Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image


Chuông Gọi Hồn Ai
Trần Mộng Tú

Cuối năm nghe hồn rất mỏi
Bụi nào trong mắt cay cay (tmt)

Buổi sáng mùa đông tôi lái xe đi về phía nhà thờ, tôi đi giữa hai hàng cây đã rụng đến chiếc lá cuối cùng, những nhánh cây khô vươn lên bầu trời xám, trông như những bộ xương cá voi khô, trông như ai vừa tung ra những nắm bút chì dài ngoằng, trông như những sợi giây thép cong queo vứt lên không gian. Trông không còn là cây của ngày tháng hôm qua nữa.

Ở một ngã tư, khi vừa ngưng lại chờ đèn xanh, tôi được ngắm một bầy hải âu rất đông, không biết từ đâu kéo đến, chúng bay vần vũ trên những nóc nhà, mầu trắng của cánh pha vào màu xám của bầu trời mơ hồ như không có thật, khi chúng bay lao xuống, chúng thả theo những tiếng kêu thật thấp, thấp đến nỗi mình có cảm tưởng sẽ nhặt được những tiếng kêu đó, nhưng chưa kịp làm gì cả thì chúng lại bay vụt lên.

Hai bên đường những bóng đèn màu đã gần như được treo trên hầu hết những cửa hàng, và quấn chung quanh những thân cây. Cây thật sự không cần lá nữa. Những ngọn đèn xanh đỏ đã cho chúng một hình hài mới.

Ở một ngã tư kế, những bóng đèn màu đang chớp chới trên vai hai người đàn ông vô gia cư ngồi dưới gốc cây. Gió thổi đến từ bốn góc đường.

Mùa đông thật sự hiện hữu. Tôi đi qua những hàng cây khô, những ngọn đèn màu, qua vai người homeless. Tôi nhặt lên được gì trong mùa đông?

Hai tuần trước một người bạn bỏ đi, đi thật xa “Người đi, ừ nhỉ người đi thật”. Người bạn đó là nhà văn Phùng Nguyễn. Sự ra đi của anh như một cơn gió mạnh đến bất ngờ làm gẫy ngang một thân cây, không chống đỡ kịp. Những thớ gỗ tươi rói, rách tươm còn ứa nhựa.

“Anh Phùng để lại một dấu ấn không thể nào phai mờ. Cũng không ai thay thế được. Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu kỷ niệm, chồng chất như “Tháp Ký Ức” của anh.” (Điếu Văn-Da Màu)

Phùng Nguyễn cũng để lại bao nhiêu dự định văn học anh đã phác thảo, những câu phỏng vấn anh gửi cho tôi (trong mục phỏng vấn đang lên khuôn của anh) tôi chưa viết xong, còn bàn qua, nói lại với anh. Anh muốn trả lời dài, mà tôi thì chỉ biết trả lời ngắn. Bây giờ thì chữ nghĩa đều theo thân xác anh bay như tàn tro rồi, anh có nhặt lên được xem dài ngắn thế nào không? Nghĩ mà thương anh.

Tôi táp xe vào một bãi đậu, rồi bước xuống đi vào mùa đông. Những chiếc lá nằm chết thản nhiên hai bên cạnh đường, tôi cúi xuống nhặt lên một chiếc, như nhặt một bài thơ.

Bài thơ của thi sĩ Khánh Hà viết cho chồng, nhà văn Tâm Thanh trong khi anh đang cố chống trả với ung thư. Khánh Hà cũng hình dung ra đời người như lá:

Đời người như lá mong manh
Hôm nao lá sẽ lìa cành lá rơi
Nghiêng nghiêng vẫn một dáng ngồi
Mái đầu bạc trắng đâu rồi tóc xưa
Tình yêu lòng vẫn còn thừa
Trái tim rạng rỡ vẫn chưa nhạt màu….
(Chiếc Lá Mong Manh-KH)


Chiếc lá đó đã rơi vào tháng Tư năm 2014, trước Nguyễn Xuân Hoàng năm tháng. Tâm Thanh với những tác phẩm đáng ghi nhớ trong lòng độc giả: Thiên Nga Giữa Cõi Người, Gỗ Thức Trên Rừng, Thiên Hương Về Trời… Hai người bạn văn ở hai bên trời cách biệt cùng đi về một phía trong một thời gian rất ngắn.

Tôi dong chơi tự do một thời
Ngoảnh lại đằng sau giật mình sợ hãi
Những dại khờ những lầm những lỡ
Những suối sâu xanh những đèo cao cong những truông dài mờ
Trời thì đang mông mênh
Ôi ngựa phi nước đại một thời bỗng quị chân
Ôi chim bay mù khơi bỗng gẫy cánh
Ôi tôi người xa lạ bỗng quen em… ( Làm Quen-NXH)

Đó là thơ tình của tác giả đã viết: Bụi và Rác, Căn Nhà Ngói Đỏ, Người Đi Trên Mây.

Anh cũng bỏ chúng ta đi tháng 9 năm ngoái, sau hơn một năm anh bỏ viết. Nguyễn Xuân Hoàng viết văn nhiều hơn làm thơ, thơ của anh cũng buồn buồn như văn của anh vậy.

Nguyễn Xuân Hoàng để cả một đời cho văn chương chữ nghĩa. Anh dậy học, làm báo, viết văn, làm thơ. Tất cả sở thích, nghề nghiệp đều chạy quanh con chữ. Anh mất, nơi thành phố anh cư ngụ mất đi hình ảnh một người làm văn chương có phong cách trước 1975, một nhà văn của thời VNCH. Đáng tiếc lắm!

Cũng trong năm ngoái, trong băng giá tháng 12 của Na Uy, chúng ta mất Nguyễn Hữu Nhật. Nguyễn Hữu Nhật là phu quân của nhà văn Nguyễn Thị Vinh, ông có bài thơ- Người Tù Già Kể Chuyện Mình, rất hay, đây là một đoạn trong bài thơ đó.

Anh chị em ơi
Làm sao chúng ta có thể trả lời cho con cháu
Ngày mai
Về một câu hỏi rất giản dị
Sống để làm gì?
Nếu chính chúng ta hôm nay
Không biết làm gì để sống.

Nhà tù Cộng Sản đã là nơi hun đúc tù nhân thành thi sĩ.

Nhưng không cần nhà tù, ngay giữa đời sống bên ngoài, xã hội khắc nghiệt đó cũng vô tình tạo ra bao nhân tài chữ nghĩa. Một trong những nhân tài đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn và ông cũng bị gió cuốn bay đi cùng năm, cùng tháng với Nguyễn Hữu Nhật, cách nhau có mấy ngày.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn phần đông bạn văn ở hải ngoại chỉ biết anh qua văn chương, nhưng đọc sách của anh, nhất là qua cuốn Chuyện Kể Năm Hai Ngàn (được dịch sang tiếng Anh, Pháp và Đức) ta thấy tư tưởng, ý nghĩ, cách diễn tả của anh rất gần gũi với mình. Văn chương thật sự đã giúp tình cảm của người viết và người đọc cảm thông nhau, nên khi anh mất, những người bạn văn phía bên này cũng thấy tiếc thương. Cái lằn ranh bên kia bên này, đối với những người viết hình như không có nữa, khi họ khám phá ra trong văn chương của nhau đều chuyên chở một ý nghĩa, một cảm xúc.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về Bùi Ngọc Tấn như sau: “Sự bình tĩnh, nhân hậu của ngòi bút anh cho thấy đức dũng cảm ở con người của anh cao cả biết dường nào."

Tôi dừng lại ở một gốc sồi, gỡ ra một trong những chiếc bóng đèn màu quấn quanh thân cây, một khúc thơ khác:

Khúc Thơ của một thi sĩ cũng ở Na Uy tặng vợ, thi sĩ Dương Kiền.

Trà Mi

Tặng em một đóa trà mi
Đầu xuân tưởng chút tình quê thơm nồng
Tặng em một vệt nắng hồng
Cám ơn trời đất lạnh lùng nơi đây

Tặng em một cánh chim bay
Có bay về cuối trời đầy nhớ thương
Tặng em một chút trầm hương
Trong tâm ngộ chữ vô thường ngát thơm.

Không biết ông viết bài thơ này năm nào, nhưng ông đã để lại đóa hoa trà trên bàn và ông bay theo gió.

Dương Kiền bỏ đi năm nay cùng tháng cùng ngày với Phùng Nguyễn. Chắc một già một trẻ đã gặp nhau rồi.

Mùa đông đang rơi trên vai những người homeless, họ phủi mùa đông xuống rồi lầm lũi đi, tôi đi sau họ, nhặt những chiếc lá nhàu, úng nước. Một chiếc lá khá to nhưng trông cũ kỹ nhất, một chiếc lá chắc rơi xuống từ một cây cổ thụ.

Ta đến từ đâu, đâu biết được
Đến đây được biết có Mình thôi
Gặp nhau từ thuở ban sơ ấy
Quấn quít nhau không một phút rời.

Tiền thân dù có dù không có
Ta có Mình khi ta có đời
Có Mình, ta có luôn trời đất
Đã tuyệt vời chưa Thân Xác ơi (Một đoạn trong Tạ Từ-Võ Phiến)

Tháng 9 của năm nay, làng văn chương Việt hải ngoại mất đi một người đàn anh, đàn anh của sự nghiệp văn chương và tuổi tác. Dù đám tang có trịnh trọng, có đông người tới đâu thì “cái mất” cũng không thay đổi được. Người ta lo in cuốn sách cuối cùng cho anh, lo đọc to lên những dòng cuối anh viết. Tất cả rồi cũng gấp lại, gấp như những cuốn sách trên giá sách thư viện. Con người của anh không còn hiện diện, ai muốn tìm anh thì không thể đến gõ lên cánh cửa, chờ anh ra mở với một nụ cười nữa.

Ngôi nhà ở thành phố Santa Ana chị vẫn ở, bạn bè ở xa tới vẫn ghé thắp tạ anh nén nhang trầm.

Gấp tất cả quyển dầy quyển mỏng lại, như ngày xưa vua gấp khăn áo quý phi. Tìm anh trên những trang mạng, mà những trang mạng thì không hề có mùi thơm của giấy. Buồn thật!

Nhưng khác với tất cả những văn thi sĩ tài hoa trong nước trước 1975, sống cuộc đời tương đối mực thước để giữ cho mình một phong cách nào đó, một thi sĩ làm thơ vừa ngông nghênh vừa bi tráng, có lúc bị gọi là ”phản chiến” cũng đã vừa nằm xuống ở quê nhà, trước Võ Phiến một tháng.

Nếu đời rơi như lá rơi thì chiếc lá Nguyễn Bắc Sơn cũng tự mình cuốn bay vào một góc khuất lấp nào đó, cho dù không nhặt lên được, tôi biết nó cũng tìm được một nơi rơi xuống thích hợp nhất, và ở đó một mình.

Thơ của Nguyễn Bắc Sơn một mình một cõi, nhưng vẫn “Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”

Khi các con khôn lớn thế nào cũng nghe kể chuyện đời ba
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba

Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt
Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba
Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận
Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu

Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ
Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du…
(Trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi)

Đoạn thơ buồn như một tiếng thở dài.

Tôi vẫn đi trong mùa đông. Tháng Mười Hai mọi người trong thành phố đang chăng đèn trên nóc giáo đường, trên các khung cửa kính của các gian hàng, trước các cánh cửa của khu gia cư. Những bài hát mừng Giáng Sinh cổ điển vẫn được mang ra phát thanh khắp nơi. Trong tiếng nhạc lồng vào những tiếng chuông nhà thờ.

Tôi nhớ lắm! Nhớ những nóc giáo đường ở quê nhà luôn luôn có gác chuông. Chuông kéo báo sắp tới giờ lễ mỗi buổi sáng, hay lễ buổi chiều.

Nếu buổi trưa không phải là thời khóa biểu của lễ mà chuông nhà thờ kéo, thì đó là tin báo một người trong họ đạo vừa qua đời. Mọi người dù đang bận làm công việc gì cũng ngưng tay, cúi đầu, đọc một lời kinh ngắn cầu cho linh hồn vừa được gọi về. Đó là ý nghĩa của tiếng “Chuông Gọi Hồn”.

Những người bạn văn, bạn thơ của chúng ta bỏ đi trong vòng hai năm nay hình như dồn dập quá, làm cho chúng ta hụt hẫng, chao đảo và thương tiếc.

Chao ôi, là mùa đông!

Tôi tìm lối trở lại xe, tôi nhớ là mình đang trên đường đi tới nhà thờ. Tôi đi xin một lễ cầu hồn cho Phùng Nguyễn, như trước đây tôi đã xin cầu cho Mai Thảo, Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Tâm Thanh và Võ Phiến.


Trần Mộng Tú


Tháng 12/2015
(Chuông Gọi Hồn Ai- For Whom the bell tolls - Ernest Hemingway)



(*) Phùng Nguyễn (1950 - tháng 11-2015)
Dương Kiền (1939 - tháng 11-2015)
Võ Phiến (1925 - tháng 9-2015)
Nguyễn Bắc Sơn (1944- tháng 8-2015)
Tâm Thanh (1940- tháng 4-2014)
Nguyễn Xuân Hoàng (1940- tháng 9-2014)
Nguyễn Hữu Nhật (1942- tháng 12-2014)
Bùi Ngọc Tấn (1934- tháng 12-2014)

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

ANH HÀNG XÓM

Truyện của Phương Lan


Đã cuối thu rồi, sắp sang đông
Nghe gió heo may lùa qua song
Nhìn lá vàng rơi, lòng xao xuyến
Đã mấy thu rồi, anh biết không?
Nhớ sao cái thuở mình chung xóm
Gom kỷ niệm xưa, kể chuyện lòng
Anh là hàng xóm của tôi, cùng trong một con hẻm nhỏ, nhà anh ở đầu xóm, phía trước có giàn bông giấy màu tím, nhà tôi ở giữa xóm, phía đối diện, sau lưng nhà là khu đất trống. Xóm này nằm dựa ven một con sông nhỏ nước xanh trong, in bóng những hàng cây trên bờ, bên kia sông là cồn bắp. Xưa kia, xóm chỉ có lèo tèo vài mươi căn nhà gỗ ọp ẹp, dân thương hồ dựng lên làm nơi ở tạm để rỡ hàng từ lục tỉnh lên Sài Gòn bằng đường sông. Sau một trận hoả hoạn do bất cẩn, đã thiêu rụi toàn thể những căn nhà gỗ, xóm chỉ còn là một bãi đất trống. Sau có người nhà giàu bỏ tiền ra mua, rồi xây cất thành hai dãy phố khang trang để bán hoặc cho mướn. Người mua và người thuê lần lượt dọn đến, chẳng mấy chốc xóm trở nên đông đúc. Dạo đó ở Sài Gòn, nhà và đất đều khan hiếm, nhưng phía sau dẫy nhà gần bờ sông, người ta vẫn chừa một khoảng đất trống khá rộng, có trồng nhiều cây lớn có bóng mát, không ai dám cất nhà trên đó cả, sợ bờ sông lở xụp. Dẻo đất trống đó là thiên đàng thơ ấu của bọn trẻ con chúng tôi, những ngày nghỉ và những buổi chiều tan trường về, thường tụ tập ở đó, bầy đủ trò chơi đùa và tắm sông, hoặc câu cá. Con sông nhỏ hiền hòa, chẳng bao giờ gây tai nạn, mặt sông ánh bạc, chỉ hơi gợn sóng lăn tăn mỗi khi triều dâng. Lòng sông thoai thoải, gần bờ chỉ toàn sỏi cát, không có bùn nên rất sạch. Nước chảy xuôi dòng, lênh đênh trên sông những dề lục bình có hoa màu tím không biết trôi về đâu. Gió đem theo hơi nước từ mặt sông thổi vào bờ, làm mát mẻ thôn xóm những buổi trưa hè. Thỉnh thoảng những con thuyền nhỏ chở đầy mía, chuối, hoặc dưa hấu đi ngang, tiếng mái chèo khua nước, tiếng gà xao xác, tiếng chó xủa râm ran tạo cho nơi đây một vẻ thanh bình. Khu xóm tuổi thơ của tôi đẹp quá, nó làm ấm lòng tôi mỗi khi nghĩ tới, bởi vì tôi đã để lại nơi đây bao nhiêu kỷ niệm êm đềm.

Gia đình anh và gia đình tôi đều nằm trong số những người đầu tiên đến cư ngụ. Dạo mới tới xóm, tôi lên tám, thường chơi chung với lũ trẻ hàng xóm gồm cả trai lẫn gái, trong đó có đứa em út của anh. Thằng Hiển hơn tôi một tuổi, nhưng hiền lành, khờ khạo nên thường bị tôi bắt nạt, bắt chơi chung các trò chơi con gái, chẳng bao giờ nó phản đối. Ngược lại, đôi khi bọn con gái chúng tôi cũng theo nó đi bắn chim hoặc trèo me, trèo ổi. Còn anh, khi đó mười bảy tuổi, đang học thi tú tài. Anh đã qua rồi cái tuổi nghịch ngợm, anh sống như tách biệt với bọn con nít chúng tôi, thế giới của anh chỉ có sách vở và đàn hát. Chẳng biết anh học ở đâu và hồi nào, nhưng anh đàn guitar và đàn phong cầm đều giỏi, anh hát cũng rất hay, giọng anh trầm và ấm áp, nghe quyến rũ lạ thường. Trong trí óc non nớt của tôi, anh là thần tượng, cái gì của anh cũng nhất, anh cao lớn, đẹp trai giống tài tử Marlon Brando trong những phim chiếu bóng, anh hát hay không thua Sĩ Phú, anh lại học giỏi nhất xóm. Có gì lạ đâu? trong một khu phố đa số là công chức nhỏ và những dân tiểu thương, con cái chưa qua bậc trung học, sự việc có một anh con trai sắp sửa thi tú tài là một điểm nổi bật. Nhất là khi anh thi đậu, trở thành sinh viên đại học, anh là niềm hãnh diện của cả xóm, anh là tấm gương để các bậc cha mẹ trông vào mà răn dạy con cái. Nhưng có người không nhìn anh qua lăng kính phóng đại, đó là chị Quỳnh Hương của tôi, chị nói con trai học văn khoa là cù lần, con người của anh cũng cù lần… Mặc chị chê bai, tôi nghĩ ngược lại, tôi thấy anh là một người tài hoa đáng mến, chỉ thiếu con bạch mã, anh rất giống với ông hoàng tử trong mơ của tôi. Tôi thường nhìn anh với cặp mắt ngưỡng mộ, thời gian qua, khi tôi lớn lên, lòng ngưỡng mộ đó vẫn không thay đổi. Còn anh, chắc chẳng bao giờ anh thèm để ý đến con bé con, tóc cột đuôi ngựa, da đen nhẻm vì dang nắng, thỉnh thoảng vẫn tụ tập cùng đám con nít, thập thò trước cửa nhà anh, nghe anh đàn hát. Đôi lần thấy ồn, anh xua tay biểu đi chơi chỗ khác, thế là thằng Hiển, em anh lại kéo cả bọn ra bãi sông, rủ nhau nô đùa. Nơi đây, không biết ai trồng mà có một cây trứng cá, cành lá xum xuê mọc de ra mặt sông nên không ai dám trèo, trừ thằng Hiển, nó leo cây rất giỏi mà bơi lội cũng rất cừ. Mùa hè, cây đơm chi chít những trái màu đỏ và vàng, những trái trứng cá chỉ lớn bằng đầu ngón tay, chín mọng, thơm phức ngó bắt thèm. Hiển trèo lên hái cả vốc, bỏ đầy hai túi, xuống chia cho tụi nhỏ, lúc nào nó cũng lựa cho tôi những trái to nhất, và chia cho tôi phần nhiều nhất. Hiển chiều tôi lắm, tôi rủ chơi trò gì nó cũng chịu. Những lần chơi chung, nó vẫn nhường nhịn và giả vờ thua, cố ý để cho tôi thắng. Nó còn dạy tôi bơi nữa, tôi nhút nhát, lại hay sợ nước, nên dù Hiển có kiên nhẫn dạy mãi, tôi cũng chỉ biết bơi lõm bõm, nhưng nó không bao giờ nổi cáu. Có lần trèo tổ chim bắt được hai con sáo thật đẹp, Hiển chăm chút nuôi lớn và dạy sáo học nói, thằng San thích mê, gạ mua một con với giá năm đồng. Dạo đó năm đồng to lắm, có thể mua được cái xe lửa chạy bằng pin có đường rầy dài bằng chu vi cái bàn lớn. Đó là món đồ chơi xa xỉ mà Hiển hằng mơ ước, nhưng khi tôi ngỏ lời thích sáo, Hiển đổi ý không bán nữa, mà đem cho tôi.

Có lần chơi trò đám cưới, Hiển kết một vòng bông sứ thật đẹp, quàng lên tóc cho tôi giả làm cô dâu, nó nghiêng đầu ngắm nghía một hồi rồi nói:

- Lớn lên tao sẽ cưới mày.

Tôi lắc đầu:

- Hổng chịu đâu!

- Tại sao?

- Lớn lên tao sẽ lấy hoàng tử. Hoàng tử đẹp trai, đâu có sún như mày?

Hiển ngẩn mặt ra một lúc rồi hỏi:

- Nếu mai mốt tao hết sún, mày có chịu không?

- Cũng không!

- Tại sao?

- Tại… tại… không là không, vậy thôi. Tôi gỡ vòng hoa ném xuống đất, không chơi trò này nữa, bữa nay mày kỳ cục, nói toàn những chuyện gì ở đâu á!

Lúc đó tôi chín tuổi, chưa biết mắc cở. Rồi tôi mười hai, còn Hiển thì đã hết sún. Một hôm nó rủ tôi đi tắm sông, tôi không chịu, nó hỏi tại sao, tôi nói:

- Tao lớn rồi, không cởi trần nữa, kỳ lắm.

Hiển nhìn tôi chăm chú và mỉm cười:

- Vân nói đúng, tụi mình lớn rồi. Nghĩ ngợi một lát, nó bỗng đề nghị, Vân nè! từ nay đừng kêu Hiển bằng mày nữa nghe?

- Thế kêu bằng gì?

- Bằng anh, như mấy người lớn đó?

- Còn khuya!

- Vậy kêu bằng tên nghe?

Vừa nói nó vừa nhìn tôi như năn nỉ, tôi thấy cũng chẳng hại gì nên gật đầu:

- Ừ, kêu tên thì tạm được.

Hiển mừng rỡ, chạy ngay về nhà, lát sau đem ra cho tôi một trái ổi xá lỵ to tướng, bảo là để ăn mừng. Cuối mùa hè năm đó, gia đình anh và gia đình tôi tổ chức đi Vũng Tàu chơi chung. Chúng tôi chạy nhảy trên bãi biển, tôi không biết bơi, nhưng cứ liều lĩnh theo mọi người ra xa, nước ngập gần tới vai. Bất chợt một con sóng lớn ập tới, xô tôi té nhào, tôi loạng quạng mãi vẫn không thể đứng lên được, tôi bị uống một ngụm nước khá lớn, ho sặc sụa. Hiển hốt hoảng níu được tôi, nhưng không đủ sức giữ cho tôi đứng vững và đưa tôi lên cao để tránh một con sóng khác, Hiển hét lên ầm ỹ. Anh đang đẩy phao cho chị Quỳnh Hương, thấy thế vội bương bả bơi tới, rồi với đôi tay khoẻ mạnh, anh bế bổng tôi lên, đem vào bờ. Trong cánh tay vững vàng của anh, tôi cảm thấy nhỏ bé và vô cùng yếu đuối, chưa bao giờ anh gần gụi tôi đến thế, tôi có thể ngửi thấy hơi hướm đàn ông toát ra từ bộ ngực nở nang của anh, và đôi mắt anh sâu thăm thẳm… Tôi rùng mình, khẽ nhắm mắt lại, người run lên nhè nhẹ. Anh ghé sát mặt tôi, hỏi giọng lo lắng:

- Em có sao không, Vân?

Tôi lắc đầu, nuớc mắt tự dưng trào ra, tôi oà khóc như một đứa trẻ. Mọi người tưởng là tôi sợ hãi, không ai biết rằng đó là những giọt nước mắt xúc động của cô bé mới lớn, lần đầu tiên cảm thấy những rung động kỳ diệu ở trong tay một người khác phái.

Năm tôi mười ba tuổi, mới bắt đầu biết làm dáng. Lần đầu tiên mặc thử cái áo dài mới, đi ngang nhà anh, tôi cố ý đi chậm lại, tôi biết giờ này anh đang có nhà. Quả vậy, anh đang đứng ở trong cửa sổ nhìn ra. Dạo này anh hay nhìn sang nhà tôi, chẳng biết anh nhìn cái gì, hay tôi chỉ tưởng tượng? Nhưng chiều nào anh cũng đem đàn ra gảy, toàn những bản tình ca, nghe thật là du dương. Hôm nay thấy tôi mặc áo mới đi ngang, anh có vẻ ngạc nhiên, thong thả bước ra cửa, tôi dừng bước, e ấp mỉm cười. Anh ngắm nghía tôi một hồi rồi gật gù:

- Bữa nay trông Vân lạ ghê!

Tôi tưởng được anh khen nên đỏ mặt, sung sướng:

- Chắc tại hôm nay là lần đầu tiên em mặc áo dài. Anh thấy đẹp không?

Trong thâm tâm, tôi mong được nghe một lời tán dương, nhưng thất vọng biết bao khi anh lắc đầu:

- Không! Vân đừng mặc áo dài, trông lùng thà, lùng thùng kỳ lắm.

Nói xong anh thản nhiên bỏ vô nhà, mặc tôi đứng trơ, vừa tủi thân vừa bẽ bàng. Sao cùng một thứ hàng may áo, mà chị Quỳnh Hương mặc coi đẹp quá, còn tôi thì bị chê xấu xí? Chắc vì thân hình tôi chưa phát triển, chưa có những đường cong, nét lượn mỹ miều của thiếu nữ, tôi vẫn còn là một cô bé gầy gò, nửa trẻ con, nửa người lớn. Vậy mà không biết thân, còn khoe làm chi? xấu hổ quá, tôi đứng xớ rớ, mặt nóng lên, nước mắt viền quanh. Hiển nãy giờ vẫn đứng yên quan sát, thấy thế vội nắm lấy tay tôi an ủi:

- Đừng để ý đến lời anh ấy. Mỗi người một mắt, tôi lại thấy khác, tôi thấy Vân mặc áo dài coi chững chạc hẳn lên.

Tôi hất tay Hiển ra, sẵn cơn tức, tôi trút hết cả lên đầu hắn:

- Mấy người ác lắm. Đi hết đi! tôi không cần ai an ủi hết.

Nói xong, tôi cắm đầu chạy một mạch ra bờ sông sau nhà. Đến bên cây trứng cá, tôi dừng lại thở, mặt đỏ gay, không hiểu vì nắng hay vì xấu hổ. Hiển nãy giờ vẫn lẽo đẽo theo sau, lải nhải xin lỗi dùm anh hắn, nhưng tôi không thèm trả lời. Tôi tìm một chỗ có bóng mát, toan ngồi xuống trên đám lá khô dầy nhất, thì Hiển bỗng chợt la lên:

- Đừng, đừng ngồi! chỗ đó có hang chuột.

Tôi nhảy nai, Hiển cười hề hề:

- Chuột cống to lắm, để tôi hun khói cho nó chạy ra cả bầy cho Vân xem nhé?

- Khỏi, khỏi… Tôi sợ hãi kêu lên.

- Đùa thôi mà, đừng sợ! Bây giờ Hiển đi bắt cho Vân mấy con bướm đem về ép nghe?

- Không, ác quá!

- Thế sao mọi lần Vân vẫn thích?

- Bây giờ không thích nữa, thế thôi.

Hiển nhìn tôi, lắc đầu:

- Dạo này Vân lạ quá, Hiển không hiểu nổi.

Thế rồi, nghĩ ngợi làm sao, Hiển bỗng nói:

- Vân ở đây đợi, Hiển bơi qua bên kia sông bẻ bắp ăn.

Nói xong, không đợi tôi đồng ý hay không, Hiển cởi áo, nhào xuống nước, sải một hơi qua bờ bên kia, bẻ một ôm bắp đem về, lui hui nướng ăn tại chỗ. Bắp nếp non nướng toả mùi thơm điếc mũi, tôi không dỗi được lâu, hai đứa ăn quên thôi, mặt mũi cả hai đều nhọ nhem. Nhìn mặt Hiển dính đầy lọ nghẹ trông như một thằng hề, tôi không thể nín được, bật lên cười, quên cơn tức bị chê xấu xí. Hiển thấy tôi hết giận thì sung sướng ra mặt. Vẫn giống như hồi còn bé, Hiển chiều theo tất cả mọi ý muốn của tôi, kể cả những ý muốn tai quái, như có lần cách đây đã mấy năm, tôi bảo Hiển phải để cho chuồn chuồn cắn rốn nó ( ?!?) thì dạy tôi bơi mới có kết quả, vậy mà nó cũng nghe theo. Nhưng sau đó tôi đổi ý không chịu tập bơi nữa, chắc là Hiển tức, nhưng cũng không dám cằn nhằn, nó sợ bị tôi nghỉ chơi. Niềm vui của Hiển là được thấy tôi vui, bây giờ cũng vậy, nó vui sướng hớn hở khi thấy tôi cười. Sau khi ăn uống no nê, Hiển lăng xăng đi múc nước để hai đứa rửa tay, rửa mặt.

Sinh nhật mười bốn tuổi của tôi, Hiển rụt dè đưa cho tôi một hộp nhỏ bọc giấy màu, có cột nơ hẳn hòi, lí nhí nói:

- Tặng Vân nè!

Hắn dúi gói quà vào tay tôi, rồi ù té chạy mất. Tôi mở gói quà, một cái băng đô cài tóc bằng nhung đỏ thật đẹp, kèm theo lá thơ màu xanh với hàng chữ của Hiển “ Tặng sinh nhật Ái Vân, để kỷ niệm ngày mới lớn. ” Tôi mỉm cười, dạo này Hiển hay để ý săn sóc tôi từng ly, từng tí. Từ nhỏ, Hiển vẫn hay cho tôi quà, thường chỉ toàn là đồ ăn, khi thì trái ổi, trái cóc, khi thì gói kẹo hoặc phong bánh in, đây là lần đầu tiên hắn tặng tôi một món đồ trang điểm. Tôi xăm xoi, cài thử lên tóc, thấy đẹp thì cất giữ, lâu lâu mới đem ra diện, những khi ấy, Hiển nhìn tôi với ánh mắt cảm động và… biết ơn. Anh hắn trái lại, chẳng bao giờ thèm quan tâm đến tôi, anh vô tình tới nỗi không hề biết rằng anh đã làm tôi đau lòng, nẫu ruột nẫu gan cả tháng trời về lời phê bình tàn nhẫn của anh dạo nọ. Thế nhưng một hôm anh đã làm tôi ngạc nhiên lẫn sung sướng, khi nghe anh khen:

- Vân học giỏi ghê, còn nhỏ mà sắp thi trung học rồi.

- Em mười bốn, sắp sửa mười lăm rồi chứ bộ? Tôi dẩu môi nhõng nhẽo.

Anh mỉm cười:

- Thiệt à? hèn chi dạo này anh thấy Vân lớn bồng hẳn lên, ra vẻ thiếu nữ lắm rồi. Vân lớn lên rồi cũng sẽ đẹp như chị Quỳnh Huơng cho coi.

Tôi mắc cở ửng hồng đôi má:

- Anh nói thế, chứ em làm sao sánh với chị Quỳnh Hương được?

- Sao lại không? chị em thì giống nhau cũng là sự thường chớ. Xem kìa! khi Vân cười, cái miệng in hệt chị Quỳnh Hương.

Tôi sung sướng, mặc dù biết đó chỉ là những lời tâng bốc, có lẽ tôi chỉ giống chị Quỳnh Hương ở đôi má lúm đồng tiền và cái miệng cười thật tươi, chứ đẹp như chị thì khó hy vọng, bởi vì chị Quỳnh Hương chẳng những đẹp nhất xóm, mà còn đẹp nhất trường nữa. Chị hơn tôi có năm tuổi mà đã biết bao nhiêu người trồng cây si, còn tôi vẫn còn vẻ ngây ngô của một cô bé mới lớn với thân hình thẳng đuột, xẹp lép như lá lúa… Nhưng rồi tôi sẽ thay đổi chứ, khi tôi đến tuổi dậy thì. Chẳng biết anh khen thật hay xã giao, nhưng dù sao những lời ca tụng của anh cũng làm cho tôi mát lòng, mát dạ và cảm động hết sức, tôi nhìn anh với ánh mắt chứa chan cảm tình. Sự thân mật giữa anh và tôi ngày càng tăng thêm, bây giờ thì anh không còn làm lơ với tôi như trước kia, con bé đã bị anh chê xấu xí. Chẳng những anh khen mà còn tìm cách lấy lòng tôi nữa, chẳng hạn biết tôi thích đọc sách, anh vội vàng mua đủ loại sách truyện cho… Hiển, vì anh biết thể nào Hiển cũng tặng lại cho tôi. Vì anh tử tế như vậy, nên mỗi khi chị Quỳnh Hương bĩu môi chê anh điều gì, là tôi lại bênh anh chằm chằm, trước mặt chị, tôi không tiếc lời ca tụng anh. Biết được như vậy, anh có vẻ cám ơn tôi lắm. Một hôm đang lúc chuyện trò thân mật, anh bỗng hỏi:

- Vân này, chị Quỳnh Hương đã có bồ chưa?

- Anh hỏi để làm gì?

Anh lúng túng, nhưng làm ra bộ thản nhiên:

- Ờ, thì hỏi chơi cho biết vậy mà.

- Chị Quỳnh Huơng có nhiều bạn lắm, trai cũng như gái, còn bồ thì em không biết.

- Bồ là bạn thân nhất ấy mà.

- Chị Mai chơi thân với chị em lắm, vẫn thường đến nhà em học bài, hai người cùng làm bài tập chung…

Anh ngắt lời:

- Không, anh nói bạn trai cơ! Em thấy chị Quỳnh Hương có vẻ thích ai nhất?

- Em làm sao biết được?

Thấy không khai thác được gì thêm, anh thôi không hỏi nữa và nói lảng sang chuyện khác. Nhưng từ đó tôi không còn hứng thú để trò chuyện nữa, tôi hoang mang tự hỏi anh điều tra về chị Quỳnh Hương là có ý gì? Một ý nghĩ thoáng qua làm tôi buồn rầu, thì ra mình không phải là đối tượng để anh quan tâm, mà anh chỉ muốn làm thân với tôi để hỏi về chị Quỳnh Hương? Anh chưa hề thích tôi bao giờ cả, mà chỉ để ý đến chị Quỳnh Hương…

Hiển vô tình đã xác nhận điều nghi ngờ của tôi là đúng, khi một hôm hắn thì thầm tiết lộ:

- Ông anh của Hiển mê chị Quỳnh Hương, Vân ạ!

- Sao Hiển biết? Tôi hỏi mà lòng tái tê.

- Biết chứ sao không? người mê gái cái mặt đờ đẫn dễ thấy lắm. Sách vở của anh ấy vẽ chằng chịt toàn tên Quỳnh Hương, anh Vinh còn làm thơ…

- Thôi, thôi đủ rồi. Tôi ngắt lời, đừng nói với tôi chuyện đó nữa, tôi không muốn nghe, Hiển đi về đi!

Nói xong tôi quay ngay vào nhà, bỏ mặc Hiển đứng ngơ ngác. Tôi biết tôi không thể che dấu được nỗi thất vọng sâu xa đang hiện ra trên nét mặt, tôi không muốn ai thấy được tâm trạng của tôi trong lúc này. Lặng lẻ, tôi bỏ vào phòng riêng đóng cửa lại, nghiền ngẫm nỗi đau một mình. Từ hôm đó, tôi cố lánh mặt anh, mỗi lúc phải đi qua đầu ngõ, tôi cúi đầu, cắm cúi bước thật nhanh. Tôi tránh cả Hiển nữa, dạo này hắn hay qua nhà tôi, rủ tôi đi câu cá, thảng hoặc lắm tôi mới nhận lời, thật tình tôi không còn thấy hứng thú gì chơi những trò chơi ngày xưa tôi vẫn thích. Hiển không hiểu những biến chuyển trong nội tâm tôi, hắn thấy tôi buồn thì cũng buồn lây, hắn từ chối không theo các bạn đi chơi thả diều, đá banh, lội đua qua sông… là những trò giải trí hắn vẫn ưa thích. Chắc cũng giống như tôi, Hiển có tâm sự riêng. Bẵng đi gần cả tháng, một hôm anh Vinh đón tôi ở đầu ngõ, lúc tôi đi học về:

- Dạo này lâu quá sao không thấy Vân qua chơi? Lại cãi nhau với thằng Hiển chứ gì? Cái thằng tệ thì thôi, sao lại làm cho Vân giận chứ?

Tôi muốn nói người tôi giận là anh đó, người tôi thương cũng là anh đó, không phải Hiển đâu, nhưng tôi không dám nói, nên cứ cúi mặt làm thinh. Anh hiểu lầm im lặng là xác nhận, nên nói như an ủi:

- Để anh la thằng Hiển cho, bắt nó phải xin lỗi Vân. Thôi, vô nhà anh chơi, mẹ anh mới nấu xong nồi chè khoai môn ngon lắm, lát nữa sẽ biểu thằng Hiển đem qua biếu bên nhà em đó.

Vừa nói, anh vừa vỗ nhẹ vào vai tôi rồi cười. Tôi rùng mình, cảm giác trên bãi biển hôm nào trở lại… Tay anh như có luồng điện và tia nhìn của anh sao thu hút quá. Anh Vinh có cặp mắt sâu thăm thẳm, vô cùng quyến rũ, anh nhìn ai là y như người đó bị chìm trong đáy giếng - hay chỉ mình tôi có cảm giác đó? tôi cũng không rõ nữa - Nhưng bây giờ thì cặp mắt đó đang nhìn tôi thiết tha như mời gọi, thế là như có một ma lực, tôi lẳng lặng theo anh vào nhà. Anh bê ra một chồng sách, đưa cho tôi:

- Anh mua sách này là để Hiển đem qua cho em, nhưng mấy hôm nay thấy nó cứ buồn bã chuyện gì đâu không, anh cũng chưa kịp hỏi. Thì ra là chuyện xích mích giữa hai cô, cậu...

- Không phải đâu anh! em và Hiển đâu có cãi nhau?

- Thế là chuyện gì?

- Em... em cũng không biết. Tôi ấp úng.

- Thôi được, để anh hỏi nó. Hai đứa không cãi nhau là tốt rồi. À dạo này em vẫn đi học đều chứ?

- Em vẫn…

- Tháng mấy em thi nhỉ?

- Tháng sáu.

- Chuẩn bị bài vở xong chưa?

- Sắp.

Câu chuyện nhạt thếch mà cứ tiếp tục, và tôi vẫn chưa chịu ra về. Quanh co một hồi, rồi anh mới chịu nhập đề:

- Anh muốn nhờ Vân giúp anh chuyện này, Vân có bằng lòng không?

- Anh cứ nói đi, nếu dễ thì em sẽ giúp anh.

Vừa nói tôi vừa xúc một muỗng chè ngọt lịm đưa vào miệng. Anh cười:

- Dễ ợt à.

Nói xong, anh đứng dậy đi về phía bàn học, rút từ trong ngăn kéo ra một lá thơ viết sẵn, cho vào phong bì, dán lại cẩn thận rồi mới đưa cho tôi:

- Em giúp anh đưa cái thơ này, trao tận tay cho chị Quỳnh Hương dùm anh nhé?

Cái muỗng trên tay tôi rơi xuống, miếng chè trở nên đắng ngắt trong miệng, nuốt mãi không trôi, nó cứ nằm chận nơi cuống họng, làm tôi ngộp thở, mặt tôi đỏ lên rồi tái xám. Anh hốt hoảng:

- Em làm sao vậy?

Tôi vuốt ngực mãi mới trôi được cục nghẹn, nước mắt cứ chực ứa ra, nhưng tôi cố gắng ngăn lại. Tôi cố gượng một nụ cười như mếu:

- Em mắc nghẹn, nhưng không sao cả.

Anh thở phào:

- Vậy mà làm anh hết hồn. Ăn từ từ thôi.

Anh dễ tin và hiểu sự việc một cách đơn giản, anh không biết rằng anh đang đang xé nát tim tôi. Anh tàn nhẫn quá, tôi muốn đứng dậy bỏ ra về lập tức, nhưng tôi không còn đủ sức, tay chân tôi rũ liệt và đầu gối tôi lỏng lẻo, chắc chắn tôi không thể đứng vững trên đôi chân của mình. Tôi đành ngồi im chịu trận, nghe lòng tan nát, nghe thế giới như đang xụp đổ quanh mình. Anh chẳng bận tâm nhiều về tôi, anh đang mải nghĩ cách chinh phục chị Quỳnh Hương… Với anh, tôi chỉ là một con bé con tham ăn mắc nghẹn, anh ngó lơ cho nó khỏi mắc cở, như thế là lịch sự rồi. Đợi hoài thấy tôi vẫn không nói năng chi cả, anh sốt ruột dục:

- Sao? Vân nhận lời chứ?

Tôi không biết phải trả lời anh thế nào? từ chối ư? tôi không không biết phải viện lý do gì chính đáng để từ chối anh cả, nhưng nếu nhận lời thì có khác gì tôi tự tay phá hỏng mối tình tôi vẫn ấp ủ từ lâu trong lòng? Thấy tôi cứ làm thinh, anh có vẻ giận:

- Anh nhờ có một việc dễ dàng như thế mà sao Vân cũng ngần ngại?

Tôi cố nén tiếng thở dài:

- Em ngần ngại là vì em có lý do riêng của em.

- Lý do gì?

- Em sợ ba má em biết. Tôi cố nại ra một cớ.

- Vân đừng sợ, không ai nói cả, sao biết?

Rồi anh dỗ ngọt:

- Anh không thấy có gì rắc rối hết, việc chi mà phải nghĩ tới nghĩ lui? Vân cố gắng giúp anh lần này đi, xong việc anh sẽ mua vé cho em và Hiển đi coi xi nê, cho hai người làm huề với nhau…

Sự hối lộ trắng trợn của anh làm tôi tự ái, anh coi tôi là loại người nào? anh mua tình cảm của tôi bằng một vé xi nê có vài đồng bạc? Xấu hổ lẫn tức giận làm cho tôi mất bình tĩnh, tôi ngước cặp mắt oán hận nhìn anh, nói như hét:

- Khỏi mua vé, em sẽ đưa thơ cho anh, nhưng em không đi xi nê đâu.

Nói xong, tôi chộp lấy lá thơ, chạy bay ra cửa, mặc anh ngơ ngác trông theo, đúng là anh không hiểu gì cả. Chị Quỳnh Hương quả là có một trái tim sắt đá - chỉ đối với anh thôi - Nhận được thơ anh, chị không ngần ngại vò nhàu, quăng ngay vào thùng rác, rồi quay qua cằn nhằn tôi:

- Ai biểu mày nhận thơ hắn? Từ nay đừng bao giờ làm vậy nữa, nghe chưa?

Tôi bất bình dùm cho anh:

- Ít nhất chị cũng nên coi xem anh ta viết gì chứ?

- Mày thích thì mày coi đi. Chị cười mũi, hừm! thằng cha cù lần đó mà đòi tán tao? đừng có mà nằm mơ.

Nói xong chị bỏ đi chỗ khác. Chờ cho chị đi khỏi, tôi lặng lẽ lượm thơ, vuốt cho phẳng phiu rồi đem vào phòng riêng đọc. Thơ anh viết mùi tận mạng, những lời dịu dàng tình tứ, ngọt ngào còn hơn cả trong tiểu thuyết tình, làm tôi rung động cả con tim. Tôi ấp lá thơ màu tím, thơm ngát mùi nước hoa lên ngực, mơ màng tưởng tượng đó là những lời anh viết cho tôi, và tôi sung sướng. Chắc anh cũng đang sung sướng với sự tưởng tượng của anh, chắc anh tưởng chị Quỳnh Hương cảm động lắm khi đọc những lời tỏ tình của anh, chắc chị đang nóng lòng mong đợi cái ngày hẹn hò anh viết trong thơ. Anh mơ một ngày nào đó anh và chị Quỳnh Hương sẽ sánh vai nhau trên con đường tình… Thôi cứ để cho anh mơ, giấc mơ yêu nào mà chẳng đẹp, tôi không đành phá tan giấc mộng của anh. Nhưng anh không đợi được lâu, chỉ ba hôm sau, anh đã tìm gặp tôi ở cổng trường, dáng anh bơ phờ trông thật là tội nghiệp.

- Mấy hôm nay anh không ăn ngủ gì được.

Tôi đi guốc vào bụng anh, nhưng vờ hỏi:

- Tại sao?

- Anh mong Vân hết sức…

Thái độ nôn nóng của anh khiến tôi lại nổi cơn tức, anh mong gì tôi? anh chỉ sốt ruột muốn biết phản ứng của chị Quỳnh Hương. Tôi chỉ muốn nói huỵch tẹt hết sự thực, để nhìn anh đau khổ cho hả dạ, nhưng rồi tôi lại không nỡ.

Khi anh hỏi:

- Chị Quỳnh Hương có đọc thơ anh không?

Tôi nói dối:

- Có!

Mắt anh sáng lên:

- Thế chị ấy có nói gì không?

- Không, không nghe chị nói chi hết.

Thấy mặt anh xìu đi, tôi lại phải nói dối lần nữa:

- Nhưng chị ấy mỉm cười.

Lập tức mặt anh tươi trở lại:

- Quỳnh Hương nghĩ sao mà lại mỉm cười, em nhỉ?

- Em đâu có biết.

- Sao không hỏi?

- Ai hỏi kỳ vậy? mà có hỏi chị cũng không trả lời đâu, chuyện riêng của chỉ mà.

- Ừ nhỉ, khó hiểu quá…

Nghĩ ngợi một lúc, anh lại đề nghị:

- Vân giúp anh một lần nữa đi!

- Lại đưa thơ nữa à?

- Ừ.

- Đưa gì mà đưa hoài vậy?

Anh gãi tai, cười ngượng nghịu:

- Thì đưa cho tới khi chị trả lời anh.

Tôi ngần ngừ vì sợ nhận thơ sẽ bị chị Quỳnh Hương mắng, nhưng rồi sự tò mò và thích thú được đọc thơ anh đã thắng, tôi gật đầu bằng lòng. Cũng như lần trước, số phận lá thơ thật là hẩm hiu, chị Quỳnh Hương cau mày gắt:

- Chị đã nói rồi, sao mày cứ nhận thơ của người ta làm gì? Biểu anh ta thôi đi, đừng có vớ vẩn nữa.

- Chị ác ghê!

Miệng tôi trách chị, nhưng lòng tôi vui sướng như vừa trút được một gánh nặng, chị Quỳnh Hương không ưng anh thì tôi còn hy vọng, tôi hy vọng sẽ lấp được chỗ trống trong trái tim anh. Thấy chị cầm lá thơ oan xé, tôi hốt hoảng ngăn lại:

- Đừng! chị không đọc thì cho em.

Chị nhìn tôi hơi thoáng chút ngạc nhiên, rồi mỉm cười:

- Đây, cầm đi! Mày có tò mò thì cứ việc đọc, còn tao thì đừng hòng, chẳng tội gì mất thì giờ vô ích.

Nói xong, chị ngồi xuống ghế trước bàn phấn, sửa soạn trang điểm, hôm nay chị có hẹn với anh Khánh. Tôi bỏ vào phòng riêng, đem theo lá thơ.

Đêm hôm đó tôi nằm mơ, một giấc mơ thật đẹp, tôi mơ được cùng anh lạc vào một khu rừng vắng, có suối róc rách, có chim hót, có hoa thơm bướm đẹp, có hoa cỏ xinh tươi, anh cầm tay và nói yêu tôi… Tỉnh giấc, tôi khóc ướt gối, anh Vinh ơi! nếu giấc mơ mà là sự thật, em sẽ hạnh phúc biết bao. Anh cứ đuổi theo một cái bóng, sẽ hoài công thôi, chị Quỳnh Hương không yêu anh đâu, chị đã có người khác. Nhưng còn em, sao không bao giờ anh nghĩ đến em? sao anh không hiểu tình em? Đừng coi em là trẻ con anh nhé? em đã biết yêu rồi, em yêu anh đó. Anh có biết anh đã vô tình dẫm lên con tim của em khi anh nhờ em giúp anh tỏ tình với người khác? Em đã đau khổ thế nào, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, bởi vì em muốn thấy anh sung sướng. Nhưng bây giờ thì em biết chắc anh chỉ hoài công thôi. Đọc thơ anh mà thương anh quá đỗi, anh đặt tình yêu sai chỗ rồi, em không biết anh sẽ buồn đến thế nào khi biết được sự thật? Nếu anh hiểu tình em, nếu những lời ngọt ngào ân tình kia anh dành cho em, em sẽ không bao giờ làm anh buồn lòng đâu.

Bây giờ thì tôi sợ phải chạm mặt với anh Vinh, vì tôi sợ sẽ phải nói ra sự thật. Trong nhiều ngày, anh nôn nao chờ đợi lá thơ hồi âm của chị Quỳnh Hương, mà không biết rằng những lá thơ tình say đắm anh viết cho chị với tất cả con tim của anh đã bị chị quăng bỏ, và hiện đang nằm dưới gối của tôi. Trời ơi! tình yêu sao mà ngang trái? Tim anh chỉ mang hình bóng của chị Quỳnh Hương, còn tim tôi lại mang đầy hình bóng của anh. Nhưng tôi biết tôi chỉ là người đứng bên lề cuộc đời của anh thôi, mười lăm tuổi, tôi vẫn bị anh coi là trẻ con, không bao giờ anh thèm để ý, thì làm sao anh hiểu được tình tôi? Trốn anh được một tuần, một hôm anh lại đến tìm tôi nơi cổng trường.

- Tại sao Vân cứ tìm cách lánh mặt anh?

Tôi buộc lòng phải nói ra sự thật:

- Tại em không muốn làm anh đau lòng, chị Quỳnh Hương bảo anh thôi đừng viết thơ cho chị ấy nữa.

- Tại sao vậy?

Mặt anh tái mét thấy tội nghiệp, nhưng đã trót nói ra rồi, tôi đành phải tiếp tục:

- Tại chị ấy đã có người yêu rồi.

- Thật à? Anh bật ra một tiếng rên nghe xé lòng.

Tôi cũng đứt từng khúc ruột, tôi đau đâu có kém anh khi thấy anh thất tình kẻ khác. Tôi nói mà không dám nhìn vào mặt anh:

- Em nói thật, không tin anh cứ đi tìm chị ấy mà hỏi.

- Không, anh tin chứ, nhưng anh buồn quá.

Anh thẫn thờ một hồi rồi bỏ đi. Nhìn anh lên xe Honda rồ máy phóng đi, tôi lo sợ, không hiểu bằng cách nào anh về đến nhà mà không gặp tai nạn. Từ hôm đó không thấy anh đàn hát gì nữa, anh lánh mặt mọi người, anh tránh luôn cả tôi. Năm sau, chị Quỳnh Hương lên xe hoa về nhà chồng. Trước đám cưới một tuần, anh bỏ nhà đi mất, sau này nghe nói anh tình nguyện đăng lính. Ba năm sau, gia đình tôi rời xóm, dọn nhà đi nơi khác, nhưng Hiển vẫn tới lui thăm viếng. Lúc này cả hai chúng tôi đều đã lên đại học, Hiển học giỏi lắm và trúng tuyển kỳ thi học bổng đi du học ngoại quốc, hắn chọn ngành hàng không. Trước khi chia tay, Hiển rụt rè ngỏ lời:

- Hiển đi bốn năm, Vân có buồn không?

Tôi thờ ơ:

- Việc gì phải buồn?

Hiển cau mày trách:

- Vân vô tình quá, còn Hiển thì nhớ Vân, đi không muốn đành… Đã có lúc Hiển muốn bỏ ý định đi du học đấy.

- Đừng dại! Tôi thành thật, đâu có dễ gì xin được học bổng?

- Vẫn biết thế, nhưng phải xa Vân, tôi… tôi…chịu không nổi.

- Rồi sẽ quen đi mà.

- Khó lắm, mình là bạn của nhau mười mấy năm trời, bỗng chốc phải xa nhau không khổ sao được? Hiển đi mà để hồn lại đây…

- Đừng! không hồn thì chết mất còn gì? hồn bao giờ cũng phải đi với xác chứ?

- Vân cứ đùa, chẳng lẽ Vân không hiểu lòng tôi ư?

- Vân hơi… hiểu hiểu.

- Vậy Vân chờ tôi nhé?

- Hiển sợ Vân lấy chồng à?

- Ừ, sợ!

- Nếu thế Hiển đừng lo, Vân sẽ không lấy chồng đâu.

Hắn cười, nét mặt rạng rỡ:

- Hiển coi đó là một lời hứa hẹn của Vân đó nghe?

- Vân có hứa gì đâu?

- Thì Vân vừa hứa là sẽ không lấy chồng đó thôi?

- Ừ, cái đó thì đã hẳn, Vân đã nói thì sẽ giữ lời hứa.

Hiển sung sướng, hắn nắm lấy tay tôi thật lâu mới buông ra, hắn còn bịn rịn thêm một hồi nữa rồi mới chịu quay bước. Hôm đưa tiễn Hiển ra phi trường, có cả anh. Trông anh phong sương trong bộ áo nhà binh, mặt anh nâu xạm vì nắng gió và đôi mắt rất buồn. Tôi chờ hoài một ánh mắt, nhưng anh không nhìn ai cả, cứ cắm đầu lầm lũi bước. Nhìn dáng anh thiểu não, lòng tôi quặn thắt, tôi biết anh chưa quên chị Quỳnh Hương, anh không bao giờ quên… Tôi bật khóc khi Hiển nói lời chia tay, tôi đã khóc thật sự, tôi khóc cho tôi, tôi khóc cho anh, và khóc cả cho Hiển nữa. Hiểu lầm những giọt nước mắt của tôi, Hiển nói giọng cảm động:

- Vân đừng buồn, thời gian rồi sẽ qua nhanh lắm. Cám ơn những giọt nước mắt của Vân, Hiển sẽ nhớ mãi giây phút này. Mai này Hiển về, hy vọng mọi chuyện sẽ không thay đổi.

Tôi gật đầu:

- Sẽ chẳng có gì thay đổi đâu, Vân lúc nào cũng vậy, bây giờ và mãi mãi.

Tôi vẫn giữ lời hứa, nhưng là hứa với chính tôi, chứ chẳng phải vì Hiển. Những lá thơ chứa đầy thương nhớ của Hiển không làm tôi cảm động, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi cũng viết thơ qua lại, khuyến khích hắn chăm lo học hành.

Bốn năm sau, Hiển về nước, hắn tìm đến thì tôi lánh mặt. Mẹ ngạc nhiên:

- Không phải con vẫn chờ đợi nó hay sao?

- Không phải đâu, mẹ ạ.

- Sao mấy năm nay con từ chối tất cả mọi đám mai mối?

- Tại con không muốn lấy chồng.

- Ở nhà làm mắm à? Bà có vẻ bực mình, nhưng vẫn nhẹ nhàng khuyên, con gái chỉ có một thời thôi, đừng để tuổi xuân qua đi uổng lắm. Mẹ thấy thằng Hiển được quá chớ, nó đẹp trai, có địa vị, có tương lai, lại yêu con hết lòng. Đừng bỏ lỡ cơ hội, mai mốt lại tiếc.

- Con sẽ không tiếc đâu.

- Mày còn muốn gì hơn nữa? nó bây giờ là một chàng phi công hào hoa phong nhã, là thần tượng của các cô gái thời nay, thiếu gì con gái đẹp vây quanh, mà nó lại chọn con.

- Hân hạnh lắm, nhưng con không yêu hắn.

- Mày chê nó ở điểm nào?

- Con đâu dám chê, chỉ tại không thích thôi.

- Thật mẹ không hiểu được mày, cứ kén cá chọn canh mãi, đám nào cũng từ chối. Năm nay cô đã hăm lăm, hăm sáu, trẻ trung gì nữa, không lẽ muốn ở vậy để làm gái già?

- Gái già thì đã sao? Tôi ôm mẹ nũng nịu, tại sao mẹ cứ muốn tống con đi? ở nhà với mẹ không phải sướng hơn sao?

- Thôi đi cô! nhà một bầy con gái, gả được con Quỳnh Hương mẹ đã mừng, bây giờ thì đến lượt mày, con chị đi trước thì con em mới theo sau được chứ?

- Mẹ cứ gả các em trước đi, còn con, xin mẹ để con yên.

Mẹ giận dỗi bỏ đi chỗ khác. Tôi đâu muốn làm mẹ buồn lòng, tôi cũng đâu muốn làm gái già? Chỉ tại duyên số, tại con tim tôi không thể rung động được nữa, tôi không muốn đem về cho chồng một thân xác vô tri.

Hiển chờ tôi thêm hai năm nữa không được thì cưới vợ, vây quanh hắn có biết bao nhiêu cô gái trẻ đẹp, và Hiển đã chọn được một cô đẹp nhất. Đám cưới, Hiển không mời tôi, nhưng tôi cũng lịch sự gởi mừng hắn một món quà đáng giá. Đã lâu không ghé qua xóm cũ, sợ chạm mặt Hiển, bây giờ Hiển đã cưới vợ và dọn nhà ra riêng, một hôm tôi về thăm lại chốn xưa. Tới đầu ngõ, tự dưng tôi thấy lòng bồi hồi.

Dừng chân trước cửa nhà chàng
Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Tìm chàng chẳng thấy chàng đâu
Lá rơi lả tả bên lầu như mưa


( Thơ Nguyễn Bính )


Căn nhà của anh vẫn y nguyên như xưa với hai cánh cửa màu xanh, với giàn bông giấy quanh năm trổ đầy bông tím, nhưng trước cửa có móc một ổ khoá to tướng, chắc chủ nhà đi vắng. Tôi đứng tần ngần rất lâu dưới giàn bông giấy, nơi trước kia tôi vẫn tụ tập cùng bầy con nít đứng nghe anh đàn…

Một bà cụ hàng xóm, không nhận ra người quen, nhưng cũng đon đả chạy ra đón chào:

- Cô vào nhà tôi chơi, đứng ngoài này nắng chết.

Tôi chỉ ổ khóa to tuớng trước cửa:

- Chủ nhà đi xa, phải không bác?

Bà cụ gật đầu:

- Phải, họ về quê ăn Tết, ra giêng mới trở lên. Cô đi thăm ai ở nhà này?

Tôi mỉm cười:

- Bác Năm không nhận ra cháu sao? khi xưa cháu ở xóm này, cháu là con của ông bà Hưng làm ở sở bưu điện đó.

Vừa nói, tôi vừa trỏ ngôi nhà cũ ở giữa xóm, bây giờ đã có chủ mới. Bà Năm nheo mắt nhìn tôi chăm chú, rồi chợt à lên một tiếng:

- Tôi nhớ ra rồi, cô có người chị đẹp lắm, lấy chồng làm bác sĩ ở bảo sanh viện Hùng Vương đó chứ đâu. Cả xóm đi ăn cưới cô ấy mà, còn cô lúc đó còn nhỏ. Chóng thiệt, mới đây mà đã mười mấy năm qua rồi, cô thay đổi nhiều quá, tôi nhận không ra. Bây giờ cô đã có chồng con gì chưa?

- Chưa bác à, cháu cao số nên không ai thèm cưới. Bây giờ thì cháu đã ngoài ba mươi rồi.

- Úi chao! ba mươi thì ba mươi, đã có làm sao? Bà an ủi, thời buổi nay người ta lấy chồng trễ cũng là sự thường. Hay cô còn chờ đợi ai?

Tôi cúi đầu, xấu hổ:

- Có ai thương cháu đâu mà chờ với đợi?

- Dạo đó thấy cô với cậu Hiển thân nhau, tôi cứ tưởng…

- Không phải vậy đâu bác, tụi cháu chỉ coi nhau như bạn.

- Đâu có ai dè, chừng thấy cậu Hiển cưới vợ, mọi người mới vỡ lẽ. Bây giờ cậu Hiển đã có con rồi, thỉnh thoảng hai vợ chồng đem con về xóm này, ở chơi với ông bà nội mấy bữa. Thằng nhỏ mới lẫm đẫm biết đi, cái mặt giống in hệt ba nó, coi dễ thương hết sức…

- Thế còn anh Vinh? Tôi sốt ruột hỏi.

- Nó buồn chuyện chi không biết nên bỏ học, đăng lính, xông pha hòn tên mũi đạn, nghe đâu nó liều lĩnh lắm. Thiệt dại dột quá, người ta chạy tiền chạy bạc để trốn lính, đàng này…

Bà ngưng lại không nói tiếp, tôi cố nén hồi hộp đễ giữ giọng cho tự nhiên:

- Anh Vinh có hay về thăm nhà không? bây giờ ảnh ở đâu hả bác?

- Nó đi luôn rồi, không về nữa đâu. Tội nghiệp quá…

- Bác nói vậy nghĩa là sao? Tôi hỏi mà tim đập tưởng như vỡ lồng ngực.

- Vinh tử trận hồi đầu năm, không tìm thấy xác.

- Trời ơi!

Tôi không thể ngăn được tiếng kêu đau đớn như xé lòng, thế là người tôi thương, thế là niềm hy vọng cuối cùng của tôi đã tan thành mây, thành khói rồi. Nỗi tuyệt vọng khiến tôi không cầm được nước mắt, tôi ngước nhìn lên bầu trời cao, anh đang ở trên ấy, bay xa khỏi tầm tay của tôi, còn gì mà chờ với đợi? Giấc mơ một đời đã tắt, vì anh đã không còn, anh không có cả một nấm mộ cho tôi đặt một vòng hoa. Anh Vinh! anh Vinh ơi… tôi gọi tên anh bằng tiếng nói từ trong tim, bao giờ anh mới đến với tôi? sao chẳng bao giờ anh là của tôi, ngay cả sau khi anh đã chết? Tôi vẫn nhìn lên trời cao, tìm bóng dáng anh, nhưng chẳng thấy, chỉ thấy mênh mông mây trắng… Trời hôm nay nắng say như chói lòa, làm hoa cả mắt, mây như bềnh bồng dưới chân, tôi lảo đảo đứng không muốn vững. Mơ hồ có tiếng bà Năm hốt hoảng:

- Cô làm sao vậy? trúng gió à? khi không sao mặt mày lại tái lợt đi thế kia?

Tôi giật mình ra khỏi cơn mộng du, gượng gạo trả lời:

- Không sao đâu bác, cháu chỉ hơi chóng mặt, chắc là tại trời nắng quá.

- Đúng vậy, mấy hôm nay thời tiết xấu quá, vừa nóng vừa hầm, chính tôi cũng thấy khó chịu. Thôi, cô hãy uống hết ly nước mát này, rồi ngồi nghỉ một lát sẽ khỏi.

- Cám ơn bác.

Tôi cầm ly nước mà tay run run, nước sóng sánh tràn cả ra ngoài. Bà Năm chợt nhìn tôi nghi ngờ:

- Nè! nói thiệt với bác đi, có phải cháu là người mà Vinh vẫn đợi? Hèn chi bao nhiêu năm rồi, nó nhất định không chịu cưới vợ, cho dù ba má nó cứ dục dã hoài. Hai người giận nhau chuyện chi để nó buồn phải đi đăng lính? Bất nhân dữ hôn, có giận cũng giận vừa vừa thôi, giận chi dai dữ khiến cả hai đều khổ? Mà nó cũng tự ái nữa, sao không về xin lỗi cháu?

Bà còn nói nhiều nữa, nhưng tai tôi ù rồi, chỉ nghe câu được câu mất. Tôi cũng không còn hơi sức đâu để cải chính, anh đâu phải vì tôi? trước sau gì anh cũng không yêu tôi, cho đến chết anh vẫn không hiểu được tình yêu thầm kín của tôi đối với anh, bởi vì chưa một lần nào tôi dám ngỏ.

Có những người trời sinh ra chỉ yêu có một lần trong đời thôi, là anh và tôi đó, nhưng cả hai đều không đạt được ước vọng. Hai tâm hồn cô đơn của chúng ta sao không tìm về với nhau nhỉ? Anh và tôi suốt đời chỉ đuổi theo những chiếc bóng, đã là bóng thì làm sao bắt được? nên chúng ta suốt đời hụt hẫng… Bây giờ nói chi thì cũng đã muộn. Anh hàng xóm ơi! anh đã đi xa thật rồi, anh đi không bao giờ về nữa, nhưng anh đi sao lại mang theo trái tim của tôi?

PHƯƠNG LAN
( trích trong tập truyện Lấy chồng xa )

User avatar
macco
Posts: 3543
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image

Nhìn những mùa Thu đi
Bùi Bích Hà
Ông thầy tử vi Lê Thành Quang có câu nói đắc ý mượn ở ca từ bản nhạc cùng tên của Trịnh Công Sơn nhìn những mùa Thu đi khi thầy muốn mô tả những năm tháng ảm đạm... tay trơn buồn ôm nuối tiếc... của một khách hàng nào đó tới nhờ thầy xem thời vận.

Tôi chắc thầy sẽ đổi ý nếu buổi trưa hôm Thứ Bẩy vừa qua, thầy cũng có mặt cùng với tôi trên ghế hành khách của chiếc Honda Civic nhỏ xíu, quẹo từ đường Fairview vào đường số 9, thị xã Santa Ana. Con đường bình thường vắng vẻ quãng nửa ngày, lòng đường trắng xóa yên lặng trải mình giữa hai hàng cây cao không có gì đặc sắc, trưa hôm ấy bất chợt hiện ra trong mắt tôi cả một dòng sông lồng lộng, vàng rực, óng ánh. Những cơn gió từ sáng sớm nhặt hết lá trên cành cao thả xuống kín hai bờ lề và mặt đường mà những vòng bánh lăn hối hả của xe cộ qua lại hẳn đã quạt chúng rạt sang hai bên, để lại một lối mòn ở giữa, đẹp tinh khôi như cánh rừng Thu trong thơ Huy Cận Nai cao lẩn gót trong mù, xuống rừng nẻo thuộc nhìn Thu mới về.

Tôi đã đến Virginia lúc 5 giờ sáng một ngày chớm Thu, được bạn đón về thành phố Annandale, qua những con đường gió gom lá úa vun thành những nấm mộ nâu buồn bã. Mùa Thu Đông Bắc Hoa Kỳ, với tôi hôm ấy, không đẹp bằng những mùa Thu tôi đã có duyên gặp gỡ ở tiểu bang Washington, với không gian những công viên sáng choang như mạ vàng sau cơn mưa; ở New England lộng lẫy đến hoang đường với những tán lá màu sắc rực rỡ, bén như dao cắt ngọt lên những sợi thần kinh cảm xúc; ở Vermont với mây thấp bên ngoài cửa sổ, lá cây chen nhau đổi mầu xanh, đỏ, tía, vàng, nâu, rừng rực lửa dưới bầu trời mùa Thu nắng trong như thủy tinh. Nếu nơi nào ngoài Việt Nam có mùa Thu sầu muộn, khiến anh nghe sầu lên trên ấy thì có lẽ đó là mùa Thu Quebec. Không gian xám, xác lá vàng rơi rụng đầy mặt đất và nhanh chóng nhầu nát dưới mưa. Vắng lặng. Buồn tẻ. Quạnh hiu. Làm nhớ Les Feuilles Mortes của Jacques Prevert... Những chiếc lá chết gom thành đống, nhiều như kỷ niệm và tiếc thương để gió cuốn đi trong đêm tối lạnh căm của lãng quên. Và cuộc đời lặng lẽ cách chia những lứa đôi yêu nhau. Và biển xóa sạch những dấu chân biệt ly của người tình đã rời xa. Có lẽ kỷ niệm khô héo và tiếc thương theo gió bay đi của cuộc tình không trọn vẹn trong thơ Jacques Prevert không làm rung động con tim người nhạc sĩ họ Phạm, sống để ngợi ca tình yêu, nên ông chọn phổ thơ của Guillaume Apollinaire... Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho mùa Thu đã chết rồi. Mùa Thu đã chết, em nhớ cho mùa Thu đã chết, đã chết rồi, em nhớ cho. Em nhớ cho đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa trên cõi đời này. Ôi, ngát hương thời gian mùi thạch thảo, em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em, vẫn chờ em... Phạm Duy da diết hơn, mặn nồng hơn Apollinaire, cho dù anh vẫn biết, cho dù anh xin em đừng quên, chúng ta đã vĩnh viễn mất nhau rồi nhưng tình ơi, anh vẫn chờ em. Hơn thế nữa, Phạm Duy càng tài hoa hơn trong lựa chọn và sử dụng điệp ngữ, cả tiếng Việt cũng tình tự, sâu sắc, thấm đẫm cảm xúc hơn hẳn những “souviens-t'en, Et souviens-toi,” dù van vỉ, dù khẩn thiết cách nào cũng không ray rứt và nung nấu thương đau bằng em nhớ cho, em nhớ cho, em nhớ cho... Của uất nghẹn. Của làn hơi mỏng dần trong tuyệt vọng.

Cụ Nguyễn Du viết: “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ?” Con người đã phóng chiếu tâm tư mình lên ngoại cảnh hay ngoại cảnh đã nhuộm màu tâm tư ấy? Bầu trời xám ngắt, gió heo may hiu hắt trên đầu những hàng cây thưa lá, mưa tí tách nhỏ giọt ngoài hiên, tất cả những gam màu lem luốc và những thanh âm chập chờn, rả rích của mùa Thu dễ gợi niềm nhung nhớ cho những tâm hồn nhậy cảm. Ai không từng trải qua một cuộc tình chia xa? Ai không từng bỏ lại đằng sau những tháng ngày hoa mộng, đôi khi cả quê hương gắn bó không rời? Ai không từng hoài vọng một điều gì thật gần mà vẫn mãi ngoài tầm tay? Đất trời mang mang mùa Thu dễ cho chúng ta niềm cảm khái.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế, không biết mùa Thu là gì ngoài hương hoa bưởi nồng nàn những đêm Tháng Bảy nước nhảy lên bờ. Chập tối đi ngủ, vườn tược, sân nhà còn khô ráo. Nửa đêm, tiếng mưa rơi phơi phới, rào rạt trên những tàu chuối quanh nhà, êm đềm như tiếng võng dịu dàng đưa và sáng ra, thức dậy đã thấy bốn bề nước dâng trắng xóa. Gió bấc từ mạn Bao Vinh thổi rét mướt qua cánh đồng trống và mùa đông tới vội vàng không báo trước với những sáng, chiều học trò đi/về học mình mẩy ướt đầm. Những con đường và phố xá thân quen giờ chỉ còn những con ve sầu lướt thướt trong những cái tơi lá sũng mưa thay cho tóc thề, áo lụa nên thơ.

Tôi chỉ bắt gặp mùa Thu, mùa đẹp nhất trong năm, qua thi ca và âm nhạc. Sau Tháng Tư 1975, mùa Thu Hà Nội trở thành một ám ảnh quyến rũ. Nào Trần Quang Lộc với “Có phải em là mùa Thu Hà Nội, trời sang Thu anh lót lá em nằm. Có phải em là mùa Thu Hà Nội, nghìn năm sau anh níu bóng quay về... ” Nào Trịnh Công Sơn với “Mùa hoa sữa về thơm từng con phố, mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ. Hồ Tây, mặt nước vàng lay, bờ xa mời gọi... ” Thế nên, khi cậu cháu gọi tôi bằng cô, viết thư, ân cần căn dặn “Năm nay cô về tảo mộ ông, cố về vào Tháng Mười cô nhé để thưởng thức mùa Thu Hà Nội,” tôi thấy mình Thu xếp đáp lời mời của cậu.

Chúng tôi bốn người ngồi ở nhà Thủy Tạ trên bờ Hồ Tây. Buổi trưa mùa Thu Hà Nội nóng hầm hập, mồ hôi rịn ra dưới chân tóc và bầu trời trên đầu phẳng lì một màu xám đục. Tôi hơi ngạc nhiên song chưa tiện hỏi thì cậu cháu đã mở lời: “Cô thấy mùa Thu ở đây đẹp không?” Tôi thành thực trả lời: “Cô đã sống bên Mỹ hơn hai chục năm, đi vài nơi và thấy mùa Thu nước Mỹ đẹp kinh hoàng nên cô chờ đợi để có dịp so sánh với quê hương mà chưa thấy gì?” Cậu cháu thất vọng thấy rõ. Cậu nhướng cao đôi lông mày sắc nét như vẽ: “Thế cô không thấy màu trời xám và nắng dịu dàng ư?” Tôi chợt hiểu và nghe lòng nhói đau, biết mình có lỗi với phần đất này của tổ tiên vì đã là khách lạ trước khi cất bước ra đi; có lỗi với tấm chân tình của cậu cháu thể hiện đúng tinh thần Quốc Văn giáo khoa thư gần một thế kỷ trước: không nơi nào khác trên địa cầu đẹp bằng quê hương!

Hôm sau, tôi hỏi để vớt vát: “Cháu ơi, con đường nào thơm mùi hoa sữa?” Cậu trả lời: “Hoa sữa rụng hết rồi cô ạ! Các ông nhạc sĩ viết thế thôi chứ mùi hoa sữa hắc lắm, cô phải đứng cách xa trên đầu gió để nó thoang thoảng thì mới dễ chịu.” Có lẽ nghe tôi hỏi hoa sữa nên hôm sau nữa, cậu mang biếu tôi một ít cốm tươi mua tận làng Vòng, gói trong cái lá sen heo héo kèm với mấy quả chuối tiêu vỏ trứng cuốc. Chao ôi, đấy là vẻ đẹp hiếm hoi, là hương vị thanh tao của mùa Thu quê nhà. Nếu tôi vẫn sống ở Hà Nội, chịu đựng mùa hè nắng cháy da, rát mặt với cái nóng nung người nóng nóng ghê, mồ hôi đọng thành vũng chỗ ngồi và chỗ nằm dưới vầng mặt trời đổ lửa xuống mái nhà và phố phường, chắc tôi phải mừng rỡ đón mùa Thu trở lại, đẹp mê hồn với vòm trời đầy mây xám, nắng nhạt như màu trà pha loãng, tôn vinh thời tiết ấy, không gian ấy và hạnh phúc khôn cùng.

Mấy ngày ngắn ngủi trôi nhanh, đêm cuối rời xa Hà Nội trên chiếc xe taxi ra phi trường qua những con phố hẹp, lúc nhà nhà đang say ngủ trong sự vắng lặng tuyệt đối, tôi bất ngờ bắt gặp một bộ mặt khác của Hà Nội, sung sức, man dại, khi gió mùa đông bắc như đàn ngựa hoang tràn vào thành phố, thổi rạt luồng hơi nóng ban ngày đọng trên những vỉa hè lót gạch mấp mô, những vì tường liêu xiêu, cũ kỹ, những mái ngói rêu phong ẩm mốc, tung nó vào không gian bàng hoàng đổi thay giữa đêm đen.

Sáng mai, người dân Hà Nội sẽ mặc áo ấm lúc thức giấc. Không biết có ai ngoài ông cháu quốc-văn-giáo-khoa-thư của tôi, để mắt nhìn ra thiên nhiên, để lòng nhớ thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (?) Sương Thu lạnh, khói Thu xây thành? Hay mọi người giờ đây, tất bật vì áo cơm, đã quen với mọi đổi thay đến rồi đi, như thời tiết nắng mưa, như năm qua tháng lại, chỉ mong mỗi ngày được chọn một niềm vui có thể quy chiếu thành con số...

Và tôi, sáng nay ra hộp thư, thấy thảm cỏ nhà hàng xóm lún phún màu xanh phủ đầy những đốm lá vàng mơ, những đốm lá nâu con gái, đẹp quá, mượt mà quá, làm nhớ Trần Quang Lộc với Trời sang Thu, anh lót lá em nằm.

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Những bài thơ sinh nhật

Viên Linh

Có một đề tài tự nhiên không ai bảo ai, mà các nhà thơ không nhiều thì ít không làm cả bài thì cũng làm dăm câu về mình,
đó là những bài thơ sinh nhật của các thi sĩ. Câu thơ thảng thốt bật lên 40 năm trước vào dịp thời đại đổi thay, là một câu của Vũ Hoàng Chương:
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ. - nằm trong một bản nhạc của Phạm Duy nhan đề “Quê hương ruồng bỏ? Giống nòi khinh?”

Image
Tranh minh họa nền của họa sĩ Nguyễn Đồng, từ trái, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Lưu Trọng Lư. (Hình: Viên Linh cung cấp)

Vũ Hoàng Chương

Nhổ neo rồi thuyền ơi! Xin mặc sóng,
Xô về đông hay giạt tới phương đoài,
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi.

Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bẩy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền! Theo gió hãy lênh đênh.

Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.
(Phương Xa)

Người đời nhắc đến những câu ấy sau 30 Tháng Tư, 1975, nhân báo Thời Tập đăng lên bản ký âm của Phạm Duy khi nhạc sĩ phổ hai câu của bài thơ, trên thực tế thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã làm bài thơ ấy rất lâu từ trước, đã hỏi câu ấy rất lâu từ trước, đã thấy mình phí phạm cuộc đời rất lâu từ trước, chứ không phải đợi đến biến cố 1975 mới thảng thốt tự hỏi mình câu hỏi đó. Vả chăng, bài thơ đó nói về “lũ chúng ta” chứ không phải nói về một cái tôi, và than thở cả lũ chúng ta đã đầu thai lầm thế kỷ, chứ không phải tâm sự riêng của một người; dù sao, bài thơ ấy đáng kể là bài nổi tiếng nhất về sự ra đời không đúng lúc của một lớp thanh niên “đầu thai” lầm thời đại!

Nhiều thi sĩ khác viết về ngày ra đời của mình, hay viết nhân ngày sinh nhật của mình rất riêng tư, mà lại rất phổ thông vì đã nhân ngày đó nói tới lớp bạn bè của mình, những kẻ cùng trang lứa với mình.

Thâm Tâm

Sinh ta, cha ném bút rồi
Rừng Nho tàn rụng, cho đời sang Xuân
Nuôi ta, mẹ héo từng năm
Vắt bầu sữa cạn tê chân máu gầy
Dạy ta, ba bẩy ông thầy
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi [...]

Bọn ta một lớp lìa nhà
Cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng.

... Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới, khói tàu mù u
Bốn phương đây bạn đó thù
Hiệu còi xoáy lộng bản đồ năm châu.
- A, cơn thảo muội bắt đầu,
Tuổi xanh theo gió ngậm câu dặm dài...
(Tráng Ca)

“Rừng Nho tàn rụng” là chuyện khởi sự năm 1915, là khoa thi Hương cuối cùng cho nền Hán học nước ta, “cha ném bút rồi” là dù có đậu đạt gì đi nữa thì chữ Hán đã bị dẹp, cái học trước đó không còn dùng được nữa. Mỗi khi đọc bài thơ này của Thâm Tâm tôi lại nhớ đến ông nội của mình, cụ Tú Nguyễn Hữu Khắc làng Đồng Văn, thi đậu năm 1915, nghe nói cụ cuốn cái bằng vào trong cái chiếu manh, bị gậy rời Trường Thi Nam Định về quê nhà, chẳng bao giờ còn ngó đến mảnh bằng ấy. Cùng với cụ Cử Ái Niên bạn đồng khóa, hai cụ gặp nhau trà thuốc thơ phú, tôi mồ côi cha sống với ông nội từ năm 6 tuổi, không biết học được những gì từ hai cụ ngoài cái tính khắc nghiệt với những giọng cười thoang thoảng bên tai.

Có một đoạn thơ sinh nhật nữa khá buồn cười, một đoạn trong bài Giang Hồ của Lưu Trọng Lư. Từ bỏ giang hồ tứ chiếng bè bạn thơ văn, thi sĩ trở về với gia đình, nguyện sống tròn bổn phận nhưng rồi một hôm, lòng lữ thứ bị khơi dạy để uống một chén rượu đắng.

Lưu Trọng Lư

Đêm ấy rượu nàng ta không uống,
Từ sau thề không uống rượu ai.
Đòi phen ngồi ngóng chân trời,
Chẳng bao giờ nghĩ đến đời phiêu lưu.
Ngoan ngoãn như con cừu non dại,
Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon.
Sau lưng nghe tiếng cười dòn,
Vội vàng ngoảnh lại... thằng con vẫn cười.

Nó đưa ta một chai rượu bé,
Bảo rằng: “Đây, rượu mẹ dâng cha.”
Giật mình ta mới nhớ ra:
Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng hóa ra lỗi hẹn,
Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng!
Than ôi! Trời giá đêm Đông,
Máu du tử thực bên lòng hết sôi?
(Giang Hồ)

Sau 1954, bài thơ sinh nhật hay nhất tôi được đọc là một bài lục bát trong loạt lục bát hiện đại Việt Nam nửa thế kỷ nay vẫn còn đó. Bài này đăng lần đầu trên tạp chí Sáng Tạo, tôi đọc trong một sáp báo trên đường Chi Lăng Phú Nhuận, trong áo tơi và dưới cơn mưa, sau in lại trong “Cung Trầm Tưởng, một hành trình thơ (1948-2008), có sửa đi hai chữ, chữ “mai” ở câu 4 thay cho chữ mưa lúc đầu và chữ “đường” ở câu 12 thay cho chữ buồn lúc đầu.

Cung Trầm Tưởng


Mưa rơi. Đêm lạnh. Sài Gòn
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi?
Mưa hay trời cũng thế thôi
Đời nay biển lạnh, mai bồi đất hoang.
Hồn tu kín xứ đa mang
Chóng hao tâm thể, sớm vàng lượng Xuân.
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa.
Đêm nay trời khóc trời mưa
Gió lùa ầm đục, trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê?
Cổ cao áo kín đi về đường tôi.
(Đêm Sinh Nhật)

Bài sinh nhật đầu tiên dưới đây in trong thi phẩm Hóa Thân do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 1964, khi tác giả 26 tuổi:

Viên Linh

Sớm nay trả lại ưu phiền
Đời ta đã nhẹ trăm miền hợp tan
Xuân hồng chỉ đỏ ngồi đan
Lưới thưa giăng một trần gian đứng chờ
Đừng khô sợi chỉ đừng khô
Trăm năm sống vội ngựa thồ xe bon
Ngón này chỉ nọ đan luôn
Lưới ơi mau rộng thân buồn sắp rơi.
Sớm nay trả lại ơn đời
Thâu canh bụi phủ thân người lãng du
Giọt mòn gieo mái thiên thu
Chân mưa dạ héo hon bù lúc vui
Sớm nay rộng đất xa trời
Trăm tay tượng đá nghe dời chỗ xưa
Lưới ơi chỉ hỡi đừng thưa
Bên kia dương thế hồn chưa chịu về.
(Đầu Thai)

Người xưa làm thơ về mình thường gọi là thơ tự thuật, có gắn liền với thời thế. Một trong những bài tiêu biểu là từ thế kỷ XV còn để lại những vọng âm cho tới đời nay, đó là một bài cảm hoài mà kỳ tới mục này sẽ bàn đến: “Thế sự du du nại lão hà, Vô cùng thiên địa nhập hàm ca...” “- Sự đời mài miệt biết sao đây, thôi thì ca hát với men say...”

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image


Sài Gòn giải phóng tôi


Nguyễn Quang Lập
30-4-2016

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các nhà du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Minh tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính.

Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác.
Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi.
Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à?
Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

Nguyễn Quang Lập

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Nhớ Phạm Đình Chương

Image
Hoài Trung, Thái Thanh, Hoài Bắc Phạm Đình Chương
Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương ra đời tại Hà Nội vào năm 1929, trong một gia đình nghệ sĩ, học Trường Bư Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc như Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay những sầu khúc nhạc phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...

Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc Phúc, hay Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi, được viết ngay sau khi có tin buồn.

Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.

Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi"(1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).

Ngày ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3), "Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đình Viêm, một cây "tenor". Chương còn có một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.

Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: "Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu". Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.

Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố phải "phòng thủ thụ động", các trường học phải đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. "Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.

Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.

Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

(Quang Dũng)

Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...

Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách"Quán Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh ngồi đan.

Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình bây giờ Tây nó đánh đến đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài"con vỏi con voi" và "con mèo trèo cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát "gì mà có con cò bay lả bay la".

À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng" (7).

Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng như thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đã "áo bào thay chiếu ..." (8) còn đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.

Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.

Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi, thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" mà đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua "giấy" báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa "đã". Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí(Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.

Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.

Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam trình diễn.

Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).

Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.

Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.

Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.

Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:

Quê hương tôi nghèo lắm ai ơiMùa đông thiếu áo (9) ...

Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long ...

Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...

Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.

Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.

Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự "Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của tác giả.

Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng". Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.

Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu". Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít khi lắm). Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên "Quang Minh Đỉnh".

Trong những năm "Đêm Màu Hồng" tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc gửi vào.

Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo "Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu".

Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.

Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.

Phan Lạc Phúc

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Post by mexanh »

Ngày Đó Cha Tôi

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Cha tôi là con trai út trong gia đình sáu người con của Ông Bà Nội. Có lẽ theo thói quen mà Bà Nội thường hay gọi cha tôi là thằng Nhỏ mặc dù ông đã có vợ, con.

Bà Nội kể :

Hồi bé, thằng Nhỏ được ông Nội dạy nó học chữ Nho. Học cả năm trời mà viết và đọc không thuộc được hết cuốn Tam Tự Kinh. Có khó gì đâu, Nội bây giờ đã già rồi mà vẫn còn nhớ : Thiên là trời, địa là đất, tử mất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia nhà, quốc nước , …Vậy mà nó thà chịu bầm mông vì cái roi mây của ông Nội còn hơn ngồi tù túng trong phòng học suốt ngày ê a chán ngấy mấy cái chữ xa lạ . Lại còn phải viết tới viết lui từng ”bộ” một của chữ Nho trong ô giấy gạch sẵn.

Thấy thằng nhỏ bị đòn mà bà nội xót ruột. Bà năn nỉ ỉ ôi ông Nội nhiều lần nhưng cái tính quyết đoán của ông, bà cũng đành chịu.

May mà gặp cơ hội chính phủ Trung kỳ ra quyết định bải bỏ nền Nho Học mở chương trình “Học Chính Tổng Quy”(Giáo Dục Pháp Việt) nên ông Nội đành phải cho nó theo học chữ Quốc Ngữ .

Có lẽ chữ Quốc ngữ hợp với Cha con nên chưa đầy một năm học lớp Đồng Ấu là nó đọc được báo, đọc được sách. Thấy vậy, ông Nội nhất quyết cho nó theo học càng cao càng tốt. Thằng Nhỏ lấy được bằng Yếu Lược, rồi theo đà đó, mấy năm sau lấy thêm bằng Primaire.

Thằng Nhỏ học giỏi mà ham chơi. Trò chơi nào nó cũng vượt trội hơn bạn bè. Hồi nó mới chín mười tuổi mà đã vẽ được con gà con vịt, vẽ được cả hình người . Nó vẽ hình của Nội đang ngồi quạt trên cái sạp gụ. Cái môn này chẳng ai dạy nó mà tự năng khiếu trời sinh.

Đến những ngày sắp Tết, nó xin tiền Nội mua giấy, cọ, bột màu, rồi tự vẽ hình bộ tứ linh “ Long Lân Quy Phụng”, hay bộ cây kiểng “Mai Tùng Cúc Trúc” để chưng trên gian thờ trong ba ngày Tết. Thằng Nhỏ coi vậy mà khéo tay lắm đó. Bà con ai tới chúc Tết cũng khen tranh vẽ đẹp và có thần. Thầy Phán xem tranh rồi khuyên ông Nội nên cho cháu theo học môn Vẽ Truyền Thần

Cháu đâu biết, bà Nội ngưng nói, với tay lấy ống nhổ, nhả miếng bã trầu rồi kể tiếp.

Ông Nội cho cha cháu vào Quy Nhơn theo học trường Collège de Quinhon, chỉ còn một năm nữa là thi lấy bằng Thành Chung. Không biết ai đưa đường dẫn lối, một hôm nó trốn trường bỏ đi biệt tích. Nữa tháng sau gia đình nhận được thông tri của trường đuổi học trò Nguyễn, lý do là vắng mặt lâu ngày mà không xin phép. Ông Nội giận lắm đòi từ cái thằng con ngỗ nghịch, ương ngạnh, hoang đàng. Phần bà Nội thì lo lắng, nhớ thương thằng con trai út nên cho người âm thầm đi tìm, một năm, rồi hai năm.

Đi dò hỏi khắp nơi, may mắn có người bà con trong họ về ăn chạp mả nói có gặp nó ở huyện Trà Bồng. Cái xứ nằm tận núi cao có quế, có trầm hương và nhiều cây danh mộc sống lâu hàng trăm năm tuổi.

Ngày đó, thằng Nhỏ theo làm đệ tử một Nghệ nhân chuyên nghề điêu khắc và chạm trỗ trên gỗ. Ông thầy đứng đầu toán thợ chạm trỗ đang xây dựng ngôi nhà thờ họ danh tiếng nhất ở đây. Ngôi nhà năm gian dựng toàn gỗ quý. Cột, kèo, xuyên , trính đều được chạm trỗ. Ngoài ra còn khắc các bức liễng, hoành phi bằng gỗ mun những câu đối chữ nho. Hai bên cổng vào nhà là tượng hai con sư tử to được chạm khắc cũng bằng loại gỗ mun , trông rất oai nghiêm.

Nội đã mất cả tháng trời khóc lóc năn nĩ ông Nội tha thứ cho Cha cháu mà vẫn không lay động được cái tính quyết đoán của ông . Bà vừa giận vừa thương thằng con đến mất ăn,mất ngủ. Ông Nội thấy bà ngày càng ốm o, gầy mòn, cuối cùng, ông Nội phải chấp thuận bỏ qua, nhưng với điều kiện là bắt thằng Nhỏ phải về nhà cưới vợ.

Ngày thằng Nhỏ quay về nhà , nó mang theo một món quà để chuộc lỗi là một bức hoành phi bằng gỗ mun khắc ba chữ đại tự NGUYỄN TỰ ĐƯỜNG sơn màu vàng nhụ.Bức hoành phi đó do tay cha cháu chạm trỗ. Mỗi nét chính chữ Hán đều tượng hình những con vật và hoa. Bức hoành phi treo trước gian thờ trông rất hoành tráng mà trang nghiêm khiến cho bà con đến thăm đều trằm trồ khen ngợi. Ngày đó, ông Nội mới thấy cái tài năng đặc biệt của con trai mình.

Mẹ cháu là người đã được ông bà Nội chọn làm dâu từ trước, xứng đôi vừa lứa , đẹp người, đẹp nết mà hai gia đình sui gia cũng được môn đăng hộ đối.

Nội cho thằng Nhỏ biết vợ nó và sẽ làm đám hỏi là cô con gái đầu của ông bà Cả Quới xóm dưới. Mẹ cháu có năm người em gái và hai người anh. Người anh cả đi lính Tây sang Pháp rồi biệt tích chẳng thư từ về. Người anh thứ hai vào Nam buôn bán, có gia đình lập nghiệp trên đất Chợ lớn.

Khi Nội cho cha cháu biết ngày giờ tổ chức lễ hỏi vợ, nó chỉ biết vâng lời chứ đâu dám cãi lại. Trong ngày lễ hỏi, cha cháu mới được thấy mặt mẹ cháu. Nội hối thúc lắm nó mới thăm nhà vợ được đôi lần rồi Cha cháu trở lại Trà Bồng tiếp tục công việc.

Năm sau, ông Nội chọn được ngày lành tháng tốt làm đám cưới, Nội cho người lên Trà Bồng gọi Cha con về . Đám cưới xong, mười ngày sau là nó lại ra đi, để vợ nó ở nhà sống với bà Nội. Ngày đó, ông Nội giận thằng Nhỏ lắm, mê say nghề nghiệp hơn cả trách nhiệm lo cho gia đình .

Ngày ông Nội quy Tiên, cha cháu mới quyết định bỏ hẳn nghề nghiệp ở lại nhà để chăm nôm ruộng vườn.

* * *

Năm tôi lên mười hai tuổi, bà Nội mất .

Vào mùa hè năm ấy, Cha đưa tôi đến thăm một gia đình xa lạ mà cha tôi bảo chỉ cho một mình con biết. Cha đèo tôi phía sau chiếc xe đạp. Đường đi quanh co trên sườn núi khá xa mà cha tôi bảo đó là đèo Vĩnh Tuy .

Đến trước một căn nhà nằm đơn độc, cheo leo trong một khu vườn trồng thơm khóm trải dài tới chân đồi, chen lẫn là những cây mít đang mùa ra trái.

Một người phụ nữ từ trong nhà đon đả bước ra. Dáng bà dong dõng cao, màu da trắng xanh, sóng mũi dọc dừa, mái tóc búi cao trông rất qúy phái. Đoán chừng cỡ tuổi Mẹ tôi, nhưng trông bà tiều tuỵ hơn và đặc biệt bà có cặp mắt u buồn.

Bà bước ra sân đưa tay nhận chiếc túi xách đựng đầy thực phẩm từ tay cha tôi. Câu nói đầu tiên của bà là trách cha tôi không cho thằng con đội mũ phải chịu phơi nắng giữa buổi trưa Hè.

Bà mở rộng hai cánh cửa mời cha con tôi vào nhà. Đập vào mắt tôi trước tiên là một bức tượng nhỏ bán thân bằng gỗ màu hổ phách đặt trên kệ cao trên vách. Tượng khắc một người con gái có mái tóc dài vắt lên vai chảy dài qua khỏi lồng ngực. Khuôn mặt bức tượng rất thanh tú. Tôi nghĩ đó là hình bà chủ nhà thuở còn trẻ. Dù tôi chưa có trình độ để nhận xét về nghệ thuật điêu khắc, nhưng tâm tư đứa trẻ mười hai tuổi đã cảm nhận được nét tài hoa của đôi bàn tay người thợ điêu khắc.

Bà chủ nhà bưng cho Cha tôi một bát nước chè lá xanh đậm đặc, cho tôi một ly nước trong. Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao bà này lại biết được thói quen của cha tôi chỉ thích uống nước chè tươi .

Những ngày cha tôi có mặt ở nhà, khi mặt trời chưa ló dạng là mẹ tôi đã ra vườn hái những lá chè tươi còn đọng sương đêm, rồi ủ những lá chè được vò nát với nước sôi trong chiếc bình lớn để cha tôi dùng cả ngày. Mẹ bỏ bông lài tươi để ướp cho thơm, nhưng cha tôi bảo:

– Hương lài chỉ dành ướp cho loại trà khô. Còn lá chè tươi phải dùng nguyên chất mới hưởng được hương vị chát ngọt và thơm nồng của lá chè.

Buổi sáng, uống bát nước chè tươi đậm đặc, đến trưa cha tôi mới dùng bữa.

Trong khi chờ đợi bà chủ nhà sửa soạn bữa ăn, cha dẫn tôi dạo quanh vườn thơm khóm và xem những cây mít được mùa đầy quả trĩu nặng cành. Bất chợt, cha nắm tay tôi bảo: “ Con nên gọi bà chủ nhà bằng Dì Út vì bà ấy nhỏ tuổi hơn Mẹ con”.

Đến bữa cơm trưa, cũng có đủ thức ăn mà cha tôi thường dùng đã được dọn ra. Nào là rau muống luộc chấm với nước mắm chanh tỏi ớt, một tô canh bí đỏ nấu với đậu phụng và đĩa thịt gà kho sả ớt

Trong bửa ăn, cha tôi hỏi Dì Út về việc thu hoạch vườn thơm mùa này ra sao, con bé Đơn Thanh đi thăm bà ngoại đã mấy ngày rồi.

Đến đây, tôi mới biết thêm được điều nữa là bà chủ nhà còn có một người con gái tên Đơn Thanh sống chung và quê ngoại của bà ở khá xa vùng này.

Buổi chiều, khi cha con tôi sắp lên đường trở về nhà, chợt một người con gái từ ngoài ngõ đi vào. Cô mặc áo trắng, quần bà ba đen, rất chân quê mà sao dáng người cô trông rất thanh tú, khuôn mặt rạng rỡ toát lên nỗi hân hoan trong lòng, cô đến ôm vai cha tôi vồn vã hỏi :

– Cậu về hồi nào, rồi nhìn tôi cười hỏi tiếp , em Tấn đó hả ? Lần đầu tiên chị mới gặp em.

– Tôi ngỡ ngàng. Một gia đình xa lạ đối với tôi , mới gặp lần đầu mà sao họ đối xử với mình như người quen thân trong gia đình. Cô con gái lại gọi cha tôi là Cậu và còn biết cả tên tôi.

Trên đường về , tôi hỏi Cha rằng gia đình đó liên hệ với gia đình mình thế nào mà họ biết cả về sở thích của Cha, cô con gái đó lại mạnh dạng xưng chị với con?

Cha tôi cười bảo :

– Thì nó lớn tuổi đáng chị của con mà. Cha sẽ cho con biết ngọn nguồn những thắc mắc của con. Nhưng bây giờ, cha chỉ có một yêu cầu duy nhất là con giữ yên lặng không nói với ai về chuyến viếng thăm này. Một ngày nào đó cha con mình sẽ cảm thông nhau.

* * *

Thời gian sau này, cha mẹ cho tôi vào Sài Gòn học nên quên bẵng đi chuyện thắc mắc năm xưa. Mỗi mùa nghỉ Hè, tôi thường đi xe lửa về thăm gia đình. Có lần tôi sực nhớ đến chuyện cũ dự định hỏi cha nhưng lại gặp bạn bè đến thăm, vui chơi nên quên bẵng đi.

Vào mùa Hè năm cuối cùng Trung Học Đệ Nhị Cấp, khi tôi thi xong bằng tú Tài 2, trong thời gian chờ đợi kết quả, tôi về thăm nhà .

Được hai ngày, cha tôi hỏi:

– Con còn muốn biết Dì Út là ai không?

A, cha lại nhắc tôi chuyện thắc mắc cũ, rất vui mừng, tôi nắm tay cha thúc dục:

– Kể cho con biết ngay bây giờ đi .

Cha tôi đưa tôi ra ngoài vườn. Ông nằm trên chiếc võng, hai đầu đươc buộc vào hai gốc xoài. Tôi ngồi trên chiếc ghế đá kề bên võng. Người bắt đầu tâm sự :

– Giờ con đã trưởng thành, cha muốn cho con biết cái điều cha đã giữ kín mấy chục năm nay để sau này con còn biết cách đối xử với người ta.

– Ngày cha bỏ học trường Collège de Quinhon theo ông thầy làm nghề điêu khắc đến tận huyện Trà Bồng nhập với đoàn thợ xây dựng nhà cửa. Ngày đó, cha mê vẽ tranh và điêu khắc, nhưng tiếc rằng ông Nội không chiều theo ước nguyện của cha . Đến lúc gặp cơ hội là cha bỏ hết tất cả chạy theo sở thích của mình.

Vị Tộc trưởng dòng họ Trương có thế lực nhất đất Trà Bồng đã thuê bao toán thợ làm nhà gỗ nổi tiếng nhất tỉnh Bình Định đến đó xây dựng một ngôi nhà gỗ năm gian thật hoành tráng.

Cha cùng với ông thầy chuyên làm công việc chạm trổ các hình tượng linh vật như con rồng, con rùa, con dơi… và hoa văn trên những đầu và chân các cây cột, trên cây trính, cây kèo… bằng toàn gỗ danh mộc mất ba năm mới hoàn thành. Cha hãnh diện nhất trong cuộc đời cha là đã điêu khắc được hai con sư tử bằng gỗ mun đen tuyền rất sống động đặt ngoài cổng nhà thờ họ Trương mà mọi người đều thán phục.

Tôi sực nhớ đến bức tượng gỗ người thiếu nữ trong căn nhà của Dì Út năm xưa bèn hỏi cha:

– Thế thì cái tượng gỗ đặt trên kệ nhà dì Út có phải cha là tác giả?

Cha tôi không trả lời câu hỏi của tôi , ông kể tiếp :

Người con gái Út của ông chủ nhà không ngờ lại đem lòng thương cha và cha cũng thương dì ấy. Thuở đó, cha đã hai mươi tuổi còn dì Út lên mười bảy. Tình yêu của cha và dì Út là niềm cảm hứng cho cha tạo nên bức tượng đó.

Được hai năm, ông bà Nội tìm được chỗ làm của cha. Rất vui là cha được ông Nội tha thứ cái tội bỏ học nửa chừng nhưng lại bắt cha về nhà cưới vợ.

Ngày đó, cha rất đau buồn nên đã tỏ thật với dì Út và định bỏ đi, nhưng dì Út đã khuyên cha ở lại tiếp tục làm xong ngôi nhà cho cha nàng, sau đó dì sẽ bỏ nhà cùng cha đến nơi khác chung sống. Dì sẵn lòng chấp nhận làm vợ hai nếu Mẹ con đồng ý. Mặc dù dì Út mong được như thế, nhưng cha không dám cho ông bà Nội biết và sợ mẹ con buồn phiền.

Khu vườn mà cha dẫn con tới thăm là do dì Út tạo dựng, chuẩn bị cho cuộc sống riêng tư sau này. Dì đã đưa cha tới đó giữa lúc những người thợ đang xây dựng căn nhà. Thực lòng cha không muốn dì phải sống cảnh đơn độc, khổ lụy vì Cha. Là con gái Út của gia đình giàu có, lại được nuông chiều, cha nghĩ, làm sao dì chịu nổi cảnh cơ cực và cô đơn.

Cha tôi ngưng kể, lấy hộp thuốc rê trong túi vấn thêm một điếu .

Tôi liền hỏi :

– Sao Cha không thú thực với ông bà Nội về mối tình của Cha và dì Út khi Nội bắt Cha cưới vợ?

– Cha biết tính ông Nội mà, cương nghị và nền nếp gia phong khó lòng lay chuyển. Nội không bao giờ chấp nhận hành động của con cái vượt ra ngoài khuôn phép, lễ giáo.

Chợt Cha im lặng. Ông hít những hơi thuốc dài, phà khói lên các tàn cây cao. Ông nhìn theo khói thuốc dường như để cho tâm tư ông lắng dịu. Một hồi lâu Cha mới kể tiếp:

– Sau buổi lễ khánh thành ngôi nhà thờ, Ông chủ nhà mở tiệc khỏan đãi toàn bộ toán thợ xây dựng trước khi từ biệt trở về Bình Định. Cuộc tiệc đang vui vầy bỗng tin báo dì Út bị trôi sông. Mọi người đổ xô xuống bến sông, chỉ thấy đống áo quần đặt trên bờ đá, trước mặt là dòng sông nước chảy xiết. Người thân trong gia đình khóc than thảm thiết. Mọi người tự động chia nhau đi tìm dọc hai bờ sông. Ông Trương cho gia nhân thả thuyền dò tìm theo dòng nước. Lúc bấy giờ, lòng cha đau đớn tận cùng cứ ngỡ dì Út đã trầm mình vì đau khổ và thất vọng trước cảnh chia ly sắp xảy ra.

Suốt mấy ngày hôm sau, cha không về nhà ông bà Nội mà thẳng đường đi đến khu vườn mà dì Út trước kia đã đưa cha đến đó .

Ôi, cảm ơn Trời Phật. Dì từ trong nhà ra đón cha. Dì và cha đã ôm nhau khóc. Cha khóc vì nỗi vui mừng dì còn sống. Còn nước mắt của dì Út là tủi thân vì từ nay phải cách biệt cha mẹ, bắt đầu cuộc sống trốn tránh và tự lập chỉ vì yêu Cha và quyết được sống gần cha .

Cha ở lại đó một tháng lo giúp dì sửa sang vườn tược và gần gũi dì cho đỡ phần cô đơn.

Năm 1952, chính quyền Việt Minh mở cuộc đấu tố cha mẹ dì Út. Họ ghép tội ông Trương là cường hào ác bá, bóc lột nông dân, hà hiếp kẻ ăn người ở. Họ ra lệnh cho đám người cầm gậy gộc xông vào nhà, chiếm đoạt, cướp bóc hết của cải mang đi, ruộng nương đều bị tịch thu. Hai con sư tử đứng chầu trước cổng, chúng nó dùng búa rìu phá hỏng để thỏa lòng mối thù giai cấp của Cách mạng .

Ông Trương, cha dì Út vì quá đau buồn và uất hận nên đã trầm mình dưới dòng sông, nơi mà ông đinh ninh người con gái út của ông đã bị chết chìm từ mấy năm trước.

Giờ đây, ông bà Nội không còn nữa. mẹ con tuổi cũng khá cao rồi. Vì cha rất quý trọng mẹ đã giữ vẹn đạo làm dâu, làm vợ nên cha dấu kín việc này. Mai sau cha có đi theo ông bà ông vãi thì con nói cho các chị con biết về chị Đơn Thanh để nhìn nhận chị em cùng máu mủ.

* * *

Nhận được điện tín của bạn cùng lớp báo tin tôi có tên trong bảng niêm yết kết qủa kỳ thi Tú tài 2 , tôi vội vã lên đường vào Sài gòn để ôn bài chuẩn bị thi vào các trường chuyên nghiệp .

Giai đoạn này, đường xe lửa, đường quốc lộ 1 bị VC thường xuyên phá hoại hoặc đắp mô nên suốt mấy năm trời tôi không về thăm gia đình được.

Bỗng một hôm tôi nhận được điện tín từ ngoài quê gởi báo tin Cha tôi vừa mất tại bệnh viện. Tôi vội vàng làm đơn xin phép nghỉ dạy hai tuần , sắp xếp công việc, báo cho Hiệu trưởng trường tôi đang dạy biết ngày khởi hành.

Tôi về đến nhà, công việc mai táng đã chuẩn bị đâu vào đó, chỉ chờ tôi về để được nhìn thấy mặt Cha lần cuối .

Công việc chôn cất cha tôi đã hoàn tất chỉ chờ đến ngày giờ tốt là xây mộ.

Tôi được em gái tôi kể lại về cái chết của cha như sau :

Năm này cha tôi vừa tròn bảy mươi tuổi. Một hôm, ông bị bí tiểu và cơn đau lưng dữ dội. Em gái tôi vội đưa ông đến bệnh viện. Sau khi chụp phim, bác sĩ phát hiện cha tôi bị sạn thận và quyết định giải phẩu thận để lấy sạn ra.

Trước khi thực hiện ca mổ, cha tôi có một tuần nằm ở bệnh viện để bồi dưỡng và chờ đợi người cho máu . Giai đoạn này, cuộc chiến chống Cộng sản Bắc Việt trên chiến trường diễn ra rất khốc liệt. Trực thăng tải thương tấp nập bay về bệnh viện Dã chiến ngày đêm. Ngân hàng máu từ các bệnh viện đều thiếu trầm trọng. Vì vậy ca mổ của Cha tôi, gia đình phải cung cấp máu tự túc.

Cha tôi có dòng máu O+ mà gia đình tôi chỉ có bà chị thứ tư mới có đầy đủ sức khỏe để lấy máu, đứa em út thì ốm yếu, nên phải chạy đi các nhà thương ở quận để mua thêm máu nhưng không nơi nào có.

Đã gần đến ngày giải phẩu thận mà số máu cần chuyền cho Cha vẫn chưa đủ, cả nhà vô cùng bối rối. Bỗng một hôm, có người nữ y tá xa lạ đến tình nguyện hiến máu. Rất may mắn là máu của cô ta đúng dòng máu O+. Mẹ và các chị em tôi vô cùng mừng rỡ. Cho máu xong, gia đình tôi xin cô y tá cho biết qúy danh và địa chỉ để trả ơn và mời cô dùng bữa. Cô từ chối và bảo:

– Chẳng có gì lớn lao lắm đâu. Thấy Bác trai cần máu để mổ nên cháu giúp vậy thôi, rồi cô viện cớ phải mang thuốc về bệnh xá ở quận gấp.

Sau này, tôi mới biết một điều rủi ro đã xảy ra trong ca mổ là thay vì mổ thận phía trái, bác sĩ lại mổ thận bên phải nên phải mổ hai lần. Vì tuổi già sức yếu nên cha tôi không chịu đựng nổi qua một lần mổ hai quả thận. Vì mất nhiều máu quá nên cha tôi đã đi luôn trong cơn mê.

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Kyoto, Lối mòn Triết gia

Trần Đức Hợp


Kyoto, thành phố cổ kính một thời là kinh đô của nước Nhật, hàng năm có hơn 30 triệu du khách ngoại quốc và bản xứ đến đây thăm viếng.
Nó, được xem là thành phố có sức hấp dẫn hàng đầu ở Nhật Bản, sau thủ đô Tokyo.

Image
Đây là cái nôi văn hóa cổ truyền của người Nhật, và Kyoto đã được UNESCO công nhận là một trong những di sản Văn Hóa của Thế Giới với những di tích cổ xưa và nhiều thắng cảnh xinh đẹp có một không hai mà không nơi nào trên thế giới có được.

Ngay cả Tổng Thống Hoa Kỳ Harry Truman năm 1945 cũng đã đồng ý với Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ là Herry Stimson gạch bỏ Kyoto trong danh sách những thành phố được chọn để ném bom nguyên tử ngày 6-8-1945 và ngày 9-8-1945. Kết cục là Hiroshima và Nagasaki đã bị san bằng dẫn tới sự đầu hàng không điều kiện của Nhật Hoàng Hiro Hito, kết thúc chiến tranh thế giới II.

Với diện tích 828 km2, dân số khoảng 1,5 triệu dân, Kyoto đứng hàng thứ 9 về mật độ dân số ở Nhật Bản. Nơi đây có khoảng 1600 ngôi chùa Phật Giáo và 400 đền thờ Thần Đạo (Shinto), cùng với rất nhiều lâu đài Nijo cổ xưa, đã được UNESCO công nhận là những di sản Văn Hóa của Thế Giới (World Heritage site Landmarks) gồm những kiến trúc văn hóa, cung phủ được xây dưng từ thời kỳ “Shogun”, hay Lãnh Chúa Tokugawa ngày xưa, là nơi có những vườn hoa, công viên với kiến trúc và cây cảnh trang trí thật đặc biệt mà du khách hiếm khi thấy được ở những nơi khác tại Nhật Bản cũng như ở các nước khác trên thế giới.

Khi đi thăm viếng Kyoto, du khách thường được hướng dẫn đến thăm những nơi đặc biệt như chùa Vàng (Kikaku-ji), chùa Bạc (Ginkaku-ji), Hoàng cung hay cố đô Kyoto, vườn hoa Ryoan-ji với những khối đá to nhỏ tượng trưng cho vườn thiền Nhật bản, đền thờ Heian của thần đạo Shinto, hay được đưa đi thăm viếng các lăng mộ của các vị Nhật Hoàng, các Lãnh Chúa ngày xa xưa.

Du khách Tây Phương cũng không để lỡ cơ hội khi đến thăm viếng khu Gion, phía Đông Kyoto, nơi tập trung những kiều nữ Geisa trong những tấm áo Kimono tuyệt đẹp, với đôi chân bước nhẹ nhàng trên những đôi guốc gỗ mộc. Họ là những nghệ nhân chuyên nghiệp đã được đào tạo kỹ lưỡng các môn cầm, kỳ, thi, họa,… đủ để tiếp chuyện các tao nhân, mặc khách trong những dạ yến sang trọng và tất nhiên rất mắc tiền.

Con đường Triết gia


Con đường mòn này nằm về phía Đông của cố đô Kyoto, chiều dài 1500 mét, hướng phía Nam con đường tọa lạc ngôi chùa Gingaku-ji (Silver Papilon) còn gọi là ngôi chùa Bạc cổ kính và rất nổi tiếng của Kyoto.
Image Dọc theo con đường này với hàng ngàn cây hoa Anh Đào (Cherry / Sakura) được trồng dọc theo hai lối mòn chỉ dành riêng cho người đi bộ, bên cạnh là con kinh đào Shishigatami xây dựng bằng đá chạy uốn lượn dọc theo hướng Bắc-Nam dưới chân rặng núi Higashiyama (Eastern Mountain).

Một Giáo sư Đại Học nổi tiếng của Kyoto là Nishida Kitaro (1870-1945) đã xử dụng con đường mòn này hằng ngày để đi đến giảng đường trong sự bình an, thanh thản, và ông tìm ra, và để lại những lưu bút qúy gía, hay những bài giảng thật sâu sắc về nguồn gốc của những điều tốt lành, những chân lý thánh thiện, và sự giác ngộ của Thiền đạo (Zen) ở Nhật Bản.

Tôi và người bạn thân Đoàn Công Cẩn trên con đường mòn này, khi rảo bước vào ngôi chùa Nanzen-ji cổ kính với lối vào bằng gỗ mun đen, không sơn phết lòe loẹt như các ngôi chùa ở Trung Hoa hay tại Việt Nam. Ngôi chùa Bạc hay Silver Papilon bao đời vẫn như xưa, cổ kính và tĩnh lặng bên hồ nước trong veo và xung quanh là những cây cỏ luôn xanh tươi xen lẫn và hài hòa với thiên nhiên của núi rừng, với dòng suối nhỏ róc rách chảy uốn lượn dọc theo con kinh đào được che phủ với những bờ rêu xanh tươi, mịn như nhung. Image
Nanzen-ji cổ kính. Nguồn: Maggie Tulliver

Thỉnh thoảng du khách và chính bản thân tôi cũng dừng chân ghé thăm những ngôi đền thờ nho nhỏ bằng đá dọc hai bên đường trong trạm dừng bước để ngắm nhìn và tĩnh tâm, hay chiêm nghiệm của cuộc đời sau khi trải qua những cuộc bể dâu, thăng trầm của cuộc đời và tìm ra được sự vô ngã, bản lai diện mục của chính mình trong chốn bụi hồng trần.

Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước khi Đức Phật Thích Ca khi ngồi thiền, suy ngẫm, khai tuệ hay gíác ngộ, ngài đã tìm ra được nguyên nhân và nguồn gốc của sự u mê, ám chướng gây ra những đau khổ của con người qua những bóng ma của cám dỗ và tội lỗi…
Trong năm bóng tối của ngạ quỷ mara như....

-sự sợ hãi / lo lắng / khiếp sợ,
-sự tham lam / ích kỷ,
-sự đam mê / ham muốn / quyến rũ,
-sự kiêu hãnh / tự hào / hãnh diện,...và
- sự vô cảm / không quan tâm / xem thường / mặc kệ nó.

là những “nghiệp” (karma) mà con người thường gặp phải ttrong đời sống hằng ngày.

Và tất cả năm điều này (Ngũ Uẩn) khi áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, không điều này hay điều kia, có thể xuất hiện cùng một lúc đã làm con người hay tiêu biểu cho cá tánh, đặc trưng của mỗi dân tộc, hay cá tánh của mỗi người.

Những ngày cuối cùng của tháng ba, và những ngày đầu tháng tư khi hoa Anh Đào nở rộ hai bên đường mòn ở Kyoto, nhiều đoàn du khách khắp nơi trên đất nước Nhật cũng như khắp nơi trên thế giới đã đến hội tụ tại nơi đây, trên những con đường dốc thoai thoải để lên những sườn đồi và thăm viếng ngôi cổ tự Kiyomizu-dera, được xây dựng vào thế kỷ thứ VIII với những dòng suối chảy róc rách từ trên cao xuống trong khung cảnh thanh tịnh thiêng liêng của núi rừng Inari xung quanh. Và rất nhiều xe bus tấp nập tại những bãi đậu xe chen chúc nhưng rất trật tự, và ngăn nắp tạo bầu không khí thật sinh động, tấp nập nhưng đầy nhẹ nhàng, sạch sẽ, không ồn ào hay ô uế nơi chốn thanh tịnh này.
Image
Đường đá qua ao tại chùa Tenjuan,trong phức thể Nanzen-ji. Nguồn: wa-pedia.com
Chính tại nơi đây, du khách sẽ nhẹ những bước chân thanh tịnh, tâm hồn bình an khi rảo bước chân trên từng phiến đá nho nhỏ, đi tìm và dễ dàng tìm thấy được dòng sông tâm thức của chính mình, nơi những hàng cây Anh Đào sống hàng trăm tuổi, đang nở rộ hoa trắng-hồng tinh anh khắp mọi nơi, và những bước đi đó chúng ta cùng hoà nhịp với cỏ cây, hoa lá với những hương thơm tinh khiết, trước những cơn gió thoảng làm rung động những cành lá hai bên, mọi người thật dễ dàng tìm thấy xúc cảm của trái tim của chính mình và tìm thấy tâm hồn thật bình an, thanh thản và thấu hiểu chữ “Không” hay “Vô Ngã” của cuộc đời ngắn ngủi qua triết lý tinh tuý của Đông Phương.

Khi ta rảo những bước chân nhẹ nhàng trên con đường quanh co, trên những phiến đá hoa cương cùng hòa mình với cỏ cây xung quanh, trong những cơn gió thoảng nhẹ bay làm cành lá xung quanh rung động, trên cành nặng chĩu những cánh hoa Anh Đào đong đưa trước gió, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui tinh khiết khi lòng mình mở rộng và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu vào cuộc sống tràn ngập hạnh phúc.

Chúng ta thấu hiểu được niềm vui đích thực không phải là những đỉnh vinh quang chói lọi hay những cánh đồng tràn ngập hoa vàng mà trong tâm hồn ta với những bước đi thanh thản và ta chợt thấy tất cả mọi sự vật trên đời đều đến và lại ra đi, mọi sự vật đều có và lại không, dường như chỉ là phù vân hay ảo hoá. Hạnh phúc không phải là có thêm được cái gì đó trên dòng đời cuốn trôi, mà chính là buông xả để tâm thanh tịnh và nhẹ nhàng; khi tuổi trẻ chỉ toàn những ước mơ và cố gắng xây đắp một tương lai mơ hồ, và khi tuổi già thì luôn hồi tưởng, hay nuối tiếc một dĩ vãng đã đi qua.

Chúng ta thực sự sẽ thấy hạnh phúc không ở đâu xa xăm mà chính là niềm mãn nguyện trong từng giây phút hiện tại của cuộc sống mầu nhiệm trong hiện thực đơn giản và chúng ta hiểu rằng con đưòng tâm linh tuyệt đối sẽ đơn độc, không một ai có thể đi cùng con đường với ta, cho dù dó là người thân yêu nhất. Và khi đó chúng ta sẽ cảm nhận ra rằng những khoảng khắc tĩnh lặng nhỏ bé trong tâm hồn ta còn quý giá hơn những tài sản được cất giữ xung quanh ta.

Đó chính là lúc chúng ta định được giá trị đích thực của cuộc sống, kiếp nhân sinh và ta cảm thấy thật nhẹ nhàng, và thanh thản như dòng nước trong mát cuốn trôi đi bao hệ lụy: buồn-vui, thương-ghét, hy vọng-chán chường, thành công-thất bại và đưa chúng ta đến bến bờ tươi sáng của ngày mai.

Và chúng ta lại càng thương những người phải sống trong những tín điều nhồi sọ rằng chỉ có ở những quốc gia trong thể chế độc tài, độc đảng con người mới có hạnh phúc nhờ sự lãnh đạo độc tôn của đảng trị vì.

San Diego, January 20, 2014

Trần Đức Hợp

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Madrid, Mùa thu

Trần Đức Hợp

Từ thành phố Malaga thuộc vùng Costa Del Sol, hai chúng tôi đã đến Madrid bằng xe lửa cao tốc AVE mất 2 giờ 45 phút. Tốc độ trung bình của tàu trên đoạn đường này là 275 km/giờ.
Madrid, mùa thu 2010 trong mắt ai…

Image
Tác giả trước Viện bảo tàng Prado, Madrid. Nguồn: TĐH
Nhà ga Attocha Renfe ở Madrid rất lớn, với những kiến trúc vừa cổ xưa vừa tân kỳ, rất đẹp. Tôi đã lựa chọn trước khách sạn Europa ở trên mạng Internet cho chuyến viếng thăm thủ đô Tây Ban Nha (Spain) và tôi thấy mình không lầm. Khách sạn nằm ngay giữa trung tâm thành phố, khu Plaza Del Sol, rất thuận tiện cho việc di chuyển đến những địa điểm mà du khách nhất thiết phải tới. Từ nơi đây có thể đi bộ đến những nơi cần thăm viếng như những Viện bảo tàng Prado, Reina Sofia, Thyssen,… Quảng trường Plaza Mayor, Hoàng cung Palace Reil của Tây Ban Nha, thánh đường Almundina, công viên Jardin Botanico, công viên Retiro… Đại lộ lớn nhất ở Madrid là Gran Via, có thể coi tương đương như đại lộ Champs Elysees của Paris, nơi đây có hàng trăm ngôi nhà cao tầng cổ kính với bề mặt được trạm trổ và điêu khắc rất mỹ thuật,và đang được thành phố Madrid long trọng kỷ niệm 100 năm.

Ngoài những phương tiện di chuyển công cộng như xe bus, xe lửa, xe taxi,… thì mạng lưới xe điện ngầm (Metro) gồm 12 đường chính và đường Ramal được xem như một hệ thống giao thông hữu hiệu và tiện lợi cho người dân ở Madrid cũng như những du khách đến thăm viếng từ khắp nơi trên thế giới. Trên bản đồ, các đường Metro này được biểu hiện bằng những màu sắc khác nhau, rất tiện tìm kiếm. Các trạm Metro được xếp đặt, dàn trải đều khắp các nơi trong thành phố. Trạm nào cũng rộng rãi, sạch sẽ, sáng sủa và không đâu có những hình vẽ hay chữ viết bậy bạ (grafitti) như thường thấy ở các thành phố khác ở Âu Châu như Paris, London, hay Roma… Bên trong các trạm Metro có nhiều hệ thống thang cuốn, và thang máy cho người già yếu hoặc cho du khách có hành lý nặng. Hệ thống bán vé tự động bằng máy rất dễ xử dụng vì có bảng chỉ dẫn “Touch” bằng những ngôn ngữ thông dụng ở châu Âu: Anh, Pháp, Đức, và tất nhiên, tiếng Tây Ban Nha.
Image
Bản đồ xe điện ngầm ở Madrid, Spain. Nguồn: planometromadrid.org
Dọc theo những con đường lớn là những vỉa hè dành cho khách bộ hành rộng rãi với hai hàng cây xanh bóng mát làm cho thành phố càng duyên dáng và đáng yêu. Những phiến đá hoa cương cứng và bằng phẳng lót đường với những hàng ghế gỗ dài dành cho khách bộ hành nghỉ chân. Để bảo vệ an toàn lưu thông, một làn phân cách giữa người đi bộ và xe cộ bằng một hàng rào lan can bằng nhôm cao khoảng 1m bóng láng, đã được dựng lên. Lưu thông ở đây không bị tắc nghẽn như ở nhiều thành phố lớn khác ở châu Âu với hệ thống bảng chỉ đường rất ít, và rõ ràng, được mọi người tôn trọng với ý thức cao. Riêng đại lộ Gran Via đã được phân chia rõ ràng với làn xe Bus và xe Taxi ở trong cùng, bên phải tạo ra sự thuận lợi cho giao thông công cộng. Điều này chứng tỏ các kỹ sư Giao thông ở Madrid đã thiết kế và phục vụ hữu hiệu cho người dân Madrid và du khách, không như ở các thành phố khác trên thế giới.

Công việc bảo trì đường phố về mặt vệ sinh đã được làm thật tốt, có thể nói hơn hẳn nhiều thành phố khác ở châu Âu như Paris, Berlin, London, Moskva, Vienna,… Image
Đại lộ Gran Via ở Madrid, Spain. Nguồn: Tumblr
Việc quét, tưới, chà mặt đường và những vỉa hè,… đã được thực hiện thường xuyên trong ngày với đội ngũ công nhân vệ sinh trong bộ quần áo đồng phục gần giống như đồng phục của các cảnh sát giao thông công lộ.

Trong thành phố những bức tượng đồng vinh danh người quét đường đã được dựng lên ở những quảng trường lớn chứng tỏ người dân và chính quyền ở Madrid rất tôn vinh công việc của họ, trái với những hình tượng của các vị lãnh đạo nhà nước hay các nhà độc tài như tướng Franco … thì chẳng thấy hình tượng được dựng lên ở đâu cả, và người dân ở nơi đây cũng chẳng thèm tưởng niệm hay ghi nhớ những bộ mặt độc tài, toàn trị và đáng ghét đó. Image
Tượng người quét đường ở Madrid, Spain. Nguồn: aussieinfrance.com/Rosemary Kneipp

An ninh công cộng ở Madrid


Không giống như thành phố ở các xứ “hậu cộng sản” và cộng sản mà tôi đã đi qua như Moskva, Beijing, Hà Nội,… hệ thống cảnh sát giao thông ở Madrid có ý thức rất cao trong việc điều hành lưu thông hữu hiệu và họ làm việc rất nhã nhặn với người dân. Với vóc dáng cao lớn và khoẻ mạnh, những cảnh sát giao thông trong bộ y phục đẹp và gọn gàng với hai màu xanh lục đậm và xanh lá mạ, họ có một thái độ làm việc rất chuyên nghiệp và rất dễ thương, không một chút hống hách, cửa quyền, đã hướng dẫn người dân đi lại một cách lịch sự, hữu hiệu và với tinh thần trách nhiệm cao. Rất nhiều nữ cảnh sát lưu thông xinh đẹp trên những xe Motor hai bánh đã làm cho thành phố Madrid càng đáng yêu thêm dưới mắt người du khách đến từ phương xa.

Văn hoá ẩm thực ở Madrid


Với hàng triệu du khách đến Madrid từ khắp nơi trên thế giới, không kể từ các cựu thuộc địa nói tiếng Tây Ban Nha, dọc hai bên phố các tiệm ăn Tapas mọc lên như nấm chứng tỏ người Madrid rất biết dùng các món ăn của mình để thết đãi thực khách. Món cơm chiên Paellas trộn cà ri trong đó có tôm, hến, và mực trên nền cà chua đỏ trông rất bắt mắt. Nhưng theo khẩu vị của người Việt thì khá nhạt nhẽo và khô cứng. Riêng món heo sữa nướng trong những Restorants phục vụ dưới hầm ở khu Plaza Mayor mà tôi đã được thưởng thức thì thật ngon lắm. Một đặc điểm riêng của Madrid là những cửa hàng Jamón Ibérico / đùi lợn Iberian muối có đến hàng ngàn chiếc, treo dày đặc trên trần nhà, nhiều đến nỗi người ta dám treo những biển hiệu đề là Viện bảo tàng giăm-bông ở đây… Giá cả có lẽ làm chúng ta phải trợn mắt lên vì ngạc nhiên: nhiều món giá 1 kg giăm-bông có thể dao động từ 8 Euros/kg đến 80 Euros/kg, chắc hẳn đó là tuỳ thuộc nguyên vật liệu, cách chế biến, hay thời gian để lâu năm,… mà người viết chưa biết thưởng thức nên không thể hiểu nổi.

Giải trí và hội hè


Dọc theo đại lộ Gran Via có nhiều nhà hát ca, vũ, nhạc, kịch và nhiều rạp chiếu bóng. Tôi may mắn đã được coi một buổi trình diễn vở “Hồ Thiên Nga” của đoàn vũ ba-lê Moskva tại đây. Những vũ công xinh đẹp và nhỏ bé người Nga đã làm rất nhiều khán giả Madrid say đắm. Rất nhiều gia đình đã đến xem và mang theo cả những khán giả tí hon mà rạp đã phải cung cấp những ghế đệm cao cho các cháu bé. Những tràng pháo tay nồng nhiệt không ngớt cổ vũ vũ đoàn. Tôi cũng tình cờ được dự hai lễ hội lớn ở đây. Gần quảng trường Cibelet có một Hội Liên Hoan của các quốc gia nói tiếng Spanish từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Với những trang phục sặc sỡ, nhiều màu sắc và nhiều vẻ đặc trưng cho từng nước như điệu múa váy xoè của Mexico, hay điệu vũ Tango tình tứ và lãng mạn Agentina, Peru, Colombia, Chile, hay Cuba,… và những vũ công xinh đẹp này đã chụp hình chung với các du khách đến xem một cách rất tự nhiên không một chút e dè hay xa cách. Không một khẩu hiệu hay biểu ngữ mang màu sắc chính trị nào đã được áp đặt cho bất cứ một đoàn nào cả, ngay cả đoàn ca múa đến từ Havana của Cuba ở vùng đảo Caribbeans. Image
Lễ hội ở Tây Ban Nha. Nguồn: www.expatica.com
Một điều không nằm trong chương trình của tôi là trước khi rời Madrid tôi được chứng kiến cuộc diễn hành quân sự của các binh chủng Tây Ban Nha, với các chiến đấu cơ tối tân và hiện đại như F-18 Super Hornets, Euro Fighters Typhoons, F-16 Fighting Falcons, Tornados,… mở màn và những đoàn máy bay vận tẳi C-130H Hercules,và những loại trực thăng kiểu mới như Puma, H-60 Blackhorse, AH1-G Super Cobra, hay H-64 Apachies theo sau… Tiếp đến dưới đất là các loai chiến xa loại mới như Leopard, các thiết vận xa, xe tăng hạng nặng M-109, xe truyền tin kiểu mới,… rồi sau đó các quân, binh chủng đặc biệt khác từ truyền thống cho đến hiện đại trong những bộ lễ phục đẹp mắt đi diễn hành trước công chúng hai bên đại lộ. Đặc biệt có những quân chủng với y phục lạ mắt như trượt tuyết với đôi Skis trên vai trong binh phục màu trắng bông tuyết đã được khán giả hai bên đường tán thưởng bằng những tràng pháo tay liên tục… Ngoài ra, những đoàn Kỵ binh trên lưng những con ngựa cao lớn và bóng bẩy và những kỵ mã trong những nhung phục đẹp mắt là những hình ảnh khó quên trong buổi lễ.
Image
Quảng trường Del Sol, Madrid. Cổng vào Metro và Tòa bưu điện Cercanías, tượng của Charles III. Nguồn: multisanti


Văn chương và báo chí


Người dân Madrid rất chăm đọc sách báo hằng ngày. Các cửa hàng sách đông nghịt người xem và mua sắm. Các sách của các nhà văn Tây Ban Nha hay của các nhà văn tên tuổi nổi tiếng trên thế giới đều có bán rộng rãi, tự do, và phổ biến tại đây. Không một giới hạn hay cấm kỵ nào như phải đi bên lề trái hay bên lề phải… như ở các xứ độc tài, cộng sản hay tôn giáo cuồng tín.

Trên màn ảnh nhỏ ở mỗi gia đình đều có đủ các chương trình của các đài truyền hình khắp nơi trên thế giới như đài BBC, NBC, CNN, Ả Rập, NHK (Nhật), Nga,… và rất nhiều đài truyền hình tư nhân, địa phương nói tiếng Tây Ban Nha. Ở đây có tới gần 500 đài khác nhau.
Image
Bức tượng Tras Jukia, cô sinh viên ôm sách. Marid. Nguồn: Cat Bethune
Kinh tế và thương mại

Ngay cả trong thời kỳ suy thoái kinh tế năm 2010, Madrid vẫn là một trung tâm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, các quảng trường trên đường phố nơi nào cũng đông đúc và náo nhiệt. Chúng tôi đã phải đổi khách sạn tới 3 lần trong 6 ngày tại Madrid vì đã không đặt phòng trước, họ dành ưu tiên phòng cho những đoàn du lịch “Tour” đông người. Kỹ nghệ phục vụ du lịch tại đây phát triển và đã đem lại một nguồn ngoại tệ to lớn cho Madrid nói riêng, và Tây Ban Nha nói chung. Một số cửa hàng buôn bán nhỏ đã đóng cửa trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, Tây Ban Nha cũng bị suy thoái nặng, chỉ thua có Hi Lạp… Tuy nhiên kỹ nghệ phục vụ du lịch thì vẫn hoạt động khoẻ và hữu hiệu.
Image
Bên ngoài Hoàng cung Palace Real Madrid. Nguồn: Jean-Pierre Dalbéra
Dân chủ và xã hội ở Madrid

Chúng tôi rời Madrid sau hai tuần thăm viếng Tây Ban Nha đi từ vùng biển Costa Del Sol ở Andalusia, phía Nam và đến thủ đô Madrid ở phía Bắc. Những gì mắt thấy, tai nghe, cảm nhận, và hiểu được,… đã để lại những ấn tượng thật sâu sắc và thật đẹp trong tim trong chuyến đi đầy thú vị và hữu ích này.

Đáng chú ý nhất là trình độ chính trị của người dân đã thăng hoa và đã được biểu lộ thật rõ rệt trong những lần chúng tôi được tiếp xúc tại nhiều nơi trong thành phố Madrid.

Một chi tiết nhỏ chúng tôi đã chứng kiến. Dưới bầu trời âm u với mưa nặng hạt ở quảng trường Puenta Del Sol nơi khách sạn chúng tôi ở, đã có những đoàn biểu tình không chút ồn ào, đi lại trong trật tự, và họ hô những khẩu hiệu, trên tay cầm những tấm bảng nhỏ, và họ không dùng loa phóng thanh để gây những tiếng động ồn ào hay gây chú ý cho du khách. Đây là một biểu hiện của cuộc “diễn biến hoà bình” đòi cải tiến dân chủ và xã hội của các nước tự do và tiến bộ. Khác hẳn Ở các chế độ độc tài, hay cộng sản sự kiện này sẽ bị coi là âm mưu lật đổ chính quyền (nhưng chính quyền cộng sản lại không do người dân trực tiếp và thực sự bầu lên).

Các chính đảng và các tổ chức xã hội Tây Ban Nha nhờ những cuộc biểu tình như thế mà hiểu rõ được những đòi hỏi chính đáng của dân chúng để chỉnh sửa và thay đổi những khiếm khuyết và cải tiến những phương pháp làm việc để từ đó hoàn thiện không ngừng và nâng cao mức sống của người dân nơi đây.

Người dân Tây Ban Nha với truyền thống cường quốc từ những thế kỷ xa xưa (thế kỷ 16,17,…), nhưng họ không có thái độ kiêu căng hay hách dịch với những người đến từ các xứ cựu thuộc địa. Sau khi chế độ độc tài Franco bị sụp đổ tháng 11, năm 1975, người dân Tây Ban Nha rất hiểu, trân trọng, và quý mến các quyền tự do và dân chủ của họ. Các đảng phái chính trị và những nghiệp đoàn công nhân ở đây như: PSOE, UGT, PCE, CCOO, PC-ml, MUC, PTE-UC, IU, AP, CD, UCD, PDP, PL, CP, PNV, EA, EE, HB, ETA,PSC,… đã từ từ chuyển hoá nền cai trị từ độc tài, chuyên chính, cứng rắn, tập quyền trung ương của chế độ Franco …nay trở thành nền dân chủ nghị viện, tự do và đa đảng.

Quá trình chuyển hóa này đã được người dân Tây Ban Nha thực hiện với ý thức cao độ, và cũng đã gặp phải những khó khăn và trở ngại lúc ban đầu qua những cuộc trưng cầu dân ý, và qua những lá phiếu bầu cử tự do, trực tiếp và kín.
Image
FEMEN biểu tình cởi trần chống du lịch tình dục, các định chế tôn giáo, phân biệt giới tính, sợ đồng tính và các chủ đề xã hội,
quốc gia và quốc tế khác Nguồn: Getty Images
Điều này đã đem lại xã hội dân chủ “thực sự” cho người dân nơi đây; đã chuyển biến quyền hành từ xã hội bảo thủ, nặng nề, kém hữu hiệu và tiến đến một xã hội tiến bộ với mục đích nâng cao đời sống của người dân cả về vật chất lẫn về tinh thần và quá trình này đã không phải trải qua những cuộc nội chiến hay cách mạng đổ máu như ở các nước cộng sản, độc tài quân phiệt, giáo phiệt như ở nhiều nơi trên thế giới.


Trần Đức Hợp

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Hương Vị Ngày Xưa

NHẬT TIẾN
Hồi ông bà Tâm quyết định dọn ra ở riêng, đối với ba anh em Hùng, Hương, Hạnh là cả một biến cố. Họ họp mặt nhau trong một buổi gặp gỡ riêng để bàn cãi sôi nổi. Hạnh, cô em gái út lên tiếng trách móc:

- Anh chị đối xử thế nào để đến nỗi bố mẹ phải ra ở riêng?

Hùng vò đầu bứt tai:

- Tao có làm gì đâu. Suốt ngày đi làm, chuyện gì xẩy ra ở nhà tao đâu có biết.

Hương nhìn anh bằng cặp mắt vừa buồn vừa giận:

- Làm gì mà anh chẳng thể biết. Có điều tại anh mũ ni che tai, không muốn biết đấy thôi.

Hùng đáp lại bằng một giọng yếu sìu:

- Ừ, thì cũng chỉ toàn là chuyện đụng độ vặt vãnh trong nhà với chị ấy, chứ có cái gì lớn lao đâu.

Hạnh chộp ngay lấy, mở to đôi mắt nhìn về phía anh và nói lớn:

- Vấn đề là ở chỗ ấy. Tính khí của bố mẹ thế nào, anh không biết sao. Lẽ ra, anh phải để tâm tới và phải có lời khuyên nhủ chị ấy về cung cách cư xử với bố mẹ. Ðằng này anh cứ ngậm tăm không nói, như thể anh cũng đồng ý về những điều chị ấy làm, hèn gì mà chị ấy chẳng làm tới.

Hùng bắt đầu nổi cáu:

- Mày ngon sao không mời bố mẹ về ở đi. Nói như thánh phán. Ðến lúc đụng độ với chồng, với con rồi mới thấy hoàn cảnh khó khăn của tao.

Hương thở dài:

- Hoàn cảnh của tụi em, anh đã thấy rồi. Cái Hạnh thì lấy chồng nghèo, chúng nó chui rúc trong một căn apartment, làm sao mời bố mẹ ở chung được. Còn em thì ở chung với gia đình nhà chồng. Mời bố mẹ về sao tiện. Chỉ có anh nhà cao cửa rộng, lại vợ chồng son, bố mẹ không ở với anh chị thì ở với ai?

Hùng đáp:

- Thì tao vẫn năn nỉ mời bố mẹ ở chung chớ có ý kiến gì đâu. Chuyện ra ở riêng là ý muốn của bố mẹ thôi.

Hạnh không muốn nói gì thêm nữa. Nàng chỉ nhìn anh bằng đôi mắt trách móc. Trong khi ấy, Hương cũng nhún vai, lẳng lặng quay đi chỗ khác, lòng tràn ngập những nỗi buồn phiền. Ðiều này khiến cho Hùng càng cảm thấy nhột nhạt và tìm lời biện bạch:

- Chúng mày không ở hoàn cảnh của tao nên không thông cảm được. Này nhé, nhà mới, thảm mới, màn cửa, cái nào cái ấy trắng tinh khôi. Ngày nào chị ấy cũng phải dành rất nhiều thì giờ để chăm sóc từng ly từng tí. Thế mà bố cứ hút thuốc, phun khói như ống bễ lò rèn thì làm gì nhà không bị ám khói, đượm mùi. Nếu tụi bay ở địa vị của chị ấy thì tụi bay tính sao?

Hương không trả lời trực tiếp câu hỏi của anh, nhưng lại tố thêm:

- Em còn nghe nói chị ấy đòi giới hạn khu vực đi lại trong nhà để thảm trắng khỏi bị dơ. Có đúng không?

Hùng đáp:

- Cũng lại là một nỗi khổ tâm của tao nữa! Ai cũng biết mẹ là người ham xốc vác, làm lụng, suốt ngày cụ bì bõm ở vườn sau cuốc đất trồng rau, làm gì chân tay không dính đầy bùn. Với bộ thảm nhung trắng như tuyết đó, và với chân tay đó, làm sao không có chuyện đụng độ. Mà tao ở giữa tao làm gì được?

Câu chuyện đi tới chỗ hoàn toàn bế tắc, chẳng ai nhìn ra được phương cách gì để giải quyết, nên cả ba chỉ ngồi thừ người ra, vẻ mặt của ai cũng đều rầu rĩ. Người nào cũng cảm thấy trong lòng buồn bã, xót xa và cùng nhớ lại thời kỳ tràn đầy hạnh phúc ngày xưa.

Chỉ hơn năm năm trước đây thôi, khi chưa có ai lập gia đình và tất cả còn cắp sách đến trường thì bố mẹ con cái quây quần sống với nhau thật là vui vẻ. Ông Tân hồi đó còn nhiều sức khỏe, lại cũng có công ăn việc làm tốt đẹp nên vẫn coi như cột trụ của gia đình. Bọn anh em Hùng, sống đời sinh viên, vừa đi học, vừa đi làm, tiền bạc góp chung lại thuê một căn nhà để mọi người cùng quây quần với nhau. Bà Tâm thì ở nhà lo hết mọi chuyện kể cả giặt giũ, nấu ăn cho cả nhà. Bầu không khí ấm cúng ngày xưa ở quê nhà lại được phục hồi trọn vẹn trong vòng tay yêu thương của tất cả mọi người.

Vui nhất là những bữa ăn do bà Tâm nấu nướng. Nhờ vật dụng, rau cỏ ở đây thức gì cũng có nên bà đã nấu những món quen thuộc của gia đình, với hương vị như gói trọn cả một thời thơ ấu của mấy anh em. Món canh dưa mà Hạnh luôn tấm tắc “tuyệt cú mèo”, món cà ri mà Hương nhận định “chỉ có mẹ nấu mới đặc biệt như vậy, ăn vào là biết ngay”. Còn nhiều món khác nữa, cũng đã đi vào khẩu vị của gia đình như làm sống lại cả một thời yên ấm đã qua

Thế rồi ngày vui qua mau. Hương lấy chồng trước tiên. Rồi đến Hạnh. Anh Hùng kiên trì thêm vài năm nữa, tốt nghiệp đại học, làm lương cao, tậu nhà mới, rồi lấy vợ. Bầu không khí đoàn tụ, thương yêu cứ như những làn sương mỏng tan dần theo ánh nắng của mặt trời đang lên.

Buổi gặp gỡ bàn thảo chẳng đi đến một kết quả gì. Thôi thì đành buông xuôi và mỗi người đành che giấu trong lòng một niềm chua xót riêng tư.

2.

Ông bà Tâm từ ngày ấy dọn ra ở riêng tại một khu chung cư nghèo nàn. Tuy ở vào tuổi sấp sỉ sáu mươi, nhưng ông cũng còn lái được xe chạy đây, chạy đó. Bạn bè của ông giúp đỡ tận tình, người mách việc này, kẻ giới thiệu việc kia nhưng không việc nào được lâu bền. Có người thấy tình cảnh khó khăn của ông bà, đã cất lời khuyên giải:

- Mỗi thời, mỗi nơi có một phong tục, một cách sống. Ông bà giận con cái làm gì cho mệt thân.

Ông Tâm chỉ mỉm cười:

- Tôi đã nói với các ông nhiều lần rồi mà vẫn không chịu tin. Chúng tôi tự ý ra ở riêng chính là vì quan tâm đến chúng nó. Ở xứ này, tự do cá nhân là điều quan trọng hàng đầu. Mình không muốn làm cho đời sống riêng tư của chúng nó bị xáo trộn.

Cái ông vừa mới trước đây cất lời khuyên giải bỗng đã nổi sùng một cách mau chóng hơn ai hết. Ông ta vặc lên ngay:

- Tự do gì bằng bố mẹ của mình.Tôi lấy làm lạ cho cái xứ sở gọi là tuyệt đỉnh văn minh này.

Ông Tâm cười:

- Mỗi thời, mỗi nơi một phong tục. Ngẫm nghĩ ra, ông còn dễ nổi nóng hơn tôi. Nhưng mà ông ơi, phải tự biết mình và phải cảm thông thôi.

Rồi ông giảng giải:

- Theo tôi thấy, phong tục ta ngày xưa, các bậc làm cha mẹ tự đặt cái tôi của mình lên quá cao. Trong quan hệ bố mẹ con cái, chỉ có bố mẹ là uy quyền tuyệt đối, con cái không có chỗ để len chân vào.

Ông bạn kia nhún vai:

- Cái đó thì cũng đúng thôi. Ðã làm con thì phải biết công lao dưỡng dục, sinh thành của bố mẹ chứ.

- Ðành rằng thế. Nhưng nhìn vấn đề như vậy vẫn chỉ có tính cách kể công mà không xem trọng cái quan hệ giữa người với người. Tôi cho rằng cái quan niệm đề cao tuyệt đối một con người, lại dẹp bỏ dứt khoát một con người khác, là quan niệm kể công, hẹp hòi. Cái đó phải sửa!

Ông bạn cười khẩy:

- Ái chà! Ông lại còn đòi sửa sai cả phong tục, tập quán của tổ tiên, ông bà cơ đấy. Tôi không ngờ ông lại còn tự do hơn cả Mỹ nữa.

Ông Tâm vẫn mỉm cười, giọng tiếp tục nhỏ nhẹ:

- Ông bà của mình cũng có nhiều cái sai phải sửa lại chứ. Ông thử tính coi, hầu hết các vị làm bố, đều nhìn con cái như một lũ nô lệ dưới quyền. Hơi một chút là phật lòng. Hơi một chút là tự ái nổi lên đùng đùng. Thậm chí nhiều người còn sẵn sàng lôi con cái ra xỉ vả, đánh đập để thỏa cơn giận dữ của mình. Làm như chỉ mỗi một mình mình là có nhân vị, không đứa nào được đụng đến, trong khi nhân vị của chúng nó thì mình cứ coi như không.

Ông bạn mỉa mai:

- Thế là, theo ông, bố mẹ bây giờ, ở đây chẳng có quyền hành gì hết cả à?

- Có chứ sao không! Nhưng sống là thỏa hiệp chứ không phải trấn áp. Thỏa hiệp không xong thì tự mình tách ra, cho khỏe cả hai bên. Chúng nó cũng có những hạnh phúc riêng phải duy trì, có những vấn đề riêng mình không thể lấy quyền làm cha mẹ mà tước đoạt đi được.

Dĩ nhiên, vấn đề còn phải được bàn cãi rất nhiều, nhưng ông Tâm coi như đã lựa chọn cho mình một quan niệm sống, và điều này, ông lại được bà hoàn toàn chia xẻ. Chính vì thế, cả hai ông bà không thấy khổ tâm khi phải tách rời khỏi cuộc sống chung đụng với con cái. Ðời sống ở đây, có quá nhiều điều phải bận tâm nhất là về mặt ổn định kinh tế. Cả hai ông bà đã lăn lưng ra bương trải để có thể tồn tại trong tư thế độc lập. Có thời gian, ông đi cắt cỏ, làm vườn. Rồi đổi qua nghề gác dan, lái xe giao hàng. Còn bà thì vẫn ở nhà nấu nướng, coi sóc nhà cửa và kiếm phụ thêm bằng nghề xâu dây cườm cho một cửa tiệm bán đồ nữ trang, trang trí. Mỗi sợi dây cườm có khoảng hai trăm hột, cứ xâu năm hột mầu này lại đổi sang năm hột mầu khác. Xâu xong phải kiểm lại không được hột nào thiếu, hay là dư. Xâu tới xâu lui, lại mò mẫm đếm đếm, kiểm kiểm, cũng phải mất nửa giờ mới xong một sợi và được trả công hai mươi lăm xu. Mỗi ngày ngồi cặm cụi như thế, bà cũng kiếm thêm được vài đồng tiền chợ. Những đồng tiền ít ỏi nhưng đem lại cho bà nguồn vui và niềm tự hào.

3.

Những ngày gần đây, đột nhiên ông thông báo:

- Tôi đã nhận đi bỏ báo hàng ngày. Có mệt hơn một chút nhưng tiền bạc khá hơn.

Bà Tâm nghe xong dẫy nẩy lên:

- Làm sao ông gánh vác nổi chuyện đó. Ông có biết rằng mỗi tờ báo ở đây nặng bao nhiêu không. Từ kí rưỡi đến hai kí đó ông. Sức của ông làm sao ông liệng nổi.

Ông Tâm co ruỗi cánh tay của mình như ướm thử rồi nói:

- Báo kí rưỡi, hai kí là báo ra ngày Chủ nhật thôi. Còn ngày thường thì đâu đến thế.

Nhưng bà vẫn cương quyết:

- Nhưng ngày gì thì gì, cũng không hợp với sức khỏe của ông. Tôi đã biết nhiều người đi bỏ báo, họ lái xe trên đường phố, vẫn ngồi ở đó mà liệng tờ báo băng qua lề đường vào đến tận cửa. Khoảng cách xa thật là xa. Không có sức khỏe không thể làm được.

Thấy ông tần ngần, bà đề nghị:

- Hay là để tôi đi với ông. Ông chỉ việc lái xe, còn tôi cầm báo chạy vô đặt tại chỗ. Thế là khỏi phải ném, phải liệng.

Ông Tâm dẫy nẩy lên:

- Thôi bà đừng có vẽ chuyện. Bà phải biết, muốn có báo giao, phải đi từ một, hai giờ sáng để xếp hàng, lãnh báo, rồi cột dây. Hôm trời mưa còn phải thuồn báo vô bao ny lông cho khỏi ướt. Ba, bốn giờ sáng mới có đủ báo đem giao. Làm việc như thế sức nào bà kham.

Bà Tâm mỉm cười:

- Thì tôi chỉ phụ với ông ở phần giao báo thôi. Ông lãnh xong đâu đấy, tạt qua nhà đón tôi lên xe. Tôi sẽ đi để báo tại chỗ cho ông. Có gì đâu mà mệt.

Ông Tâm không có cách nào từ chối, đành ưng thuận. Thế là mỗi buổi sáng, cả hai ông bà ngồi trên chiếc xe cũ kỹ, chạy khắp các đường phố. Tới mỗi nhà, bà lanh lẹ mở cửa xe, đem tờ báo chạy tọt qua lề đường và đặt ở ngay trên ngưỡng cửa. Ông vẫn để xe nổ máy, ngừng chờ, mắt theo dõi bước chân thoăn thoắt của bà chạy trên nền xi măng. Trong đầu của ông, bà luôn luôn hiện ra hình ảnh một người bạn đường tuyệt vời, chia xẻ với ông mọi điều, lúc vui vẻ cũng như khi buồn rầu, khi sung túc cũng như trong nghèo khó, lúc ốm đau cũng như khi khỏe mạnh. Trong những trạng huống ấy, bà đã thực hiện một cách triền miên và cụ thể lời rao giảng của cha xứ ngày nào cách đây hơn ba chục năm trong lễ hôn phối của hai ông bà.

Ông luôn luôn tự nhủ, ông là một người may mắn. Hôn nhân chẳng phải là một điều dựa trên sự may rủi hay sao? Ông nhận thấy, hồi này, trong tâm tưởng, ông thường hay ôn lại những tháng ngày của thời kỳ hai người còn son trẻ. Hình ảnh của bà hiện ra trong ý nghĩ của ông bao giờ cũng là một người khả ái, dịu dàng, lúc nào cũng tận tụy, gắn bó, chia xẻ với ông trong bất kỳ tình huống nào. Lòng ông cảm thấy xúc động, bồi hồi xen lẫn với cảm giác yên ổn, mãn nguyện như nhận thấy mình đã đi qua gần hết mọi quãng đường đời mà không thấy có điều gì phải tiếc nuối cả. Ðiều này khiến cho ông gìn giữ được niềm lạc quan trong đời sống cho dù rất vất vả, cực nhọc. Hơn thế nữa, ông còn cố gắng che giấu hoàn cảnh cực nhọc của mình để các con của ông khỏi buồn lòng. Cái Hương, cái Hạnh thường xuyên điện thoại hỏi thăm bố mẹ. Bao giờ ông cũng trấn an chúng nó bằng những tiếng cười ròn rã:

- Bố mẹ lúc nào cũng thấy vui vẻ, thoải mái, đừng có lo!

Cũng có nhiều lần cả hai chạy đến dấm dúi cho mẹ những tờ giấy bạc. Nhưng bao giờ bà cũng dẫy nẩy lên:

- Thôi cứ giữ lấy mà lo cho chồng cho con. Chừng nào cần, tao hỏi.

Sự quả quyết của bà khiến cho cả hai cùng cảm thấy yên lòng. Trong thực tế, họ cũng không biết rõ bố mẹ đã làm những gì để sinh sống ngoài ý niệm mơ hồ rằng bố quen thuộc nhiều bạn bè, nên có nhiều cơ hội để sẵn sàng có đủ mọi loại công việc, trong khi ấy, mẹ thì cặm cụi ngồi xâu chuỗi cườm kiếm thêm, kể ra cũng nhàn nhã, không lấy gì làm vất vả.

4.

Cho đến một hôm, ông Tâm cảm thấy mình khó nhỏm dậy được vào lúc một giờ sáng. Nằm ở giường bên kia, bà Tâm đã lên tiếng nhắc chồng đến hai ba lần:

- Một giờ rồi đấy ông.

Bà thấy ông cựa quậy, giở mình, nhưng rồi vẫn êm ru. Trong cơn nửa thức, nửa ngủ bà nghĩ ngợi lơ mơ, nhưng rồi bà chợt choàng dậy vì một cơn hốt hoảng từ đâu chợt ùa đến xâm chiếm trọn vẹn đầu óc của bà. Bà nghĩ đến ông, đến tuổi tác của ông, đến sức khỏe của ông có nhiều sút giảm thấy rõ sau những ngày tháng mò mẫm dậy từ lúc nửa khuya về sáng. Hôm nay ông không trở dậy đúng giờ là một điều bất bình thường. Bà bỗng thấy xương sống của mình lạnh buốt. Bà vội nhào qua bên giường của ông, cất giọng thất thanh:

- Ông làm sao thế?

Lại có tiếng của ông Tâm cựa mình. Bây giờ thì ông có vẻ tỉnh táo hơn. Ông nghển đầu lên, vừa thò tay bật nút đèn vừa cố nhoẻn một nụ cười trấn an:

- Có gì đâu! Có gì đâu!

Bàn tay của bà quờ quạng nắm được cánh tay của ông. Bà nhìn thẳng vào mắt ông như vận dụng bao nhiêu năm kinh nghiệm sống chung của mình để tìm hiểu xem thực sự chuyện gì đã xẩy ra cho ông. Ông Tâm lại nói:

- Tôi chỉ hơi mệt mệt một tị. Bà đừng có lo.

Rồi ông cố gắng ngồi dậy. Chân tay của ông cử động được dễ dàng, nhưng sao trái tim của ông thắt lại. Một cơ bắp nào đó đang co rút khiến cho một vẻ đau đớn thảng thốt vụt hiện ra trên nét mặt rúm ró của ông. Ông lại nằm vật xuống và bây giờ thì bà không còn giữ được bình tĩnh nữa rồi. Bà hối hả ngồi xuống,vực ông dậy, lòng tràn ngập lo âu, tiếng nói của bà đã ríu lại:

- Ông làm sao thế? Ông cảm thấy thế nào?

Ông Tâm yên lặng không trả lời. Ông còn đang bận tâm nghe ngóng xem cái cơ bắp trong tim mình vận hành ra sao. Nó đã rút lại khiến cho ngực của ông nóng ran lên, và đem lại cho ông cái cảm giác cực kỳ đau đớn. Ông nhắm nghiền mắt lại, vận dụng khả năng chống trả của mình, để ráng chịu đựng cơn đau. Ông nghĩ chuyện gì tới rồi nó cũng sẽ tới. Ông không có điều gì phải tiếc nuối cho cuộc đời đã có quá nhiều đắng cay vất vả của ông. Một lúc sau, bỗng ông cảm thấy như cơn đau đã giảm cường độ. Hình như có đường gân nào đó đang giãn trở ra. Nó giãn đến đâu, ông cảm thấy dễ chịu đến đó và lồng ngực của ông trở lại ấm áp như bình thường. Một cảm giác dễ chịu chạy lan từ thân mình xuống tới tận các đầu ngón chân. Ông vui vẻ nhe răng cười:

- Có gì đâu! Tôi thấy dễ chịu rồi.

Vừa nói ông vừa ngồi thẳng dậy. Cử chỉ của ông nhanh nhẹn như bình thường. Ông gỡ cánh tay của bà ra và nhẩy xuống khỏi giường. Mắt ông liếc qua chiếc đồng hồ để trên mặt bàn. Hai chiếc kim đã chỉ gần một giờ ba mươi. Vậy là ông đã bị chậm trễ mất hơn mười lăm phút. Cũng không hề hấn gì. Chỉ đóng gói các tờ báo lẹ chân, lẹ tay hơn một chút là đâu lại vào đó. Rồi ông lại sửa soạn như thường lệ và rồ xe ra đi.

Ông không thể biết rằng sau khi ông đi thì bà cũng không ngủ lại được nữa. Trong thâm tâm của bà đã lộ ra một ý nghĩ quyết liệt: phải chấm dứt cái nghề bỏ báo vất vả này cho ông càng sớm càng tốt. Áo cơm là vấn đề thiết thân thật, nhưng cũng không thể vì nó hy sinh toàn bộ sức khỏe của mình trong khi vẫn còn những đường lối khác để cứu vãn.

Bà đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện này, bỏ thì giờ chạy đôn chạy đáo để thăm dò trong đám bạn bè quen thuộc. Rồi vài ngày sau, bà báo tin với ông là bà đã tìm ra được một công việc mới. Ði coi nhà, nấu nướng và giữ em cho gia đình một cặp vợ chồng trẻ. Lương lậu không đủ chi trả tất cả mọi chi tiêu, nhưng cũng bù đắp được lỗ hổng một khi ông bỏ việc. Và bà yêu cầu chấm dứt việc đi giao báo hàng ngày. Ông giơ tay lên ôm đầu, giọng đầy xót xa:

- Ðã đến nỗi nào mà bà đã phải làm như thế.

Bà nghiêm khắc nhìn ông như bà đang nắm giữ trong tay tất cả mọi uy quyền. Cái quyền được bảo vệ sức khỏe cho ông. Giọng của bà chắc nịch:

- Không còn đường nào khác! Ông phải nghe lời tôi. Vả chăng ông đã chẳng thường nói chẳng có nghề nào lương thiện mà mình không thể làm. Giữ em cho người ta chứ có gì đâu mà ông phải băn khoăn.

Biết tính của bà mỗi khi ứng xử tùy theo từng hoàn cảnh, ông đành nhún vai buông xuôi.

5.

Thế là từ hôm ấy, bà để ông lái xe đưa bà đi làm lúc gần tám giờ, buổi chiều ông tới đón vào lúc bẩy giờ. Một tuần sáu ngày, trừ ngày Chủ nhật. Bọn cái Hương, cái Hạnh có gọi điện thoại đến hỏi thăm, bà dặn ông trả lời:

- Mẹ đi làm ở xưởng may. Lương bổng khá mà cũng không vất vả gì nhiều.

Mà quả thực, coi vậy chứ bà cũng không đến nỗi phải lao lực trong khi làm việc. Ðôi vợ chồng trẻ cùng có công ăn việc làm. Họ giao cho bà trông đứa bé mới vừa tròn ba tháng. Thằng bé ngoan ngoãn, tới giờ là bú sữa bình, bú xong thì nằm chơi trên chiếc giường đu đưa có gắn loại máy phát ra những bản nhạc êm dịu, nhẹ nhàng. Bản nhạc bao giờ cũng ru đứa bé vào giấc ngủ say sưa. Nhờ thế bà có dư thì giờ để dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa cơm chiều. Khi đôi vợ chồng trẻ trở về thì mọi sự đã gọn gàng đâu vào đấy. Cơm nước cũng sẵn sàng. Món ăn rất vừa miệng khiến nhiều lần cô vợ buột miệng khen ngon. Ðến nỗi có lần nàng đề nghị với bà:

- Cháu thỉnh thoảng có mời bạn bè ăn uống vào tối thứ bẩy. Những bữa đó, nhờ bác nấu nướng thêm đũa thêm bát giùm cho.

Rồi như sợ bà cảm thấy công việc trở nên vất vả hơn, nàng giải thích tiếp:

- Nấu cơm thường thôi chứ không bầy vẽ gì cả. Bởi nếu bầy vẽ thì cháu đã mời họ đi ăn tiệm. Ðằng này, chúng cháu chỉ gặp nhau hàn huyên trong không khí gia đình.

Bà Tâm vui vẻ nhận lời ngay:

- Thế thì được. Không phải tôi ngại vất vả, nhưng tổ chức tiệc tùng thì tôi nấu nướng không rành, sợ dở không ăn được. Chứ còn cơm thường thì đâu có sao.

Rồi bà kê ra một loạt những món ăn hàng ngày để tùy nghi lựa chọn.

Một ngày thứ Bẩy sau đó, bà bầy biện tươm tất một bàn ăn có tới tám người. Hai bát canh dưa nghi ngút khói đặt giữa những đĩa rau xà lách xanh tươi xen lẫn với những đĩa thịt kho nhừ, và thịt bò xào lẫn với những miếng khóm vàng tươi.

Người chủ nhà tiễn bà ra cửa lúc giờ về, đã nắm lấy tay bà cất giọng đầy cảm kích:

- Bác sửa soạn cho cháu thế này là chu đáo quá rồi. Tối nay chúng cháu tha hồ được vui.

Bà nhìn người vợ trẻ với ánh mắt đầy hân hoan. Bao giờ bà cũng tìm thấy niềm vui trong việc làm hài lòng người khác. Lúc ngồi trong xe trên đường về nhà, bà vui vẻ kể chuyện cho chồng nghe về công việc trong ngày của mình.

Cả buổi tối thứ Bẩy hôm đó, bà luôn luôn thấy lòng nhẹ nhõm, thanh thản. Bà có cảm giác như mình vừa hoàn thành một công việc trọng đại: cất được cái gánh nặng nề vất vả để gìn giữ sức khỏe cho chồng.

Duy có điều, nếu bà hình dung được những gì đã xẩy ra trong buổi tối hôm đó thì chắc niềm vui của bà không được trọn vẹn như thế. Bởi vì, trong đám bạn bè của đôi vợ chồng trẻ tụ tập hôm đó, lại có cả sự hiện diện của Hạnh và Hương.

6.

Lúc ngồi vào bàn ăn, mùi canh dưa bốc khói tỏa lên, làm cả hai xuýt xoa vừa nói với nhau, vừa nói với tất cả mọi người:

- Trời ơi! Tuyệt cú mèo! Ðã lâu lắm không được ngửi thấy mùi canh dưa.

Rồi Hạnh múc một muỗng nhỏ đưa lên môi nếm thử. Hương vị của muỗng canh làm đầu lưỡi của nàng tê đi và đồng thời làm thức dậy trong ý nghĩ của nàng những cảm giác xôn xao, quen thuộc. Hình như chứa ở sau cái vị bùi bùi, ngậy ngậy, chua chua là hình ảnh của khuôn mặt đầm đìa mồ hôi của mẹ nàng thấp thoáng sau nồi canh đang nghi ngút bốc khói. Rồi đâu đây, rộn rã vẳng lên những tiếng cười, không phải là tiếng cười của Hùng, của Hạnh, của Hương bây giờ mà là của cả ba người trong quãng thời thơ ấu ngày xưa, sau một ngày chạy nhẩy rông rài đầu làng cuối xóm, lòng dạ đói meo, tất cả cùng kéo nhau về tìm mẹ ở trong bếp để ríu rít đòi ăn. Mùi canh dưa y hệt như thế này, đã tỏa lan trong căn bếp chật chội, có mái thấp và những sợi mồ hóng rủ xuống từ những cái đà bằng tre nứa bắc ngang. Mẹ như một bà tiên hiền hậu, hai mắt long lanh, hai má của mẹ đỏ hồng. Mẹ cười như nắng tỏa lúc ban mai:

- Các con đi rửa tay chân rồi ăn cơm. Mọi thứ sẵn sàng hết cả rồi.

Lũ nhỏ chạy túa đi, như một bầy chim nhỏ vui tươi, ríu rít vì được che chở, được yêu thương, chăm sóc.

Trong khoảnh khắc, lòng Hạnh chùng xuống và nàng cảm thấy mùi canh dưa bây giờ đang tỏa ngát chẳng những ở bầu không khí chung quanh mà còn tràn ngập cả trong tâm hồn của nàng. Nàng liếc sang phía chị Hương và nhận ra ngay chị ấy hình như cũng đang trải qua một cơn xúc động. Nhưng rồi bất chợt, có tiếng của Hằng, cô bạn chủ nhà trẻ tuổi vang lên, đầy vẻ mãn nguyện:

- Các bồ đã thấy canh dưa tuyệt cú mèo không. Của bà Tâm, người làm mà chúng tôi mới mượn được đấy! Bà này nấu ăn phải nói là số một! Tai của Hạnh ù lên. Nàng không còn nghe thấy được tiếng xôn xao của các bạn bè khác đang thi nhau phát biểu ý kiến về những món ăn trên bàn. Nàng có cảm giác như bất chợt có một bàn tay lạnh lùng, tàn nhẫn nào xoè ra, nắm lấy trái tim của mình rồi xiết lại. Cơn đau ùa đến bất chợt làm Hạnh thót người lại, những nét nhăn nhúm chợt hiện ra trên khuôn mặt xanh xao và yếu đuối của nàng, và bỗng nhiên những giọt nước mắt chợt trào ra, chan hòa trên bờ mi làm khung cảnh sáng rỡ ở chung quanh bỗng nhiên trở nên nhòe nhoẹt. Ngồi chết sững ở đó, Hạnh không cất lên được một lời nào, nàng cũng không thể suy nghĩ thêm được một ý nghĩ nào khác ngoài sự nhận thức mơ hồ rằng chị Hương cũng đang đứng dậy. Một tay chị ấy xô cái ghế để lấy lối ra. Một tay giơ chiếc khăn ăn lên che kín gần cả khuôn mặt.

Hình như chị ấy đang hối hả đi tìm chỗ có phòng rửa mặt.

Nhật Tiến

Post Reply