhắn tin cho nhau gọi là “Call girl”. Với vốn liếng ngoại ngữ học đến lớp mười một, em biết chắc đó là tiếng Anh. Bây giờ có cái mốt hơi tí thì lại xổ tiếng Anh. Học tiếng Anh đến lớp mười một, nay quên sạch. Chỉ nhớ các ông anh dạy đánh chữ nhắn tin là như thế. Có đứa còn khoe cả danh sách dài dài các ông anh đủ hạng trong danh bạ điện thoại. Có đứa còn khoe một lô những cái gọi là “vi dit”, ghi đủ thứ chức vụ, cả đại gia, cả các ông … gọi chữ là “trưởng trưởng tá tá” gì đó, như là vụ trưởng, cục trưởng, trưởng ban, trưởng phòng, có cả cái gì… thứ với cục, rồi trung tá, đại tá. Chẳng ngượng ngùng gì. Chẳng thấy tê tê ở lưỡi, sởn sởn ở gáy chút nào.

Một lần đăng trên báo chí vụ vây bắt ở nhà hàng “Lữ Quán”, người ta kê trên báo “ vi dit” của một xâu trưởng tá. Các bố thanh minh thanh nga, rằng đó là nhân viên chơi đểu thủ trưởng, ăn trộm “vi dit” của thủ trưởng để huênh hoang với các em. Ở xứ này hay thật. Chơi gái mà cũng khoe nhãn mác. Họ không hiểu rằng em gái thì chỉ cần xèng. Có xèng thì anh nào cũng hay hết.

Tướng cướp chơi gái cũng được xếp ngang bằng với các vị “trưởng trưởng tá tá” chơi gái. Mà tướng cướp thường khi có giá trị cao hơn các vị kia, vì nó vung xèng thoải mái hơn các vị. Mà các vị đâu có đưa xèng cho các em thân tình như tướng cướp. Nó ra bộ khinh các em. Xèng đã có một ông anh bao cho cả lũ. Bọn gái chúng em ngồi thành hàng dài để các ông anh chỉ trỏ cho các vị trưởng tá lựa chọn. Rồi ông anh xỉa xèng cho từng đứa. Xong thì chúng em đưa các anh trưởng tá vô buồng.

Chúng em gọi tướng cướp là đại gia, gọi tá trưởng là quan chức. Đại gia cung phụng quan chức cả việc đi chơi gái. Có anh đại gia kể chuyện những quan chức vào loại đẳng cấp cao trong số trưởng trưởng tá tá, gọi là … gì đấy … thứ với cục … còn thản nhiên tốc váy các em, tụt xịt các em, rồi làm việc hùng hục, cần cù ngay trong phòng karaokê trước mặt mọi người.

Bọn đốn mạt như vậy đấy.

Ối dào. Thế mà khi ngồi vào bàn quan chức, chúng nó vênh vang phải biết. Mon men xin việc mà nó nắn phong bì thấy mỏng thì đừng hòng thưa gửi.

Vậy là em đã quyết định xong. Em quyết định bỏ cái xí nghiệp ở gần Bắc Ninh để về Hà Nội. Em tìm đến chị chủ nhà cũ của em xin trọ. Chị hỏi “Em không làm xí nghiệp nữa à?” Em cười nói cho qua chuyện “Đói lắm chị ơi”

Thật ra không phải em bỏ xí nghiệp vì đói. Vì em được xếp loại tay nghề tương đối. Lương cũng không đến nỗi nào. Em vẫn gửi đều đều bù cặp cho mẹ em ở quê như khi làm gái.

Bỏ xí nghiệp em buồn lắm. Buồn vì mọi người tốt với em. Buồn vì em đã phản bội anh đại gia của em. Em bỏ xí nghiệp vì lý do khác.

Em bỏ xí nghiệp … để quay về con đường xưa em đi.

Em sẽ kể ngay bây giờ.

Em tính lại rồi. Em sinh năm chín ba, hai mốt tuổi. Em thấy có chị ba ba vẫn đi khách. Như vậy là em còn đi khách được mười hai năm nữa. Mỗi ngày cứ cho là em có một anh khách, thật ra có ngày em đi vài ba khách. Như vậy mỗi tháng ăn tiêu rồi em vẫn còn để ra được ngót nghét cây vàng. Mỗi năm bỏ rẻ em cũng kiếm cả chục cây. Mười hai năm nữa em có khoảng trăm cây. Em sẽ dành dụm, tích góp. Đến ngày hết mã làm gái, em về quê dựng căn nhà, mở cửa hàng bán quần áo hoặc bán giải khát. Mình có xèng, có cửa hàng, tìm chồng dễ như bỡn, khối thằng nộp đơn. Em sẽ chọn một thằng không thượng cẳng chân hạ cẳng tay với em, không rượu chè, không nghiện hút, cần cù, dễ bảo. Chẳng cần bác sỹ, kỹ sư gì hết. Một lũ danh hão, vô tích sự. Tiến sỹ càng nhảm nhí. Dài lưng tốn vải. Lại phải thuê ô-sin hầu hạ chúng nó. Chồng em phải là một anh chàng hiền lành. Em sẽ sai hắn đi chạy hàng cho em. Rồi em sẽ đẻ con với hắn. Xong rồi hắn bỏ em theo con khác cũng được. Mà nếu hắn quậy phá thì chính em là người bỏ hắn. Em sống với con em.

Em tính với chị chủ nhà. Chị khen em chí thú. Chốc chốc chị lại suýt xoa thương em. Chị bảo, thôi, em mới về khó khăn, phải tìm lại khách cũ, ba tháng đầu chị chỉ lấy tám trăm tiền nhà. Từ tháng thứ tư mới thu một triệu như trước.

Em cảm ơn bà chị. Bà chị thật tốt với em. Lúc đầu không phải là ý chị, mà là con bạn cũ của em, cũng bọn gái với nhau cả. Nó đang thuê nhà chị. Nó bảo em, mày bỏ nghề cả năm, bây giờ phải làm lại từ đầu. Mày còn khó khăn, tao đỡ cho ít tháng. Cái phòng này tao thuê chung với một con bạn cũng làm gái. Chị chủ lấy chúng tao hai triệu, mỗi đứa tao góp một triệu. Nó đi lấy chồng rồi. Mày vào thế chỗ nó. Mày mới về tao đỡ cho. Tao góp triệu hai, mày tám trăm. Ba bốn tháng khi có khách đều đều thì mày cũng góp một triệu như tao.

Chị chủ nhà nghe thấy, cười con bạn em phân chia. Chị khen nó tình cảm, khen nó thương bạn, khen nó tốt với bạn. Chị bảo, thôi, chị đỡ cho chúng mày. Con Nga, bạn em, chỉ đưa chị một triệu thôi, con Linh tám trăm.

Em đã định dứt bỏ cuộc đời làm gái, định vứt cái sim ghi địa chỉ các anh, nhưng nghĩ thế nào em giữ lại, thi thoảng nạp dăm chục để không bị hết hạn sử dụng sim. Thế mà may.

Chưa đầy ba tháng em đã nối lại hết liên lạc với tất cả các anh. Điều em lo nhất là các anh đi hoàn lương hết cả, không đi chơi với bọn gái chúng em nữa. Nhưng may là chẳng anh nào hoàn lương hết, mà ngược lại, nói vụng các anh nhá, số các anh cần hoàn lương lại tăng thêm, anh nọ kéo thêm anh kia.

Thì ra nghề này vẫn đắt khách. Em lại được các anh cho xèng đều đều. Em vừa gửi về quê, vừa mua vàng để dành làm vốn.

Bây giờ em kể chuyện em bỏ xí nghiệp.

Nói đúng ra, em bỏ xí nghiệp vẫn là lý do xèng. Làm xí nghiệp thì cái món xèng eo hẹp hơn nhiều so với làm gái. Nhưng em đã quen và chấp nhận. Quyết tâm đi theo con đường mà mọi người gọi là hoàn lương. Nhưng như em đã nói, cái đám con Châu và mấy ông sếp của nó mới đáng phải đi hoàn lương.

Em làm gái còn thấy mình có một cái mà không phải bọn gái nào cũng nói ra được. Đó là em có nhiều dịp để phán xét các ông quan chức… Đời làm gái giúp em ngộ ra, đúng như các cụ nói… “Ngồi bàn quan ngó như thần. Lăn vào với gái quan cũng … tần mần như ma”. Quan cũng làm đủ các trò ranh mãnh chẳng kém gì bọn ma cô.

Em đã nói đấy, làm gái em phải kiếm mỗi tháng cả cây vàng. Suốt một năm làm xí nghiệp em kiếm chỉ đến bẩy triệu một tháng là kịch. So với làm gái thì bẩy triệu là mạt hạng. Nhưng bẩy triệu đã là khoản tiền bạn bè ngưỡng mộ rồi đấy. Vì thế mà em thấy yên thân. Không đòi hỏi gì cao xa hơn thế.

Nhưng rồi… Cuộc đời này cứ bị cái “nhưng rồi” nó bẻ mình đi vào những khúc ngoặt mà mình không thể nào tính trước. Nhưng rồi … gia đình em gặp một tai họa quá bất ngờ. Chuyện này đã được đăng trên các báo và đăng cả trên mạng. Bọn gái chúng em có iPhone đọc hết.

Một thằng cháu gọi mẹ em là bà trẻ lao đầu nghiện hút. Nó ăn cắp hết sạch đồ của bố mẹ để bán kiếm tiền hút hít. Lần này khát thuốc, ở nhà không còn gì để ăn cắp nữa, chạy đến xin tiền mẹ em. Mẹ em nghĩ thương tình, cho nó bốn chục đủ mua một tép. Nó năn nỉ đòi thêm, mẹ em bảo bà chỉ có thế. Nó lại năn nỉ tiếp, mẹ em bảo mày về xin bố mẹ mày. Nó chửi thề, bảo mẹ em, bà trẻ đã ki bo lại còn nhiễu sự. Ông mà xin được tiền của bố mẹ ông, thì ông sang hỏi bà trẻ làm đéo gì. Nó bắt đầu đỏ mặt văng tục. Mẹ em không nói gì. Nó lại chửi thề lên giọng quát tháo đòi bà cho thêm. Mẹ em vẫn không cho, nhưng lại nói nó này nọ theo thói quen răn dạy con cháu của mấy bà già. Nó cáu. Bảo bà đéo cho thì câm mồm đi. Nói lắm đéo chịu được. Nó vứt hai tờ hai chục ngàn xuống nền nhà, lấy chân di di đạp đạp, nhổ toẹt một bãi nước bọt, định bỏ đi. Nhưng nghĩ thế nào nó quay lại, nói ông đéo cần, ông đi trấn lột, ông đéo bà cháu gì sất. Mẹ em uất quá chửi nó là đồ hỗn. Nó quay ngoắt lại, rút dao ra … hét lớn: “Hỗn cái đéo gì ? Hỗn cái mả con mẹ mày à? Con già có câm ngay cái mõm đi không, ông lại xía cho dăm nhát dao này bây giờ”. Mẹ em càng uất ức với thằng cháu, quát: “Xéo ngay, tao không có hạng cháu như mày”. Nó nổi khùng tiến sát mẹ em… A… a… Con đĩ già đã ki bo lại còn lắm điều… Này lắm điều. Tao cho mày ra bã. Tao cho mày đi theo ông trẻ tao … Cho mày chết mẹ mày đi. Thế là thằng cháu xỉa bà liên hồi mấy nhát. Mẹ em ngã gục trên vũng máu.

Em thương hai đứa em. May có bà dì em đến ở với chúng nó đỡ đần. Nhưng em phải lo kiếm tiền, lo đời sống, học hành cho hai đứa em. Bây giờ làm gái là nghĩa vụ trước hương hồn của mẹ. Em phải thay mẹ nuôi các em trưởng thành. Làm ở xí nghiệp thì không thể nào đủ tiền lo liệu. Em tính rồi, em còn mười mấy năm làm gái. Chừng ấy năm đủ thời gian để các em học hành thành đạt. Em còn phải lo dành cả tiền để xin việc cho chúng nó.

Em không muốn nói ra cái sự tình ấy, nhưng đột nhiên trong lúc chị em chuyện trò, chị chủ thấy em đeo giải băng đen trên ngực, hỏi em có chuyện gì ở nhà sao? Em bảo vâng, rồi kể cho chị nghe. Kể với chị xong em nhận ra mắt chị chớp chớp liên hồi … đỏ hoe, đẫm ướt.

Mẹ ơi, hồi còn sống mẹ cứ truy hỏi con làm nghề gì mà mày lắm tiền thế. Với cái nhạy cảm phụ nữ, mẹ có ý nghi ngờ em. Nhưng mẹ không nỡ buộc tội. Bây giờ em khấn mẹ. Mắt em nhòa đi mãi. Mẹ ơi. Con mất mẹ rồi. Con mất mẹ thật rồi. Mẹ ơi, con thương mẹ. Mẹ ơi, con xót mẹ. Bây giờ con không giấu mẹ nữa. Mẹ tha tội cho con. Con làm đĩ. Con làm đĩ đây. Con nguyện làm đĩ để đỡ đần các em thay mẹ.

Đang nửa câu chuyện thì cái iPhone đặt trên bàn réo nhạc tình tang liên hồi. Em nhấc điện thoại, xin lỗi chị chủ nhà:

- Dạ, em nghe đây ạ… Vâng, em đây ạ. …Dạ, em chào anh… Em đang xem ti vi với chị chủ nhà…. Thế ạ… Anh đợi em chút xíu nhá… Phòng bao nhiêu ạ… Vâng

Em tắt điện thoại. Chải vội tóc. Tô lại son trên môi. Sửa lại váy áo ngay ngắn. Tháo dải băng đen trước ngực. Chào mọi người. Đeo núm nghe nhạc cắm vào iPhone. Rồi em bước ra cửa. Xỏ giầy. Vụt chạy khỏi nhà.

Em bước vội. Em chạy miệt mài. Điệu nhạc từ iPhone vẳng bên tai em.

Giai điệu làm em não lòng qua giọng hát ai oán của ca sĩ Khánh Ly.

“Đi về đâu hỡi em?

Khi trong lòng không chút nắng ”…

Giọng hát mượt mà bên tai hòa quyện trong nhịp rảo bước chân em.

“Em về đâu hỡi em?

Có nghe tình yêu lên tiếng…

Nỗi đau hay niềm cay đắng.”

“Đời nhẹ nâng bước chân em…”

“Đi về đâu hỡi em? …Một đời em mãi lang thang…”

…… “Đi về đâu hỡi em.”

Chị Khánh Ly ơi. Em đi về nơi ấy.

Em đi về phía con đường xưa em đi chị ạ.

Phạm Hoài Vũ

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by kalua »

Những Que Diêm Không Cháy


Quyên – vợ tôi mất mới đó mà đã hơn một năm. Nhanh quá. Mới ngày nào tôi còn ra vô tất tả trong bệnh viện để chăm sóc cho Quyên. Ấy thế mà… Cứ mỗi tối đi làm về ngang qua con đường dẫn vào bệnh viện là tôi lại se lòng. Vẫn là cái ông gác cửa người da đen trong bộ đồng phục cứng đờ và những cái băng ghế mà tôi đã ngồi lê lết chờ Quyên ở mỗi ca phẫu thuật. Tội nghiệp vợ tôi quá. Từ ngày chân ướt chân ráo qua xứ người Quyên đi làm đầu tắt mặt tối để lo cho cả ba cha con đi học. Đến khi tôi ra trường rồi hai đứa con cũng đỗ đạt ra trường thì cái đòn gánh nặng trĩu cong vòng qua bao nhiêu năm tháng không còn chịu đựng nổi nữa. Nó gãy ngang cái rụp. Người gánh lăn ra chết.

Tôi chôn cất Quyên tử tế nhưng nỗi buồn thì chẳng thể nào chôn được. Nó vẫn hiện hữu đó, trơ trơ ra đó, gặm nhấm lấy tôi. Quyên như người trồng cây mà chẳng bao giờ hái được quả. Thật đau lòng. Nghe lời bạn bè tôi đi đó đi đây cho khuây khỏa nhưng làm gì làm, mỗi khi bước chân về nhà thì cái buồn lại dâng trào làm tôi như bị nhận chìm trong cái cảm giác trống vắng và thê lương…

Nhà tôi có hai tầng. Tầng trên có hai phòng ngủ. Trước đây thì một phòng ngủ dành cho hai đứa con, một phòng dành cho hai vợ chồng. Sau này thì hai cháu đi làm xa không còn ở đó nữa. Quyên mất đi rồi thì tôi cũng không muốn lên lầu ngủ một mình trên cái giường rộng thênh thang như sân bóng để làm gì. Tầng trên coi như hoàn toàn bỏ trống. Tôi dọn mọi thứ xuống tầng dưới, ăn cơm xong thì ngã ra trên cái ghế sofa mà ngủ cho rồi. Ngày Quyên mới mất tôi hay chiêm bao thấy nàng lắm. Tôi nghĩ trong vòng bốn mươi chín ngày người chết chưa đi đầu thai nên chắc Quyên vẫn còn quanh quẩn bên tôi. Sau bốn mươi chín ngày thì tôi vẫn chiêm bao thấy Quyên nhưng thưa hơn. Đến sau một trăm ngày thì tôi vẫn thấy. Tôi lấy làm lạ nên đi hỏi han người nọ người kia nhưng ai cũng bảo là do tôi nhớ Quyên quá nên thấy trong mơ chứ không có gì lạ.

Tuy mơ nhiều nhưng những giấc mơ ấy không có gì làm tôi sợ mà trái lại là khác. Trong mơ Quyên không còn mang cái hình hài hốc hác tiều tụy như ở bệnh viện mà luôn xinh đẹp, dễ thương, trẻ trung và nhanh nhẹn như dạo nào. Có lúc tôi thấy Quyên và tôi đi dạo bên bờ sông. Mặt sông xanh biếc lờ lững những dề lục bình. Có một cây gì to lắm, cành de ra trĩu đầy quả. Tôi đưa tay hái cho Quyên. Quyên cười khanh khách. Có lúc tôi lại thấy hai vợ chồng đi xem phim, rồi đi chợ mua rau cải, có lúc thấy Quyên ôm về một cái bao gì to tướng. Tôi hỏi:” Em đem gì về vậy?” Quyên cười tươi hớn hở lấy ra cho tôi xem bao nhiêu quà với cái áo đầm con nít xinh xắn mà bảo:” Anh coi em mua cho con Tí nè. Anh thấy đẹp không?” Tôi gật đầu mỉm cười:” Đẹp lắm.” Quyên cười rạng rỡ, ánh mắt chan hòa yêu thương. Tỉnh dậy đầu tôi vẫn còn gối trên cánh tay tôi. Tôi nhớ Quyên quá. Tôi mặc kệ không còn đi hỏi han ai về những giấc mơ của mình nữa. Tôi thả trôi theo ngày tháng, sống lẫn lộn thực hư. Có lúc tôi mơ thấy Quyên ba đêm liên tiếp mà lúc nào cũng toàn chuyện vui.

Một ngày nọ tôi ra mộ thăm Quyên và nhận ra khoảng đất trống bên cạnh vợ tôi đã có người nằm. Mộ bia không có hình nhưng theo những dòng chữ khắc ở đó thì người mất là một người đàn ông lớn hơn tôi bốn tuổi, mất đã được ba năm. Như vậy là mộ này được cải táng từ nơi khác về. Mộ rất tươm tất, sạch sẽ, xung quanh có rất nhiều bông tươi và bình nhang thì cũng đầy những cái chân nhang. Có vẻ như người này có nhiều thân bằng quyến thuộc. Tiếng chuông của ngôi giáo đường lại văng vẳng vang lên trong buổi hoàng hôn tịch mịch. Tôi lau chùi mộ Quyên cho sạch sẽ xong thắp nhang cắm lên cho Quyên và những người xung quanh. Tới người hàng xóm mới tôi cũng cắm cho anh một cây nhang và lầm thầm van vái cho anh an nghĩ nơi chốn vĩnh hằng.

Trời ập xuống tối thui khi tôi về tới nhà.

Vẫn là tiếng chìa khóa rột rẹt khô khốc vang lên, vẫn là cái công tắc điện kêu cái “cắc” khi tôi bật đèn bước vào và bên trong vẫn là cái bầu không khí im lìm, lạnh lẽo và cô đơn…

Chẳng còn cái gì trong tủ lạnh ngoài một ít canh rau củ từ hôm qua và nửa con cá muối. Tôi hâm các thứ ấy lại và ngồi ăn lặng lẽ. Xong bữa tôi tráng miệng bằng một quả cam. Ngày còn độc thân tôi chẳng bao giờ ăn trái cây. Từ ngày lấy vợ Quyên ép tôi ăn trái cây cho có chất tươi, riết rồi quen, tôi thấy ngon, ngày nào không có trái cây là không chịu nổi. Đồng hồ điểm chín giờ. Tôi leo lên sofa bật Tivi xem rồi ngủ thiếp đi hồi nào không biết. Những âm thanh trong Tivi cứ vang vọng chập chờn trong giấc ngủ của tôi cho tới một lúc tôi giật mình vì nghe có tiếng động lạ phát ra từ trên lầu.

Hình như cái tiếng động ấy phát ra càng lúc càng lớn. Đến bây giờ thì tôi giật mình tỉnh hẳn và ngồi nhổm lên nghe ngóng. Tiếng ấy giống như tiếng của những vật gì va quẹt vào nhau nhưng khó đoán là vật gì. Tôi đứng dưới chân cầu thang bật đèn và nghe ngóng hồi lâu. Tiếng ấy khi có khi không, rất khó hiểu. Kẻ trộm chăng? – tôi tự hỏi. Vơ lấy cái chày giã cua trên quầy bếp tôi rón rén bước lên tầng trên và khe khẽ mở cửa căn phòng của mình. Trong phòng không có ai cả, trống trơn và không có gì bất thường ngoại trừ cánh cửa sổ mở mà từ đó tiếng cành cây va đập vào nhau phát ra những tiếng động vọng xuống dưới nhà. Thì ra là đây. Tôi tới đóng lại cánh cửa sổ mà không khỏi ngạc nhiên. Đã lâu tôi không hề bước chân lên lầu. Cửa sổ không bao giờ mở ra mà nay lại mở. Lạ thật. Tôi đến kiểm tra lại chốt cửa thì không thấy gì lạ, nhìn ra bên ngoài thì những cành cây vẫn còn đang quằn quại dưới cơn gió lớn. Bầu trời đen kịt, vần vũ như sắp có giông.

Thốt nhiên tôi giật bắn người. Tôi sực nhớ là chiều hôm qua tôi vừa dọn hết đồ đạc trong nhà xe ra ngoài vườn để lau dọn sàn nhà cho sạch, đồng thời xem đồ vật nào không xài thì cho từ thiện. Công việc còn dang dở thì tôi bỏ đó đi thăm người cô bị bệnh. Sau đó thì quên khuấy mất. Ngoài vườn còn ngổn ngang va li, quần áo cũ, giày cũ, nệm cũ, máy hút bụi, khung ảnh, đồ vật lưu niệm….Nếu mưa xuống một trận là tiêu tùng. Tôi hốt hoảng chạy bắn xuống thang lầu, mở cửa ra vườn đem tất cả cho vào nhà xe như cũ. Hai mươi phút sau thì trời đổ mưa như trút. Hú hồn. Tôi băn khoăn tự hỏi tại sao cái cửa sổ trên lầu lại mở ra một cách bí ẩn như thể. Để nhắc nhở mình chăng? Ai nhắc? Tôi rùng mình không dám trả lời câu hỏi ấy. Chẳng lẽ là Quyên? Mưa gió ngoài kia vẫn đập ào ào trên mái ngói. Tôi run run thắp cây nhang cắm lên bàn thờ cho Quyên. Hai mắt Quyên trong ảnh nhìn tôi trìu mến. Nước mắt ứa ra tôi khấn thầm:” Có phải em đã mở cái cửa sổ ấy ra không Quyên? Sự tận tụy của em đối với anh đã quá đầy đủ rồi còn gì, sao lại còn đem qua bên kia thế giới làm chi nữa. Em đi đi. Đừng vướng bận gì ở đây nữa. Hãy thanh thản mà đi đi…” Khấn xong tôi trở lại cái sofa trùm chăn ngủ. Trong lúc đang mơ màng tự dưng tôi giật mình vì có cảm giác như có ai đang đứng cạnh mình. Tôi hốt hoảng ngồi bật dậy mắt ráo hoảnh như muốn nhìn xuyên thấu bóng đêm thì không thấy ai cả. Được một lát tôi nằm xuống ngủ tiếp thì lại nghe khe khẽ vang lên bên tai tiếng chân ai bước lên lầu, sột soạt một chút rồi mất hẳn không còn nghe thấy gì nữa.

Sau chuyện ấy một thời gian thì tôi không còn chiêm bao thấy Quyên nữa. Tôi nghĩ có lẽ là Quyên đã đi như tôi vẫn thầm khấn nguyện cho Quyên. Tôi cũng dần quen với đời sống của một chú gà trống đơn độc, không nuôi ai chỉ phải nuôi chính mình. Nước mắt tôi không còn chảy ra nữa mà chảy ngược vào trong khi nhìn ảnh Quyên trên bàn thờ. Bạn bè ai cũng mong tôi làm lại cuộc đời nhưng dường như tôi đã chai đi rồi. Tôi chẳng buồn để ý đến ai nữa. Suốt tuần tôi cặm cụi đi làm, cuối tuần thì ra thăm Quyên.

Sáng hôm ấy tôi cũng chuẩn bị một ít trái cây và hoa quả như thường lệ để ra viếng mộ. Lúc sắp thắp nhang thì tôi sực nhớ là hộp quẹt còn để quên trong xe. Tôi ra xe lục lọi một hồi. Quái. Cái hộp quẹt máy. Tôi nhớ là có đem theo rõ ràng, để ở cái hộc ngay chỗ ngồi. Sao không cánh mà bay thế này. Tôi lục tung hộc nọ hộc kia cuối cùng tìm được một hộp diêm nằm kín đáo trong đám đồ lặt vặt sau thùng xe. Hộp diêm này đã cũ lắm. Trên nắp hộp diêm còn có tên một nhà nghỉ mà trước đây tôi và Quyên từng đến. Tôi nhớ ra rồi. Lâu lắm. Từ hồi hai đứa con tôi còn nhỏ. Cả nhà đi biển chơi và mướn phòng ở nhà nghỉ đó. Trong nhà nghỉ người ta hay để một số đồ linh tinh cho khách xài như hộp khăn giấy, kim chỉ và cả diêm quẹt cho những người hút thuốc. Khi trả phòng thì Quyên đã lấy hộp diêm đó mang về. Sau bao nhiêu năm chẳng hiểu sao nó lọt ra ngoài cái thùng xe này một cách lạ lùng và tìm đến tay tôi trong cái lúc tôi đang rất cần nó. Mừng quýnh, tôi cầm hộp diêm chạy vào nơi mộ Quyên. Tôi rút những que diêm ra đánh lửa thắp nhang nhưng thật bực mình. Tất cả những que diêm đều không cháy. Tôi quẹt tới quẹt lui đến gần rách cả giấy mà chẳng que nào cháy. Chợt một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên bên tai tôi:

– Tôi có hộp quẹt đây. Anh lấy mà dùng.

Ngẩng lên tôi nhìn thấy một người đàn bà xa lạ đang đứng cạnh mình. Chị ấy chìa ra cái hộp quẹt và một lần nữa thúc giục:

– Chắc diêm cũ quá không cháy được. Anh lấy hộp quẹt của tôi nè.

Tôi đỡ lấy cái hộp quẹt máy từ tay người phụ nữ xa lạ ấy và khẽ gật đầu:

– Cám ơn chị.

Đợi tôi thắp nhang xong thì người phụ nữ cầm cái hộp quẹt trở về ngôi mộ bên cạnh. Chị cho những cái hoa đã héo vào bao để chút nữa bỏ thùng rác, đồng thời bày những cái hoa tươi lên mộ. Tôi bảo:

– Tôi ra đây hoài, thấy mộ này mấy tháng nay mà không gặp ai. Nay mới gặp chị.

Người phụ nữ đáp:

– Tôi mới cải táng nhà tôi về đây.

Tôi chỉ qua nấm đất của Quyên bảo:

– Nhà tôi thì nằm ở đây. Vậy mình là hàng xóm… hàng xóm trong nghĩa trang…

Người phụ nữ ngước nhìn tôi cười gượng gạo. Cái cảnh nghĩa trang đìu hiu quá. Tự nhiên tôi cũng mủi lòng trong câu nói của chính mình. Tôi nhớ tới căn nhà của mình mà lát nữa tôi trở về, nghĩ tới những cái tôi sắp phải đối diện trong chốc lát nữa đây. “Không còn ai nữa trong nhà. Ngoài hoàng hôn lạnh lẽo và cô đơn”. Hai câu thơ buồn bã ấy không nhớ ai viết vang lên trong đầu tôi. Người đàn bà mở cái bánh lá ra mời:

”Anh dùng lấy thảo. Bánh này nhà tôi lúc trước hay ăn nên tôi đem ra cúng.”

Tôi hỏi:

“Lúc trước chị ở đâu mà cải táng anh đem về đây?”

Người phụ nữ đáp:

“Dạo trước tôi theo chồng sống bên miền Bắc. Cách nay ba năm thì anh ấy mất. Tôi trở về đây sống cho gần cha mẹ, cải táng chồng tôi về đây luôn cho tiện chăm sóc.”

Những sợi tóc của người phụ nữ lòa xòa một bên mặt, rũ xuống che đôi mắt buồn sau hai hàng mi rậm rạp. Tôi và chị có nói qua nói lại vài ba câu gì nữa rồi chị ấy cáo từ ra về. Tôi nhìn theo tà áo phất phơ của chị trên lối đi trong nghĩa trang giữa những thân cây cao vút đang rì rầm xào xạc. Có một con chim màu đen đang đậu trên bờ tường kêu lên quang quác.

Tôi nhìn xuống những cây nhang mình mới đốt khi nãy nay đã cháy hết còn trơ những cái chân màu đỏ. Trên chân mộ còn vương vãi những cái que diêm không cháy. Tôi cầm lên một trong những cái que diêm ấy mà không khỏi thắc mắc. Quái lạ thiệt. Sao nó không cháy nhỉ? Chắc nó bị hơi ẩm trong bao nhiêu năm? Lẩn thẩn tôi cầm cái que và quẹt một cái trên vỏ bao. Bất thình lình que diêm cháy bùng lên mạnh mẽ. Tôi hốt hoảng nhìn sững ngọn lửa mà không khỏi bàng hoàng. Tại sao khi nãy nó không cháy mà bây giờ lại cháy? Hình như có một bàn tay nào đã sắp xếp cho những que diêm ấy không cháy và sự sắp xếp ấy hẳn nhiên là có một dụng ý nào đó. Thẫn thờ tôi nhặt hết những que diêm còn lại và quẹt vào vỏ bao một cách rất nhẹ nhàng thì que nào cũng cháy cả. Tôi cứ ngồi trơ ra đó hàng giờ, hai tay buông thõng chẳng buồn làm gì, đầu óc miên man suy nghĩ cho đến khi người bảo vệ tới nhắc là sắp tới giờ đóng cửa thì tôi mới đứng dậy ra về…

Sau lần đi viếng mộ ấy thì mãi đến hai tháng sau tôi mới trở lại vì bận rộn cho những chuyến công tác liên miên. Từ đằng xa, qua những hàng cây bụi cỏ và những bia mộ chập chùng tôi đã thấy một dáng người phụ nữ đang lúi húi bày biện bông hoa trên ngôi mộ của Quyên. Tôi chạy vội tới. Không ai khác chính là người phụ nữ hôm trước mà tôi đã gặp. Chị ngước nhìn tôi mỉm cười:

– Chào anh. Sẵn tôi ra thăm mộ nhà tôi, tôi qua thăm chị luôn.

Tôi bảo:

– Ôi, cám ơn chị quá. Chắc nhà tôi cũng vui khi có người qua thăm. Tôi đi công tác mấy tháng nay không ra được…

Người phụ nữ bảo:

– Anh đừng lo. Nếu anh không ra được thì đã có tôi ra thường xuyên. Tôi sẽ giúp anh giữ phần mộ của chị sạch sẽ. Anh yên tâm nhé.

Chị nói xong thì quay lại phần mộ của chồng mình ngồi xuống lấy miếng giẻ ra lau. Qua làn khói hương thong thả bay lên tôi nhìn thấy khuôn mặt người phụ nữ hiện lên hết sức dịu dàng, thân ái. Tôi nhìn chị. Chị cũng nhìn lại tôi. Hình như tôi thấy chị rất quen, quen lắm, quen như tôi từng gặp ở đâu đó. Cũng là đôi mắt ấy, vầng trán ấy, đôi môi ấy và rồi thoắt một cái tôi nhìn thấy Quyên đang đứng trước mặt mình, âu yếm đưa tay chờ đợi. Sau lưng Quyên là một không gian mờ ảo, bảng lảng khói sương, đầy những âm thanh ù ù chứ không còn là hình ảnh nghĩa trang với cây cối và những ngôi mộ nữa. Tôi nhìn Quyên trân trối, tay đưa ra nhưng hai chân như chôn chặt một chỗ, miệng mấp máy nhưng không nói được gì. Thoắt một cái tất cả những ảo ảnh ấy tan biến mất. Hai mắt tôi tối sầm, chân tôi dường như đang sụm xuống rồi tôi chẳng biết gì nữa. Bên tai tôi có tiếng người hốt hoảng cùng với hai bàn tay đỡ lấy thân người tôi:

– Anh. Anh làm sao vậy. Tỉnh lại đi. Anh có sao không?

Tôi lảo đảo gượng dậy nhưng không đứng lên được lại ngồi phịch xuống. Người phụ nữ lấy trong xách tay cái bình giữ nhiệt rót cho tôi ít trà nóng rồi bảo:

– Anh uống đi. Coi chừng có bị gì không. Để tôi đi kêu bảo vệ.

Tôi ngăn lại:

– Chị… chị đừng đi. Tôi hơi chóng mặt. Có vậy thôi chớ không sao.

Chị bảo:

– Chắc anh đang yếu trong người. Thôi anh thu xếp về sớm đi. Ở ngoài này rất dễ trúng gió.

Nói xong cả chị và tôi nhanh chóng gom góp nhang đèn hoa quả rồi ra bãi đậu xe. Đến lúc này thì tới phiên chị mếu máo vì cái xe của chị không cách gì nổ máy. Tôi giúp chị gọi dịch vụ kéo xe rồi hôm sau giúp chị đem cái xe đi sửa. Ngày qua ngày tôi và chị dần dần vượt qua những rào cản e dè và không còn là hai người hàng xóm ngoài nghĩa trang nữa. Những bận rộn và sự quan tâm cho một tình cảm mới mẻ đã làm cho nỗi nhớ về Quyên dần dần lắng xuống. Tâm trí tôi giờ đây không còn bị bủa vây bởi bóng tối hay những ám ảnh của ao tù quá khứ mà nó đã thật sự được khơi thông để ánh sáng ùa vào, đánh thức cái con người bấy lâu nằm sâu dưới đáy vực. Lúc này tôi đã biết chị tên là Trúc, có một đứa con gái đã lấy chồng và ở xa. Chị cũng như tôi, sống đơn độc một mình trong căn nhà thuê ở gần viện dưỡng lão để tiện ra vô chăm sóc cho người mẹ già. Chúng tôi từ từ trở thành hai người bạn rồi hai người yêu. “Hình như tôi thấy mình đã hồi sinh.” – tôi vừa nói vừa nhìn Trúc. Trúc còn chưa đáp thì tôi nói tiếp: “Trúc ơi, nếu chúng ta về ở chung, nếu chúng ta cùng nhau làm lại cuộc đời thì Trúc có đồng ý không?”

Trúc ngước lên nhìn tôi, vẫn bằng ánh mắt đằm thắm mà tôi đã nhìn thấy qua làn khói mong manh lượn lờ từ những cây nhang cắm ngoài mộ. Thế nhưng lần này thì tôi không còn thấy hình ảnh Quyên lồng vào Trúc trong mơ hồ hư ảo nữa. Trúc thật sự là Trúc, là sự xác thực không hề lẫn lộn, là tình yêu cũng như tâm hồn đã chết đi sống lại của tôi đang đâm chồi nẩy lộc. Sau này khi đã thành vợ thành chồng với nhau, Trúc kể:

– Hình như ông Trời sắp xếp cho em gặp anh hay sao ấy. Lẽ ra em đã phải cải táng anh Tâm về khoảng đất rất xa nằm giáp mặt đường bên kia của nghĩa trang. Cách hôm cải táng có bốn ngày thì người ta gọi cho em bảo là có khoảng đất tốt hơn, gần cửa ra vào mà người mua lúc trước đã hủy hợp đồng. Họ hỏi em có muốn lấy chỗ đất ấy không và em đã đồng ý. Thế là mộ của anh Tâm nằm cạnh mộ chị Quyên. Em gặp anh hình như do sự sắp đặt ấy.

Tôi nhìn Trúc mỉm cười. Không biết Trúc có còn nhớ những cái que diêm không cháy khi tôi dùng để đốt nhang cho Quyên ngoài mộ không. Nếu những cái que diêm ấy cháy thì tôi đâu cần mượn hộp quẹt của Trúc, đâu cần có cái sự dạo đầu làm quen ấy thì làm gì có cái ngày hôm nay. Không nói ra nhưng tôi biết tất cả là Quyên. Chính Quyên đã dun rủi cho tôi và Trúc đến với nhau. Chính Quyên đã đem lại màu xanh cho mảnh đất tưởng đã khô cằn trong trái tim tôi, chính Quyên đã dành cho tôi tất cả tình yêu và lòng tận tụy, dù đã ở bên kia thế giới.

“Quyên thương yêu – tôi thì thầm. Hãy cho anh nhìn thấy em trong chiêm bao thêm một lần nữa, một lần sau cuối có được không? Em hãy mặc chiếc áo đầm trắng có thêu hoa thủy tiên vàng, cùng anh và hai con đến nhà nghỉ trên bờ biển năm xưa. Em sẽ chạy nhảy, chơi đùa, cỡi ngựa với bé Tí, bé Tơ, còn anh thì sẽ lẽo đẽo theo sau mà chụp hình. Chiều chiều mình lại thả bộ lững thững xem người ta bán hàng rong bên bờ biển, mua những món quà lưu niệm mà em thích. Em sẽ khoác lên người cái mảnh vải có thêu hoa sặc sỡ của người dân địa phương, mua một cái kem, uống một ly nước cam pha rượu đỏ và nằm dài trên những cái ghế bố dưới hàng dừa tỏa bóng. Buổi tối khi thành phố đã lên đèn thì em lại kỳ kèo đòi ra biển ngắm trăng trong khi anh thì lại thích vào đại sảnh để khiêu vũ với mọi người. Em yêu thích cái tĩnh lặng bao nhiêu thì anh lại chuộng cái ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu phải không Quyên. Hết kỳ nghỉ thì chúng ta sẽ trở về ngôi nhà thân yêu với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh mà em đã tha về làm cho anh phải phát cáu mà la em. Trời ơi, cái gì cũng rinh về. Ba cái đôi dép lát mỏng dính, tập giấy ghi chép, rồi hộp diêm nữa, nhà chật hết rồi nè em biết không. Em sẽ vừa cười vừa nũng nịu bảo, ờ, thôi kệ mà, có lúc biết đâu sẽ cần đến những thứ đó…

Em nói đúng đấy Quyên ạ. Anh cũng không ngờ là có lúc anh cần đến hộp diêm của em, cái hộp diêm mà anh từng cho là vô tích sự thì nay chính nó đã thắp lên ngọn lửa sưởi ấm lại căn nhà của chúng ta, đem lại cho anh cái hạnh phúc mà anh đã vuột mất. Em thương anh nhiều đến thế hả Quyên, một tình thương quá nhiều đến anh không mường tượng được. Thôi thì, em hãy cho anh nhìn thấy em một lần cuối trong chiêm bao, một lần cuối đi Quyên…”

Thế nhưng không nhớ là bao nhiêu ngày tháng đã kéo nhau đi, dù tôi có van cầu tha thiết như thế nào đi nữa thì Quyên cũng không bao giờ còn xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Nàng đã ra đi vĩnh viễn, âm thầm và mãn nguyện…

Nghi Phương

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

ĐÔI BA ĐỒNG BẠC NGHĨA LÝ GÌ!

(Truyện ngắn thời COVID)

Hẻm nhỏ, lại là hẻm cụt, có 53 nóc nhà. Tuy 53 nóc nhà nhưng mà tới gần trăm hộ dân, do có mấy căn nhà cũ, hai ba gia đình cùng sống chung.

Trong hẻm cũng đủ loại người, có mấy người già ưa ngồi uống café sữa trong cái ly nhỏ xíu, đựng trong chén nước sôi giữ ấm, rồi gác chéo chân nói chuyện đời xưa. Có mấy đứa thanh niên mua hàng vô tội vạ, shipper xanh đỏ ra vô hẻm liên tục. Có người làm hãng sở, sáng mơi sơ mi cà vạt ra xe hơi đi làm như trong phim Hồng Kông. Hẻm có chó, có mèo, có gà ta, có gà tre, thậm chí có nhà còn nuôi cả gà đá.

Hẻm nhỏ nên mọi người đều biết nhau, có thể không biết rành hết mọi người, nhưng ai trong hẻm cũng phải biết bà Tư. Bà Tư nhà khá giả, có đội xe tải, lính của bả toàn lái xe và lơ xe tải, xăm trổ kín người, tuần nào cũng tụ về cái bãi xe cuối hẻm nhậu.

Nhà Bà Tư đầu hẻm, nguyên một vách tường ngang cửa nhà bà Tư thay vì xây hàng rào làm sân thì bà Tư để trống, chỉ láng xi măng. Sáng cho vợ chồng chị Liên với đứa nhỏ bán cơm tấm và hủ tiếu, buổi chiều thì nguyên nhà cô Giàu bán cháo vịt với gỏi cuốn. Ai ra vô nhà bà Tư đều sực nức mùi đồ ăn, mấy người đó buôn bán được, cũng muốn gửi chút tiền gọi là “thuê mặt bằng” cho bà Tư, bà Tư khoát tay, nhớ sạch sẽ giùm tao là được rồi, đôi ba đồng bạc, nghĩa lý gì.

Đó là câu cửa miệng của bà Tư, đôi ba đồng bạc, nghĩa lý gì, cứ cái gì liên quan tới tiền là nghe giọng bà Tư, đôi ba đồng bạc, nghĩa lý gì, bả nói riết rồi cả xóm nói liệu theo bả. Bữa có ông kia đi nhậu về, hứng chí lên cho thằng tài xế tắc xi 500 ngàn, thằng tài xế không dám lấy, đem vô gõ cửa trả lại. Ổng đứng trong nhà cũng la câu y chang, đôi ba đồng bạc mà, nghĩa lý gì, lấy đi chú em. Bà Tư nghe xong bật cười, đ m bắt chước tao.

Bà Tư xuất thân đâu ngoài Quảng, bà theo chồng lưu lạc vô Sài Gòn từ trước 75. Sau 75, chồng bà Tư chết, để lại bà với 5 đứa con nhỏ. Bà tư trở thành trùm vượt biên, bà Tư từng vượt biên tổng cộng 17 lần, trong đó bị bắt nhốt chỉ có 2 lần, còn lại do anh em biên phòng thấy tội, thấy quen, thấy người phụ nữ ôm 5 đứa con nên họ thả về. Một tay bà Tư nuôi 5 đứa con, làm đủ mọi thứ để mưu sinh, mà ngon lành nhứt tới giờ là tổ chức một đội xe vận chuyển cho mấy chợ đầu mối.

Năm người con của bà Tư chỉ có đúng một người đi học đàng hoàng, đó là cô con gái duy nhứt của bà Tư, người được cưng chiều nhứt nhà. Cô học giỏi, lãnh học bổng, rồi ra nước ngoài học và lấy chồng định cư luôn ở bển. Bà Tư làm được nhiêu tiền mua thêm đất, cất nhà gần bên, nên bốn ông con trai còn lại cũng ở loanh quanh trong hẻm.

Họ vẫn tụ tập qua nhà bà Tư nhậu, buổi chiều, cuộc nhậu như mọi cuộc nhậu ở Sài Gòn, vài lon bia và dĩa thịt vịt mua của nhà cô Giàu, ngay cửa, bữa nào vui thì mở ka rao kê ca, cũng mấy bản nhạc bolero nhừa nhựa. Cả bốn người họ đều xuất thân tài xế hoặc bốc vác, đều đen đúa vạm vỡ, giọng nói vẫn mang âm vị xứ Quảng rổn rảng, và cũng ưa khoát tay: đôi ba đồng bạc...

Những ngày tháng Bảy, Sài Gòn bắt đầu phong toả, hẻm cũng gần ủy ban phường nên dân phòng tới chốt luôn. Dịch bệnh lan ra quá nhanh, nỗi sợ dịch bệnh và sự thiếu thốn của những ngày thành phố bị phong tỏa đều thê thảm như nhau.

Nhà chị Liên dính đầu tiên. Chị Liên vẫn hay mua hàng trên mạng, và không biết lần mua hàng nào đó chị đã bị lây. Bà già má chồng chị Liên trở nặng ngay lập tức. Hai chiếc xe cấp cứu với những nhân viên y tế xanh lè kín mít tới đưa cả nhà họ đi, con bé 12 tuổi hằng ngày bưng hủ tiếu cũng bị hốt theo, dù nó âm tính. Rồi nhà cô Giàu cũng dính, lây thêm một nhà nữa. Rồi xịt khuẩn mù mịt, rồi hàng rào, rồi giăng dây trắng đỏ… như mọi con hẻm khác, ở Sài Gòn.

Hai tuần sau con bé con chị Liên trở về hẻm bằng xe của công an. Nó bận bộ đồ xanh kín mít, ôm theo hũ cốt của bà nội nó. Nó nói ba nó nằm chỗ khác, mẹ nó nằm chỗ khác, giờ cũng không liên lạc được. Nó vẫn âm tính nên người ta trả về nhà theo dõi, nhường chỗ cho người khác, ở trỏng đông lắm rồi.

Bà Tư nói mày về ở với ai? Nhà còn ai đâu mà ở. Cũng không ai dám chứa con bé, âm tính vậy chớ biết đâu nó dương trở lại, ai cũng xầm xì. Bà Tư nói thôi vô nhà tao ở. Kệ mẹ, không lẽ bỏ con nhỏ đứng ngoài hẻm hoài. Con bé đưa hũ cốt bà nội về nhà, rồi quảy ba lô qua nhà bà Tư ở. Nó khóc hoài. Bà Tư nạt nó vang cả con hẻm, bà nội mày già thì chết thôi, không bịnh này cũng bịnh khác mà. Ba má má nằm viện ít bữa rồi về, ở đây tao nuôi, có gì đâu mà khóc, cười lên cái cho sáng cái nhà coi.

Đội xe bà Tư có hai chiếc được cấp mã QR để chở hàng rau củ quả từ Tây Nguyên về Sài Gòn, chủ hàng bao ăn ở xét nghiệm cho tài xế mà không ai chịu lái, đám tài xế né hết. Bà Tư biểu hai ông con trai, thôi tụi mày lái đi, chở rau củ về cho người ta ăn nữa, chớ ăn cơm với cá khô hoài ỉa không ra, tội người ta. Rồi bà Tư đưa tiền biểu hai ông con trai mua thêm rau củ quả, chở về hẻm.

Mới đầu bà Tư để cái bàn, là mấy cái bàn cơm Tấm của chị Liên, kê trước cửa nhà, chất rau củ trái cây lên đó, kêu mọi người trong hẻm ra lấy về ăn. Mà mấy nhà có người dính, hoặc mấy nhà không muốn ra đường thì không tới lấy. Bà Tư phiền quá mới đi dọc hẻm nói, thôi bà con mỗi nhà để giùm tui một cái rổ trước cửa. Tui biểu thằng Út đem rau củ quả bỏ vô rổ, đem vô ăn.

Vậy là ông Út nhà bà Tư thêm nhiệm vụ, mỗi khi xe rau củ trái cây về, vác xuống nhà, chia làm nhiều bịch nhỏ, rồi đi dọc hẻm, bỏ vô cái rổ trước nhà mỗi người. Để ngoài nắng chút cho chết mẹ con vi rút đi, lời bà Tư hay nói, rồi ai nấy đem vô nhà nấu ăn. Ở đâu thiếu rau củ chớ hẻm này không thiếu, mỗi nhà còn được cam, chanh, sả, trái cây… đủ thứ.

Ba tuần sau thì chồng chị Liên về. Anh tiều tụy như một cái xác khô, nhưng không phải do bệnh, mà buồn, mẹ mất, vợ còn nằm đâu chưa biết. Anh đón con bé từ nhà bà Tư, cúi đầu cám ơn bà Tư rồi dẫn con bé về nhà. Bà Tư xúc cho một bao gạo, một túi đồ ăn, một bao rau củ, hai cha con lục đục vác về nhà.

Hai cha con loay hoay ở nhà được ít bữa thì xe quân đội tới, chị Liên về, trong một cái hũ. Anh chồng ráo hoảnh, mắt xa xăm vô hồn, im lặng. Còn con bé nó cứ khóc miết. Bà Tư lại chạy qua, nói thôi để đó, hết dịch làm cái đám sau, giờ hai cha con mày ráng sống đi, cho mẹ mày ở trển yên lòng.

Rồi không biết lây ai, tới lượt anh Út nhà bà Tư dính luôn, mà lúc này cả thành phố đang cao điểm dịch, các bệnh viện đều quá tải, anh Út không đi viện nữa, phải tự nhốt mình trong nhà và uống thuốc theo đơn bác sĩ. Không có ai đi phát rau củ thì bà Tư tự đi.

Mỗi khi xe rau củ về, mấy ông con chất xuống cho mẹ, rồi bà Tư tự chia. Buổi chiều, bà Tư kêu anh chồng chị Liên phụ, đẩy cái xe đẩy hàng của mấy thằng tài xế bỏ trong bãi, chất đầy rau củ, trái cây, gạo… bà đi bỏ mỗi nhà một bịch. Xóm riềng cảm ơn bà Tư hoài cũng ngại, cả tháng ăn rau củ của bà Tư mà, có người mới về hẻm không biết, ráng cột tiền vô cái rổ, năn nỉ bà Tư cầm tiền giùm. Bà Tư thấy tiền bèn la lớn, nè, ra lấy tiền vô đi, cái này tao cho mà, đôi ba đồng bạc, nghĩa lý gì, chết có mang theo được đâu, đ m.

Đàm Hà Phú

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Image

Cải lương, Ngoại và tuổi thơ tôi

Thanh Hà

1/-
Hồi nhỏ tôi thích nghe cải lương vọng cổ lắm. Tôi nói “nghe” là vì thời ấy vô tuyến truyền hình chưa ra đời, nên chỉ được nghe các nghệ sĩ hát qua radio mà thôi. Tôi chỉ khoảng mười tuổi, vậy mà khi nghe tiếng hát cất lên là tôi đã phân biệt được đó là nghệ sĩ nào. Vào những tối đài phát chương trình cải lương, đêm thanh vắng, nằm trong giường lắng nghe các nghệ sĩ tài danh đóng vai thiện ác, trẻ già, đào thương đào lẳng, kép độc kép chánh, tuồng bi tuồng hài… mà tôi khóc cười, giận ghét, vui buồn theo từng nhân vật.


Này nhé, đào thương thì có sầu nữ Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Diệu Hiền, Phượng Liên, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Bạch Tuyết… Kép chánh có Thành Được, Tấn Tài, Hùng Cường, Minh Phụng, Thanh Sang, Dũng Thanh Lâm… Vai người trung, cao niên có Út Trà Ôn, Hữu Phước, Trường Xuân… Hề có Văn Hường, Văn Chung…

Có những tuồng cải lương tôi nghe nhiều đến thuộc lời ca, thế mà mỗi lần nghe lại vẫn say mê như lần đầu. Rồi những ngày cùng với em gái thứ năm, buổi chiều không phải đi học, hai đứa chui vào góc kẹt bồ lúa lấy khăn tắm choàng vai giả làm hoàng tử, cài hoa dâm bụt lên tóc đóng vai công chúa ư ử hát, nhớ đoạn nào hát đoạn nấy, cũng lâm ly não nùng lắm.

Nhắc về tuồng tích cải lương thì có hai hình ảnh tới giờ tôi vẫn nhớ, một cách kỳ lạ, dù đã bao năm trôi qua.

Hình ảnh thứ nhất là một đoạn thoại vài câu do kép độc Trường Xuân diễn vai Hoàng đế Diệp Chấn Phong trong vở Thuyền Ra Cửa Biển. Tôi không nhớ chính xác từng từ, nhưng đại khái đó là cảnh ông vua Diệp Chấn Phong tỏ tình với công chúa Chiêu Trúc Lệ (do sầu nữ Út Bạch Lan đóng). Vua nói rằng nhiều năm trước ông sang thăm vua láng giềng thì bất chợt thấy hai chị em công chúa nhỏ rong chơi bên hồ nước. Hình ảnh cô em cứ ám ảnh ông mãi. Ông biết mình đã yêu. Vợ mất, ông không tái giá, chờ đợi nàng đến tuổi trưởng thành sẽ xin cưới. Oái oăm là bây giờ nàng và hoàng tử con ruột của ông đã yêu nhau.

Tôi đã quên hết tình tiết vở cải lương ngang trái, nhưng mấy lời thoại ngắn ngủi của nghệ sĩ Trường Xuân tỏ tình thì cứ còn ở lại trong trí tưởng tượng của tôi đến tận bây giờ. Tuy chỉ nghe qua lời ca mà tôi như thấy rõ ràng hình ảnh yểu điệu của nàng công nương dong thuyền trên mặt hồ êm ả theo sự vẽ vời tưởng tượng của mình và khiến lòng tôi mơ tưởng suốt mấy chục năm dài.

Hình ảnh thứ hai là lần duy nhất tôi được xem cải lương trực tiếp tại rạp Châu Văn, Rạch Giá năm 11 tuổi. Má mua vé để bà Ngoại dắt bốn chị em tôi đi xem vở Tiếng Hạc Trong Trăng của đoàn Kim Chưởng. Trong tuồng có cảnh nghệ sĩ Phượng Liên mặc chiếc áo trắng tha thướt kiểu cổ với dải thắt lưng lơi lả, tóc dài đến eo, lược giắt trâm cài. Mỗi lần cô xoay chuyển thì đôi hoa tai lấp lánh đong đưa nhịp nhàng theo. Chúng tôi ngồi cách mấy hàng ghế nên nhìn khá rõ. Một tay cầm thanh gươm, tay kia cô ra điệu bộ lúc uyển chuyển lúc cương quyết theo tình tiết câu chuyện. Rồi cô bỗng nắm nhẹ tà áo và nhún hai chân xuống, cử chỉ vô cùng duyên dáng. Hình ảnh xinh đẹp quí phái của cô Phượng Liên dưới ánh đèn sân khấu lung linh huyền ảo ấy khắc vào trí óc con bé 11 tuổi quá đậm sâu. Tôi đã ước ao mình mau lớn để trở thành thiếu nữ yểu điệu thướt tha như hình ảnh đó.


2/-
Giờ quay lại chuyện bà Ngoại tôi. Y phục hàng ngày của Ngoại rất đơn giản như bao nhiêu người nông dân thuần phác với áo bà ba trắng quần đáy lá nem. Khi ra ruộng thì mặc áo bà ba đen. Tôi nhớ Ngoại không mặc y phục màu nào khác ngoài hai màu đen trắng. Quần đáy lá nem là kiểu quần đặc biệt có phần đáy là mảnh vải rộng ghép vào để cử động được thoải mái, nhất là những người lao động khi đứng ngồi không bị căng và khó rách.

Mỗi khi Ngoại đi dự đám tiệc, đi thăm họ hàng thì Ngoại sẽ mặc áo dài gấm hoặc áo dài the trắng có ẩn hoa văn trang nhã cùng với quần lãnh Mỹ A đen láng bóng. Mang đôi guốc mộc quai trắng giản dị. Buổi đi xem cải lương, Ngoại mặc áo dài gấm trắng, tóc bới cao. Chị em tôi cũng xúng xính quần áo mới, náo nức theo Ngoại đến bến đón xe khách Lambretta tám chỗ ra tỉnh cách đó bảy cây số xem hát.

Ngoại tôi vốn là cô thôn nữ xinh xắn, dáng cao thon gọn, mắt mũi miệng hài hòa duyên dáng. Do tuổi tác và hằng ngày lam lũ phơi nắng dầm mưa nên sắc vóc Ngoại có tàn phai. Nhưng khi khoác vào người y phục tươm tất, trông Ngoại duyên dáng hẳn lên. Ngoại cả đời vất vả, chỉ khi già yếu mới chịu nghỉ ngơi. Mọi người tin tử vi nói rằng Ngoại tuổi con gà nên số vất vả. Tôi biết không phải thế. Chẳng qua vì tấm lòng hy sinh, thương má tôi là con một, nên cưu mang thêm đàn con sáu đứa, phụ ba má tôi. Nếu đừng vì sáu chị em tôi thì Ông Bà Ngoại đã có cuộc sống nhàn hạ. Hồi ấy với vài mẫu ruộng, chỉ cần mỗi năm gieo mạ một mùa là dư dả gạo cho cả gia đình mười miệng ăn, còn có thừa để bán.

Nhưng ông bà ngoại tôi quanh năm không bao giờ chịu ngồi không. Xong mùa gặt lúa, ông Ngoại lại xếp rơm ủ nấm. Đến giờ tôi còn cảm nhận được hương vị của món canh nấm rơm trên đầu lưỡi, chỉ nấu chay không cần thêm thịt cá mà đậm đà thơm ngọt. Ông Ngoại còn dựng giàn tre trồng bầu, bí, dưa, khổ qua… Đến mùa khô thì tát đìa, ao, bắt cá lóc, cá trê, cá sặt… Trong vườn nhà trồng nhiều chuối, cạnh bên là cái ao nhỏ, mùa mưa rau muống, rau ngổ, bông súng tươi non chen nhau mọc đầy mặt nước. Bà Ngoại nuôi một con heo để lấy cơm thừa canh cặn, xắt cây chuối non, lấy rau nấu với cám cho heo.


Ngày làm lụng vất vả, nhưng mỗi đêm về chị em tôi lên giường nằm xếp lớp náo nức chờ Ngoại vào nằm cạnh, vừa quạt vừa kể chuyện đời xưa hoặc hát những bài vè, ca dao ru chúng tôi ngủ:

Lúa ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu lúa ngô
Lúa ngô là cô đậu nành…

Ngoại còn kể chuyện Nàng Út Rẫy Dưa, An Tiêm trồng dưa hấu… Chúng tôi nghe đi nghe lại hàng trăm lần vẫn không biết chán. Giọng Ngoại hát, kể… không hay như giọng nghệ sĩ, nhưng chuyên chở tình yêu thương âu yếm nên thấm sâu vào lòng chúng tôi. Cứ vậy, mà Ngoại đã thay Má nhiều lần ru chị em tôi vào giấc ngủ vô tư, êm ái. Vì khi đó Má còn bận chong đèn thức đêm bên bàn máy may, mong sớm hoàn thành cái áo, cái quần kịp sớm mai giao hàng theo lời yêu cầu của khách.

Rồi chúng tôi lớn lên, đi học xa nhà. Lúc ấy không có điện thoại, chỉ liên lạc nhau bằng thư từ. Nhớ gia đình, mỗi tuần viết hai lá thư về nhà kể đủ chuyện trường lớp, sinh hoạt… và ngược lại má, chị, em gái cũng viết ngần ấy thư kể chuyện nhà. Một hôm trong phong bì chúng tôi nhận được, theo thường lệ là có ba lá thư với nét chữ của ba người thì lần này đặc biệt thêm một tờ thư đính kèm chỉ vài câu, bằng bút chì, nét chữ nguệch ngoạc, xiên xéo. Chừng xem cuối dòng mới biết là thư của bà Ngoại. Trời ơi! Chúng tôi đọc mà nước mắt nhòe nhoẹt. Ngoại nói rất nhớ thương các cháu gái sống xa nhà, hãy giữ gìn sức khỏe, khi nào về, Ngoại sẽ kho cá lòng tong với hành-mỡ-tiêu, cho các cháu ăn.

Thư Ngoại viết chỉ vài hàng mà tôi đọc hoài. Chị Hai kể là Ngoại viết cả buổi mới xong, khiến chúng tôi khóc nhiều hơn, khi hình dung cảnh Ngoại ngồi gò lưng cặm cụi nắn nót đánh vật từng chữ a, b, c để trút tình yêu thương lên giấy cho đàn cháu. Đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Ngoại viết thơ trong đời. Ngoại không được đến trường ngày nào, chỉ khi má được đi học thì về chỉ lại cho ông bà Ngoại để ông bà có thể đọc sách kinh Phật.

Ngoại đã viết và nhắc đến món cá lòng tong kho tiêu, đó là món dân dã rẻ tiền, loại cá nhỏ dài bằng ngón tay út, sống trong sông lạch. Qua tài nấu nướng Ngoại của tôi nó trở nên đặc sắc. Bây giờ nó thành món ăn xa xỉ, kể cả ở nhà hàng sang trọng, nhưng tôi vẫn chưa thấy ai kho ngon bằng Ngoại. Có lẽ vì ngoài hương vị đậm đà nó còn chất chứa cả một vùng trời tuổi thơ tôi?


3/-
Tuổi thơ tôi hạnh phúc êm đềm vì có cải lương và có Ngoại. Xem-nghe cải lương khiến tâm hồn tôi bay bổng, mơ mộng về những chuyện thần tiên. Còn Ngoại của tôi không có quần áo đẹp, không có giọng hát hay, Ngoại chỉ có một tấm lòng quảng đại để yêu thương chăm lo đàn cháu. Nhưng chính những săn sóc đời thường mới là hạnh phúc vô giá mà không phải người nào cũng được ban ân sủng trong đời.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by khieulong »

Ngày Tết
Nguyễn Thị Thêm -

Thấy bà ngoại sắp trái cây, chè xôi, bánh và nhiều thứ khác đứa cháu ngoại cũng lăng xăng phụ. Con bé rót nước vào ly nhỏ rồi cẩn thận để lên bàn.

- Còn gì nữa không bà ngoại?

- Ờ! lại bàn thờ ông ngoại cầm hộp nhang xuống đây cho bà.

- Dạ! Yes Sir! Bà ngoại.

Nó cầm hộp nhang xuống đưa cho chị Thim rồi đứng im. Một hồi nó nheo mắt hỏi:

- Sao hôm nay bà ngoại bày cúng chỗ này mà không cúng ở bàn thờ trên nhà?

- Hôm nay bà ngoại cúng đưa ông Táo

-Ông Táo là ai? Ổng ở chỗ nào bà ngoại

Chị Thim chỉ vào bàn thờ nho nhỏ đặt ở sát bếp nói với cháu:

- Táo thần ngồi đây nè.

- Sao chỉ có mấy chữ gì kỳ cục mà không thấy hình ổng.

- Ờ! Tới đây chị Thim cần phải suy nghĩ vì chị mà nói ra có hai ông một bà thì chết với đứa cháu ngoại hay hỏi cắc cớ này lắm. Nó sẽ hỏi tới và sẽ nghĩ ra gia đình này lộn xộn, kỳ cục. Rồi sẽ hỏi họ có đánh nhau không? Ông nào lớn, ông nào nhỏ. Họ có con không? vv và vv...Chị Thim đành nói tránh ra:

- Thì đây là chữ nho, viết tượng trưng, chứ hồi xưa làm gì có chụp hình.

- Mà tại sao phải đưa ổng ngày 23 Tết?

- Theo tục lệ ngày này tất cả Táo Thần về chầu thượng đế, báo cáo việc trần gian, việc nhà của nơi mình ở -như nhà mình đây nè -cho Ngọc Hoàng biết.

- Mà Ngọc Hoàng là ai hả ngoại?

- Ngọc hoàng là vua của các vị thần.

- Ông Ngọc Hoàng ở đâu hả ngoại.

- Ổng ở trên trời, chỗ cao nhất, cai trị hết thảy mọi người, mọi vật trên trái đất .

- Ổng oai quá hén!

Cháu chị Thim nheo nheo con mắt, đưa tay vò vò cái trán vồ rồi nói bâng quơ.

- Mỗi nhà một ông táo, trên thế giới này biết bao nhiêu ông, chỗ đâu cho mấy ổng đứng hết trên thiên đình mà tâu với bẩm. Rồi nó quay qua hỏi chị:

- Ở thiên đình có xài loa không hả ngoại?

- Loa gì?

- Thì cái loa nói lớn ra cho mọi người nghe đó. Ngọc Hoàng nói cho hết quá chừng ông táo nghe thì phải dùng loa chớ. Rồi bỗng như sực nhớ nó hỏi một cách hăng hái:

- Mà ông Táo nói tiếng gì hả ngoại? nhiều ông táo ở nhiều nơi lắm mà.

-Thì ổng nói tiếng ...Mà tiếng gì Ngọc Hoàng cũng hiểu.

-Vậy Ngọc Hoàng giỏi thiệt nha. Hay như cái tự điển đa ngôn ngữ bây giờ. Mà ngoại ơi! nhà mình xài gas, bếp đâu có cần ông Táo.

-Cái con này... Táo là thần mà, ổng quan sát việc nhà mình chứ đâu phải bật hộp quẹt mở lửa cho mình nấu ăn đâu?

Thấy giông dài với nó nhức cái đầu, chị Thim sai nó đi ra ngoài sân sau bưng cái rổ cam ngoại hái sẵn đem vô đây. Con bé dạ một tiếng rõ to rồi chân sáo đi ra cửa, miệng vẫn còn lầm bầm:

- Cúp điện hay cúp gas là ông Táo hết thấy đường dòm ngó nhà mình.

Chị Thim lắc đầu không biết làm sao cắt nghĩa với nó. Ngày xưa đối với mẹ nó, chị Thim kể cho nghe chuyện gia đình nhà táo, về cái chết của họ và chức vụ Ngọc Hoàng ban, mẹ nó tin ngay không hề thắc mắc hay hỏi này kia. Mỗi khi nấu làm đổ thức ăn trên bếp nó còn chắp tay xá xá xin lỗi ông Táo. Mỗi năm cúng đưa hay đón ông Táo, nó tới bàn thờ cầu xin dễ thương lắm. Bây giờ mấy đứa cháu ngoại cái gì cũng hỏi cho ra.

Ngày rằm Trung Thu rước đèn chị Thim bèn kể chuyện Hằng Nga Chú cuội cho các cháu nghe, nghĩ rằng chúng sẽ thích lắm như mình hồi nhỏ. Ai dè cháu chị lên tiếng không kiêng nể gì hết:

- Làm gì có Hằng Nga ở trển. Đá không hà ngoại ơi! Phi thuyền lên trên mặt trăng lấy đá về nghiên cứu đó. Hằng Nga hả? con không tin.

Ôi! Cái thời khoa học tiên tiến, mỗi đứa cháu đều có một cái Iphone hay Ipad , tuổi thơ của nó không còn là hoa bướm, tiên nữ nữa. Nó thực tế đến trần trụi tự nhiên. Già như chị Thim đôi khi bị nó bắt bẻ, dẫn chứng có lý lẽ, khoa học kỹ thuật rõ ràng đành quê độ chịu thua.

Nói chúng không có sự tưởng tượng cũng không đúng. Chúng cũng có những chuyện thần tiên trong tranh hoạt hình của thiếu nhi. Nhưng những chuyện ấy chị Thim mù tịt về tên nhân vật vì quá nhiều. Những nhà làm phim tưởng tượng ra những câu chuyện thần thoại những con vật viết nói, những tranh hoạt hình cho trẻ em. Rồi họ sản xuất ra những áo, khăn, búp bê và vô số đồ chơi theo chuyện phim đó. Báo hại cha mẹ ông bà mua sắm theo sự vòi vĩnh của chúng cũng tốn khá nhiều tiền.

Trí tưởng tượng của trẻ con phong phú lắm. Hôm nay nó sẽ hóa thân làm người này và tên nó sẽ là tên nhân vật đó. Vài hôm sau sẽ là một nhân vật mới, tên mới. Khốn nỗi chị Thim đâu có biết lúc đó nó nhập vai ai nên cứ bị nó bắt bẻ và phụng phịu nghỉ chơi hoài. Những chuyện cổ tích VN bây giờ không còn đi vào tâm hồn bọn trẻ. Chúng bắt ông bà đi theo sự tưởng tượng và nhân vật của chúng trong phim ảnh chứ không theo chuyện kể đời xưa xa lắc xa lơ của VN mình.

Cái thời bà nội, bà ngoại nằm ôm cháu kể chuyện đời xưa bây giờ chắc không còn nữa. Những bà nội (ngoại) tiếng Tây tiếng Mỹ ít ỏi, nói cho nó hiểu thật khó dàng trời. Nó nói tiếng Mỹ nhanh như giông như gió mình không nghe kịp , thì làm sao gieo vào đầu chúng những câu chuyện truyền miệng mà ngày xưa ông bà mình đã kể cho mình nghe.

Nhiều khi nghe nó vặn vẹo mình cũng chột dạ. Có phải mình cũng lẩm cẩm quá không? Có còn tin vào ông Táo hai ông một bà về chầu trời không? Có còn tin trên vầng trăng sáng đẹp lung linh kia có một nàng Hằng Nga ôm gối mộng lẻ loi một mình. Chuyện thần tiên bao giờ cũng là đẹp đi vào trái tim nhỏ bé ngây thơ tuổi nhỏ. Ta nghe và yêu nó như yêu cả tuổi thơ trong trắng tuyệt vời. Lớn lên khi có con ta lại kể cho con nghe và coi như ta trao tuổi thơ cho nó nâng niu khi tuổi thơ mình đã mất.

Tết đã về tới rồi. Lẹ thiệt, dường như thời gian chạy đua với tuổi già của con người. Bên đây xung quanh toàn người Mỹ, ngày Tết VN chẳng ăn nhằm gì với họ. Ngày mồng một vào đầu tuần thì y như rằng Tết năm đó như không là Tết . Vậy thì Tết bắt đầu lúc nào?

Đối với trẻ con ở Mỹ, Tết bắt đầu từ sáng mồng một, khi cha mẹ chúng trao tiền lì xì và chúc mừng năm mới. Ở Việt Nam tuổi nhỏ của chúng ta, Tết bắt đầu sau ngày đưa ông Táo về trời. Từ sau ngày 23 chúng ta dùng chữ Tết hay tháng chạp đi sau ngày tháng. Thí dụ:

- Hôm nay 24 tháng chạp hoặc hôm nay 24 Tết

- Hôm nay 27 Tết rồi đó bà con ơi .

Cho nên khi đã đưa ông Táo về trời thì nhà nhà bắt đầu chuẩn bị ăn Tết. Có phải chăng người xưa đã lấy cái điểm mốc này để chào mừng mùa Xuân. Những cây mai tỉa sạch lá hôm nào đã đơm biết bao là nụ. Những nụ hoa nhỏ bắt đầu to dần để nở đúng Tết. Những bông thọ, bông mồng gà, bông cúc đã khoe sắc rực rỡ sân nhà. Mẹ đã đem nếp mới đi xay , mua đường , mua thịt về chuẩn bị gói bánh. Những lá chuối ngoài vườn mẹ ra ngấm nghé để chuẩn bị cắt về phơi. Những trái bí đao già trắng hếu để dành nằm một đống dưới gầm ván được má lôi ra chuẩn bị làm mứt. Cây chùm ruột chua chi chít những trái được chị hái hết đem vào nhà rửa sạch chà cho ra hết chất chua. Dừa ba đã cắt từ lâu, tách bỏ vỏ ngoài sẽ là những hộp mứt dừa ngọt ngào đủ màu sắc. Mấy trái mãng cầu đã được xên đường thật ngon và gói đủ màu sắc. ....

Tết là cả gia đình gom tụ về để mừng năm mới. Con cháu chung tay chuẩn bị đón Xuân về. Tết là để các cô gái miệt vườn giỏi giang phô trương tài nữ công gia chánh. Tết là dịp các bà mẹ chồng nhận xét, chấm điểm tìm con dâu. Tết là dịp mẹ dạy con gái nấu những món ăn ngon, làm những loại mứt ngọt ngào để bước thêm một tuổi chuẩn bị lấy chồng. Tết trẻ con được mặc đồ mới, được ăn ngon được lì xì tiền và được nghỉ ở nhà đi chơi thỏa thích. Có đứa thấy mình đã lớn, phải có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ.

Ngày Tết ngọt ngào với Mứt gừng, mứt bí, mứt me, mứt chùm ruột, mứt dừa, mứt mãng cầu,mứt khoai lang...Bánh thì có bánh tổ, bánh ít, bánh tét, bánh chưng, bánh dày, bánh bông lan, bánh in, bánh bột lọc... Thịt thì có thịt kho tàu, thịt kho trứng, thịt luộc cuốn bánh tráng với dưa giá rau sống, thịt đông, nem, chả, giò thủ, tré, đầu heo dầm chua, lỗ tai heo ngâm nước mắm hay ngâm dấm. Ngoài ra còn có canh khổ qua dồn thịt, canh miến... Nhất là ngày mồng một ăn chay không thể nào thiếu món kiểm là một món đặc biệt của miền Nam nấu với rất nhiều rau củ nước dừa ngon hết biết.

Ngày tết ở miền Nam, bàn thờ gia tiên được bài trí vô cùng trang trọng.Thức ăn bày cúng được để trên bàn dài trước tủ thờ. Ngoài mâm cơm cúng ông bà phải có mâm cơm cúng đất đai thổ trạch, một mâm cúng rước ông Táo về nhà. Trên bàn thờ ngoài lư hương chân đèn được chùi sáng choang, bông hoa rực rỡ, còn có cặp dưa hấu và mâm ngũ quả Cầu, dừa, đủ, xoài và một trái thơm. Có người còn chưng thêm chùm sung tượng trưng cho sung túc hay mấy quả Phật Thủ để cầu được phước báo trong năm mới. Chuối được chưng thường là chuối sứ trái thật to và ngon, tuyệt đối không ai chưng chuối già.

Ngày nay người ta hay đùa vì ý nghĩa "CẦU VỪA ĐỦ XÀI" của người miền Nam đơn giản, thiệt thà, bình dị không ước mơ nhiều. Họ dùng những cây trái mô tả để đùa như: CẦU XÀI XẢ GA là mãng cầu, xoài ,vài gốc sả và một bình ga nhỏ. Đùa vui chọc phá thì có CẦU BƠM VÚ VỪA ĐỦ XÀI Là mãng cầu, táo, vú sữa, dừa, đu đủ và xoài vv.. Ngày Tết không ai chưng sầu riêng, trái lê, trái lựu vì kiêng cử.

Tết là niềm vui là thay đổi cái cũ để bước qua cái mới tốt đẹp hơn.

Nhà tôi ngày xưa đó cứ vài năm ba tôi lại cho quét vôi lại một lần. Các anh tôi tập trung về phụ ba làm việc. Đồ đạc được di chuyển, dọn dẹp. Bụi bặm được quét sạch sẽ. Đồ dùng có dịp kiểm điểm lại, cái nào quá cũ thì bỏ. Có cái để hoài một góc nào đó rồi quên đi bây giờ mới tìm ra. Căn nhà sau khi quét vôi xong, nền nhà rửa sạch xem như mới. Tất cả đều tinh tươm sạch sẽ. Bộ lư đồng được đem ra chùi sáng trưng. Khỏi cần mua thuốc chùi lư, cứ ra vườn sau hái một mớ khế chua hay chanh chà thật đều, phơi nắng một chút rồi đem vô lau thật kỹ. Chao ơi! bộ lư sáng choang như mới. Cây mai ngoài vườn được cắt vài nhánh chưng trên bàn thờ, đọ sắc với bông thọ vàng rực mà má tôi rất thích. Dọn bàn thờ và trang trí rất quan trọng trong phong tục VN. Bởi vì nhìn lên bàn thờ người ta có thể đoán được gia thế và cách sống của gia chủ.

Người ta nói người Việt Nam mình sống cho người chết cũng không ngoa. Gần Tết đại gia đình tổ chức đi dẫy mả, làm sạch sẽ nơi người chết yên nghỉ. Trước khi dọn dẹp cho khang trang phải có một mâm gà xôi rượu bánh trái cúng ngoài mộ để xin phép rồi mới được làm. Ngày này mỗi gia đình thường cử người đại diện đi tham gia làm công việc hiếu nghĩa biết ơn tổ tông ông bà.

Ngày 30 Tết mọi nhà rộn ràng nấu nướng để rước ông bà. Trong không khí trang nghiêm và linh thiêng, gia chủ cúng lạy để mời ông bà tổ tiên về vui Tết với con cháu. Bắt đầu giờ phút đó phải kiêng những thứ không tốt lành, nói năng vô phép sợ thất lễ ông bà và ảnh hưởng cho năm mới . Ngày Tết đến thăm nhà ai thì đầu tiên phải xin phép gia chủ để được đốt nhang bàn thờ mới là người biết phép tắc.

Đúng 12 giờ đêm mọi nhà đều cúng giao thừa. Giờ phút cúng giao thừa thiêng liêng lắm. Đó là thời khắc giao thoa của đất trời, giờ phút bước qua một năm mới. Cúng giao thừa thường được cúng trước cửa, có nhà để ngoài sân. Mâm cúng giao thừa chủ yếu là hoa quả , bánh, mứt, nước lọc hay nước trà. Có nhà nấu thêm chè xôi để cúng. Sau khi cúng xong gia chủ sẽ châm ngòi cho pháo nổ. Cả xóm, cả làng nhà ai cũng có đốt pháo. Nghèo thì một phong, giàu thì đốt pháo đại và rất nhiều phong pháo. Trẻ em đứng bên ngoài reo hò, vỗ tay, khi pháo nổ hết thì nhào vô lượm pháo rớt ra để đốt . Sáng mồng một sân nhà ai cũng đầy xác pháo đỏ thật đẹp. Sau này do tình hình chiến tranh, an ninh tục lệ đốt pháo ngày Tết bị giới hạn, có năm cấm luôn. Riêng ở miền Nam Cali năm nào city cũng cho phép các nhà buôn bán lớn được phép đốt pháo đầu năm hay ngày khai trương năm mới để lấy hên.

Những ngày cận Tết con gái cực lắm. Ngoài phụ mẹ gói bánh, làm mứt, nấu ăn còn phải dọn dẹp nhà cửa. Tất cả mùng, mền, áo gối đều phải giặt sạch. Gạo phải đầy lu, nước phải đầy bể, đầy khạp, sân phải quét dọn sạch sẽ tinh tươm. Vào chiều ngày 30 trước khi rước ông bà về phải tưới nước cho ướt sân để ông bà về mát mẻ. Tất cả mọi sinh hoạt phải xong trước giờ cúng giao thừa. Bắt đầu sáng mồng một là chỉ có chúc Tết, ăn, chơi. Đàn ông đi chúc tết, ăn nhậu, đánh bài. Con nít mừng tuổi, nhận lì xì, đi chơi và đánh bầu cua cá cọp. Người mẹ nhiệm vụ ở nhà tiếp khách, đốt nhang bàn thờ. Con gái phải phục vụ và dọn dẹp. Các cây lớn ngoài vườn cũng được nhận một miếng giấy đỏ cắt hình thoi hay vuông dán vào gọi là mừng tuổi cho cây.

Việt Nam ta đa số theo đạo thờ ông bà, cho nên lễ nghĩa bắt buộc phải giữ gìn và bảo vệ. Tứ thân phụ mẫu đều phải được kính trọng cho nên "MÙNG MỘT NHÀ CHA, MÙNG HAI NHÀ MẸ, MÙNG BA NHÀ THẦY" Mùng một anh em chúng tôi ở nhà mừng tuổi bác, chú, cô. Mùng hai mấy anh em dẫn nhau về nhà ngoại đốt nhang và chúc Tết cậu, dì, bà con của mẹ. Ngày mùng ba hẹn nhau đi chúc Tết thầy giáo cô giáo rồi về nhà cúng đưa ông bà.

Người Việt sau 30/4/75 rời xa đất nước vẫn canh cánh bên lòng tình quê hương dân tộc. Ngay từ cái Tết đầu tiên dù ở trại tị nạn hay ở xứ người vẫn cố gắng duy trì phong tục và làm sống lại cái Tết Việt Nam. Tết là tình tự dân tộc là cội nguồn từ thời vua Hùng dựng nước. Bánh dầy bánh chưng xuất phát từ Lang Liêu dâng lên vua cha thời Hùng Vương thứ 7 để tỏ lòng tạ ơn trời, đất, tổ tiên. Bánh tét là lương thực dự trữ mang đi cho quân sĩ ăn hành quân thần tốc. Trong vòng 5 ngày Vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Cho nên ngày tết VN không thể không có ba món quốc hồn quốc túy ý nghĩa đó.

Mấy chục năm ở xứ người mỗi năm người Việt ta vẫn ăn Tết rình rang khiến người bản xứ từ lạ lùng đến kính phục, họ cũng vui theo ngày Tết VN mình. Sau ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời là các chợ VN đã trang hoàng và bán đủ loại trái cây, bánh mứt và quà biếu cho ngày Tết. Chợ hoa Phước Lộc Thọ tại miền Nam Cali và các chợ hoa trên khắp các nơi có người Việt cư ngụ làm đẹp thêm thành phố, làm nao nức lòng người. Những tụ điểm ca nhạc mừng Xuân rộn ràng khắp nơi. Cứ nghe "Tết Tết Tết Tết đến rồi" hay "Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi" là ta thấy lòng nôn nao mừng Tết. Các chùa hay các nhà thờ lên kế hoạch Mừng Xuân chúc Tết đón giao thừa. Các chùa tổ chức cho Phật Tử đi hành hương sau Tết.

Năm nay là năm Nhâm Dần tức là năm con cọp. Cọp là chúa tể sơn lâm nên rất hung dữ. Đàn bà con gái tuổi con cọp khó lấy chồng vì kỵ tuổi. "Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung" Đúng lý ra chỉ kỵ các tuổi khỉ, rắn với heo thôi nhưng không hiểu sao người ta vẫn cấm kỵ con trai lấy vợ tuổi dần. Có lẽ họ sợ cô vợ tuổi cọp đến một ngày nào đó sẽ biến thành sư tử Hà Đông ăn hiếp chồng. Đối với con trai can Nhâm rất tốt (Nam Nhâm nữ Quý) nên sinh con trai năm này là quý tử vì được ở can Nhâm và được tuổi Dần tượng trưng cho sức mạnh.

Chúng ta vô Google gõ cửa các nhà tướng số nha:

Năm 2022 Nhâm Dần là năm con Hổ (Hổ qua rừng - Quá Lâm Chi Hổ), ngũ hành Kim. Năm Nhâm Dần được xem là một năm vượng khí tốt, trời đất khai thông, thái dương chiếu sáng, các tuổi sẽ được gặp may mắn, thuận lợi.

Thời gian: Năm Nhâm Dần bắt đầu từ ngày 01/02/2022 – 21/01/2023 dương lịch.

Mệnh: Kim Bạch Kim (Vàng pha bạc)

Hổ (Dần) là con vật đại diện cho sức mạnh, sự uy quyền

Tổng Quan:

Người sinh năm Dần là người có đời sống nội tâm cao, họ có tài trí hơn người và luôn ấp ủ những ý tưởng to lớn. Họ tự quyết và có tính độc lập cao, ưa mạo hiểm, và ít bị khuất phục

Vận hạn cuộc đời:

Tuổi Dần khó lòng thỏa mãn với bản thân, lúc nào cũng cảm thấy không vừa ý nên cuộc sống của họ đôi chút thăng trầm.

Các mối quan hệ

Tuổi Dần nếu kết bạn với một người tuổi Hợi chắc chắn sẽ tốt bởi người tuổi Hợi luôn điềm đạm từ tốn, họ sẽ bổ túc và kiềm chế bớt tính nóng nảy và bình an cho người tuổi Dần. Tuổi Dần sẽ thấy tâm đầu ý hợp với tuổi Tỵ, bởi cả 2 đều rất đa nghi, song người tuổi Tỵ lại rất ôn hòa và thận trọng trong khi người tuổi Dần nóng nảy và liều lĩnh.

Thôi, coi bao nhiêu đó cũng đủ rồi, bây giờ ta bàn chuyện vui vui về con cọp nha các bạn.

Dần là hổ, hùm hay ông ba mươi là những tên người VN hay gọi . Trong chữ nghĩa VN có những chữ dần, cọp hay hổ mà không dính dáng gì tới ông ba mươi.

Thí dụ:

- Hổ ngươi hay xấu hổ không dính dáng gì tới con cọp hết mà cùng có nghĩa là mắc cỡ

- Tuổi hổ cáp không phải con cọp mà là con bò cạp

- Khi các bạn nghe nói đi coi cọp thì không hẳn là mình vô sở thú xem ông ba mươi mà còn có nghĩa là mình coi hát không mua vé

- Khi các bạn nghe một người nói ăn thịt cọp thì đừng tin là họ bắt được cọp và làm thịt ăn. Mà là muối hột giả ra nghe lộp cộp để ăn cơm vì quá nghèo.

- Khi nghe học trò nói hai từ cọp dê thì không phải là con cọp nó dê hoặc con cọp với con dê mà là coi trộm bài làm của người khác rồi chép lại.

-Khi nghe nói bị nhốt chuồng cọp không có nghĩa là bị nhốt vào chuồng có con cọp ở trỏng. Mà có nghĩa là bị biệt giam

-Cọp biển không phải là cọp ở ngoài biển mà là lính thủy quân lục chiến mà bây giờ ở VN gọi là lính thủy đánh bộ

- Dần dần không có nghĩa là hai con cọp mà là từ từ

- Còn một từ nữa về lính có dính tới cọp là Cọp ba đầu rằn. Không phải con cọp trên đầu có ba rằn trên đầu, mà là Tiểu đoàn 42 Biệt động quân

Trong kho tàng văn chương VN để ám chỉ những việc, những con người hay hành động nào đó, người ta hay dùng những con vật mà mọi người đều biết để ví von. Về con cọp có những câu như sau:

Ăn như hùm như cọp. Nam thực như hổ, nữ thực như miêu. Điệu hổ ly sơn. Thả hổ về rừng. Vuốt râu cọp hay vuốt râu hùm. Cáo mượn oai hùm. Không chui vào hang hùm làm sao bắt được hổ con. Dựa hơi hùm. Hổ dữ không ăn thịt con. Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Miệng hùm gan sứa...vv.

Chỉ còn có 3 ngày nữa là con Trâu hết nhiệm kỳ để bàn giao nhiệm vụ cho con cọp. Tôi lại nhớ chuyện cổ tích má tôi hay kể hồi nhỏ có dính líu trực tiếp đến hai con này. Chuyện kể có con cọp đi tìm mồi. Cọp thấy con trâu to lớn mà bị con người rất nhỏ bắt kéo cày, đánh roi vun vút vào mông. Khi họ nghỉ làm con trâu nằm nhai cỏ, cọp đi tới hỏi trâu lý do. Con trâu nói là con người tuy nhỏ nhưng có trí khôn. Cọp lại tìm người nông dân hỏi cái trí khôn để đâu đưa cho cọp coi thử nếu không cọp sẽ ăn thịt. Người nông dân nói trí khôn để ở nhà. Ông ta sẽ về nhà lấy đưa cho cọp với điều kiện cọp phải cho ông ta trói lại, nếu không khi ông ta đi cọp sẽ ăn thịt con trâu của ông. Nghe hợp lý, cọp đồng ý cho anh nông dân kia trói gô vào cây ở nọc rơm. Xong xuôi anh nông dân đánh cho cọp tơi bời và nói trí khôn ông ta ở đây nè. Xong lấy rơm đốt vào đuôi cọp. Cọp bị lửa bắt cháy sợ quá vùng đứt dây và chạy thoát vào rừng. Từ đó lông cọp có vằn, có vện vì bị lửa cháy xém lông.

Đây là câu chuyện đời xưa để giải thích lý do lông cọp vằn vện cũng như đề cao trí khôn của loài người. Câu chuyện chắc chắn là không có thật vì cọp làm sao biết nói tiếng người. Câu chuyện cũng ám chỉ con cọp tuy to con nhưng chỉ mạnh về thể lực không thông minh hay mưu trí như những con vật khác.

Con trâu hiền lành, chăm chỉ là con vật nuôi trong nhà, để cho con người sai khiến. Con trâu khi còn sống làm việc cật lực để đem lợi ích cho con người, khi chết còn bị con người đem ra làm thịt không bỏ một thứ gì, cả bộ da cũng bị lột ra làm mặt trống. Con cọp trái lại rất hung dữ, ăn thịt súc vật và ăn cả thịt người nên loài người rất sợ. Cọp sống trong rừng không gần gũi tiếp xúc với loài người. Rừng càng ngày càng bị khai phá để mở rộng diện tích trồng trọt và xây dựng. Loài cọp cũng dần dần bị đẩy đi xa. Thiếu rừng thì chúa tể sơn lâm cũng không thể dương oai diệu võ, không thể sinh con duy trì nòi giống. Loài cọp dần dần tuyệt chủng, chỉ còn thấy ở sở thú hay những khu rừng nguyên sinh được nhà nước bảo vệ.

Nhâm Dần về rồi, người dân trên khắp thế giới hướng về năm 2022 mong mỏi một sự thay đổi tốt đẹp. Dịch bệnh Coronavirus đã đẩy lùi dân số và sinh hoạt của con người trong hai năm qua. Dân chúng toàn cầu đang mơ ước không phải sự đi lên ngoạn mục mà chỉ là được trở về thời kỳ của 2 năm về trước. Thật là một điều vô lý nhưng đó là sự thật. Sự thật dù đã được chích ngừa 3 lần nhưng ra ngoài vẫn phải mang khẩu trang che kín, vẫn phải đứng cách xa nhau 2 mét, vẫn nơm nớp lo sợ mà bệnh viện vẫn không đủ phòng cho bệnh nhân dính Covid. Thật là yêu quỷ lộng hành, thiên đình chắc phải cử thiên tướng xuống trần dẹp loạn, đem lại bình an cho bá tánh.

Thiên tướng đây có phải là con cọp chúa tể sơn lâm không? Hy vọng ông ba mươi sẽ ra oai hùm rống to cho dịch bệnh tiêu trừ, nhân loại an hòa, giang sơn bình định.

Tân niên lại đến mỗi gia đình
Khai bút làm thơ chúc bạn mình
Tài lộc vào nhà vui khấp khởi
Bình an gỏ cửa nụ cười xinh
Nhà nhà hết sợ con vi rút
Chốn chốn mừng vui cảnh thái bình
Cuộc sống thanh nhàn ta tận hưởng
Nhâm Dần dịch bệnh cũng lui binh

CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Nguyễn thị Thêm
01/31/2022

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

HAI QUẢ TRỨNG GÀ VÀ ÔNG HÀNG XÓM


Tháng 11 trời Connecticut bắt đầu lạnh, cái lạnh làm se cả lòng người xa xứ. Tôi bước đi chậm rãi, ngắm vội vài lá vàng rơi rụng. Trời trong xanh thì thầm gọi chào buổi sáng. Lần đầu tiên, tui được nhìn thấy mùa thu xứ Mỹ. Đã quá thu rồi ! Ừ, vậy mà, thu vẫn đi êm đềm nhẹ nhàng vào lòng người thật khó tả!

Tui nghe tiếng Má tui gọi ơi ới “ Khanh ơi ”. Tui giật thót mình, hồn thu đang dạt dào tự nhiên... bay mất. Tui lật đật quay đầu trở lại, thấy Má tui đang đứng lớ ngớ bên ngoài cửa Apartment (chà! có chuyện gì đây?) Má tui trả lời gọn lỏn “Cửa đóng rồi, cứng ngắc không mở được. Đang luộc 2 Trứng Gà, không vặn lửa lớn, nhưng để lâu cháy nhà.” Trời đất, tui nghe tới đây, hồn vía như lên tới tận mây xanh, mới qua Mỹ có 3 ngày đâu biết tiếng Anh tiếng em gì? Réo gọi ai đây, điện thoại cũng không có, tui phải làm sao bây giờ? Trời lạnh mà mồ hôi rịn ra ướt cả lưng áo.

Tự nhiên như có phép lạ, một Ông Già Mỹ trắng lù lù thò cái đầu từ cửa sổ bên cạnh nhà ra (chắc là nghe tiếng động). Má tui đứng mà nhảy tưng tưng, Ông bước ra ngoài, rồi hỏi một tràng tiếng Mỹ, tui không hiểu gì hết (biết trả lời lại chết liền!) Tui nhìn qua nhìn lại, Má tui nhanh như hỏa tiễn thời chiến tranh VN, xáp tới Ổng, giơ hai tay lên làm dấu như 2 Quả Trứng, Ổng lắc đầu. Má tui tiến thêm bước nữa, đưa hai tay lên (cong ngón cái và ngón trỏ lại với nhau) tạo thành hình tròn rồi chỉ vào bộ Ngực của Má tui (hình như trên đời này, khi không còn cách nào nói cho đối phương hiểu, chỉ còn cách là làm TÍN HIỆU có sẵn ngay trước mắt). Giống như 2 Quả Trứng, Ổng cũng lắc đầu nguầy nguậy.

Quýnh quáng quá, như là phản xạ tự nhiên, Má tui tiến sát vào Ổng, và chỉ gần phía dưới bụng (chỗ hiểm) ý nói là giống 2 Quả Trứng (chà ! cái này mới là ghê chứ) rồi đưa tay về phía cửa đang đóng kín. Ông Già sợ tái xanh cả mặt mày, Ổng lui ra, Ổng né. Ổng càng né, Má tui càng xáp vô, đến khi nào chỉ đúng “mục tiêu thì thôi. Mắt Ông mở tròn xoe, Ổng nhìn Má tui như thể nhìn người hành tinh xuống, còn Má tui nhìn Ổng như thể là Ông không có thật trên đời! Rồi Ông cuống cuồng chạy vào nhà lấy Phone, tui hiểu ngay ý Má tui, tui cười chịu không nổi, tui cười tới đâu, tui sởn gai ốc tới đó. Tui thấy Ông nói xí xô xí xào gì đó trong Phone; không đầy năm phút sau, một đoàn hùng hậu 6 chiếc, xe chữa lửa, cảnh sát một toán người tiến đến. Xe hú còi inh ỏi náo động xé toạc bầu không khí đầy thu vàng đang êm ả của xóm tui. Tui tá hỏa tam tinh, Má tui thì xụi lơ, teo héo! Tui nghĩ bụng phen này chết chắc, má tui chắc là bị bắt quá vì cái tội xáp vô Ông già Mỹ kia.

Ngay lập tức Police bước tới hỏi một tràng tiếng Mỹ (tui và Má tui là dân quê thứ thiệt, đi qua Mỹ mà còn đòi đem theo một cặp gà con trống mái gầy giống cho nó đẻ, thì lấy đâu ra tiếng Mỹ mà học). Mà cũng phải, thử nghĩ lại coi, lúc đó sợ cháy nhà, sợ bị bắt muốn chết giấc, hồn vía mất tiêu lấy đâu ra từ ngữ mà nói lại. Một chữ Thank You cũng quên tuốt luốt. Tui trả lời bằng động từ "TU QUƠ", quơ qua, quơ lại, Má tui một lần nữa soạn lại “bổn cũ”. Lần này ngay Ông Police mà tiến tới, đưa hai tay lên ra dấu như 2 Quả Trứng chỉ vào “chỗ hiểm”, Ông Police lùi lại, rồi Má tui đến đập cánh cửa. Ngó chừng như Ổng hiểu ý, họ nạy cửa bung ra. Má tui te te chạy vào: 2 Quả Trứng gà sắp sửa nổ tung, vì nồi nước đã cạn queo. Mùi khen khét bốc lên như chờ đợi mời mọc mọi người.

Lúc này Ông hàng xóm nhìn Má tui từ đầu cho tới chân, Ông bỗng cười sặc sụa, cười ngặt nghẽo, cười muốn tắt hơi. Rồi mọi người cùng cười vang. Tui mừng rơn trong bụng. Thoát nạn!

Rồi, mùa Thu đi, mùa Đông lại đến. Ông Già hàng xóm ấy trở nên thân thiết hơn, gia đình chúng tôi biết tên Ông là David. Mà lạ thiệt, Má tui không chịu kêu tên đó mà cứ gọi là Ông “ ÉT ” (Egg) cho dễ nhớ mà! Cứ mỗi tuần đều đặn, Ông ghé nhà tui, tặng cho gia đình tui một vỉ trứng gà. Có hôm vui thiệt, Má tui tản bộ ra đầu ngõ (thèm thịt gà nguyên con nấu cháo), vừa đến cửa tiệm quên mất từ con gà. Má tui đưa hai tay lên làm giống như 2 cánh gà đập phành phạch vào đùi, miệng thì kêu ò ó o o như tiếng gà gáy. Ông Mỹ bán hàng mắt như muốn nổ đom đóm, đứng như trời trồng. Bỗng đâu Ông Già hàng xóm xuất hiện, tới làm thông dịch, nghe thấy “hiểu liền!” biểu đem ra một con gà cho Má tui. Vậy đó, Ông còn làm tài xế cho cả gia đình tui, chở đi Shopping, đi chợ VN, đi học ESL, có khi Ông ngồi đợi cả buổi.

Tui kể đến chuyện ngứa. Đầu mùa Đông tới, da tự nhiên ngứa, ngứa gì mà ngứa gãi muốn điên lên, tụi tui đi ra tiệm thuốc đem theo Ông ET hàng xóm (thông dịch viên bất đắc dĩ). Tui chỉ cần ra dấu, cởi áo lạnh ra, xắn tay áo lên, gãi “rột” một cái, là Ông biết ý ngay, mua liền cho 1 chai thuốc ngứa.

Vậy đó, rồi Ông vui lây cùng chúng tôi theo năm tháng, cho đến ngày mà Má tui biết được bập bẹ vài chữ. Hôm đó, Ông đem trứng gà cho nhà tui, Má tui không nhận vì trong tủ đầy nhóc trứng rồi, Lần này thì Má tui nhẹ nhàng says: “No, thank you, have a nice day,” gọn ơ, ngọt xớt! Mặt Ông cười, nụ cười chất ngất một niềm vui, vui như đón bình minh. Ừ, phải rồi, Ông đang đón một bình minh của sự đổi đời của cả một gia đình trước mặt Ông mà Ông không hề hay biết. Bình minh của những con người mới đang bước đi chập chững để tạo dựng cuộc sống ngay trên đất nước Ông... Và Ông cùng đồng hành với chúng tôi trong những năm tháng đầu tiên mà không mệt mỏi. Mà mệt mỏi làm sao được chứ, khi mà trái tim Ông đang vui sướng san xẻ tình thương cho người đang đón nhận.

Đã bao nhiêu năm rồi, bây giờ hỏi lại Má tui, Má tui nói nhớ Ông “ET” quá chừng luôn. Rồi Má tui cười xoà, nụ cười có nhiều kỷ niệm. Sáng nay, hai Quả Trứng gà “ốp-la” được đứa Con Gái tui bày ra bàn chờ điểm tâm, tui nhìn mà cười tíu tít, nó hỏi “làm gì mà Mom cười vui vẻ quá vậy!” Trời đất, nó đâu có biết. Có một ngày nọ, lâu lắm rồi… hai Quả Trứng gà như câu chuyện hài đã đi vào lòng người thật đậm đà khó quên. Có diễm phúc nào bằng khi mà tui đang có thêm một quê hương, một quê hương mới, một quê hương không sinh ra tui nhưng ràng rịt bước chân tui đến cuối cuộc đời.

Mùa Thu đến, mùa thu mênh mang ngọt ngào chuyên chở những dòng ký ức xa xôi để lại trong lòng người thêm nhiều nỗi niềm nhung nhớ.

Tui Tạ ơn Trời, tui cám ơn đời, tui cám ơn người, tui cám ơn vùng đất đã ưu ái cưu mang tui trong những ngày khốn khó... Hình như mắt tui cay sè...

Bảo Huân

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »

VỢ NGƯỜI , VỢ TA
SI TRANG

Hắn và vợ cùng tuổi, chung lớp chung trường, nói như nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn thì là: Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp, nhưng vợ và hắn không phải ở cuối phố, cũng chẳng có cây bưởi sau nhà tỏa hương ngan ngát, vợ hắn cũng không e ấp, ép cánh hoa bưởi trắng ngần trong chiếc khăn tay rồi ngập ngừng dúi vào tay hắn như những cô bé trong bài thơ .
Nhà vợ hắn ở đầu thôn, nhà hắn cuối thôn. Cuối năm lớp 12, trong một lần đi học về, thấy cô nàng lếch thếch cuốc bộ, hắn lại gần, định ra tay hảo hán nhưng vợ hắn đã nhanh nhảu, ra lệnh :

-Ê .. ông cho tôi đi nhờ về nhà!

Thế là từ đó, hai người thân nhau hơn, rồi hẹn hò, yêu nhau như những cặp đôi khác. Nhưng khổ nỗi, ngay cả nụ hôn đầu tiên thánh thiện của tình yêu, cô ta cũng không để cho hắn chủ động mà cô ta lại kéo hắn hôn trước ngay gốc cây ổi đầu ngõ. Cuối cùng, hắn và cô nàng cũng nên vợ nên chồng. Vợ chồng hắn hợp nhau ở chỗ không có đầu óc dùi mài kinh sử nên sau khi học xong PTTH về với đồng ruộng, cày sâu cuốc bẫm, giữ hồn quê, giữ mùa hoa cải vàng nở rộ bên sông, giữ cánh đồng lúa mơn mởn, ngậm sữa thơm đến tận chân trời cho người thành phố về thăm quê, chụp ảnh, seo- phì đăng phây- bút…

Hàng xóm nhà hắn cũng cùng tuổi, trong khi hắn hai đứa con gái một đứa 15, đứa 13 thì con trai lão hàng xóm mới 6 tuổi, chả là vì ngoài 30 bên ấy mới lấy vợ. Lấy vợ muộn lão ấy lại may mắn hơn. Đẻ ngay được đứa con trai kháu khỉnh, bụ bẫm, nhìn sướng cả mắt . Cô vợ trẻ măng, mượt mà nữa chứ ! Còn vợ hắn cái gì cũng tiếc của chả dám ăn ngon mặc đẹp, nói ra thì “nhảy” vào banh quai hàm hắn :

-Ông khỏe mạnh được mãi à? Lúc đau ốm, con cái học hành…lấy xương sườn ông mà bán hả?Thấy vợ giãy như”đỉa phải vôi” hắn im lặng cho nhẹ tội… Nhìn vợ hàng xóm hắn thèm nhỏ dãi, đã xinh đẹp ,nói năng nhỏ nhẹ lại còn dịu dàng, đến bữa ăn nghe vợ hàng xóm thánh thót :

-Anh ơi, dừng tay vào ăn cơm!

Còn vợ hắn thì gắt như mắm tôm:
-Ông có ăn không thì bảo!
Thế là hắn phải vội vàng vào ngồi với ba con bướm, lặng lẽ ăn cho xong bữa, chả muốn ý kiến ý cò: món này ngon, món kia dở .

Hôm nào vợ gã hàng xóm mua tí mỡ màng và chút cay cay về, gọi hắn qua chén tạc chén thù, ngồi quá giờ cơm tối một tí là vợ hắn la oai oái :

-Ông có về không hay ngủ ở ngoài? Còn vợ hàng xóm tâm lí, khuyến khích chồng :

-Nam vô tửu như kì vô phong !Nên lão hàng xóm cứ nhâm nhi vô tư, còn hắn phải về chứ không mụ vợ cửa đóng then cài có mà đêm nay ngủ khách sạn ngàn sao .

Nhà hắn và nhà hàng xóm cách nhau cái rào râm bụt nở hoa đỏ rực, lá xanh rờn. Anh hàng xóm chăm bón, tỉa tót kĩ càng lắm. Rào hoa ấy, hàng xóm trồng tặng vợ vì cô vợ trẻ thích hoa dâm bụt. Còn vợ hắn thì chả biết thích hoa gì, mà hắn cũng chả dám tặng hoa cho vợ. Bây giờ mà hắn tặng hoa cho cô ta không khéo lại bị nghi ngờ làm cái gì có lỗi. Chả dại gì mà rước họa vào thân. Hắn còn nhớ có lần ấy, vợ hắn đi chợ về muộn, ngóng mãi ra đầu ngõ. Trời tối, nhà ai cũng lên đèn, hắn lo cho vợ nhưng vừa thấy hắn, một tràng đại liên đã bắn ra:

-Ông làm cái gì mà phải canh chừng tôi thế ? Hắn định nói :Anh thấy mình chưa về, lo quá! Nhưng hắn biết thế nào cô ta cũng phang cho hắn:

-Á, lo cho con nào , rồi lấy con này làm bình phong hả ?

Nghĩ lại chuyện cũ hắn tự nhủ: Thôi, thôi! Chả hoa hòe, chả bay bướm, văn vẻ gì cho lành! Cứ mỗi lần nghe nhà bên kể về người vợ trẻ, xinh đẹp, dịu dàng, giỏi giang của lão, lòng hắn như có ai châm kim vào, hắn tê tái thấy mình kiếp trước vụng tu!

Chiều 30 Tết, hắn đang quần đùi lò xo, áo sống tả tơi với nồi bánh chưng, bởi trước khi đi chợ tết , vợ hắn đã dặn dò :

- Ông cấn thận nồi bánh đấy, bánh cháy cả năm hạn đấy! Cô ta mê tín thò lò như thế thì làm sao hắn dám lơ là. Bánh mà cháy, chuyện gì không may xảy ra trong năm … có mà không yên với vợ. Nghĩ thế nên hắn chăm bẵm vào nồi bánh. Chợt nghe bên hàng xóm ồn ào, đồ đạc loảng xoảng… hắn vội vàng nghển cổ qua rào dâm bụt (Hàng xóm mà! tối lửa tắt đèn phải có nhau chứ !) Một đám người xăm trổ đầy mình, dơ cái sổ đỏ ra :

-Cha con mày cút, con vợ mày cắm sổ vay tiền theo trai, quá hạn trả lãi,tụi tao lấy nhà, lấy đất!Có đi hay không để tụi tao còn xin tí huyết của thằng con!

Nhìn bọn người này dữ tợn, xăm trổ đấy mình, thằng con khóc thét lên.Gã hàng xóm run bần bật :

-Các anh thư thư để bố con em ra giêng!Bọn đầu gấu vất mấy bộ quần áo của hai cha con vào cái túi ném ra ngõ:

-Không giêng hai gì cả, con vợ mày lừa tụi tao, bây giờ tụi tao phải lấy nhà, lấy đất …hay mày giấu nó ở đâu ?

Gã líu cả lưỡi:
-Giấu gì? Các anh mà tìm thấy nó , báo…báo… cho em với , em giết nó!
Hắn thò đầu qua , ra hiệu bảo bố con hàng xóm qua nhà hắn.Hai bố con hàng xóm thất thểu lê gót qua nhà hắn:

-Tao hận..hận..con đàn bà đốn mạt !

Hắn tỏ vẻ thông cảm hỏi :
-Sao lại ra nông nỗi này? Thôi,ông cứ ở đây , rồi ta tính !
Thì ra cô hàng xóm xinh tươi ấy,cặp kè, ôm ấp trai trẻ từ lâu rồi mà chồng không biết.Những lần cô ta mua mồi nhắm về chuốc cho chồng say bí tử, nằm bẹt không biết trời trăng mây gió gì là để dẫn trai về nhà… Cô ta cuỗm sạch tiền bạc, cầm cả sổ đỏ theo tình trẻ cả tuần nay,bố con gã hàng xóm có liên lạc được đâu !Hai bố con mì tôm, bún, bánh… cả tuần chả có hạt cơm nào vào bụng !

Vừa lúc đó vợ hắn đi chợ về, không cần kể lể vợ hắn đã hiểu chuyện an ủi:

-Thôi, chuyện gì cũng có pháp luật!Bố con bác cứ ở đây ăn Tết với nhà em cho có bạn có bầu, ra giêng ta nhờ đến cơ qua chức năng giải quyết!

Thì ra chuyện vợ xóm ngoại tình vợ hắn biết từ lâu, chỉ có hắn là vẫn ngưỡng mộ, mơ màng người đàn bà lẳng lơ ấy, còn đem so sánh người vợ Tào khang của mình với vợ hàng xóm nữa chứ!

Chưa bao giờ hắn thấy vợ đáng yêu thế:Trời ơi, gót chân bùn, nứt nẻ nhìn thấy thương vô cùng. Giọng nói cục mịch,gắt gỏng hắn lại thấy ấm áp , gần gũi.Làn da rám nắng,đen sạm hắn lại thấy khỏe mạnh,đáng yêu…Hắn nhìn vợ tủm tỉm cười, vợ hắn quát :

-Ông điên à, bạn như thế mà còn cười được.. đi dọn ngay cho bố con bác ấy cái giường ở gian lồi!Rồi cô ấy gọi con gái :

-Na, múc cho bác và em bát cháo gà, mẹ hầm trong nồi cơm điện ấy!

Chưa bao giờ hắn thấy yêu ba con bướm nhà đến thế !Hắn nghĩ trong ruột :Sau này hai con bướm trẻ bay đi theo lũ bướm đực , hắn sẽ yêu thương và chăm sóc con bướm già này đến đầu bạc răng long

Si Trang -

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu

Taberd75 (FB Victor Đoàn)


LGT: Bài viết vô cùng cảm động sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….


Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.

Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.


Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.

Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị

Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người. Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….

Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.

Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:

– Ông bà từ đâu tới.

– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.

– Thưa ông bà tôi từ Texas.

Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.

– Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.

– Thưa ông tôi là người Việt Nam.

Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.

– Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.

Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới.

Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.

Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.

Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.

Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá.

Gặp lại nhau tôi lên tiếng:

– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…

Ông ôn tồn giải thích:

– Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.


Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông:

– Con trai của ông bà tên là gì nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?

– Con trai tôi tên là Mikes Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…

Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.

– Anh Mikes của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.

– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.


Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.

– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt…

– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.

– Mikes có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.

Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:

– Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm bia đá này.

Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.

– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.

– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.


Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.

– Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.

– Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?

– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.

– Chị tôi có một người con với anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.

Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.

– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi! Chúa ơi!

– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.

– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.

– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.

Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị tôi hay không.


Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa.

Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích:

– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.

Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.

– Đúng là chị tôi rồi.

Ông bà Wright mừng vui như mở hội. Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.

Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.

– Oh my God! He just looks like his father! Oh my God!

Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

Taberd75 (FB Victor Đoàn)

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Image

Tưởng như dòng sông không trở lại
Nguyễn Công Khanh
28 tháng 2, 2022


Tôi rời Hà Nội năm 1954, khi tôi 18 tuổi. Có nhiều bài hát về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi thường nghêu ngao bài Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi và trong đó có tên cả hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn. Hát lên hai chữ Hà Nội để lãng mạn tưởng tượng là mình có một người yêu thật sự đã bỏ lại ở thành phố cũ. Nhớ đến Sài Gòn, là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng trong một thành phố mới.

“Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…

… Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui

Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…”


Kỷ niệm với Hà Nội là kỷ niệm của thời niên thiếu. Với Sài Gòn là lúc đi vào tuổi trưởng thành và thành phố này đã cho tôi hai kỷ niệm khi đến và khi đi khó quên. Kỷ niệm Sài Gòn đầu tiên của tôi liên quan đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đình tôi cư ngụ tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn, là đường Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.

Một anh bạn thân đã chỉ cho tôi một người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện trong những buổi sáng ở đầu hẻm trên con đường có nhà in mà tôi được biết là ông đang chăm lo cho ra đời tác phẩm đầu tay của ông. Đó là cuốn Đêm Giã Từ Hà-Nội. Tôi đã phải lấy món tiền để dành nhỏ nhoi ra mua và nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời cho mình. Tôi đọc truyện ngắn Đêm Giã Từ Hà-Nội nhiều lần, và đến nay vẫn còn nhớ mang máng câu “Tôi nhìn xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà nội đang ở dưới đó…”.



Tôi cũng rời Hà Nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn chở những người di cư qua cầu Long Biên trong buổi tối nửa đêm về sáng sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài Gòn. Trời tờ mờ sáng, đèn vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều dọc theo chiều dài của chiếc cầu, gió sông thổi vào trong xe làm mọi người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nhìn xuống dòng sông, nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ý nghĩ như Mai Thảo.

Kỷ niệm thứ hai là với dòng sông Sài Gòn. Như những câu chuyện tình, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần cuối họ chia tay nhau, nếu khung cảnh đó lại là một bến sông thì câu chuyện lãng mạn và lâm ly biết bao. Chuyện của tôi với sông Sài Gòn cũng gần như thế. Tôi đến với Sài Gòn năm 54 và rời Việt Nam năm 75 cũng từ bến sông Sài Gòn.

________

Nhớ lại từ hồi học lớp Nhì trường Lý Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi là một tay bơi có hạng. Trung thu năm 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ. Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng vuông đeo bên người làm võ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào là hàng loạt vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa.

Lần đó tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra “tái chiếm” Tháp Rùa. Khoảng cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng, tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi mãi mới tới nơi. Khi đó thì toán đến trước đã đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đã rút lui bằng thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong lòng tháp đứng nghỉ. Nhìn quanh không còn ai, đội của tôi xong nhiệm vụ đang bơi vào bờ. Còn một mình, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đã lấy lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên trong lúc này, nói với mình một tiếng thì thú vị biết bao!

Hồi chiến tranh Việt-Pháp, gia đình tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đã bơi qua nhiều con sông đào nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đình, để về trại tạm cư vì không muốn lội bộ quá xa để đến bến đò ngang. Sau này về Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petite Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc, sang đình Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đã bơi ngang qua hồ sang đến gốc cây xoài phía bên kia.

Image
Ảnh: Eden Constantino/Unsplash
Sau mùa Hè di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi đổi sang trường Hồ Ngọc Cẩn, học lớp đệ Tam. Năm học mà thường được gọi là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Tôi cũng hay về thăm lại trường cũ Chu Văn An được đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Ký, gặp lại được một số bạn cũ, và nhớ những người bạn đã ở lại. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới. Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh mì thịt nguội hay cá hộp sardine, nước thì đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh. Cả bọn đạp xe qua cầu Bình Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có lần đi đến tận Biên Hòa và còng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên núi Châu Thới.

Một hôm, đạp xe qua Khánh Hội, rồi vòng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài Gòn. Lúc đó thủy triều xuống, lòng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia trông cũng khá xa. Sông Sài Gòn hồi đó còn nhỏ hẹp, không như bây giờ đã được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nảy ra ý cùng bơi qua sông. Tôi nhìn xuống dòng sông, nước ngả màu xám, lóng lánh vết dầu loang, có ý hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhảy xuống. Bơi được một quãng, ra đến giữa dòng, không ngờ nước chảy xiết, cả bọn bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo dòng. Nước đẩy chúng tôi quá xa, hơn cả hai trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở về, chúng tôi phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy mình thật là liều lĩnh, chắc là từ nay không anh nào còn dám đùa rỡn với con sông này nữa.

Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia đình, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đò trước trường Đồng Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông Hương ngày đó trong xanh, hiền hòa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông mà tôi đã lội qua.

Dòng sông cuối cùng tôi đã bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được chuyển ra đó làm việc sau khi ra trường Hành Chánh và xong một khóa Chuẩn úy Hiện dịch tại Đồng Đế, Nha Trang, vào khoảng đầu thập niên 1960. Tôi ở đó gần ba năm, không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một mình tôi bơi từ Dinh Cậu, nơi dòng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đã đặt tên là “xóm Bình Định” cho những người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo xin lập cư. Có lần tôi bơi ra ngoài xa, đến tận cái cột mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lão ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Image
Ảnh: pexels-anna-tarazevich

Hơn hai mươi năm sống với mưa nắng Sài Gòn, học hành, gầy dựng tương lai, tôi đã có những năm tháng thanh bình cũng như xáo trộn vì tình hình đất nước. Cuối cùng, một quyết định đau lòng là phải bỏ quê hương khi người anh em từ miền Bắc xông vào cưỡng chiếm miền Nam.

Buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975, gia đình tôi và ông anh vợ là quân nhân chạy về ngôi nhà đường Trần Quý Cáp của bà chị lớn. Tôi biết lòng anh nóng như lửa vì vợ con đã rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích, bất khiển dụng. Chúng tôi gần như tuyệt vọng nghĩ không tìm được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tàu hải quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà và cùng nhảy lên xe jeep nhà binh của anh.

Tới nơi, một vòng kẽm gai đã chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn chặn đám đông bên ngoài đang cố tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo, nơi có lính đứng kiểm soát. Nhìn thấy anh đeo lon trung tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia đình chúng tôi lại vì là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám vì sợ trái lệnh trên. Không muốn nhùng nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi tìm vợ con của anh, tôi bắt tay anh, hối thúc anh đi may mắn, còn gia đình tôi có thể trở về.

Đám đông ngoài hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại, nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con nhỏ nhất sợ hãi, khóc ầm ĩ. Chúng tôi nghĩ nếu còn ở đây dám bị đạn lạc và quyết định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng không nổ.



Lính canh sợ hỗn loạn như vụ di tản miền Trung vừa qua, họ vội giăng thêm mấy lần kẽm gai rộng ra ngay đằng sau xe. Không biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Súng bắn, con khóc như ri, cùng quá, tôi đành bước xuống xe, lại gần nói khó với anh trung sĩ đang giữ rào cản. Anh ta nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở rào thì phóng xe thật nhanh vào”. Tôi nghĩ xe đã không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy không còn cách nào hơn là trở lại xe. Vợ tôi đang cầu nguyện Trời Phật ông bà. Tôi yên lặng ngưng thở vài giây, vừa thì thầm khấn theo vừa thử đề máy xe, thì lạ thay, xe nổ máy, thế là gia đình tôi thoát vào được! Tuy vậy cũng còn phải trải qua nhiều gian nan vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Image
Ảnh: pexels-spencer-lee

Hai giờ sáng, con tàu 502 có tên là Thị Nại rời bến Bason trên chở năm ngàn người. Khi tàu đi ngang qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”. Bất giác, tôi nghĩ thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.

Sáng 30, tàu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio, nghe tiếng tướng lãnh đầu hàng như một lời báo tử. Nhìn lại phía sau, Sài Gòn và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang chìm sâu xuống biển. Đi chẳng được bao lâu, tàu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi, phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. Vì là con tàu cuối cùng ì ạch chạy, phải vớt thêm một số ghe còn lại, nên tàu lại càng chật len người. Một trực thăng cố đuổi theo tàu tìm chỗ đậu, sau khi hạ xuống xong, lại phải tìm cách đẩy trực thăng xuống biển.

Ngoài ra còn một máy bay thám thính T28, trên có hai phi công, bay đến lượn sát quanh tàu nhiều vòng, nhưng làm sao đáp xuống được. Cuối cùng phải bay là sát xuống để cố đáp trên mặt biển, nhưng không ngờ máy bay bị lật úp văng một phi công ra ngoài. May nhờ toán người nhái bơi ra cứu được. Còn phi công khác đã chìm theo máy bay đi vào lòng biển… Ngày thứ tư Hạm Đội Mỹ mới đến giúp, tiếp tế thực phẩm và bơm thuốc phòng bệnh. Bảy ngày tàu mới tới được Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cặp bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các dấu hiệu của Việt Nam. Tên tàu Thị Nại 502 bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tàu đứng lên hát Quốc ca, nước mắt nhạt nhòa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng ca của những người thất trận.

Rồi chúng tôi được chuyển qua các trại tị nạn và vượt được Thái Bình Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua lục địa Mỹ đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương, trèo vào trong lòng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự Do để chắc chắn là mình đã làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Image
Ảnh: pexels-tuvictor

Chúng tôi trở lại Hà Nội sau 40 năm, vì mấy người em họ gọi về lo việc phần mộ. Rồi lại một lần nữa tái ngộ Sài Gòn khi con gái út muốn về lại quê hương Việt Nam để làm lễ thành hôn. Lớn lên trong xã hội Mỹ, con tôi đã làm chúng tôi ngạc nhiên là cô quyết định về Sài Gòn làm lễ cưới. Trong lòng chúng tôi rất ngần ngại nhưng cũng cảm động nghe con giải thích: Con sinh ra ở Việt Nam thì con cũng muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của con ở Việt Nam. Và con cũng muốn giới thiệu với chồng con đất nước, phong tục Việt Nam.

Lễ cưới được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ bến Nhà Rồng đến Bình Quới Resort. Hôm đó, trong lời chào mừng quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa:

“Chúng ta đang đi trên sông Sài Gòn, dòng sông lịch sử này đã nhắc lại cho gia đình tôi những kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này, trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai ra sao…”. Nhiều bạn ngoại quốc đã lau nước mắt và lên chia sẻ với cô dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao gia đình cô lại sống nơi hải ngoại.

Những ngày ở Sài Gòn, tôi có dịp đưa các con đến chỗ mà phép lạ đã cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những người anh em thù nghịch đưa đi cải tạo tù đày điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi đã kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 Tháng Tư 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không bao giờ quên, như anh Trung sĩ bộ binh đã mở rào cản cho gia đình tôi, rồi Trung úy Hải quân Hùng giúp chở chúng tôi ra tận tàu; Trung úy người nhái Trịnh Công Hiển, người em nuôi đạo đức đã theo giúp săn sóc con cái chúng tôi suốt cuộc hành trình; Trung tá Hạm trưởng Nguyễn Văn Tánh; Trung tá Hải quân Phan Lạc Tiếp; Thủy thủ đoàn Tân Lập và toán người nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đã cùng điều động con tàu hư hỏng đến bến tự do. Và trên hết, anh nhà tôi là Trung tá Đặng Bá Cảnh đã mở đường cho chúng tôi khi tình thế trở nên tuyệt vọng nhất.

Xin Thượng Đế phù hộ cho họ.

Sài Gòn đã đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài Gòn hơn một tháng. Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc đường Tự Do, sang đường ra bến Bạch Đằng. Tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm ngàn đồng bào từ miền Bắc đã cặp bến này đi tìm tự do, nay không còn một dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này bao nhiêu năm trước đây, gia đình tôi đã bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự tình cờ như một phép lạ mà đến được miền đất hứa.

Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo, cố tìm lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đã xây một công viên nhỏ. Lúc quay về chỗ ngã ba để tìm cách sang đường Tự Do thì đúng vào giờ tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường thì rộng, không đèn giao thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ mãi không dám qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện trò vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi quay lại thì các cô tươi cười “Hai bác theo chúng cháu” và không đợi trả lời, hai cô đã nắm tay chúng tôi dẫn qua đường. Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đã vội rảo bước ríu rít đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô cảm của cuộc sống hối hả, vẫn còn cái thiện căn bản trong sáng của những người trẻ Việt Nam.

User avatar
TheLang
Posts: 1960
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by TheLang »

Banmethuột, Quê Hương Yêu Dấu
Nguyễn Định

Image
(Banmethuột, Buồn Muôn Thủa, Bụi Mù Trời!)


Đã gần 50 năm trôi qua, thời gian mang đi bao nhiêu âu yếm của một đời người, và biết bao kỷ niệm đã phôi phai, nhưng sao trong lòng tôi quê hương yêu dấu ngày nào vẫn in hình rõ mồn một, tựa như tháng năm không hề làm mai một những kỷ niệm yêu dấu trong tôi của thời niên thiếu. Banmethuột, lòng yêu không cùng và nỗi nhớ không nguôi.

Tôi hình như không sao xóa được hình ảnh thời tao loạn và nỗi kinh hoàng xảy ra ngày 10 tháng 3 năm 1975 trên thành phố tôi yêu mến.

Những công điện viết tay vội vàng và những bản văn BVS/TK của các đơn vị tình báo Chiến thuật chiến lược, Không ảnh và không trợ, của Biệt đội QB, Của Trung tâm TV/QD và của màng lưới TBND mang đầy tin tức và hoạt động của địch vùng Nam, Tây Nam thị xã Banmethuot 30km, và vùng Cư Ming (Ban Don) Tây, Tây Bắc thị xã Banmethuot 60km đường chim bay, cung cấp về hoạt động của Sư Doàn 320 Sao Vàng, Sư Doàn 316 và Sư doàn F5 quân chính quy Bắc Việt đã xâm nhập lãnh thổ Darlac, và tiến về Banmethuot, cùng với Trung doàn 25 Địa Phương.

Tháng 2/1975, một nữ tù binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương bị bắt, cho biết cộng quân sẽ mở chiến dịch tại Khánh Dương, Tiểu Khu Khánh Hòa, Nha Trang, giáp ranh Quận Phước An, thuộc Tiểu Khu Darlac (Banmethuot).

Ngày 7/3/1975 (3 ngày trước khi cộng quân tấn công Banmethuot), một thiếu úy cộng quân bị bắt khi đang giăng dây điện thoại tại khu vực buôn EA Sup, thuộc xã Cư Ming (Ban Don) Quận Banmethuot. Cùng với nhiều phiếu trình và bản đánh giá nhận đinh tin tức đặc biệt rằng cộng quân sẽ đánh Banmethuot vẫn không thuyết phục được tư lệnh Quân đoàn.

Vào dịp Tết, Tổng thống về ăn tết với Quân đoàn, sau khi nghe thuyết trình về tình hình, đã ra lệnh cho Tư lệnh Quân doàn đưa 2 Trung doàn 44BB và 45BB về phòng thủ Banmethuot, tại cuộc họp, Tư lệnh quân đoàn trả lời xin tuân lênh, nhưng sau đó đã không thi hành lệnh này. Cho đến khi cộng quân tràn ngập Chi Khu Thuận Mẫn, tỉnh Phú Bổn nằm trên QL 14, con đường duy nhất liên lạc từ Banmethuot đến Quân Đoàn II.

Rồi dêm 6/3/1975, cộng quân công hãm Khánh Dương cắt QL 21, đường giao thông liên lạc từ cao nguyên đến vùng duyên hải, Nha Trang.

Đêm ngày 9/3/1975, cộng quân tràn ngập Chi Khu Đức Lập, thuộc tỉnh Quảng Đức nằm trên QL14, cách Banmethuot 60 km về phía nam, cắt liên lạc Banmethuot với Saigon, Banmethuot bị cô lập hoàn toàn.

Bằng ấy những sự kiện cứ lởn vỡn trong tâm trí tôi như không hề rời xa, Banbmethuot, quê hương ấu thơ, tôi yêu quê hương như chính thân mình. Và rồi bao hình ảnh xa xưa lần lượt theo về, mà kỷ niệm êm ái nhất là kỳ thi Tiểu học ở Trường Nguyễn Du, con đường vòng vèo quanh Biệt Điện có tường xây bao quanh mà vườn trong mọc um tùm những cây cổ thụ để bóng ngả trên đường về mỗi chiều mùa hạ. Thủa đó, mẹ tôi thường dọa dẫm bỏ tôi vào vườn Biệt Điện để làm bạn với ma những khi tôi làm biếng học bài. Hình ảnh của sân trường Nguyễn Du với những cây phượng lùn tịt nở đầy hoa đỏ như máu của mỗi lần Hè, và tiếng ve kêu của buổi trưa bây giờ tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai. Con đường Thống Nhất thủa đó tôi còn mang máng nhớ, lồi lõm những đá, và ngôi nhà Bưu Điên mái ngói cũ kỹ mà phía đối diện là cổng vào đồn lính có cây phượng lớn cành lá sum suê che bóng rợp trên đường. Ngôi nhà cao cẳng tiêu sơ mang vẻ nét điêu tàn, đứng kề bên cổng vào đồn lính. Cái công viên còm cõi ngày đó ít ai tưởng tới, cũng buồn thiu trơ trụi đã trở thành bãi đá bóng của những đứa nhóc con.

Nhà Thờ cha già Ngoạn ở Ngã Sáu, nằm giữa hai con đường Tự Do và Phan Chu Trinh, còn tang thương hơn trí tưởng tượng của tôi bấy giờ, rêu phủ quanh tường rào và đài Đức Mẹ, dù nơi tôn nghiêm thực sự được quét dọn hằng ngày, nhưng từ xa nhìn vào, màu đất đỏ phủ quanh khuôn viên đã làm cho nơi chốn thờ phụng tưởng như tiêu sơ hoang phế.

Bên kia Ngã Sáu, nhìn xéo qua nhà thờ Chính Tòa, là bến xe và Rạp hát Thăng Long với một khu đất trống mà chỉ cần một cơn gió nhẹ hay vài chiếc xe đi qua là đủ để bụi đỏ tung bay. Con đường Hùng Vương từ Ngã Sáu dẫn đến trường Tổng Hợp heo hút chỉ có một gốc phượng già nằm ở góc khuôn viên Ty Công Chánh, mà phía đối diện là vài ba căn nhà tôn nằm khuất sau dãy hàng rào cây mận hảo, hình như là Ty Thủy lâm.

Thế rồi sau kỳ thi Tiểu học, tôi bỏ đất Buồn Muôn Thủa có bụi mù trời để về Thành đô theo tiếng gọi của phồn hoa! Thời gian vần vũ, và định mệnh như đã an bài, tôi lại về nơi quê hương ấu thơ ngày đó, vênh váo làm một cậu học trò Đệ Nhất, làm cậu Tú Phần II ở tỉnh nhỏ, oai phong biết dường nào. Và cũng chính thời gian này, tôi mới hiểu, mới thấm được cái quạnh hiu êm ái của Banmêthuột, cái quấn quít thắm thiết đến khó mà rửa sạch của màu đất đỏ những ngày mưa ở xứ Bụi Mù Trời mới yêu dấu dường nào!

Hồ Trung Tâm, Vườn Ương, khu rừng Trắc Bá hút hút chạy dài hai bên vệ đường, từ phi trường dân sự Phụng Dực tới cây số 5, đã là những nơi hẹn hò lý tưởng cho tình yêu thơ mộng của tuổi học trò. Học trò Banmêthuột, Bồ Đề, Hưng Đức, La San, Bán Công, Tổng Hợp, mà đặc biệt là Trường nữ Trung Học Vinh Sơn, nơi ôm ấp bao vẻ nét hình hài của một Tây Thi, Dương Quí Phi, Ngu Cơ hay Điêu Thuyền sắc nước hương trời một thời, được che kín bằng lớp hàng rào tường vi với kẽm gai, mà tài tử mỗi ngày về qua có lén nhìn vào cũng chỉ là cảm giác mùi hương hoa phảng phất qua kẽ lá. Học trò Đệ Nhất như Ngô Văn… Phạm công... Nguyễn huy... Đinh viết... Trần quốc… hay Tôn thất… mấy ai mà không từng mơ một lần bước đến để “đưa em vào hạ”.

Nhưng nếu có ai hỏi về địa danh của xứ Buồn Muôn Thủa ngày ấy như Rừng Chim Chích, Thung Lũng Cỏ Hồng, Đồi Hoa Vàng, thác Dray Ling... quả thật tôi không biết những mỹ danh ấy xuất xứ từ đâu, tôi chỉ biết khu rừng Bằng Lăng nở hoa với những màu vàng, trắng, tím, hồng ở khu rừng thuộc xã Ea Knir, của Khu Kỹ Nghệ cây số 7. Những đồi cây dầu thân mang đầy hoa phong lan mà mỗi độ Xuân về hoa nở tỏa ngát mùi hương, pha lẫn với nhựa cây dầu bàng bạc trong chiều hôm, hoặc là những đồi tranh thoai thoải, rải rảc mọc lên vài ba cây quỳnh hương vàng đậm làm tăng thêm nét hoang sơ mà vương giả giữa buổi cuối chiều của núi rừng Cao Nguyên.

Bờ suối đá phủ đầy rêu xanh với dòng nước ngược quanh quẩn qua các kẽ đá và chảy theo triền đồi đổ về Buôn Dlung như một bến đậu yên lành cho đàn voi mỗi ngày mùa nắng. Hay là con sông Serepok bắt nguồn từ Cam Bốt chạy về Banmêthuột qua núi rừng âm u của vùng Ban Don, Cư Ming để làm thành một thảo nguyên thơ mộng mà hung vĩ giữa cao nguyên đất đỏ ở phía Tây thị xã.

Và tất cả những cảnh sắc đó đã là gia bảo, như vốn liếng của một đời người đến nay vẫn đậm nét trong tâm hồn tôi, nhất là những tháng năm tôi bỏ xa rừng núi gió mùa của Cao nguyên.


Thủa đó, phố thị của tỉnh lỵ này vẫn chưa gột sạch nét sơ khai. Con đường dài nhất có lẽ là con đường Hàm Nghi lỗ chỗ nhừng viên đá ba-lát lồi lõm, nhất là khúc cuối dẫn vào xã Định Cư Châu Sơn, đoạn đường có tên gọi rất dễ thương “Hàm Nghi dốc đứng bụi khuất người”. Cái sầm uất của phố thị là con đường Ama Trang Long, chạy từ Ngã 6, nhà thờ Cha Ngoạn cho đến Tôn Thất Thuyết với hai dãy tiệm buôn và một thương hiệu nổi tiếng, “Kim Môn Rồng Vàng”; đường Quang Trung từ Phan Chu Trinh, qua các dãy phố Hoàng Vinh, An Thái, Tân Ka, Chi Cao, Đô Thành, Dân Thiên Đường, Trúc Lâm, Minh Sơn, xuyên qua Ciné LoDo, khu chợ, nhà hàng Vĩnh Thuận dẫn đến Suối Đốc Học. Đường Lý Thường Kiệt với nhà hàng mang tên Tây “Le Blanc de Neige” nổi tiếng với món cá lóc hấp, gần ngã tư Quang Trung; Cuối Lý Thường Kiệt, gần Ama Trang Long là nhà sách Văn, nơi mà thiên hạ thường khi làm dáng đến mua sách để làm quen nhau. Đường Y-Jút tưng bừng, nhộn nhịp từ Phan Bội Châu cho suốt đến Ama Trang Long, hai bên đường là những dãy phố chợ san sát nối tiếp nhau. Có ai vào thời đó, bước qua đây mà không ngửi được mùi thơm của bún bò, lẫn mùi cay của khói thuốc lào 888, 999 từ khu chợ, mì vịt tiềm, hủ tíu, phở bò, cháo lòng heo... Bên kia đường là những tiệm buôn bán tạp hóa, áo quần, đủ loại, đủ các mặt hàng gia dụng; đường Tôn Thất Thuyết, khoảng từ Phan Bội Châu đổ về hướng sân vận động và Ty Cảnh Sát Quốc Gia, đầy dẫy quán sá, khách sạn, tiệm ăn như Tân Việt Tiến, hay phở, cháo lòng heo Xuân Thu…

Những nhà hàng nổi tiếng thời đó thực ra tôi chưa hề thử, Tân Cao Nguyên với món thịt dê đồn đãi ở đường Hoàng Diệu, Le Blanc de Neige với cá lóc hấp ở Lý Thường Kiệt, hay phở Tân Hiên vang danh như sấm động Cao Nguyên! Dư vị còn lại trong tôi vẫn là Cà phê Thiên Hương, Chè Tân Ka, Kem Chi Cao theo tôi suốt những dặm đường dài của quãng đời chinh chiến cho tận đến hôm nay. Cái sầm uất và thịnh vượng của tỉnh lỵ được phô bày trên những con đường này, để du khách khi qua đây, vẫn mang trong lòng cái cảm giác hưng thịnh của tỉnh lỵ miền đất đỏ quê tôi.

Lần thứ 2 tôi lại bỏ xứ Bụi Mù Trời để không phải về nơi gió cát, mà là trở lại chốn phồn hoa, tiếp tục nghiệp mài đũng quần ở giảng đường. Suốt 4 năm ròng rã, tôi chưa có dịp về lại khu Vườn Ương thơ mộng có đồi Chim Chích và thung lũng Cỏ Hồng để nhìn mùa Thu qua dãy rừng Trắc Bá tôi yêu thích, hay là ngắm nắng hoàng hôn của chiều về trên những đồi tranh bát ngát và ngoạn mục của rừng Buôn Quang từ xã Đạt Lý, chạy dài theo Quốc lộ 14 cho đến Hà Lan B.

Cái hùng vĩ của núi rừng Ban Don và 7 Buôn Làng của Cư Ming vẫn đầy cám dỗ trong tôi. Tôi ao ước có một lần được nằm dài trên đồi cỏ, mà quanh tôi không gian đã ngừng trôi, thời gian như cô động lại, tôi im lìm giữa cái vắng vẻ của núi rừng. Mà tiếc thay, giấc mộng bình thường ấy, tôi đã không có được từ buổi đó và vĩnh viễn mất rồi ở hôm nay.

Rời sân trường Đại học, tôi khoác lên vai chiếc ba-lô chinh chiến đến biên cương để hiểu thế nào là mùi quan tái và để biết thế nào là trời chiều biên ải. Tư đó, tôi xa đất Buồn Muôn Thủa mười mấy năm ròng, cho đến mùa Hạ năm 1972, tôi mới trở lại Banmêthuột. Bước xuống phi trường, tôi đi thật chậm như đếm bước chân mình trên từng tấm vĩ sắt của phi đạo, mắt nhìn quanh dãy hàng rào kẽm gai và hít thở thật sâu, thật dài không khí của vùng đất ấu thơ tôi đã bỏ đi mười mấy năm trường, tôi nghe như cảm xúc dâng ngập tâm hồn mình.

Con đường Tự Do, đối diện với phi trường là một dãy Ty, Sở, khang trang, mà nổi bật nhất là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát; Nhà thờ Chính Tòa và Đền Đức Mẹ đã làm sống dậy sự tôn nghiêm của nơi thờ phượng. Đại lộ Thống Nhất, bắt đầu từ Hội Đồng Tỉnh, rồi Tòa Án, nhà Bưu Điện… phô bày tinh thần thượng tôn luật pháp của một chế độ. Đường Lê Lợi với dãy cư xá Sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, nơi mà những người trẻ không ai mà không biết đến. Hàng phượng già đang mùa nở hoa, màu hoa đỏ tươi và rực rỡ trên con đường này cho tôi cái cảm giác được đón chào. Tôi cảm nhận nỗi vui mừng thực sự trong lòng mình.

Banmêthuột hôm nay đã thay đổi, như cô bé con ngày xưa tôi quen thói nô đùa, nay đã thành khuê nữ, mang đầy đủ nét trâm anh đài các. Buồn Muôn Thủa ngày xưa đã biến dạng, phố xá như thênh thang, nét giàu sang hiện rõ lên vẻ mặt thành phố; Nhiều khách sạn mọc lên như Anh Đào, Hồng Kong, Hoàng Gia, và một rạp hát mới, sát vách khách sạn Darlắc của ông bà Lý Trần Lý. Ciné Nguyễn Huệ, nằm trên ngã tư đường Quang Trung và Hai Bà Trưng, tiệm ăn Phú Lâm đông đúc không thua gì Thanh Thế ở Đại lộ Lê Lợi Sàigon vào mỗi chiều thứ 7; Và cũng trên con đường này, xuất hiện nhiều thương hiệu mới, như Nhà Hàng Hoàng Vinh, sát vách tiệm may Hoàng Yến thủa nào, và phía đối diện là Ngân Hàng Đại Á, một ngân hàng do tư nhân quản trị, cũng như SàiGòn Tín Dụng gần ngã 4 Quang Trung Y-Jút. Rất nhiều những tiệm buôn và nhà hàng mới.

Banmêthuột đã trở thành thị tứ, nơi đô hội của kỹ nghệ khai thác lâm sản mà người ta đã đặt tên cho là “Kinh đô của Cẩm Lai và Cà-te”, là hai loại gỗ quý hiếm trong ngành trang trí nội thất. Từ sự phát triển của ngành khai thác lâm sản, kéo theo ngành trang trí nội thất, các tiệm mộc mọc lên đầy dẫy, mà nổi tiếng nhất là xưởng mộc Tư Cần. Các xưởng cưa xẻ cây gỗ cũng được mở mang thêm ở khu vực cây số 7, Quốc lộ 14 về phía Nam Thị Xã, và phát đạt nhất là hai xưởng cưa ở khu vực xã Cư-Êbư, Châu Khen và Liên Quang.

Banmêthuột, quê hương ấu thơ trong tôi đã là cái nôi kinh tế của miền Cao Nguyên đất đỏ, từ đây, không phải chỉ nuôi sống 60 ngàn dân của thị xã Banmêthuột nhỏ bé, mà là nuôi sống dân số của toàn tỉnh Darlac, cung cấp công ăn việc làm và góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân cho cả miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. Ngoài kỹ nghệ lâm sản và trang trí nội thất, nghề trồng cây kỹ nghệ cũng phát triển vượt bậc, tiêu, ca cao, cao su, mà đặc biệt là cà phê, được phát triển đều khắp 4 quận, mà cực thịnh là Phước An và Buôn Hô. Nếu có ai nói tới trà ở Blao, thì nhất định cũng nói đến cà phê Banmethuột, nhất là loại cà phê cứt chồn; Cũng như người ta khoa trương cây thông của Đà Lạt, thì cũng không thể quên cây bằng lăng, dầu, gụ, sên sên, sao, hay cẩm lai, và cà-te của rừng Banmêthuột.

Bây giờ tôi không còn thời gian để đi thăm khu vườn mộng tôi yêu, hay là lãng mạn từng đêm bước qua cửa nhà nàng nhìn lên khung cửa sổ để thấy bóng ai thấp thoáng bên màn, cũng không có thời gian vờ vĩnh mua sách ở quán Văn mà ươm hột giống cây si. Quán cà phê Mây Hồng trên đường Bà Triệu, tôi nghe nổi tiếng lắm, hoặc là khu xóm Đạo trên đường Phan Chu Trinh còn bao nhiêu thục nữ rất yêu kiều, tôi vẫn chưa có dịp ngang qua.

Tôi vốn thương thầm khuôn viên Vinh Sơn trên con đường này, khoảng từ nhà thờ Chính Tòa cho đến Phan Bội Châu, dãy hàng rào Tường Vi cao vời vợi che kín ngôi trường nữ Trung học nổi tiếng của tỉnh lỵ này cho tôi cảm giác yên tĩnh lạ lùng, cái yên tĩnh đến tịch mịch như khu vườn cà phê sau lưng Tòa Giám Mục ở cuối Phan Chu Trinh mà mỗi hoàng hôn của Chủ nhật tôi quen đến nằm giấu mình giữa những luống ca phê để hít lấy mùi hương mà tưởng như mình đang dạo chơi trong vườn huệ ở Đà-Lạt.

Nỗi quạnh hiu của những khu phố Nguyễn Trãi, Đào Duy Từ, Nguyễn Tri Phương, những nơi mà ngày còn bé, tôi hay lang thang tìm tổ chim se sẻ trên mái nhà, hay là ngôi chùa Khải Đoan cổ kính tôn nghiêm vắng lặng mà mỗi sáng sớm hay chiều hôm, tiếng chuông vang lên đồng vọng trong nỗi tịch mịch của khu phố Suối Đốc Học nhưng đầy quyến rũ đã ăn sâu vào trí óc tôi.

Và còn rất nhiều những thứ tôi mê luyến, những kỷ niệm trong tâm hồn tôi và lòng yêu mến những nơi chốn tôi đã từng đến, ví như khu chợ ở đường Y-Jút, góc Ama Trang Long, mùi khói thuốc lào và cái im lặng của buổi sáng tinh mơ trùm lên phố thị.

Hình ảnh những em bé theo mẹ đến trường trên đường Hai Bà Trưng, khu cư xá Lam Sơn; Hay là tiếng rao phở của người bán phở rong mỗi đêm trên con hẻm của đường Võ Tánh và Hàm Nghi . Cái nhộn nhịp và nét phồn vinh của tỉnh lỵ hình như không thay đổi được cái thanh thản của chiều hôm trên phố thị cao nguyên, và hình ảnh tấm bé của từng con hẻm nhỏ cho tới cảnh náo nhiệt từng bừng của HongKong, Anh Đào, hay LoDo, Nguyễn Huệ, Hoàng Gia đã như hòa nhập với nét hoang sơ mà vương giả của phố núi thời tuổi nhỏ trong tâm trí tôi.

Banmêthuột, quê hương của tuổi thơ yêu dấu trong tôi là gia sản theo tôi trong suốt những dặm dài chinh chiến, từng phút bâng quơ nhớ về phố thị, những buổi Xuân hồng nhìn phong lan nở hoa mà thương tưởng núi rừng của vùng đất ấu thơ nuôi tôi khôn lớn, hoặc một đôi khi nhìn được màu bằng lăng tím nở trên những triền đồi của vài vùng núi cao nguyên, lòng tôi chợt như se lại, nỗi nhớ về một thời tuổi nhỏ đùa vui trên công viên phố thị hay khuôn viên trường Nguyễn Du hái trộm những cánh phượng đầu mùa, hoặc giả một thủa thương thầm người ta mà không dám ngỏ lời, để đêm đêm dạo qua không biết bao nhiêu con phố, đếm bước chân đêm qua từng cột đèn buồn... Đất buồn muôn thủa nơi xứ bụi mù trời có ai biết mới thương, dù bây giờ đã cách xa quê hương hơn nửa quả địa cầu, xa hẳn núi rừng đất đỏ, mất rồi những cọng trắc bá của mùa Thu, nhưng trong tâm trí tôi, một Vùng Đất Ấu Thơ ngày cũ vẫn rực rỡ như những vạt nắng vàng từng chiều buông trải quanh đây.

Nguyễn Định
(Mùa Xuân Cali, 2022)

Post Reply