Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

CON GÁI CỦA NGƯỜI TA

Trần Thiện Phi Hùng
Con gái của người ta sau 24 giờ sinh ra đã trở thành con gái của tôi, và chỉ sinh sau con gái của tôi có 4 giờ tại Bảo Sinh Viện Quân Đội Thành Phố Nha Trang năm 1972. Mẹ của nó còn trẻ lắm, nhưng có vẻ lanh lợi sành đời. Cô ta sinh xong mạnh khỏe đi đứng bình thường chứ không nằm liệt như bà vợ tôi. Cô ta nói với vợ tôi cô ta là vợ của một Trung Úy Biệt Kích. Anh ta ít khi về nhà và công tác ở đâu không bao giờ nói. Cô ta đi làm sở Mỹ ở Chu Lai, vì sinh kế sao đó nên "Nhảy dù" với Mỹ. Tai nạn có thai ngoài ý muốn nhưng không biết con của chồng cô ta hay của Mỹ nên cứ sinh con xong rồi tính. Con chồng thì để nuôi, còn con Mỹ thì cho.
<!>
Nghe vợ nói lại, tôi sang phòng cô ta gõ cửa xin vào xem đứa nhỏ ra sao. Trong bóng đèn mờ của căn phòng, con bé nằm bó mình trong khăn lông, chỉ lòi cái mặt da trắng đỏ và cái miệng nhỏ xíu hai môi như chu ra làm tôi nghĩ "Con bé nầy chắc sau nầy hỗn lắm đây". Tôi không nói gì với cô ta mà về phòng bảo bà vợ tôi: "Mình xin con bé nuôi luôn nhen em?".

Vợ tôi lo lắng: "Làm sau đủ sữa cho 2 đứa? Thiên hạ nói bậy bạ làm sau chịu nổi?". "Cho nó uống sữa bò, anh sẽ mướn thêm người giúp việc nữa cho em.", tôi quả quyết.

"Tùy anh!", vợ tôi đồng ý.

Thế là thủ tục xin con của tôi và đồng ý cho con do cô ta viết được đưa cho cô mụ, nhưng sáng hôm sau thì cô ta đã rời khỏi bệnh viện, bỏ con lại khi thủ tục chưa hoàn tất. May mắn là Ban Xã hội Quân Đội cũng dễ dàng hoàn tất nốt thủ tục nhận con nuôi mà làm khai sinh giống như thủ tục khai sinh của con gái của tôi. Đây có lẽ là trường hợp hy hữu một đứa trẻ "Lai Mỹ" mà khai sinh do hai vợ chồng là người Miền Đông và Tây Nam Việt Nam coi như sinh ra (Tiếc là năm 75 tất cả hình ảnh đều mất hết).

Trong tiệc đầy tháng, 2 đứa bé như cặp song sinh, một Việt một Mỹ đẹp như thiên thần. Chỉ khổ cho thân tôi, vì hai đứa trẻ đứa nào cũng đòi bồng một lúc, hễ đứa này trên lưng thì đứa kia phải bế trên tay.

30/4/1975, tôi bị rã ngũ. Tôi không thể về quê Ngoại như ước muốn sống ở Rừng Dừa năm xưa vì nay B-52 cày nát thành bình địa. Tôi muốn phá hoang trồng lại, nhưng phải trình diện vào tù cải tạo. Một tháng trôi qua, rồi một năm, rồi năm nữa .. Vợ không thấy đi thăm mà con cũng không bao giờ được gặp mặt. Mỗi tháng chỉ có Mẹ tôi được 15 phút thăm nuôi. Hỏi gì Mẹ tôi cũng nói tất cả bình an, vợ và các con ngoan và khỏe mạnh. Tôi lúc nào cũng nhờ Mẹ lưu tâm cho bé Thùy An, tên đứa con "Lai Mỹ". Chắc là nó bị kỳ thị ở trường học và sống với mọi người sẽ rất khó khăn. Nhưng Mẹ tôi nói con khỏi lo, nó sống rất tốt học rất giỏi nên được thầy cô và bạn bè quí mến. Dường như Mẹ tôi lúc nào cũng né tránh khi tôi hỏi đến vợ và con gái của tôi, bé Thanh An. Tôi đoán có lẽ chuyện gì không tốt đã xảy ra nhưng cũng đành bó tay không biết hỏi ai.

4 năm sau tôi được ra tù. Con gái mang 2 dòng máu ôm tôi khóc như mưa, nhưng con gái và vợ tôi thì không thấy đâu nữa. Tôi đoán biết chuyện không hay nên cũng không hỏi Mẹ.

Con bé thỏ thẻ kể cho tôi nghe. Ba đi rồi mấy tháng sau Má dẫn chị Hai đi với Má về thăm Ngoại mà không cho con đi, và từ đó không về nữa. Con hỏi Nội Má con chừng nào về? Nội nói Nội cũng không biết.

Thời chinh chiến, tiền lương của 3 đứa con đưa cho Mẹ, Mẹ tôi xài tiện tặn có dư, hễ đủ 1 chỉ thì mua 1 chỉ vàng y, đủ 10 chỉ thì đổi thành 1 lượng vàng. Con thất thế sa cơ, Mẹ lại bán vàng nuôi con. Mẹ cho con vàng để vượt biên.

Năm 1982, tôi và em gái tôi vượt biên. Con gái của tôi nhứt định Ba đâu con ở đó. "Con không sợ chết, con chỉ sợ phải xa Ba".

Trời không nỡ bỏ 2 Cha con tôi, tôi đã lái tàu vượt biên thành công. Con gái tôi bắt đầu vào Trung Học, có lẽ nhờ cái máu Mỹ của nó hay sao mà chỉ mấy tháng thì nó nói tiếng Mỹ như súng liên thanh. Cứ có dịp là đeo bên tay Cha khi đi chợ hay đi ăn nhà hàng hay có đám tiệc.

Hình ảnh một ông già Việt Nam, có một cô gái hoàn toàn trông giống Mỹ không thấy có chút gì lai đeo theo một bên và nhõng nhẽo thì chắc chưa có ai bằng. Tối ngày gặp mặt gọi Daddy, không thấy mặt thì: " Daddy, Ba đâu rồi". Tôi vui với "Con gái của người ta", và cũng là nguồn an ủi duy nhất cho tôi vui sống.

Tôi làm công nhân cho hãng làm phụ tùng xe hơi, lương cũng dư sức nuôi con lên đại học và mua nhà trả góp. Năm 1995 con gái tôi thành y sĩ nhãn khoa và có việc làm ngay. Ngày làm lễ mãn khóa, cầm mảnh bằng trên tay, con gái ôm tôi khóc như chưa bao giờ khóc như thế.

Tôi hỏi: "Con vui mừng sao lại khóc dữ thế?"

"Cám ơn! Con cám ơn Daddy nhiều lắm. Con nghĩ không biết có bao nhiêu ngàn hay chục ngàn đứa trẻ bị Cha Mẹ bỏ rơi mà có bằng Đại học như con? Con thương Daddy nhiều lắm!", nó nức nở.

"Daddy cũng cám ơn con, nhờ có con mà cuộc sống của Ba mới có ý nghĩa mà vui sống tiếp bấy lâu nay."

Hai Cha con dị chủng ôm nhau cùng khóc.

Bạn bè của con biết thì không có gì lạ về sự khắng khích của 2 Cha con Việt-Mỹ này, nhưng những người xa lạ thì hiếu kỳ nghĩ suy lung tung nhưng không thể nào ra được đáp án. Cha Việt sao con Mỹ mà không có chút gì là dáng vẻ Việt Nam?

Tôi đi làm đem cơm theo ăn nay làm thêm phần cho con gái. Lương của con gái đưa hết cả cho tôi, chỉ lấy 100 bạc để đổ xăng và ăn quà vặt. Khi cần mua sắm gì thì nói xin. Tôi từ chối cách nào cũng không được nên mở một sổ bank riêng bỏ hết tiền của con gái đưa để khi nó cần đưa lại cho nó.

Hai năm sau, em gái của tôi bán 2 cái nhà cũ để mua cái nhà lớn hơn, tôi bảo con gái vay tiền ngân hàng mua cả 2 cái. Vì không vay được một lúc gần nửa triệu bạc nên tôi dùng cái nhà tôi để thế chấp vay mua 2 cái nhà cho con gái đứng tên và cho mướn.

20 năm trôi qua nhanh. Lưng của tôi bị thoái hóa cột sống nên đau càng ngày càng nhiều. Chân tôi bắt đầu bị tê. Lái xe lúc nào chân cũng phải nhịp nhịp thử coi còn hoạt động được hay không, nhỡ bị tê khi cần thắng mà không xử dụng được thì nguy to. Tinh thần tôi bị hoảng loạn khi nghĩ đến lúc không cử động được, tay chân bởi dây thần kinh bị gai xương sống ép nên không hoạt động được. Mổ xương sống thì xác xuất rủi ro khá cao, nên khi còn gượng đi đừng được tôi không chịu mổ để cắt gai cột sống. Con gái thì đeo theo một bên ít đi chơi ít giao thiệp với bạn bè. Đi làm về là quanh quẩn bên Cha làm tôi thêm lo lắng.

"Sao con không có bạn trai? Con lập gia đình cho Ba yên tâm.", tôi khuyên con.

"Ai bảo Ba con không có bạn trai? Bạn trai của con đang ghi tên học tiếng Việt, bao giờ nói được tiếng Việt con sẽ đem về ra mắt Ba. Anh ta người Đức nhưng sinh trưởng ở đây, và chịu điều kiện của con kiện là phải sống chung với Ba suốt đời. Nhưng con thêm điều kiện phải nói được những câu thông dụng tiếng Việt Nam.

"Ba nói tiếng Anh cũng tạm hiểu được mà con."
Nhưng con muốn con của con sau nầy phải nói được tiếng Việt, nên anh ta ghi tên học một năm tiếng Việt ở Đại học Victoria.

Tuổi 60 cũng đúng lúc tôi được phép về hưu vì là cựu quân nhân nên sớm hơn dân sự 5 năm. Con gái thì hối thúc Ba nghỉ việc đi, tiền hưu Ba đủ sức tiêu dùng, nếu có cần mua gì hay đi đâu con lo cho Ba được.

Tôi xin nghỉ việc về hưu. Sáng nào 5:30AM cũng đi bơi để chữa trị bệnh đau lưng. Con gái cũng đi theo. Sáng nào hai Cha con xe ai nấy lái đến hồ bơi. Con tập gym, Cha thì bơi. Con gái đem quần áo uniform thay đi làm luôn.

Một hôm con gái tôi nói: "Ngày mai con không đi làm; Ba có muốn con chở Ba đi thăm bác Hoàn không? Con nghe con gái của Bác nói là Bác đã bị đưa vào Viện Dưỡng lão tuần rồi."

"Sao con lại dùng chữ “bị”? Chẳng lẽ Bác Hoàn không muốn vào Nursing Home mà bị bắt buộc vào hay sao?"

"Bác Hoàn bị stroke té, xe cấp cứu đem vào nhà thương. Bác ấy bị méo mặt và miệng không nói được nên các con của Bác xin bác sĩ cho vào Viện Dưỡng lão, vì nếu về nhà sau nầy xin vào thì Bộ Y Tế sẽ check sức khỏe và trí nhớ khó khăn lắm mới được chấp nhận nên để nhà Thương quyết định thì khỏi phải check gì hết!"

"Bác chỉ hơn Ba có 2 tuổi và trí nhớ còn tốt lắm mà? Ừ! thì Ba với con đi thăm Bác ấy kẻo tội nghiệp. Hơn nữa mai mốt Ba có vào sẽ có người thăm lại Ba."

"Không bao giờ có chuyện đó Ba đừng mơ! Con không bao giờ gởi Ba vô Viện Dưỡng Lão đâu!", con tôi bĩu môi. "Con tập gym để đủ sức bồng Ba khi Ba cần đến. Con cũng chọn chồng to con để phụ với con. Ba xài Computer và Internet thường xuyên, trí nhớ của Ba sẽ không bị Dementia hay Alzheimer."

"Cám ơn con! Nhưng con còn công việc và cuộc sống của riêng con".

"Trại Mồ Côi Không Dành Cho Con, Thì Viện Dưỡng Lão Cũng Không Dành Cho Ba!", con gái tôi chắc nịch.

"Con nhớ mua trái cây biếu Bác ấy, nhớ đừng mua bánh ngọt vì Bác ấy cử ăn đường."

Hai Cha con tôi vào Viện Dưỡng Lão Cửu Long vừa sau giờ ăn sáng, nên gặp Bác Hoàn ngay phòng ăn. Mặt và miệng của Bác Hoàn trở lại gần bình thường và giọng nói tuy có biến giọng nhưng vẫn còn nghe rõ lắm. Bác bắt tay tôi coi vẻ mừng và cảm động, nhưng hai mắt lệ ứ tròng.Thăm Bác Hoàn khoảng một tiếng sau hai Cha con xin phép ra về.

Con gái tôi lái xe ghé Chợ và nói: "Con đãi Ba ăn bún bò Huế."

- Ừ! ăn thì ăn.

Con gái mở cửa cho tôi và kéo ghế cho tôi ngồi, gần như ai cũng quay ngó chúng tôi. Cô bé chạy bàn thì quen quá với Cha con tôi vì nhiều lần ăn ở quán nầy.

- 2 tô bún bò Huế phải không Chú?

- Ờ! Cháu cho Chú 2 tô.

Con gái mở cái xách tay của nó ra, mà nó đổi cái xách tay lớn hơn hồi nào tôi không để ý. Nó kéo ra một bịch nylon và kéo rau kinh giới ra. Nó để rau kinh giới tím qua một bên và nói: "Cái nầy của Daddy."

Rồi kéo mớ khác là kinh giới xanh và nói: "Cái nầy của con."

Ông ngồi bàn gần kế bên quay sang: "Cô Mỹ nầy sao nói tiếng Việt rành quá và rành ăn bún bò Huế hơn cả người Việt Nam!"

- Nó là người Việt Nam chứ không phải Mỹ. Nó chê rau kinh giới tím ăn nồng quá mà tôi thì thích kinh giới tím hơn nên nó hái riêng hai loại cho Cha con chúng tôi.

- Cô ta là con dâu của Anh?

- Không. Nó là con gái của tôi.

Hai tô bún bò Huế được bưng ra, cuộc đàm thoại ngưng tại đây và có lẽ ai cũng liếc mắt xem khi cô Mỹ 100% vắt chanh và ngắt từng cọng rau bỏ vào tô cho Cha. Tôi hãnh diện là đã không lầm khi bỏ công bao năm cơ cực nuôi “Con của người ta.”

Về tới nhà chưa kịp thay quần áo thì điện thoại reo. Bạn Hoàn, người tôi vừa đi thăm, phone cho tôi từ Viện Dưỡng Lão.

"Anh mới về tới nhà phải không? Hồi nãy tôi gọi không ai bốc phone. Sau khi Anh về rồi có một Bà trong Viện Dưỡng Lão này hỏi Anh có phải Hải Quân hay không và đứa con gái Mỹ đi theo Anh là con của Anh? Bà ta nói là người quen của Anh ở Nha Trang khi xưa, muốn xin số phone của Anh, nên tôi hỏi Anh trước. Có phải nhân tình cũ ngày xưa hay không? Nếu phải thì vào gặp gấp đi, dễ gì xa xứ gặp cố tri!"

- Ừ! Thì Anh cứ cho có sao đâu. Bốn mươi mấy năm rồi làm sao ai còn nhớ được ai!

Một ý nghĩ thoáng qua trong óc tôi: Không lẽ là Mẹ ruột của con gái của tôi? Chứ nếu Bà ta là người vợ bỏ tôi ngày nào thì chắc chúng tôi phải nhìn nhau, chứ chẳng lẽ tình chồng vợ sống với nhau 5 năm mà nhìn nhau không ra! Nhưng nếu là Mẹ ruột của con gái của tôi, tôi phải làm sao đây, vì dù sao cũng là “Con gái của người ta.”

Trần Thiện Phi Hùng.

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

Mất Nhau
Khuyết Danh
Không đêm nào ông ngủ tròn giấc. Cứ vài tiếng là ông phải dậy để lấy thuốc giảm đau cho bà uống. Dạo này sức khỏe của bà yếu hẳn, nhất là sau khi mổ. Bởi thế giấc ngủ ông cứ chập chờn, ngủ không ra ngủ, vì lòng ông phập phồng.

Bà nằm bên cạnh, hơi thở nhè nhẹ, đôi khi thở dốc, đứt quãng. Có khuya, ông giật mình tỉnh giấc vì hình như không nghe bà thở. Choàng dậy, ông ghé sát tai vào mũi bà. Hơi thở bà nghe như muỗi kêu.

Bà liệt đôi chân đã gần 13 năm nay. Trăm sự đều nhờ một tay ông. Ban ngày con cái đi làm cả. Căn nhà rộng chỉ mỗi ông và bà quạnh vắng. Công việc mỗi ngày quen thuộc đến nỗi cứ nghe tiếng chuông đồng hồ điểm mấy tiếng thì ông biết giờ này phải làm gì cho bà.

Sáng sớm, ông vất vả đưa bà – thân xác bà nặng nề vì bao nhiêu năm nằm một chỗ không vận động – từ giường lên chiếc xe lăn và đẩy ra phòng ăn.

Trên bàn, ông đã dọn sẵn đĩa trứng, vài miếng xúc xích và ly cà phê pha loãng. Lúc mới liệt đôi chân, bà còn tự ăn. Khoảng vài năm trở lại đây, ông phải đút cháo cho bà.

Ông tất tả việc chăm lo, từ bữa sáng đến cơm chiều. Sức khỏe bà yếu dần, ăn không thấy ngon nên có lúc bà không buồn ăn. Ông phải dỗ và đút cho bà được mấy thìa cháo lót dạ để uống thuốc chứ không ăn hết bữa sáng như những năm trước.

Lát sau, ông đưa bà ra trước sân đón nắng. Ngọn gió sớm mai vờn trên lọn tóc rối pha sương, lòng ông dịu lại khi nhìn khuôn mặt bà tràn ngập nắng bình minh. Tuổi ông và bà đi vào hoàng hôn đã từ lâu. Nhưng thật may, ông vẫn còn đủ sức để tận tụy chăm sóc bà.

Buổi trưa êm ả. Bà ngủ gà ngủ gật trên chiếc sofa. Dọn dẹp bếp núc xong, ông đến ngồi cạnh bà.

Căn nhà yên ắng chỉ nghe tiếng thở của bà thều thào như muốn trối trăng điều gì. Bà đọc kinh theo ông cầm chừng vì người mau mệt. Đôi lúc bà trở mình thở dốc, ông vội đỡ lấy bà, đưa tay vuốt ngực cho bà thở.



Thời tiết cuối đông lúc ấm lúc lạnh thất thường, nên sức khỏe của bà cũng bồng bềnh như mây. Có lúc bà ngủ thiếp trên ghế đến nỗi ông ngỡ tim bà đã ngừng đập. Trong thinh lặng của buổi trưa hiu quạnh, ngồi nhìn bà vật vờ trên ghế, ông cảm nhận thật rõ ràng hơn bao giờ là sức khỏe bà mong manh quá.

Nhìn lên cây thánh giá, ông lẩm nhẩm cầu xin Chúa cho ông sức khỏe để tiếp tục chăm nom bà. Hơn mười năm nay, ông chưa hề than van mệt nhọc nhưng cứ nghĩ mãi đến cái tình. Bây giờ có ai hỏi ông có yêu bà không thì ông lắc đầu bảo cả đời tôi chỉ biết thương nhà tôi, chứ có biết yêu là gì. Như thuở ban đầu cha mẹ dạm bà cho ông ở cái làng Bách Tính xa xưa ngoài Bắc.

Truyền thống cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy vẫn là một khuôn phép gia thế được gìn giữ qua bao nhiêu đời. Ông chỉ biết bà là con gái ông bà Thư được cha mẹ ông hỏi về làm dâu. Thế nhưng ông thương bà ngay từ lúc bà bước về nhà chồng.


Người ta bảo về già vợ chồng sống với nhau vì nghĩa hơn là vì tình. Nghĩa đây là nghĩa vụ, là trách nhiệm, là bổn phận. Ông nghĩ nếu không còn thương nhau thì cái nghĩa sẽ trở thành một cực hình. Cái gì cũng thế, theo ông, tất cả đều phát xuất từ tình thương. Như phận của ông, ở tuổi xế chiều, ông vẫn thấy thương bà đầy ắp như thuở nào. Với tình thương bền bỉ đó nên ông chẳng nề hà săn sóc bà hết lòng, mỗi ngày.


Vậy mà có lần bà bảo bà nên chết cho ông đỡ khổ. Ông giật mình bảo bà nói gì vậy, bao nhiêu năm vẫn săn sóc bà, tôi có phàn nàn gì đâu. Ông không hiểu bà đang dỗi hay chán sống. Bà nhìn ông với cặp mắt rơm rớm biết ơn, tôi biết nhưng tôi thấy ông quá khổ vì tôi, làm sao tôi đành lòng.


Ông gạt phăng, bà thấy Chúa quan phòng không, từ ngày bà ngồi xe lăn, tôi chẳng hề đau ốm ngày nào để có sức chăm sóc cho bà. Ông nhỏ nhẹ, bà cứ yên tâm, tôi còn khỏe ngày nào thì vẫn lo cho bà ngày đấy.

Ông nói như đinh đóng cột, nhưng trong lòng ông mơ hồ thấy một chia lìa, một mất mát nào đó đang đè nặng trong tâm trí. Ông chưa hình dung được một ngày không có bà sẽ ra sao…

Đặt bà nằm xuống giường, ông ra phòng khách gọi cho người cháu nơi xứ lạ quê người. Chồng cô cháu gái mới chết đã mấy ngày mà chưa có thì giờ gọi chia buồn. Hôm nay bà ngủ sớm nên ông vội gọi ngay kẻo quên. Người cháu rể hôn mê cả tuần rồi mất.


Ai cũng một lần chết, ông chợt nghĩ đến sức khỏe của bà ngày càng suy sụp thấy rõ. Ý nghĩ chia lìa lại nhúm lên, ông nghe nhói trong tim và lắc đầu xua đuổi mảng tối ra khỏi tâm trí. Ông thở dài nghĩ đến họ hàng thân thuộc ở hết bên kia nửa vòng trái đất, kể cả đứa con gái theo chồng sống xa ông bà. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.

Về già, ông thấy cần gần gũi với anh em ruột thịt hơn bao giờ, như lúc các anh chị em chung sống với ông dưới một mái nhà ở làng Bách Tính.

Chú cháu chuyện trò một lúc, ông xin kiếu vì đến giờ cho bà uống thuốc. Bật ngọn đèn đêm, ông nhìn bà chìm trong giấc ngủ bình an, thanh thản lạ lùng. Ngồi một bên, ông lay bà dậy. Không hiểu sao lay đến mấy bà vẫn nằm im.

Ông phải dỗ, bà nghe tôi dậy uống thuốc. Ông dỗ bà như thế đã nhiều lần, có khi được mấy thìa cháo, có lần được mấy viên thuốc. Lần này, bà vẫn nằm bất động.

Ông nói nhỏ vào tai bà, bà không nghe lời tôi, thế bà còn thương tôi nữa không. Thường khi nghe ông hỏi “còn thương không” thì bà luôn chiều lòng, vì sợ ông buồn. Lần này, ông hỏi gặng mấy lần mà bà vẫn lặng thinh.

Sự thinh lặng khó hiểu chợt làm ông lo sợ. Ông đứng bật dậy gọi anh con trai. Người con chạy vội vào phòng, đặt tay lên mũi bà. Anh cẩn thận nắm cườm tay xem mạch.

Sau cùng, anh úp tai vào ngực bà. Đến lúc đó, nỗi lo sợ hoàn toàn choáng ngợp tâm trí ông. Vòng quay sinh tử nhiệm mầu thình lình đổ ập trên đầu, ông chỉ nghe loáng thoáng tiếng người con, mợ đi rồi ba à… để con gọi cấp cứu.

Thảng thốt buông rơi mấy viên thuốc, ông kêu lên, bà ơi. Hình như ông đã chuẩn bị giây phút chia ly từ mấy tháng nay, nhưng khi nó xảy ra – như ngay bây giờ – ông vẫn loay hoay không biết đón nhận thế nào cho phải.

Ông đứng lặng người nghĩ xa hơn, bà sẽ không còn cần ông làm những việc thường ngày nữa. Hết thật rồi. Ngài mai, ông nhẩn nha dậy trễ, vì không cần làm bữa sáng cho bà; trưa rảnh rỗi, ông có thể chợp mắt đi một chút; ông cũng chẳng cần đẩy chiếc xe lăn vì từ ngày mai, nó sẽ nằm yên quạnh quẽ ở góc phòng.

Tính đến lúc bà mất, ông đã 93 tuổi. Lần đầu tiên trong suốt 73 năm đời sống vợ chồng, ông cụ cảm thấy thấm thía hai chữ “mất nhau.”


Vừa nghĩ đến đó, ông cụ lặng lẽ ngồi xuống bên bà và ôm mặt bật khóc tức tưởi.


Không biết tác giả

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nangchieu »

Image

ĐI NGHE LỘC VÀNG HÁT

Cuối cùng thì hắn cũng mò tới được quán nhạc” Lộc Vàng”, nằm trên lầu ba của một tiệm ăn hải sản có tên là Thác Bạc, số 46 An Dương, Yên Phụ, Hà Nội. Hình như quán nhạc chỉ mở vào hai tối thứ Tư và thứ Bảy hàng tuần.

Chủ nhân của quán là nghệ sĩ Lộc Vàng, một bị can chính trong vụ án dã man và đểu giả xảy ra vào những năm của thập niên 1960. Anh chẳng làm gì cả. Anh và một nhóm bạn chỉ vì quá yêu những bản nhạc tiền chiến. Quá say mê với những lời nhạc ca ngợi tình yêu và thân phận con người. Sau những ngày lao động chân tay vất vả ( Lúc đó anh đang làm thợ quét vôi tường ), tối đến các anh tụ họp lại, hát lén cho nhau nghe, thế thôi. Nhưng công an và bộ máy tuyên truyền lúc đó coi đây là vụ án điểm. Họ lôi các anh ra toà, giáng những bản án thật nặng với tội danh “Tuyên Truyền Văn Hoá Phẩm Đồi Trụy” rồi quăng tất cả vào trong các trại tù độc địa, nằm tuốt nơi rừng sâu núi thẳm….

Sao lại dám yêu một “ Con Thuyền Không Bến” ? Sao lại đi yêu “Giọt mưa Thu” ? Sao không để thời gian đó yêu chủ nghĩa xã hội? Hay để yêu chị Võ Thị Sáu, bị trói chặt hai tay mang ra pháp trường bắn, mà vẫn tài tình thò cánh tay thứ ba từ dưới háng ra để hái hoa Sim cài lên mái tóc ? Yêu cũng phải có định hướng chứ?

Không nhìn thấy gương vua Duy Tân kia à? Dù vua có yêu nước bao nhiêu, dù vua có chống Pháp cỡ nào đi nữa, nhưng không phải là đảng viên, cho nên nhà vua chịu khó đi chỗ khác chơi. Tát cả các con đường mang tên vua đều đã được thay bằng cái tên Trần Phú, một tay cơ hội chủ nghĩa nhưng trong túi lại có tấm thẻ đảng viên và leo cao đến chức tổng bí thư.
Lộc Vàng và các bạn anh lúc đó đã không chịu hiểu phải yêu theo những gì tuyên giáo yêu và phải ghét theo những gì tuyên giáo ghét. Chính phủ chỉ yêu cầu các anh có mỗi điều lưu manh đơn giản như vậy mà các anh cũng không chịu hiểu, không chịu làm theo, cho nên các anh đã trả giá và trả giá nặng. Bảy người trong vụ án, sáu người đã chết trong tủi nhục oan khiên, chỉ còn mỗi mình anh trời cho sống sót, làm nhân chứng sống cho những ai còn quan tâm đến nhân quyền, còn quan tâm dến số phận lẻ loi, bé nhỏ của mỗi một con người…

Trở lại đêm nhạc Lộc Vàng. Khi hắn vừa lóp ngóp bước vào tầng ba, hắn và Lộc Vàng nhận ra nhau ngay, mặc dù cả hai chưa từng gặp cũng như chưa từng thấy hình của nhau bao giờ. Cả hai bắt tay rồi tự động chuyển qua ôm vai nhau thương cảm.

Anh là người hiền lành, dể mến, ăn nói nhẹ nhàng nhưng diễn ý hết sức gọn gàng, minh bạch. Bên tách trà nhỏ xíu, đắng khủng khiếp, anh cứ rù rì kể cho hắn nghe về cái dĩ vãng tan nát, cay đắng muôn phần của đời anh. Anh cũng cho biết càng hoạt động quán càng lỗ, nhưng anh quyết duy trì điểm hát như là một khẳng định rằng anh không gục ngã trước mọi chiêu trò lưu manh của chế độ.

Các nhạc công đã lên sân khấu và ngồi vào vị trí, báo hiệu đêm nhạc bắt đầu. Có một vị khách, tầm 60 tuổi, đứng lên đề nghị ca sĩ Lộc Vàng hát bài “Giọt mưa Thu” bởi vì theo ông, khi công an ập vào còng tay Lộc Vàng là khi anh đang hát chính bài này, và nay ông muốn được nghe lại. Đang ngồi cạnh, Lộc Vàng rù rì vào tai hắn: ” Làm gì có chuyện đó. Anh em thương rồi đồn thổi thôi. Hôm ấy Sở Công An Hà Nội mời tôi lên thẩm vấn rồi bắt giữ luôn…” Nói xong, anh vội vả chỉnh sửa lại cà vạt và bước lên sân khấu. Hát Giọt Mưa Thu xong, anh giới thiệu bài hát thứ nhì mà anh muốn riêng tặng cho Lộc Dương, người đang ngồi dưới kia ngày hôm nay, đó là bài ” Nỗi Lòng Người Đi“.

Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu thương thành khói tan trong mây chiều…..
Hà Nội ơi, giờ biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ
Khua nước trong như ngày xưa……

Đang hát thì anh khóc. Vài giây sau, anh cố trấn tỉnh và hát tiếp, mắt cứ nhìn lên trần nhà… Ngồi ở dưới, hắn âm thầm hốt hoảng nhận ra rằng hắn không đang xem một nghệ sĩ trình bày bài hát, và cái dáng người nhỏ thó, mặc bộ vét tông vàng, đứng giữa hai nhạc công kia, cũng không phải là Lộc Vàng nữa. Lúc đó, trên sân khấu, hắn chỉ thấy một mảnh đời rách nát, tang thương đang nhất quyết không chịu thua số phận. Hắn chỉ thấy một khối vàng ròng còm cõi đang dùng những lời nhạc mượt mà, chan chứa yêu thương như là một thứ lửa để tự khẳng định mình và để cho bọn cầm quyền thấy rằng vàng này không dể khuất phục đâu. Oan khiên thì chịu nhưng cúi đầu thì không.

Và hết sức bất ngờ, trong người hắn bổng bùng lên nỗi căm giận. Sự căm giận này chạy qua những nếp nhăn trong óc hắn thì chuyển hoá thành một ước mong không có thực. Hắn khát khao mong ước những tên quan chức ngày xưa đã hãm hại anh ( từ công an tới viện kiểm sát, từ tuyên giáo đến mấy thằng toà) tất tật. Thằng nào đã chết thì thôi, đứa nào còn sống thì đều có mặt trong đêm nhạc này. Tiền nước không phải lo, hắn sẽ trả. Hãy cứ ngồi yên đó mà uống cà phê nghe nhạc, mà nhìn nạn nhân con sâu cái kiến một thời của mình hiện nay vẫn sống tư cách ra sao.

Uống xong thì cứ về thong thả. Không việc gì. Chỉ mong một mình trong đêm đen, các ông sẽ hết sức trung thực với chính mình để trả lời một câu hỏi duy nhất của hắn đặt ra cho mấy ông : Chỉ hát nhạc trử tình mà ở tù tới mười năm, cái chế độ này có nhục không? Bản thân các ông có thấy nhục không?

Còn ly tách các ông uống, cho thẳng hết vào thùng rác. Đừng rửa làm gì. Chẳng có xà bông nào rửa sạch được những cái mồm đã phun ra lời ép cung, những cáo trạng láo toét, và những bản án mông muội dã giết chết đời thanh xuân của những công dân trí thức, lương thiện, yêu đời…..

Nhưng các ông có cấm mãi được đâu. Các ông không thể dùng tay mà che lấp mãi mặt trời. Giờ đây cả nước hát nhạc vàng. Từ các kênh truyền hình cho tới các quán cà phê, nhạc vàng luôn là giòng nhạc chủ đạo. Thậm chí từ các dàn loa nhấp nháy cực đắt tiền trong các biệt phủ của cớm, cớm bự, nhạc phát ra vẫn chỉ là những giòng nhạc trữ tình của hơn nửa thế kỷ trước truyền lại mãi đến hôm nay.

Các ông đâm ra lúng túng, các ông không biết giải thích làm sao cho cái chính sách tiền hậu bất nhất, lấy đểu giả làm chính của đảng của các ông, các ông bèn giở trò đểu theo kiểu ” vượt biên bị bắt là phản động, còn đi thoát được, lại trở thành khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Bây giờ các ông bảo rằng cho phổ biến nhạc vàng là cách để duy trì di sản âm nhạc. Thế tại sao trước đây các ông lại bắt những người duy trì di sản âm nhạc đi ở tù ? Các ông trả lời đi.

Này những người cộng sản, đã đến lúc các ông phải xem xét lại vụ án Lộc Vàng trong tinh thần cầu thị và dưới ánh sáng văn minh của thế kỷ thứ 21. Các ông phải trả lại danh dự và sự công bằng cho người ta. Các ông không thể nhắm mắt cho qua tua. Bởi vì nếu hôm nay các ông không giải quyết, thì mai này lịch sử cũng sẽ phải giải quyết. Mà tội lỗi của cái đảng cộng sản các ông nhiều như ruồi mùa Hạ, sẽ phải cộng chồng thêm một tội ác nữa dưới sự phán xét nghiêm khắc của lịch sử…

Lộc Dương

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by nhuvan »

BẠN TÙ SƠN LA

Phan Lạc Phúc


Image
(hình minh hoạ)
Trời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng. Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù “cải tạo” miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được “chiếu cố” cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng “Nước Sơn La, ma Vạn Bú”. “Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù”. Tù “cải tạo” thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ ném bom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni-lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm… Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng bên trên.

Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau… Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực. Ông thuộc loại “Tây con”, học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh… Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói “bà xã moi”. Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra. Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một cái áo lạnh và đặc biệt có hai cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để “tưởng nhớ một mùi hương” như vậỵ. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà đặc biệt ra hồi tưởng…

Trước đây ông bạn tôi thường hút Lucky. Đi “”cải tạo”” ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi phút tuyệt vờị…

Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù đã có thành ngữ “Có thuốc lào là có tất cả”. Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm… Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù “cải tạo” thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ.

Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có “kẻng” nghỉ 10 phút “hút thuốc, uống nước”. Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu… Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên.

Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống, máu mũi anh đã chảy ròng ròng.,..

Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái taị “Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi”. Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng kiến mớị Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai tai. Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh “không giống ai”, mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậy. Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng vừa ngượng ngập và khẽ nói: “Cho nó ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ…”

Dạo ấy, tù “cải tạo” còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất, mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh “lán trưởng” sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo.

– Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ.

Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh:

– Được, cho vào. Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán.

Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang dở thức dở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái “mũ” không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng:

– Anh kia đứng nại.

Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửa. Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài:

– Cái này là cái gì?
– Dạ… cái quần…
– Ở đâu ra?
– Vợ tôi gửi cho tôi.
– Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh…
– Tại trời lạnh quá… mà không có mũ…
– À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai nên nàm việc…

Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là “Thượng úy Không No”. Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, l đánh ra n nhưng lúc nào cũng thở ra giọng “đỉnh cao trí tuệ”. Một hôm trong đề tài “an tâm học tập, “cải tạo”” y ta lên tiếng: “Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no”. Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù “cải tạo” bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp….

Nhưng sau này không biết có tên “thối mồm” nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù “cải tạo” cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm “rút kinh nghiệm” là xong. Kỳ này, chính trị viên “Không no” liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lều. Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom…

Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp “y ta làm việc”. Khi về, NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ “Không no” tuyên bố không cho anh đội cái mũ “thiếu văn hóa” ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm “hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ”. Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai… Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng:


– Đừng có lo, rồi đâu có đó…

Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo “Thượng tọa” của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp.

– Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm… Rồi ta tính…

Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ “tam tam” trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già… Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm… nên hiểu nhau nhiều lắm. Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào? Cuốc hùng hục “như trâu đánh mả” như tôi là không được. Cuốc như thế là “cuốc lật” dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải “đầm”, nhẹ nhàng, từ tốn như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt…

Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn… Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không lo, không sợ cái gì. Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là: “Đừng có lo, rồi đâu có đó”…

Để cho cái việc của ông bạn Thiết Giáp “đâu có đó” đối phó với anh thượng úy “Không no”, ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu “Thượng tọa” của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: “Thì nó cũng chỉ là cái áo…”

Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là “giậu đổ bìm leo”, vào cái lúc mà tù “cải tạo” ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn… Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có nó có liên hệ “hữu cơ” với nhau. Càng đói thì càng rét – mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người “nằm xuống” vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết – tòa án quân sự vùng 4– cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng “Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã chết”.

Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. SƠN LA = lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài… Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ “bồ tèo” nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng… Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới “bốc láo” rằng:

– “Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây”.
– “Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy”.

Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài. Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục…. Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên: Vũ Văn Sâm, mất ngàỵ.., Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ.. Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ. Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói:

– “Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn.”

Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng “ô doa” (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương:

– Này, nàỵ
– Ai đấy?
– Vũ Xuân Th. đây.
– Làm gì đấU?
– Bữa này làm “chảo trưởng”. Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không?

Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu “thừa thãi” như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân “volley”. Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng “bóng chuyền” tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng “cơm nắm cho tù”, nghĩa là đối phương được biếu không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù “chính cống bà lang trọc” rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi “có ăn cháy không?”. Chừng như nhận ra sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói:

– Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đâỵ
– Có ngay.

Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi.. Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm. Tôi phi về như bay. “Tây con” Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi:

– Cái gì mà hí hửng thế?

Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm khóI. Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi. “Tây con” sáng mắt ra, vội hỏi:

– Ở đâu ra thế?

Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói:

– Bạn vừa cho…

Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ “cây giống”. “Tây con” và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là “bữa sáng” chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâU. Người Bắc kêu bằng rét ngọt. “Cái ngọt nó lọt tận xương”, lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả. Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này…”Ôi món quà từ trên trời rơi xuống”. Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháy.

Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏi. Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói “từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa…. thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này… chỉ tội nghiệp các ông…” Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tướị.. Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói “hút đi”. Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào “ngải cứu” hay thuốc lào “lá cải khô”.

– Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba?
– Hút luôn đi.

Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là “đặc biệt”, vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc… Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn “bữa lỡ”, lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào “lá cải già tẩm nước điếu phơi khô”. Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phới. Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta rằng:

“Tương phùng được buổi hôm naỵ..
Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau”.

Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra:

– Được rồi, hiểu rồi.. ông nội … Cứ khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đâỵ.. Nhưng mà khéo léo đấy nhá.

Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi “chảo trưởng” ra cơm, tiếng xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruối.. rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về…

Nhưng cái thời gian “bồi dưỡng” này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. “Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí”, bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi. Cái khu rau này, thượng úy “Không no” tuyên bố:

– “Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục”.

Công việc 3 người làm trước đây đã “bá thở” bây giờ còn lại có 2 người. Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn “bữa lỡ” hồi 9, 10 giờ sáng rồi. Bây giờ “ăn quen nhịn không quen” cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như “gà chết” ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi:

– “Đừng có lo…”

Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay… Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi “động tĩnh”. Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại.


Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây sắn ấỵ lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ.

Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét. Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý. Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trại là “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa”. Nhất là trong khi thượng úy “Không no” cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn.

Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình “nhà binh” cho đến tận kẽ răng. “Reglo” số 1, việc làm răng rắc, quần áo là ủi thẳng tắp, giầy botte de saut bóng láng, huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi “cải tạo” ra Bắc bây giờ bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía. Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy “Không no” rình rập mãi mà không bắt được ai. Một bữa, thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi.

– Anh vào đây nàm gì? Ăn trộm mía phải không?
– Tôi đi kiếm rau “tàu bay”, tôi đâu có ăn trộm mía.
– Không ăn trộm mía vào đây để làm gì?

Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói:

– Tôi đâu còn răng mà ăn mía.

Thượng úy “Không no” thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất bằng lòng về chiến công “bắt trộm” của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù “cải tạo” thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nào. Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn.

Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy “Không no” liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trại. Y ta nói: “Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy”. Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai. Ai cũng thương anh…. đồng cảm với anh vì đi tù “cải tạo” trăm người như một đều phải “cải thiện” cách này, cách khác. Con người “một động vật xã hội”, nên “đói là đầu gối phải bò”. Thế thôi, chả ai coi thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm.


Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy “Không no” mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây? Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10 giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong… Tôi cứ có ăn đều đặn.

Bạn “Tây con” Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc “diện rộng” đi xa xa, gặp được ‘đồng bào nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây, một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa… đem “quy ra thóc” lấy xôi, lấy cơm mắm… hoặc ‘quy ra thuốc’ lấy thuốc lào… đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ “phong lưu” hơn trước.

Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy “Không no” đã tới.

– Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khói – Thượng úy “Không no” đắc chí.

Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy “Không no” rồi điềm đạm nói:

– Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôi … đói quá…

Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ.

– Như thế này là nâu rồi đấy nhá. Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu? – Thượng úy “Không no” vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều. Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. “Vũ Văn Sâm mất ngàỵ..”, “Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ…” Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói:

– Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh.

…Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh… hoặc là phong thái “đại hùng, đại lực, đại từ bi” của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được “chút tính người còn sót lại” trong y?

Phan Lạc Phúc

User avatar
phodem
Posts: 229
Joined: Sat Feb 26, 2011 4:00 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by phodem »

Image

Đọc lại “Đi” –
Kinh nhật tụng của thời ra biển

Tuấn Khanh
15 tháng 9, 2023



Ký ức của những ngày tháng mà người người xao xuyến âm thầm tìm đường ra biển, tìm đến một cuộc sống khác và một tương lai khác cho con cháu của mình, đang dần mất đi, theo thế hệ đầu của người Việt đi tìm tự do sau năm 1975. Có những điều được kể lại, nghe như cổ tích hoặc huyền thoại của một lớp người đã mở cánh cửa định mệnh trên biển khơi.

Cũng có những câu chuyện trở thành nước mắt âm thầm cho những người quen và không quen, trong những ngày tháng bất an ấy. Việc ghi chép lại được từng ngày của tâm trạng thấp thỏm, cam quyết và cười cợt với số mệnh, như truyện dài Đi của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, quả là điều hiếm trong giới văn nghệ sĩ Việt Nam. Chìm trong tác phẩm Đi, thật bồi hồi, khi thấy đó là những ghi chép quý báu từ sự thật bị bôi xoá trong lịch sử. Cảm thấu rằng tự do, và khát vọng ra biển một thời của người Việt, không khác gì bài kinh nhật tụng âm thầm mỗi ngày, trong tiếng loa phát thanh của chế độ mới.

Đã non nửa thế kỷ, mỗi khi giở lại trang sách, tiếng kinh như vẫn chậm rãi vang lên, âm vang về số phận của con người, được khái quát như một phần của dân tộc Việt qua thời cuộc.

Đi, là truyện dài hơn 200 trang, được viết như nhật ký từng ngày giữ trong trí nhớ, và những trang giấy giấu kín đâu đó trong nhà của nhà văn, chờ ngày gửi đi. Không khác gì nhật ký của Anne Frank, Doãn Quốc Sỹ giữ lại riêng mọi cảm xúc thường ngày – kể cả những nỗi buồn bất lực trước thời thế – nhưng rồi chuyển hoá mọi thứ thành sự an ủi với những đứa con đã được ươm mầm giáo dục tự do, chia sẻ nhận biết của chúng với những dị biệt xuất hiện ngay giữa Sài Gòn, cũng như trên con đường dài thăm thẳm đi thăm nuôi, hai lần chịu án tù của ông.

Doãn Quốc Sỹ có hai án tù xa nhà. Lần thứ nhất, cuộc truy lùng những “tên biệt kích văn hoá” vào ngày 3 Tháng Tư 1976 đã đưa một loạt các nhà văn, nhà thơ tên tuổi của miền Nam Việt Nam vào nhà giam. Tất cả nằm trong kế hoạch mang tên “Vụ án Hồ Con Rùa”. Biểu tượng này bị phá nổ mà cho đến giờ không thể biết thật sự tác giả là ai. Nhưng nhân cơ hội đó, hơn 200 văn nghệ sĩ miền Nam bị tổ chức cho lùng bắt, và gán cho là có liên quan đến hành động chống phá này, dù không có bất kỳ chứng cứ nào.

Phải đọc Đi, để thấy một con người có giọng văn luôn hài hước, êm đềm về mình, về đời như Doãn Quốc Sỹ, mới thấy con người luôn thương mến từ một tiếng đàn, cho đến buồn về những số phận không may được nghe thấy, ai oán khi thấy những xã hội Việt Nam biến dạng và loạn lạc sau ngày 30 Tháng Tư lịch sử ấy – sẽ hiểu rằng – chẳng có tên biệt kích nào như Doãn Quốc Sỹ lại có thể đủ can đảm cầm vũ khí để bắn vào con người.

Việc bắt bớ hàng loạt các trí thức miền Nam, tạo nên dư luận quốc tế phản ứng dữ dội, nên đến năm 1981, nhà văn Doãn Quốc Sỹ được nhà nước “khoan hồng”, cho về nhà. Bản năng nhà văn vẫn thúc hối ông hành động, viết xuống những gì mình thấy, mình nghĩ. Với cái máy chữ nhỏ, đêm đêm ông lại gõ khi nhà yên tĩnh và vắng người.

Thế nhưng những tiếng lách cách nho nhỏ ban đêm đó, đã tạo nghi hoặc cho những tay mật vụ theo dõi trước nhà ông và báo cáo. Tập truyện Đi ra đời vào những ngày tháng nghiệt ngã như vậy, và được bí mật và hối hả chuyển đi nước ngoài để in, như tâm huyết của một thời văn sĩ ngàn năm trước, thổ huyết trên trang giấy của mình để chép lại, chắt chiu từng con chữ của mình gửi lại đời sau.

Ngày 27 Tháng Tư năm 1988, chính quyền mới đưa một số văn nghệ sĩ tên tuổi ra tòa vì đã dám “liên lạc với nước ngoài, tuyên truyền phản động chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa”. Nhà văn Doãn Quốc Sỹ bị kết án tù lần hai, 9 năm tù, cùng với nhà văn Hoàng Hải Thủy bị án 8 năm tù, ca sĩ Duy Trác 4 năm tù. Hai nhân viên bưu điện làm trung gian chuyển tác phẩm của các văn nghệ sĩ kể trên ra nước ngoài bị tội tòng phạm, mỗi người lãnh án 2 năm tù.

Như đã kể, tiếng lách cách của chiếc máy đánh chữ, là điều đã dẫn đến chuyện công an ập vào nhà lục soát, lôi được những trang bản thảo và chiếc máy ra từ gầm giường, cất trên gác. Đi là tác phẩm được tìm thấy và chính là lý do khiến Doãn Quốc Sỹ có thêm một án tù. Điều quan trọng hơn, là tác phẩm ấy “nặng tội” vì đã được in ở nước ngoài và là một bằng chứng về chuyện những cuộc đời Việt Nam, rất khác với báo chí và truyền hình của nhà cầm quyền mới vẫn trưng bày.

Giới bình luận văn chương Việt Nam vẫn đánh giá hai nhà văn của thời văn hoá Việt Nam Cộng Hoà luôn có phong cách nhẹ nhàng, đôn hậu, là Võ Hồng và Doãn Quốc Sỹ. Riêng trong các tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, không có kẻ ác hoặc sự tàn nhẫn tuyệt đối. Với ông, mọi thứ đó chỉ là tạm thời, của thời thế hoặc của sự kiện phải đến.

Cái ác với Doãn Quốc Sỹ được nhìn thấy như một nghịch lý, và mọi thứ rồi sẽ được đổi thay bằng đạo lý của người Việt ngàn đời. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác từng nhận định về đàn anh Doãn Quốc Sỹ rằng:

“Văn phong của ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ”.

Đi, cũng vậy. Mọi điều xót xa và đáng mỉa mai của những ngày thống nhất địa lý đất nước được ông mô tả như tiếng thở dài, xót thương. Hầu hết những điều được viết trong Đi là qua những lời kể của bạn bè, con cái và do chính ông ghi chép mỗi ngày trong cuốn sổ tay, trong những ngày được tự do ở Sài Gòn, đi lang thang qua phố, ghé thăm người bạn, ngồi ở quán cà phê cóc… Càng đau đớn, giá trị đối lập càng được ông tô đậm “Những câu chuyện vừa qua còn để hơi ấm lại, dư âm lời nói thống thiết về giá trị con người, giá trị nhân bản còn vang vang bên tai” (trang 67).

Nghịch cảnh đời thường không chỉ diễn ra với ông, với các con ông, mà còn với muôn vạn người miền Nam lúc đó. Lời đe doạ của nhân viên an ninh mặt đen sạm trỏ vào từng người, từng nhà, tiếng loa phường chát chúa thôi thúc mỗi sáng kêu gọi tẩy não quá khứ, chuyện hành xử ở công sở luôn bị dòm ngó, chụp mũ… là những điều nhức nhối thường nhật đến mức con người như bị bào mòn tri giác, chỉ biết cúi mặt đế sống qua ngày.

Viết trong Đi, Doãn Quốc Sỹ như thốt thành lời “khi bọn họ hết thời múa may, nhưng sẽ phải mất bao thế hệ để phục hồi lại đất nước xác xơ, tâm hồn cháy sém, trí tuệ cằn cỗi, nhân phẩm, nhân cách, tự do tàn lụi?” (trang 139)

Đi, mô tả một tâm trạng thấp thỏm có thật và quen thuộc với nhiều thế hệ đầu của người Việt tìm ra biển. Doãn Quốc Sỹ mô tả khi con ông từ giã cho một hành trình vô định, ông đau thắt nhưng chỉ còn biết nói lời chúc bình an. Lịch sử thế giới đã có sự nối tiếp dị thường như vậy, từ những người Do Thái chạy trốn sự săn lùng của Phát xít Đức, lần mò tìm đường đến tự do trong hiểm nguy chập chùng.

Người Việt cũng vậy, và kinh hãi hơn, khi vô số những gia đình, thậm chí mang theo con nhỏ còn ẵm ngửa xuống chiếc thuyền bé con, mà chưa bao giờ có kinh nghiệm nào trong đời về đại dương cùng những hiểm nguy của nó. Hành trang chấp tín, chỉ là lời cầu nguyện cho số phận mình. Ông Doãn Quốc Sỹ cũng kể lại cái thở phào nhẹ nhõm khi hay tin các con thất bại ở chuyến đi nào đó, bởi nếu vậy, thì may con ông cũng vẫn còn sống.

Những câu chuyện của người đi biển được kể lại trong Đi, khốc liệt và chân thực đến mức, ngay cả người đọc cũng bị dày vò trong tâm trạng bởi tin người vượt thoát, đôi khi niềm vui đó làm chìm lấp tin tức những người đã chết thương đau trên biển. Chính nhà văn Doãn Quốc Sỹ trong tập truyện này cũng thốt lên “Không hề vì cái họa kia mà cái phúc này chói lọi thêm. Chỉ còn biết xót xa mấy chục ngàn người đã chết chìm nơi biển sâu. Còn biết bao nhiêu nữa chết vùi dập, chết tan rửa trong rừng sâu bùn lầy” (trang 192).

Cái kết của Đi, được coi là cái kết có hậu, nhân vật ông Giáo (nhà văn Doãn Quốc Sỹ tự mô tả mình) và các con rồi cũng vượt thoát và đi về chân trời mới. Thế nhưng sự có hậu đó, đi kèm tiếng chuông trầm, của ngậm ngùi về đời người, về một dân tộc và một đất nước sau cú giẫm đạp lịch sử, với những sinh linh tung toé khắp mọi nơi trên thế giới. Cũng tương tự như người Do Thái, nhưng hàng triệu người Việt chưa thể có ước mơ hồi hương nào, hiện thực như năm 1949 của dân tộc bị lưu đày ấy. Cái kết thăm thẳm, như cuộc trò chuyện của Lịch và Hoa ở chương cuối.

“Chiều chiều ra ngắm biển sâu
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tại đất nước mình thì có Hòn Vọng Phu, những người con gái tự miền xa nhìn về quê mẹ, nhớ mẹ qua biển khơi trùng trùng này chết thì hóa gì hở anh?

Lịch cũng cảm thấy tê tái khi nghe câu hỏi đó của Hoa, vội vã vứt điếu thuốc cháy nửa xuống biển, tưởng như vừa cầm phải cục than, rồi lại châm ngay điếu mới, dáng run rẩy rõ rệt.

Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt! Có thể rồi mai đây được đưa đi định cư ở một xứ sở xa xôi nào rồi ở đâu đâu đó, tiểu gia đình Hoa sẽ mọc rễ nơi đó, như bố mẹ trước đây đã đi di cư vào Nam, rồi mọc rễ ở miền Nam. Ông nội mất, bố có gặp mặt được đâu! Biết bao giờ gặp mặt! Biết bao giờ gặp mặt!” (trang 217).

Đọc lại Đi, để thấy dân tộc Việt vẫn còn hạnh phúc vì có những người ghi chép lại, giữ lại cho đời sau những cam go của chữ làm người. Hơn nữa, đó là làm người tự do. Một mai, khi mọi thứ tàn phai, thế hệ sau vẫn còn có chỗ để bám vào, để biết và nhớ về một phần lịch sử lạ thường có thật.

Image
Từ trái qua: học giả Phạm Công Thiện, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Hoà thượng Thích Nguyên Siêu (Ảnh: thầy Thích Nguyên Siêu)

Doãn Quốc Sỹ lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17/02/1923 (nhằm ngày Mùng Hai Tết Quí Hợi) tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội.

Thuở còn là thanh niên, ông từng tham gia Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, khi phong trào này để lộ bộ mặt cộng sản, ông đã rời bỏ kháng chiến. Vào năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, là ái nữ của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, Hồ Trọng Hiếu.

Năm 1954, khi hiệp ước Geneva chia đôi đất nước, ông theo làn sóng di cư đem vợ con vào miền Nam sinh sống.

Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song, một của nhà văn và một của nhà giáo. Ông vẫn thường nói rằng: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp”.

Trong cương vị nhà giáo, ông đã dạy tại các trường: Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn 1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông cũng từng là hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm tại Hoa Kỳ (1966-1968).

Vào năm 1956, với cương vị nhà văn, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo, và tạp chí văn nghệ cùng tên với Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng. Ông vẫn ưu ái gọi nhóm văn nghệ của mình là “Thất Tinh”. Ông cũng có những bài viết được đăng trên các tạp chí văn nghệ như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật …

Gần một năm sau ngày miền Nam thất thủ (30/04/1975), hầu hết các nhà văn miền Nam bị bắt đi học tập cải tạo. Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung, cách thành phố Pleiku 25 cây số.

Đến năm 1980, ông được thả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con gái là Doãn Thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển Đi, được ký với bút hiệu Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông đã bị bắt lần thứ hai vào tháng 5 năm 1984, chỉ vài tháng trước ngày đi Úc. Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý… Ông bị kết án mười năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991.

Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh để đi sang Houston, Hoa Kỳ. Ông hiện sống tại Quận Cam, California.

User avatar
mexanh
Posts: 477
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by mexanh »

"Người Vợ" là một vĩ nhân !
Tràm Cà Mau
Vợ là một vĩ nhân đúng 100% đang lúc vợ còn tại thế người chồng xem thường công lao của VỢ lúc vợ mất rồi thì mới thấm thía nhận ra sự mất mát to lớn biết là chừng nào. Cám ơn tất cã các Bà vợ HIỀN.

Có thời ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.

Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.

Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.

Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.

Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.

Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.

Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.

Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.

Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.

Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.

Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.

Lấy kinh nghiệm đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, họ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.

Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ

Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?

Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.

Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.

Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.

Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.

Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.

Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.

Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”

Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các ‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.

Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.

Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.

Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.

Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen thiu rồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?

Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.

Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.

Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.

Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng.

Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.

Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:

“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”

Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”

Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.

Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.

Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên máy?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.

Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”

Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”

Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ ‘phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.

Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng.

Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.

Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.

Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.

Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.

Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.

Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”

Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã li hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”

Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”

Ông chồng cũ của bà Huyền ngững mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”

Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn đến với ông.

Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn:

“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”

Tràm Cà Mau

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by muanuadem »

Image


NHỮNG CƠN GIÓ NGHỊCH MÙA QUÊ NGOẠI

Ngày ấy, ông bà ngoại tôi rất nghèo, nhà không có một cục đất chọi chim phải làm mướn làm thuê quanh năm. Ông bà ngoại tôi hiếm muộn, chỉ có hai người con đó là má tôi, con gái lớn và câu tư, em trai kế má tôi. Tuy nhà nghèo nhưng ông bà ngoại tôi giao du rất rộng, nhà luôn có đám tiệc, đờn ca tài tử, khách lui tới thường xuyên, trong số đó có ba tôi, lúc đó ông là một công tử con nhà khá giả. Ông nội tôi làm hương cả, một chức sắc trong làng, họ hàng thân thuộc đều là người có vai vế. Có lẽ ba tôi khéo ăn nói nên rất được lòng ông bà ngoại tôi. Năm má tôi 20 tuổi, là một cô gái nổi tiếng xinh đẹp, mặn mà, ba tôi một trong những trai làng si mê má tôi nên đi hỏi cưới, ông bà ngoại tôi ưng thuận nhưng má tôi không chịu.

Lý do má tôi đưa ra thật chính đáng: Ba tôi là người đàn ông đã có một đời vợ, có đứa có trai lên 3 tuổi (là anh hai tôi như đã đề cập phần trên). Kế đến, ba tôi lại là người đàn ông ăn chơi, đào hoa nức tiếng và thứ ba là bà nội tôi rất khó và kiêu hãnh theo kiểu “Bà cả Tánh (Bà nội tôi thứ sáu, tên Tánh). Bà nội tôi rất phân biệt giàu, nghèo, dù bà chỉ là vợ lẻ của ông nội tôi.

Má tôi mấy lần ôm quần áo trốn đi ở nhờ người bà con bên cồn Tân Thới xứ Gò Công cách làng tôi một con sông. Đó là sông Bến Bạ, con sông đã gắn liền với tuổi thơ tôi sau này khi đã về bên ngoại. Tuy trốn đi xa, nhưng lần nào má tôi cũng bị ông ngoại đi bắt về, trói gốc đừa đánh no đòn, có những trận đòn thừa sống thiếu chết khiến bà ngoại tôi đòi đập đầu tự tử ông ngoại tôi mới mở trói cho má tôi nhưng vẫn dọa nếu không ưng ba tôi ông sẽ cạo đầu bôi vôi. Biết không thể nào làm khác hơn, má tôi đành chấp nhận lấy một người đàn ông đã có một đời vợ và con riêng làm chồng. (Vợ cả của ba tôi chết vì bạo bệnh lúc anh hai tôi lên 3 tuổi, sau đó vài năm ba tôi mới đi hỏi cưới má tôi). Khi má tôi bước về nhà chồng ở tuổi đôi mươi, đã gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề: Nuôi con chồng và bà mẹ chồng nay đau mai yếu và rất khó tính.

Ba tôi lại không ở nhà thường xuyên, ông đi kháng chiến biền biệt.Tôi gần như không biết mặt ba tôi từ lúc sơ sinh cho tới khi biết ôm cặp đi học trường làng. Sau này khi ông làm việc ở Sài Gòn và có thêm người vợ khác mà sau này khi tôi lên Sài Gòn học phải kêu bằng cô Tư. Nhưng ba tôi không chỉ có má tôi và cô Tư mà ông còn có thêm cô Năm và cô Bảy, những người đàn bà này tôi đều biết mặt, tuy mỗi người ở một nơi nhưng khi đám giỗ bà nội tôi họ đều có mặt.

Má tôi là một người rất rộng lượng, hoặc là một người phụ nữ không biết ghen, ba tôi có bà vợ nào đều dẫn về giới thiệu với má tôi, bà đều vui vẻ chấp nhận. Đặc biệt là cô Bảy người xứ Vĩnh Long, cô Bảy là con út của một gia đình giàu có, buôn bán ở chợ Vĩnh. Lúc đó ba tôi làm việc ở đây, tán tĩnh thế nào mà cô Bảy phải lòng. Gia đình bên cô Bảy ra điều kiện phải có má tôi xuống Vĩnh Long hỏi cưới cô Bảy thì gia đình mới chấp thuận. Thế mà không biết ba tôi về thuyết phục ra sao mà má tôi đồng ý làm cái việc mà không người vợ nào làm được.

Má tôi cũng kể rằng nhiều lúc bà nội khó quá ở không được, má tôi phải bỏ về ở bên ngoại. Nhân tiện chăm sóc bà ngoại cũng đã già yếu, khi về bên ngoại má tôi không mang theo bất cứ thứ gì của bên nội, ngoài một đôi thúng gióng gánh trên vai, đầu này gánh đứa em gái của tôi, đầu kia gánh cái rương đựng quần áo của má và hai anh em tôi. Còn tôi đi phía sau, tay nắm sợi dây đắt theo con heo nái má tôi đã nuôi bằng tiền của má đi cấy thuê, cắt lúa mướn để dành được. Những lần bỏ quê nội về quê ngoại như vậy, ba mẹ con tôi đều đi bộ ngược con đường làng nhưng lại xuôi theo hướng những cơn gió nghịch mùa thổi vào lúc cuối năm trong cái lạnh se se, lúc ấy một bên là con lộ làng chạy cặp theo cánh đồng vừa xong vụ gặt, một bên là những hàng cây bồ đề đang trút lá cuối năm.

Nhưng rồi ba tôi lại về thuyết phục má tôi trở về chăm sóc bà nội, nuôi anh hai tôi cho đến khi bà nội mất, anh hai tôi lớn khôn, má tôi cưới vợ cho anh tôi rồi giao lại toàn bộ căn nhà, tài sản, ruộng vườn cho vợ chồng anh hai quản lý rồi mới trở về quê ngoại.

Bây giờ, ba tôi và những bà vợ sau này của ông đã mất, anh hai tôi (con người vợ cả của ba tôi) cũng đã mất trong chiến tranh. Ngôi nhà và mảnh đất quê nội đã bị ông bảy, em của bà nội tôi chiếm đoạt luôn. Khi má tôi nghỉ hưu về lại quê ngoại thì mảnh đất bên ngoại cũng bị người ta chiếm mất trong những năm tháng chiến tranh khi bà ngoại tôi lên ở với má tôi rồi mất luôn ở Sài Gòn vì bệnh già cuối tháng 3 năm 1975. Tôi thuyết phục cách mấy má tôi cũng không đồng ý ở lại với tôi ở Sài Gòn, bà thích về lại quê nhà sống những ngày cuối đời.

Cũng may, những năm trước tôi còn làm được ra tiền nhờ làm báo, viết sách nên dành dụm để mua được mảnh đất ở quê ngoại, sát con sông Bến Bạ gắn liền với ký ức tuổi thơ tôi và xây ngôi nhà cấp 4 cho má tôi ở. Bà ở một mình, tự nấu nướng, chăm sóc mình không cần ai dù hiện má tôi đã ở tuổi 94, đúng với tuổi ba tôi mất. Mỗi dịp cuối tuần tôi chạy về quê, ở được với má tôi vài ngày rồi lại ra đi. Cứ thế, năm tháng trôi dần, má tôi ngày một yếu. Lần mới nhất tôi về thấy bà đã chống gậy vì đôi chân đã yếu, đi lại rất khó khăn tôi rất lo.

Đời người mấy ai sống được tới trăm năm, nhưng tôi mong cho má tôi sống tới trăm năm, càng lớn tuổi tôi càng thương bà, phục bà ở đức tính hy sinh cho chồng con, giữ gìn, tiết kiệm từng đồng xu cắt bạc tôi mang về đưa bà cất giữ, chi dụng hang ngày. Tôi nhờ bạn bè ở nước ngoài gửi thuốc men, sữa, các loại vitamin dạng kẹo cho bà trị bệnh, bồi dưỡng, nhưng bà cũng uống một cách rất dè chừng, hà tiện. Ăn uống ở người già chẳng được bao nhiêu nhưng má tôi lại vô cùng tiết kiệm, mỗi lần về nhà, việc trước tiên là tôi kiểm tra thuốc men, các loại sữa dành cho người già, thấy còn nhiêu tôi nhắc nhở thì bà mới chịu uống, mở tủ thức ăn thấy chỉ có miếng cá kho tiêu, tô canh lỏng bỏng tôi lại căn nhằn bệnh hà tiện của má tôi, nhưng càng thương má tôi hơn vì bà biết những đồng tiền tôi kiếm được để lo cho bà không phải dễ dàng trong thời buổi này.

Ngày còn thơ ấu tôi rất thích những cơn gió nghịch mùa thổi vào vườn báo hiệu thời tiết cuối năm, trời sắp tết để được mặc quần áo mới, được nghe má kể chuyện cuộc đời của má. Nhưng khi má tôi đã ở tuổi gần đất xa trời tôi lại sợ những cơn gió nghịch mùa. Bởi khi nghe hơi gió lạnh se se thổi qua vườn vào những đêm cuối năm tôi lại sợ má tôi như chuối chín cây.

Mẹ già như chuối ba hương
Gió lại mẹ rụng…

Tôi biết ước mơ chỉ là ước mơ thôi. Nhất là ước mơ sẽ không còn những cơn gió nghịch mùa.
Và cuối cùng điều tôi lo sợ cũng đã đến cách đây 3 năm khi má tôi mất do tuổi già sức yếu. Bà sống đại tho: 98 tuổi. Từ khi má tôi mất tôi lại về ngôi nhà ở quê ngoại thường xuyên hơn. Vẫn có những đêm khó ngủ tôi nằm nghe gió nghịch mùa thổi qua vườn, gió không thổi mạnh mà se dài trong không gian mênh mông nghe thật buồn. Một nỗi buồn thấm đẫm qua bao năm tháng. Rồi tôi sống lại bằng ký ức tuổi thơ, hình ảnh kỷ niệm giống như xem lại những thước phim quay chậm về đời mình. Những thước phim trong toàn bộ một bộ phim sống động, tràn ngập tư liệu cuộc đời mang tên: “Những cơn gió nghịch mùa quê ngoại”.

Từ Kế Tường

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: Cà Phê...Vịt

Post by hoangphong »

Image

BỆNH VIỆN KHÔNG NGƯỜI.


Tôi chở bà chị họ đến bệnh viện ở downtown thành phố. Cuộc hẹn therapy dài hạn kéo dài cả tháng cho 12 lần. Hôm nay là lần thứ hai.

Đây là bệnh viện công của thành phố dành cho những người nghèo low income. Lần đầu đến tôi đã đi lạc vì có hai bệnh viện cùng tên ở cách nhau không xa, hỏi ra mới biết bệnh viện mới xây sẽ thay thế cho bệnh viện cũ.

Cái hẹn therapy của chị tôi vẫn ở bệnh viện cũ. Hiện nay bệnh viện mới xây các khoa đã hoạt động hầu hết chỉ còn vài bộ phận còn ở lại chờ ngày dọn sang bên kia khi mọi thứ của khoa này hoàn tất.

Tôi đã ngắm mặt tiền to lớn khu bệnh viện cũ rợp cây cao bóng mát phía trước và xung quanh. Vào trong thấy phòng ốc đồ dùng và mọi phương tiện vẫn tốt đẹp sạch sẽ. Cơ ngơi thế này mà nay mai sẽ bỏ không hoang phí. Chẳng biết người ta sẽ làm gì với một bệnh viện cao 5 tầng và nhiều phòng này?

Nước Mỹ không bao giờ thiếu những người hảo tâm donate tiền cho mục đích xã hội, nhưng dù tiền của cá nhân hay của chính phủ cũng là tiền, bệnh viện cũ còn dùng được mà bỏ đi xây mới tôi vừa thương vừa tiếc.

Đậu xe xong tôi lấy chiếc xe walker 4 bánh cho bà chị và đỡ đần chị đi vào trong bệnh viện. Qua ông security ngay cửa, qua phía bên trái là quầy bán thuốc tây, hai chị em chầm chậm đi thẳng vào trong theo những mũi tên chỉ dẫn trước mắt để đến phòng therapy.

Chúng tôi ngồi bên ngoài chờ gọi tên. Khi chị vào phòng therapy thì tôi đi lang thang ra hành lang ngoài và không biết phải làm gì cho hết 45 phút therapy của bà chị.

Tôi đã ra tới khu pharmacy, chỉ có vài người ngồi đợi trong những dãy ghế ngay ngắn lịch sự. Đối diện khu pharmacy có một thang máy, lần trước đến đây tôi đã thấy có người lên xuống thang máy này. Tôi bỗng tò mò, muốn biết những tầng trên thế nào.

Tôi bấm nút vào thang máy và lát sau cửa mở, tôi thở phào nhẹ nhỏm thế nghĩa là những tầng trên còn hoạt động. Tôi ngần ngừ và quyết định bấm vào tầng 5 là tầng cao nhất, dự tính sau khi đi dạo tầng 5 tôi sẽ lần lượt đi xuống những tầng dưới cũng chưa chắc hết 45 phút để quay lại đón bà chị. Thật là một cuộc dạo chơi thú vị.

Tới tầng 5 thang máy dừng lại, cửa mở tôi bước ra, xung quanh vắng vẻ không bóng người, tôi không ngạc nhiên, chỉ một nơi nào đó có bệnh nhân thì mới có người phục vụ. Tôi chọn đại lối rẽ vào hành lang khu bao tử ruột.

Hành lang dài hun hút vắng vẻ, hai bên những dãy phòng đều có ánh sáng đèn mờ sau cánh cửa đóng kín. Dĩ nhiên, đó là riêng tư của mỗi phòng bệnh nhân. Tôi thong thả bước đi, bỗng tôi thấy từ xa cuối hành lang có một bóng người khoác áo trắng, chắc là y tá vừa bước nhanh vào một căn phòng cuối dãy bên phải. Vậy là khu bao tử ruột vẫn còn người ở lại.

Tôi an tâm đi về phía cuối hành lang cho thỏa chí tò mò. Đi được nửa hành lang tôi đã nhận ra đây là hành lang cụt.

Tôi đứng trước cửa căn phòng mà người y tá vừa bước vào và lưỡng lự có nên đợi họ ra để hỏi thăm không? Có làm phiền họ không? Nhưng công tôi đã lên đây, bất quá tôi nói mình đi tìm người thân lộn phòng.

Tôi đứng đợi cả 10 phút vẫn không thấy người y tá trở ra tôi liền thử xoay quai cửa phòng, thì ra cửa đã lock, người y tá làm gì mà bên trong im ắng không một tiếng động nào y như chốn không người.

Tôi càng bị kích thích tính tò mò và không muốn bỏ cuộc. Có thể tôi đã nhìn lầm, người y tá đã vào căn phòng khác chăng? Tôi đi qua đi lại vài căn phòng, căn nào cũng khóa cửa và lạnh tanh y như căn phòng lúc nãy.

Tôi chợt cảm thấy sự khác thường, rõ ràng hình bóng người y tá hiện ra ở cuối hành lang và vào căn phòng cuối dãy mà giờ chẳng thấy tăm hơi. Tôi sợ hãi, thấy lạnh toát từ sống lưng và lan tỏa khắp người, tôi vội đâm đầu chạy nhưng mất phương hướng tôi chạy về phía ngõ cụt, phải quay lại. Hơi lạnh kỳ quái cũng chạy đuổi theo tôi giữa dãy phòng đèn mờ hai bên im lặng đến ghê rợn.

Cái hành lang quái đản hình như càng lúc càng dài thêm ra tôi chạy hoài mà chưa hết. Tôi tưởng mình sắp hụt hơi ngã quỵ.

Ra khỏi hành lang tôi đứng thở hổn hển vài giây và không dám quay đầu nhìn lại, biết đâu bóng dáng người y tá bí ẩn kia ở đâu đó lại hiện ra??

Tôi hốt hoảng đi tìm chỗ thang máy, mới lúc nãy thang máy ở đây mà bây giờ kiếm không ra, chẳng lẽ cái thang máy cũng ma quái như người y tá biến mất để trêu ngươi tôi?

Thì ra tôi lại đi sai hướng chứ thang máy có chân đâu mà chạy đi nơi khác. Tôi đi ngược lại và tìm thấy nó, tôi bấm nút run rấy chờ đợi thang máy mở cửa vài giây mà dài như vài thế kỷ..

Khi bước vào trong thang máy tôi bấm ngay tầng trệt và chỉ mong thang máy chạy ào ào đến mặt đất ngay cho tôi bước ra ngoài.

Cuối cùng thang máy cũng dừng ở tầng trệt, tôi vọt ra khỏi thang máy đến bên những dãy ghế chờ mua thuốc của pharmacy và ngồi phịch xuống để thở. Tôi như vừa thoát khỏi cõi âm ty trở về cõi trần gian.

Nhìn người ta vẫn lác đác bình thản qua lại, nhìn ông security đứng gác nơi cửa ra vào tôi dần dần hoàn hồn. Hình như không ai để ý, không ai biết tôi vừa từ thang máy bước ra.

Còn 15 phút nữa là bà chị xong buổi tập therapy, tôi có thể vào trong phụ giúp chị để sửa soạn ra về.

Căn phòng therapy rộng lớn với nhiều người đang chữa trị cùng lúc, kẻ đứng máy tập đi, người nằm giường đang co chân duỗi cẳng. Bà chị tôi đang nằm trên giường tập cho chứng đau xương hông bên trái với therapist là cô Mary phụ giúp. Một therapist cùng lúc chăm cho mấy bệnh nhân, tập cho người này một lúc xong cô lại chạy sang người khác và cứ thế luân phiên.

Tôi đến bên giường bà chị và tìm cách hỏi chuyện cô Mary về cái bệnh viện này cho bằng được:

- Bao giờ thì phòng therapy của cô sẽ dọn sang bệnh viện mới ?

Cô Mary vui vẻ:

- Cũng sắp thôi, chỉ còn phòng therapy này và phòng phụ khoa bên cạnh.

- Thế không còn khoa nào khác trên các tầng lầu sao?

Cô Mary khẳng định:

- Không, tất cả đã dọn đi, tầng lầu 5 dọn đi sau cùng cũng đã một tháng nay rồi. Chỉ còn một nhóm người ít ỏi chúng tôi ở lại dưới tầng trệt này .

Tôi rụt rè kể:

- Cô nói tầng 5 đã dọn đi mà sao lúc nãy tôi vừa lên tầng 5

…thấy bóng một người y tá bước vào một căn phòng trên đó. Hay là tầng 5….có ma hả cô Mary?

Cô Mary mỉm cười lửng lơ trêu tôi:

- Một là chị nhìn lầm hai là…là…

- Là ma chứ gì?

- Không, tôi muốn nói một là chị hoa mắt nhìn lầm, hai là có nhân viên y tá lên phòng trên ấy lấy đồ. Thỉnh thoảng người ta vẫn lên các phòng trên lầu để lấy vài thứ cần thiết gì đó nhanh hơn là sang phía bệnh viện mới lấy.

…………………..

Những lần đưa bà chị đến bệnh viện therapy tiếp theo, tôi đều phải đi qua cái thang máy đối diện pharmacy, cái thang máy đã đưa tôi lên tầng lầu 5 vắng vẻ kinh hãi ấy. Thang máy có lẽ vẫn hoạt động để nhân viên bệnh viện xử dụng khi cần trước khi bệnh viện thật sự đóng cửa. Nhưng với tôi, cái thang máy khép kín đầy bí ẩn sẽ đưa người ta đến gặp một…bóng ma áo trắng.

Vài tháng sau thì tôi nghe tin bệnh viện cũ đã hoàn toàn đóng cửa. Bây giờ mới thực sự là bệnh viện không người.

Tôi lại có dịp đi xuống downtown thành phố, tôi cố tình đi ngang qua khu bệnh viện cũ. Khu bệnh viện cao tầng vẫn chìm trong hàng cây cao bóng mát bên cạnh con đường đông đúc nhộn nhịp xe cộ chạy qua.

Nhưng trong đám giòng người hối hả, trong giòng đời bận rộn ấy có ai biết rằng bên trong bệnh viện vắng vẻ bỏ không này biết đâu vẫn… còn sót lại bóng dáng một người y tá lẩn quẩn trong các dãy hành lang dài thăm thẳm dù các phòng bệnh đã không còn bệnh nhân nào.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( June 22- 2023)

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: Cà Phê...Vịt

Post by bichphuong »

Image

MÙA XUÂN NĂM ẤY
Trịnh Sơn Tùng (Tung Trinh)


Thời gian trước 30/04/1975, bậc trung học (Việt ngữ) của miền Nam Việt Nam (VNCH) có 2 hệ thống giáo dục: công và tư. Hệ thống công bao gồm các trường công, và hệ thống tư bao gồm các trường tư.
Đầu tiên nói về trường công.
Phải kể là rất ít. Mỗi tỉnh thường chỉ có 2 trường trung học công lập: một trường nam và một trường nữ. Khi đó tại Sài Gòn, các trường: Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thượng Hiền… là vài ngôi trường trung học công hiếm hoi có cả nam lẫn nữ. Các trường công khác, nam sinh và nữ sinh đều học riêng.
Vì số trường công quá ít như vậy nên muốn theo học trung học công, học trò tiểu học phải dự một cuộc thi tuyển vào lớp 6 (ngày xưa gọi là lớp “đệ thất”). Hằng năm, số thí sinh dự thi cho mỗi trường trung học công lên đến vài ngàn, nhưng số chỗ thường vỏn vẹn khoảng 300 tới 500, nên chỉ những học sinh ưu tú mới đậu và lọt được vào, do vậy có thể hiểu đây là một loại trường tuyển. Thế nên thời ấy ai được mang danh học sinh trung học công thì vô cùng hãnh diện, và cha mẹ họ cũng đỡ được một gánh nặng vì trường công hoàn toàn miễn phí.
Bây giờ bàn về trường tư.
Phải nói là nhiều vô số kể. Khi đó tại miền Nam, các trường trung học tư thục mọc lên như nấm. Những học sinh không đậu vào được lớp 6 trung học công thì đành phải theo học trung học tư. Học trường tư cũng tốt thôi, thầy cô trường tư có khi dạy còn hay và siêng năng hơn trường công nữa là đằng khác. Có điều hơi phiền muộn là phụ huynh sẽ phải trả học phí dài dài.
Tôi là học sinh trường nam trung học Hồ Ngọc Cẩn, một trường công của tỉnh Gia Định (ở Bà Chiểu), nhưng học xong lớp 12 vì lầm lẫn “đi sai đường” mà mảnh bằng bằng Tú Tài 2 đã vuột khỏi tầm tay.
Con người tôi hình như thiên về văn chương và sinh ngữ, chứ không có chút năng khiếu nào về toán. Vậy mà một phần vì theo thời (quan niệm thời ấy cho rằng “con trai phải theo ban Toán thì mới thích hợp”), một phần vì theo đuôi bạn bè, tôi đã chọn ban B tức là ban Toán cho các lớp 10, 11, 12 của tôi. Việc “đi sai đường” đáng tiếc này đã dẫn đến hậu quả thê thảm kể trên, tôi luôn tin như thế.
Sau ngày "ta hỏng Tú Tài" đó, tôi đã phải đến Trung Tâm 3 Tuyển Mộ và Nhập Ngũ để trình diện, nhưng may nhờ bị cận thị nên lại được hoãn dịch và trở về.
Niên khóa 1972-1973, tôi quyết định học lại lớp 12 nhưng đổi sang ban A tức là ban Lý, Hóa & Vạn Vật (bây giờ gọi là Sinh Học) và theo học tại trường Nguyễn Công Trứ, một trường trung học tư. Ngôi trường này của tôi tọa lạc tại Tân Định, rất gần ngã tư của 2 đường: Hai Bà Trưng và Hiền Vương (con đường này bây giờ mang tên Võ Thị Sáu), đối diện nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (bây giờ là công viên Lê Văn Tám).
Đây là niên học duy nhất của tôi tại một trường trung học tư thục, nhưng đây lại là năm học đầy thương mến và vui nhất trong cuộc đời học sinh của tôi.
oOo oOo oOo
Ngày đầu tiên đến trường tôi vô cùng thích thú, áo dài trắng khắp nơi trong lớp chẳng cần phải đi đâu xa. Đa số học từ dưới lên nên đều quen biết. Nam và nữ nói chuyện với nhau một cách rất thân tình, cảnh tượng thật ngộ nghĩnh trước mắt một thằng cựu học sinh trường công như tôi.
Lớp tôi nữ đông hơn nam (nữ khoảng sáu mươi, nam khoảng bốn mươi) và có cả một anh lính Nhảy Dù, một thầy tu (Phật giáo) mà chúng tôi gọi là thầy Truyền, một anh khoảng 25-26 tên Đức. Anh lính Nhảy Dù học được mấy tháng thì biến mất. Thầy Truyền cùng anh Đức học đến cuối và rất tích cực trong các sinh hoạt của lớp như tổ chức tất niên, cùng các chuyến đi: suối Lồ Ồ, núi Bửu Long, suối Tiên, Nghĩa Trang Quân Đội v.v...
Tôi lúc đó 19, hơi lớn hơn lứa tuổi trung bình trong lớp (17-18).
Từ trường công đổi sang trường tư, tôi giống y như lạc vào Thiên Thai vậy, vừa nghe thầy giảng vừa tha hồ ngắm nhìn các cô trong lớp. Lớp tôi người đẹp không phải là ít. Chẳng cần chi đến: Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt… gì nữa cả, cây nhà lá vườn là dư xài rồi! Này nhé... thì cũng áo dài trắng... thì cũng tóc thề tha thướt khắp nơi!
Các cô thuộc loại “thân thiện” thì chỉ một thời gian ngắn sau tôi đã thân, và hòa mình vào dòng sinh hoạt chung của lớp. Mỗi ngày gặp các cô, tôi nói chuyện cười dỡn vui lắm, y như anh chị em trong nhà vậy và cảm thấy lớp học trở nên một nơi chốn thân ái. Thế rồi tôi đã trở thành một cậu học sinh trường tư thật sự từ lúc nào mà chính tôi cũng không hay biết. Thành phần "thân thiện" này có Thủy và Hòa, đẹp gái và rất dễ thương.
Sau khi học được một thời gian, tôi mới hiểu ra là không phải tất cả các cô đều thân với nam sinh. Vẫn có một số cô (không phải là ít) không bao giờ nói chuyện với con trai, mà tôi đặt tên là nhóm "cục bộ".
Còn một số nữa thuộc thành phần "lưng chừng", nghĩa là cũng có nói chuyện với bên nam nhưng chỉ trong trường hợp cần thiết. Trong thành phần “lưng chừng” này có cô bạn Bích Thảo, rất xinh xắn và hát hay như ca sĩ vậy.
Có nam có nữ làm gì cũng dễ. Tôi vẫn còn nhớ một số sinh hoạt rất vui trước ngày tất niên năm ấy. Anh Đức lên bảng tập cho cả lớp bài Xuân Ca (của Phạm Duy). Anh chia lớp thành bè nam và bè nữ, khi hát riêng khi nhập chung nghe thật là hay. Ngày đi mua đồ để chuẩn bị tất niên thì nam chở nữ, nữ vào chợ mua còn nam ngồi trên xe chờ. Thiệt là dễ thương hết sức!
oOo oOo oOo
Sau khi theo học được khoảng nửa năm. Một hôm trong giờ ra chơi tại hành lang trước lớp, tôi nhìn thấy một cô nữ sinh dáng dấp rất thanh tú, mặc áo dài trắng tinh thật đẹp, mang giày đầm, mái tóc dài óng mượt, tô điểm bằng một chiếc kẹp với 4 hoa mai vàng trông rất duyên dáng, vẻ mặt hơi kiêu kỳ. Điều kỳ lạ là vừa nhìn thấy tôi đã "ưa" ngay lập tức. Tôi tự hỏi: “Có phải cô nàng học lớp mình không? Mà sao hồi giờ chưa bao giờ thấy?”. Tôi đứng nhìn ngẩn ngơ và ngầm theo dõi thì mừng quá, sau giờ ra chơi nàng đi vào lớp tôi thật. Tôi cẩn thận xác định vị trí của nàng... ở dãy bên kia và dưới tôi 4 bàn, ngồi sát tường. Được rồi, như vậy là chắc ăn rồi. Nhưng mà tại sao tôi chưa hề thấy nàng trước đó? (Ngay cả đến bây giờ tôi cũng vẫn không hiểu!). Cô nữ sinh này giống như từ trên trời rớt xuống. Tuy nhiên sau này tìm hiểu thì hóa ra tôi mới chính là thằng học sinh nhảy vào ngang xương, chứ nàng học ở đó đã lâu lắm rồi, từ dưới lên. Lạ thật!
Từ đó về sau mỗi khi vào lớp, tôi đều quay sang nhìn nàng cười cười một cái rồi mới yên tâm ngồi xuống. Sau này nhiều khi tôi nhìn qua thì cũng là lúc nàng nhìn lại, và "hình như" hơi mỉm cười với tôi nữa. Càng ngày tôi càng "mết" thêm, và tôi để ý thấy cô nàng khá chải chuốt. Áo dài lúc nào cũng trắng tinh, chân luôn luôn mang giày đầm và 4 bông hoa trên tóc cũng đổi màu nữa: vàng, đỏ, hồng… nhưng với tôi thì hoa vàng trên tóc nàng là đẹp nhất. Tôi cũng xin phụ đề, trong lớp có không ít cô mặc áo dài trắng đã ngả màu và mang guốc.
Cuối cùng "mết" quá chịu hết nổi và tôi quyết định là phải "ra tay". Nhưng mà bằng cách nào? Tôi âm thầm suy nghĩ: “Bạn cùng lớp tuy dễ mà khó, đã ra tay thì phải thành công, bằng không đừng làm vì nếu thất bại sẽ xấu hổ lắm, chỉ có nước nghỉ học”… Mà tôi lại không muốn như thế. Suy nghĩ mãi nhưng vẫn chẳng tìm ra cách nào khả thi...
Tuy nhiên cũng may, sau khi tôi để ý nàng không bao lâu thì Tết đến. Cả lớp nhộn nhịp chuẩn bị tất niên, và tôi chợt nảy ra ý kiến: “Tại sao lại không lợi dụng không khí liên hoan vui vẻ, cởi mở của ngày tất niên để tìm đến nàng như một người bạn? Nói chuyện một cách đàng hoàng lịch sự rồi sẽ tùy cơ ứng biến, cùng lắm thì… rút lui trong danh dự!”.
Nhưng làm sao thì làm vẫn phải có một cái gì cho nàng chứ. Nghĩ vậy tôi bèn ra trước nhà thờ Đức Bà mua một cái thiệp xuân thật đẹp, và viết vào một câu chúc rất dễ thương còn tên nàng thì để trống.
Ngày tất niên tôi đến lớp, mang theo tấm thiệp. Hôm ấy bà con làm xôm tụ lắm, nào đàn điện, nào trống, nào micro hát hò inh ỏi thật vui. Các cô mặc áo dài đủ màu, và phần văn nghệ có cả nam lẫn nữ nên hay vô cùng. Tôi liếc nhìn người đẹp của tôi thì thấy nàng mặc áo dài tím than, màu áo càng làm nổi bật thêm 4 hoa mai vàng trên tóc, trông xinh ơi là xinh! Tôi nghĩ thầm: "Gớm, sao hôm nay em của anh điệu thế!"... Nhưng bên cạnh nàng, bạn bè ngồi kín hết. Thôi thì... đành phải chờ!
Tiệc tất niên kéo dài được một lúc thì bất ngờ bà con yêu cầu tôi hát. Bí quá tôi liều mình hát đại bài "Cờ Bay Trên Thành Phố Quảng Trị" (Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu...). Ai ngờ bà con hưởng ứng nồng nhiệt, vỗ tay đánh nhịp, đàn bass và trống đập theo nữa nghe rất hùng dũng. Vui thật là vui!
Hát xong tôi nhìn qua… Bên cạnh nàng, bạn bè vẫn đông nghẹt! Thôi thì đành chờ đến cuối giờ. Nhưng lỡ nàng về sớm thì sao? Càng nghĩ càng lo, và tôi thầm than khổ!
Và cuối cùng thời cơ cũng đã đến. Một lúc sau hai cô bạn hai bên đồng loạt rút lui. Không để phí một giây tôi liền đi tới ngồi bên cạnh nàng, và chẳng cần vòng vo gì cả tôi cười duyên rồi nhập đề liền:
- Muốn làm quen với chị đã lâu rồi nhưng không có dịp...
Tôi kín đáo để tấm thiệp trên bàn và nói tiếp:
- Muốn tặng chị cái thiệp này. Viết đầy đủ hết cả rồi... nhưng chẳng biết chị tên gì nên phần tên còn để trống... Nè... thấy “hông”?
Tôi vừa nói vừa mở tấm thiệp cho nàng xem. Nàng liếc qua rồi mỉm cười dò xét:
- Từ sáng đến giờ tặng được mấy người rồi?
Tôi thẳng thắn trả lời:
- Không, chẳng có ai cả.
Nàng nhận thiệp từ tay tôi đọc chăm chú, nét vui hiện rõ trên khuôn mặt, sau đó hỏi tôi:
- Muốn biết tên hả?.
Tôi trả lời:
- Đương nhiên.
Nàng nói nhỏ:
- Tên Chi
- Chi hả?
Tôi hỏi lại, Nàng khẽ gật đầu. Tôi liền nắn nót viết "Chi" thật đẹp vào khoảng trống chừa sẵn trên thiệp và trao cho nàng. Nàng nhận lấy ngắm nghía một chút rồi cho vào bóp.
Sau khi biết tên, tôi liền lập tức đổi ngay "chị" thành "Chi", và cũng đồng thời giới thiệu tên tôi. Tôi và Chi sau đó nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Trước khi chia tay, tôi làm ngay một màn hẹn hò:
- Chi nè, từ ngày mai là nghỉ rồi, Tết lại sắp đến… Hôm nào rủ Chi đi chơi được không?
Nàng cúi mặt cười cười:
- Đi chơi hả?... Quen biết gì mà đi.
- Thì như thế này là quen rồi đó. Tên còn biết nữa là.
- Trời ơi, hối hận dễ sợ! Biết vậy giấu đi cho rồi.
- Bạn cùng lớp cả mà. Thôi Chi ơi! Có ai ăn thịt đâu mà sợ…
- Dám? Dám ăn thịt Chi?
Tôi và nàng cùng cười rất vui vẻ. Rồi nàng nhìn tôi:
- Ừ thôi cũng được. Chi cũng chẳng làm gì. Nhưng mà đi đâu?
- Thì đi chợ hoa Nguyễn Huệ, rồi chợ Tết Sài Gòn.
- Thôi ồn ào lắm… Hay chiều mốt Tùng đến đón Chi rồi mình tới Trần Quý Cáp uống nước. Chịu “hông”?
- Chịu quá đi chứ. Nhưng mà nhà Chi ở đâu?
Ngẫm nghĩ một chút rồi Chi hỏi nhỏ:
- Tùng biết Bò Bảy Món Ánh Hồng ở Phú Nhuận không?
- Biết chứ, trên đường Nguyễn Minh Chiếu, kế bên đường rầy xe lửa.
- Trời ơi, dễ sợ! Nói ra là biết liền. Người này ghê lắm đây!
Tôi cười hì hì:
- Phải nói là trúng tủ thì đúng hơn. Gia đình… Không, phải nói là đại gia Tùng thì mới đúng, thỉnh hoảng lại kéo nhau đến đó ăn mà.
- Hay quá! Vậy chiều mốt 2 giờ chờ Chi ở cổng xe lửa trước Ánh Hồng nghe.
- Tuân mạng.
Trước khi chấm dứt nàng còn thòng thêm một câu hăm dọa:
- Nhớ đến đúng giờ nghe. Để Chi chờ là khỏi nhìn mặt luôn đó.
- Khỏi lo. Hẹn với người đẹp mà. Ai lại tệ dữ vậy?
Nàng nhìn tôi cười một cách khá thân tình. Phần tôi lòng mừng khấp khởi vì đã có cái hẹn trong tay.
oOo oOo oOo
Hai hôm sau, tôi lái Honda hân hoan đến đón người đẹp của tôi. Chỗ hẹn là một nơi chốn rất quen thuộc. Ngay từ thuở 7-8 tuổi, tôi đã được bố mẹ cùng bà ngoại, cô dì chú bác dẫn đến tiệm Ánh Hồng ăn. Tôi chờ một lát thì nàng đi ra, mặc áo dài hồng trông thật xinh. Ngồi sau lưng tôi dĩ nhiên ban đầu Chi đâu dám ôm eo. Tôi phải cầm tay nàng để lên, và dùng đủ mọi lý lẽ về “an toàn lưu thông” để thuyết phục. Mãi sau nàng mới chịu… nhưng một cách rất rụt rè.
Tôi cho xe chạy thật chậm trên đường Võ Di Nguy (tức Phan Đình Phùng bây giờ). Thỉnh thoảng có cơn gió ngược chiều thổi bay tóc Chi vào mặt tôi, mùi thơm dịu dàng từ mái tóc nàng làm tôi cảm thấy dễ chịu.
Chi rủ tôi đi uống nước ở đường Trần Quý Cáp, trước trường Tân Văn. Dọc con đường này có hai hàng me cổ thụ rất mát mẻ, dưới gốc cây là các xe nước đá và bàn ghế dành cho khách hàng. Chi và tôi ngồi tại một xe nước đá mà nàng quen thuộc. Thú thật, từ nhỏ tới lớn tôi chưa hề biết nước xí muội nó là cái gì cả, nhưng nghe nàng giới thiệu tôi cũng uống thử thì thấy ngon thật. Vừa uống tôi vừa khen:
- Nước xí muội ngon ghê, vậy mà hồi nào tới giờ Tùng không biết đó.
- Phải rồi, đây là món uống của người nghèo. Mấy người sang trọng quá mà, lo đi uống ở mấy chỗ như: Brodard, La Pagode, Pôle Nord… không à! Thì làm gì mà biết. Tui quê mùa lắm chỉ quanh quẩn ở mấy chỗ “bình dân học vụ như thế này thôi”… Đâu giống như ai đó dân “yé yé”…
- Trời đất, mới mở miệng khen mà đã bị kết án lung tung như thế này! Mấy chỗ Chi vừa nói, thật tình Tùng còn chưa biết mặt mũi nó như thế nào nữa là… Không chừng Chi mới đúng là “yé yé” đó nghe!
Chi cười khanh khách. Rồi nàng nhìn tôi:
- Chọc Tùng cho vui vậy thôi chứ Chi biết rồi. Hồi đầu năm Tùng xuất hiện là Chi để ý ngay.
- Để ý?... Đã vậy sao?
- Hứ! Đừng vội mừng. Để ý là vì bạn không giống ai thì đúng hơn.
- Hả?
- Chứ gì nữa. Ai cũng học từ lâu rồi, riêng Chi nhập học từ năm đệ tam đó. Mãi đầu năm nay Tùng mới lù lù xuất hiện…
- Học từ năm đệ tam tức là lớp 10…
- Đúng rồi. Bởi vậy… Nổi ơi là nổi! Đã vậy đi học còn xách cặp táp rất tề chỉnh. Thầy giảng cứ nghệt mặt ra nghe. Giá có con ruồi vo ve trước mặt chắc cũng chẳng biết. Chi gọi Tùng là gì biết không?
- Là gì?
- Anh chàng “cả đẫn”.
- Hả?
- Chứ gì nữa. Nghe nói Tùng từ trường công chuyển qua phải không?
- Ừ
- Hèn chi. Dân trường công ai cũng giống ai. Da mặt xanh lè nổi gân xanh, tay xách cặp táp thẳng đường đi tới, chung quanh có chuyện gì cũng chẳng cần biết.
- Hình như Chi “kỳ thị” trường công? Tại sao vậy?
- Chẳng biết. Nhưng mà không ưa nổi!
Rồi nàng tiếp liền:
- Tưởng anh chàng cù lần nhưng mà Chi lầm to. Sau khi nhập học được khoảng nửa năm thì bắt đầu “địa” Chi.
- Ủa, Chi cũng biết hả?
- Sao không? Cũng vì vậy mà Chi mới bắt đầu để ý quan sát. Mà nói thật. Khi ấy Chi lại thấy anh chàng không đến nỗi tệ. Mặt mày trông cũng sáng sủa, tướng tá cao ráo. Mà lại có vẻ đứng đắn, ít nói, không lóc chóc như mấy thằng con trai khác trong lớp. Bởi vậy thấy cũng “tội nghiệp”, nên Chi mới thỉnh thoảng mỉm cười đáp lại… Tại tính hay “thương người” đó mà.
Nàng nhìn tôi một cách tinh nghịch:
- Với lại Chi cũng muốn thử xem “ý đồ” của hắn là như thế nào?
Hớp một ngụm nước rồi nàng nói tiếp:
- Ghê lắm! Càng ngày càng làm tới. Có hôm dòm con nhỏ cười tình tới mấy lần. Tui đâu có ngán, cũng “kên” lại để xem còn dám giở trò gì nữa không. Ai dè gan dễ sợ. Hôm tất niên bạn bè đầy hết mà xăm xăm đến chỗ người ta ngồi làm quen, chẳng coi thiên hạ ra gì hết trơn đó.
Tôi cười xòa:
- Cũng run lắm chứ nhưng không làm gan thì làm sao quen được Chi.
- Quen làm chi vậy? Không quen cũng đâu có sao?
Chi nhìn tôi cười hóm hỉnh rồi nói tiếp:
- Cũng may cho Tùng đó. Chi đã định ra về, nhưng rồi Hạnh hát bài “Bao Giờ Biết Tương Tư” hay quá nên nán lại.
- Biết rồi, Hạnh “ù” đánh trống đó mà. Cám ơn Hạnh. Mà có lẽ đó cũng là cái duyên.
- Duyên gì?... Ai có duyên với ai chứ?
Nàng liếc tôi một cái thật dài, cùng lúc chìa ra một tấm thiệp:
- Nói vậy chứ lỡ quen rồi thì Chi cũng phải cư xử cho phải phép. Tặng Tùng nè. Thiệp này Chi tự làm đó.
Tôi nhận tấm thiệp mà trong lòng vô cùng cảm động. Miệng thì cà dỡn và đôi khi hơi “cà chớn”, nhưng rõ ràng là Chi nghĩ đến tôi nhiều lắm. Nàng đã phải suy tính, trình bày và góp nhặt vật liệu để kết thành tấm thiệp, biết bao nhiêu công khó. Còn câu chúc đầy ý tình nữa, đây là lần đầu tiên tôi thấy được nét chữ mềm mại của nàng. Tôi mân mê tấm thiệp mà lòng tràn trề hạnh phúc.
Buổi chiều thật êm ả, tôi tiếp tục tận hưởng thời gian còn lại bên nàng. Giọng nói cô bạn tôi nghe sao ngọt ngào và truyền cảm quá. Tôi buột miệng:
- Giọng nói Chi nghe hay quá, hao hao giống giọng cô Phan Tùy của Đài Truyền Hình số 9.
- Ủa vậy sao? Chi cũng ái mộ cô ấy lắm.
- Chi cũng biết cô ấy hở?
- Sao không? Người đẹp truyền hình mà.
- Chi sinh ra ở ngoài Bắc hả?
- Ừ, ở tỉnh Hà Đông. Nhưng được 1-2 tháng thì đã vào Nam rồi. Chi sinh năm 1954 mà.
- Như vậy là nhỏ hơn Tùng 1 tuổi. Tùng cũng đâu khác gì Chi, được vỏn vẹn 8-9 tháng thì di cư. Tùng sinh ra ở nơi quê mùa chứ không được nơi chốn sang trọng như Chi đâu.
Vẫn cái kiểu “cà chớn” cố hữu, nàng cười khúc khích:
- Biết rồi khỏi cần giới thiệu.
Thỉnh thoảng có cơn gió mát thổi đến, không gian hai đứa tôi càng thêm phần dịu dàng và tình tứ. Những chiếc lá me vàng rơi lả tả trên tóc nàng theo cơn gió, chẳng khác chi confetti trong một ngày hội hoa đăng. Tôi đưa tay nhặt lá me và vuốt tóc cho Chi, trong lòng không khỏi có chút rung động khi chạm mái tóc mềm mại của nàng. Cô bạn tôi không phản đối, ngoan ngoãn ngồi yên trong khi tôi làm công việc “gallant” ấy.
Trong suốt buổi chiều hôm đó tôi nói chuyện rất đứng đắn, không hề buông lời tán tỉnh. Vì tôi tin rằng một khi đã mến nhau rồi tình cảm sẽ tự nhiên theo sau, và tình cảm nên để nó đến một cách tự nhiên thì hay hơn. Mà quả thật vậy, sau khi uống nước xong chúng tôi trở nên thân nhau hơn thấy rõ, lên xe Chi tự động ôm eo tôi và ôm chặt hơn lần đi nhiều. Trong khi nói chuyện, những lúc tương đắc quá có khi nàng còn tựa cằm vào vai tôi nữa.
oOo oOo oOo
Hường vừa cười vừa thân mật vỗ vai tôi:
- Ông cặp với con Chi bao lâu rồi? Sao mà dấu kỹ thế. Hôm qua tôi thấy ông chở nó trên đường Phan Đình Phùng. Ngạc nhiên lắm, nhưng tôi không muốn quấy rầy hai người nên chỉ lặng lẽ chạy theo thôi. Cô nàng ôm eo ông và đầu còn tựa vai nữa, trông tình ơi là tình.
Nam xen vào:
- Tôi bắt gặp mấy lần. Cô nàng Chi không lên xe ở chỗ gửi xe đâu, mà chờ trên đường Hiền Vương gần ngã tư. Ông tới là ngồi lên xe liền và Hường nói đúng đó, lên xe nó ôm eo ông, có khi tay kia còn bá vai nữa, lâm ly lắm.
Tôi cười hì hì:
- Mấy ông hay thiệt, giấu kỹ như thế mà rốt cuộc cũng bị lòi chành…
Hoàng cười khoái chí:
- Con Chi nổi tiếng là khó, chẳng bao giờ thèm nói chuyện với đám con trai trong lớp. Có người còn cho là nó kiêu kỳ nữa. Ai dè bị ông thộp cổ, đã quá!
Đến đây Liệu mới chậm rãi lên tiếng:
- Hoàng nói đúng. Chi là người đẹp hàng đầu trong lớp, nhưng khó lắm, rất cục bộ chỉ nói chuyện với mấy đứa bạn ngồi gần thôi, bọn con trai trong lớp thì miễn. Ông Tùng mới vào sau nên không biết. Nam nữ trong lớp thường thân nhau lắm nhưng chỉ ở mức tình bạn thôi. Chẳng thằng nào cặp được đứa con gái nào trong lớp bao giờ. Ông là người đầu tiên phá lệ đó. Tôi học ở đây đã 3 năm rồi mà, nên rành lắm.
Hường cười hề hề:
- Không ngờ, thật không ngờ. Không thèm nói chuyện với con trai trong lớp, nhưng rồi cuối cùng lại cặp ngay với ông Tùng. Đúng là cô nàng này thuộc loại không làm thì thôi, đã làm thì phải làm ra trò. “Lù đù vác cái lu mà chạy” đó.
Liệu phụ họa:
- Không, phải nói “tẩm ngẩm mà đấm chết voi” mới đúng.
Cả bọn cười ha hả. Rồi Nam thân mật vỗ vai tôi:
- Hồi đầu năm biết ông từ trường công chuyển qua, tôi cho là cù lần lắm, chỉ biết học thôi. Ai dè bây giờ tôi mới biết dân trường công bay bướm như vậy chứ.
Hoàng cười khoái chí:
- Và ông Tùng là người phá lệ. Mới vào học có nửa năm chứ mấy, mà đã “cuỗm” ngay một người đẹp trong lớp.
Lúc này là giờ ra chơi, đám tôi mấy thằng đàn đúm trò chuyện inh ỏi thật vui.
Thật sự thì tôi đã cặp với hai cô bạn: Dung* và Phụng* trước đó rồi, nên mới vững vàng mà tiến tới với Chi như thế nhưng chuyện này tôi chưa hề kể cho ai. Chi tính tình kín đáo và tôi thì cũng chẳng khác chi cô bạn. Khi toan tính để thực hiện một một ý định nào đó tôi thường suy nghĩ một mình, chẳng hề bàn tính với ai. Thế nên tôi và Chi quen nhau từ trước khi nghỉ Tết, vậy mà đến nay trở lại học đã cả chục ngày rồi đám bạn thân của tôi mới khám phá ra. Mấy người bạn này của tôi dễ thương lắm, mỗi người một vẻ. Có lẽ tôi cũng nên giới thiệu đôi nét về đám bạn này của tôi:
Hường là người bạn thân nhất của tôi. Ngày nhập học tụi tôi vô tình chọn ngồi kế nhau rồi cuối cùng trở nên thân, và cũng tình cờ lại là hai thằng cao nhất lớp. Tôi cao 1m70 nhưng Hường cao lắm, tới 1m80 nên đứng bên cạnh hắn, tôi trông chẳng khác chi một thằng lùn. Hường trắng trẻo, đẹp trai, tính tình hiền hòa, ba mất sớm và sống nhờ mẹ. Nhà anh bạn này nằm trên đường Dương Công Trừng, Thị Nghè kế bên cây cầu sắt. Tôi vẫn còn nhớ những buổi chiều ngồi hóng gió cùng người bạn thân mến này bên con rạch cạnh nhà.
Liệu mập mạp, vui tính và rất tháo vát. Nhà anh bạn này ở Xóm Mới, tôi nhớ từ chợ Gò Vấp phải chạy thêm một quãng khá xa nữa mới đến. Nhà Liệu giống như đồng quê vậy, có ao vườn rất mát mắt. Có lần đám tụi tôi cả chục mạng kéo đến nhà và được hắn đãi ăn thỏa thê. Nhà Liệu có ao nuôi cá tra rất lớn, một bên bờ là chuồng heo. Cá nuôi nên rất ham ăn, vừa thả câu đã dính ngay một con rất lớn cỡ 3-4 ký. Liệu rất nhà nghề, cắt bỏ bộ đồ lòng và chỉ thoáng sau con cá đã được làm sạch và cắt từng khứa rất hấp dẫn. Sau đó cả bọn xúm vào rửa rau (phần lớn là cây nhà lá vườn), nấu nước, chuẩn bị gia vị. Con cá nấu được 1 nồi canh chua to tướng như nồi phở, và cả bọn được một bữa vừa no nê vừa vui. Sau này tôi kể chuyện với người lớn thì bị cho là quá ẩu tả, quá dơ dáy… cá tra mới câu lên mà dám ăn ngay! Có lẽ không sai, nhưng có khi nhờ ẩu tả như thế mà mới hưởng được mọi cái thú ở đời. Và có khi nhờ ẩu tả mà mới sống lâu, vì tôi vẫn thường nghe câu nói “ở bẩn sống lâu, ở sạch chết sớm” mà!
Nam bị teo chân trái nhưng vẫn đi lại khá dễ dàng, chỉ có điều hơi khập khiễng. Chân phải bình thường nên anh chàng vẫn lái xe ào ào chẳng thua ai. Nhờ bị teo một chân như thế nên hắn được miễn dịch vĩnh viễn. Nam thường tỏ ra bằng lòng với cái chân không bình thường của mình, thậm chí còn cho rằng hắn may mắn có nó để khỏi phải quan tâm đến việc lính tráng! Trong lớp Nam ngồi ngay sau lưng tôi.
Hoàng ở trên đường Lê Quang Định, khá gần Gò Vấp. Anh bạn này tính tình hào phóng và rất tốt bụng. Hoàng có biệt tài làm nước mắm ớt, ngon không ai bằng nên hễ có ăn uống thì không thể nào thiếu hắn.
Sau đám bạn chí thiết của tôi thì đến các cô bạn trong nhóm “thân thiện”. Hôm ấy tôi bị mấy cô chận ở cầu thang và chọc tưng bừng. Cả chục cô xúm vào, mỗi cô một câu:
- Chi ơi! Tùng đây nè!
- Trời ơi! Lén lút đi chơi với nhau từ hồi nào vậy?
- Trời ơi! Đi chơi với người đẹp tình quá ta ơi!
- Chu choa! Bây giờ “hoa đã có chủ” rồi…
Và rồi vì chuyện tình “lén lút” của tôi với Chi, mấy cô gọi tôi là Kissinger. Đây là ông Bộ Trưởng Ngoại Giao của Mỹ thời Hòa Đàm Ba Lê (Paris). Ông Kissinger cũng đeo kính cận như tôi và chuyên môn "đánh du kích", tức là chuyên môn thỏa hiệp lén với VC. Biệt danh “Kissinger” này sau đó lan truyền ra cả lớp, đến cả cô bạn Chi của tôi cũng biết nữa.
Nhóm “thân thiện” này hễ có sinh nhật là mời tôi với Hường (chỉ mời hai đứa tôi thôi). Có khi tại một quán cà phê nào đó gần trường, có khi tại nhà. Luôn luôn học xong là cả bọn rủ nhau đi thẳng. Tôi vẫn còn nhớ lần đến nhà Ngọt dự sinh nhật cô. Ngọt không đẹp, vừa lùn vừa hơi mập nhưng tính tình dễ thương và ngọt ngào như cái tên của cô vậy. Ngọt giỏi lắm, chúng tôi đến nhà thì đồ ăn đã sẵn sàng hết cả rồi, chỉ cần dọn ra thôi: nào chả giò, nào cà ri, gỏi cuốn, gỏi gà... lung tung. Vì tan học xong là đi liền nên tất cả các cô đều còn mặc áo dài, cả một nhà toàn áo dài trắng trông rất đẹp mắt... trừ hai thằng đực rựa là tôi và Hường!
oOo oOo oOo
Mỗi tuần Chi có 2 buổi chiều học thêm Lý Hóa ở trường Tân Văn. Đây là cơ hội để tôi đến đón và gặp nàng thêm nữa ngoài buổi sáng ở Nguyễn Công Trứ. Sau khi gặp nhau, chúng tôi luôn dành khá nhiều thì giờ để vừa uống nước vừa đàm đạo trước khi ra về. Đề tài trao đổi thường là về văn học nghệ thuật, và nơi chốn dĩ nhiên là tại xe nước đá quen thuộc trên đường Trần Quý Cáp, trước trường Chi học.
Hôm ấy vừa kêu nước xong, Chi trao cho tôi một tập nhạc với tựa đề “Em Tôi” và nói:
- Tặng Tùng đó. Trong này có cả bài “Ngàn Thu Áo Tím” mà Tùng thích đó.
Tôi nâng niu tập nhạc trong tay. Tờ bìa trình bày thật đẹp và đặc biệt nhất là tập nhạc thoang thoảng mùi hương quen thuộc của Chi, mùi hương gây cho tôi một cảm xúc lạ kỳ. “Có lẽ là để đáp lễ tập nhạc Ngàn Thu Áo Tím mà mình tặng cô nàng tuần trước đây”, tôi thầm nghĩ. Giọng Chi nhỏ nhẹ:
- Chi thích bài “Em Tôi” lắm. Bài này Sĩ Phú hát hay và truyền cảm vô cùng, không ai qua mặt nổi.
- Phải rồi. Giọng nam trầm ấm như Sĩ Phú diễn tả mới thích hợp. Em Tôi cũng là bài ruột của Tùng đó.
- Vậy sao?
- Ừ. Thích đến độ tìm hiểu cả tác giả luôn đó.
- Chi chỉ biết tác giả là Lê Trạch Lựu thôi.
- Ông Lê Trạch Lựu có người yêu ở trong nước trước khi qua Pháp du học. Nghe nói trong những giây phút nhớ nhung người yêu ngút ngàn, ông đã cảm tác ra bài Em Tôi. Hình như ông chỉ có một bài duy nhất ấy thôi.
- Tội nghiệp và cảm động quá.
- Những nhạc sĩ chỉ cho ra một nhạc phẩm duy nhất thường là tác phẩm để đời, vì là tâm sự thật của họ.
- Chi đồng ý. Khác hẳn với loại nhạc thương mại.
Trầm ngâm một lúc rồi Chi ngước nhìn tôi:
- Tùng có hay đọc truyện không?
- Thích lắm chứ. Chi thường đọc truyện của ai?
- Nhiều lắm: Duyên Anh, Nhã Ca, Mường Mán, Võ Hà Anh, Dung Sài Gòn…
- Chi có đọc truyện của Đinh Tiến Luyện không?
- Có chứ. Thích nhất là cuốn “Anh Chi Yêu Dấu”.
- Trời! Tùng cũng mới đọc xong cuốn đó tháng trước.
- Hay quá phải không?
- Ừ, tác giả viết rất thật và hơi bạo.
- Bạo chỗ nào?
- Nhân vật nam: Huy có lẽ đã trên dưới 20 tuổi, trong khi nhân vật nữ: Anh Chi chỉ mới khoảng 13-14 tức là tuổi nhi đồng… Và lúc nhân vật nam nói chuyện với sơ giám thị, anh ta nói ngang lắm… thậm chí anh ta còn nói sắp giết người. Đoạn này có vẻ hơi xa thực tế, nhưng đọc thấy đã lắm.
- Con gái 13-14 tuổi biết yêu thiếu gì. Còn nhân vật nam bạo dạn, ngang tàng như vậy mà Chi lại thích đó. Như thế mới là đàn ông.
- Hoàn toàn đồng ý với Chi. Phần kết tác giả cho nhân vật nữ tử nạn máy bay, kể cũng là một kết thúc ổn thỏa.
- Cái kiểu không trọn vẹn như vậy mới nhớ đến nhau hoài.
- Giống như kiểu truyện tình TTKH phải không?
- Cha! Biết luôn cả thơ TTKH nữa hả?
- Sao không. Mấy bài thơ nổi tiếng quá mà. Bà TTKH phải vĩnh biệt người yêu, mà bà gọi là “người ấy” để đi lấy một ông chồng lớn tuổi. Thơ của bà ra đời từ năm 1937 lựng đó.
- Đúng rồi, từ thời cha mẹ tụi mình.
- Mà Chi nè. Hỏi Chi cái này.
- Hỏi gì?
- Nếu Chi là TTKH thì Chi muốn Tùng là “người ấy” hay “chồng già”.
- Dĩ nhiên là “người ấy”
- Ôi, ai cũng thích làm “người ấy”. Tùng thì lại chỉ khoái làm “chồng già” của TTKH thôi.
- Gì nữa đây? Chưa già đã giở thói.
- Làm chồng của TTKH là chắc ăn nhất. Có gì bằng có được người đẹp trong tay? Phải thực tế một chút chứ. “Chồng già vợ trẻ là tiên” mà.
- Dễ ghét!
Chi nguýt tôi một cái thật dài. Tôi cười hề hề:
- Chứ làm “người ấy” thì được cái gì? Chỉ được cái thất tình.
Rồi tôi ngâm nga giọng giễu cợt:
- Người ấy thường hay vuốt tóc tôi – Thở dài trong lúc thấy tôi vui – Bảo rằng: “Hoa dáng như tim vỡ – Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi! ”… Thấy chưa? Người ấy của Chi suốt ngày chỉ có than với thở, làm chuyện “ruồi bu”. Cuối cùng chẳng được cái giải rút gì cả, có tiếng mà không có miếng. Chẳng thà làm chồng già đã hơn, ôm nguyên mâm cỗ.
Đến đây không còn chịu nổi, nàng cho tôi một cái nhéo thật đau vào mạng mỡ:
- Chồng già hả? Nè chồng già!
Vừa nói nàng vừa liên tiếp bồi thêm vài cái nữa. Sau một lúc bị nàng “tra tấn” như thế, tôi giả vờ chịu thua:
- Thôi, thôi tha cho Tùng… không dám làm chồng già nữa đâu.
- Chứ làm gì?
- Làm chồng trẻ.
- Chồng trẻ?
- Ờ, chồng trẻ của “TTKH Chi”.
- Trời ơi! Giỡn mặt quá rồi mà… Tui cho phép hồi nào vậy chứ?
Vừa nói nàng vừa nhéo mạnh thêm nữa. Cảm giác bị con gái nhéo nó lạ lắm. Vừa đau vừa “đê mê”! Ai đã từng “được” người yêu nhéo, có lẽ sẽ hiểu một cách thấm thía điều tôi muốn diễn tả. Phải chăng đây là cái “thú đau thương” mà tôi thường nghe nói?
Tôi và nàng sau đó cùng cười rất vui vẻ. Tôi ưa lắm những buổi chiều như thế này. Gió mát hiu hiu thổi, không gian chung quanh hai đứa tôi vừa lãng mạn vừa mang đầy nét thi vị. Tôi say sưa đàm đạo cùng người con gái trước mặt, trong một tà áo dài trắng tinh và mái tóc đen huyền thật đẹp, với vài bông hoa vàng trên tóc. Trông nàng xinh quá. Tôi say đắm trong cái không khí vừa tình tứ vừa văn học ấy. Giọng nói dịu dàng, truyền cảm của Chi vẫn đều đều bên tai tôi, nghe mà như ai rót mật vào hồn.
oOo oOo oOo
Rồi thì niên học cũng phải chấm dứt. Chúng tôi đành giã từ thầy cô, bạn bè và trường Nguyễn Công Trứ để vùi đầu vào bài vở chuẩn bị cho kỳ thi Tú Tài 2. Ai giã từ ai thì tôi không biết, chứ tôi và Chi thì vẫn “lo nhiệm vụ nhưng không hề xa cách”. Mỗi tuần chúng tôi vẫn gặp nhau 3-4 lần, có khi đi ăn đi uống nước, có khi chở nhau chạy tuốt ra khu Bình Triệu gần nhà tôi hóng gió rồi mới về nhà gạo bài tiếp. Trước ngày thi, Chi hứa sẽ “thưởng” cho tôi nếu thi đậu nhưng giữ bí mật không cho biết là gì.
Khóa 1 kỳ thi Tú Tài 2 năm 1973 ấy, tôi thi ở trung tâm Đạt Đức (trường trung học tư thục Đạt Đức), còn Chi thi tại trung tâm Lê Văn Duyệt (trường nữ trung học Lê Văn Duyệt). Những ngày thi đó tôi vô cùng bận rộn, ra khỏi trung tâm là vội vã chạy như bay đến trường Lê Văn Duyệt để đón nàng. Bận rộn nhưng mà vui, vì có gặp được nàng thì đầu óc mới sảng khoái để mà thi tiếp!
Buổi sáng sau ngày thi, tôi cùng Chi đi ăn rồi về nhà tôi chơi, đây là lần đầu tiên nàng biết nhà tôi. Buổi sáng hôm ấy nàng mặc một chiếc áo dài tơ màu xanh lá cây nhạt trông thật dịu hiền. Về đến nhà thì chỉ chẳng có ai ngoài mấy cô em nhỏ của tôi và bà giúp việc ở nhà trong. Tại phòng khách, tôi và nàng thì thầm bên nhau được một lát thì bác Hà đến. Bác Hà là một giáo viên, bạn đồng nghiệp của mẹ tôi. Không có mẹ ở nhà nên tôi và Chi phải thay mặt người tiếp bác. Bác Hà có cô cháu ruột cũng cùng thi Tú Tài 2 ngày hôm trước nên trò chuyện cùng chúng tôi rất tương đắc về chuyện thi cử. Sau vài câu chuyện, bác nhìn tôi và Chi một cách rất thiện cảm:
- Đẹp đôi quá! Hai cháu học chung lớp à.
Giọng Chi nhỏ nhẹ:
- Dạ thưa phải.
- Cháu có giọng nói quý phái quá. Chắc người Hà Nội hở? Bác cũng là dân Hà Nội đây.
- Dạ không. Cháu sinh ra ở tỉnh Hà Đông. Nghe ba má cháu nói vậy.
- Thế hở? Thảo nào. Thành phố Hà Nội nằm trong tỉnh Hà Đông, giống như thủ đô Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định vậy. Nên giọng Hà Nội và Hà Đông cũng chẳng khác gì nhau.
- Dạ phải. Ba má cháu cũng nói như thế.
Bác Hà lại nhìn hai đứa tôi:
- Bạn cùng lớp. Quý quá! Nhưng con đường còn dài lắm, còn phải thêm mấy năm đại học nữa rồi có tính gì thêm thì mới được. Hai cháu cố giữ gìn nhá. Bác sẽ cầu nguyện cho hai đứa.
Rồi bác không nén được tiếng thở dài:
- Tình đầu đẹp lắm nhưng cũng mong manh vô cùng, giống như bác đây…
Chi nắm tay bác:
- Sao ạ? Chẳng lẽ bác…
- Ừ, ngày xưa thời trung học ở Hà Nội, bác cũng có một người bạn trai… Chuyện này bác chưa kể cho ai, kể cả mẹ cháu Tùng.
Tôi vô cùng ngạc nhiên:
- Ngay cả mẹ cháu, bác cũng chưa kể? Hân hạnh cho cháu và Chi quá!
- Ừ bác cũng đâu định kể đâu. Nhưng nhìn hai cháu quấn quít bên nhau như thế này, bác thấy thương quá. Bác như nhìn thấy lại hình ảnh ngày xưa của tụi bác, nên không còn kềm lòng được nữa, đành phải trút ra thôi. Tâm sự đã gần 20 chục năm rồi đấy.
Chi lên tiếng:
- Gần 20 năm… Thế mà bác chưa quên được.
- Thấy vậy chứ nhanh lắm, tưởng như mới ngày hôm qua thôi, cháu ạ.
Ngưng một chút rồi bác nói tiếp:
- Ngày đó tụi bác cũng như tụi cháu thôi, như hình với bóng vậy. Ôi thôi! Dệt biết bao nhiêu mộng đẹp, tính toán đủ thứ cho tương lai… Nhưng rồi đến ngày di cư năm 1954. Gia đình bác xuống tàu vào Nam, trong khi gia đình anh ấy cứ nấn ná cứ chần chờ mãi, cuối cùng kẹt lại. Thế là lạc mất nhau từ ngày đó. Sau này bác chẳng có tin tức thêm gì về anh ấy nữa.
- Sau năm 1954, miền Bắc và miền Nam vẫn có thể liên lạc với nhau qua bưu thiếp mà bác?
- Cháu Tùng nói phải, nhưng bưu thiếp cũng chẳng có luôn.
- Như vậy là hoàn toàn mất liên lạc… Còn bác trai thì như thế nào ạ? Bác gặp bác ấy bao lâu sau?
Bác Hà vỗ vai tôi:
- Bác và bác trai lập gia đình trong Nam. Bác ấy tử tế lắm, chẳng có gì để chê trách nhưng tình cảm con người nó lạ lắm. Bác sống với bác trai có lẽ nặng về nghĩa thôi, còn tình thì hình như vẫn dành cho người bạn bác ngày xưa. Bác trai mất đã gần 5 năm rồi, vậy mà bác vẫn ngại nói ra tâm sự của mình đấy… Nhưng hai cháu là đặc biệt, bác có cảm nhận như thế.
Chi giọng đầy cảm xúc:
- Nghe kể mà cháu thấy thương bác quá.
Bác cười buồn nhìn Chi:
- Chuyện như vậy nên có dám kể cho ai bao giờ đâu. Hai cháu là duy nhất đấy. Nhớ đừng kể cho ai nhé.
Giọng tôi chắc nịch:
- Cháu hứa. Cám ơn bác đã tâm sư cùng chúng cháu.
- Hai cháu cố gắng gìn giữ cho nhau nhé. Đừng để giống bác…
Dứt lời, bác Hà nhìn tôi và Chi thật lâu. Tôi thấy mắt bác long lanh và cả Chi nữa, mắt nàng dường như vương chút ngấn lệ. Tôi suy nghĩ rất nhiều về điều này. Chẳng lẽ cả hai người nữ khả ái này đều có linh tính thấy một sự chẳng lành?
oOo oOo oOo
Rồi đến ngày xem kết quả. Tôi đậu nhưng Chi, Hường và nhiều người bạn khác trong lớp... rớt! Tôi cũng làm bộ an ủi Chi nhưng trong lòng khoái chí lắm, vì có gì sung sướng hơn khi mình đậu mà nàng rớt! Tôi chợt thấy tội nghiệp cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên: "Ta hỏng Tú Tài ta hụt tình yêu!"… Tôi suy nghĩ không sai. Sau khi tôi thi đậu Tú Tài 2, Chi dễ thương cực kỳ và chiều chuộng tôi thấy rõ.
Tôi vẫn nhớ rất rõ ràng lần chúng tôi gặp lại sau ngày có kết quả. Hôm ấy chúng tôi đến ăn sáng tại một cái quán ở cư xá Lữ Gia. Đây là một căn nhà bình thường nhưng có sân xi măng rất rộng, dưới bóng cây mát mẻ. Chủ nhà biến nơi này thành một cái quán bán thức ăn và nước uống. Chi là người khám phá ra, còn tôi chỉ là một kẻ ngoan ngoãn theo đúng tinh thần “nàng bảo đi đâu thì đi đó”. Quán không đông nên trò chuyện rất thoải mái, do vậy ngoài Trần Quý Cáp tụi tôi cũng thỉnh thoảng đến đây ăn và uống nước.
Sau khi an tọa tôi mới thảnh thơi quan sát cô bạn. Nàng xinh tươi quá trong tà áo dài hồng, màu áo tôi ưa thích. Tôi không rành về cách trang điểm của phái nữ, khi ấy tôi chỉ thấy khuôn mặt nàng sáng hơn, cặp mắt đen và gợi cảm hơn và nhất là đôi môi mọng ướt, thật khiêu gợi. Tôi nhìn đăm đăm, và thật tình chỉ muốn cắn nhè nhẹ lên đôi môi nàng rồi ra sao thì ra! Chi như hiểu ý, nàng ngượng ngùng nguýt tôi:
- Làm gì mà dòm người ta lom lom vậy. Bộ có dính lọ nghẹ hả?
- Không, Chi xinh quá. Không nịnh đâu.
- Cám ơn nghe. Còn gì nữa không?
Tôi chợt chú ý đến đôi hàng mi nàng:
- Trên lông mi của Chi có dính cái gì đen đen vậy? Có cần Tùng phủi cho không?
Nàng nghiêng đầu làm duyên và cười cười "mắng yêu":
- Thuốc để chải lông mi cho nó cong đó... Đúng là con trai, chẳng biết gì hết à!
Tôi nhìn kỹ thì thấy hai hàng lông mi của nàng hôm ấy đẹp thật, đen tuyền và cong vút, trông rất gợi cảm. Tôi bèn đi ngay một màn nịnh đầm:
- Ừ trông đẹp thiệt. Hôm nay thấy Chi đẹp lắm, đẹp hơn mọi ngày nhưng nãy giờ chẳng biết vì sao… À, thì ra là thế. Cặp mắt như thế này mà…
Vẻ mặt trông “hả hê” thấy rõ, nhưng cô nàng vẫn giả vờ:
- Thôi được rồi cám ơn. Hết tiền lẻ rồi.
- Ủa, mà Chi làm sao hay vậy?
- Hỏi làm chi? Đàn ông con trai mà tò mò tọc mạch.
Nàng dành cho tôi một cái liếc rất duyên dáng. Cái liếc càng làm cho đôi mắt nàng trông đáng yêu hơn nữa. Rồi nàng cười:
- Đây chỉ là bài học vỡ lòng thôi. Từ từ rồi Chi dạy thêm cho, nhiều lắm, học cả đời cũng chẳng hết.
- Sung sướng quá, được làm học trò cô giáo Chi.
- Không sướng đâu. Học dở là cho quỳ gối đó.
Tôi lém lỉnh:
- Được “quỳ gối” nữa hả. Đã quá! “Quỳ” cả đời cũng không sao.
Chi ửng hồng đôi má:
- Quỳ thật đó, chứ không phải quỳ theo kiểu đen tối như Tùng nghĩ đâu. Thiệt đúng là đồ quỷ mà!
Tôi cười ha hả trong khi nàng liên tục nhéo tôi thật đau. Ngưng một chút để uống nước rồi tôi nghe tiếng Chi nũng nịu:
- Sau này có con rồi Tùng vẫn muốn Chi mặc áo dài hả?
- Đương nhiên. Mặc suốt đời.
- Con cái đùm đề như thế mà…
- Thì Tùng bế.
- Còn tã, còn sữa?
- Thì Tùng mang.
- Chi chỉ lo mặc áo dài để làm kiểng… để Tùng ngắm thôi hả?
- Đúng thế.
- Hứ!
Chi vừa cười vừa tựa đầu vào vai tôi. Lần đầu tiên nghe người bạn gái bàn chuyện xây dựng tương lai, tôi không khỏi thấy xao xuyến và trong lòng tràn đầy hạnh phúc. Trong bầu không khí chan hòa yêu thương như thế, tôi hỏi nàng:
- Mấy đứa bạn nói rạp Mini Rex đang chiếu phim “Summer of 42” hay lắm. Hôm nào tụi mình đi nghe.
- Ừ phim đó hay lắm. Mới thi xong Chi cũng muốn giải trí một chút. Hay trưa mai mình đi. Tùng có kẹt gì không?
- Không. Trưa mai 1 giờ nghe?
Nàng khẽ gật đầu. Tôi vừa sung sướng vừa ngạc nhiên vì không ngờ nàng chấp nhận một cách dễ dãi như thế. Trước đó tôi đã năm lần bảy lượt mời nàng đi xi nê nhưng đều bị từ chối.
Mini Rex là một rạp xi nê nhỏ tại trung tâm Sài Gòn, bên cạnh rạp Rex. Tuy nhỏ nhưng mới và ấm cúng, rất thích hợp cho các cặp tình nhân. Cuốn phim thật hay nhưng đặc biêt hơn cả… Buổi trưa hôm đó trong rạp xi nê, lần đầu tiên tôi được nàng... cho hôn, và cũng lần đầu tiên tôi được ôm nàng một cách trọn vẹn cùng tận hưởng mùi hương tóc của nàng. Phải chăng đây là “phần thưởng” mà nàng dành cho tôi như đã hứa trước ngày thi?
oOo oOo oOo
Khoảng 1 tháng sau, Chi, Hường, Thủy, Hòa, Bích Thảo, Liệu, Nam, Hoàng, Ngọt, Hạnh cùng nhiều người bạn khác trong lớp tôi cũng đều đậu trong kỳ thi Tú Tài 2, khóa 2 năm ấy (1973). Và tất cả chúng tôi đều tiếp tục học lên đại học. Tôi học Đại Học Khoa Học. Chi theo Đại Học Văn Khoa. Hường, Thủy, Hòa, Bích Thảo, Ngọt, Liệu, Nam, Hoàng, Hạnh lại chọn Đại Học Luật Khoa.
Lên đại học rồi tôi và Chi vẫn tiếp tục chơi với nhau. Có lần nàng rủ tôi đến xem văn nghệ bỏ túi tại câu lạc bộ của Đại Học Văn Khoa. Câu lạc bộ này trông cũ và rất tầm thường nhưng ca sĩ thì toàn thứ thiệt, nghe nói Khánh Ly, Trịnh Công Sơn cũng đã từng đến hát ở đó.
Hôm ấy có Hải Lý và Từ Dung & Từ Công Phụng. Hải Lý để tóc tém, mặc áo dài vàng với cổ áo kiểu bà Ngô Đình Nhu, dĩ nhiên rất trẻ và đẹp. Từ Dung cũng để tóc dài như Khánh Ly và Lê Uyên (nhưng khác kiểu), và mặc áo dài hoa màu hồng. Từ Dung đẹp lắm, duyên dáng và hát hay nữa. Nữ ca sĩ thời đó có cái dễ thương là khi đi trình diễn luôn luôn mặc áo dài. Từ Công Phụng mặc áo sơ mi dài tay, cài khuy măng sét hẳn hoi và thắt cà vạt, trông rất lịch sự.
Tôi và Chi vừa thưởng thức các màn trình diễn vừa cùng nhau bàn luận thật vui. Tôi bảo nàng:
- Từ Công Phụng trông trí thức quá. Hình như ông tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh.
- Không phải đâu Tùng ơi. Từ Công Phụng học Đại Học Luật Khoa và có bằng Cử Nhân Luật đó.
- Vậy hả?
- Ừ, ông không học Quốc Gia Hành Chánh bao giờ đâu. Tùng lầm rồi đó.
- Chắc Tùng lầm thật. Nhưng trường nào thì cũng đều là đại học cả và như vậy mới xứng với Từ Dung chứ. Từ Dung xinh ghê Chi hở?
- Chứ sao? Đã từng đoạt giải Á Hậu, người đẹp nổi tiếng mà. Từ Dung còn là con gái Hoàng Đạo đó. Tùng biết không?
Tôi ngạc nhiên:
- Ủa vậy sao? Hoàng Đạo trong Tự Lực Văn Đoàn và là tác giả truyện “Con Đường Sáng”.
- Đúng rồi. Truyện này của ông có trong chương trình Giảng Văn luôn đó.
- Ngày xưa khi đọc truyện Con Đường Sáng của ông Hoàng Đạo, thằng nào trong lớp Tùng cũng mơ được là anh chàng Duy trong truyện…
Chi cười khanh khách:
- Còn đám con gái trong lớp Chi lại muốn làm cô Thơ.
- Vậy sao? Vui quá! Bây giờ Tùng mới biết đó.
Tôi và nàng cùng cười một cách rất hồn nhiên. Buổi xem văn nghệ hôm đó thật vui. Có thể nói là một đêm vui nhớ đời.
Đêm văn nghệ thật tuyệt vời nhưng ai đâu ngờ… chỉ sau đó ít tháng chuyện tình hai đứa tôi bị đứt đoạn… Nguyên do cũng vì sự nông nổi của tôi…
Như đã nói. Thời còn học Nguyễn Công Trứ, Chi rất khép kín, không bao giờ nói chuyện với đám con trai trong lớp. Vậy mà sau này trên đại đọc nàng quen rất rộng, rất thường khi tôi thấy nàng đứng nói chuyện với cả đám con trai trong trường. Khi tôi đến đón nàng tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp cũng như thế. Tôi cảm thấy không vui. Tôi không muốn nàng thay đổi. Nếu nàng giao thiệp một cách rộng rãi như vậy thì nàng không còn là Chi của tôi nữa. Tôi nó lên sự phiền muộn của tôi thì nàng phật ý. Tôi vẫn nhớ như in buổi tối hôm ấy trong sân trường Đại Học Văn Khoa. Sau một màn tranh luận gay gắt về vấn đề này, nàng giận dữ:
- Ừa tui như vậy đó. Chịu thì chịu không chịu thì thôi!
Tôi không chút nhượng bộ:
- Nếu vậy thì thôi. Đường ai nấy đi.
- Càng tốt! Tui đâu có cần.
Tôi hùng hổ bỏ đi và nàng cũng thế. Từ đêm hôm đó tôi và Chi không còn gặp nhau thêm lần nào nữa…
Bình tâm suy xét thì chuyện đáng tiếc này xảy ra 100% do lỗi nơi tôi, do sự ấu trĩ của tôi… Với thời gian tất cả đều thay đổi, ngay chính bản thân tôi cũng vậy. Thế nên tôi đâu thể bắt Chi phải mãi mãi như ngày xưa. Tôi phải phải chấp nhận sự thay đổi, và suy nghĩ một cách phóng khoáng: “Nàng có nhiều bạn khác phái cũng có sao đâu, miễn sao tôi vẫn là người yêu duy nhất, vẫn là số 1 trong tim nàng là đủ rồi”. Cách suy nghĩ như vậy mới là kẻ cả, mới là đàn ông. Nếu khi ấy tôi chịu suy nghĩ thoáng như thế thì không những tôi không mất Chi, mà biết đâu chừng còn được nàng thương, được nàng nể nang thêm nữa. Giá vài ngày sau tôi được soi sáng, biết mình có lỗi thì vẫn còn kịp, vì bạn nàng tôi quen biết khá nhiều và chắc chắc họ sẽ sẵn lòng làm nhịp cầu nối hàn gắn cho tôi và nàng. Nhưng sự thể đã không bao giờ diễn tiến như thế…
oOo oOo oOo
Sau này tôi qua Úc định cư, còn Chi trôi dạt phương nào tôi cũng không biết. Tôi không có được chút tin tức gì về nàng từ sau ngày uyên ương gãy cánh đó. Gặp lại nàng thì chưa bao giờ, nhưng hình ảnh đôi mắt long lanh của bác Hà và đôi mắt sũng nước của Chi trong lần gặp gỡ tại nhà tôi năm xưa vẫn rất rõ nét trong tâm trí tôi. Dường như đàn bà con gái có trực giác rất bén nhạy, nó báo trước một chuyện chẳng lành mà mãi sau này mới ứng nghiệm…
Có lần Từ Công Phụng sang Úc trình diễn. Ông đi cùng bà vợ mới. Trong giờ giải lao, khi hai vợ chồng ông đứng nói chuyện với khán giả, tôi lặng lẽ quan sát. Bà vợ sau của ông không phải là ca sĩ, trông cũng hiền lành, nhưng sao tôi vẫn thích hình ảnh Từ Dung đi bên cạnh Từ Công Phụng hơn. Tôi rất tiếc, và cũng rất thắc mắc không hiểu tại sao đôi uyên ương mà tôi vô cùng hâm mộ này lại nửa đường gãy gánh. Giây phút ấy tôi không khỏi chạnh lòng nhớ đến Chi, đến buổi tối xem văn nghệ tại câu lạc bộ của Đại Học Văn Khoa năm xưa, khi Từ Dung, Từ Công Phụng, Chi và tôi đều còn rất trẻ… Và ao ước có nàng bên cạnh để giải đáp hộ tôi những thắc mắc về người nghệ sĩ đang đứng trước mặt.
Hiện tại nàng ra sao? Có còn trên đời hay đã đi vào miên viễn? Tôi hoàn toàn không biết. Tôi chỉ biết một điều... Mùa xuân năm ấy đã xa lắm rồi, đã hơn 40 năm nhưng dư âm và hương vị sao vẫn còn rất rõ nét trong tôi. Và tôi vẫn cảm thấy mình còn thiếu nàng một món nợ… một lời tạ lỗi chân thành từ tận đáy lòng tôi. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được những ngày xuân đó và... Chi, người con gái đã đến với tôi, cho tôi những giây phút thật thân ái, thật ngọt ngào vào thuở đầu đời...
Chi, một người con gái rất yêu văn chương và nghệ thuật... Và cũng rất đáng yêu nữa...

Tôi đi tìm lại một mùa xuân
Mùa xuân xưa cũ qua mất rồi
Mùa xuân đã rơi vào dĩ vãng
Mà xuân nay vẫn còn dư hương
Tôi đi tìm lại một mùa xuân
Người xưa không biết lạc phương nào
Không biết khi xuân về trên áo
Màu xanh năm đó còn xanh không?...


(Tôi Đi Tìm Lại Một Mùa Xuân - Đoàn Nguyên)

Trịnh Sơn Tùng (Tung Trinh)
Sydney - 04 tháng 02, 2014

* Dung và Phụng là 2 nhân vật nữ trong truyện ngắn “Người Tình Trưng Vương”, mà tôi đã đưa lên Facebook TH Hồ Ngọc Cẩn GĐ ngày 07/07/2023 và Facebook Tung Trinh ngày 10/07/203. Thân mời các bạn xem lại.

CHÚ THÍCH

“Mùa Xuân Năm Ấy” đã được chọn đăng trong số báo Chiêu Dương xuân Bính Thân 2016 (phát hành tại Úc), và đây là 2 hình chụp MXNA và báo CD.

User avatar
MatVit
Posts: 832
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Re: Cà Phê...Vịt

Post by MatVit »


Chuyện của TÌNH
Số phần nghiệt ngã của một dân tộc đang cúi đầu sùng bái một bọn thú vật
Nguyễn Hữu Huấn

Đây không phải là một câu chuyện yêu đương tình ái hoa lá cành, lại càng không phải là câu chuyện liêu trai mơ hồ huyền ảo vô thực hay chuyện tình ái kiểu „ngàn lẻ một đêm“. Không ! Đây là câu chuyện của một sĩ quan đảng viên trong quân đội miền Bắc được gởi vào Nam sau khi miền Nam VN bị CS miền Bắc cưỡng chiếm vào tháng 4 năm 1975.

Tháng 3 năm 1975 tôi bị VC bắt làm tù binh tại phi trường Đà Nẵng và được phóng thích vào cuối năm 1978. Không nghề không nghiệp, chẳng biết tương lai ra sao. Đi đâu cũng nghe bàn tán chuyện vượt biên bằng thuyền. Bạn bè cho biết ngoài Vũng Tàu có nhiều công ty xây dựng đang tuyển công nhân. Như cá gặp nước, tôi vội chạy ra đó xin việc và được nhận ngay với chức…“culi“, được làm chủ chiếc xe một bánh với hai tay cầm mà người ta thường gọi là „xe rùa“ hay „xe cút kít“ dùng để chuyên chở các vật liệu xây dựng như vôi, vữa, xà bần, gạch, đá…Công ty do anh TQK làm giám đốc, dân Mỹ Tho, sảng khoái, chịu chơi, thích nhậu nhẹt với đám „cu li“, các sĩ quan QL/VNCH nào ở tù mới về là anh nhận vào làm „cu li“ hết, không cần biết tông ti lý lịch. Công việc tuy cực nhọc nhưng tinh thần thì thoải mái vì chung quanh đều là đồng đội khi xưa từ nhiều binh chủng khác nhau mà hầu hết ra đây đều là đi tìm đường vượt biên, nhưng chẳng ai dám nói cho nhau nghe. Chính nơi này tôi gặp lại ông bạn „cu li“ lớn tuổi Huỳnh.T, Thiếu úy trong Tổng Cục Tiếp Vận VNCH, „cu li“ Trung úy Lê Văn H., đại đội phó Thủy Quân Lục Chiến và „cu li“ Thiếu úy Trần Bá H., trung đội trưởng Nhảy Dù. Cả ba hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ

Vũng Tàu vào cuối thập niên 70 qua đầu thập niên 80 thật nhộn nhịp với rất đông công nhân làm việc như một phong trào thi đua xây dựng lại thành phố, nhà ở, để chuẩn bị đón tiếp đám chuyên gia dầu khí Liên Xô và các nước CS Đông Âu sang VN khai thác dầu hỏa. Đây chính là quốc sách ưu tiên hàng đầu vào thời đó. Chính đích thân Đỗ Mười, lúc đó là phó thủ tướng kiêm phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng sau khi thị sát Vũng Tàu đã quyết định cấp toàn bộ khu khách sạn Lam Sơn cho xí ngiệp liên doanh Việt-Liên Xô mang tên Vietsovpetro thuộc Tổng Cục Du Lich VN toàn quyền xử dụng, Thêm vào đó, một số khách sạn và biệt thự tại Vũng Tàu từ trước năm 1975 bị CS tịch thu đều do công ty này tiếp nhận để sửa chữa. Khách sạn Thắng Lợi đường Lê Lai (bãi trước) là đại bản doanh của công ty Vietsovpetro và cũng là nơi cư ngụ của các kỹ sư Liên Xô và Đông Âu, cùng với gần 100 cán bộ xây dựng và an ninh từ miền Bắc, nhưng tất cả đều không có một chút kinh nghiệm gì trong lãnh vực đối ngoại, du lịch và xây dựng. Do đó chúng phải cần đến các công ty xây dựng của miền Nam từ trước năm 1975 giúp đỡ. Công ty của anh TQK (nơi tôi làm cu li) là một trong nhiều công ty từ Sài Gòn và Biên Hòa. Tất cả để đều nằm dưới sự chỉ đạo và kiểm soát an ninh bởi bọn cán bộ CS miền Bắc. Gần khách sạn Thắng Lợi có một khu đất trống được dành riêng cho đám công nhân „cu li“ buôn bán, ăn uống từ sáng đến tối. Đông nhất là mỗi buổi sáng có hàng trăm „cu li“ ngồi uống cà phê ăn sáng trước khi đi làm. Bọn cán bộ CS cũng thường xuyên gia nhập đông đảo thưởng thức cà phê „cái nồi ngồi trên cái cốc“ hay ly trà đá mát rượi. Chúng lân la gợi chuyện với đám „cu li“, ra vẻ hòa đồng thân thiện nhưng để kiểm soát rình rập theo dõi.

Ngày nọ, một thanh niên quần áo chỉnh tề, đầu đội nón cối, chân đi dép râu, vai đeo lủng lẳng cái cặp da bộ đội đã bạc màu dành riêng cho các sĩ quan bộ đội miền Bắc, ngồi xà xuống bàn còn ghế trống mà chúng tôi đang ngồi uống cà phê. Anh ta hỏi thăm đủ chuyện trên trời dưới đất, rất tự nhiên và cởi mở, khoe mới vào Nam được mấy tháng và hiện là quản đốc toàn bộ công trường thi công Vũng Tàu. Vừa lúc đó, anh TQK (ông chủ của tôi) đi ngang qua, thấy ông cán bộ liền vội cười toe toét „chào sếp“, tay kéo ghế, miệng kêu ly cà phê rồi ngồi chung bàn. Anh chỉ bọn tôi giới thiệu là nhân công của anh và dành bao hết cả bàn. Trước khi chia tay anh nói nhỏ với chúng tôi rằng: „Tên này là cán bộ thứ dữ đó, coi chừng mồm miệng nghe mấy cha nội“. Mấy ngày sau tôi đang phờ râu khệ nệ đẩy „xe cút kít“ đi đổ xà bần thì gặp lại anh chàng „cán bộ thứ dữ“ đang lững thững đi trên đường. Vẫn là vài câu xã giao cho xong chuyện. Vẫn ngày ngày không hẹn mà gặp, lại chuyện „xe cán chó, chó cán xe“ bên ly cà phê với tô cháo hột vịt hay ổ bánh mì trong khu chợ công nhân. Ngày tháng cứ thế trôi qua, việc ai người nấy làm, hồn ai người nấy giữ trong khoảng đất trống nhỏ nhưng đông người. Từ đó, tình cảm con người bỗng trở nên thân thiết và cởi mở hơn lúc ban đầu. Chàng „cán bộ thứ dữ“ thỉnh thoảng dúi vào tay tôi vài ba bao thuốc lá Thăng Long, loại thuốc lá chỉ dành riêng cho các quan chức, cán bộ cao cấp trong cái gọi là „thời bao cấp“ lúc bấy giờ: „Tớ tặng cậu đấy, đừng để người ta thấy nhé“. Tôi hơi chới với, không phải vì mấy bao thuốc lá, mà vì hai chữ „cậu cậu tớ tớ“ giữa hai thằng đàn ông nghe lạ tai quá, nhão nhoẹt như tô đậu hũ thiu và có vẻ…đàn bà, mặc dù chính tôi cũng là thằng Bắc kỳ lớn lên trong Nam. Thôi kệ ! cứ „cậu cậu tớ tớ“ để khỏi phải rít ống thuốc lào Lạng Sơn. Thằng Bắc kỳ 54 „cậu cậu tớ tớ“ với thằng Bắc kỳ 75 thì có chết thằng Tây nào đâu, miễn sao đạt được mục đích của mình, biết đâu đây là „cái dù che thân“ lợi dụng được chăng ? Thời gian này tìm được „cái dù“ để “dựa hơi mà sống“ chẳng phải dễ, ai mà chẳng ham ! Vượt biên là trên hết !



Tớ tên Nguyễn Văn Tình, gốc Hải Phòng, có vợ được 1 con đang sinh sống ngoài Hà Nội. Còn cậu trước khi vào Nam ở đâu, làm gì ?
Quê tớ cũng Hải Phòng. Năm 54 theo bố mẹ chui vào tàu há mồm vào Nam, sống tại Sài Gòn, đi lính Không Quân/VNCH đóng tại phi trường Đà Nẵng, bị bắt làm tù binh, mới được thả về.
Ấy ấy! bọn tớ tiếp thu phi trường Đà Nẵng đấy, đầy đủ tiện nghi, to đùng như cái mặt trăng.
Thật không ? Cậu cũng là lính Không Quân miền Bắc hả ?
Ừ! Lúc đó tớ là trung úy của lữ đoàn Công binh 28 thuộc quân chủng phòng không không quân vào tiếp thu phi trường Đà Nẵng do lính sư đoàn 2, quân khu 5 mới chiếm được. Vào đây mới thấy lính tàu bay trong Nam của các cậu làm việc trong phi trường sướng quá, nhiều văn phòng còn có cả máy lạnh mát rợi…
Vậy sao các cậu cứ lải nhải bảo là „phồn vinh giả tạo“, giờ sáng mắt rồi hả ?



Thú thật, lúc này tim tôi như bị thắt lại, nuốt hận thù vào bụng, nhìn thẳng vào mắt thằng Bắc kỳ 75 ngồi đối diện, thấy nó vẫn bình thản tỉnh bơ, không xúc động, không lộ vẻ kiêu căng của „bên thắng cuộc“. Tôi hỏi tiếp:



Cậu bên quân đội sao bây giờ lại làm trong công ty du lịch dầu khí này ?
Sau khi thống nhất đất nước tớ được „phục viên“ và thuyên chuyển vào đây cùng với các cán bộ kỹ thuật để khai thác dầu khí và các dịch vụ khách sạn, cửa hàng, nhà ở cho các chuyên viên Liên Xô và Đông Âu. Hôm nào tiện, tớ dẫn cậu về nhà tớ „tham quan“. Thật tình lúc đó tôi chẳng hiểu „tham quan“ nghĩa là gì ? Nghe sao lơ lớ như tiếng Tàu pha tiếng Miên. Tình giải thích „tham“ là tham gia, tham dự, „quan“ là quan sát, là nhìn, là xem… À ra thế, tiếng Bắc của miền Bắc ta „sáng tạo tuyệt vời, đỉnh cao trí tuệ“. Tôi chả lả :
Mới vào Nam mấy tháng mà cậu đã mua nhà ở đây rồi hả ?
Làm gì có tiền mà mua, nếu có tiền mà mua cũng chẳng ai cho mua đâu. Nhà nước cấp cho đấy, nhà to đùng như cái „Vi La của Tây“ ấy, nghe họ bảo đây là nhà của ông tá ông tướng nào đó đã chay ra nước ngoài.



Cái „Vi La“ của Tình „bự bành ki“ thật, đầy đủ tiện nghi bàn ghế tủ giường, cây lá xum xuê vây quanh, có hồ bơi phủ là rong rêu, mấy cái máy lạnh bắt đầu sét rỉ vì từ lâu không xử dụng. Tôi hỏi Tình sao không mang vợ con vào đây cho sướng thân, Tình bảo:



Mang thấy quái nào được, chịu vậy thôi. Nghĩ mà thương cho vợ con tớ phải sống chui rúc trong „nhà tập thể Kim Liên“ ngoài Hà Nội, mỗi hộ khoảng 30m2, cứ 4 hộ thì dùng chung 1 bếp và 1 cầu tiêu. Hộ bên cạnh nhà tớ của ông công an còn nuôi cả heo nữa đấy, mùi cứt heo quanh năm… Thời bao cấp mà !
Trời ! nghe sao ghê quá vậy ! Cậu là „cán bộ thứ dữ“ mà ?
Thì cán bộ mới được hưởng như thế đó, dân thường còn bi đát hơn nhiều. Cái ý tưởng xây các khu nhà tập thể này là do ông Hồ khi qua thăm nước Triều Tiên thấy bên đó có các khu tập thể như vậy, nên đề nghị Triều Tiên qua hỗ trợ xây dựng đấy.
Tớ cứ tưởng ngoài Bắc đâu đến nỗi tệ như thế ?
„Thời bao cấp“ mà cậu. Cái ở còn như thế, cái ăn, cái mặc càng tệ hơn nhiều. Lương thực, thjt thà, cá mắm muối gạo, vải vóc, tiện nghi…đều do nhà nước quản lý và cung cấp theo chế độ tem phiếu. Tớ là cán bộ mỗi tháng được mua 13 ký gạo, thịt lợn 3 lạng, dầu hỏa 4 lít. Mà gạo là gạo „bảy nổi ba chìm“ chứ ngon lành gì ? Còn vải thì 5 mét một năm, mà chỉ toàn một màu xam xám.
Tớ không hiểu cậu nói gạo „bảy nổi ba chìm“ là gạo gì ?
Này nhé, khi vo gạo thì 7 phần là gạo mọt, gạo mối nên nó nổi lều bều, còn lại chỉ có 3 phần là gạo nấu cơm được thôi. Ấy là gạo còn độn khoai độn sắn nữa đấy. Nói chung là cái gì cũng hiếm, cái gì cũng thiếu suốt.
À ra thế. Miền Bắc các cậu đói nghèo như thế nên lôi cả thơ „cái bánh trôi nước“ của bà Hồ Xuân Hương ra mà ngâm cho đỡ đói…


Tình đứng lên vừa với tập sách cũ kỹ trên tủ, vừa cười vừa nói :

Tớ đọc cho cậu nghe một bài thơ châm biếm ngoài Bắc người ta thường truyền tai nhau như thế này nhé : Một yêu anh có may ô (áo lót) / Hai yêu anh có cá khô để dành / Ba yêu rửa mặt bằng khăn / Bốn yêu bàn chải đánh răng hàng ngày / Năm yêu anh có đôi giầy / Sáu yêu anh có khăn quàng vắt vai / Bảy yêu có sẵn gạc nai (sừng con nai để nấu thành cao bồi bổ sức khỏe) / Tám yêu nước mắm cả chai ăn dần / Chín yêu anh rất chuyên cần / Mười yêu anh chỉ để phần cho em.
Hay quá, chắc cậu đọc bài thơ này khoe cậu có „cái gạc nai“ nên mới lấy được bà vợ bây giờ hả ?



Tình cởi mở thật thà như thế và tôi dần dần cảm nhận trong Tình có cái gì khác lạ, có cái gì đong đưa so sánh pha lẫn chút uẩn ức chán chường mà không dám nói ra. Tuy thế tôi vẫn phải „đề cao cảnh giác“ vì đen trắng vẫn còn lẫn lộn. Tôi rủ Tình về Sài Gòn chơi, tiện thể ghé nhà thăm bố mẹ. Tình hớn hở nhận lời ngay. Tôi định mua vé xe đò thì Tình bảo „tớ có một con Honda“ do cơ quan cấp. Tôi hỏi sao không phải xe hơi. Tình bảo có chứ, nhưng đi Sài Gòn bằng „xe con“ lúc về phải làm „bản tường trình“ cho cơ quan, ấy là chưa kể „đồng chí lái xe con“ lại „ba hoa chích chòe“ thì phiền phức bỏ mẹ. Tôi giới thiệu ông „cán bộ thứ dữ“ họ Nguyễn tên Tình cho bố tôi. Bố tôi tiếp Tình bằng tách nước chè (trà) với đĩa kẹo lạc (kẹo đậu phụng) nhâm nhi gợi chuyện. Tôi khoe với bố, Tình là quản đốc cả công trường xây dựng Vũng Tàu, quyền hành bao la. Không biết có thật hay không mà bố tôi nói với Tình rằng tên công an phường nhà tôi cũng quê Hải Phòng, rồi viện cớ cùng quê, cùng làng, gởi gấm tôi cho Tình mong giúp đỡ. Tình nói coi bố tôi như bố mình, rồi biếu bố tôi một bao thuốc hàng ngoại 555 mới tinh và gói chè Tân Cương/Thái Nguyên trong gói giấy nhăn nheo vàng úa, khoe rằng chè Tân Cương quý nhất miền Bắc, trị bách bệnh, ổn định huyết áp, kéo dài tuổi thọ. Bố tôi vừa cười vừa nói „Cậu rủa tôi chết sớm hay sao vậy hả ?“. Ông lên gác bê xuống một thùng đồ bà cô tôi từ Mỹ mới gởi về, lôi ra tặng Tình 1 bánh xà phòng Dove thơm phức và 1 xấp vải nhung đen may áo dài. Tình lắc đầu không dám nhận. Bố tôi quát:

Cái này tôi cho vợ cậu chứ tôi thèm hối lộ cậu làm quái gì, đem về cho vợ đi.

Đang lúc Tình loay hoay dắt xe Honda nổ máy ra về, bố tôi kéo ngay tôi vào nhà bếp phía sau rồi nghiêm nghị bảo i: „Nếu khi nào thời thế đổi thay thì con nhớ phải tóm cổ thằng này đầu tiên nghe chưa!“. Tôi vâng vâng dạ dạ rồi leo ngay lên xe của Tình ra lại Vũng Tàu.



Trong thời gian này tôi âm thầm liên lạc được một mối vượt biên từ Bến Đá/Bà Rịa, nơi có làng chài Công Giáo Bắc Kỳ 54 rất lớn nằm cách không xa Chùa Thiếu Lâm với Thích Ca Phật Đài. Chủ ghe và cũng là người tổ chức lại là bố của người bạn học cũ từ những năm trung học, cũng là sĩ quan công binh ở tù mới về. Vì là bạn của con, bác thương tình cho tôi đi không lấy tiền, hẹn địa điểm, ngày giờ ra bến. Tôi báo tin vui cho bố mẹ và dĩ nhiên không cho Tình biết. Nào ngờ, ghe đang phom phom chưa ra đến cửa biển thì bị ghe của bọn công an biên phòng chiếu đèn pha chóa mắt, đụng rầm rầm ngang hông. Nước tràn vào ghe làm chao đảo như muốn chìm cùng với tiếng quát tháo la hét om trời trong đêm tối. Thế là già trẻ lớn bé trên dưới gần 100 mạng tay xách nách mang chui vào nhà tù Bà Rịa. Tôi nghĩ số mình đã tận, vừa thoát tù chưa lâu, bây giờ lại vào tù tiếp. Rõ chán ! Thôi thì phó mặc theo ý Trời.

Chưa đầy một tuần thì thằng công an cai tù tên Long gọi tôi lên làm…“giấy ra trại“. Tôi nghĩ mình nghe lầm nên cứ đứng tần ngần suy nghĩ. Thằng công an cai tù tên Long cầm một tờ giấy và cây bút quát tháo hối thúc tôi ký tên. Tôi chẳng thèm đọc, cúi xuống nguệch ngoạc ký vào, rồi bước vội ra cổng như sợ chúng đổi ý. Nhìn xa xa thấy có người đang khoác tay gọi. Lại gần chợt hết hồn vì thấy ông „cán bộ thứ dữ“ Nguyễn Văn Tình đứng chần dần ở đó. Tình chở tôi ra quán cà phê bên đường, mặt hầm hầm nói:

Cậu liều lĩnh quá, sao dám vượt biên trốn ra nước ngoài hả.
Sao cậu biết tớ vượt biên đang ở tù ?
Mấy hôm không thấy cậu đi làm, hỏi thăm loanh quanh có người nói chắc cậu đi vượt biên rồi, nhưng tớ đâu có tin. Tớ ra đồn công an Bà Rịa dò la thì họ cho biết cách đây mấy ngày bắt được một ghe vượt biên đang nhốt trong tù. Đọc trong danh sách thì thấy tên cậu nên tớ làm giấy bảo lãnh cậu ra, viện cớ là anh em họ, bị chúng nó dụ dỗ đi theo. Lần sau có đi thì báo cho tớ biết trước để tớ lo liệu nghe chưa ?


Tôi cám ơn Tình rối rít. Dù sao đây cũng là „cái ơn cứu nguy“ thoát nạn tù đầy. Hôm sau mọi việc vẫn như cũ, vẫn lái xe „cút kít“ đổ xà bần. Bạn bè hỏi thăm, tôi nói bị sốt rét chắc vì hậu quả hơn 3 năm đi tù trong rừng rậm miền Trung gần biên giới Lào. Chỉ thương ông sếp hãng thầu của tôi là anh TQK cứ tưởng thật, nên dúi vào tay tôi 10 viên thuốc „ký ninh“ bảo là thuốc trị sốt rét của bộ đội. Tôi mang về cho đứa em út bán chợ trời. Còn chuyện „Lần sau có đi thì báo cho tớ biết để tớ lo liệu“ như Tình nói thì „tùy cơ ứng biến“ … tính sau.



Từ lúc này tôi thật sự có cảm tình với ông „cán bộ thứ dữ“ tên Tình này và nẩy ra ý định tìm cách „đổi đời“ cho Tình.

Cậu lê lết cái đôi dép râu như thằng cán ngố trong rừng ra thành phố. Bụi bậm dán vào đầu ngón chân thấy mà khiếp, gái Sài Gòn chúng cười cho thối mũi. Cho cậu cái đôi „Bata“ vừa sạch vừa êm chân. Cho cậu cái „quần bò“ với cái áo T-Shirt hiệu „con cá sấu há mồm“ của Ba Tàu, thêm cả cặp „kính dâm“ vừa oai vừa lái xe Honda che bụi.

Tình soi gương ngắm nghía khen đẹp, nhưng lại cất hết vào tủ khóa lại nói: „Chỉ khi nào đi Sài Gòn thì tớ mới dám diện, còn đi làm thì vẫn phải ăn mặc bình thường“.

Một hôm rủ nhau ra biển dạo mát, nhìn Tình mặc cái „quần xà lỏn“ rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, thấy có cái gì lắc lư như cái chuông, thật buồn cười. Về nhà Tình vẫn mặc tiếp, vẫn „lòng thòng toòng teng“ đi khắp nhà. Mấy hôm sau tôi đưa cho Tình ba cái quần „xì líp“ hiệu „Jocky“ của Mỹ mua ở đường Ta Thu Thâu gần chợ Bến Thành, nơi mua và bán toàn đồ từ ngoại quốc gởi về. Tình bảo „quần gì mà lạ thế, tớ chưa thấy bao giờ“. Ép lắm thì Tình mới mặc thử cho tôi xem rồi lẩm bẩm:

Mặc vào nó sao sao ấy, ngượng quá, cân cấn cái gì như bị ai bóp, lại còn ngứa ngáy khó chịu hai bên háng nữa…


Một hôm Tình lộ vẻ đăm chiêu lo lắng nói với tôi:

Công ty tớ sắp đón một phái đoàn dầu khí từ LIên Xô và các nước Đông Âu, có cả Đức và Bỉ. Tớ được giao công tác tổ chức chiêu đãi, tiệc tùng…có cả nhảy đầm nữa. Tớ suy nghĩ mãi không biết phải làm sao ?
Thì cậu cứ nói thẳng ra đi, tớ giúp ý kiến gì được thì giúp cậu ngay
Mọi việc tớ thu xếp được, riêng cái …“khâu nhảy đầm“ thì tớ chẳng biết phải „chiêu đãi“ như thế nào đây ?
Có phải ý cậu là muốn tìm…vũ nữ nhảy với mấy thằng Tây phải không ?
Đúng vậy, cậu có biết ai, ở đâu không ?


Tôi mừng hết lớn, còn hơn con cá gặp nước. Đúng là có mối lớn đây rồi. Chuyện gì chứ chuyện này dễ như trở bàn tay. Ngày xưa các em vũ nữ phơi phới sang trọng lắm, nhưng kể từ khi „nón cối tai bèo, miệng vẩu, môi chì, răng bừa cào“ tiến vào Sài Gòn làm các em sợ phát thét, bỏ nghề đi lang thang kiếm sống như ong vỡ tổ, đứa thì ôm xe thuốc lá bán từng điếu bên đường, đứa thì gác chân bên nồi trà đá trong sân ga xe lửa Lê Lai, đứa may mắn hơn thì lăng xăng mua bán đồ mỹ phẩm…Tôi bảo Tình :

Tớ giúp cậu chuyện này, nhưng trong bao lâu ?
Chỉ 2 ngày cuối tuần tới thôi, mỗi tối chỉ nhảy với khách vài ba tiếng, không được ngủ lại đêm, giao tiếp văn hóa đứng đắn, có xe đưa đón đàng hoàng.


Chưa đến một ngày tôi đã tìm được em Nga đang ngồi bán bánh cuốn ở đầu ngõ hẻm chợ Ông Tạ. Kể lại cho nó biết chuyện. Vừa nghe cái tên „công ty du lịch dầu khí Vũng Tàu“ nó la lớn mừng quýnh như nhặt được vàng. Mừng là phải, thời đó 99% nhân viên trong Công ty Du Lịch Dầu Khí đều là cán bộ hay con cháu từ Bắc vào, dân miền Nam chỉ được mướn làm nhân công bình thường. Ai đời thời gian này lại được mời đi nhảy với nhót, mà lại nhảy với khách Tây trên lầu 5 khách sạn, tha hồ…“mánh mum“, tha hồ „dở ngón nghề“ lâu nay không xử dụng. Em Nga rủ thêm được gần chục đứa nữa. Mai, Lan, Cúc,Trúc…đủ tên các loài hoa, trừ …Hướng Dương và Loa Kèn.Tất cả hàng ngũ chỉnh tề theo lời tôi dặn dò đến một điểm hẹn ngay trung tâm Sài Gòn. Tình khôn như rắn, cũng không đi đón, phái một ông tài xế già lái xe 12 chỗ ngồi đến đón „các tiên cô“ trực chỉ Vũng Tàu. Các em vỗ tay đồng ca….“hò kéo pháo“.



Mấy ngày sau, „các tiên cô“ xúm lại quanh tôi ăn mừng „đại thành công, vạn vạn đại thành công“. Bọn LIên Xô, Tiệp Khắc, Hung, Bun gì gì đó…ngu như con bò, ngơ ngơ ngáo ngáo như con nai tơ, tụi em nói cái gì là cứ răm rắp như nghe lệnh bà, dễ thương thiệt anh Hai à. „Các tiên cô“ kể rằng, mỗi lần ra vào đều bị „bọn cán bộ cái“ rà soát bóp nắn từng đứa như lùng khủng bố. Thậm chí có mấy đứa còn khoe đã móc nối được mấy thằng Tiệp, thằng Hung nào đó, hứa tìm cách giúp trốn theo tàu buôn đi nước ngoài. Có thành công hay không đến giờ tôi cũng chẳng biết. Có điều lạ là mỗi đứa đều…“đền ơn“ tôi một món „chiến lợi phẩm“. Đứa thì 1 bao thuốc lá 555, đứa cái hộp quẹt gaz, thậm chí có đứa 1 tờ 5 đô la Mỹ. Tôi ngạc nhiên hỏi sao có thể qua lọt được „bọn cán bộ cái“, tất cả chỉ cười xòa nói ..“nghề của nàng“ mà anh Hai“. Còn ông „cán bộ thứ dữ“ họ Nguyễn tên Tình của tôi cũng tìm đến tôi cám ơn rối rít, khoe „chiêu đãi thành công, chan chứa tình hữu nghị“. Tôi tỉnh bơ, hỏi bao giờ tổ chức tiếp. Tình lắc đầu không biết, chờ lệnh trên.

Tối đó cậu có vớ được em nào nhảy không ?
Không được đâu, cấp trên tuyệt đối cấm chuyện này. Tớ chỉ đứng quan sát thôi. Mà từ nhỏ đến lớn bây giờ tớ mới nhìn người ta nhẩy đầm như thế nào.
Thích không ? Tớ dậy cậu nhảy nhá.
Thôi đi thôi đi, kỳ chết đi được ấy.



Cái „ngu“ lớn nhất và đứng đầu trong „4 cái ngu ở đời“ là „làm mai“ có lẽ không đúng với tôi trong lúc này. Thừa thắng xông lên, tôi rủ Tình về Sài Gòn giới thiệu con „Nga bánh cuốn“ làm „giáo viên nhảy“ cho cậu học trò Tình. Lần đầu gặp mặt, Tình ngồi bẽn lẽn cứng đơ như khúc gỗ, lắp bắp nói không nên lời. Con Nga láu cá quá, nó vừa cười vừa chọc Tình: „anh tên Tình, em tên Tang nè, tình tang đẹp đôi vừa lứa hén“. Tôi cười chảy nước mắt nhìn Tình tập nhảy điệu „xì lô“, hai chân chàng hảng ngọ ngọe như hai cái càng cua… Cũng từ đó Tình về Sài Gòn nhiều hơn, nhưng không bao giờ dám đưa con Nga ra Vũng Tàu. Có lần con Nga kể được Tinh dẫn vào Bến Nhà Rồng trong cảng Sài Gòn tham dự “Đêm liên hoan chiêu đãi các công ty tàu biển nước ngoài“. Chẳng hiểu ra sao mà nó làm quen được với một thằng thuyền trưởng tàu Ba Lan. Nó năn nỉ ỉ ôi thế nào mà thằng thuyền trưởng hứa sẽ tìm cách giúp nó trốn khỏi VIêt Nam. Vài ngày sau nó…“biệt tích kinh kỳ“. Mãi đến gần 10 năm sau con Nga từ bên Hòa Lan liên lạc được với tôi kể lể vắn tắt như sau:

Thằng thuyền trưởng tên là „Bạc Tô Mi“ dấu em trong phòng của nó chở đến „Xing Ga Po“ nhưng bị đuổi. Nó liên lạc sao đó đưa em qua một tàu của Hòa Lan. Tàu Hòa Lan lại đưa em vào đảo Palawan của Phi Luật Tân, sau đó được định cư tại Hòa Lan. Má em hay tin vui quá…không bán bánh cuốn nữa.


Tôi cũng vui lây.Tháng 6 năm 1911 có một ông tên là Nguyễn Tất Thành xuống tàu tại Bến Nhà Rồng làm „culi“, đi tìm đường làm „cách mạng vô sản“. Gần 70 năm sau cũng tháng 6, có con nhỏ tên „Nga bánh cuốn“ cũng xuống tàu tại Bến Nhà Rồng làm „thuyền nhân“, chạy trốn „cách mạng vô sản“ đi tìm đường đến bến bờ Tự Do…. Ngộ quá !



Tôi lại có mối vượt biên, lần này rủ Tình cùng đi, bảo sẽ không đi từ Vũng Tàu mà từ bến phà Tân Thanh, Cần Giuộc. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ Tình bảo:

Tớ muốn đi lắm chứ nhưng không dám đâu, vợ con tớ vẫn còn ngoài Hà Nội
Thì cứ đi đi, sau này qua đó bảo lãnh vợ con sang
Không được đâu cậu ơi. Cậu qua bên đó chắc sẽ được trọng dụng, còn tớ qua đó họ trả thù giết tớ chết mất.
Ba láp nào, làm gì có chuyện đó mà lo
Tớ mà đi, vợ con tớ còn
ở lại chúng nó hành hạ chết mất thôi. Thôi chúc cậu đi bình yên may mắn nhé. Qua được bên đó thì báo cho tớ biết


Ngày chia tay, Tình dúi cho tôi 1 ký đường thẻ màu vàng, 1 nhúm thuốc say sóng và 1 tờ giấy ghi địa chỉ của Tình tại Hà Nội, Tôi được hạm đội Mỹ vớt rồi được định cư tại Tampa, Florida và thường xuyên gởi quà về „nhà tập thể Kim Liên“ cho vợ chồng Tình. Hơn một năm sau thì hoàn toàn mất liên lạc với Tình. Thời gian cứ thế trôi qua, tôi vật lộn với „tiệm Neo“ làm kế sinh nhai nơi xứ người và hình ảnh lẫn dĩ vãng cùng với ông „cán bộ thứ dữ“ hoàn toàn biến mất trong tâm trí.



Một hôm đang ngồi ăn phở trong quán „Phở Quyền“ ngoài phố, nghe bàn bên cạnh có mấy ông Bắc Kỳ 75 đang huyên thuyên trò truyện có nhắc đến „nhà tập thể Kim Liên“, Tôi chợt nhớ đến Tình, nên tò mò xà lại làm quen hỏi thăm. Một ông kể hồi trước gia đình cũng từng ở „nhà tập thể …Kim Niên…Hà Lội“. Tôi đánh bạo hỏi có quen ai tên là Nguyễn Văn Tình ?

Tình nào ? Có vợ tên là Mai ?
Không biết tên vợ (có bao giờ tôi hỏi Tình tên của vợ nó đâu). Thì ông Tình trước là trung úy bộ đội, sau vào Sài Gòn làm việc.
A ! Có phải là „Tình du lịch dầu khí Vũng Tàu“ không ? Căn hộ của tôi sát căn hộ của nó đấy.


Tôi giật nẩy mình, nhớ lại lời Tình kể „căn hộ bên cạnh của thằng công an nuôi heo“. Tôi phịa chuyện tìm cách dò la thêm

Tôi với Tình là bà con bên nội. Nó bảo căn hộ cạnh hộ nó là của bác công an.
Giời ơi, đúng thế đấy! Tôi đây. Gớm, sao mà „hữu duyên“ thế đi mất.
Anh qua đây lâu chưa ?
Thì thằng con đi vượt biên bảo lãnh tôi qua hơn một năm rồi. Ối giời ơi truân chuyên lắm đấy. Nó lần mò qua tận đến „Hồng Kông“ rồi mới qua được Mỹ.
Anh biết Tình đang ở đâu không, bây giờ ra sao ?
Nó chết cả mấy năm nay rồi. Vợ nó dọn đi chỗ khác không ai biết ở đâu.


Tôi sững sờ lặng cả người, rồi cố gắng lắp bắp hỏi tiếp:

Sao nó chết, sao, sao vậy ?
Khi nó về lại thì một thời gian sau công an Hà Nội xông vào nhà bắt nó vì tội „Suy thoái tư tưởng, chính trị và đạo đức cách mạng“, lại còn „thiếu thành khẩn, không tự giác nhận tội“. Nghe nói sau khi được thả, nó đi đạp xe xích lô chở bia cho „Công ty bia Hà Nội“, còn vợ nó thì đi bán khoai lang ngoài chợ, chẳng ai biết vợ chồng nó ở đâu. Chắc nó chết vì bệnh lao phổi…


Ông bên cạnh tự nhiên xía vào:

Bây giờ thời thế thay đổi rồi bác ơi. Úy hay Tá Tướng gì cũng vứt đi thôi, tiền là trên hết, muốn gì được nấy, nên người ta cứ thế kéo nhau vào Nam hết rồi, bác nghe câu thơ này nhé:
„Đầu đường Đại Tá bơm xe / Cuối đường Trung Tá bán chè đỗ đen / Giữa làng Thiếu Tá bán kem / Trong làng Đại Úy thổi kèn đám ma / Thượng Úy chăn lợn đuổi gà / Trung Úy ở nhà vo gạo rửa rau / Hỏi thằng Thiếu Úy đó đâu / Ba lô lộn ngược xuôi tàu Bắc Nam“


Cả bọn xúm nhau cười hì hì…..



Thế là tôi thật sự mất Tình, thằng „cán bộ thứ dữ“ nhưng hiền hòa dễ thương và thẳng thắn trung thực. Cuộc đời cũng nhiều cái oái oăm trắc trở như mối tơ vò. Có tình bạn nào cao cả và quý báu bằng tình bạn của hai kẻ không cùng chiến tuyến năm nào bỗng trở thành tình bằng hữu, như anh em, mặc dù trước đây tôi quen Tình chỉ vì hai chữ…“lợi dụng“, làm „cái dù che thân“. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy có chút gì không phải và thương Tình xót xa, Tôi mong tìm được đứa con của Tình để trả ơn trả nghĩa cho những ngày tháng đó, nhưng vô phương. Chỉ biết chắc một điều là Tình không còn phải chui rúc trong cái „nhà tập thể Kim Liên“ khốn nạn ngoài Hà Nội nữa. Bỗng nhiên tôi thấy Tình đang vi vu phóng xe Honda trên đường Tự Do năm nào trong chiếc áo T-Shirt có „con cá sấu há mồm“, thêm cái quần bò đã bạc màu, nhìn đời qua đôi mắt „kính dâm“ và không còn ngứa ngáy khó chịu hai bên háng vì cái quần lót hình tam giác nữa. Tình bỗng dừng xe, đứng nhìn thẳng vào „dinh Độc Lập“ năm xưa, bàn tay đưa lên như muốn bấu víu một cái gì mà Tình chưa từng có được. Đó là sự TỰ DO, sự BÌNH ĐẲNG của một con người……

Nguyễn Hữu Huấn
30 tháng 4 năm 2023

Post Reply