Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
macco
Posts: 3542
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by macco »


TUỔI GIÀ NHƯ CON THUYỀN
KHÔNG BẾN


Bến mơ dù thiết tha,
thuyền ơi đừng chờ mong

(ĐTP)

Nào giờ, tui vẫn thích khí hậu Cali nói chung và san Jose nói riêng. Mười lăm năm sống ở đó tui thấy bình thường lắm, chẳng nhận ra khí hậu ở đó thật tuyệt vời. Nhưng sau này vì công việc, tụi tui dọn qua TX. Qua tới đây rồi mới biết khí hậu bên này oi bức quá, mùa đông lạnh hơn và muà hè thì nóng hơn. Chợt thấy tiếc cái khí hậu ôn nhu mình được hưởng suốt một thời gian dài. Chính vì vậy mà làn da của tui lúc đó được mọi người khen đẹp, đi đến đâu cũng có người hỏi tui dưỡng da bằng loại kem gì? thú thiệt, cái này trời thương mà phú cho chứ tui chẳng chăm sóc gì nhiều.

Ở TX hai mươi lăm năm, cái khô khốc khắc nghiệt của mùa hè, cái tê tái rét buốt của mùa đông, thêm tuổi già sồng sộc kéo tới, chúng nó đã xúm nhau tàn phá làn da của tui không thương tiếc. Giờ thì hởi ôi, tui nhìn tui trong gương mà muốn khóc thét.. vừa già, vừa sập xệ.. Ôi! thời gian, và nắng gió. Có những hôm mưa dầm, mây xám giăng giăng, tư lự một mình, chợt ngậm ngùi thấy thương một thuở thanh xuân. (Tui biết tui hay lằng nhằn, nhưng quí vị chịu khó cho tui than thở một chút nhen.)

Gần đây chăm sóc Mẹ già, có những hệ lụy buộc tui phải suy nghĩ. Có nhiều câu hỏi luôn hiện diện trong óc. Biết rằng ai cũng phải đi tới bước này, nhưng mình sẽ an bài cho chính mình như thế nào cho hợp tình, hợp lý đây?. Nhìn Mẹ tui ở tuổi 85 và những người cùng thời của bà mà chợt thấy thương thân. Thời đại Mẹ tui, không biết tiếng bản xứ, quen rau mắm, tương cà, cả đời chỉ gần con cháu trong nhà, thì làm sao mà vô viện dưỡng lão toàn người ngoại quốc ở được? tội lắm. Cũng may đám con nửa nạc, nửa mỡ. Sinh ở Vn, lớn ở Mỹ như tụi tui cũng hiểu được điều này, nên ráng tận sức trong điều kiện có thể.

Như Mẹ tui, bà không thể một mình, cần có người bên cạnh 24/7. Các con ai cũng đi làm cả ngày thì làm sao có thể chăm sóc bà. Mướn người thì không có. Do vậy cuối cùng các con phải chia nhau. Dù ở gần, nhưng một tuần bà phải di chuyển tới 3 căn nhà. Thêm nữa, theo chu kỳ, mỗi đợt tui hay chị hai qua chăm bà, thì lúc đó sẽ có căn nhà thứ 4. Đây là điều làm bà bực mình lắm. Nhưng hết cách. Lắm khi tôi thấy thương cho bà và gọi đùa bà là con thuyền không bến. Phận già cứ đi loanh quanh theo con, trong khi căn nhà to đùng của Mẹ bỏ hoang không ai ở, bên VN.

Mỗi lần qua San Jose là tui mượn nhà cậu em trai, đem mẹ về bên nhà đó với tui hai tuần. Cậu em chỉ phụ giúp coi mẹ khi cần chứ không chăm mẹ thường xuyên được như các chị em gái, nên mỗi khi chị hai, chị ba đến phiên, thì sẽ ở nhà cậu em này. Có những buổi sáng nắng hanh nhẹ, hai mẹ con ngồi ngoài ghế xích đu sau vườn ngắm chim, ngắm hoa trái, mẹ vui lắm, nhất là nhắc đến kỷ niệm lúc ba còn sống. Đang vui nhưng bất chợt nghe nói: hai ngày nữa con về, là mẹ sầm nét mặt, như một đứa con nít, lo lắng hỏi: Con về rồi mẹ làm sao? ở với ai. Tôi giải thích thì mẹ ầm ừ tỏ ra hiểu. Nhưng chỉ lúc đó thôi, rồi quên ngay. Lát sau lại hỏi nữa.

Có lúc tỉnh táo, bà buồn phiền: Tại sao không cho mẹ ở một chỗ mà phải di chuyển đi hoài? Các con lại giải thích: Tụi con đi làm cả ngày, mẹ ở nhà với ai? nghe vậy bà giẫy nẩy: mẹ sợ lắm, không dám ở nhà một mình đâu. Em gái nói: bởi vậy tụi con sắp xếp đi làm ngày khác nhau để thay phiên lúc nào cũng có người bên cạnh mẹ, để mẹ không phải lo lắng. Mẹ à một tiếng ra vẻ đã hiểu và bằng lòng. Nhưng rồi hôm sau lại quên và mẹ lại hỏi, con cũng lại trả lời.. cái vòng lẩn quẩn cứ thế mà xoay.

Tui tưởng chỉ mình mẹ tui trong cảnh này nên cảm giác buồn và thương tâm lắm. Nhưng đồng bịnh tương lân, hỏi thăm ra mới biết mẹ bạn tôi, bà sui của mẹ tôi, và nhiều bạn già khác.. giờ cũng đều trong tình trạng này. Đã đến lúc không thể ở một mình, giờ ở với đứa con này 2 ngày, đứa con kia 3 ngày, đứa con nọ 1 ngày.. cứ giáp vòng luân phiên, đều đặn đến hẹn lại lên, như con nước, sáng lên chiều xuống.. Biết vậy tui cũng vơi bớt cảm giác bất lực, cảm giác có lỗi. Cầu mong cứ kéo dài hoài như vầy cũng được, chỉ lo rằng bình iên này không biết bao lâu.? Cây đèn trước gió, ai biết được ngày mai.

Đó là những gì thời đại Ba mẹ tui đang trải qua. Nhưng tới thời đại chính tui thì sao đây? Tụi tui là ba rọi, nửa nạc nửa mỡ, chứ đời con tui, sinh đẻ, lớn lên bên này, mỡ tuốt luốt chứ kiếm đâu ra chút nạc.. mà cũng đâu phải 7-8 đứa con. Thời nay chỉ 1-2 đứa. Chắc lép gì nữa, phải tự lo thân thôi. Chuẩn bị tư tưởng, gói ghém hành trang mà đi vào nơi gió cát thôi. Ôi cái thân già, tuy khác kiểu một chút nhưng rồi cũng sẽ là một con thuyền không bến..

.. ánh trăng mờ chiếu,
một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la,
thuyền mơ bến nơi đâu.?


(ĐTP)
Seattle 7-2021

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Image

VÌ SAO CHIẾC ÁO CẦN CÓ 5 CÚC ?



Ngày ấy, tôi là một thợ may nghèo, không có tay nghề nên chỉ dám mở một cửa hiệu nhỏ chủ yếu nhận đồ sửa chữa quần áo là chính. Một lần, được một Anh bạn thân tặng một quyển sách tự học cắt may.
Giọng Anh vui vẻ:
- Thấy Em khéo tay nên Anh tặng Em quyển này biết đâu lại giúp được gì cho nghề nghiệp.
Từ đó , tôi bắt đầu học cắt may một cách say sưa.
Khi bước đầu có chút kiến thức về nghề rồi được nhiều người động viên, tôi liều mở một cửa hiệu khá to ngay trên mặt phố. Cửa hiệu của tôi khá đông khách. Ngoài ra còn có cả hơn chục người tới xin học việc.
Chưa thật sự có nhiều Kiến thức và tay nghề cũng chưa cao nên mỗi khi định dạy Học sinh cắt cái gì thì tối hôm trước, tôi ôn luyện cái đó, nghĩa là theo kiểu “cơm chấm cơm” như người ta thường nói. Vậy mà Học sinh không hề phát hiện mà còn khen:
- Chị giảng dễ hiểu như Giáo viên vậy.
Ngày ấy tôi thường rất tự hào.
Nhưng có một lần…
Một bác khách hàng đến may chiếc áo bà ba. Áo bà ba rất khó cắt mà tôi lại chưa cắt bao giờ nên lưỡng lự muốn từ chối. Nhưng cuối cùng tôi liều nhận lời vì không muốn mọi người biết là mình còn yếu kém sẽ bị giảm uy tín.
Hôm cắt chiếc áo bà ba, tôi đã thức trắng một đêm mò mẫm từng chút một, cuối cùng thì nó cũng thành. Rồi khi may cũng vậy, tôi cẩn thận từng đường kim mũi chỉ, tự tay là phẳng phiu rồi treo lên chiếc móc, ngắm nghía gật gù ra chiều thích thú.
Bác khách hàng rất thấp, chỉ đến vai tôi nên chiếc áo ngắn cũn cỡn. Khi đơm cúc thấy chia khoảng cách làm năm như thông thường thì quá dầy.Vì vậy nên tôi quyết định chia làm bốn cho cân xứng với chiếc áo. Làm xong việc ấy, tôi cảm thấy rất lí thú vì nghĩ mình đã có một cách tân tuyệt vời, chắc hẳn sẽ được Khách hàng ưng ý.
Đúng hẹn, Bác khách hàng đến lấy và mặc thử. Bác soi gương, ngắm trước ngắm sau rất lâu. Tôi thì thót tim, chỉ sợ Bác ấy chê xấu và bắt đền. May quá, Bác cởi ra và bảo tôi cho vào túi. Tôi vui sướng như mở cờ trong bụng.
Đang gấp chiếc áo tự nhiên Bác ấy cầm tay tôi và bảo:
- Ơ ! Sao Em đơm cho Chị có bốn cái cúc thế này?
Tôi giải thích:
- Vì cái áo ngắn quá nên đơm năm cúc nhìn rất xấu. Em đã thử đặt rồi nhưng nhìn rất vô lý!
Đây là sự cải tiến của Em đấy, Chị biết không.
Bác hơi cau mày:
- Nhưng từ xưa đến giờ không ai làm như thế! Áo thì phải có năm cúc chứ Em!
Tôi hơi phật ý:
- Em đã nói rồi. Đây là một cải tiến của Em. Chị mặc trông đẹp mà.
- Nhưng áo thì phải có năm chiếc cúc mới đúng. Cải tiến gì thì cũng phải tôn trọng Truyền thống , Em ạ !
Câu đi câu lại nhưng có lẽ Bác ấy cũng không phải là người quá khó tính nên đã nhận chiếc áo với vẻ mặt không vui. Còn tôi thì thầm nghĩ, Bác ta thật vô lý, đã làm đẹp cho mà lại không biết điều.
Tuy trả được chiếc áo nhưng suốt cả ngày hôm đó tôi làm việc trong Tâm trạng không thoải mái, bứt rứt khó chịu và thắc mắc rất nhiều về cái áo, tại sao nhất định cứ phải là năm cúc mà không phải là bốn hay sáu…
Hôm sau, tôi về nhà lục tung hòm quần áo của Mẹ lên và đếm gần chục chiếc áo cả cũ lẫn mới và thấy cái nào cũng 5 chiếc cúc cả. Nghĩ lại câu nói hôm qua của Bác khách hàng “cải tiến nhưng cũng phải tôn trọng truyền thống em ạ” tôi bỗng cảm thấy hình như mình đã có điều gì không phải.
Từ sau ngày ấy mỗi khi ra đường tôi thường nhìn chằm chằm và những người Già mặc áo bà ba để đếm từng chiếc cúc như người lẩn thẩn. Và đúng là chiếc áo bà ba nào cũng có đủ năm chiếc cúc.
- Lạ thế !
Nhiều năm trôi qua, tôi bỏ nghề may chuyển sang nghề bán hoa tươi, quên dần Bác khách hàng năm xưa. Câu chuyện cũ cũng tưởng như trôi vào quá khứ.
Một buổi chiều tôi đang cắt những tờ báo cũ để gói hoa cho Khách thì bất chợt nhìn vào góc tờ báo có dòng chữ: “BÍ MẬT NĂM CHIẾC CÚC ÁO”.
Như người chết đuối vớ được cọc, tôi cầm tờ báo đọc lấy đọc để.
Câu chuyện kể rằng:
* Ngày xưa học trò toàn mặc áo bà ba, trên chiếc áo quy định năm chiếc cúc là tượng trưng cho năm đức tính của con người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Mỗi lần Thầy giáo gọi học trò lên bảng đầu cúi thấp khoanh tay trước ngực, khi trả lời không được, Thầy giáo thường bắt trò vân vê 5 chiếc cúc áo và bắt nói về ý nghĩa của từng chiếc cúc một.
Chiếc cúc áo trên cùng là chữ NHÂN , Người thiếu chữ NHÂN sẽ trở thành Kẻ độc ác.
Chiếc thứ 2 là chữ NGHĨA , Người thiếu chữ NGHĨA sẽ trở thành Kẻ bội bạc.
Cứ như vậy cho đến chiếc cuối cùng.
Chao ôi ! Tôi vừa sung sướng vì đã giải được những thắc mắc của mình mấy chục năm nhưng lại xấu hổ về sự thiếu hiểu biết của mình. Giá như ngày ấy tôi hiểu được ý nghĩ của từng chiếc cúc áo thì đâu dám cả gan “cải tiến” cái áo bà ba thành bốn cái cúc như vậy.
Hóa ra, sự cách tân của tôi chỉ là một việc làm liều lĩnh và điên rồ.
Sáng nay trời chớm Đông se lạnh, tôi mở tủ để lấy quần áo, tự nhiên tôi lại chọn cho mình cái áo có đủ 5 chiếc cúc để mặc và chợt nghĩ đến Bác khách hàng thấp bé ngày nào.
Bây giờ không biết Bác đang sống ở nơi đâu. Nếu đọc được những dòng này, xin Bác hãy quay lại gặp tôi ở cửa hàng hoa Minh Châu thuộc tổ 1, phường Hoa Chè, thành phố Sông Phượng.
Gặp lại Bác, dù không còn làm nghề may nữa nhưng tôi nhất định sẽ tưởng nhớ lại nghề cũ để may đền Bác một chiếc áo bà ba thật đẹp, có đủ năm chiếc cúc.

HỒ QUỲNH CHÂU

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »

Tình Yêu
Mặc-Bích


Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!
-“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”
Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
-“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”
Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
-“Con chơi, con phải ‘take care’ nó đó!”
-“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
-“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
-“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”
Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
-“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”

Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương, nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.

Từ đó trong nhà nàng có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép, trừ khi có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy nó nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì, rồi thương hại Duy lại thôi.


Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.
Duy la lên: “Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng: “Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!”
Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dạy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.

Vài tháng trôi qua, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!

Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ: “Joshua chắc bị ‘shock’ nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!

Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao…
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
- “Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?”
- “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”

- “Con trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
- “Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
- “Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
- “Cậu con bà có thích con Joshua không?”
- “Chúng tôi quý nó lắm... có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
- “Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
- “Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách. Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
- “Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
- “Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
- “Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.

Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão: “Alice Park! Alice Park!”
Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn, bạc thếch theo với thời gian! Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí, hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp!
Những đôi mắt u uẩn, hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm! Như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt, mà những ngôn từ; động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây, chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia!!!
Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào, ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
- “Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh:
- “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong, rồi quẹo trái; đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
- “Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội, làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
- “Nó tên gì vậy bà?”
- “Joshua!”
- “Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú! Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo: “Nó thích đàn bà, con gái Mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!

Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng! Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa. Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người, mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất!!!
Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác, theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia, mà đã có một lần họ đã sống qua! Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó, để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô- độc chăng???
Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu, và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.
Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch, và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi!
Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp, mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
- “Love ya, Mama! Love ya, Mama!”
Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan! Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão, dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run, mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào! Chỉ có đôi mắt chớp khẽ!!! Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc, chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống!!!
Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
- “Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”.
Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại! Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị! Làm như thế gian này, chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất! Không có gì có thể chia lìa!!! Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi, nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên! Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà! Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được!!! Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
- “I love you too. Joshua! Mama love you!”
Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng, và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang, suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
- “He hurt me!”
Bà sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
- “My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore! Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua???”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
- “Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
- “No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
- “No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
- “Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà, chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi! Hương thấy ngay điều này, nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
- “Vâng!”
Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai, mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây! Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi, nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.
Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì, mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè, nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó, và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành! Một đành đoạn chia ly tất nhiên!!! Nàng dựa lưng vào băng ghế, nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu; rồi lìa cành! Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất! Có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống! Có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây, đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất, để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước!!! Nhưng có một điều chắc chắn, những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia; nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa! Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống! Tình yêu! Nỗi chết! Rồi cũng chỉ như thế thôi!!!
Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:-”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy???
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa??? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau! Có nhau! Cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa! Và những ngày kế tiếp, có còn đến nữa hay không!!!
Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: “2:30 chiều!” Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về! Joshua phải trở về căn phòng của Duy, và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống! Chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!!!

Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa! Joshua đang đậu trên thành giường! Còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người! Nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn! Trông bà ta có vẻ mệt mỏi!!! Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi, nhìn Hương rồi hỏi:
- “Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
- “Qua con két này!”
- “Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
- “Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
- “Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên, từ lúc gặp gỡ, Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:
- “Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa! Mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
- “Joshua!”
- “Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
- “Ồ nó nói được!”
- “Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
-“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
- “Love ya, Mama! Go home!”
Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà lão nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây, nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
- “Go home, baby! You cannot stay here. I have no home now! Go, baby! ... Go...”
Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
- “Nó ở lại với bà cụ được không cô?”

Cô y tá lắc đầu:
– “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”
Hương lặng im!!!
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice! Chỉ giữa con két xanh và bà lão!!! Nó bay lên và đậu vào vai Hương, nhưng vẫn kêu lên:
– “Love ya Mama!”
- “I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
- “Cám ơn cô... đã mang Joshua đến đây! Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì… vui lắm!!!”
Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice, và nhẹ nhàng nói:
- “Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
- “Cám ơn cô! Cám ơn cô nhiều lắm!!!” .
Nàng đi ra, và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian!!!
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương ???

-Mặc Bích-

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by khieulong »

Image

Ba Tôi! Người Đánh Máy Mướn!
Đoàn Xuân Thu
Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não rồi chết. Thân phụ tôi đang làm Trưởng Ty Bưu Điện Rạch Giá buồn bã quá, xin đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Điện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Đường dắt cả gia đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau! Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Điện trên đường Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Định.

Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dể thở của các công chức bậc trung.

Nhà đông con, vật giá ngày một tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn, tiền quần áo, tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm ‘job’ nữa. Đánh máy mướn!

Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm, vừa học, thi đậu cải ngạch thành Cán Sự Bưu Điện, nên Ba đánh máy rất nhanh, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần nhìn vào bàn phím chữ. Đánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào rào đổ trên mái tôn. Mưa!

Cuối đường Phan Đình Phùng, đi về phía Chợ Lớn, rồi quẹo tay phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn chia, tứ lục, 6/4.

Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy ‘stencil’. Đó là loại giấy có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.

Khách hàng đến là các giáo sư, mướn đánh máy bài giảng ở trường đại học, bán ‘cours’ cho sinh viên. Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam… Họ mang những bản thảo viết tay, thường là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết. Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.

danh-may-muon-4Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông, đi làm theo giờ hành chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng ở cuối đường Phan Đình Phùng để làm cái ‘job’ thứ hai. Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều, để quay trở về Hai Bà Trưng, Tân Định.

Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; nhưng 8 anh em tôi thì đã đi ngủ mất rồi. Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát Đại Đồng, mua vài ổ bánh mì về cho con. Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn, rồi bảo: “Ăn đi con!”. Ăn thì khoái thiệt nhưng ‘bù ngủ’ híp con mắt luôn! Em gái tôi cắn miếng bánh mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn… ngủ tiếp. Ba lại bế từng đứa, cho vào giường ngủ.

Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ sông… Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá, bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó! Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời không phải vất vả như ba!

Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác thường là bị dèm pha, xúc xiểm, ganh tị… nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất lớn và là chính của Ba luôn?

Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Đỡ cho Ba không phải lo tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám ‘cúp cua’ đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường tư lại nổi tiếng dạy hay hơn! Vì dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!

Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to. Thầy Trường, dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui cho Ba. Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá trời! Sao mà khổ dữ vậy? Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa, thì có gì là lớn đâu? Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi!

Rồi khi thi đậu Tú tài một rồi hai, Ba cũng mừng như chính Ba thi đậu vậy! Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành Luật Sư chẳng hạn… Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị áp bức, bị đối xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu. Phải biết Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?

Tôi thì thấy chồng ‘Cours’ là đã ‘ớn’. Lại phải tốn rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, con đường Duy Tân đó, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng diện, ẹo tới, ẹo lui?

Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch, con nhái mà Ba muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”. Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi cứ ‘thản nhiên’ như không? Trời ạ!

Sau nầy vào Đại học Sư phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói: “Thôi không làm luật sư; làm giáo sư cũng được!”. Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung học Đệ nhứt cấp ‘quèn’ mà thôi?!

***

danh-may-muon-5Rồi 75 đến, nhà tôi cũng sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than? Đi tù cải tạo sáu tháng vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty.

Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách đàng hoàng, tề chỉnh. Đêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm; bị cán bộ phê bình là còn giữ tác phong ‘tiểu tư sản’?

Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để nuôi đàn con mà nhiều đứa em tôi vẫn còn thơ dại. Ba vẫn ăn mặc rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải tạo.

Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ Ba đánh đơn gởi Tổng Thống François Mitterrand để xin đi định cư. Là người học chương trình Pháp, Ba viết thơ cảm động làm sao đến nỗi ông Chánh Văn Phòng của Tổng Thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và chỉ thị cho bổn chức chuyển hồ sơ qua Bộ Ngoại Giao để làm các bước tiếp theo!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi Pháp định cư.

Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi vùng kinh tế mới, khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là ông Trưởng Ty như ngày cũ?! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại giúp ông làm đơn gởi cho bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Đơn thành công và ông được ra đi!

Trước ngày đi, bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi không biết chừng nào mới có dịp gặp lại ông Trưởng Ty” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!

Raoul Wallenberg (1912 –1947), nhà ngoại giao Thụy Điển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Điển ở hải ngoại. Ngày 17.1.1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và ông chết ngày 17.7.1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi không đập nữa!

Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, được có một cuộc đời khả dĩ tốt đẹp như xưa.

Chỉ có một trái tim nhân đạo mới dám, mới làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”

***

Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt lãnh Ba và các anh em qua. Rồi cả gia đình đoàn tụ!

Đêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài nầy nhân Father’s Day bên Mỹ, tôi lại nhớ đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba, gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học, đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!

Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 20 năm chẵn. Tiếng gõ trên bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi… vẫn còn vang động đâu đây! Nhớ và thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược gió.

Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục đầu xuống bàn… mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con đậu vào đệ thất.

Người ta cần tới Father’s Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của tháng sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của tháng chín ở Úc để kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân! Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống, cho đến lúc nào đó con sẽ được gặp lại Ba!

đoàn xuân thu
melbourne

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by hoangphong »

Image Cái mặt


Con người có cái mặt là quan trọng nhất. Thật vậy, nếu lấy cái mặt bỏ đi, tất cả những gì còn lại trên thân thể sẽ không dùng vào đâu được hết và cũng không còn tồn tại được nữa. Không có mũi để thở, không có miệng để ăn…,con người không có cái mặt là kể như “tiêu tùng”!


Trước khi “đào sâu” cái mặt, xin mở dấu ngoặc ở đây để “vinh danh” tiếng Việt: phần lớn những gì nằm trên cái mặt đều bắt đầu bằng chữ “m,” trên thế giới chưa có thứ tiếng nào như vậy hết! Ðây, nhìn coi: trên mặt có mắt, mũi, miệng (mồm), má.

Ở “mắt” có mày, có mi, có mí mắt, rồi mắt mụp, mắt mọng nước, mắt mơ màng, mắt mơ mộng, mắt mờ, mắt mù…Qua tới “mũi,” ngoài “mùi” ra không thấy chữ “m” nào khác dính vào. Có lẽ tại vì cái mũi nó…cứng khư, không…linh hoạt.

Ấy vậy mà nó – cái mũi – và “chân mày” (cũng kém linh hoạt như cái mũi!) lại được đi kèm với cái mặt để…hỗ trợ cho tiếng “mặt,” trong từ ngữ thông thường: “mặt mũi,” “mặt mày,” làm như nếu nói “mặt” không, phát âm nghe…trơn lùi, nhẹ hểu không lọt lỗ tai! Cho nên người ta nói “mặt mũi bơ phờ,” “mặt mày hốc hác,” chớ ít nghe “mặt bơ phờ, mặt hốc hác.”

Bây giờ tới “miệng” thì có môi, có mép rồi mồm mép, môi miếng, miệng méo, miệng móm, mím môi, mếu máo, mấp máy, bú mớm, mút mấp…Ðến “má” thì ngoài “mụt mụn” chỉ có “mi một cái” là còn thấy chữ “m” nhè nhẹ phất phơ…Tiếng Việt hay quá!

Trở về với cái mặt. Ông Trời, khi tạo ra con người, ban cho cái mặt là một ân huệ lớn. Nhờ có cái mặt mà con người nhận ra nhau, chồng nhận ra vợ, con nhận ra cha, biết ai là bạn ai là thù v.v…Thử tưởng tượng một ngày nào đó bỗng nhiên không ai còn cái mặt nữa. Nếu có sống được nhờ một sự nhiệm màu nào đó, thử hỏi con người lấy gì để nhận diện nhau?

Chồng vợ, cha con, bạn thù gì đều…xà ngầu. Vậy là loạn đứt! Cho nên xưa nay, người ta coi trọng cái mặt lắm.

Có người còn nói, “Thà chịu mất mạng chớ không bao giờ để cho mất mặt”! Vì vậy, rủi có ai lỡ lời chạm tự ái một người nào thì người đó thấy bị…mất mặt, liền đưa một nắm tay lên hăm he: “Thằng đó, bộ nó giỡn mặt tao hả? Tao phải dằn mặt nó một lần cho nó biết mặt tao”

Rồi, bởi vì cái mặt nó…nặng ký như vậy cho nên khi nói về một người nào, người ta chỉ nhắm ngay vào cái mặt của người đó để mà nói. Nếu ghét thì gọi “cái bảng mặt” (Cái mặt mà như tấm bảng thì thiệt tình thấy chán quá!

Thường nghe nói, “Cái bảng mặt thằng đó tao coi hổng vô!”) Nếu hơi khinh miệt thì gọi “cái bộ mặt” (“Thằng này có bộ mặt ăn cướp!”) Còn khi thương thì cái mặt trở thành “cái gương mặt” (“Em có gương mặt đẹp như trăng rằm!”)

Chưa hết! Khi nổi giận muốn… hộc máu, người ta cũng chỉ nhắm vào cái mặt của đối thủ chớ không chỗ nào khác để “dộng một đạp”hay “cho một dao” hay “phơ một phát” hay…“tạt một lon ác-xít”! Bởi vậy, xưa nay những người có “nợ máu” lúc nào cũng sợ bị “nhìn mặt trả thù,” và hồi thời chống Pháp, những điềm chỉ viên đi nhìn mặt “quân phản loạn” đều lấy bao bố trùm đầu để giấu mặt!

Con người, khi nhìn người khác, lúc nào cũng bắt đầu ở cái mặt (Chỉ có người không..bình thường mới nhìn người khác bắt đầu ở cái chân hay cái bụng hay cái lưng!) Ở đó – ở cái mặt – ngoài cái đẹp cái xấu ra, còn hiện lên “cái mặt bên trong” của con người. Các nhà văn gọi là “nét mặt,” nghe…trừu tượng nhưng suy cho kỹ nó rất đúng.

Bởi vì chỉ có cái mặt là…vẽ được cái nội tâm của con người thật đầy đủ. Cho nên mới có câu “Xem mặt mà bắt hình dong” (hình dong ở đây là cái hình dong giấu kín bên trong con người) Cho nên, trên sòng bài, các con bạc thường “bắt gân mặt” nhau để đoán nước bài của đối thủ.

Cho nên mấy “giáo sư chiêm tinh gia” lúc nào cũng liếc sơ cái mặt của thân chủ trước khi nâng bàn tay lên xem chỉ tay, để..định mức coi “thằng cha này nó sẽ tin mấy phần trăm những gì mình nói”! Thì ra, đời người không nằm trong lòng bàn tay như mấy “thầy” đó nói, mà nó nằm ngay trên nét mặt!

Cũng bởi vì cái mặt nó…phản động như vậy cho nên các “đỉnh cao trí tuệ của ta” đã nâng cao cảnh giác, ẩn mặt một cách…an toàn suốt giai đoạn đấu tranh “chìm”và chỉ “xuất đầu lộ diện” khi toàn dân đã vùng lên nổi dậy. Và các “đồng chí vĩ đại của ta” thay tên đổi mặt lia chia để đánh lạc hướng kẻ địch, nay để râu mai thay tóc mốt cạo đầu v…v…

Họ ôm khư khư cái mặt để…”quản lý” nó từng giây từng phút, chỉ sợ nó để lòi ra cái mặt thật nhét giấu ở bên trong, riết rồi nó xơ cứng như mặt bằng đất. Ðến nỗi vào bàn hội nghị quốc tế, các đối tượng không làm sao “bắt gân mặt” để “đi” một nước bài cho ngoạn mục!

Ở đây, phải nói thêm cho rõ là cho dù trong nội bộ với nhau – nghĩa là giữa “ta” và “ta” – cái mặt vẫn bị quản lý y chang như vậy, bởi vì hành động đó đã biến thành “bản năng” từ khuya!

Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi thấy sau hội nghị, mới ôm “hôn nhau thắm thiết tình đồng chí” mà trên đường về lại khu bộ có cán bộ đã bị “bùm”hay bị “cho xe rơi xuống hố” một cách rất….bài bản, để lại niềm “vô cùng thương tiếc” nằm trên vòng hoa phúng điếu của người đã ra lệnh hạ thủ!

Có khi chính “đồng chí” này là người thay mặt tập thể, đứng ra….rớt nước mắt đọc điếu văn! Ở đây, ông bà mình nói: “Phải muối mặt mới làm được như vậy.” Thật là chí lý! Cái mặt đã muối rồi thì đâu còn sợ….bị thúi hay bị sình! Ta cứ tỉnh bơ thôi!

Bởi cái mặt nó phản ảnh con người nên hát bội mới “dặm mặt“sao cho đúng với cái “vai“ Ðể khi bước ra sân khấu, khán giả nhận ra ngay “thằng trung, thằng nịnh, thằng hiền, thằng dữ” v.v…Ngoài đời, không có ai dặm mặt, nhưng vẫn được người khác “nhận diện” là : thằng mặt gà mái, thằng mặt có cô hồn, thằng mặt..mẹt, mặt mâm, mặt thớt, mặt hãm tài, mặt đưa đám, mặt trù cha hại mẹ, mặt…mo…v.v…

Sau tháng tư 1975, người dân miền Nam đã được Nhà Nước “vẽ lọ bôi hề” thành những khuôn mặt … không giống ai, để đóng vai “nhân dân làm chủ” trên sân khấu cách mạng, trong vở trường kịch “Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”!

Trên sân khấu chánh trị Việt Nam bây giờ, trong cũng như ngoài nước, “đào kép” tuy không dặm mặt như nghệ sĩ hát bội nhưng mỗi người đều có “lận lưng” vài cái mặt nạ để tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà đeo lên cho người ta “thấy mình là ai” (dĩ nhiên không phải là cái mặt thật của mình). Rồi cũng “phùng mang trợn mắt hát hò inh ỏi” một cách rất…tròn vai, làm “bà con đồng bào, đồng chí, đồng hương” cứ thấy như thiệt! Ðiểm đặc biệt là ông nào bà nào cũng muốn thiên hạ chỉ nhìn thấy có “cái mặt của mình” trong đám bộ mặt đang múa may quay cuồng trên sân khấu.

Vì vậy, họ phải rán bơm cho cái mặt của mình to bằng…cái mâm (mặt mâm), cái nia, để thấy họ mới đúng là …“đại diện”! Chẳng qua là họ muốn tạo thời cơ để kiếm cho cái…đít của họ một cái…ghế! Ðến đây thì vở tuồng trên sân khấu đang chuyển sang lớp “gà nhà bôi mặt đá nhau”…Cái mặt đã trở thành “một vấn đề”!

Ðể chấm dứt bài này, và cũng để được yên thân, xin phép độc giả cho tôi “vác cái mặt của tôi đi chỗ khác”!

Tiểu Tử

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by hoangphong »

Con Cò Lặn Lội Bờ Sông

Con Cò Lặn Lội Bờ Sông... Viết tặng Bố Mẹ yêu quý của con. Nhiều nguời không hiểu đuợc vì sao Bố tôi về già lại thuơng yêu quý trọng Mẹ tôi đậm đà hơn khi ông bà còn trẻ, nhưng tôi thì hoàn toàn có thể hiểu đuợc. Ngoài tình thuơng yêu một nguời vợ hiền đảm đang, Bố còn trân trọng Mẹ đã muời mấy năm trời thay mặt Bố nuôi dạy năm đứa con nên nguời, và biết ơn Mẹ nguời bạn đời can đảm thủy chung đã luôn sát cánh bên cạnh ông trong những năm tháng đen tối nhất trong cuộc đời của ông.

Truớc năm 1975, Bố làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến, Mẹ đi dạy học ở một ngôi trường gần nhà, cuộc sống của gia đình nhỏ chúng tôi êm đềm như hàng trăm ngàn gia đình khác ở Saigon lúc bấy giờ. Bố Mẹ tôi đều là nhân viên cao cấp nơi ông bà làm việc, với rất nhiều cơ hội đuợc đút lót và hối lộ, nhưng Bố Mẹ tôi sống rất trong sạch. Bố Mẹ luôn dạy chúng tôi, sống ở trên đời, đồng tiền mất đi còn có thể gầy dựng lại đuợc, nhưng lòng tự trọng một khi đã mất rồi thì khó lòng có thể thay thế. Tuy thanh bạch, nhưng gia đình chúng tôi vô cùng hạnh phúc.

Thế rồi, một ngày đen tối của tháng Tư năm 1975 đã thay đổi cuộc sống của gia đình tôi, và của tất cả nguời dân trong đất nuớc Việt Nam này. Chín tuổi đầu, tôi không hiểu đuợc cảnh hoảng loạn trên đường phố lúc bấy giờ, tôi cũng không nhận ra đuợc những ánh mắt sợ hãi, hoang mang của những nguời dắt dìu nhau chạy ngoài phố, tôi chỉ biết đuợc trong những tháng ngày sau đó, Bố tôi bỗng trở nên xa vắng trầm ngâm, còn Mẹ thì tất bật vất vả hơn mới lo đủ bữa ăn trong gia đình. Anh chị em chúng tôi tuy còn nhỏ, nhưng cũng cảm nhận đuợc cả một trời mây u ám che phủ ngôi nhà mình, năm đứa chúng tôi chỉ dám ngồi nơi góc nhà, ráng thu mình thật nhỏ lại, để không làm phiền đến Bố Mẹ. Chị lớn của tôi vẫn thì thầm với chúng tôi, “Chị cũng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng dù sao, mình vẫn còn Bố Mẹ ở đây, các em đừng lo sợ gì hết nha!”Vẫn còn Bố và Mẹ! Vâng, Bố và Mẹ là miếng phao mà trong cơn sóng dữ chập chùng lúc đó, tất cả chúng tôi đều bám víu vào, với tất cả lòng tin tưởng và thơ ngây biết bao.

Than ôi, miếng phao mỏng manh đó cũng sớm tan thành mảnh vụn, khi một ngày giữa tháng 6, Bố tôi khăn gói ra đi trong một chuyến gọi là, “một tháng học tập cải tạo”. Một tháng, vâng, nguời ta hứa hẹn một tháng rồi Bố tôi sẽ trở về. Một tháng tất cả các bác, các chú sẽ “cải tạo” xong rồi trở về! Một tháng đó đã trở thành thiên thu cho những chú bác một lần vĩnh viễn nằm xuống trên Đồi Chè Vĩnh Phú, đã trở thành cơn sốt rét rừng hành hạ suốt đời cho những chú bác đã từng bị giam hãm ở những nơi rừng thiêng nuớc độc. Một tháng đó đã trở thành năm bảy năm cho những chú bác trở về tìm thấy gia đình mình tan tác khắp nơi, đã trở thành chín muời năm cho những chú bác quay về với tấm thân tàn tạ, những căn bệnh mãn tính đeo đẳng. Một tháng đó đã trở thành muời ba năm tù tội cách biệt, muời ba năm khổ xác và lao tâm cho Bố tôi. Một tháng đó đã trở thành cơn ác mộng muời ba năm cho Mẹ tôi một mình chèo chống dắt dìu năm đứa chúng tôi qua cơn bão tố, là đoạn đường dài gian truân mà Mẹ tôi đã gánh gồng một vai nuôi chồng, một vai chống đỡ với những áp lực nặng nề của một xã hội mới, đầy định kiến với những gia đình như gia đình tôi.

Ngày hôm nay, mỗi lần có dịp nhắc nhở về những năm tháng khắc nghiệt đó, Bố tôi đều kết thúc câu chuyện bằng đôi mắt âu yếm nhìn Mẹ. Bố hiểu rằng, và tất cả chúng tôi cũng đều hiểu rằng, nếu không có Mẹ, dù mảnh mai, nhưng vô cùng bền chắc, làm sợi dây kết nối, thì có lẽ gia đình chúng tôi không có đuợc ngày hôm nay. Bố vẫn nhắc đến lần đầu tiên sau bao năm trời tù giam biệt xứ, Mẹ là một trong những nguời đầu tiên đã lần mò tìm đuợc đường lên thăm chồng tại Vĩnh Phú, một trại tù năm sâu trong vùng rừng núi Bắc Việt. Bố đã hãnh diện biết bao với anh em bạn hữu trong trại, cũng vui mừng biết bao, vì Mẹ đến thăm Bố, cùng với bao nhiêu luơng thực và thuốc men tiếp tế, đã cả về mặt vật chất lẫn tinh thần kéo Bố ra khỏi vực sâu kề cận của Đồi Chè, nơi các bác các chú không may đã vĩnh viễn nằm xuống, không bao giờ còn ngày trở về. Bao năm trôi qua, như trong những câu chuyện cổ tích, để kết thúc có hậu luôn dành cho nguời hiền, gia đình chúng tôi đã vuợt qua những tháng ngày tăm tối đó, đã về được bến bờ bình yên và sống yêu thuơng hạnh phúc cùng nhau.

Tôi không muốn nhắc và càng không muốn nhớ đến cơn ác mộng năm cũ nữa, và thật lòng ngỡ mình có thể quên đuợc đoạn đường ngày xưa gian truân đến chừng nào… Cho đến ngày chú tôi hỏi và yêu cầu tôi viết cho chú về chuyến đi thăm nuôi Bố. Để ôn lại những chi tiết về chuyến đầu tiên thăm nuôi Bố tại Vĩnh Phú, tôi lần giở lại trang nhật ký của những ngày tháng đó, và không khỏi bàng hoàng khi nhận ra những cảm xúc cũ, nhưng hoang mang sợ hãi xưa vẫn còn chực chờ trong lòng tôi để sống lại.

Tôi, con bé muời ba tuổi năm xưa đã trưởng thành đến chừng nào khi cùng Mẹ vuợt qua đoạn đường gian khổ ấy để tìm gặp đuợc Bố.... Mùa Hè năm 1979, gom góp hầu hết tài sản còn lại để mua sắm luơng thực thuốc men cho bố, Mẹ giao bốn anh chị tôi ở lại với ông ngoại và dắt tôi tìm đường đi thăm bố. Tất cả những ai chưa từng phải sống trong chế độ Cộng Sản chắc sẽ không thể nào hình dung đuợc những chuyện vô cùng đơn giản như mua một chiếc vé xe lửa đi từ Nam ra Bắc cũng trở thành một chuyện khó khăn đến nực cuời. Tôi nhớ hai anh em tôi phải chở nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ đến gần một tiếng đồng hồ mới đến đuợc ga Bình Triệu, nơi duy nhất bán vé xe lửa tàu Thống Nhất đi xuyên Việt. Đến nơi là 7 giờ sáng, chúng tôi đã thấy nguời ta ngồi rồng rắn sắp hàng chờ đợi truớc hai quầy bán vé còn đóng kín. Lúc đó còn bé, tôi vẫn thắc mắc trong lòng không hiểu tại sao từ sau ngày 30 tháng Tư, tất cả đều trở nên thiếu thốn như vậy. Từ những món đồ nhỏ nhoi như cuốn tập, cây viết đi học, đến những nhu cầu thiết yếu như miếng cơm manh áo hằng ngày cũng không có đủ. Cái gì cũng phải sắp hàng chờ đợi thật lâu mà cuối cùng cũng chưa chắc đã mua đuợc. Mà thật vậy, anh em tôi ngồi chờ đợi, sắp hàng từ sáng đến chiều tối, bụng đói meo mà rồi cũng đành trở về tay không. Đúng 5 giờ chiều, nguời ta lạnh lùng treo một bảng nguệch ngoặc viết tay “Hết Vé”, rồi thô lỗ đóng sầm cánh cửa nhỏ lại, mặc kệ lời than vãn chống đối của những nguời chờ đợi cả ngày giống như là anh em tôi vậy.

Vừa mới lớn và vừa mới đuợc hiểu biết là tôi đã tiếp xúc ngay với sự thiếu thốn đói khổ, và sự vi phạm vào lòng tự trọng mà chế độ lúc bấy giờ áp đặt lên tất cả mọi nguời dân. Không như các anh chị lớn đã hiểu biết đuợc xã hội Cộng Hòa ngày xưa để so sánh và phẫn uất về sự khác biệt, tôi hồn nhiên chấp nhận sự thiếu thốn và áp bức của xã hội mới, thái độ cục cằn thô lỗ thiếu văn hóa của những nguời mệnh danh là “đầy tớ của nhân dân”, như con chim nhỏ khờ khạo lớn lên trong chiếc chuồng tre bé xíu bẩn thỉu, nghiêng đầu ca hát mà không biết đuợc bên ngoài song cửa là cả một thế giới thanh lịch, và cả một bầu trời tự do bát ngát. Sự thiếu thốn và áp bức đó hình như chỉ tập cho chúng tôi kiên trì nhẫn nại, và cho chúng tôi sức chịu đựng bền bỉ hơn mà thôi. Sau sự thất bại đầu tiên, hôm sau anh em chúng tôi dậy từ hai giờ sáng, thủ theo bánh mì cầm bụng, và cuối ngày đã hớn hở vui mừng cầm hai vé xe lửa về cho Mẹ.

Con đường tìm gặp Bố thế là đã qua đuợc ải đầu tiên rồi! Sắp đến ngày lên đường thì chị thứ hai của tôi ngã bệnh nặng, chị nằm thiêm thiếp trên giường, đôi môi nứt nẻ mà vẫn ráng cuời thều thào an ủi Mẹ yên tâm lên đường thăm Bố. Mẹ gạt nuớc mắt, dặn dò các anh chị còn lại phải chăm sóc chị, chăm sóc lẫn nhau, rồi gởi gấm anh chị tôi cho Ông Ngoại, cho các dì, Mẹ dẫn tôi đi. Tội nghiệp Mẹ, lúc đó tôi chỉ biết quá sung sướng vì đuợc Mẹ cho cùng đi thăm bố, chứ không biết rằng Mẹ quay quắt với trăm ngàn nỗi lo âu. Ngoài nỗi lo về đoạn đường mịt mù truớc mặt, Mẹ còn canh cánh trong lòng về sức khỏe và sự bình an của những đứa con Mẹ để lại sau lưng. Chỉ có tình yêu thủy chung Mẹ dành cho Bố, sự đảm đang hy sinh của nguời vợ hiền mới giúp giúp Mẹ vuợt qua tất cả để tiếp tục buớc tới mà thôi.

Đoạn đường bốn ngày đêm ngồi gật gù trên chuyến xe lửa chật chội, với phòng vệ sinh bẩn thỉu không nuớc nôi, và cả một đêm đột ngột ngừng lại tại một ga hẻo lánh vì có tin chuyến tàu truớc vừa trật bánh ở đoạn đèo Hải Vân, cũng trở thành chuyến ngắm trăng hóng gió, nếu như so sánh với đoạn đường từ Hà Nội vào đến Vĩnh Phú, Ấm Thượng nơi Bố tôi đang bị giam giữ. Đến Hà Nội trưa hôm truớc thì sáng sớm hôm sau, 4 giờ sáng, Mẹ con tôi và gia đình bác Phú, nguời bạn thân nhất của Bố tôi hiện cũng đang bị giam giữ cùng trại với Bố, dắt díu nhau ra ga xe lửa để đến Ấm Thượng. Ga đông người, với những đôi mắt không thân thiện nhòm ngó đến đám hành lý nặng trĩu mà chúng tôi đang còng vai mang vác. Ngoài chuyện phải cảnh giác nhòm chừng cho nhau, chúng tôi còn phải đề phòng trộm cắp bằng cách may kín tất cả những miệng bao túi lại, đồng thời dùng một sợi dây thừng xỏ ngang qua tất cả những quai xách và nắm giữ, cột chặt hai đầu dây vào cổ tay mình. Thật sự đến lúc đó, chúng tôi không lo cho bản thân mình nữa, mà chỉ lo lắng mất đi một bao đồ nào, là thuơng Bố sẽ mất đi chừng đó luơng thực và thuốc men mà thôi. Lên chiếc tàu này, tôi không còn dám than phiền về chiếc tàu Thống Nhất n

ữa. Những toa tàu ở đây giống như những chiếc toa chở hành lý và súc vật, vì nó chỉ là một toa tàu trống với sàn tàu bẩn thỉu, không ghế ngồi, không tay vịn. Tất cả hành khách hoặc là ngồi duới sàn, hoặc là đứng. Thật ra đứng ở toa tàu này, dù không có tay vịn cũng không có gì la không an toàn, bởi vì họ tiếp tục chất thêm nguời lên, đến khi không còn một chỗ trống. Nếu tàu có lắc lư, thì cũng chỉ là một đám nguời ngã nhào lên nhau, chứ cũng không thể nào văng đi đâu đuợc! Tôi may mắn lên tàu sớm, tìm đuợc chỗ đặt ngay những túi quà của Bố xuống và ngồi lên đó. Gần bên cạnh tôi là những nguời bán cá mang theo những thùng cá lúc nhúc. Nuớc cá văng ra sàn tàu, ra quần áo những hành khách kế cận, tanh tuởi, nhưng chẳng có ai buồn để ý. Bởi vì nói chung, chúng tôi đã quen với cái mùi hôi thối và cái cảnh chen lấn chật chội đó không biết từ bao giờ. Tôi thật sự lấy làm thán phục Mẹ vô cùng, vì không biết làm sao mẹ dò la lần mò ra đuợc đường đến tận trại của Bố. Lúc đó tôi còn bé nên chẳng giúp ích gì đuợc cho Mẹ ngoài ráng hết sức muời ba tuổi gánh vác hành lý giúp Mẹ. Nghe nói Bố ở Ấm Thượng, tôi cứ ngỡ rằng xuống tàu là trại của Bố cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng đoạn đường đâu cho chúng tôi cái may mắn như vậy. Sáu bảy tiếng đồng hồ từ ga Hàng Cỏ, Hà Nội, đến Ấm Thượng Vĩnh Phú, xuống tàu, chúng tôi lại dò hỏi và lếch thếch kéo nhau đi bộ chừng hơn một tiếng trên con đường mòn ngoằn ngoèo đầy sỏi đá đến một bến đò.

Sau thêm một tiếng chờ đợi, một chiếc thuyền nhỏ xập xệ xuất hiện, ông cụ già gân guốc nón lá rách tả tơi chèo thuyền đưa chúng tôi đi. Chuyến đò dọc nặng trĩu chở chúng tôi đi từ trưa đến tận chiều tối mới cập bến. Trên thuyền thật lòng tôi chỉ van Trời vái Phật cho ông cụ già đủ sức lèo lái chiếc thuyền nhỏ bé đi đến nơi, về đến chốn bình yên, an toàn. Trên thuyền là một đám đàn bà con nít không biết bơi, cũng chẳng có phao cứu hộ, nhưng đám hành lý lại là cả một gia tài, cả một năm luơng thực, và cả tấm lòng của tất cả chúng tôi cho Bố, cho bác Phú, nếu chẳng may có gói hàng nào rơi xuống sông, chắc tôi cũng nhắm mắt mà nhảy theo để mong hòng vớt lên đuợc!!! Nhưng có lẽ Trời cũng thuơng, nên khi ánh nắng cuối cùng trôi quyện vào màn đêm, thì chúng tôi cũng đặt chân bình yên lên Bến Ngọc. Đêm đó chúng tôi xin ngủ trọ tại nhà một ông lái xe trâu. Nói tiếng là ngủ trọ cho sang, ông thâu chúng tôi mỗi nguời một đồng (là số tiền cũng khá lớn lúc bấy giờ), rồi cho phép chúng tôi muốn nằm đâu thì nằm trên... hè nhà bằng đất nện của ông, không một mảnh chăn, không một manh chiếu! Cùng ngủ lại đêm đó tại nhà ông lái xe trâu là vài ba nguời phụ nữ khác, có nguời từ ngay ngoài Bắc đi thăm con em họ là tù hình sự, cũng có nguời từ trong Nam ra thăm chồng “cải tạo”. Cái hè nhà của ông lái xe trâu cũng trở thành chật ních. Mẹ dọn đuợc một chỗ trên nền đất hè nhà ông, trải miếng vải ny lông cho tôi nằm, thôi thì dù sao cũng còn một mái tranh để che suơng trên đầu, còn Mẹ thì cứ ngồi gà gật cả đêm để canh đống hành lý.

Thật tội nghiệp cho Mẹ! Lúc đầu, tôi nghĩ sao Mẹ quá cẩn thận, nhưng đến mờ sáng hôm sau, khi một bà la lối, khóc lóc um xùm vì bị mất tiền lận trong áo, thì tôi mới phục Mẹ biết nhìn xa. Nằm cong queo trên nền đất, tôi cảm tưởng như mình chỉ mới chợp mắt thì đã ba giờ sáng, đến lúc phải thức dậy chuẩn bị lên đường. Chúng tôi xúm vào chất đồ đạc lên chiếc xe trâu ọp ẹp. Trong khi ông xe trâu ngồi trên xe, roi vung vẩy lái con trâu già gầy guộc, đoàn nguời chúng tôi lặng lẽ cất buớc theo sau. Trong màn đêm, cảnh núi rừng hùng vĩ nằm yên giấc duới đám suơng mù dày đặc, càng làm cho chúng tôi cảm thấy mình yếu đuối, bé nhỏ hơn. Mãi nghĩ về Bố, tôi quên cả đoạn đường dài lên đồi, xuống dốc, lầy lội nuớc mưa, quên cả cơn buồn ngủ rũ nguời. Bố yêu quý ơi, giờ này hẳn Bố còn đang ngủ vùi để lấy sức cho một ngày mai lao động cực nhọc, Bố có biết hai mẹ con đang vuợt đèo lội suối để tìm gặp Bố, không hở Bố? Trong giấc ngủ, Bố có mơ về Mẹ, về chúng con, về những ngày xưa hạnh phúc của gia đình mình không hở Bố? Miên man với những suy nghĩ về Bố, tôi không nhận ra trời đã bắt đầu rạng sáng. Từ đằng xa, chúng tôi đã có thể nhìn thấy những mái nhà tranh lụp xụp và những cánh đồng cày xới dở dang. Tất cả chúng tôi đều quá hồi hộp với những ý nghĩ về nguời thân của mình nên chẳng ai bảo ai mà cùng rảo buớc đi nhanh.

Chiếc xe trâu dừng lại ở K5 thì chúng tôi cũng đã cuốc bộ đuợc ba tiếng đồng hồ. Tiếng kẻng xa xa trong trại vọng lại, đúng 6 giờ sáng, thì chúng tôi bắt đầu nhìn thấy … Dẫn đầu là một cán bộ trẻ, tay vung vẩy cây súng dài, sau đó là từng đoàn nguời lặng lẽ cúi gầm đầu buớc đi, ai cũng như ai, cùng một manh áo rách tả tơi, cùng làn da cháy nắng đem sạm, cùng đôi vai gầy guốc nhô cao, và cùng ánh mắt già nua, mỏi mệt… Đôi mắt tôi nhòa đi trong nuớc mắt mặn cay, nhưng vẫn ráng chong chóng tìm kiếm hình dáng quen thuộc của Bố. Bố ơi, Bố yêu quý của con ơi, Bố đâu rồi. Nguời ta làm gì Bố của tôi rồi. Lão đánh xe trâu nhăn nhó thúc giục chúng tôi mau chất đồ đạc xuống. Trong khi đó, mẹ quay ra cho biết nguời ta nói Bố và Bác Phú không có ở đây. Họ chỉ lên K1, là trại tù kế tiếp, cách đó vài dặm đường. Thế là chúng tôi lại phải năn nỉ, đưa thêm tiền để ông lái xe trâu tiếp tục chở hành lý chúng tôi sâu hơn vào rừng, về phía trại K1. Đoạn đường đi từ trại K5 đến K1 sẽ mãi mãi ghi vào lòng con bé muời ba tuổi là tôi lúc bấy giờ những ấn tượng không bao giờ quên đuợc. Trong khi tôi cũng đưa mắt tò mò nhìn các bác các chú “tù cải tạo” đang làm việc dọc bên đường đi, thì nhiều bác cũng lén lút dõi mắt nhìn theo chúng tôi, như hy vọng sẽ nhận ra một nét quen thuộc nào của nguời thân mình. Hy vọng để rồi nỗi thất vọng lớn lao hơn lại hiện ra trong đôi mắt. Họ lại cúi đầu làm việc với vẻ nhẫn nhục của những nguời đã chịu nhiều áp bức…

Có một bác chăn trâu dắt trâu lại gần, lấm lét ngó xung quanh, rồi đưa mắt nhìn tôi và liệng xuống đất một mảnh giấy nhỏ. Tôi cũng dáo dác nhìn quanh rồi nhanh tay luợm mảnh giấy đó dấu vào lòng bàn tay mình. Mảnh giấy chỉ nguệch ngoạc ghi xuống một địa chỉ và dòng chữ “Anh còn sống, xin thăm nuôi anh!” Mắt tôi nhòa trong màn lệ. Ai gây ra những cảnh tượng đau lòng như thế này hở Trời? Bố ơi, Bố của con cũng đáng thuơng, cũng tiều tụy như thế sao? Có một bác gánh nuớc bon bon đi tới, đôi mắt bác nhìn tôi như muốn nói điều gì. Có lẽ bác cũng muốn nhắn gởi gì về cho gia đình bác chăng? Tôi giả vờ cúi xuống săm soi quai dép của mình để đợi bác đến gần. Bỗng từ trên lưng đồi, lớn tiếng quát tháo nạt nộ, “Anh kia, đi đâu ra đây? Bộ muốn liên hệ gì hả?” Tất cả chúng tôi đều đưa mắt nhìn lên, tên cán bộ trẻ măng thấy đuợc chú ý, lại chống hai tay vào sườn, càng làm ra vẻ phách lối hơn, hình như hắn không nghĩ rằng nguời gánh nuớc đã lớn tuổi lắm rồi, có thể còn lớn tuổi hơn cả cha mình.

Bằng giọng nhè nhẹ, nghẹn ngào và nhẫn nhục của những nguời quen chịu nhiều ức hiếp, bác gánh nuớc đáp, “Báo cáo cán bộ, tôi đi gánh nuớc…” “Anh định qua mặt tôi đấy hả?” Tên cán bộ lớn giọng cắt lời, “Đi vào đây gặp tôi ngay, không gánh gồng gì nữa!” Đi xa tầm mắt cú vọ của tên cán bộ lớn lối ấy, tôi mới hé môi. Đôi môi bị cắn chặt gần muốn chảy máu, nhưng tôi chẳng còn cảm giác gì nữa… Tôi bật khóc, khóc nức nở, gục mặt vào tay mà khóc như chưa từng bao giờ đuợc khóc. Tất cả chúng tôi đều phẫn nộ truớc thái độ hống hách, hiếp đáp của tên cán bộ đáng ghét, chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho bác gánh nước. Thuơng cho bác ấy một phần, mà cũng xót xa cho thân phận tù đày của nguời thân yêu mình nữa. Xót xa, căm phẫn mà không làm gì đuợc, chúng tôi chỉ biết ôm mặt khóc ròng.

Bố ơi, các bác ơi, tội tình chi mà lại chịu cảnh khổ sở đày đọa như ngày hôm nay, hở Trời?? Những hình ảnh thuơng tâm của cảnh tù đày, bóng dáng tả tơi tiều tụy của những nguời tù K5 làm chúng tôi đau đớn xót xa như chính mình bị hành hạ vậy. Chìm đắm trong cơn đau đó, đoàn nguời chúng tôi buớc đi một cách máy móc như những nguời mất hồn. Con đường dài gian truân, qua bao nhiêu suối, vuợt bao nhiêu đồi, chúng tôi cũng không còn nhớ vì đã không còn cảm giác gì nữa. Tôi chỉ hình dung đến Bố qua những hình ảnh khốn khổ của các bác bên K5 vừa gặp là nuớc mắt lại chảy vòng quanh… Chẳng biết lâu hay mau, chỉ biết ánh nắng mặt trời gay gắt bây giờ đã ở xế trên đỉnh đầu thì chúng tôi nhìn thấy đầu con dốc xa xa là một chòi kiểm soát. Tôi vội vã chùi nuớc mắt. Phải, đối với những nguời này, tôi không thèm tỏ ra yếu đuối, tôi không cần họ thuơng hại, và tôi cũng căm thù những mắt nhìn diễu cợt của họ… Nhưng đây lại là một nguời cán bộ khá lễ phép. Ông ta nhỏ nhẹ nói với Mẹ rằng. “Anh là Đại Tá thì chắc đã chuyển xuống K5 rồi chị a. Hồi đầu tháng này tất cả các anh Đại Tá ở K1 đã chuyển xuống K5 hết rồi, không còn ở đây đâu, chị hãy quay trở lại đi!” Nhưng K1 đã ở truớc mặt rồi, vả lại cũng không có gì chắc chắn, nên chúng tôi lại tiếp tục hướng về trại K1 buớc đi. Đến nơi, Mẹ trình giấy tờ cho một cô cán bộ trẻ, chúng tôi đuợc hứa hẹn gặp Bố buổi chiều hôm đó.

Tôi đi vào rừng luợm một ít củi về để Mẹ nấu một nồi xôi và luộc cho Bố một con gà. Mấy ngày vừa qua, cả hai mẹ con tôi chỉ ăn qua quít để lót dạ chứ không đuợc bữa nào ra bữa nào cả. Chiều hôm truớc ở nhà ông lái xe trâu, hai mẹ con tôi chỉ mua một rổ hạt mít rồi chia nhau, thế là cũng xong bữa. Từ sáng đến giờ chưa đuợc ăn uống gì, ngửi mùi gà luộc gừng thơm lừng, trong bụng tôi cũng thèm lắm, nhưng lúc đó tôi cũng đã muời ba tuổi rồi, nên cũng ý thức đuợc mình phải để dành những món ngon lành nhất cho Bố. Biết thế, nhưng chắc ánh mắt tôi nhìn con gà luộc hẳn phải … tha thiết lắm, nên Mẹ cũng thuơng hại cho tôi, Mẹ dùng một phần của nuớc luộc gà ngon ngọt để nấu một nồi cháo cho hai mẹ con và cả bên gia đình bác Phú nữa.

Chúng tôi đang sung sướng xì xụp bát cháo nóng thì bỗng dưng tôi nghe thấy tiếng gào khóc thảm thiết từ gian nhà thăm nuôi bên cạnh. Tất cả chúng tôi đều hoảng hốt chạy sang xem có chuyện gì. Trên bàn tôi thấy bày ra một nồi cá kho tiêu thật ngon lành, một tô cơm nóng vẫn còn bốc khói, trên chiếc giường tre la liệt gói to gói nhỏ, có cả một trái mít chín vàng, nhưng trên nền nhà lại ngồi co quắp một nguời phụ nữ trẻ. Cô ôm vào lòng một em bé chừng bốn năm tuổi và không ngừng gào khóc gọi tên chồng. Em bé gái đôi mắt mở to ngơ ngác sợ hãi, em chẳng hiểu chuyện gì, nhưng thấy mẹ khóc thì cũng mếu máo khóc theo, trông thật thuơng tâm vô cùng. Những nguời biết chuyện xung quanh thì thào thuật lại, thì ra hai mẹ con cô lên đây từ tối qua. Cô ở miền Trung, lặn lội ra đến đây thăm chồng, mang theo đứa con gái lần đầu tiên cho chồng biết mặt. Sáng nay hai mẹ con cô dậy từ sáng sớm nấu cơm và làm nồi cá kho tiêu là món mà chồng cô yêu thích nhất. Cả buổi sáng không thấy chồng ra, cô cứ đi vào đi ra hâm lại nồi cá, hy vọng đến trưa sẽ gặp đuợc chồng.

Đến trưa, nguời ta cũng dẫn cô đi gặp chồng thật. Nhưng thuơng thay, người chồng mà cô thủy chung mong đợi bốn năm qua giờ chỉ còn là nấm mồ đắp sơ sài, nằm chen chúc với vô số những nấm mộ không bia khác trên Đồi Chè Vĩnh Phú. Chúng tôi xúm lại an ủi cô mà nuớc mắt ai cũng lưng tròng, thuơng cho cô mà cũng hoang mang lo sợ cho nguời thân của mình. Từ đó đến chiều, tuy không nói ra nhưng tất cả chúng tôi đều lo lắng, căng thẳng ra vào không yên. Khoảng 3 giờ chiều hôm đó, đang ngồi trong nhà, tôi nghe tiếng xôn xao từ bên ngoài, “Các ông ra kìa, chạy ra mau, chạy ra mau các chị…” Tất cả chúng tôi ùa chạy ra ngoài, thấp thỏm nhìn ngó. Từ xa xa, tận cuối con dốc, bốn nguời đàn ông mặc quần áo dân sự đi tới, bên cạnh là màu áo vàng của nguời cán bộ cầm súng. Tôi cố gắng tìm ra một nét quen thuộc nào của Bố. Cả bốn bác đều đen đủi gầy gò. Bộ quần áo, chắc hẳn đuợc mặc trong ngày trình diện đi “học tập cải tạo”, đến hôm nay thuơng sao, đều bỗng dưng trở nên rộng thênh thang như đuợc treo vào những chiếc mắc áo biết đi vậy. Các bác tiến lại càng gần thì tôi càng hoang mang hoảng loạn. Bởi tôi nhận ra đuợc bác Phú trong số nguời đó, nhưng còn Bố tôi… Bố tôi đâu rồi?? Nguời ta đã làm gì Bố tôi rồi??? Hình ảnh nguời phụ nữ trẻ ngồi co quắp khóc chồng, khuôn mặt trẻ thơ của em bé mếu máo khóc cha bỗng dưng quay trở lại, bóp thắt trái tim tôi. Tôi thấy mình cũng mếu máo níu tay Mẹ hỏi, Mẹ ơi, Bố đâu rồi hở Mẹ? Bố của mình sao không thấy ra hở Mẹ? Trong lúc đó, Hằng, con gái bác Phú chạy ùa ra đón bác, hai cha con ôm nhau khóc làm tôi càng tủi thân hơn vì nhớ Bố của tôi. Có lẽ nhìn thấy khuôn mặt thất thần của hai mẹ con tôi, bác Phú vội vàng buớc đến chào Mẹ tôi và nói ngay cho hai mẹ con tôi đuợc yên tâm, rằng Bố tôi vẫn đuợc mạnh khỏe, nhưng Bố đã chuyển xuống K5 từ đầu tháng rồi.

Hai mẹ con tôi cám ơn bác Phú và ôm nhau trong vui mừng. Bố ơi, Bố ơi, miễn là Bố còn sống mạnh khỏe thì dù ở đâu hai mẹ con con cũng sẽ tìm đến Bố mà. Tội nghiệp bác Phú, vì cố gắng báo cho mẹ con tôi yên tâm về tin tức của Bố mà bác bị nguời cán bộ gay gắt “phê bình, kiểm điểm” (vì dám tự động lên tiếng nói chuyện với nguời ngoài khi chưa đuợc sự cho phép của cán bộ quản giáo!!!) Chiều tối hôm đó, duới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi lê buớc quay trở lại K5. Tất cả những vải bạt bằng ny-lông mang theo, chúng tôi dùng để che đậy đám luơng thực và thuốc men cho Bố nên khi đến đuợc căn nhà tranh làm phòng đợi cho thân nhân của những nguời tù cải tạo thì hai mẹ con tôi đều uớt sũng, lạnh run. Cả nguời uớt mem, nhưng vì quá mệt mỏi sau một ngày dài băng rừng lội suối, tôi co ro đặt mình xuống chiếc giường tre là ngủ một giấc đến sáng. Chỉ tội nghiệp Mẹ tôi, truớc khi chìm hẳn vào giấc ngủ, tôi còn thấy Mẹ lò mò trong ánh đèn dầu, lau khô sắp đặt đám quà cho Bố. Tôi không biết Mẹ có thức trắng thêm một đêm đó nữa hay không, nhưng khi tôi thức dậy thật sớm sáng hôm sau, đã thấy Mẹ đang chiên lại con gà hôm qua cho Bố. Ánh nắng ban mai xuyên rọi qua những khe hở của vách nhà tranh, chiếu lên khuôn mặt Mẹ những vệt nắng loang lổ. Tôi nhìn ngắm Mẹ đang chăm chú nấu nướng cho Bố mà thấy thuơng Mẹ vô cùng. Chỉ mới có mấy ngày mà trông Mẹ đã hốc hác đi thấy rõ. Trong khi nguời phụ nữ ngồi kế cạnh giường tôi đang điểm trang, tô son vẽ mắt, đám đồ lèo tèo duới chân giường bà vẫn còn lạnh tanh, uớt sũng, thì Mẹ tôi tóc búi, áo cánh giản dị, đã sắp xếp đồ đạc của Bố ngăn nắp lên chỗ khô ráo, và chuẩn bị sẵn sàng cho Bố một nồi xôi bốc khói, cùng một con gà quay thơm lừng. Tôi hy vọng Bố cũng nhìn thấy Mẹ như tôi đang nhìn thấy Mẹ lúc này đây, bởi dù không phấn không son, nhưng Mẹ tôi nổi bật lên tất cả với vẻ đẹp dịu hiền, đằm thắm của nguời vợ hiền chỉ biết tần tảo lo cho chồng cho con. Điều đó tôi nghĩ mới vô cùng đáng quý và sẽ không bao giờ phai tàn theo thời gian…

Sáu giờ sáng, một lần nữa, cùng với tiếng kẻng quen thuộc vang lên trong trại, từng đoàn nguời trong manh áo tả tơi lê buớc ra, vai vác cuốc xẻng, tay xách bi-đông nuớc, ai nấy cùng chung nét gầy gò, đen sạm, và đôi mắt, Trời ạ, cùng ánh mắt hoang mang không biết một ngày mai, và cùng một nét nhẫn nhục, chịu đựng, đau thuơng đến chừng nào… Tất cả chúng tôi đều chạy sát ra hàng rào của sân nhà đợi, và dõi mắt chăm chú nhìn theo từng nguời đi qua, hy vọng sẽ tìm thấy nét quen thuộc nào của nguời thân mình. Nhưng có đến hàng trăm các chú các bác buớc qua, và hàng chục nhóm rẽ ngang, rẽ dọc vào các cánh đồng đây đó. Tôi bối rối nhìn Mẹ, Mẹ ơi, Mẹ có nhìn thấy Bố không hở Mẹ? Sao con không tìm thấy Bố mình đâu hết hở Mẹ? Mẹ tôi nhìn quanh quất để chắc chắn không có nguời cán bộ nào trong tầm tai, rồi nhỏ giọng cất tiếng hỏi các bác các chú đi qua truớc mặt, “Các bác ơi, mẹ con tôi ra thăm anh PTT, các bác có thấy chồng tôi không ạ? Các bác có biết anh PTT không ạ? Các bác nhắn dùm cho anh PTT biết là có vợ con ra thăm đuợc không ạ?” Các bác các chú tuy không dám quay lại nhìn Mẹ con tôi, nhưng ai cũng đều nhỏ giọng trả lời, “Đuợc rồi, đuợc rồi!” Có bác cũng giả vờ đưa tay lên gãi mũi, rồi lén hỏi lại Mẹ tôi, “Thế anh ở cấp bậc gì hả chị?” “Dạ, truớc ảnh làm Đại Tá ạ”, Mẹ trả lời.

Rồi tôi nghe các bác các chú, nguời thì gãi cằm, nguời thì che miệng ho, nguời thì giả vờ hắt hơi… để che mắt cán bộ, các bác các chú truyền miệng nhau… “Này, anh có biết ông T. không?” “T. ở đội nào nhỉ? Có phải đội 18 không?” “Không, ông này là Đại Tá mà…” “Thế thì phải ở đội 21 rồi!” “Ông Luân ơi, ông ở đội 21 phải không? Nhắn cho ông T. biết là có vợ con ra thăm này” “Sướng nhé!!” “Chúc mừng ông T. nhé!!!” Chúng tôi nghe các bác lao xao nói qua kẽ răng mà vừa thuơng, vừa cảm động. Đời sống lao tù khổ ải có làm thân xác các bác các chú tiều tụy đi, nhưng vẫn không làm mất đi tình đồng đội của các chiến hữu cũ. Các bác các chú vẫn muốn, bằng cách nào đó, để giúp đỡ, che dấu cho nhau, và thật lòng san sẻ những mừng vui cho nhau như lúc này đây. Hai mẹ con tôi vẫn đang cố gắng giuơng mắt tìm kiếm Bố thì một bác dừng lại ngay truớc mặt. Xoay lưng lại chúng tôi, giả vờ đưa lon guy-gô lên miệng uống, bác nói, “Chị T. phải không ạ? Tôi là Luân. Chị nhìn ra cánh đồng truớc mặt nhé, gần thằng cán bộ đứng đó, anh T. đang cuốc đất, anh đội cái khăn màu xanh duới cái nón lá đấy, chị thấy chưa? Tôi sẽ nhắn cho anh T. hay, chị và cháu đứng đây nhé.” Nói xong, bác đậy lon nuớc lại và quày quả buớc đi. Một phần chúng tôi quá bất ngờ vội vã theo sự hướng dẫn của bác để tìm Bố, một phần mọi việc diễn ra rất nhanh, nên chúng tôi chưa kịp ngỏ một lời cám ơn thì đã thấy bác buớc về phía cánh đồng nơi bác nói Bố tôi đang làm việc. Cánh đồng hơi xa, nên tuy bác Luân chỉ dẫn rất rõ ràng, chúng tôi chỉ đoán đuợc nguời đó là Bố chứ không thể nào nhìn rõ đuợc nét mặt hay dáng nguời. Quá xúc động, nuớc mắt tôi lại trào ra, khiến tôi lại càng chẳng nhìn thấy gì nữa. Trong khi đó, Mẹ vẫn bình tĩnh dõi mắt nhìn đăm đăm theo bác Luân đang len lỏi từ từ tiến lại gần chỗ của Bố. Tôi nghe Mẹ cuời khe khẽ, “Bố nhìn thấy mẹ con mình rồi con ơi!” Mẹ giơ tay vuốt tóc, và vẫy một cách rụt rè kín đáo. Bố ngưng tay cuốc nhìn về hướng mẹ con tôi, và mở nón ra quạt. Mẹ cuời qua màn nuớc mắt, “Bố mở nón ra để mẹ con mình dễ nhận ra cái đầu hói đấy mà…” Rồi Mẹ bảo tôi, “Bố đang men dần ra phía bìa cánh đồng kìa, con thử tìm cách đi lại gần Bố xem sao.” Chỉ chờ có thế, tôi men theo hàng rào ra ngoài cổng chỗ đồn công an.

Nguời cán bộ đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, nhưng lúc đó tôi còn bé, lại lúi húi giả vờ luợm củi, nên ông ta cũng mặc kệ cho tôi men dần ra gần cánh đồng. Cách chừng bốn năm thuớc, tôi vẫn đang lom khom luợm củi, thì khóe mắt tôi nhìn thấy một nguời tiến về phía cán bộ. Tôi cố buớc thêm vài buớc và ngẩng mặt lên nhìn. Đúng là Bố của tôi rồi! Lúc đó tôi có một cảm giác thật lạ lùng như mình đang sống trong một giấc mơ kỳ ảo, chỉ có Bố và tôi. Trời đất núi rừng đảo lộn xung quanh… Tất cả mọi vật đều mờ nhạt, chỉ có Bố tôi là sáng rực… Nhưng Trời hỡi, Bố tôi đó sao?? Trong ký ức con bé 9 tuổi của tôi ngày Bố ra đi, Bố tôi luôn trắng trẻo, to lớn, gọn gàng trong bộ quân phục oai hùng với ba đóa hoa mai bạc lấp lánh trên cổ áo. Còn hôm nay, Bố gầy gò rách ruới… Bố nhỏ bé đen sạm giữa núi rừng hoang dã. Bộ áo lính cũ rộng thùng thình Bố đang mặc làm Bố càng thêm tiều tụy… Trời hỡi, tôi muốn gào khóc thật to, sao Ông nỡ đày đọa Bố tôi đến thế này?? Bố tôi có tội tình chi đâu mà sao Ông lại gây cảnh thuơng tâm đến như vậy? Bố ơi, con thuơng Bố quá Bố ơi. Xót xa trong lòng, trái tim tôi quặn đau như bị ai bóp nát, tôi như muốn quỵ xuống, nhưng rồi cố gượng. Cắn chặt môi, tôi nhắm mắt bảo mình phải thật bình tỉnh, bởi tôi biết lúc này mà quỵ xuống chắc tôi sẽ không còn bao giờ muốn thức dậy nữa…

Bên tai, tôi bỗng nghe giọng Bố nghẹn ngào, “Xin cán bộ cho tôi đuợc gặp con gái tôi, đã bốn năm trời nay tôi không đuợc nhìn thấy con tôi…” “Thì đợi đến chiều nay, chúng tôi sẽ giải quyết cho anh đuợc gặp mà”, nguời cán bộ trả lời. “Nhưng con gái tôi đang đứng ngay ở đây này cán bộ?” Tôi mở choàng mắt, nguời cán bộ nhìn tôi bằng đôi mắt dò xét. Tôi đứng thẳng dậy và cố gượng cuời. Nguời cán bộ chắc cũng cảm thấy đuợc sự xúc động khao khát của cả Bố và tôi, nên sau vài phút suy nghĩ, ông nhìn quanh và se sẽ gật đầu, “Nhanh thôi đấy nhé!” Tôi sững lại nhìn Bố, còn Bố thì mếu máo đưa tay về phía tôi. Khuôn mặt Bố tôi lúc đó, chắc suốt đời tôi không thể nào quên đuợc. Thời gian khắc nghiệt in hằn lên khuôn mặt Bố nét già nua tội nghiệp, đời sống lao tù ghi khắc lên đôi mắt Bố vẻ nhẫn nhục, chịu đựng thật đáng thuơng. Nhưng nhìn tôi, cả khuôn mặt và đôi mắt Bố đều bừng sáng lên rạng rỡ. Tôi liệng đám củi, chạy a lại vòng tay Bố. Giọng Bố sũng nuớc, “Con, ôi con tôi!” Tôi cũng nghẹn giọng gọi Bố, Bố ơi! Ôi “Bố”, tiếng Bố mà cả mấy năm trời nay tôi chỉ có gọi mà không đuợc nghe tiếng trả lời… Trong giây phút diệu kỳ ấy, tôi thấy thời gian như ngưng đọng và quay trở lại thời gian xa xưa hạnh phúc cũ… Tôi vẫn là con bé năm tuổi đòi Bố phải cõng xuống cầu thang mỗi buổi cơm chiều, là con bé bảy tuổi mỗi ngày ngồi trong xe Jeep Bố chở đến trường và nhõng nhẽo bắt Bố phải kể đi kể lại câu chuyện Đường Tăng Thỉnh Kinh, là con bé chín tuổi mà cả thế giới của nó là Bố là Mẹ, một ngày tháng Tư đen tối cũng chia cắt làm đôi... Tôi nhìn Bố, xót xa làm sao, Bố gầy quá, Bố ơi.

Như đọc đuợc ý nghĩ của tôi, Bố cuời trong màn nuớc mắt, xăn tay áo và cong tay lên khoe với tôi, “Bố vẫn còn khỏe lắm, con xem này”. Trời ơi, thay vì an ủi, Bố lại làm tôi thuơng xót và lo lắng cho Bố nhiều hơn. Khác hẳn với khuôn mặt tròn to bủng beo vì thiếu dinh dưỡng, đôi cánh tay Bố gầy nhom, đen đủi, khẳng khiu, như chỉ còn xuơng bọc da mà thôi. Bố hỏi thăm Mẹ, hỏi thăm hai mẹ con đi đường xa có mệt không. Sau vài câu thăm hỏi bình thường, Bố khịt mũi, nuốt nuớc bọt hỏi tôi, “Mẹ có mang nhiều đồ không hả con? Có xôi không? Có bánh chưng không? Có gà không?”... Sau mỗi tiếng Có của tôi, nét mặt Bố rạng rỡ hẳn. Tôi nghe lòng quặn xót, và thuơng Bố vô cùng. Không biết bố con tôi đã nói đuợc với nhau những gì, nhưng thời gian trôi nhanh như một giấc mơ, nguời cán bộ cắt ngang chúng tôi và hứa hẹn sẽ “giải quyết” tiếp vào buổi chiều. Hai bố con tôi lưu luyến ôm nhau một lần nữa, rồi Bố tần ngần quay ra đồng làm việc tiếp, còn tôi quyến luyến nhìn theo Bố rồi vội quay vào nhà thuật chuyện lại cho Mẹ. Trong lúc nói chuyện với Bố, Bố có nhắc đến đường mật. Mẹ nghe thế nên vội vàng dò hỏi những nguời xung quanh. Họ chỉ quay trở lại làng, đến nhà ông xe trâu hỏi thăm sẽ ra. Thế là Mẹ bảo tôi tìm đường vào làng để tìm mua cho Bố vài lon đường mật. Lặn lội nắng nôi một mình trên đoạn đường dài sáu bảy cây số, nhưng tôi vẫn cảm thấy vui vẻ vì nghĩ đến khuôn mặt rạng rỡ của Bố.

Buổi chiều hôm đó, chúng tôi vẫn chưa đuợc phép gặp Bố, nhưng đứng ở hàng rào nhìn thấy bố làm việc ngoài đồng cũng là một an ủi rất lớn cho hai mẹ con tôi. Mẹ lại bảo tôi đi vào làng hai lần nữa, khi thì mua thêm cho con gà, khi thì vác về bao gạo nếp. Không hiểu sao đi đi lại lại nhiều lần như thế mà tôi vẫn không thấy mệt. Chỉ nghĩ đến Bố đuợc ăn no đủ những món đồ này mà tôi thấy hăng hái vô cùng. Tôi uớc mình có thể làm đuợc gì nhiều hơn cho Bố nữa cơ. Buổi chiều Mẹ hỏi và nguời cán bộ cho phép Mẹ đuợc gởi vào truớc cho Bố một ít món ăn, con gà chiên và nồi xôi thơm dẻo. Chúng tôi hy vọng buổi tối nay đuợc ăn uống no đủ, Bố sẽ cảm thấy phần nào khỏe khoắn hơn lên chăng. Tối đó, lần nữa hai mẹ con tôi lại dằn bụng bằng nồi cháo lỏng và thiếp vào giấc ngủ với rất nhiều mộng đẹp. Sáng hôm sau, cả hai mẹ con tôi đều dậy rất sớm. Tôi giúp Mẹ bắt bếp nấu thêm nồi xôi, và luộc thêm con gà mới mua hôm qua. Đám củi tôi luợm về rất có ích, nhưng vì còn uớt nên khói bốc lên mù mịt. Chật vật một lúc rồi hai mẹ con cũng nấu nướng xong xuôi. Mẹ còn pha đuợc bình trà thơm và một ly nuớc chanh đường thật ngon cho Bố. Đến khoảng tám chín giờ thì chúng tôi nhìn thấy một đoàn bốn năm nguời từ trong trại đi ra. Mọi nguời bên ngoài ai cũng cuống quít gọi nhau mau ra để đón nguời thân mình. Chúng tôi nhận ra Bố ngay, vì khác với bộ áo lính bạc màu hôm qua, hôm nay Bố diện hơn với bộ đồ civil mà Bố mặc khi đi trình diện cải tạo. Có điều, bộ đồ ngày xưa Bố mặc vừa vặn sát vào mình thì giờ đây, thuơng thay, bỗng trở nên rộng thùng thình, phất phới như áo đi muợn vậy. Tôi ỷ mình là con nít nên mặc dù cán bộ đã dặn dò không đuợc chạy ra khỏi nhà khách, tôi vẫn chạy ùa ra đón Bố và dìu Bố vào. Chắc chiều qua món xôi và gà Mẹ gởi Bố đã nhận đầy đủ ngon lành, nên hôm nay tôi thấy giọng Bố sang sảng hơn, ánh mắt Bố nhìn cũng tinh anh vui vẻ hơn nhiều. Tôi mừng là hôm nay Mẹ mới gặp đuợc Bố, chứ nhìn Bố cận kề như ngày hôm qua tôi thấy Bố, chắc Mẹ sẽ còn đau lòng hơn nữa...

Phút giây hội ngộ mới đẹp làm sao. Cha con, vợ chồng trong vòng tay nhau, mừng mừng tủi tủi, nuớc mắt hòa nhau, mặn đắng đến quặn thắt trong tim. Nguời cán bộ cho phép chúng tôi đuợc một vài phút ngắn ngủi ôm nhau, sau đó tất cả đều phải vào ngồi trong một chiếc bàn gỗ dài sần sùi. Nguời cán bộ ngồi đầu bàn, bốn nguời tù cải tạo ngồi một bên, vợ con họ đuợc ngồi đối diện. Ba nguời chúng tôi may mắn đuợc ngồi cuối bàn bên này, xa nguời cán bộ nhất. Một lần nữa giấc mơ như tràn về, khi tôi chỉ còn thấy có Bố Mẹ và tôi ngồi bên nhau mà thôi. Bố uống hết ly nuớc chanh Mẹ pha, rồi hỏi thăm các anh chị của tôi, hỏi thăm ông ngoại và các bác các dì. Rồi Bố cũng nhỏ giọng hỏi thăm tin tức của Bà Nội và các cô chú bên gia đình bố là những nguời đã di tản vào những ngày cuối tháng Tư năm 75. Cũng may, chỉ truớc ngày chúng tôi đi thăm Bố vài tháng, chúng tôi nhận đuợc thư của chị Nga, là cháu gọi Bố tôi bằng chú từ bên Đức gởi về. Chị cho biết bà nội và các cô chú, các bác đều đã bình yên định cư ổn định tại Hoa Kỳ. Đuợc tin này, tôi thấy Bố cũng vui hẳn lên.

Rồi Bố kể cho Mẹ con tôi nghe về đời sống trong trại. Mặc kệ cho ánh mắt không hài lòng của nguời cán bộ, Bố nói, “Trong này luơng thực thiếu thốn, đói khát lắm, nên ai cũng tìm mọi cách để tăng thêm phần chất đạm (protein) cho mình. Con cóc, con nhái, con chuột, con rắn… hễ con gì nhúc nhích là ăn tuốt. Có anh vừa chụp đuợc con nhái, chỉ đập đầu cho nó chết, rồi phủi đất cát qua loa, bỏ vào miệng nuốt sống luôn đấy!” Có lẽ nhìn thấy ánh mắt kinh hoàng của hai mẹ con tôi, Bố vội vàng cuời, xua tay, “Nhưng Mẹ con đừng lo, Bố thì khác, Bố cũng ăn, nhưng Bố phải rửa sạch sẽ và bỏ vào lon guy gô nấu chín lên rồi Bố mới ăn. Không sao đâu!” Nghe Bố nói mà hai mẹ con tôi thuơng Bố xót xa. Ngoài xã hội lúc bấy giờ, thật ra chúng tôi cũng như hầu hết nguời dân Việt Nam tại thời điểm đó, cũng đều không no đủ. Một ngày, thường chúng tôi chỉ có một hai bữa chính, chủ yếu chỉ là vài củ khoai sắn hay một chén bo bo sượng cứng (một loại thực phẩm truớc đây chỉ dành cho ngựa và các loại gia súc).

Tuổi đang lớn mà chỉ đuợc chừng đó lót bụng, hầu như lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy đói. Thiếu dinh dưỡng, anh em chúng tôi còn phát sinh ghẻ lở nữa. Mặc dù anh chị em tôi đều bảo nhau không đuợc một lời kêu ca, than vãn để Mẹ khỏi phải thêm lo lắng, nhưng nhìn chúng tôi gầy còm, xanh xao chắc Mẹ cũng đau lòng lắm. Dù vất vả, chật vật, nhưng không biết bằng cách nào, Mẹ vẫn ráng xoay xở cho chúng tôi bữa rau, bữa cháo, và thi thoảng còn đuợc miếng thịt miếng cá. Hơn thế nữa, dù đói khổ, chúng tôi vẫn còn có nhau, vẫn còn có Mẹ, vẫn còn có Ông Ngoại làm nơi nuơng tựa. Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy bơ vơ, hụt hẫng, hay nghĩ đến chuyện phải bắt cóc nhái, rắn rết về ăn. Còn Bố, trong những tháng ngày tù tội đó, tự do đã không còn mà miếng ăn cũng không có. Sự thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần chắc hẳn còn làm Bố đau đớn và kiệt quệ hơn nhiều.

Chúng tôi gặp gỡ và nói chuyện với nhau chừng hơn 30 phút, thì nguời cán bộ quản giáo cắt ngang, ông bắt đầu, gọi là “kiểm điểm” từng nguời. Đến phần Bố, ông ta lắc đầu bảo rằng cả đội của Bố chưa thấy ai có một chút tiến bộ nào cả, ông bảo gia đình phải biết “động viên, khuyến khích” để Bố “thành tâm cải tạo, học tập tốt, lao động tốt” thì may ra mới sớm đuợc trở về đoàn tụ với gia đình. Bố nghe nguời cán bộ phê bình mà vẫn tỉnh bơ nhún vai, và mỉm cuời với mẹ con tôi. Lạ lùng thay, khi nhìn thái độ của Bố, trong lòng tôi vừa lo lắng nguời ta sẽ trừng phạt Bố, nhưng lại vừa tràn ngập với niềm tự hào. Nguời ta có thể làm cho cơ thể Bố gầy còm suy nhuợc đến tàn tạ, nhưng họ sẽ không bao giờ khuất phục đuợc ý chí của bố đâu, phải không hở Bố? Mấy bác và Bố tôi có kéo theo một chiếc xe hai bánh kiểu xe bò loại nhỏ để chở đồ tiếp tế vào trong trại, nên khi nguời cán bộ tuyên bố là buổi nói chuyện kết thúc, tôi nhanh nhẩu chạy lấy xe đẩy đến cho Bố.

Bố cúi xuống định vác một gói đồ bỏ lên xe, nhưng tôi thấy Bố lảo đảo rồi phải bỏ gói đồ xuống. Bố thở dốc, nhưng lại xoay sang cuời với Mẹ sung sướng, “Mẹ mang cho Bố nhiều quà quá!” Tôi thấy vậy thì vội vàng tiến tới giúp khiêng cái giỏ quà lên xe cho Bố. Gói đồ mà lúc nãy Bố vác không nổi, thì tôi, dù ì ạch, nhưng cũng chất lên xe đuợc. Một lần nữa, nuớc mắt tôi lại trào ra, thuơng Bố của con quá đi Bố ơi. Bố của tôi yếu đuối đến như vậy sao? Thật khổ cho Bố quá, tù tội, đói khát, tiều tụy, bệnh tật, cách biệt gia đình. Sao nguời ta ác độc qua hở Bố? Sao nguời ta hành hạ Bố của con ra nông nổi thế này?? Mẹ con tôi quyến luyến đi theo Bố đến nửa đoạn đường vào trại thì nguời cán bộ không cho chúng tôi đi xa hơn. Ba nguời chúng tôi ôm siết nhau một lần nữa, khóc với nhau một lần nữa, rồi thôi. Bố xiêu vẹo đẩy chiếc xe nặng trĩu đi về phía những mái nhà tranh xa xa, mẹ con tôi nhìn theo, rồi ôm nhau khóc, gọi Bố ơi Bố ơi.... Bốn ngày đêm trên chiếc tàu Thống Nhất bẩn thỉu chật chội, một ngày đò dọc bập bềnh trên sông, hàng chục cây số đường rừng lê gót từ K1 lên K5, đói, lạnh, hoang mang, sợ hãi… chúng tôi đuợc gặp Bố tất cả chưa đuợc một tiếng đồng hồ!

Thế nhưng đó chỉ là khởi đầu, bởi vì sau đó, mỗi năm Mẹ tôi đều tiếp tục con đường gian truân đó, theo đuổi Bố tôi từ hết trại học tập này, sang trại cải tạo khác. Từ rừng sâu Vĩnh Phú, rồi trèo đèo Thanh Phong, lặn lội Hà Sơn Bình, qua núi thẳm Hà Nam Minh... mỗi năm tóc Mẹ một bạc thêm, vai Mẹ lại gầy guộc, nhưng không đoạn đường gian khổ nào còn có thể ngăn đuợc buớc chân Mẹ kiên trì thăm nuôi Bố. Tôi nhớ mài mại ngày còn bé vẫn nghe câu ru à ơi của Mẹ, như sau: “Thân cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non…” Bây giờ tôi mới hiểu đuợc hết và khâm phục thật nhiều những nguời phụ nữ Việt Nam, những nguời vợ hiền đảm đang, thủy chung nuôi chồng qua bao năm bao tháng. Nhưng tôi thuơng Mẹ còn can đảm hơn Con Cò nọ, vì không một lần, không một lần nào tôi nghe Mẹ nỉ non than vãn khóc lóc vì phải gánh gạo nuôi Bố những ngày tháng qua...

Tháng 4/2004 PLBL

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

Già rồi tưởng đã khô nước mắt nhưng lại ứa lệ khi đọc câu chuyện tình này.
Xin gởi đến bạn hữu.
MỘT NỤ CƯỜI Bửu Uyển

Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết : “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giả bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam Hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.
Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“ Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cười , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó, và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn.

Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “
Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.
Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.

Bửu Uyển

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Image

Giọt mưa trên tóc -

Tiểu Tử
Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục: - Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt. Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận: - Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?
<!>
Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:
- Mình đi chung mà Kim.
Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm:
“Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng....”

Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng” đó.
Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường .. đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.
Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...
Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:
- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...
- Sao Nghĩa biết?
Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.
Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:
- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.
- Họ đi thoát không?
- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.
Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:
- Không biết họ đi có thoát không?
Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:
- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?
Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:
- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?
Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:
- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...
Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, chở nhau trên chiếc xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!
Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:
- Còn Nghĩa? Có tính đi không?
Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:
- Kim trả thù hả?
Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:
- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.
Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.
Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!
Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.
- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?
Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:
- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...
Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.
Nghĩa tiếp:
- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!
- Cái gì uổng?
Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:
- Thì...
Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:
- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.
Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.
Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:
- Thôi, “bye” nghe Kim.
Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.


***
Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:
- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.
Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:
- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?
Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”.
Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng:
“Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”

Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!
Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:
- Con đem trả sách cho thằng Tuân.
Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:
- Trả cho nó học.
Ba gật đầu:
- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?
Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:
- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.
Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.
Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...
Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:
- Ai đó?
- Dạ thưa cháu.
Nghĩa trả lời.
- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?
Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:
- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng de ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.
Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...
Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:
- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.
Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...
Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh:
- Nghĩa đi hả?
Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa! Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....
Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...
Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:
- Chừng nào?
Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:
- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!
Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.
Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.


*****
Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...
Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...
Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….
Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

Tiểu Tử

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by ngayngo »

Vợ là một vĩ nhân đúng 100%

Vợ là một vĩ nhân đúng 100% đang lúc vợ còn tại thế người chồng xem thường công lao của VỢ lúc vợ mất rồi thì mới thấm thía nhận ra sự mất mát to lớn biết là chừng nào. Cám ơn tất cã các Bà vợ HIỀN.

Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.

Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.

Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.

Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.

Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.

Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.

Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.

Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.

Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.

Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.

Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.

Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, nên họ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.

Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ.

Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?

Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.

Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.

Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.

Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.

Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.

Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.

Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”

Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các ‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.

Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.

Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.

Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen điu thồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?

Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh.
Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.

Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.

Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.
Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.

Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:
“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”

Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương.
Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”

Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.

Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.

Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.

Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”

Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ “phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.

Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.

Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.

Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.

Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.

Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi.

Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.

Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã ly hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”

Ông chồng cũ của bà Huyền ngững mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”

Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông.
Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn:
“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”


Tràm Cà Mau

lequyen
Posts: 283
Joined: Sun May 22, 2011 6:22 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by lequyen »

Gặp Lại Cố Nhân Tôi trang điểm xong và sửa soạn thay váy áo chỉnh tề mà lòng vừa rộn ràng vừa hồi hộp. Chốc nữa ra mắt cố nhân sau 50 năm bặt tin xa vắng. Anh có nhận ra cô gái xinh xinh tuổi hai mươi ngày xưa anh từng tương tư và thề nguyền sẽ cưới làm vợ không nhỉ? Còn anh ấy, tôi không quên mái tóc bồng bềnh của chàng sĩ quan Hải quân mỗi lần anh về phép thăm tôi và tôi từng mơ là thi sĩ để dệt những vần thơ trên tóc anh.

Bây giờ tôi đã 70 và anh 75 tuổi đời rồi.

Tôi và Nguyện yêu nhau được một năm, vào lúc cuộc chiến khốc liệt mùa hè đỏ lửa 1972 anh bỏ dở học hành vào đời lính biển. Tình yêu càng xa cách càng nhiều nhớ thương chất ngất, tôi và Nguyện luôn khao khát chờ mong một ngày nào đó hai đứa sẽ nên duyên chồng vợ. Nhưng biến cố năm 1975 chúng tôi chia lìa nhau, mất nhau không một tin tức nào của nhau cả.

Bao nhiêu năm qua chuyện tình xưa và hình ảnh Nguyện chỉ còn là kỷ niệm đẹp, rất đẹp để đôi lần có dịp nghĩ lại tôi thấy thương nhớ và nuối tiếc bâng khuâng. Bỗng tuần trước tình cờ trên Facebook Nguyện liên lạc với tôi.

Thế là kỷ niệm sống dậy cứ như tôi vẫn là cô gái tuổi hai mươi ngày ấy. Cả hai cùng vui mừng thăm hỏi nhau. Nguyện sau cuộc hôn nhân dài đổ vỡ hiện sống một mình, còn tôi cũng một mình vì chồng tôi đã qua đời vài năm nay.

Hai chúng tôi ở cùng tiểu bang, ở hai thành phố lân cận nhau, cách 2 giờ lái xe. Nguyện đã mời tôi một buổi tái ngộ để anh được trực tiếp giải bày xin lỗi và hàn huyên thăm hỏi nhau nhiều hơn. Để thuận tiện cho tôi điểm hẹn sẽ là một nhà hàng trong thành phố của tôi và anh sẽ lái xe đến. Anh chọn nhà hàng Tao Ngộ vừa có ý nghĩa vừa nổi tiếng thức ăn ngon.

Tôi sẽ đến trước giờ hẹn nửa tiếng vì háo hức và tò mò muốn trộm nhìn anh xem dung nhan ấy bây giờ ra sao (như trong một bài hát) và tôi sẽ có thì giờ sửa soạn điệu đàng vào gặp anh sau. Thật là thú vị.

Đến khu parking nhà hàng Tao Ngộ tôi lượn xe chầm chậm tìm chỗ đậu vì chiều cuối tuần nhà hàng đông khách đông xe. Tuổi về già từ lâu tôi đã biết điều luôn tìm chỗ đậu xa, vắng vẻ để dễ vào lane khỏi đụng chạm đến ai. May quá có một chỗ trống tôi cố lái xe len vào thế mà vẫn xuýt đụng xe bên cạnh may mà tôi thắng kịp. Tức thì một ông đầu hói từ trong xe hung hăng bước ra thô lỗ quát to:

– Này, này… Không có mắt à? Mắt mũi để trên trời à?!

Nói xong ông đóng cửa xe cái “rầm” bày tỏ sự tức giận và vội vã bước đi, tôi ngượng ngùng vì chưa kịp nói lời xin lỗi chỉ biết nhìn theo bóng dáng to kềnh của ông với chiếc áo khoác màu da bò đang hối hả bước vào nhà hàng.

Tôi bước ra khỏi xe nhìn lại chỗ đậu của mình thấy rõ ràng xe đậu lệch méo mó lấn sang lane xe bên cạnh, thật đáng đời nghe ông kia quát mắng, may mà chưa đụng làm trầy da tróc vẩy chiếc xe, chắc ông sẽ nắm áo đòi bồi thường, vừa phiền phức vừa mất thì giờ.

Tôi đi vào nhà hàng, hi vọng đừng đụng mặt ông ta lần nữa, mất hứng cho giây phút hẹn hò của tôi với cố nhân. Tôi thong thả từng bước vào nhà hàng và kín đáo tìm chỗ khuất để Nguyện khó có thể nhận ra tôi.

Theo ước hẹn của nhau là Nguyện và tôi đều mặc áo màu trắng, màu áo lính Hải quân của chàng và màu áo học trò của tôi để cả hai cùng nhớ về một thời tình yêu trong trắng. Nguyện sẽ đến nhà hàng trước đặt bàn và ngồi chờ tôi trên bàn có sẵn một bình hoa hồng đỏ.

Tôi đứng nép một góc cửa phía xa nhìn vào trong nhà hàng và sững sờ khi thấy người đàn ông áo trắng đầu hói đeo kính đen bệ vệ ngồi một mình bên cạnh bình hoa hồng đỏ. Hoa hồng thì đẹp và nên thơ nhưng chàng thì như một tay xã hội đen đang ngồi… rình mồi để trả thù ân oán giang hồ chứ không phải kẻ đang đợi người tình xưa.

Nếu ông to béo màu mỡ này là Nguyện. Chàng Hải quân vóc dáng chuẩn hào hùng thanh nhã ngày xưa của tôi đâu? Ngày xưa mỗi lần chúng tôi sánh vai dạo phố thế nào mấy cô thiếu nữ cũng có kẻ phải quay đầu lại để suýt soa chàng Hải quân đẹp trai quyến rũ làm cho tôi tự hào biết bao. Và mái tóc bồng bềnh nếm bao nhiêu mùi vị biển mặn nắng gió phương xa của chàng Hải quân lãng tử đâu?

Tôi an ủi mình cũng già đi, cũng thay đổi, toàn đồ giả trên người thì đòi hỏi chi nữa, nên lại hân hoan và khoan thai bước vào nhà hàng, đứng trước mặt người đàn ông áo trắng đeo kính đen tôi nhỏ nhẹ cất tiếng:

– Có phải là anh Nguyện không?

Ông ta nhìn tôi hồi lâu mới từ từ… tháo kính đen ra. Chắc đôi mắt láo liên của chàng sau màn kính đã tha hồ săm soi lướt nhìn tôi từ đầu đến chân để đánh giá tôi rồi, chàng có phát hiện ra mái tóc giả của tôi không? Phấn son che giấu những vết nhăn vết nám trên gương mặt tôi không? Chiếc ví xách tay hàng hiệu đẹp sang cũng là hàng giả hàng nhái chàng có biết không?

Ôi trời ôi, còn tôi đã nhận ra ngay bản mặt của lão hói đầu lúc nãy mắng tôi sa sả chỗ bãi đậu xe, không lầm lẫn vào đâu được vì tôi đã thấy chiếc áo khoác màu da bò lão ta vắt trên thành ghế bên cạnh.

– Xin lỗi, chắc… tôi lầm.

Tôi lắp bắp nói xong định quay đi thì chàng gọi lại:

– Anh là Nguyện đây mà.

Tôi thẫn thờ ngồi xuống ghế vì đã qua cơn choáng, đã tỉnh trí ra, Nguyện chứ còn ai vào đây, dấu hiệu mặc áo trắng, bàn có bình hoa hồng rành rành ra kìa. Chỉ tại chàng đeo thêm đôi kính đen mà thôi. Bồi bàn đến, chúng tôi gọi món ăn và bắt đầu nói chuyện.

Bây giờ đối diện tôi nhìn Nguyện kỹ hơn, nét đẹp trai hiền lành tao nhã ngày xưa đã thay thế bằng nét cau có đăm đăm của một ông già khó tính. Có nhà nhân chủng học nào, nhà tâm lý nào nghiên cứu giùm tôi tại sao thời gian lại có tài biến đổi lạ lùng đến thế không!

Chàng không hề nhận ra tôi mụ đàn bà vô duyên xớn xác đậu xe không nên thân vì lúc ấy tôi còn ngồi trong xe.

Biến cố 1975 chàng đã lên tàu ra khơi và sau đó không thể liên lạc được với tôi nữa. Đường đời chúng tôi hai ngã rẽ. Tôi không trách móc gì chàng, bao số phận con người đã chìm trong bể dâu cuộc đời nào chỉ hai chúng tôi.

Nguyện kể công:

– Anh đã đến sớm nửa tiếng trước giờ hẹn để chọn bàn chọn chỗ ngồi cho buổi tái ngộ này. Tất cả chỉ vì em.

Tôi cảm động quá, chàng cũng như tôi đều đến sớm vì nao nức chờ mong và tôi tha thứ cho chàng tội thô lỗ “mắng” tôi lúc nãy, chàng không biết đó là tôi và vì chàng đang vội vào nhà hàng. Ăn uống và chuyện trò xong gần 2 tiếng đồng hồ, bồi bàn mang đồ tráng miệng ra cùng một cái dĩa có tờ bill tính tiền. Chàng cầm lên xem và bất mãn kêu lên:

– Trời! Chỉ có hai người mà những 160 đồng kể cả tiền tip. Nhà hàng này chém ngọt thật.

– Chắc họ tính tiền cả bình hoa hồng nữa anh ạ.

Chàng xót xa lẩm bẩm:

– Chúng ta có ăn bình hoa hồng này đâu, chưng bày xong lát nữa họ lại cất vào mà.

Tôi ái ngại giùm chàng, chẳng lẽ tôi móc bóp trả tiền làm mất mặt chàng quá nên đành im lặng để cho chàng thể hiện sự ga lăng như trước kia chàng đã từng ga lăng mỗi lần về phép là mỗi lần tôi đều có quà tặng hậu hĩ. Nhưng chàng đã tiếp làm tôi giật cả mình:

– Anh và em chia hai, mỗi người trả một nửa 80 đồng.

Tôi còn đang bàng hoàng chàng thản nhiên giải thích:

– Anh đến Mỹ 1975 sống quen kiểu Mỹ từ lâu rồi. Mời đi ăn chung nhưng phần ai nấy trả.

Tôi lấy lại bình tĩnh:

– Em cũng đến Mỹ 1975 em hiểu mà.

Tôi mở bóp lấy ra 80 đồng để trên bàn cạnh 80 đồng của chàng:

– Thôi tạm biệt anh. Cám ơn anh một buổi chiều tái ngộ.

Tôi đứng lên và bước ra khỏi nhà hàng, chàng cũng vội bước theo tôi, tôi bước nhanh chàng tuy to béo cũng cố bước nhanh và hụt hơi gọi vì thấm mệt:

– Này, em… này… em…

Tôi khựng bước lại, hay là chàng hối hận đã bắt tôi hùn trả tiền ăn và muốn nói điều tình cảm gì đó trước khi chia tay cho tôi đẹp lòng? Chàng đã bắt kịp tôi vừa thở vừa nói:

– Này em, nãy giờ mình nói chuyện đủ thứ mà anh quên chưa hỏi em một điều quan trọng…

Tôi chờ đợi:

– Vâng, anh cứ hỏi.

Chàng khẩn khoản:

– Anh muốn biết tiền hưu trí mỗi tháng em lãnh bao nhiêu có tương đương với anh không? Để khi chúng ta quyết định nối lại tình xưa về sống chung bên nhau không ai phải thiệt thòi. Thế thôi.

Tôi nhìn thẳng vào cố nhân, người đã từng làm tôi thổn thức tiếc thương và trả lời dứt khoát không còn thương tiếc gì nữa:

– Chúng ta tái ngộ tâm sự chuyện 50 năm qua chứ em chưa hứa hẹn sẽ về sống chung với anh và sẽ không bao giờ đâu. Anh khỏi phải tính toán trước cho mất công.

Nguyện thất vọng, mặt trở nên lạnh tanh và ngạc nhiên thấy tôi vẫn đi cùng hướng, ra tới chỗ đậu xe chàng mới hiểu khi tôi mở cửa xe chui vào. Tôi nói:

– Em “de” xe nếu đụng xe anh, anh đừng nổi cáu mắng em đồ không có mắt nhé.

Trong khi tôi đang toát mồ hôi nhích từng chút một, quẹo tới quẹo lui cho cái đuôi xe méo lệch ra khỏi lane tôi còn nghe giọng anh ta thô lỗ vang lên y như lúc nãy:

– Thế mà làm người ta mất thì giờ đến đây, lái xe cả đi lẫn về 4 tiếng đồng hồ và tốn hết nửa bình xăng!

Nguyễn Thị Thanh Dương
(08/2022)

Post Reply