Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nguyenthanh »

Image

Giọt Mưa Trên Tóc

Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:

- Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

- Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?

Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:

- Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:

“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng....”

4524 2 GiotMuaTrenTocTTu

Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường .. đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:

- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...

- Sao Nghĩa biết?

Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.

Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:

- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.

- Họ đi thoát không?

- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.

Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:

- Không biết họ đi có thoát không?

Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:

- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?

Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:

- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?

Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, chở nhau trên chiếc xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:

- Còn Nghĩa? Có tính đi không?

Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:

- Kim trả thù hả?

Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.

Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.

- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?

Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:

- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...

Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.

Nghĩa tiếp:

- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!

- Cái gì uổng?

Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:

- Thì...

Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:

- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.

Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.

Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:

- Thôi, “bye” nghe Kim.

Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.

*****

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:

- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.

Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:

- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?

Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”.

Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng:

“Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”

Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:

- Con đem trả sách cho thằng Tuân.

Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:

- Trả cho nó học.

Ba gật đầu:

- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?

Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:

- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.

Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...

Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Dạ thưa cháu.

Nghĩa trả lời.

- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?

Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:

- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng de ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:

- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh:

- Nghĩa đi hả?

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa! Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:

- Chừng nào?

Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:

- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.

*****

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...


Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Tiểu Tử

--

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Duyên Tiền định.

(Cô hàng cà phê Tân Định kể)
Ai có cho rằng tôi mê tín dị đoan nhảm nhí mặc kệ, tôi vẫn tin rằng có duyên "tiền định" mới nên vợ chồng. Chồng tôi người Việt nhưng quốc tịch Mỹ, lấy tên là Charles Lee, thường gọi là (Đít) Dick. Dick tốt nghiệp đại học Mỹ. Trong khi chờ ngày đi làm, bố chồng tôi có ý định đưa con trai về Việt Nam kiếm vợ. Anh ta học giỏi, đẹp trai, mặt mũi sáng láng nhưng khờ đặc trong việc giao tiếp với bạn bè. Ngay thời còn ở high-school, nhiều cô bạn cùng trường đến làm quen, anh ta cứ thụt lùi mãi, khiến các cô phát nản.

Trước năm 1975, bố anh ta là hạ sĩ quan an ninh phi trường Tân Sơn Nhất, ông có người bạn đồng ngũ rất thân. Sau 1975, bố anh ta về quê, xoay xở đưa cả gia đình vượt biên, còn người bạn thì về nhà, kế nghiệp cha mẹ, làm chủ một tiệm hủ tiếu ở đường Hai Bà Trưng, trước chợ Tân Định. Người bạn nầy gốc Tàu, tính cần kiệm và kín đáo nên không bị đánh tư sản (bị tịch thu gia sản, đuổi đi kinh tế mới).

Ở Mỹ, bố anh chàng Dick thường thư từ cho người bạn bán hủ tiếu ở Tân Định. Khi biết ông ta có ý định về Việt Nam kiếm vợ cho con thì người bạn đồng ngũ nầy ngỏ ý muốn giới thiệu con gái của mình với anh Dick. Hai ông bạn trao đổi hình ảnh con của mình cho hai đứa nhỏ nghiên cứu, tìm hiểu nhau. Thấy hình cô gái cũng đẹp, chưng diện coi bộ còn thời trang hơn cả các cô gái Việt ở Mỹ nên Dick thích lắm, nhưng đỏ mặt, không có ý kiến. Thế là ông gọi cho người bạn, hẹn năm nay về ăn Tết, sẽ cho tiến hành lễ hỏi và lễ cưới cho hai đứa.

Hôm gia đình anh ta xuống phi trường Tân Sơn Nhất, cả nhà cô gái long trọng đón về. Vừa là bạn chí cốt, lại sắp thành thông gia nên hai gia đình rất vui vẻ, thân mật. Cô gái đẹp hơn cả trong hình, nên chàng Dick thích mê, nhưng mắc cỡ. Hễ đối diện với cô ta thì mặt đỏ lên, miệng ấp úng, nói không nên lời. Hơn nữa, vì không rành tiếng Việt nên anh ta cứ ngập ngọng, nhưng nhờ cô gái đang học đại học, ban Anh văn nên cả hai không đến nỗi khó khăn khi chuyện trò. Cô ta rủ anh chàng đi chơi Sài Gòn, đi mua sắm, đôi khi còn chở Dick sau xe gắn máy, vi vút ra ngoại ô hóng gió, ăn uống ở các nhà hàng đồng quê. Được ngồi sau, ôm eo người đẹp, anh ta thích quá, nhất là khi được người đẹp ngồi bên cạnh tựa ngực vào người, giọng thủ thỉ, nũng nịu khiến anh chàng chết mê, chết mệt. Thế nên, trong một buổi cơm tối, cô cậu được hỏi ý kiến, có bằng lòng nhau không? Chàng ta trả lời "Dạ chịu!" Còn cô gái chỉ liếc anh ta và tủm tỉm cười. Thế là đám hỏi diễn ra ngay hôm sau.

Thời đại hỏa tiễn, gì cũng tốc hành cho nhanh gọn. Buổi sáng, nhà trai đi sắm nhẫn đính hôn, nhẫn cưới, trang phục cô dâu, chú rể và các vật dụng cần thiết, ý là đám hỏi xong thì tiến hành đám cưới ngay. Buổi chiều hai họ kéo nhau ra nhà hàng nhậu nhẹt tưng bừng. Trong buổi tiệc gọi là tiệc đám hỏi đó, hai ông bạn nghéo tay nhau hẹn tuần sau nhà trai (từ dưới tỉnh) sẽ lên đón cô dâu về quê làm đám cưới cho xôm tụ. Nhà gái, dĩ nhiên phải o bế cho cô dâu thêm phần xinh đẹp để bà con dưới tỉnh rõ mặt gái Sài Gòn.

Dick về dưới quê nhưng đã bị cô gái hớp hồn rồi nên người cứ sững chừng, suốt ngày lơ ngơ, không nghe, không thấy gì chung quanh, rồi than buồn. Cha mẹ anh ta biết ngay là thằng con đã bị cô gái bắt mất vía nên gợi ý cho anh ta lên Sài Gòn, ở lại nhà cô vợ tương lai trước khi làm đám cưới. Biết con mình chánh hiệu con nai vàng ngơ ngác, nên ông bà dặn dò rất kỹ, nào là không được qua đường một mình (sợ xe tung), đi đâu phải có cô vợ tương lai bên cạnh để khỏi bị bọn bất lương lường gạt, cướp giật. Ở chơi đúng hai ngày sau thì về để chuẩn bị làm đám cưới.

Chiều hôm đó, Dick đón xe đò lên Sài Gòn. Về đến bến xe Miền Tây thì đã khuya, Dick là người lịch sự theo kiểu Âu Mỹ, không muốn làm phiền người khác nên anh chàng đến khách sạn qua đêm.

Sáng hôm sau, Dick đón xe đến tiệm hủ tiếu. Anh ta nghe người đẹp nói là thường đi học lúc tám giờ sáng, nên dự định đứng ngoài chờ, hễ thấy cô ta bước ra để đi học thì Dick sẽ bước vào tiệm, mục đích tạo bất ngờ với người đẹp, chắc chắn cô ta sẽ mừng rỡ, nghỉ buổi học để hai người cùng đi chơi. Vì thế, khi đến tiệm hủ tiếu, anh ta không vào mà đứng bên kia đường, chờ. Đúng tám giờ, thấy người đẹp đi ra, đứng trước cửa tiệm ngó quanh, Dick định băng qua đường nhưng xe cộ nhiều quá, cứ lúng túng, chưa dám bước xuống lòng đường thì bỗng nhiên có một thanh niên đi xe gắn máy, dừng lại trước tiệm hủ tiếu, và cô vợ sắp cưới của chàng Dick phóc lên yên sau, ôm eo ếch chàng thanh niên kia. Chiếc xe vọt đi. Cả hai chìm vào đám xe cộ, biến mất tiêu. Chàng Dick dại gái chưng hửng. Anh ta bèn bước lui lại lên lề đường, mặt bắt đầu nóng, tim đập thình thịch, chân tay bủn rủn, người run lên như bị bịnh sốt rét, ngực nặng trịch, thở không nổi. Đó là "triệu chứng lâm sàng" của người nổi cơn ghen. Nhưng vốn đã được giáo dục về phép lịch sự ở xứ Mỹ, lại nhút nhác, chàng Dick bối rối, không biết làm gì cho hạ hỏa. Giận lây bố mẹ vợ tương lai nên không vào tiệm hủ tiếu, anh ta cũng bước qua đường, nhưng tấp vào một hàng quà rong ngay bên hông tiệm. Đây là một con hẻm, được biến thành những "tiệm ăn chồm hổm" buổi sáng bán bún, mì, cà phê... Mỗi hàng ăn chiếm một khoảnh đất, đặt vài cái bàn thấp ngang đầu gối, chung quanh là mấy chiếc ghế nhỏ xíu, không vừa cái bàn tọa. Bình thường từ sáng sớm, người ta mang thức ăn, đồ uống ra, đến trưa, bán hết thì "dẹp tiệm", dọn về. Chàng Dick ngồi đại xuống một hàng cà phê. Chủ là một cô, tuổi đôi mươi, nhà nghèo, ăn mặc đơn sơ, không trang điểm, nhưng đôi mắt cô đen láy, long lanh, miệng cô cười thật tươi, phô bày hàm răng trắng đều, đẹp hết sức!. Nhờ đôi mắt và nụ cười nầy mà hàng cà phê của cô đông khách. Mấy cậu trai sáng nào cũng ra đây, gọi một ly cà phê, ngồi ngắm cô cũng đỡ buồn cảnh thất nghiệp của mình. Đôi khi tâm hồn rung động, vài cậu nói bóng gió để tỏ tình, cô chỉ cười không trả lời. Cô biết mình đẹp nên có quyền chờ đợi, tối thiểu cũng một anh chàng trông được con mắt, có công ăn việc làm kha khá, chứ thứ thất nghiệp, chỉ giỏi tán phét như mấy cậu khách hàng nầy, thì cô coi thường. Hơn nữa, ngay bên cạnh là hàng bún bò Huế của mẹ cô. Mẹ cô cũng biết giá trị con gái mình, nên thường xuyên nhắc nhở, kiểm soát cô rất chặt chẽ. Bà ta chỉ vẽ cho cô cách từ chối sao cho khách hàng biết nhưng vẫn vui vẻ, tiếp tục đến ăn uống để trồng cây si. Quán bún, cà phê của mẹ con cô hàng tựa vào vách tường của tiệm hủ tiếu của bố mẹ vợ tương lai chàng Dick. Sau tiệm có cửa hậu thông ra gần hàng cà phê, thỉnh thoảng nước dơ trong tiệm hắt ra, mấy con chó xúm lại nhặt nhạnh thức ăn thừa.

Khi Dick vừa ngồi xuống là cô hàng đã nhanh nhẩu hỏi "Anh uống gì? Ăn bún nghe!" Chàng Dick bối rối "Cô cho tôi lon cốc (Coca cola)" "Tôi không bán cóc. Anh ăn bún, uống cà phê nghe!" "Dạ, cô cho tô bún".

Nghe cách đối đáp, giọng nói ngọng nghịu, cùng lối ăn mặc của Dick, cô hàng biết ngay là Việt kiều, nên cô để ý xem con cừu non nầy lạc lối đến đây làm gì? Có lẽ còn quá sớm nên mấy cậu thanh niên thất nghiệp chưa ra, nếu không, làm gì anh ta cũng bị mấy tay nầy tìm cách chọc ghẹo hoặc ăn hiếp ngay. Ăn xong tô bún anh ta mở cái túi nhỏ cột trước bụng, móc tiền trả rồi ngồi ngó mông ra đường. Dick chờ người đẹp trở về, nhưng không biết giờ nào nên thỉnh thoảng đứng lên, ra nhìn trước cửa tiệm rồi vào ngồi lại chỗ cũ. Dick dự định, nếu người đẹp về với thằng tình địch thì anh ta sẽ bước đến, hiên ngang nắm tay người đẹp dẫn vào nhà, coi như là cách công bố quyền sở hữu đóa hoa biết nói đó.

Có chí thì nên, khoảng mười hai giờ, quả nhiên cô vợ tương lai của chàng Dick trở về với thằng tình địch. Vừa thoáng thấy, cơn ghen lại nổi lên khiến anh chàng đứng chết sững, chưa kịp phản ứng thì cô gái xuống xe, hôn thằng kia đánh "chụt" một cái mới bước vào nhà, còn thằng kia thì rồ xe chạy đi. Chàng Dick lại ngớ ra, đành quay về chỗ hàng cà phê, kéo ghế, gọi một ly cà phê, ngồi suy nghĩ xem mình nên làm gì bây giờ? Lúc nầy, các hàng quà rong đang chuẩn bị dọn dẹp ra về, nhưng thấy cậu Việt kiều, cô hàng cũng nấn ná pha cho khách một ly. Thình lình chàng ta nghe từ cửa sau tiệm hủ tiếu vẳng ra tiếng la lối "Tao bảo mầy có từ thằng đó ra không? Ít bữa nữa mầy lấy chồng rồi. Thằng chồng mầy nó biết, nó cạo đầu mầy" "Tía đừng lo tía ơi. Người ta ở bên Mỹ làm sao biết được chuyện của con. Mà con đâu có làm gì mà tía phải la? Bạn bè chút chút mà tía"

Tiếng cãi cọ càng lúc càng cao giọng, càng nhanh khiến chàng Dick chịu thua, không nghe kịp, nhưng chừng đó cũng đủ cho anh ta mất tinh thần. Bao nhiêu hứng thú tiêu tan, Dick quyết về dưới tỉnh mét bố mẹ, không thèm lấy vợ nữa.

Tối đó, nằm trong khách sạn, Dick không ngủ được. Phần nhớ người đẹp, phần cảnh tượng lúc trưa khiến cho máu nóng bốc lên đầu nên anh ta lăn qua, trở lại mãi. Cuối cùng thì tình yêu và ghen tương sống chung hòa bình trong quyết định của anh ta. Nghĩa là cứ để đấy nhưng theo dõi, tìm hiểu, nhất là để ngắm lại xem, cô ta có đủ đẹp để mình tha thứ không?

Sáng hôm sau, Dick lại ra hàng cà phê ngồi, nghĩ cách hỏi cô hàng về cô gái, con chủ tiệm hủ tiếu. Cô hàng cà phê, thấy thằng con trai trắng nõn, ngây thơ như em bé, cô thích lắm, mặc dù anh ta là Việt kiều, cô không hi vọng gì, nhưng yêu là việc của quả tim, xin khỏi bình luận. Tuy nhiên cô hàng cũng phải giữ kẻ vì sợ mấy thằng con trai, khách hàng, sẽ mỉa mai vì ghen tức "Thấy Việt kiều như mèo thấy mỡ". Nhưng anh chàng Việt kiều nầy hỏi chuyện thì mình trả lời, còn có thể hỏi lại mấy câu để tỏ tình quen biết. Đại khái Dick nói là về Việt Nam chơi chứ không nói về cưới vợ. Anh ta bảo rằng thấy con gái chủ tiệm hủ tiếu đẹp nên hỏi thăm cho biết, và hình như cô ta có bồ thì phải? Cô hàng nói là không biết chắc đó là bồ bịch hay chỉ là bạn bè, dù cô thấy hai người chở nhau đi mỗi ngày.

Khi yêu, người ta dễ tha thứ. Nghe cô hàng nói vậy, dù thấy rõ ràng hai đứa hôn nhau, Dick cũng không thấy trở ngại trong việc hôn nhân của mình. Vả lại Dick đã nhiễm văn hóa Âu Mỹ, chẳng xem trinh tiết là quan trọng, thế nên anh chàng vừa tự an ủi vừa hãnh diện "Cho mầy chở đi, ít bữa nữa, tao cưới nó, đem về Mỹ thì mầy no way!". Và Dick lại vui vẻ nói chuyện với cô hàng cà phê. Anh ta bảo tuần tới sẽ về Mỹ nhận việc. Cô hàng thất vọng. Tình cảm của cô chỉ mới quen biết chứ chưa đủ thân mật để cho nhau địa chỉ, sau nầy còn thư từ, tặng ảnh nhau khi hai người cách xa nhau nửa vòng trái đất. Thật tâm, cô buồn vì không còn được gặp anh ta nữa chứ cô không hề nghĩ đến chuyện Việt kiều có nhiều tiền, sung sướng. Giá mà anh ta là một người Việt "nội địa" dù thất nghiệp, cô vẫn yêu như thường.

Khi về dưới tỉnh, bố mẹ hỏi, Dick chỉ trả lời có, gì cũng nói có chứ không giải thích. Tưởng con mắc cỡ, hai người không hỏi thêm. Họ cứ theo chương trình mà thực hiện. Ở dưới quê, cưới hỏi, giỗ quãi đều làm tại nhà. Ngã heo, vật bò cũng chẳng tốn bao nhiêu. Ông bà Việt kiều nầy chơi sang, mời bà con hàng xóm, kể cả xã ấp, tập trung một chỗ hẹn, sẽ có xe đến rước lên nhà hàng trên tỉnh dự tiệc cưới, còn dặn xin đừng quà cáp. Mấy khi được đi nhà hàng sang trọng dự tiệc cưới Việt kiều nên mọi người rủ rê, bàn tán coi bộ sôi nổi và sốt ruột lắm.

Đó là chuyện chuẩn bị tiệc cưới ở dưới quê, tức bên nhà trai. Trên Sài Gòn cũng có một bữa tiệc ở nhà hàng trong Chợ Lớn do con gái ông chủ tiệm hủ tiếu tổ chức đãi đằng bạn bè trước khi cô lên xe hoa. Cô ta nói "Thưa các bạn, ngày mai tôi sẽ lên xe hoa, hôm nay hai đứa tôi mời các bạn nhậu một bữa, xong lên lầu nhảy nhót"

Các bạn cô tưởng rằng đó là đám cưới của cô với người tình, không ngờ, sau đó mới vỡ lẽ là cô lên xe hoa với người khác. Bạn bè càng ngạc nhiên hơn khi thấy người tình của cô vẫn vui vẻ chứ không buồn bã hay ghen tức gì cả? Rượu ngà ngà, hai người mới thổ lộ âm mưu là cô sẽ làm đám cưới với anh chàng Việt kiều và qua Mỹ sống độ mấy năm, khi đã vô quốc tịch, cô sẽ li dị chồng rồi về Việt Nam cưới anh chàng tình nhân nầy. Đây là mánh thường làm của các cô lấy chồng Việt kiều.

Về phần nhà trai ở dưới quê, theo đúng ước hẹn, khởi hành từ bốn giờ sáng dự định trưa sẽ đến Sài Gòn. Cô dâu chú rễ làm lễ tổ tiên bên nhà gái xong, sẽ lên xe hoa về dưới tỉnh vừa kịp giờ đãi tiệc.

Tiệm hủ tiếu đóng cửa từ hôm qua để treo đèn kết hoa, thiết trí bàn thờ, mời bà con, bạn bè đến dự buổi đưa dâu. Đúng mười một giờ, phái đoàn nhà trai gồm ba chiếc xe lớn và một chiếc xe nhỏ có kết hoa dừng lại trước tiệm hủ tiếu. Bà con xuống xe, ẹo qua, ẹo lại cho đỡ mỏi lưng sau một chuyến đi dài. Mấy cô bưng quả, mấy cậu phù rể sắp hàng ngay ngắn chờ nhà trai vào xin giờ rước dâu theo đúng lễ nghi. Trong khi đó, nhà gái đã đứng chờ sẵn, vẻ mặt mọi người rất long trọng. Ông chủ tiệm hủ tiếu kêu vọng lên lầu "Hỏi A Muối sẵn sàng chưa? Nhà trai đã đến rồi đó nghe!" Tiếng mấy cô phù dâu trả lời "Tụi con kêu hoài mà cửa chị Muối đóng chặt, không nghe trả lời gì cả!" "Má nó đâu? Sáng giờ làm gì mà không kêu nó dậy? Người ta tới rồi kìa!" "Tôi đây. Có gì mà quýnh lên? Cứ nói chuyện đi. Nó dậy thay đồ, trang điểm là xong ngay" Rồi nghe tiếng lao xao trên lầu, một lát, cô phụ dâu xuống thì thầm báo cáo "Chị Muối không có trong phòng. Tìm khắp nơi cũng không thấy" "Chết cha! Vậy chớ nó đi đâu? Tìm về ngay. Coi thử nó có đến nhà bạn bè nào không? Đứa nào xách xe đi tìm nó coi. Lẹ lên!" "Thằng Tửng nói chiều hôm qua, bạn của chỉ đến đón đi ăn tiệc chia tay, khi hôm không thấy về"

Ông chủ tiệm hủ tiếu, trước đây là lính kiểng, chưa hề đụng độ ngoài chiến trường bao giờ, nay bỗng lưỡng đầu thọ địch. Đối phương đã đến trước cửa mà mình thì không có gì để nghênh chiến! Ông muốn lên lầu để la hét cho hả giận nhưng nhà trai đã bước vào nhà rồi. Ông như Khổng Minh tọa lầu, cười nói vui vẻ mà bụng đánh lô tô. Nhưng Khổng Minh còn hi vọng lừa được đối phương chứ ông thì chắc chết! Ông giận mụ vợ cưng con mà vô tâm, không chịu nhắc nhở, dặn dò, để nó đi từ chiều hôm qua, đến nay vẫn không biết! Trong lúc đó, bà chủ cũng bấn xúc xích lên. Bà nhờ các cô cậu nào có xe gắn máy, tức tốc đến nhà các bạn của cô Muối để "Lôi cổ nó về đây ngay!". Nửa giờ sau, các đặc phái viên trở về lắc đầu "Không thấy A Muối đâu cả!" Bà cho một cô xuống thì thầm với ông chủ. Ông chủ lắng nghe, cười và gật đầu ra điều chẳng có gì quan trọng. Nhà trai thấy thế mới đứng lên có mấy lời. Đại ý đã chọn được ngày lành, giờ tốt, xin cho chú rể và cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên. Ông vui vẻ gọi lên lầu "Má nó đâu. Cho con xuống làm lễ. Đến giờ rồi!" Đó là kế hoãn binh chứ ông biết tỏng là làm gì có A Muối. Thế rồi nhà trai, nhà gái lại tiếp tục vui vẻ chuyện trò. Nhưng chờ mãi chẳng thấy gì! Ông bạn nhà trai co tay xem đồng. Ông bạn hủ tiếu làm vẻ ngạc nhiên "Ủa. Sao lâu quá vậy cà?" Rồi ông bình thản đi lên lầu làm như tìm hiểu nguyên nhân, và ông lại xuống lầu, coi bộ hơi bối rối một chút. Ông khèo ông bạn sui gia tương lai vào nhà trong, lôi luôn ra sau hẻm, vì sợ mấy đứa người làm biết chuyện. Người ta xúm cả cửa trước xem đám cưới, chỉ có hai mẹ con bà hàng bún bò, cà phê đang lui cui dọn hàng về. Cô hàng cà phê, lúc nãy chạy ra dòm đã thấy anh chàng Việt kiều là chú rể, bèn chạy vào báo cáo với mẹ rằng đó là người khách "gà rù" thường đến mấy hôm trước, nay đi cưới cô A Muối, con gái ông hủ tiếu. Hai mẹ con đang bàn tán thì hai ông sui tương lai kéo nhau ra ngoài cửa sau xì xầm. Tuy nói nhỏ, nhưng hai mẹ con bà hàng nghe tất cả. "Chết tôi rồi anh sui ơi! Con A Muối nó đi từ hôm qua đến nay chưa về" Ông sui trai chưng hửng, rồi nổi xùng "Thật hay giỡn đó anh sui? Tụi mình nghéo tay nhau từ lâu rồi mà! Anh muốn "xù" tôi sao không nói trước? Báo hại tôi đặt tiệc mời bà con làng nước ngồi chờ ở nhà hàng dưới tỉnh. Bây giờ tụi tôi lên đây, anh nói một câu "bù chốc" !?" "Tôi lạy anh mà anh xui, anh thông cảm cho tôi. Tôi đâu ngờ con nhỏ trốn đi! Anh với tôi, bạn bè mấy chục năm rồi, anh biết tôi mà. Tôi đâu lòng dạ nào hại anh!" Ông sui trai cũng hạ hỏa "Nói vậy chứ, tôi với anh...Đơn vị mình còn ai đâu. Thôi, chuyện anh xù tôi vụ nầy cũng chẳng sao. Nhưng bây giờ mình tính sao đây? Không lẽ đi cưới vợ cho con mà không có cô dâu thì mất mặt tôi quá! Hay là anh tìm đại cho tôi một con nhỏ nào đó, đóng tạm vai cô dâu, khi về dưới tỉnh ra mắt bà con, làng xóm xong thì trả nó về. Không ai biết" "Anh tính vậy mà hay. Nhưng gấp quá. Chà! Khó dữ!" "Anh coi mấy đứa trong nhà, có đứa nào mặt mũi sáng sủa một chút, mướn nó, tôi sẽ trả khá tiền" Hai mẹ con bà hàng bún bò, nãy giờ giả bộ làm việc nhưng dỏng tai nghe hết ráo. Đến khi ông kia nói "trả khá tiền", bà ta sốt ruột vọt miệng nói. "Ông trả bao nhiêu? Tôi cho con nhỏ nầy làm cô dâu giả được không?" Ông sui trai quay nhìn cô hàng cà phê, gật đầu. "Được quá đi chớ! Tôi trả hai trăm" "Hai trăm tiền gì? Được bao nhiêu?" Ông chủ tiệm hủ tiếu mừng rỡ. "Hai trăm là nửa cây vàng đó. Không ít đâu" "Vậy hả. Nhưng tôi giao hẹn trước, xuống đó, ra mắt bà con dự tiệc xong là tôi dẫn con nhỏ về Sài Gòn ngay chứ không có lộn xộn gì cả. Chịu không?" "Được mà bà chị. Bà chị đòi gì tôi cũng chịu hết, miễn là có cô dâu về dưới tỉnh là được"

Thế là tất cả cứ rối lên như chạy giặc. Bàn ghế, nồi niêu, son chảo của bà bún bò Huế được lùa hết vào gậm cầu thang tiệm hủ tiếu. Mẹ con bà hàng bún được đẩy gấp lên lầu. Quần áo, phấn son, nữ trang, tròng vào, bôi trét hết cho cô hàng cà phê. Bà hàng bún bò thì diện bộ đồ vía của bà hủ tiếu. Chỉ mười phút sau là các diễn viên đã xong y trang. Tiền trao cháo múc, bà hàng bún đòi ngay hai trăm đô lận lưng cho chắc ăn. Thế là cô dâu giả cũng e lệ, lúng túng bước xuống thang lầu, theo sau là bà bún bò Huế và các cô phụ dâu. Rồi thì cũng lễ gia tiên, cũng diễn văn ngắn gọn của nhà trai, nhà gái, cũng nhẫn cưới đeo tay, đủ mọi thủ tục. Cuối cùng cô hàng cà phê bước lên xe hoa cùng với đoàn hộ tống của nhà gái. Bà chủ tiệm hủ tiếu cũng tháp tùng phái đoàn để khi xong bữa tiệc sẽ thu hồi trang phục, vòng vàng mà bà đã sắm cho con gái là cô Muối. Khán giả tụ tập trước tiệm hủ tiếu ngạc nhiên khi thấy cô dâu không phải là A Muối mà là cô hàng cà phê. Họ bàn tán rồi phịa chuyện nầy nọ để ra điều ta đây biết hết "từ lâu rồi"! Nào là cô Muối bị ép duyên, đòi tự tử nên phải thay người khác làm cô dâu, nào là cô hàng cà phê dụ dỗ được anh chàng Việt kiều, nhưng nhà nghèo quá mới thuê tiệm hủ tiếu làm nhà gái.

Khi xuống dưới tỉnh, quan khách, bà con đều trầm trồ cô dâu đẹp quá. Mà cô đẹp thiệt! Khi là cô hàng cà phê, cô đẹp một, giờ đây, đóng vai cô dâu, cô đẹp mười. Giá như tỉnh tổ chức một cuộc thi sắc đẹp, chắc chắn cả tỉnh sẽ bầu cô là hoa hậu. Hai con mắt và miệng cười của cô, đẹp đến độ anh chàng Dick ngắm mà chóng mặt, không nghĩ rằng đó là cô hàng cà phê. Trong bữa tiệc, theo đúng tập tục của người văn minh tiến bộ, cô cậu đến từng bàn cám ơn quan khách dự tiệc, uống chút rượu bà con ép mời và ôm nhau hôn trước mặt mọi người. Rồi cũng vỗ tay, gõ muỗng lên ly, chén leng keng, tiếng cười nói, la hét của mấy tay say rượu...đủ thứ. Dick đã hoàn toàn quên cô Muối rồi. So với cô hàng cà phê, cô Muối thua xa. Sắc đẹp của cô hàng cà phê hớp hồn chàng Dick còn mạnh hơn cô Muối rất nhiều. Nhưng giây phút thần tiên cũng qua mau. Tối đó, sau khi tiệc tan, ai về nhà nấy thì bà hàng bún bò bảo cô con gái cởi trả nữ trang, áo quần đẹp, (nhất quyết) ra ngủ phòng ngủ ở bến xe để sáng hôm sau về Sài Gòn sớm. Cô hàng cà phê nhìn chàng Dick rơm rớm nước mắt.

Ngay lúc đó lại xảy ra chuyện rắc rối mà không ai có thể ngờ được. Dick không cho cô hàng cà phê về lại Sài Gòn. Cậu lớn tiếng với cha mẹ cậu, đòi cưới thật cô hàng cà phê chứ không phải cưới kiểu giỡn chơi như vậy. Cha mẹ chàng ta lại phải điều đình với bà hàng bún bò Huế, xin cưới thật cô con gái của bà ta. Mấy người buôn bán bao giờ cũng linh mẫn chuyện đầu cơ. Bà ta lạnh lùng lắc đầu, vì bà biết con cá đã cắn câu rồi thì bà cứ thế mà kéo con mồi lên, chiên, kho là quyền của bà. Cha mẹ chàng Dick thấy cô hàng cà phê đã đẹp còn hiền lành, dễ thương nên lại càng quyết tâm cưới cô ta cho con mình. Sau khi được năn nỉ, bà bún bò Huế phán mấy câu. "Ông bà nói vậy chẳng khác gì bắt tôi bán con gái tôi cho ông bà. Mà vợ chồng tôi chỉ có nó là đứa con duy nhất, tôi chỉ muốn nó lấy chồng gần chúng tôi để sau nầy, về già còn nhờ vả được. Ngay hiện tại, nó cũng phụ giúp tôi trong việc buôn bán sanh nhai. Nay ông bà đòi bắt nó về Mỹ, tôi mất con mà chẳng còn ai để nương tựa lúc tuổi già. Hơn nữa, nếu tôi gả con gái tôi cho ông bà thì chẳng khác gì con tôi giành chồng của cô Muối. Thử hỏi tôi có yên ổn mà buôn bán ở đó không? Rồi tôi phải làm sao đây?"


Chỉ mấy lời thôi mà bà hàng đã nêu vấn đề một cách minh bạch. Câu đầu bà gợi ý cho đối phương thấy "chủ đề" ở đây là tiền, mấy câu sau bà quảng cáo món hàng của bà và bà bắt chẹt.

Cha mẹ chàng Dick hiểu ngay điều đó nên đưa ra một cái giá mà họ nghĩ có thể thuyết phục đối phương. Tuy nhiên họ cũng biết văn hoa một chút. Đại ý là họ hiểu tình cảnh bà hàng bún bò, nhưng xin bà yên tâm, khi cô con gái qua Mỹ, nó sẽ gửi tiền về nuôi bà, chồng nó là kỹ sư, tiền bạc dư dã, hiện tại, họ sẽ gửi bà một số tiền để bà tìm chỗ khác, hoặc có thể sang một sạp hàng trong chợ mà buôn bán. Nói trắng ra, họ chồng một số tiền lớn để mua cô gái cho con trai họ. Bà hàng bún không ngờ con gái mình lấy Việt kiều một cách ngon lành, khỏi tốn công, tốn thì giờ mà mình lại ẳm được mấy nghìn đô. Thế là nhà trai lại điều đình với bà sui hụt, mua lại tất cả nữ trang, áo quần mà họ đã sắm cho cô Muối.

Tối đó, Dick và cô hàng cà phê ngủ chung một phòng (riêng).

Kể câu chuyện chồng tôi lấy vợ trên đây để quí vị thấy, rõ ràng vợ chồng đến với nhau là do "tiền định!". Có ai nghĩ rằng cô Muối lại mất chồng sau bao nhiêu công sức, cố mồi chài cho được anh chàng Dick, để rồi "công trình kể biết mấy mươi" trở thành công cốc.

Nhưng nguyên nhân vì đâu? Tại sao cô lại không về làm cô dâu để thực hiện chương trình đánh lừa anh chàng Dick ngơ ngáo kia?

Số là tối đó, sau khi nhậu nhẹt say sưa, nhảy nhót tưng bừng cho đến gần sáng, cô Muối cùng tình nhân thuê khách sạn ngủ, dự định sáng mai về cũng còn kịp chán. Muốn cho đêm ân ái thêm nồng nàn, họ phi một đợt xì ke (ma túy), sau đó họ lăn ra ngủ. Đến gần chiều cả hai mới giật mình tỉnh dậy. Cô Muối hối hả lên xe, chạy về.

Xe hoa đã lên đường được hơn nửa giờ rồi.


Phạm Thành Châu

cuoigia
Posts: 255
Joined: Thu Aug 06, 2009 6:57 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by cuoigia »

CHỊ NA -
Tác giả Quyên Di

Cuối hạ, đầu thu…
Tiếng con cuốc kêu đã thưa dần. Bầu trời cao bây giờ xôn xao những tiếng cò tiếng vạc tiếng ngỗng trời. Chúng rời chỗ ở bay đi đâu không biết. Tôi hỏi mẹ: “Mợ ơi, cò, vạc, ngỗng giời bay đi, rồi chúng nó có bay về không?” Mẹ đáp: “Có, bao giờ giời ấm thì thì chúng nó về.” Tôi lại hỏi: “Sao nó không im lặng mà bay cho đỡ mệt, lại còn vừa bay vừa kêu ầm lên như thế làm gì hở mợ?” Mẹ tôi cười, trả lời: “Mợ cũng không biết rõ, nhưng người ta bảo loài cò loài vạc hay cãi nhau, đổ tội cho nhau nên ồn ào như thế đấy.”
<!>
Rồi mẹ tôi đọc bài ca dao:

“Cái cò, cái vạc, cái nông,
Sao mày dẵm lúa nhà ông, hỡi cò?”
“Không, không, tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.”


Bờ giậu nhà bên hoa cúc nở vàng óng. Mẹ tôi bảo hoa ấy là hoa mùa thu. Tôi lẩn thẩn ngồi bên mẹ trong mảnh vườn trước nhà. Ngắm hoa cúc vàng, mẹ tôi nói một câu mà tôi chả hiểu gì: “Không biết có phải là hoa năm nay không, hay là hoa năm ngoái còn sót lại… Mà cũng không biết ngỗng giời có phải là ngỗng của nước mình không, hay nó là ngỗng nước khác, bay ngang qua đây thôi…” Thế rồi bà khẽ đọc câu thơ:
“Mấy chùm trước giậu… hoa năm ngoái;
một tiếng trên không… ngỗng nước nào…”

Về sau lớn lên tôi mới biết đó là câu thơ trong bài “Thu Vịnh” của cụ Nguyễn Khuyến.
Có bóng ai ngoài ngõ. Nhìn kỹ, hóa ra là chị Na. Đầu chị đội một cái mẹt, đựng mấy chục quả na tròn trịa, bụ bẫm, có quả còn nguyên cả cành lá. Tôi chạy ù ra mở cổng, vừa chạy vừa kêu to:
“Khốn thương! Khốn thương! Chị Na biếu na!”
Mẹ tôi khoan thai đứng lên, bước ra. Lách qua cánh cổng tre, chị Na hạ mẹt na xuống, thưa chuyện với mẹ tôi:
“Bẩm bà chánh, na đầu mùa vừa chín tới. Thầy u cháu dạy cháu đem sang biếu ông bà chánh và các cô cậu xơi lấy thảo ạ.”

Mẹ tôi mau mắn đỡ lấy mẹt na, ý chừng sợ chị Na bưng lâu mỏi tay; miệng nói:
“Bẩm với thưa gì, cô Na. Chúng mình hàng xóm láng giềng cả mà. Mà sao ông bà cho nhiều thế này? Không nhận thì ông bà giận, mà nhận thì nhiều quá… Hay thế này nhé: chúng tôi xin một nửa, còn một nửa phiền cô đem về để bên ấy cũng xơi na đầu mùa.”
Chị Na hốt hoảng:
“Bẩm… Dạ… Thưa… không được ạ. Cháu mang về, u cháu mắng chết. Thầy u cháu đã dặn phải nói năng thưa gửi thế nào để ông bà nhận cho…”
Rồi chị nói nho nhỏ:
“Vả, bẩm bà chánh, u cháu còn nói là không biết nói năng cho khuôn phép lịch sự dễ nghe thì u cháu chưa gả chồng đâu ạ!”

Chị Na vừa nói vừa cúi đầu.Trời không nắng mấy mà hai má chị đỏ hồng. Với lại còn ban ngày mà hai mắt chị lấp lánh như sao. Môi chị hơi mím lại, để lộ đồng tiền cả hai bên má.
Nghe chị nói vậy, mẹ tôi xiêu lòng:
“Cô Na đã nói thế thì làm sao tôi còn từ chối được. Vậy tôi nhận cả cho cô vui lòng nhé. Tôi sẽ chia cho gia đình ông bà Hồng Châu để cùng được hưởng cái vị thơm ngọt của na đầu mùa. Mà cô ghé vào nhà một chốc đã, uống bát nước chè tươi hãm gừng cho thơm miệng rồi hẵng về.”
Chị Na đón lấy mẹt na trở lại, rón rén theo mẹ con tôi vào nhà. Đặt mẹt na lên bàn, chị ngồi xuống cái ngưỡng cửa. Uống xong bát nước chè tươi, chị đứng lên cáo từ:
“Đội ơn bà chánh cho uống chè tươi hãm gừng. Ngon quá cơ! Bây giờ cháu xin phép về ạ. Bà Lý làng bên đã cho người sang bẻ na. Cháu về giúp u cháu ạ.”
Rồi chị thoăn thoắt bước ra.

Mẹ tôi xem mẹt na. Quả nào quả nấy tròn trịa, vỏ xanh mát mắt đã ngả sang màu vàng hanh rất nhạt, các kẽ của từng múi na đã nứt ra, toả mùi thơm ngát. Na được đặt trong lòng mẹt có lót lá na rất cẩn thận. Bà chọn ra dăm quả to nhất, đặt sang một cái mẹt con khác, ý chừng là để riêng ra cho ông bà Hồng Châu, bố mẹ chị Bích Khuê.
Tôi vẫn lẩn thẩn đứng bên cạnh mẹ. Chợt bà hỏi:
“Chúc này, sao lúc nãy thấy chị Na đến biếu na, Chúc lại nói khốn thương, khốn thương?”
Tôi trả lời:
“Con bắt chước cha xứ đấy! Hôm trước bà Quản Vạn đem nhót đến biếu cha xứ, cha nói khốn thương, khốn thương!”
Mẹ tôi phì cười:
“Người trên nói với người dưới thì được. Chúc còn bé, không nói với chị Na như thế được… Với lại hôm ấy chuyện nó khác, mà cha xứ cũng không nói “khốn thương” với bà Quản Vạn. Cha nói với anh Tuấn mà!”

Chuyện là như thế này:

Hôm ấy cha xứ tiếp sư cụ trụ trì chùa làng bên. Khác tôn giáo nhưng hai vị thân thiết với nhau lắm, qua lại thăm nhau luôn. Nhân bố tôi vào nhà xứ bàn chuyện dạy kinh bổn cho trẻ con, cha xứ giữ bố tôi lại cùng hầu chuyện sư cụ. Anh Tuấn được giao công việc kéo quạt cho mát phòng khách. Quạt là một tấm “liếp” đan bằng tre chẻ mỏng, sườn quạt là một ống tre cật cứng và dài, được đóng trên xà nhà, có dây thừng thả xuống quá lưng chừng phòng khách. Người kéo quạt cầm sợi dây ấy kéo xuống rồi lại thả ra một cách đều đặn; quạt cứ thế mà phất lên, hạ xuống, tạo nên một làn gió êm mát cho cả phòng.

Nhà xứ lúc nào cũng lau nhau một bọn trẻ con làm công việc vặt, tuổi từ năm, sáu đến mười lăm, mười sáu. Anh Tuấn thuộc nhóm lớn tuổi nhất, còn tôi thuộc nhóm bé nhất. Kéo quạt không phải là công việc quá nặng nhọc, nhưng đòi hỏi phải đều tay và người kéo phải nghiêm trang, lịch sự, vì thế bọn nhỏ không được làm việc này, phải là những anh lớn và quen việc. Mấy lần vắng cha xứ, tôi táy máy kéo thử quạt, thấy không nặng, lòng cứ mong ngày nào được kéo quạt hầu khách như anh Tuấn.
Đúng lúc cha xứ hỏi sư cụ: “Bạch sư cụ, thế hôm nào chùa ta mở hội” thì ngoài cổng có tiếng chó sủa ran. Cha xứ đưa mắt nhìn anh Tuấn. Hiểu ý, anh dừng tay quạt, chạy vội ra cổng giữ chó cho khách vào. Chỉ một lúc sau, anh Tuấn chạy vào, đầu đội một mẹt nhót đầy có ngọn, quả đỏ chót; đằng sau là bà Quản Vạn bước thấp bước cao. Vừa chạy, anh Tuấn vừa bẩm: “Bẩm cha xứ, bà Quản Vạn biếu nhót! Biếu nhót!” Bất chợt, anh vấp chân vào ngưỡng cửa, ngã sóng soài, miệng vẫn còn “bẩm” không ngớt: “Biếu nhót! Biếu nhó…ót…!”

Cả ba vị đều đứng lên. Bố tôi nhanh tay đỡ anh Tuấn dậy. Anh không bị gì, chỉ bị một phen hốt hoảng. Còn nhót thì lăn lóc khắp phòng, không chỗ nào là không có. Cha xứ nói, giọng vẫn từ tốn: “Khốn thương! Khốn thương! Bà Quản Vạn biếu nhót! Khốn thương!” Rồi cha nói với bà Quản Vạn: “Bà cho nhót, tôi cám ơn. Thằng bé vụng về đánh đổ cả mẹt nhót, bà tha lỗi cho. Ngày mai tôi sang nhà thăm ông Quản và gia đình.” Bà Quản Vạn lí nhí nói mấy câu cám ơn rồi lui ra. Tiếng chó lại sủa ran. Ngoài cổng, anh Liêm đã có mặt để giữ chó.

Bà Quản Vạn ra rồi, cha xứ nhìn anh Tuấn và sàn nhà đầy nhót lăn lóc, cha bảo: “Cho đem xuống nhà dưới chia nhau.” Chỉ chờ nghe có thế, bọn nhỏ chúng tôi nãy giờ lấp ló ở cửa buồng chạy ùa ra, phụ anh Tuấn nhặt nhót. Sư cụ nhìn hoạt cảnh ấy, cười hiền từ và nói: “Trẻ con chúng nó vô tư, hồn nhiên quá, cha xứ với ông chánh nhỉ. Bên chùa tôi mấy chú tiểu cũng vô tư, hồn nhiên y như thế.”
Hôm ấy chúng tôi được ăn nhót thỏa thích. Bố tôi về, kể lại câu chuyện cho mẹ tôi nghe. Mẹ tôi hỏi anh Tuấn:
“Chân con có bị gì không? Để mợ bóp thuốc cho.”
Anh Tuấn cười nhe răng khểnh:
“Chân con là chân sắt, bị gì làm sao được!”
Riêng tôi cứ nhớ mãi câu nói của cha xứ: “Khốn thương! Khốn thương! Bà Quản Vạn biếu nhót!” Tôi cho đó là một câu nói rất hay nên hôm nay đem ra áp dụng. Thế mà mẹ tôi lại bảo tôi không được nói như thế với chị Na. Tôi hỏi:
“Nhưng mà khốn thương có nghĩa là gì hở mợ?”
Mẹ tôi trách yêu:
“Chúc không biết nó có nghĩa là gì mà cũng nói! Khốn thương là một lời than, ý là thương xót người nào đó gặp cảnh khốn khổ. Anh Tuấn bị ngã như thế trông thật là khốn khổ nên cha xứ mới biểu lộ lòng cảm thương mà nói “khốn thương,” chứ chị Na có bị khốn khổ gì đâu mà Chúc nói “khốn thương?”

Gia đình chị Na ở phía bên kia ao. Bốn nhà chung nhau một cái ao to. Gần nhà mà xa ngõ. Để vào nhà chị Na, khách phải đi một con đường khác và vào một cái ngõ khác. Từ nhà tôi sang nhà chị, đi bộ phải mất hơn mười phút. Thỉnh thoảng anh chị em chúng tôi lại xin phép bố mẹ cho sang vườn nhà chị Na chơi. Có khi cả chị Bích Khuê cũng đi. Vườn nhà chị Na rộng lắm, trồng toàn na và khoai lang. Chúng tôi biết ăn rau lang luộc chấm tương và khoai lang nướng là vì thế. Thầy u chị Na rất hiền, có được mỗi một mụn con. Nhà sinh sống bằng vườn na nên ông bà đặt luôn tên con là Na. Năm ấy chị Na mười tám tuổi, con gái nhà quê mà da dẻ trắng hồng, khuôn mặt thanh tú mặc dù đôi lông mày rậm và đôi môi dày, thỉnh thoảng bĩu ra. Ấy là lúc chị Na nũng nịu với u của chị. Mấy ông lớn tuổi mỗi khi nhìn thấy chị Na đi ngang qua, thường huých tay nhau, nói: “Con bé nhìn đến là hay mắt.” Mẹ tôi bảo đó là một câu thiếu lịch sự và dặn tôi không được nói. Chả là tôi có tính hay bắt chước, cứ thấy người lớn nói câu gì hay hay là bắt chước nói theo.
Công việc của chị Na là chăm sóc năm chục gốc na trong vườn. Chị phải tưới bón luôn.Có khi phải khơi rãnh dưới gốc cho dễ thoát nước.Tay chị xách một cái thùng bằng nhôm, có gắn cái vòi mà đầu vòi lại nở rộng ra như cái gương sen có đục lỗ. Thùng đựng đầy nước mà chị xách trông nhẹ tênh, đôi bàn chân trần với hai bắp chân tròn lẳn bước đi thoăn thoắt. Tôi theo chị, đòi xách thử thùng nước. Chị chiều ý, cho làm, nhưng thùng nặng quá, tôi xách không được. Chị Na cười, bảo:
“Bao giờ cậu Chúc lớn và khoẻ thì mới xách thùng nước này được.”
Tôi ngước mắt nhìn chị, hỏi:
“Mà lớn như thế nào, khoẻ như thế nào cơ chị?”
Chị hơi ngập ngừng rồi trả lời:
“Lớn và khoẻ như anh Vịnh bên cạnh nhà tôi ấy.”
“Mà sao chị biết anh Vịnh khoẻ?”
Hai má chị Na đỏ bừng, chị trả lời:
“Tại thỉnh thoảng anh ấy sang vườn xách nước tưới na giúp tôi. Anh ấy đi veo veo.”
Tôi ngây thơ nói:
“Ừ nhé. Mai đây em lớn em khoẻ, em sang vườn xách nước đi veo veo giúp chị tưới na nhé.”
Chị Na cười:
“Đợi đến ngày ấy thì cậu Chúc đã về lại Hà Nội rồi, còn tôi thì cũng chả biết còn ở đây mà chăm sóc vườn na nữa hay không?”
Rồi đôi mắt chị thoáng một nét buồn mơ màng.
Đến một gốc na, tôi đòi:
“Chị Na cho em tưới na.”
Tôi đòi gì chị cũng chiều. Chị bảo:
“Để tôi đỡ đáy thùng cho cậu tưới. Tưới chầm chậm thôi nhé. Gốc na cần giữ ẩm, nhưng hơi ẩm thôi, ướt quá cũng không được.”
Rồi chị đứng chênh chếch sau lưng tôi, cúi xuống, cổ gần sát chỏm đầu tôi, giữ thùng nước cho tôi tưới gốc na. Tôi thấy một mùi hương êm đềm dịu ngọt. Chả biết hoa na thơm hay chị Na thơm. Chắc cả hai, tôi không phân biệt được.

Mà hoa na có mùi thơm thật. Cái hoa mộc mạc, trông không mỹ miều chút nào sao lại cho mùi thơm nhẹ nhàng thanh khiết như thế. Hương hoa na không ngát, không nồng, nhưng toả trong không gian một cách rất nhẹ nhàng, kín đáo. Bước vào vườn na vào mùa hoa nở, tôi thấy có một cái gì quyến rũ lạ lùng. Nó như một vòng tay mềm, một dải lụa mỏng quấn lấy thân thể tôi. Làn hương ấy thơm như vị thơm của mật mía, nhưng nhẹ lắm, thanh lắm, êm lắm. Sau này lớn lên tôi mới biết hoa na có họ với hoa hoàng lan, thứ hoa cao quý mà người ta chiết lấy tinh dầu làm ra nước hoa orchidée.

Sang vườn nhà chị Na chơi, chúng tôi rất thích được leo trèo. Bố mẹ tôi dặn sang bên ấy phải ngoan, không được chạy nhiều, không được leo trèo, nhưng làm sao chúng tôi giữ được lời dặn. Vườn rộng, chúng tôi chạy nhảy như những con hươu sao. Chị Bích Khuê, chị Liên cũng chạy nhảy và cũng leo trèo. Chuyện chị Liên trèo cây na đã là đề tài để ông nội tôi làm mấy câu thơ trêu cô cháu gái ông vốn rất nuông chiều. Chả là trong vườn nhà chị Na có một cây na kép. Không hiểu sao khi mọc lên, cây na này có hai thân. Chúng thi đua mọc nhanh, thân chúng giao tréo nhau, cách nhau chừng một gang tay người lớn. Khi gió thổi mạnh, hai thân cây na giáp vào nhau, cọ đi cọ lại tạo thành tiếng kêu cót két. Chị Liên là chị tôi và anh Ngọc. Chị hơn tôi đến năm, sáu tuổi, năm ấy dễ thường chị đã mười một, thế mà rất thích leo trèo. Một hôm sang vườn na chơi, quên mất lời bố dặn, chị thoăn thoắt trèo lên cây na hai thân. Đúng lúc chị đưa chân ngang chỗ hai thân na giao nhau thì một cơn gió mạnh thổi qua, hai cái thân ấy giáp sát vào nhau, kẹp bàn chân chị vào giữa. Giằng chân ra không được, chị Liên vừa đau vừa sợ, kêu thét lên: “Ông ơi, cứu cháu! Cứu!” Chị Liên là thế đấy, vì được ông nuông chiều, nên cứ động chuyện gì là lại kêu “ông ơi.”Tiếng kêu vang động cả mặt ao. Ở bên này bờ, bố tôi để nguyên quần áo, nhảy ùm xuống ao, bơi thật nhanh sang cứu con gái. Cũng may, chân chị không bị gì, chỉ bị một phen hoảng hốt. Bố tôi nghiêm nhưng hiền, không mắng chị nhưng căn dặn lần sau phải nghe lời bố, không được trèo cây nữa. Chị Liên mắt còn ngấn lệ, đầu thì gật, miệng thì vâng, dạ liên hồi. Tối hôm ấy, sau bữa cơm, ông tôi hút điếu thuốc lào, nhả cho khói bay lên trần nhà rồi đọc mấy câu thơ:

“Hỡi cô con gái nhà tông,
Đôi má rám nắng hồng.
Không nghe cậu, hoá nên na kẹp,
Kêu ầm ầm, khóc thét gọi ông!”


Rồi ông cười sảng khoái. Còn chị Liên thì đấm lưng ông thùm thụp, miệng kêu: “Ứ ừ! Ứ ừ! Ông cứ trêu cháu, cháu không chơi với ông nữa!” Ông tôi lại cười to hơn.

Vào mùa na chín, vườn na nhà chị Na tấp nập hẳn lên. Có những người mua khoán cả một cây na, hai cây na. Na chín, bao nhiêu quả trên cây thuộc về họ cả. Như bà Lý ở bên Tử Thanh, năm nào cũng mua khoán đến năm, sáu gốc na. Được báo tin na chín, bà sai người làm sang vườn bẻ na. Có khi na sai quá, bẻ không xuể, thầy u chị Na và cả chị phải bẻ giúp. Mà lạ, ai cũng tin nhau. Người mua thì tin chủ vườn không bao giờ bẻ bớt na của mình. Người bán thì tin không bao giờ người mua bẻ thêm na ở những cây khác. Cứ tin nhau mà mua mua, bán bán thật sòng phẳng.

Na là một thứ quả rất thơm ngon. Có hai loại na: na dai và na bở. Người ta thường cho rằng na bở không ngon bằng na dai, múi mỏng hơn, hạt to hơn và nhiều hơn. Thế mà lạ! Năm chục gốc na nhà chị Na đều là na bở, nhưng quả rất ngọt, múi dày, hạt ít mà nhỏ. Không gì thú vị bằng khi quả na bở đã chín, ta thận trọng kéo cái nõ ra, rồi rút từng múi na trắng nõn, thơm ngát, ngọt lịm ra mà ăn. Ăn một quả na như thế phải mất chừng mươi, mười lăm phút để tận hưởng cái thơm, cái ngon, cái ngọt, tưởng không còn một thứ quả nào trên thế gian ngon đến như thế.
Một tối, đang mùa na chín, tôi chơi đếm sao ở vườn sau, sát bờ ao. Bên kia là vườn na nhà chị Na. Mùi na chín thơm quá, nó bay nhè nhẹ qua mặt ao tỏa sang vườn chúng tôi. Ngẩng mặt lên trời, tôi đếm:
“Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn ông sáng sao, năm ông sao sáng, sáu ông sáng sao…”
Bỗng nhiên ở trong nhà, chị Bích Khuê bước vội ra vườn. Chị nắm lấy tay tôi rồi bảo:
“Bây giờ chị đố Chúc nhắm mắt mà vẫn đếm được sao đấy.”
Nghe lời chị, tôi nhắm mắt, miệng đếm:
“Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn ông sáng sao, năm ông sao sáng, sáu ông sáng sao…”
Vừa để cho tôi đếm, chị Bích Khuê vừa nắm tay, dẫn tôi vào trong nhà, đóng cửa lại rồi bảo tôi mở mắt ra. Lúc ấy tôi mới biết mình đã vào tận trong nhà. Tôi bắt đền:
“Ơ, ở trong nhà đâu có sao mà đếm!”
Chị Bích Khuê dịu dàng bảo:
“Bên ngoài sao cũng tắt rồi, mà mặt trăng cũng đi trốn rồi Chúc ạ.”
Tôi hỏi:
“Sao thế chị?”
Chị Bích Khuê trả lời một câu, lúc ấy tôi không hiểu, mãi về sau tôi mới hiểu:
“Vì cả sao và mặt trăng đều không dám nhìn. Chúc cũng đừng nhìn.”
Hoá ra chị Na có thói quen tắm đêm ngoài ao. Đang lúc tôi đếm “một ông sao sáng, hai ông sáng sao” ngoài vườn thì trong nhà chị Bích Khuê thoáng nhìn thấy ở bờ ao bên kia cái dáng trắng ngần, nuột nà dưới ánh trăng. Nhanh trí, chị ra vườn bảo tôi chơi trò “nhắm mắt đếm sao” và dẫn tôi vào trong nhà, đóng cửa lại. Chị Bích Khuê là con gái ông bà Hồng Châu. Hai gia đình chúng tôi đều rời Hà Nội đi tản cư, được giáo dân ở đây cho ở tạm trong cùng một nếp nhà. Chị Bích Khuê xem tôi như em ruột. Còn tôi, cả đời không quên được chị Bích Khuê.

Cũng vì cái thói quen tắm đêm ngoài ao mà chị Na không lấy được tấm chồng như chị mong ước. Anh Vịnh nhà bên cạnh phải lòng chị. Chị cũng có cảm tình với anh.Thầy u chị đã có ý gả chị cho anh Vịnh. Nhưng anh Vịnh đã phạm một tội tày trời là ngắm trộm chị Na tắm đêm. Mà anh bạo quá, không ở trong nhà ngắm, lại ra tận ngoài bờ ao. Không may thầy u chị Na biết được, sang mách bố mẹ anh Vịnh. Bố mẹ anh xấu hổ, gửi anh đi xa, đến trọ nhà một người họ hàng nào đó. Chị Na buồn lắm mà không biết làm sao. Cũng từ dạo ấy, thầy u chị Na cấm tiệt, không cho chị tắm đêm ngoài ao nữa. Về sau, một buổi sáng chớm thu năm nào đó, chị Na đi lấy chồng, người chồng mà chị không biết mặt, đương nhiên là không yêu. Nhưng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.”

Những chuyện này mãi về sau khi đã hồi cư Hà Nội và sau đó di cư vào Nam, tôi mới thoáng nghe lóm bố mẹ tôi nói chuyện với nhau. Nghe rồi, tôi lẩn thẩn nghĩ đến chị Na, cô gái quê đẹp, hiền lành, rất tử tế và nuông chiều tôi. Tôi nhớ mùi hoa na thơm dịu, nhớ vị na chín ngọt ngào, nhớ khu vườn năm mươi gốc na nhà chị, nhớ hôm chị đỡ cái đáy thùng cho tôi tưới nước gốc na, nhớ mùi thơm của hoa na và mùi thơm của chị quyện lẫn vào nhau. Nhớ ơi là nhớ…

Và tôi làm mấy câu thơ tặng chị:

Một sớm thu về, bến đò đông
Chị đã sang sông, đã lấy chồng.
Ở tận bên làng xa xăm ấy
Na vườn nhà chín, chị hay không?


Chắc chị Na chả đọc được mấy câu thơ tôi làm tặng chị.

Quyên Di
California
Tháng Mười, 2019

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by ngayngo »

Image

Bầu Bí Một Giàn –
Tràm Cà Mâu

Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981. Tôi vì cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Anh được định cư trong thành phố nầy đã hơn một năm. Thế là có được hai gia đình Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hơn cả anh em ruột thịt. Gia đình anh Hy có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng vì mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy thì không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chưa biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đình anh Hy sung sướng, chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đình Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đình Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đình mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.

Máy bay sẽ chở gia đình người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, phòng khi đường sá có gì bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng run lắm, vì chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút thì đã lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh mãi mới vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ gia đình là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hãng máy bay, họ bay xác nhận là có gia đình anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đình Á Đông nào, cũng chìa cái bảng tên ra trước mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đình anh Phàn ở đâu, cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi tìm gia đình anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn. Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đình trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
“Anh là Phàn phải không”
“Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?”
“Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đình anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?” – Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
“Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra trước mặt tôi ba lần, nhưng đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn.”
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
“Đây là tên anh. Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau.”
“Ngược ngạo thế thì ‘bố giời’ mới biết được”.
“Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?”
“Nghe được cái quái gì đâu?”
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đã nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đình ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thương người mà thôi.

Gia đình anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt. Gia đình anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều, nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.
Hành lý được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary, tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:
“Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?”
Tôi cười và trả lời:
“Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa”.
Anh Phàn hỏi tôi:
“Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?”
“Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đưa gia đình anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?”
“Cũng mệt, nhưng chẵng can gì cả.”
“Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hơn”- Tôi nói.
“Kệ nó, để nó làm việc cho quen”
Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.

Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đãi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia đình đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đình bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu bé còn bế trên tay. Ba gia đình vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đình của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa di vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một hơi hết nữa ly lớn. Anh nói:
“Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đã miệng.
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:
“Cái nầy mới thật là rượu.”
Khi đã ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đã nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:
“Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm.”
Chị vợ anh Hy nói:
“Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả.”

Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:
“Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả.”
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó, vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đình anh Phàn.

Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đình anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến trường, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con dại, cháu nầy đã lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy:
“Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế.”
“Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu”
“Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đình mỗi người, mà cho con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà.”
“Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành.”
“Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đã nhất quyết rồi. Tôi đã có phương án riêng cho gia đình tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa.”
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ.
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói:
“Anh nói đúng, mỗi gia đình có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cũng không được rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đã đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhưng mình cũng không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với.”
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng: “Thôi, thì tôi cũng tạm thời lui một bước, mình mới đến đây mà căng quá cũng không nên. “
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò sưởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành. Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
“Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được.”
Bà bảo trợ thuyết phục:
“Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe.”
“Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi.”
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. Còn nghe và nói, thì ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa nói giỏi thì chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cũng một tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực hình, như tra tấn, và nản lòng vô cùng. Học được phút trước, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đã hư rồi, không thể học được gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói được hai chữ “yes” và “no”, vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ “thank you”. Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.

Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước mãng nước đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được, quay qua hỏi anh Phàn:
“Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?”
“Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!”
“Nhưng… anh có đi trên xe nầy không?”
“Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi”
Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đã lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, vì đồng hương còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đã đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:
“Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm?”
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
“Anh hỏi làm chi vậy?”
“Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được.”
“Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng hương, và vì tôi cũng đã từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ.”
“Tôi không tin.”
“Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem.”
Anh Phàn cười mũi:
“Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không được. Thà đừng hỏi.”
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
“Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực.”

Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai. Cô giáo chỉ ra sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ròng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đình bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà đòi đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy: “Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác.” Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: “Không được, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó. Đừng dại dột.” Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: “Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hư đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba.” Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: “Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo.” Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu lường xôn xao. Anh Phàn nhìn đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đã phóng uế ra cả quần. Em đã không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cũng không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.

Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi đêm, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười giờ đêm là đã say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình. Có nhiều đêm, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám ơn cái lòng tốt của các bà Mỹ, đã giúp cho người đồng hương của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào. Cả không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói:
“Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản.”
“Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo, mưa, tuyết.”
“Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!”
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi chiều đi làm việc về, có “giấy mời” tối nay ra trụ sở công an, lý do “Cho biết sau”. Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đã ngồi sẵn trong phòng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:
“Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đã ăn chận của gia đình tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thương các cháu nhỏ…”
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:
“Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn? Sao? Anh nói rõ hơn được không?”
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:
“Đừng vờ vĩnh. Gia đình tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cũng còn hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?”
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
“Ai nói với anh điều đó? “
“Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả.”
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đã đến đây trước. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đã có lương tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ.”
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:
“Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến mười mươi.”
Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:
“Làm cò mồi để được cái gì? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi.”
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:
“Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa.”
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:
“Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rõ ràng, không ai chối được. Chúng tôi đã biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh.”
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh đã hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đình anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp:
“Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị ‘báo cáo’ lại cho nhà thờ những đòi hỏi chính đáng của gia đình chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.”
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cười, hết giận. Vợ tôi nói:
“Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời. Của nợ giữa đường mà mang cõng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo lảnh cho mình, thì được lợi lộc gì nhĩ? “
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:
“Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết.”
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:
“Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng!”
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đình. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đòi tiền “ăn quỵt” giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:
“Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lý làm người. Khi nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi.”
Vợ tôi nói:
“Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây.”
Anh Hy phì cười, nói:
“Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đình anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng người nầy, không chơi được.”
Tôi nói:
“Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn được.”
“Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của ‘bọn dân tộc anh hùng’, ngứa tai chịu không nỗi.”
Tôi dịu giọng:
“Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ còn đáng thương hơn chúng ta nữa, vì chịu đã chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không thương nhau, thì ai thương chúng ta được?”
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: “Bố bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ.”

Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đình anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của một gia đình ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chùa Trời, đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đình anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ đã ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: “Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng.” Tôi chỉ cười, không dám có ý kiến.

Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đã mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín từ Hãi Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau đành đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói:
“Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đòi hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đòi hỏi. Điên lên được đấy chứ.”
Tôi an ủi anh:
“Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở được ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích.”
“Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? ”
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền trợ cấp. Tôi cười bảo anh:
“Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đình do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cũng không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cũng dễ vác chiếu ra tòa lắm.”
“Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. ”
Tôi cười, nói đùa:
“Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa, thì chúng tôi càng xìu như sợi bún thiu.”
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:
“Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ.”
“Thế anh đã kiếm ra việc làm khác chưa?”
“Chưa”
“Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?”
“Tôi không biết!”
“Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? “
“Không có vấn đề chi cả. “
“Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?”
“Chưa muốn. Khoan đã.”
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không? Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đã chi tiêu cho anh, và ai đã đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung sướng, thoải mái.

Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cũng quýnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đình đông đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đình anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đã định cư ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đình về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lý cồng kềnh của gia đình anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đình. Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà dể trừ vào số tiền nhà thờ đã ăn quịt của anh. Ăn của ai thì được, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cũng không được đồng xu nào, chưa chắc đã hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những người láng giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, thì trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.

Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhưng thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hư hại không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn thì tưởng hai ông bà mừng vì được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.

Khi đưa gia đình anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đình anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: “Thế mà tôi cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đình mình trong thành phố nầy thôi.”. Trong lòng tôi cũng thấy buồn.

Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đình anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: “Phàn đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà.” Tôi cũng mừng vui gặp lại người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm, thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa. Suốt hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu gái lớn đã có gia đình. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:
“Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược. Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ‘ Bầu bí một giàn’ của anh Hy nói ngày xưa.”
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:
“Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đã ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời.”
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:
“Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng. ”
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.

Tràm Cà Mâu

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by muanuadem »

Ông Ấy...Chú Phúc
Tôi đã khóc khi đọc truyện này

Sau khi bố tôi mất được ba năm, ông ấy đã đến nhà tôi. So với người cha của tôi, ông ấy tầm thường đến nỗi chẳng có ưu điểm gì đáng để nói đến.
Nhưng mà, người mẹ ngoài 50 tuổi của tôi cần có một người bầu bạn, mà yêu cầu của người già đã ngoài 50 đối với một nửa kia chỉ cần phẩm cách tốt là được rồi.
Về mặt này ông ấy có đủ điều kiện, bởi ông là người tốt nổi tiếng gần xa, là người thật thà chất phác. Cái hôm gặp gỡ lần đầu tiên với mẹ tôi, ông rất bối rối.
Bởi ông biết rất rõ rằng mọi phương diện của mình đều không có ưu thế: nhà thì chật hẹp, tiền lương thì ít, ông chỉ là một công nhân phổ thông nghỉ hưu, hơn nữa nhà của cậu con trai vừa mới kết hôn cũng cần đến sự giúp đỡ của ông.
Thật lòng, mẹ tôi cũng chỉ vì nể mặt người mai mối nên mới quyết định đến gặp ông ấy. Và cuối cùng, mẹ đã có thiện cảm với ông ấy bởi tài nghệ nấu nướng của ông.
Sau khi gặp mặt, ông ấy nói: "Bà Hồng này, tôi biết điều kiện của bà rất tốt, không thiếu gì cả, thật tôi không có gì đáng để gửi tặng bà. Nhưng dù thế nào, chúng ta hãy thử quen nhau xem sao, chiều nay bà hãy ở lại nhà tôi dùng bữa cơm đạm bạc nhé!".
Tấm lòng chân thành của ông khiến mẹ tôi không nỡ từ chối, bà đã ở lại. Ông không để bà động tay đến, thoáng chốc đã làm một bát canh với bốn loại rau, đặc biệt là món bí ngô nấu thịt, mẹ tôi đã ăn ngon đến không nỡ đặt đũa xuống.
Trước khi đi, ông đã nói với mẹ tôi rằng: "Sau này nếu như muốn ăn nữa, thì hãy đến đây. Nhà tôi tuy không khá giả lắm, nhưng chiêu đãi món bí ngô thì không tốn công phí sức chút nào".
Về sau, mẹ tôi lần lượt gặp thêm vài người lão niên khác nữa, tuy điều kiện của mọi người mẹ gặp đều tốt hơn ông ấy, nhưng cuối cùng mẹ tôi vẫn chọn ông.
Lí do thật ra cũng được xem là ích kỷ, bà ấy đã phục vụ và chăm sóc ba tôi hơn nửa đời người rồi, lần này bà muốn một lần được người ta chăm sóc lại.
Cứ như vậy, ông ấy và mẹ tôi đã đến với nhau…
Hôm đó, ông ấy, mẹ tôi, thêm tôi nữa, còn có gia đình ba người của con trai ông cùng dùng một bữa cơm với nhau.
Tôi đặc biệt sắp xếp bữa cơm này trong một khách sạn năm sao sang trọng, bên ngoài thì là bày tỏ sự tôn trọng đối với ông, thật ra là thông qua đó tôi thể hiện đẳng cấp của mình.
Khi rời khỏi khách sạn, ông nhẹ nhàng nói với tôi: "Từ nay chúng ta đã là người nhà với nhau rồi, là hai bố con đấy! Sau này nếu con muốn mời bố ăn cơm thì chỉ việc đi đến những quán ăn bên đường là được rồi, ở đó bố sẽ ăn được thoải mái hơn, lòng không bị đau và cũng không thấy tiếc tiền".
Chính tình cảm chân thành của ông đã làm tổn thương cái tâm hư vinh giả dối của tôi, khiến tôi cảm thấy đấu trí với một người thật thà, giống như một người lớn lấy kẹo để dụ dỗ một đứa con nít vậy, thật là vô sỉ chẳng còn gì để nói nữa.
Ông ấy đã chăm lo cho mẹ tôi rất tốt, bà ấy mỗi lần gặp tôi đều bảo cần phải giảm cân, đó là một giọng điệu hạnh phúc.
Ông ấy nấu ăn thật sự rất ngon. Một lần nọ, khi cùng ăn cơm với mọi người, tôi không nhịn được nói với vợ rằng: "Lần sau khi chú Phúc làm cơm, em hãy ở bên cạnh mà học hỏi một chút".
Tôi thấy sắc mặt của vợ vốn không hề có phần muốn học, trái lại còn có mấy phần tức giận.
Ông vội vàng đứng ra giải vây, ông nói: "Một đời này của bố đều không làm được gì tốt cả, chỉ có chút tài nghệ làm được mấy món ăn, các con đều là những người làm chuyện đại sự, tuyệt đối đừng có học theo ta, nếu như muốn ăn, thì hãy đến đây, đến bất cứ lúc nào cũng được. Nấu ăn, sợ nhất là món ăn mình làm ra không có người ăn".
Hôm chúng tôi ra về, ông ấy đã gói rất nhiều đồ do chính tay ông làm bảo chúng tôi mang về, vừa cầm lấy tay tôi vừa nói: "Đừng có khen cơm bố nấu ngon nữa, nói thật lòng, hễ có người nói đến ưu điểm này thì bố thấy ngại lắm. Một người đàn ông chỉ biết nấu ăn, còn những phương diện khác thì lại không làm được trò trống gì cả, đây đâu thể nói là ưu điểm được".
Trên đường về nhà, tôi đã kể lại cho vợ nghe những lời này của ông. Cô ấy nói: "Người như ông ta, trời sinh là số phải phục vụ người ta, trời sinh chính là bằng lòng cúi đầu đến sát mặt đất. Mẹ chúng ta có phúc khí, già rồi còn làm một hoàng thái hậu".
Tôi vừa lái xe, vừa dùng mắt liếc nhìn vợ, cảm nhận sự khinh thường của vợ đối với ông ấy, trong lòng lại không biện giải gì cho ông. Rốt cuộc, ông trước sau vẫn là một người ngoài mà.
Hôm tôi dọn sang nhà mới, ông ấy và mẹ đã đến giúp tôi cúng đất đai gia trạch cho chúng tôi. Ông đã làm theo tập tục một cách cẩn thận, kỹ càng, đâu vào đấy. Nhưng, đến lúc ăn cơm, ông lại không xuất hiện trên ghế dành cho bề trên, tìm khắp nơi đều không thấy ông ấy, gọi điện thoại cho ông, cũng ở trong tình trạng khóa máy.
Dường như đã tính toán kỹ thời gian, khi khách khứa đi hết cả, ông đã quay trở lại, cẩn thận dọn dẹp đống bát đĩa bừa bộn đó, đem những đồ ăn còn thừa lại đựng trong hộp cơm mà ông đã chuẩn bị sẵn, để mang về nhà ăn.
Mẹ không mong ông làm như vậy, cảm thấy tủi thân cho ông, ông nhỏ tiếng nói thầm với bà rằng: "Buổi tối anh sẽ nấu cơm mới cho em, những cái này anh sẽ tự ăn hết".
Mẹ nói: "Làm gì mà ngày nào cũng phải ăn cơm thừa rau thừa như vậy chứ? Anh có biết rằng em thấy anh làm như vậy, trong lòng rất khó chịu hay không?".
Ông ấy an ủi mẹ tôi rằng: "Em tuyệt đối đừng thấy khó chịu, để anh nhìn thấy lãng phí như vậy, trong lòng anh mới không dễ chịu. Tiền của Khôi (tên của tôi) đều rất vất vả mà đánh đổi lấy, chúng ta không giúp con nó được gì cả, vậy thì hãy gắng sức tiết kiệm thay cho nó".
Lời của ông khiến mẹ tôi day dứt, sau đó bà ấy quyết định nói với tôi. Nghe mẹ nói thay cho ông ấy trong điện thoại, cảm giác trong lòng tôi lúc ấy rất phức tạp, đồng thời cũng cảm thấy rất xấu hổ. Dần dần, thiện cảm đối với ông ấy mỗi lúc một nhiều hơn.
Ông ấy âm thầm làm rất nhiều chuyện cho chúng tôi: thay ống nước bị hư trong nhà, mỗi ngày đưa cháu đến nhà trẻ và rước cháu về nhà, khi mẹ nằm viện ông ấy đã không ngủ không nghỉ mà chăm sóc bà, mãi đến sau khi xuất viện mới nói với chúng tôi.
Chỉ là không ngờ có một ngày, ông cũng ngã bệnh, hơn nữa bệnh còn rất nghiêm trọng. Trên đường ông ấy đưa con của tôi đến nhà trẻ thì đột nhiên ngã xuống – bệnh tai biến mạch máu não, bán thân bất toại mà nằm trên giường.
Tôi và con trai của ông ấy, ban đầu đều rất tích cực đối với việc trị liệu của ông, chúng tôi mong ông mau chóng khỏe lại, vẫn có thể chịu mệt nhọc vất vả mà phục vụ cho chúng tôi giống như trước đây.
Nhưng mà, ông đã không bao giờ đứng dậy được nữa. Trước đây ông lúc nào cũng mỉm cười, không ngờ giờ đây đã biến thành yếu ớt như vậy, lúc nào cũng chảy nước mắt.
Mẹ chăm sóc cho ông, ông khóc; chúng tôi đẩy xe lăn dẫn ông đi chơi vùng ngoại ô, ông khóc; nhiều lần nằm viện, nhìn thấy tiền tiêu đi như nước; ông khóc.
Một ngày, ông đã dùng con dao cạo râu ra sức cắt cổ tay của mình. Cấp cứu trong suốt 5 giờ đồng hồ, ông mới từ cõi chết trở về, rất mệt mỏi, cũng rất tuyệt vọng.
Điều thật sự không ngờ rằng, người đầu tiên bỏ ông ấy đi lại chính là con trai của ông. Con trai của ông rất ít khi đến thăm ông, sau này còn không ló mặt đến một lần. Mỗi lần gọi điện thoại, anh ta đều nói rằng mình đang đi công tác, trở về sẽ ghé thăm ông.
Điều khiến tôi không ngờ hơn nữa, mẹ tôi vào lúc này cũng đề xuất với tôi rằng bà muốn chia tay với ông. Hai người vốn dĩ chưa đăng ký, chỉ là chuyện vỗ mạnh một cái mỗi người mỗi ngả.
Mẹ nói với tôi rằng: "Mẹ đã già rồi, không lo nổi cho ông ấy. Mẹ không giúp được gì cho con cả, nhưng cũng không thể mang một người cha tàn phế về, làm liên lụy con được". Đây chính là hiện thực tàn nhẫn.
Tôi không muốn để mẹ tôi làm người ác, thế là tôi đành phải nhẫn tâm đóng vai kẻ ác, quyết định tự mình đến nói ra chuyện chia tay này.
Tôi nói với ông, vẫn đang nằm trên giường bệnh rằng: "Chú Phúc, mẹ con bệnh rồi". Nước mắt của ông lại tuôn trào ra như mưa. Tôi gắng sức nói tiếp những lời tàn nhẫn: "Chú biết đấy, mẹ con cũng đã có tuổi rồi. Những ngày này, bà ấy đối với chú như thế nào, chú cũng đã thấy rồi".
Chú tiếp tục chảy nước mắt gật đầu. Tôi lại nói tiếp: "Chú Phúc, chúng con còn phải đi làm, mẹ con sức khỏe lại không tốt. Chú xem như vậy có được không, sau khi xuất viện, chú hãy về nhà của chú, con sẽ thuê một bảo mẫu cho chú. Đương nhiên, tiền sẽ do con trả, con cũng sẽ thường xuyên đến thăm chú".
Khi nói đến đây, chú không khóc nữa. Chú gật đầu liên hồi, nói một cách cảm kích: "Nếu được như vậy thì tốt quá, nếu được như vậy thật đúng là tốt quá. Không cần mời bảo mẫu, thật sự không cần…".
Tôi bước ra khuôn viên của bệnh viện mà chảy nước mắt, không rõ đó là cảm giác nhẹ nhõm sau khi được giải thoát, hay là trong lòng có nỗi day dứt không nói thành lời.
Tôi thuê một bảo mẫu cho ông ấy, trả trước chi phí trong một năm. Sau đó, tôi đến nhà ông ấy, thuê công nhân tu sửa lại nhà của ông một chút, tôi đã cố gắng trọn nhân trọn nghĩa. Không phải vì ông, chỉ vì an ủi nỗi bất an trong lòng. Cái ngày ông ấy xuất viện trở về nhà, tôi không đến đón, mà bảo tài xế trong đơn vị đến đón ông.
Tài xế sau khi trở về đã nói với tôi rằng: "Chú Phúc nhờ tôi nói tiếng cảm ơn với anh, còn bảo rằng ngay cả con trai ruột của chú, cũng không làm được như vậy".
Những lời này, đã an ủi tôi ít nhiều, khiến tôi nhẹ nhõm phần nào, nhưng loại an ủi này vốn không duy trì được bao lâu.
Ngày Tết không có ông ấy ở nhà, chúng tôi cảm thấy có chút buồn tẻ, không còn một người bằng lòng vùi đầu vào trong nhà bếp, làm đủ các loại món ăn cho chúng tôi.
Chúng tôi ngồi ăn cơm tất niên trong khách sạn năm sao, nhưng lại không cảm nhận được cái hương vị nồng ấm của ngày Tết nữa. Con trai trên đường về nhà nói: "Con muốn ăn món cá chép do ông nội làm".
Vợ tôi nháy mắt ra hiệu cho con trai đừng nói nữa, nhưng con lại càng dữ dội hơn: "Tại sao mọi người không để ông nội về nhà đón Tết, mọi người thật đúng là xấu xa mà!".
Vợ tôi tức giận giáng cho con trai một cái bạt tai thật mạnh. Nhưng cái bạt tai đó như là đang đánh vào mặt tôi vậy, khắp mặt sưng lên đau đớn. Một câu nói của con trai, khiến cho điều chúng tôi tự thấy an ủi đều đã sụp đổ tan tành.
Tôi nhìn qua kính chiếu hậu, nhìn thấy đôi mắt của mẹ cũng đang đỏ hoe. Đó là ngày 30 Tết buồn biết mấy. Tôi thấy rất nhớ năm ngoái, năm mà ông ấy vẫn còn ở nhà chúng tôi, một gia đình ấm cúng hạnh phúc, được xây dựng trong sự lặng lẽ của một người.
Không biết giờ này, chú Phúc đang đón tết với ai? Liệu có nhớ đến chúng tôi chăng? Liệu có vì sự vô tâm của chúng tôi mà cảm thấy tủi thân?
Sau khi đón giao thừa xong, tôi lái xe đi đến chỗ của chú Phúc. Ông ấy bước những bước chân tập tễnh ra mở cửa cho tôi, nhìn thấy tôi, miệng thì nở nụ cười, nhưng mắt lại đẫm lệ.
Đi vào ngôi nhà lạnh lẽo của ông, nước mắt của tôi cũng không thể ngăn lại. Tôi cầm điện thoại lên gọi cho con trai của ông ấy, sau khi mắng cho anh ta một trận, bắt đầu đồ xôi và kho nồi thịt kho cho ông.
Bảo mẫu đã về nhà đón Tết, trong tủ lạnh đã chuẩn bị sẵn điểm tâm đủ cho ông ấy dùng đến ngày 15, trong lòng tôi cũng thầm trách mẹ.
Những nắm xôi nóng hổi cuối cùng đã giúp nhà ông ấy có được một chút không khí ấm cúng của ngày Tết. Chúng tôi cứ ăn một miếng, nước mắt lại rơi lã chã.
Buổi sáng tinh mơ của ngày mùng một, tôi lảo đảo rời khỏi căn nhà của ông, tôi uống rượu. Tôi đậu xe ngay dưới lầu của nhà ông ấy, một mình đi trên con đường lạnh tanh, trong lòng đầy thê lương.
Điện thoại reo lên, là vợ gọi đến: "Anh ở đâu vậy hả?".
Tôi phát hỏa: "Tôi đang ở trong nhà của một ông lão cô độc, nghe rõ chưa hả? Chúng ta là loại người gì vậy hả? Khi ông ấy có thể đi lại được, chúng ta lợi dụng người ta; bây giờ ông không cử động được nữa, chúng ta lại gửi trả về. Lương tâm chúng ta phải chăng đã bị chó tha mất rồi, vậy mà còn đòi học theo người ta nói nhân nghĩa đạo đức, tôi khinh!".
Ở trên đường cái, tôi mắng chửi bản thân mình thật tệ hại, mắng đủ rồi, mắng mệt rồi, tôi không chút do dự mà chạy trở lại, cõng ông ấy trên lưng rồi đi ra bên ngoài. Ông giãy giụa, hỏi tôi: "Con làm vậy là sao?".
Tôi lấy giọng điệu chắc nịch mà nói với ông rằng: "Về nhà".
Ông ấy đã trở về. Người cảm thấy vui nhất là con trai tôi. Nó vừa ôm vừa hôn ông, luôn miệng đòi ăn món cá chép, đòi ăn món mỳ bò, muốn làm thẻ siêu nhân.
Vợ lôi tôi vào trong phòng, hỏi tôi: "Anh điên rồi sao? Ngay đến cả con trai ông ta còn không lo cho ông ta, anh dẫn ông ta về nhà làm gì vậy?".
Tôi không còn nổi nóng nữa, ôn hòa nhã nhặn nói với cô ấy: "Con trai ông ấy làm chuyện không đúng, đó là chuyện của anh ta, không nên lấy đó làm cái cớ để chúng ta bỏ rơi ông ấy.
Anh không yêu cầu em phải xem ông ấy như bố chồng của mình, nhưng mà, nếu như em yêu anh, nếu như em biết nghĩ cho anh, thì hãy xem ông ấy như người nhà, bởi trong lòng của anh, ông ấy chính là người nhà, chính là người thân, bỏ rơi ông ấy thì rất dễ dàng, nhưng không giấu được nỗi day dứt trong tâm. Anh muốn tâm mình được thanh thản một chút, chỉ đơn giản vậy thôi".
Cùng một lời này, khi nói với mẹ, bà nước mắt như mưa, nắm chặt lấy tay tôi nói rằng: "Con trai à, mẹ thật không ngờ con lại có tình có nghĩa như vậy".
Tôi nói: "Mẹ, mẹ yên tâm đi. Nói hơi khó nghe một chút, cho dù sau này có một ngày, mẹ mà đi trước chú ấy, con cũng sẽ phụng dưỡng chú ấy đến cuối đời, với thu nhập của con hiện giờ, nuôi chú ấy nào là chuyện khó gì? Thêm một người thân, thì có gì không tốt chứ?".
Một lúc sau, con trai tôi đi vào xin tôi: "Bố ơi, đừng có gửi ông nội về đâu nữa. Sau này, con sẽ chăm sóc ông. Sau này bố già rồi, con cũng chăm sóc bố mà!".
Tôi ôm con trai vào lòng, trống ngực đập thình thịch, thật may là vẫn chưa quá muộn, còn may chưa để lại một ấn tượng bất hiếu trong lòng của con.
"Ông nội mà, chính là để cho chúng ta yêu thương, sao lại gửi đi được nữa!".
Tôi mở miệng nói đùa với con trai, để củng cố niềm tin vững chắc cho nó.
Câu chuyện này khiến nước mắt rơi! Cám ơn người đã thuật lại câu chuyện tuyệt vời này, câu chuyện của đời thường cho chúng ta một mẫu ngương về nhân cách về đạo đức làm người.

Nhu Vân
Sưu tầm

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Hồi Đó
Nguyễn Thị Thêm



Hồi đó ba đứa tụi này hiền lành quê một cục. Ba đứa ở ba xã khác nhau cùng đến trường tiểu học ở quận để học lớp nhứt, cái lớp cuối cùng của bậc Tiểu học.

Hồi đó học tiểu học phải mặc đồng phục. Áo trắng quần dài đen. Cái áo trắng cổ lá sen kín đáo dễ thương của tuổi chưa dậy thì ngực còn xẹp lép. Khi tập thể dục phải mặc cái quần phùn màu xanh, áo trắng tay phùn ngắn tay trông thật ngố. Nhưng mà hồi đó đâu có thấy ngố, vì cả trường đều như vậy, nhất là khi tập thể dục đồng diễn. Cả trường nghe theo chiếc còi của thầy hiệu trưởng hoạt động tay chân đồng loạt ở sân thật đẹp. Tập chung xong, thầy cô lớp nào dẫn học sinh lớp mình sinh hoạt trò chơi riêng. Từng toán nhỏ vui đùa ở sân trường. Tiếng vỗ tay, tiếng cười, chạy rượt nhau vui tở mở. Dưới tàng những cây phượng tuổi lớn hơn các học trò và thầy cô còn trẻ. Các lão phượng gốc rất to, ở trên cành lá xòe ra che mát cả sân trường rộng lớn. Màu đỏ rực rỡ của hoa phượng và tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đã về sắp phải chia tay. Các lớp tập vợt văn nghệ chuẩn bị cho ngày phát thưởng cuối năm và nghỉ hè.
Hồi đó thầy hiệu trưởng già ốm nhom mà oai lắm. Học trò sợ thầy cô giáo một, sợ thầy hiệu trưởng tới số mười. Thầy đi ngang qua hành lang lớp nào thì cả lớp đó im phăng phắc. Thầy bước vô lớp, học trò đồng loạt đứng lên cúi đầu chào. Suốt cả năm học chưa thấy thầy đánh một học trò nào, chưa đuổi học đứa nào mà sao học trò lớp nào cũng sợ.

Hồi đó ba đứa học chung một lớp, cùng ngồi bàn thứ nhì. Hai đứa học thật giỏi còn một đứa học tàng tàng nhưng chưa bao giờ bị cô khẽ tay hay la mắng.
Một lần con nhỏ người Bắc rủ hai nhỏ kia đi tới nhà cô giáo:
- Chi vậy! Sợ lắm
- Sợ gì! Cô hôm nay trả bài chính tả và toán. Một mình tao ôm không hết. Tụi bây phụ tao .
Thế là ba đứa đi tới nhà cô. Trong lòng vừa mừng rộn ràng, vừa sợ.
Cô giáo của ba đứa nổi tiếng nhất trường là nghiêm và dữ. Cô đẹp sắc sảo với đôi mắt to đen và có uy. Da cô ngâm ngâm, mũi thanh tú và miệng rất có duyên. Cô tuy lớn tuổi nhưng đẹp nhất trường. Đứa nào học lớp nhì nghe được lên lớp cô là rét.
Nhà cô không xa, rộng rãi và rất đẹp trong mắt học trò. Ba đứa không dám bước vào, lí nhí đứng ngoài cửa gọi cô. Cô cười kêu vào nhà chỉ đám vở đã chấm xong rồi dặn dò ôm cẩn thận đừng để rớt.
Vậy mà ba đứa mừng rơn, hí hửng hãnh diện vì được cô cười, cô kêu vô nhà và nói chuyện ngọt ngào. Trong lòng đứa nào cũng sung sướng được giúp cô.

Hồi đó ba đứa đều ở xa nên mỗi ngày đều phải đem cơm theo. Hết giờ học buổi sáng học trò ở tại quận về nhà ăn cơm. Ba đứa lôi cơm ra ăn trưa. Ban đầu ba đứa ngồi riêng ba góc, ăn xong mới túm lại chơi chung. Một lần nhỏ người Bắc đề nghị ăn chung một chỗ cho vui. Con nhỏ người Nam xì một cái:
- Ăn cơm không được nói chiện. Ba tao biểu dzậy. Rồi nó tính đi ra chỗ khác ngồi ăn.
- Thì ăn đừng có nói gì! Thế mày đem đồ ăn ngon sợ tụi này ăn ké hả?
Rồi hai đứa quỷ quái kia kéo con nhỏ này lại giở gà mên cơm ra phá. Nhìn vào cà mèn cơm hai đứa kia chết lặng. Con nhỏ nạn nhân nước mắt sắp chảy ra:
- Tao đã nói để tao ăn riêng. Nhà tao nghèo, em đông nên tao ...
- Từ nay tụi mình ăn cơm chung, có gì chia nhau ăn. Đừng khóc! Tụi mình là bạn thân nhất mà.
Rồi ba đứa ôm nhau khóc. Hồi đó ôm nhau như vậy là kỳ cục lắm nhưng không hiểu sao ba đứa không nghĩ tới, chỉ biết là thân thiệt thân như chị em một nhà. Nếu ngày xưa chắc phải làm lễ rồi thề thốt kết nghĩa đào nguyên.
Chơi quá thân nên ba đứa coi ba má của nhau như ba má mình. Ba má Sáu, ba má Bảy, ba má Tám. Mà cũng lạ, thứ gọi miền Nam của các má lại xếp thứ tự 6, 7, 8 ngon lành. Gọi miết rồi quen, ba má cũng chấp nhận luôn mỗi người có thêm hai đứa con gái.

Hồi đó học xong lớp nhứt phải thi để lấy bằng Tiểu học. Bà dì Bảy nói với ba:
- Con gái học vậy đủ rồi. Biết đọc biết viết là được. Ở nhà phụ gia đình. Học cao, nhiều chữ khó lấy chồng.
Cho nên trong kỳ thi Tiểu học hay thi tuyển vào đệ thất trường công nhỏ người Trung chẳng có gì lo lắng. Nó làm bài như thi lục cá nguyệt ở lớp, bởi vì nó biết đây là chặng chót của cuộc đời đi học của mình.
Vậy mà trời bất dung gian Tiểu học nó đậu là thường, thi tuyển vô đệ thất trường công một chọi mấy chục vậy mà nó đậu thủ khoa mới chết. Hai đứa còn lại chạy vô nhà nó la lớn:
- Mày đậu hạng nhứt kỳ thi tuyển, trường gọi tên mày quá chừng sao mày không đi?
Nhỏ nói tỉnh bơ:
- Đi làm gì, ba tao đâu có cho đi học nữa đâu. Rồi nó chỉ mớ chuối cây đang băm:
- Chờ tao một chút, tao trộn cám cho heo ăn rồi ra chơi với tụi mày.
Gần ngày tựu trường, cô giáo nghe học trò kể lại, cô mời ba nhỏ tới nhà. Ba tưởng nhỏ làm gì sai nên dẫn nhỏ theo để xin lỗi cô giáo. Cô nói với ba cô hãnh diện với toàn trường, với cả quận là học trò lớp cô đậu thủ khoa nên nhỏ nghỉ học cô rất tiếc. Nếu ba nhỏ không cho đi học tiếp, cô sẽ lo cho nhỏ học bốn năm đến khi nào thi đậu bằng trung học đệ nhất cấp. Tới chừng đó nhỏ có thể tìm một công việc tương ứng với bằng cấp.
Ba hiểu ra, cám ơn cô và dẫn nhỏ đi may áo dài liền để kịp mặc tựu trường. Vậy là nhờ cô nhỏ được đi học tiếp.
(Sau này khi đã phiêu bạt cả đời người, về Việt Nam thăm lại cô giáo cũ nhỏ đã ôm cô mà khóc. Cũng căn nhà đó nhưng bây giờ sao nhìn nó nhỏ xíu, chật chội và hôi mùi của đồ vật ẩm thấp để lâu năm. Nhà như thiếu không khí và tối tăm bởi xung quanh người ta lên lầu che kín cả ánh sáng. Cô giáo già về hưu hiu hắt bên ba đứa con bệnh tật nằm một chỗ chờ mẹ chăm sóc. Cô già yếu, đôi mắt đẹp tinh anh giờ chất chứa đầy muộn phiền. Gửi chút quà cho cô, nhắc chuyện xưa nhỏ khóc, còn cô cười:
- Cô quên rồi chuyện đó. Cám ơn em nhắc lại
Cô ơi! Trái tim người mẹ vĩ đại. Cô ơi! Một cô giáo tuyệt vời. Mãi mãi em biết ơn và kính yêu cô.)

Hồi đó bậc trung học mỗi thứ hai nam sinh mặc quần trắng, áo sơ mi trắng bỏ thùng lịch sự, nữ sinh phải mặc áo dài xanh để chào cờ. Ngày thường nữ sinh mặc áo dài trắng, nam sinh mặc quần dài xanh. Áo dài mới ba đem về buổi tối, sáng tựu trường nhỏ đi học áo còn y nguyên màu đỏ, xanh phấn vạch. Nhỏ tới lớp lúng ta lúng túng với bộ đồ dài lượt thượt lần đầu trong đời được mặc.
Ba đứa cùng thi đậu, cùng được xếp chung một lớp. Ba đứa thân càng thêm thân. Vì nhà nghèo lại thi đậu hạng nhất, nhỏ được nhà nước cấp học bổng suốt 4 năm trung học. Tiền mỗi kỳ học bổng ba dẫn nhỏ đi lãnh nên nhỏ không nhớ là được bao nhiêu.

Hồi đó lên trung học con gái bắt đầu trổ mã. Ngực bắt đầu num núm chóp cau rồi lớn dần. Tóc ba đứa đều dài mượt mà nên khi có khi cột túm lên cao cà nhỏng như đuôi ngựa. Có khi thì thắt bím rồi gấp lại thành hai bím đôi ở phía trước. Giờ thể dục nhảy cao, nhảy xa, nhảy sào, ném tạ, chạy đua. Hai cái bím to đập vào bộ ngực mới dậy thì thật đau mà không đứa nào dám nói. À! hồi đó lên trung học giờ thể dục con gái phải mặc quần dài xanh áo trắng ngắn tay, con trai lại được mặc quần đùi hay quần sọt ngắn áo thun ba lỗ. Con trai, con gái tập riêng và khác giờ ở bãi tập của trường.
Hồi đó giờ thể dục sợ nhất là môn leo dây. Cuối sân trường có một cây me già thật to. Thầy cột một sợi dây thừng lên nhánh me trên cao và một đầu dây thòng xuống. Thầy bảo nắm sợi dây rồi leo lên. Thầy bấm giờ, leo được tới đâu thầy cho điểm tới đó. Sợi dây lúc lắc đong đưa, hai tay nắm chặt dây, hai ngón chân cái và trỏ nghéo vào sợi dây để làm thế cũng không thể nào lên cao được. Lần nào ba đứa với mấy học trò dân quận cũng bị điểm thấp và làm trò cười cho cả lớp. Mấy học trò ở miệt vườn quá rành leo cau, leo dừa nên phăng một hồi là lên tới nơi. Tụi nó hái trái me quăng xuống rồi cười đắc thắng. Trong tất cả các môn của thời đi học nhỏ không ngán môn nào chỉ duy nhất môn leo dây là phải đầu hàng và biến thành ký ức không thể nào quên.

Hồi đó trường trung học mới thành lập, phải mượn trường cũ bên tiểu học để dạy tạm các năm đầu. Sát hông trường còn mấy cây cao su. Con gái mỗi lần chơi đánh đũa ưa lấy mủ quấn banh. Banh quấn không đều tưng xéo xẹo chụp hụt hoài. Bọn con trai quấn làm banh để đá. Xe đạp bị bể bánh lấy mũ cao su dán thế keo. Nhóm con gái cột hai vạt áo dài lại để nhảy dây, chơi lò cò dưới tàng cây cao su vì chưa biết mình đã lớn.

Hồi đó trường không có trống. Ông hiệu trưởng lượm được một cục sắt to đem về treo lên và dùng một cây que sắt đánh làm kẻng lệnh. Vậy mà tiếng kẻng uy lực đó đã đi theo ký ức tuổi học trò của hàng nghìn cựu học sinh tản mạn trên khắp thế giới. Cái kẻng cũ kỹ nhưng đáng nhớ đó xuất hiện trên rất nhiều bài viết, bài thơ với tất cả thương yêu. Trường cũng không có cổng, học trò nào đi trễ sẽ bị đuổi về hoặc phải chép phạt và ghi vào học bạ.
Hồi đó lên trung học đứa nào cũng bỡ ngỡ. Các thầy cô được gọi là giáo sư. Các giáo sư đều ở xa, tốt nghiệp Sư Phạm được bộ giáo dục bổ nhiệm về dạy đầu tiên nên đa số còn rất trẻ. Các thầy cô chỉ đến lớp dạy đúng môn mình phụ trách, hết giờ thì ra khỏi lớp. Văn phòng gần các lớp, nhà tạm của ông Hiệu Trưởng nằm sau văn phòng kế chỗ để xe đạp của học sinh. Trường có hai giám thị và một cô thư ký lo việc hành chánh. Vì trường mới mở nên thiếu giáo sư, các thầy cô phải dạy thêm các môn phụ. Dạy đủ giờ trong tuần là đón xe đò về Sài Gòn. Dạy một thời gian các thầy cô xin chuyển trường về dạy nơi mình thích.

Hồi đó mỗi lớp có một giáo sư hướng dẫn. Vị giáo sư này chịu trách nhiệm hầu hết các sinh hoạt của lớp mình phụ trách . Mỗi lớp phải bầu chọn trưởng ban văn nghệ, thể thao, báo chí, học tập... Gần bãi trường hay Tết trường phát động thi đua Bích Báo, Văn Nghệ, Thể thao vv. Cả ba đứa đều hát không hay, múa không dẻo, nhảy cao thành nhảy thấp nên chỉ dám tham gia về bích báo và học tập mà thôi.

Hồi đó thầy mới ra trường còn trẻ măng nên được các nữ sinh chú ý kỹ. Các cô cũng vậy" yểu điệu thục nữ" nên nam sinh hay bàn tán và mê cô giáo. Dù vậy lễ nghĩa luôn được phụ huynh và thầy cô chọn làm rào cản Trong lớp hay ngoài đời các giáo sư vẫn là những mẫu mực mô phạm mà xã hội kính trọng.

Hồi đó lên tới năm đệ ngũ, đệ tứ là các nữ sinh đã thành thiếu nữ. Nét phù dung đã tới độ mãn khai nên đẹp tinh khiết và quyến rũ. Trong lớp đã có mấy đứa theo chồng và cũng đã xuất hiện mối tình nảy nở giữa thầy và trò. Cuối hè đám cưới được hai bên gia đình tổ chức đúng lễ nghi. Ba đứa lần đầu tiên biết điệu. Kéo nhau may áo dài màu, mua guốc Đakao, tập trang điểm làm người lớn để đi đám cưới. Cô dâu không còn là trò A, trò B mà là một giai nhân rực rỡ bên chú rể thầy rất đẹp trai.
Ờ! mà hồi đó sao con gái lấy chồng sớm vậy không biết. Ba má cứ sợ con gái ế không ai cưới xấu hổ với bà con. "Lấy chồng sớm làm gì để lời ru thêm buồn" Một bài hát đã có lời như vậy.
Lấy chồng là mang gông vào cổ. Con nhỏ Nam Kỳ đi đám cưới về nó nói như vậy. Rồi nó quả quyết:
- Tao không thèm lấy chồng coi ai cười cho biết
- Ừa! Để tụi tao lấy tăm chống mắt coi mày nói ngon nha
Sau này khỏi cần lấy tăm chống mắt nhìn cho rõ, nó lấy chồng có 2 đứa con mà hai đứa còn lại vẫn mình ên.

Hồi đó ở trường học sinh phải đứng lên hát bài: "Suy Tôn Ngô Tổng Thống" Thầy bắt hát thì hát vậy thôi chứ không chú ý gì đến chính trị, về người Tổng Thống mà mình phải suy tôn

Hồi đó có một lần nhỏ được nhận giải thưởng viết văn của Ngô Tổng Thống. Giải thưởng lớn cả trường chỉ có một. Phần thưởng là tiền và một giấy khen có chữ ký của ngài. Học trò được phần thưởng của Tổng Thống là vinh dự lắm, nhưng Tổng Thống xa vời quá trong đầu một con bé nhà quê.
Khi nhà Ngô bị lật đổ, nghe xong cả nhóm bạn chung lớp ngồi khóc một trận. Mấy đứa "Dân ri cư Bắc kỳ rau muống" khóc nhiều nhất. Hôm đó cả lớp ủ rủ như có đám tang: "Thương Tổng Thống quá đi, ông thương dân lo cho dân no ấm. Ông chủ trương cải cách điền địa, người cày có ruộng, lo cho dân di cư từ Bắc vào Nam ổn định cuộc sống" Riêng nhỏ còn khóc vì thương bà Nhu. Bà là một phụ nữ tài ba và can trường dám đứng ra tranh đấu bảo vệ đạo luật gia đình "Một vợ một chồng" để giải phóng phụ nữ thoát kiếp lấy chồng chung.
Mãi tới bây giờ tuy già rồi, cuộc đời đã chứng kiến bao nhiêu thay đổi trên chính trường, nhưng người Tổng Thống đáng kính nhất trong lòng nhỏ vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Hồi đó hè năm Đệ tứ miệt mài ôn bài để thi lấy bằng Trung học Đệ Nhất Cấp. Gần ngày thi hẹn gặp nhau cùng quyết định ở trọ chỗ nào trên tỉnh để đi thi. Con nhỏ người nam bây giờ mập lên thấy rõ.
- Ê! Sao mày mập ú thù lù vậy?
- Tao không biết. Chắc tại tao lo
- Lo người ta ốm nhom. Sao mày mập?
- Tao lo thi rớt nên tối nào tao cũng thức khuya học bài
- Tao thức khuya ốm nhom, sao mày thức khuya mà mập?
- Tao thức rồi đói bụng tao kiếm gì ăn để học tiếp. Cứ vậy...
Từ đó mỗi khi kể chuyện "Lo học thi đến mập ú" cả mấy đứa lại ôm bụng cười.
Ba nhỏ người Trung quyết định gửi cả ba đứa ở trọ nhà người quen gần nơi thi là trường trung học lớn nhất tỉnh. Ba đích thân đem ba đứa đến nhà đó để gửi gắm trước một ngày. Ba dẫn cả ba đứa đến tận trường để biết chỗ, dặn dò, khuyến khích rồi ba về.
Tối đó ba đứa thức ôn thi. Con nhỏ người Bắc bố nó mới mở tiệm tạp hóa nên đem theo ê hề là thức ăn vặt. Me ngào đường, kẹo me, mứt chùm ruột, mứt me... nghĩa là mấy món tủ của con gái chua chua ngọt ngọt nên tha hồ bóc lủm rồi ôn bài. Quá nửa khuya bụng đứa này kêu rột rột, bụng đứa kia thổn thức không yên. Cả xóm đều đi cầu ở sau khu mả hoang cách xa nhà. Trời ơi là trời ba con nhỏ sợ ma mà phải xách cái đèn bảo đi tim nơi trút bầu tâm sự. Vừa về tới nhà thì lại mắc đi tiếp, bụng vừa đau vừa kêu như nước chảy qua lỗ cống. Không nhịn được lại kéo nhau cả bọn xách đèn bão đi nữa. Chó nhà hàng xóm sủa vang trời. Lớp sợ ma, lớp sợ chó cái gì trong bụng cũng muốn trào ra hết.
Cũng may trước khi đi má nhỏ người Trung nhét vào túi xách con chai dầu gió "Nhị Thiên Đường" Lại ưu ái bỏ thêm vào túi áo hộp "Dầu Cù Là Hiệu Con Cọp" sợ nhỏ đi xe đò say sóng trét vô mũi cho dịu cơn buồn ói. Nhờ vậy ba đứa trét, xoa, hít túi bụi. Gần sáng bụng mới êm mà đứa nào cũng tàn hơi hết xí quách. Sợ ngủ quên trễ giờ thi nên chỉ dám ngủ chập chờn.
Buổi sáng lên trường thi người như say sóng, mắt mở không lên, đầu óc loạng quạng. Cũng may bài thi không mấy khó nên làm cũng được. Khăn gói đi về không dám kể cho ba nghe chỉ nhìn nhau cười đau khổ mặt mày méo xẹo.
Kết quả kỳ thi con nó Bắc Kỳ, Trung kỳ thi đậu, con nó Nam kỳ rớt cái ạch thảm thương. Nó mếu máo:
- Tao thua trận này thê thảm. Vừa mập ra lại vừa thi rớt cái bịch
Hai đứa chọc nó
- May là mày mập ra té cái bịch toàn thịt mỡ nên không đau.
...

Chuyện "Hồi đó" còn dài viết hoài không hết. Chỉ là bây giờ ba đứa vẫn khỏe nhưng sống ở ba nơi VN, Pháp, Mỹ. Ba má của ba đứa đều đã quy tiên. Những người muôn năm cũ đã về với thiên thu. Ba đứa đều già, con cháu cả bầy nhưng chưa thể xếp đặt để một lần bộ ba gặp nhau đầy đủ để kể chuyện xưa.

Hồi đó mình ên muốn đi đâu cũng được. Bây giờ hết lo cho con tới lo cho cháu. Nó kêu một tiếng :"Ngoại ơi! Con muốn đi tè " là bận gì cũng bỏ, cắm đầu chạy lo cho nó. Thấy chưa! Nó là hoàng đế không ngai, là tất cả yêu thương trong cuộc đời mình. Từng tuổi này rồi dù già háp vẫn hết sức mình hiến dâng phục vụ.

Nguyễn Thị Thêm
11/2022

User avatar
macco
Posts: 3542
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by macco »

Con Mén
Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu: "Đu họ nó! Thứ gì mà như con chí mén!" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.

Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo.

Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói: "Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ … Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng …

Con Mén có thân hình ốm o xấu xí, nhưng lại có đôi mắt sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói: "Cái ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời!". Nói như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.

Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lị, xẻ đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần lan can.

Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp tôn đơn sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp phô, tạp hóa, hàng vải … và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.

Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng: "Mồ tổ cha mày!". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói: "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".

Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về đêm …

Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải ngũ.

Ba nó đóng ở đâu miệt Sài Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài hôm. Những hôm đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bum bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi …

Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người ta bắt đầu tản cư …

Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói: "Tao già rồi, đi đâu chi? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt: "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa …

Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh .. xa lắm .. có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là chân trời …

*

Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi! Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê, gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một chút, có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua.. Nhà lụp xụp thấp lè tè nên cứ phải cúi lom khom, có khi bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất!

Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con Mén: "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún: "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra sông, nước lên lé đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn ten giữa vời …

Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều: một vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó luôn.

Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi tẹt đến bán nước, người ta gọi là "đổi nước". Họ kéo ống cao su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi tẹt nước đến rồi! Xi tẹt nước chỉ "làm ăn" trong mùa nắng thôi …

Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não: "Bà nội ơi!" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng đong đưa dỗ: "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy dài trên má …

*

Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc mạc thô sơ như thuở còn dưới ruộng: bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề đai hay in cát giả làm bánh.

Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần cù, nên mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị: "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau: yên rồi về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can đảm nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin! Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy cho đến một ngày nào đó, chưa phải là cái ngày mai chờ đợi, người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở cái gì … Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi: "Ngày mai … Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng!".

*

Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ: "Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới đi học!

Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon cô ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng … Vòng thun có giá trị như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.

Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở đây, có một quán cà phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc ni long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi:"Dây thun đâu nhiều vậy cháu?". Nó trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa: "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được cho vào bọc ni lông có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.

Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua một cái gì bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán! Nó chỉ biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá!

Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị: "Như vầy nghen, cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ: mèng ơi! cục xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người lớn .

Từ đó, nó thường đem túi ni lông dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó cũng thấy được màu xôi vàng hực! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc: "Nè ! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bum bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ: "Con nhà ai mà dễ thương quá!". Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm giác mà từ lâu, rất lâu nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người … Nó ngừng nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi: má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó.. Chỉ trong có một giây mà nó nhớ lại hết, từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu hăng hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật rã-rời: "Bà …nội … ơi …!" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một đường cày trên mặt ruộng …

*

Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng.. Ba nó lấy một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô cùng.

Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ bà nội nó.

*

Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm được chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để qua nhà máy ve chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.

Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn, sắm thêm một số đồ đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền … Chớ ba nó thì vẫn còn lẹt đẹt ở cấp binh nhì, loại binh nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.

Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó vào trường, ba nó dặn: "Khi nào cô giáo điểm danh, kêu Lê Thị Loan thì con hô lớn lên có mặt. Nghe con!". Nó ngạc nhiên: "Ủa? Con tên là Mén mà!" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là tên trong còn Mén là tên ngoài, ra đường mình lấy tên ngoài chớ vào trường là phải lấy tên trong vân vân … Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng phơi phới.

Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng tay phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật sự nó mới có nét con gái! Ba nó nhìn nó trìu mến: "Mẹ họ! Con gái của ba coi cũng đặng ớn!" Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột, cười khúc khích. Tình thương đâu đó bỗng trào dâng miên man. Giống như nước triều lên ôm xóm Bộng, âm thầm nhưng thật là chan chứa.

Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của bà nội nó. Ba nó thường nhìn nó, nói: "Thứ gì mà giống bà nội như in!" Điều mà ba nó không để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay chửi đổng "Mồ tổ cha nó!" mỗi khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm bầm nên ba nó không nghe.

Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học buổi chiều. Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn nót làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học chung một trường, nên đi và về cùng một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một hàng dài. Đến khi tụi nó học bài cũng nghe uềnh oang như tiếng ễnh ương vào mùa nước nổi.

Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe ghé ngang trường rước nó. Những lúc đó nó thấy hãnh diện vô cùng. Ngồi trên bọt ba ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để giữ thăng bằng, nó nói chuyện huyên thuyên, hỏi ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu chuyện rất hào hứng chớ không phải ậm à ậm ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời này chỉ có ba nó là nhứt!

Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm trại liên miên. Nó đành đi học một mình và về một mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ nó lớn, nên không gào khóc như thuở nó mới xa bà nội nó. Nó biết xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm thầm khóc rấm rứt. Rồi một lúc nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba nó vậy.

*

Việt Cộng tràn về chiếm hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ rần rần, nhốn nha nhốn nháo. Ba con Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt xanh như tàu lá, chỉ mặc có cái quần đùi. Ba nó hổn hển nói với má nó: "Mẹ họ! Trong lúc lộn xộn, thằng nào nó đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh chạy bộ về muốn tắt thở ". Má nó lo lắng: "Còn quần áo của anh đâu?" Ba nó nhăn nhó: "Cởi liệng cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn thấy tiên tổ à!". Rồi ba nó phun nước miếng cái phụt như phun một cái gì thật đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó cầm lấy, uống ừng ực như người bị mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt Cộng ra sao, nhưng thấy ba nó tả tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm bầm chưởi đổng: "Mồ tổ cha nó!"

*

Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước người lớn, gọi trổng là "họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ" mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa mai cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa "họ" và "mình" có quá nhiều dị biệt.

"Họ" bây giờ tên là "cách mạng". Ba con Mén bây giờ bị "họ" gọi là "ngụy quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là "vợ ngụy" mặc dù thuộc thành phần công nhân lao động.

Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành người Tàu bị tịch thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân dân". Người lạ ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ được thiên hạ gọi bằng "tổ phó an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm! Thiên hạ "nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình ra sao, nhưng rồi ít lâu sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị "yên rồi, về quê sanh sống", một mong ước được chắt chiu nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm, bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ tan rã. Cái "Ngày mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc mộng! Thiên hạ thường chép miệng: "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về làm cái khỉ gì? Ở đâu cũng vậy thôi!". Dân tản cư bỗng thấy mình như bị mồ côi, vĩnh viễn bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ thân chùm gởi họ đã trở thành đám lục bình. Xóm Bộng mặc nhiên thành điểm tựa để đám lục bình bám vào đó làm một quê hương, đất đứng.

Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là không phải dân tứ xứ đến đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng. Bây giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau từ suy tư đến nếp sống, từ cách ăn mặc đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của thời cuộc đã cho họ có một đối tượng, thế giới cộng sản và con người cộng sản để nhận xét và so sánh. Đối tượng đó bây giờ thật rõ nét, không còn được ngụy trang bởi những mỹ từ. Cho nên họ nhìn thấy không điểm nào giống họ hết, từ con người đến phong tục tập quán. Tự nhiên, họ cùng đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa vào nhau để sinh tồn. Cũng giống như nhà của họ ở: phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững. Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt, nhưng trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão lụt tơi bời …

*

Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.

Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc làm ở bến tàu Khánh Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp phường hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt. Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học bài cho ngày hôm sau …

Bỗng một đêm, công an khu vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt ba con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn nháo trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó: "Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên tâm!"

Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu máo. Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì xầm bàn tán cho tới khuya mới ra về.

Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má nó khóc thút thít. Nó cảm thấy thương má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận mấy thằng công an bộ đội. Kềm không được, nó buột miệng chửi lớn:"Mồ tổ cha nó!". Tiếng của nó lanh lảnh, sắc bén, rạch bóng đêm như một lưỡi dao lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay mò mẫm rờ đầu nó. Nó nắm lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn ướt.

Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại, công an khu vực đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào cũng khuyên: "Chị cứ yên tâm. Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu với nhân dân, anh ấy sẽ được thả về thôi. Ta sáng suốt chớ không ác ôn như ngụy đâu, chị ạ!"

Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập cải tạo ở đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt. Tên công an khu vực lại đến nhà khuyên: "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ. Cứ học tập tốt là được về ngay thôi. Yên chí!" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành hông. Nó nhìn tên công an chỉ có nửa con mắt!

*

Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một món đồ vô dụng vào sọt rát! Tên thủ trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng một giọng trắng nhách như vôi: "Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ bây giờ, bởi vì chị không còn đủ điều kiện để phục vụ nhân dân nữa. Chị lấy hết đồ đạc của chị rồi đi về đi.". Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái nón lá và đôi dép cao su đúc. Một tên an ninh đi theo đến cổng, dặn: "Chị đừng trở lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu!". Má nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt. Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó đi học tập cải tạo. Dưới chế độ cộng sản, đã là vợ con của "ngụy " là phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ thị của kẻ cầm quyền …

Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học, đứa đi lao động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường, má nó không về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han như trong gia đình: "Bộ có chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy?". Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời hết chín phần mười. Má nó cũng nghe an ủi: "Dạ thì họ đuổi chớ sao! Ngụy mà! Kể số gì?" Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát tức, phun cốt trầu cái phẹt: "Hứ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta đã nghèo, một thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành!". Một bà khác thêm vào: "Thôi đi! Nói gì cái thứ đó! Mồ ông mả cha của tụi nó mà tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy tiếng "bà con mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn nghe bơ vơ lạ lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu gỗ nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông cau, thiếu họ hàng ruột thịt … Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu đời. Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã trở thành nhịp sống của chính bản thân của má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này … Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây người cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau chào hỏi xã giao lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con Mén vẫn thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình" thật chất phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm cúng và cũng thật là thênh thang trải rộng. Giống như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới nắng, cuối mùa mưa …

*

Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc làm ổn định, dù làm phu quét đường đổ phẩn, má con Mén cầm thế một mớ nữ trang quần áo rồi đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới quê, té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một trăm người bán nhưng không có một vạn người mua. Quá nhiều người bán bởi vì những người này một số không chịu đi làm cho chế độ, một số bị chế độ sa thải đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không còn tiền …

Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng cách đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy vụn, bao ni lông … Má con Mén cắt bao bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ, có hai quai để tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que sắt đầu uốn cong như cái móc. Thằng lớn hay đùa: "Tụi mình bây giờ thành Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra đi hành hiệp trên mấy đống rác thành phố Hồ Chí Minh quang vinh!" Rồi tụi nó cười vui như chẳng biết phiền lụy là gì.

Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười. Những đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy tội nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra và xếp riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long theo ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang cho vài khúc mía, trái dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy, không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy đưa. Bây giờ, làm như là người ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước. Làm như là thiên hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì họ đã mất tất cả những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại có nhau thôi …

Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc trong nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói: "Trời sanh, trời nuôi". Mà thật, tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân hơi ghẻ lở nhưng gương mặt vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó không chịu để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị "Để tóc dài đi con cho nó thành con gái" nó lắc đầu nguầy nguậy, tóc bum bê xòe ra như rẻ quạt: "Nực thấy mồ …" Mấy hôm đầu đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó, nó lượm một mớ giày Ba ta rách mũi, chọn được hai chiếc vừa chân thì một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng: "Kệ nó! Khác màu như vậy khỏi sợ chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa sạch, cất kỹ. Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải thích: "Để giành mai mốt có đi học lại, có mà mang". Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.

*

Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh, Nguyễn Thị Ánh, hồi đó nấu bếp cho vợ chồng một ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ lấy chồng người Pháp rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm ăn ở Phi Châu. Chỉ cũng đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne, bà Anne Brioude.

Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ nhật, thằng anh con Mén nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn tới gạch!" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không nên về sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định: "Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ lắm". Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm như gia đình chị bên nhà còn rất đông. Thật ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt, nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình thương trong lòng chị thật mênh mông, không bờ không bến, đến độ chị không đo lường được nữa không phân biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình thương quê hương …

Về Sài Gòn, chị Ánh vẫn gọi là Sài Gòn vì thói quen, chị ở khách sạn Hữu Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi tin tức má con Mén, từ những người quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang nhưng đã lên làm ăn ở thành thị từ trước … Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một trở ngại lớn: người trong xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài: "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ chưa già lắm". Chị tả hình dáng của người em gái cách đây đã mười mấy năm, cái thời mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi trên cây dừa bắt ngang đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể chuyện tâm tình … Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây giờ, quên mất là thời gian đã đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại! Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già trong xóm: "Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới …".. Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má con Mén. Một bà hỏi: "Có phải cô đó có bốn đứa con không?" Chị Ánh mừng rỡ: "Đúng rồi! Người ta nói nó có bốn đứa con, ba trai một gái!". Bà già gật đầu: "Vậy là má con Mén rồi!". Trước khi chỉ đường, bà trách nhẹ: "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén! Cô cứ nói Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai!"

Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ ngàng. Quá nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách đã quá lâu nên tình cảm bị chìm sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im lặng để tìm lại những nét cũ trên gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ quên từ ngày xưa được trả về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở.

*
Chị Ánh đã quyết định: gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị nói: "Không được! Ở lại đây tụi bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn ba tụi bây, từ từ rồi tính sau“. Rồi chị sắp đặt: ”Chị để lại một mớ tiền, em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó, chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn bao nhiêu thì tốn, nhưng phải đi khỏi xứ này gấp!”. Má con Mén như người không biết lội vừa chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng lộng bên trên mà cảm nhận cuộc sống này vẫn còn có lối thoát.

Chị Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại học tập của chồng.

Lần đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ cho mấy đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng làm như câu trả lời nằm ở đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh: ”Ờ … tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa nhỏ nó có tương lai …”. Rồi ba nó cầm lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba nó: chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu xuống, gò má nhô lên, râu tóc rối bời … Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi nó” đày đọa ba nó ra như vậy? Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội đứng lớ ngớ ngoài kia, môi nó mím lại, mắt nó lồi ra: nó muốn lấy que sắt cào bươi "tụi nó” tả tơi như nó nó đã cào bươi mấy đống rác! Từ đó, con Mén biết thế nào là hận thù …

*

Dì Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ sơ xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng được các cán bộ dành nhiều dễ dãi.

Thời gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm tưởng như được đặc cách cho về để đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó vẫn sẽ phải sống chật vật một mình trong một vùng kinh tế mới nào đó, và tuy không còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì cũng giống như bị giam trong một trại tập trung khổng lồ.

Ngày ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự, bởi vì đối với họ, ba con Mén là người của đại gia đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ bay đi tìm sống tự do ở một chân trời khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín chuyện này, cũng như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan tính vượt biên, chẳng một ai dám hé răng.

Bây giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó nằm. Nó săn sóc ba nó từng chút, lấy khăn lông nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới đất vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình chăm chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào chữa: “Hồi đó ba đâu biết hút thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn tù chia nhau điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe thương ba nó vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó tháng năm chồng chất bằng đói lạnh buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt lên một bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn … nó muốn … Nhưng, không hiểu sao nó vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn ngào chảy nước mắt. Có lẽ nó tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.

*

Bữa đi phi trường thật là tội nghiệp. Cả nhà len lén đi, không dám chào ai hết. Gọi là đi chính thức nhưng giống như là đi trốn, đi chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng, rồi kết luận: “Sợ bà con biết rồi ba con buồn, hiểu chưa?”

Nếu bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số phận hẩm hiu của mình, bởi vì không phải ai cũng được may mắn như gia đình con Mén. Điều mà má nó không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống như lính đào ngủ trong khi bạn đồng đội đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi trường mà má con Mén cứ lâu lâu lại thở dài …

Phi trường đông thật đông, Người đi không có bao nhiêu mà người tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ đã khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn đưa mà biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi tiễn đưa đó mới thật là đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn người thân, cho nên có nhiều người ôm nhau khóc thật thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước mắt.

Mấy anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc. Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật lâu … Ba nó siết chặt nó vào lòng mà nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm nghiền mắt lại, nuốt xuống như nuốt liều thuốc đắng.

Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào ra như suối. Trong một khoảnh khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian như ngừng lại rất lâu …

Rồi cũng phải buông rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối. Những người tiễn đứng thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi đó, tất cả đau thương cô đọng lại thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng nắm đất lên mặt quan tài nằm sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi vào một thế giới khác.

Ba con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con kinh đào ở xóm Cầu Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây giờ cũng xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ vợ con thì … Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước qua khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan như gương mặt mấy thằng công an đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra ! Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

*

Tôi quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó đưa anh em nó lại để học Pháp văn với tôi, cùng với những đứa con của mấy gia đình tỵ nạn khác.

Con Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn trịa ra, đôi má phinh phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.

Khi đã quen thân, con Mén tỉ tê kể cho tôi nghe từng mẫu chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt là đoạn nó còn nhỏ.

Những lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó ngời lên tinh anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu nó ngừng lại để chêm vào: “Cũng tại tụi Việt Cộng hết!”. Đến những đoạn bi thảm của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm: “Mồ tổ cha nó!”

Một hôm, nó nói với tôi: "Bác Hai nè! Bác đừng nói với ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con chữ quốc ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con còn dốt lắm!".

Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở nên trìu mến: "Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ cho ba con ..".

Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt!

Từ bao lâu nay, người tị nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay Pháp văn.. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu vong, tôi được người nhờ dạy quốc ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha cô ở Việt Nam! Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng như tôi vừa được nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ … Và được thấy lại một nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết thơ về cho cha vì vẫn không muốn cắt lìa cuống rún!

Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu, lập lại: "Con muốn viết thơ cho ba con!".

Tôi cầm hai bàn tay nó bóp nhẹ: "Ừ, … bác sẽ dạy con … bác sẽ dạy con …".

Trên gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu để nắn nót viết cho ba nó những bức thơ dài …

Ở Abidjan không có sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén mà có cảm tưởng như chính tôi đang đi học lại.

Bây giờ, tôi thấy quí vô cùng những chữ la tinh mang móc câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội nón úp nón ngửa để trở thành chữ â chữ ă, kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới nằm trên … Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con con Mén vẫn thấy được gần nhau mặc dầu ở xa nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ có chúng nó mà tôi đã khám phá ra con Mén, một đứa gái nhỏ tuy tị nạn bao năm ở xứ người mà trong lòng vẫn còn giữ nguyên hình ảnh của xóm Bộng, của Sài Gòn, của Việt Nam …

Tiểu Tử

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Những ông chồng tội lỗi
Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con.
Chị Xuân “khai hỏa”:
– Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi.. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc gì nên thân. Nhờ đi mua mấy bó rau răm thì đem về rau húng.. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, thò tay bốc đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.
Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân:
– Đàn ông, theo em định nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xã chị lười, nhưng có lười trong chuyện… chuyện phòng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.
Các bà ngồi quanh cười hi hi.
Chị Xuân đỏ mặt, nói lí nhí:
– Lười thì mọi việc đều lười.
– Hừ, lười chuyện phòng the… mà quần nhau có đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?
Chị Hạ nói tiếp:

– Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông này lười đến độ những khi nào vợ chồng “vui vẻ” cũng vẫn còn để nguyên cả áo quần. Thế mà chị Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Này chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười, mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc vì tội lười biếng chưa?
Chị Xuân cao giọng:
– Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao? Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại còn mang công việc sở về nhà nữa!
Chị Hạ hỏi dồn:
– Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước không?
Chị Xuân hừ một tiếng dài:
– Các việc đó mà lười nữa, thì ai lo cho!
Chị Thu lớn tiếng xen vào:

– Tôi thì chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết. Ai đời đi làm việc về, vội vã thay áo quần, chạy mau ra vườn, xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt thì thắp đèn lên làm tiếp. Mãi cho đến chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ Bảy Chủ Nhật, cũng loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc gì cả. Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm ầm, thì co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ, cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!


– Vườn có rộng không? Ông ấy trồng gì mà quanh năm không hết việc? Một bà tò mò hỏi.
– Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây này, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa lành bệnh hẳn, còn ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió.. Ông ấy còn bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu bình phục.
Bà bạn cười cười:
– Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?
– Vô duyên chưa? – Chị Thu gắt – Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông chồng của chị cũng không khỏi khổ vì cái miệng hay chót chét của chị đó! Chị Thu thở dài chán nản tiếp: – Ông ấy mê cái vườn còn hơn mê vợ con, mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nhìn đến, có khi cả tháng không bước chân ra vườn, Cái vườn giành mất tình yêu của vợ chồng tôi.
Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói:

– Có được ông chồng không ham chơi, chẳng rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn chưa bằng lòng, thì đòi gì nữa? Chị muốn có gì hơn?

Chị Thu đáp: – Hạnh phúc.

Chị bạn cười mũi: – Hạnh phúc? Hạnh phúc thì phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi không mà chờ, thì khó có, rồi trách móc người này, kẻ kia. Sao chị không ra vườn, tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi tâm sự, chuyện trò, thì hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng xem sao? Có mất gì đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và từ đó, thuận vợ thuận chồng thì tát biển đông cũng cạn.
Chị Hạ lắc đầu nói ngang:

– Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng sau này xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Này nhé, chị cứ giả vờ yêu mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ tay. Đòi cây này phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại hoa khác, cái vòi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà đòi hỏi phê bình đủ thứ chuyện, lải nhải mãi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui lòng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và cứ bị đòi hỏi mãi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực mình và không dám ra vườn nữa. Mấy chị nghe kế sách này có cao không?

Một chị la lớn:
– Không được đâu! Lải nhải và yêu sách mãi, lỡ ông ấy nổi nóng, phang cho một cán cuốc vào đầu thì uổng đời. Đừng có dại.

Mấy bà cùng cười vang.
Chị Hạ cười nói tiếp:

– Ông ấy có ăn học đàng hoàng, đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đình vui vẻ hạnh phúc nhất.
Chị Hạ phản đối liền:
– A! Phải “nằm trong chăn, mới biết chăn có rận”. Trông như không có vấn đề gì cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài xã hội và nghiêm nghị cả với gia đình, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa bao giờ thấy ông ấy cười. Nụ cười hiếm hoi còn hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hỏa đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp gì cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng, hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc Nụ cười quý lắm. Mấy chục năm chưa lần thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá đâu mà cứ trơ trơ.

Chị Đông nãy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện:
– Không biết cười còn đỡ. Ông chồng tôi thì mít ướt, thấy chuyện gì cũng cảm động mà khóc được. Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít mãi như con nít bị đánh đòn, lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly, thì khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa. Đi đám ma bạn bè, gia đình người chết thì tỉnh khô, mà mắt ông thì ướt nhẹp, đỏ lòm, sụt sịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ đồng ý để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con gái nói: “Ơ kìa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” Mỗi lần nghe chuyện gia đình nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ hoe. Lòng ông ấy mềm nhũn, yếu xìu, nên chẳng bao giờ nói “không” với người khác được. Bởi thế cho nên các cô thư ký trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ vì cái tình cảm yếu mềm sướt mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của mình, chứ đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê gia đình.
Một bà nói:

– Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!
Chị Đông đáp lại:
– Đúng, ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, thì ông không nỡ từ chối. Không nỡ làm mất lòng ai. Khi nào tôi cũng cứ dặn lòng, cứ bình tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho mình. Không thể nào thay đổi cái mềm yếu của ông chồng, thì cứ chấp nhận. Vì ông rất trân quý gia đình, chăm sóc con cái hết lòng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa.

Câu nói của chị Đông như gãi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu nở máy thở than:

– Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện gì, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến cho kịp. Ai giao việc gì cũng ôm vào làm “chùa” không công, ngày đêm. Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền thì cà thẻ tín dụng. Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui, kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái vòi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông này, có lẽ đừng bao giờ lập gia đình, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.
– Thế thì sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?
– Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc, nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như các cụ ngày xưa đi ở rể. Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống cho gia đình. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu tiên cho gia đình, vợ con đã, rồi nếu dư năng lực, thì giờ, mới lo cho việc chung của thiên hạ.
Một chị la lớn:

– Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm lòng. Đáng khen, không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, thì xã hội này đi đến đâu? Làm chi có những sinh hoạt xã hội?

Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời:
– Ông chồng chị Đông, làm việc còn ích lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẩn vơ tìm vần dệt thơ, quên trước, quên sau. Không nhờ được việc gì. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt tìm ra một câu thơ lạ, thì vội vàng bật dậy chép liền. Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nửa khuya đến sáng, làm được mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, thì ông ấy nói rằng ngày xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: “Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một tiếng, hai dòng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa thu sang ta về núi nằm.” (**) Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỹ tiết kiệm của gia đình mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có gì cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi lại nghe. Còn phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát “chùa”. Đáng ra em phải tránh xa các nơi ra sách này cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn. Khách tham dự thì lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn ào, không thèm để ý đến diễn giả đang nói gì, ca sĩ đang hát hò gì. Chỉ bán được mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương tình mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong, mà khách đã về gần hết.
Đáng ra, họ đã đến, thì ráng chịu khó thêm một chút, ở lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ! Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng mình là con vợ, thì phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng ký tặng. Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc thương tình lắm, thì đọc phớt một hai bài. Thời buổi này ai rỗi mà đọc thơ?

Chị Hạ khoa tay nói lớn:

– Đáng ra chị Nguyệt phải hãnh diện có ông chồng thi sĩ chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm sau, hình bóng mình cứ thấp thoáng mãi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, còn quý gấp trăm, gấp ngàn lần làm ra tiền bạc. Tiền bạc chỉ có mình tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa còn đó, còn mãi mãi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?
Chị Nguyệt lắc đầu:
– Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. Còn mai sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đã ra ma rồi, đâu biết chi nữa! Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa tiệc, ngâm thơ. Đã già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất tình, lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vã. Toàn cả những hình ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người tình xưa, công khai phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối tình cũ, thì các ông có chịu hay không?
– Thôi thôi, đủ rồi. Lý do nào cũng đúng. Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối mãi. Tôi còn nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà. Chồng chị Phương, chị Dung thì say mê thể thao, cá độ, mất hết tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt tì tì từ khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt còng tay. Còn chồng chị An, chị Bích, chị Chi thì đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà nghe về nỗi khổ vì chồng con của chị đi nào!

Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời con gái chưa phai tàn. Chị bình tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:

– Ông chồng em sáu mươi chín tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày xưa. Bà này là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà cũng chẳng có tình ý chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, thì các cô xem bọn con trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị. Năm trước họ vô tình gặp nhau, cả hai tuổi đều đã xấp xỉ bảy mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng mình, thứ đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng đã chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó, chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa. Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí đú đởn. Em cứ vô tình, không hay biết. Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em kêu hãng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe tìm giấy tờ, thấy nguyên một bao thư mấy trăm trang, in điện thư trao đổi qua lại của hai người này. Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, vì họ viết cho nhau lời lẽ tình tứ như còn ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái tình cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, thì họ cũng tài tình đáng phục. Bà ấy liều mạng, nhiều lần viết rằng: “Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được tình yêu của anh”. Ghê khiếp chưa, một cô giáo có trình độ đại học mà rồ dại đến thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá và run rẩy gần ngất xỉu. Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời cô giáo cũ rằng: “Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em còn nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần trong những lá thư này, họ sẽ nghĩ gì, và đối xử ra sao với cô?” Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng, điếng người, có lẽ vì quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: “Thưa cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết. Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi này. Đây là bản duy nhất, em không muốn giữ làm gì. Em thương em, và thương cả cô, vì chúng ta đều là nạn nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hãy thương thầy, ông chồng già đáng kính của cô, đã chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa thế kỷ dài. Cũng đã đi gần hết đời người rồi. Không còn bao lâu nữa.” Em đứng dậy và bước đi, không quay lại nhìn bà ấy.

Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối:
– Tại sao ngu vậy? Tại sao không chụp ra vài bản, gửi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?
Chị Giang bình tĩnh:
– Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, thì cũng đừng nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà mình cũng chẳng được gì?

Các bà đồng thanh nói:

– Để trả thù, để trừng phạt. Thế thì bây giờ ông chồng của chị ra sao?
Chị Giang thở ra:
– Em không thù, thì trả thù làm chi? Bây giờ ông chồng em vẫn bình thường, vào ra trong nhà như con chó cụp đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đãng khó chừa, nhưng ông cũng còn khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được. Em phải biết tự cứu mình, và cứu gia đình. Chắc các chị mới thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái thâm độc nham hiểm còn hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục, thì bà đó ít đau, ít thấm thía hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.
Bà chị lớn tuổi nhất đám đưa hai tay lên trời mà than:
– Ôi sao kiếp đàn bà chúng ta chịu lắm khổ đau như thế này. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả. Thế nhưng, thiếu đàn ông, thì đâu có sống bình thường được, đàn bà sẽ khô héo như đem cây trồng vào sa mạc. Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gã triết gia cà chớn nào đó viết đại ý rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho ra một tấm chồng, nhưng khi có một tấm chồng rồi, thì họ muốn có tất cả”. Cũng không phải hoàn toàn sai đâu.

Tràm Cà Mau

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nguyenthanh »

ĐÔI MẮT PHƯỢNG

Tôi là 1 quân y sĩ ra trường năm 1974, đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhảy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa 2 chữ “Nhảy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)

Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là 1 sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp! Thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin 1 năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ, 1 năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.
Không phải là 1 nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng, tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ. Chỉ cần gặp Phượng 1 lần là không người đàn ông nào quên được nàng.

Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ, tôi không thích 2 chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.

Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không 1 người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất 1 số bè bạn cũng vì Phượng. Chỉ 1 vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi dã mọc sừng.

Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất chông nhìn mọi người 1 cách thản nhiên như người ta nhìn nhả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng kững vật vô tri quanh mình.

Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thía hiểu được 1 việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình, Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ do đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó - ông Thợ Tạo - mới đúng là người tôi phải oán trách.

Ði đôi với cặp mắt tình tứ là 1 đồng tiền rưỡi (1 ở bên má trái, và 1 nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy - dù chỉ có đồng rưỡi - có ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.
Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực; tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.

Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.

Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm, đa tình của chính mình. Không phải là 1 người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngã.
Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, là để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng 2 chữ “cải tạo.”

Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Ðó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.

Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bị những mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không 1 hình thức hành hạ giam cầm, không 1 lời nói nặng, 1 đe dọa.

Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”

Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của 1 anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”

Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.

Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn thì 1 buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.
Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là 1 khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.

Lên đến văn phòng, tôi được 1 anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.
Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.”

Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.
Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhung mịn màng làm lòng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”
Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.

Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được 1 lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”
Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến 1 chỗ nào đó.

Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”
Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng.
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế gì hết.”

Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon . Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.
“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được uu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói còn trong xác người.

Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.
Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”
Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.

4h chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt 1 năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xóm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà còn như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho 1 đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”
Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.

Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”

Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống, ... . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.
Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam . Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

Tôi xin độc giả ngưng đọc 1 phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu phép trước guồng máy xã hội mới.
Nếu 1 ngày tù dài bằng 1.000 năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra 1 tình trạng ngượng ngập khó tả, Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được 1 bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo 1 anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ 2 năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”
Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.

Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.”
“Ðón tầu? Ðể đi đâu?”
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.

Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”
Tôi ôm Phượng vào lòng; giữa 1 xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.
Cổ nghẹn lại, tôi không nói được 1 tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của 1 mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.

Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình; nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.
“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó; không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”
Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”
“Anh tin. Anh yêu mình.”
“Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”
Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
“Em có con?” tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”
Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.
“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu mình đồng ý.”
Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần.
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vình, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt; nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.
Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”
Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ còn là một vệt dài đậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.

Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.
Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.
Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.
“ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”
Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”

Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.
Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam , điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam . Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam . Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa; tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”
Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”
Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.
Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.

Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho.
Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.

Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu.
Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”
Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”
“Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”
Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đãng đáp.
“Không chắc đã có người trên đảo.”
“Vâng.”
Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.
Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”
“Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.

Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.

Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam .
Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
“Ðau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”
Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành.
“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh; tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”
Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.
Ðêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.

Thượng Ðế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Ðể chứng minh là con người cũng không hơn gì loài cầm, loài thú ư?
Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nhìn tôi, Phượng bảo, “Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.”
“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.

Vợ tôi nhìn tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”
Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”
Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.

Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sau đã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút gì còn xót lại.
Ðến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Ðể thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.

Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.
Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.
Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.
Thịt cá mập béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.

Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.

Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp.
Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không mình?”

Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.

Những người chung quanh nhìn tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút gì nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi tìm con?”
Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.
“Họ đã xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái.

Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không còn khả năng khóc, than.

Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng.
Phượng bối rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.
Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Ðiều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.

Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con cua khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng; tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.
Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn còn có mắt, chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa tình của Phượng.

Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”
Nhưng tôi đã lầm. Ðối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.
Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Ðài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.

Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.
Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.
Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”

Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.
Yếu đuối, tôi ngã mấy lần, Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.

Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đã mất hết hydrate; giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư thuyền.
Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình thức thủy táng./.

Nguyễn Đạt Thịnh

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »


NẾU TÌNH CỜ GẶP LẠI.

Tôi đứng ôm cặp sách nơi đầu đường con hẻm lớn, mặt hướng về ngã năm chờ đợi chuyến xe, không để ý phía bên phải tôi tiệm Minh Ký Trà Gia đang khách vào ra liên tục:
- Cô bé đi đâu anh cho quá giang?
Một tiếng nói phía sau, tôi quay lại ngỡ ngàng và từ chối:
- Em đi học xa lắm, mãi Quang Trung.
Người lính trẻ tuổi bên chiếc xe Honda hỏi tôi, anh tự giải thích:
- Anh thấy cô bé đứng đây từ lúc anh vào tiệm Minh Ký Trà Gia. Ăn tô mì và uống ly cà phê xong thấy em vẫn còn đứng đây.
Tôi làm bộ bận rộn tiếp tục nhìn về hướng ngã năm để chấm dứt nói chuyện. Anh chưa chịu đi, thắc mắc hỏi:
- Sao không đi xe lam? nãy giờ lỡ mấy chuyến xe rồi.
Tôi ngượng ngùng khi phải nói:
- Em đợi xe đò vì…vì… giá xe đò rẻ hơn xe lam.
- Vậy hả..thôi anh đi nhé. Mong xe đò mau tới kẻo em trễ giờ học.
Anh đi về hướng ngã năm mà tôi đang dõi theo chờ xe nên phải nhìn anh cho đến khi hình bóng người xa lạ khuất vào đám đông xe cộ. tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhỏm cả lòng.
…..
Chập tối tôi đang mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ chợt choàng thức tỉnh với những âm thanh khủng khiếp, tiếng la hét từ bên ngoài và cả trong nhà mình:
- Cháy nhà…cháy nhà…các con ơi chạy ra ngoài…
Cha mẹ tôi đang mang đồ đạc và bồng bế dắt díu các em tôi lao ra phía cửa, tôi chạy đến bên kệ sách chộp mấy cuốn truyện, mẹ tôi la lên:
- Giờ này mà còn lo mấy cuốn truyện hả …mau mau ra ngoài sân.
Khi tôi ra tới ngoài sân đã trông thấy một vòm lửa đỏ sau nhà mình, ngọn lửa khổng lồ như con quái vật nuốt chửng những căn nhà. Thấy căn nhà của mình xụp đổ tôi bật khóc nức nở và thương xót những cuốn truyện mà tôi yêu thích chưa kịp mang theo.
Xe cứu hỏa dập tắt đám cháy. Tổng cộng hơn 20 căn nhà đã thành tro bụi.
Buổi sáng hàng xóm bắt đầu tìm về nền nhà của mình xem có gì còn sót lại không, tôi cũng thế, chỉ tìm thấy những đồng tiền xu mà tôi vẫn để dành đi học trả tiền xe đò đã cháy xám đen. Khi tôi từ trong đám tro tàn bước ra, mặt mày phờ phạc vì cả đêm không ngủ, vì sợ hãi, vì đau buồn thì gặp anh đang đứng trong đám đông người hiếu kỳ nhìn cảnh hoang tàn sau trận cháy, là anh chàng cách đây một tuần gặp tôi ở đầu đường khi tôi đứng chờ xe đi học, vẫn là chiếc xe Honda ấy hôm anh đi ăn mì Minh Ký Trà Gia . Anh cũng ngạc nhiên và vội đến bên tôi:
- Lại tình cờ gặp cô bé. Nhà em cũng bị cháy hả?
- Vâng, em vừa chui từ nền nhà đổ nát ra. Nhà em đó.
Anh nhìn tôi có vẻ thương cảm:
- Sáng nay anh đến Minh Ký Trà Gia ăn mì, nghe người ta bàn tán về đám cháy tối qua ngay con đường trong xóm này nên anh tò mò quẹo vào xem cho biết. Không ngờ gặp cô bé trong hoàn cảnh này.
Tôi ngại ngùng quay mặt đi, giấu hai bàn tay đầy vết nhọ của than củi sau vạt áo và tự hỏi không biết mặt mình có dính nhọ đen thùi lùi không?
Anh hiểu ý và chào tôi:
- Anh đi làm nhé.
Để đáp lễ anh đã hỏi thăm mình, tôi hỏi thăm anh:
- Anh làm xa không?
- Làm gần đây thì anh mới ăn mì Minh Ký Trà Gia nơi đầu đường xóm em chứ. Anh là lính của trường hành chính tài chính ở ngã năm.
- Thế thì em biết rồi, trường hành chính tài chính em vẫn thường đi qua.
Từ đấy mỗi lần đi qua ngã năm tôi đều nhìn khu trường hành chính tài chính với nhiều thiện cảm vì có “người quen” đang làm việc trong đó.
……..
Quán cà phê nhà tôi đông khách nhộn nhịp nhất vào buổi sáng. Trước cửa quán là hàng bánh cuốn và hàng cơm tấm rất ngon, những lính tráng và nhân viên của các trại lính quân cụ, quân nhu, truyền tin…. quanh đây thường đến ăn điểm tâm uống cà phê trước khi vào làm việc. Sáng nào tôi cũng phụ giúp mẹ, khi thì vào quầy pha cà phê khi thì bưng bê cho khách hàng.
Khi tôi mang một ly cà phê sữa và một ly cà phê đen ra bàn số 8 thì…lại gặp anh. Anh “hành chính tài chính” và một cô gái trẻ đẹp đang ngồi bên hai đĩa cơm tấm sườn bì chả vừa được mang đến. Anh nhìn tôi rất ngỡ ngàng vì bất ngờ.
Tôi cũng bất ngờ, run run đặt hai ly cà phê trước mặt khách và quay đi ngay để phục vụ những khách hàng khác và để dấu cảm xúc của mình.
Lát sau anh và cô gái rời khỏi quán, tiền trả cà phê để bên cạnh ly cà phê. Rõ ràng anh muốn tránh mặt tôi .
Nhưng một tiếng sau anh quay lại, chắc anh đợi giờ quán đã vắng khách. Tôi đang đứng trong quầy, anh đến bên tôi:
- Cho anh ly cà phê đen như lúc nãy.
Tôi vụng về hỏi:
- Cà phê ngon nên anh quay lại uống ly thứ hai?
- Cà phê nhà em làm anh đắng môi và đắng cả lòng, nhưng em cứ bán cho anh cái mùi vị đau thương ấy đi.
Tôi pha cho anh ly cà phê đen nóng và gượng mỉm cười:
- Em mời anh ly cà phê này...
Anh cầm ly cà phê cho vào một thìa đường nhỏ và đứng tại quầy nhâm nhi để tôi phải tiếp chuyện anh:
- Anh đã tình cờ gặp em hai lần và tưởng là không còn dịp nào gặp nữa vì anh thường ghé Minh Ký Trà Gia ăn mì buổi sáng, cố tình cùng giờ em đón xe đò đi học mà chẳng thấy em đâu, đi vào xóm em, anh mong là căn nhà em cháy sẽ được xây dựng lại và anh sẽ gặp em. Nhưng hình như nhà đã đổi chủ?
- Vâng, cha mẹ em đã bán mảnh đất nhà cháy và mua căn nhà nơi mặt đường gần những trại lính này mở cửa hàng bán cà phê, thế nên sau vụ cháy nhà em đổi sang học buổi chiều, buổi sáng em phụ mẹ bán cà phê.
Anh thẫn thờ:
- Thì ra thế. Bỗng dưng em biến mất như một giấc mơ ngắn ngủi.
Và anh thở dài:
- Đã một năm, hôm nay lần thứ ba anh lại tình cờ gặp em mà ngậm ngùi không nói nên lời. Anh vừa có người yêu, là hôn thê của anh, cô ấy làm thư ký kế toán trong thành quân cụ, hôm nay anh cao hứng đưa nàng đi làm và ghé ăn điểm tâm cà phê... nhà em.
Anh để ly cà phê đen còn dở dang lên quầy:
- Chúng mình có duyên gặp gỡ nhưng duyên quá mỏng manh.
Tôi im lặng mà nghe những xót xa trong lòng mình đang lên tiếng thở than. Anh giã từ:
- Cám ơn em ly cà phê buồn.
Tôi ngẩn ngơ nhìn theo dáng anh đi ra cửa, cầm ly cà phê của anh lên vẫn còn hơi ấm, không biết hơi ấm của cà phê còn lại hay hơi ấm từ bàn tay anh?. Anh uống ly cà phê buồn và người pha ly cà phê này cũng buồn biết mấy. Tôi, cô bé 17 tuổi lần đầu tiên trong đời chợt cảm thấy bâng khuâng.
Người lính hành chính tài chính ấy đã đánh thức trái tim mộng mơ của tôi. Tôi chưa biết tên anh và có lẽ anh cũng chưa biết tên tôi, cả 3 lần tình cờ gặp gỡ đều ngắn ngủi vội vàng chẳng ai hỏi tên nhau.
Ngày ấy tôi đã ước mong biết được tên anh để ghi vào trang nhật ký gặp anh từ tuổi 16 đến tuổi 17, để ghi vào tim nhớ nhớ thương thương và giận hờn trách móc vu vơ. Đầu con đường trong xóm dẫn ra con lộ lớn bên này anh vẫn thường ngồi tiệm Minh Ký Trà Gia ăn mì, cuối con đường trong xóm dẫn ra con lộ lớn bên kia có quán cà phê nhà em, anh đã đi từ đầu đường trở lại nơi căn nhà cháy, giá mà anh đi nốt nửa con đường còn lại là đã gặp quán cà phê, là gặp em rồi, nửa đoạn đưởng chỉ vài trăm mét mà đã xa xôi chúng ta.
……
Qua rồi bao nhiêu mùa trăng của tuổi 16- 17. Anh đã đi theo ngã rẽ đời anh, không hề gặp lại tôi cho tới biến cố 1975 thì đường đời xa càng thêm mịt mùng xa.
Bây giờ thỉnh thoảng nhớ về qúa khứ với người lính hành chính tài chính mà tôi đã tình cờ 3 lần gặp gỡ thì tôi chẳng mong cầu biết tên anh làm gì, nhưng nếu định mệnh cho chúng ta tình cờ gặp lại nhau lần nữa, lần thứ tư trong cuộc đời, dù tôi và anh bao nhiêu tuổi, dù gặp anh trong hội cựu chiến binh, trong hội người già hay trong viện dưỡng lão, chỉ để chào nhau, hỏi thăm nhau như hai người bạn cũ cũng đủ trả nợ cho nhau những cảm tình mới chớm nở đã vội tàn phai của thuở ban đầu.

Nguyễn Thị Thanh Dương
( Jan 20, 2023)

Post Reply