Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Những đóa hoa và nhành nguyệt quế
Trần Mộng Tú


Bạn có biết không?

Vào ngày 12 tháng 6 năm 2018, có sáu mươi (60) khẩu súng trên pháo đài Fort Siloso ở đảo Sentosa, Singapore đã được trang hoàng bằng những đóa hoa và nhành nguyệt quế trên nòng súng.

Nơi hai vị nguyên thủy Mỹ-Triều gặp nhau để nói chuyện hòa bình.

Sự tinh khiết trong trắng và hương thơm của những bó hoa gắn trên đầu súng: hoa lily màu trắng và màu hồng, hoa cát tường đỏ, hoa đồng tiền vàng với nhành nguyệt quế xanh ngọc, biểu tượng cho sự tốt đẹp, hòa bình. Chỉ nhìn thấy những bó hoa đó trên đầu súng người ta như nghe được cả tiếng vỗ cánh của con chim bồ câu trắng.

Bạn có biết không?

Đêm 10 rạng ngày mồng 11 tháng 6 ở nhiều thành phố trên đất nước Việt Nam, từ Sài Gòn, Nha Trang kéo ra tới Phan Rang, Phan Rí, người dân cũng kéo nhau rầm rộ ra đường để biểu lộ lòng quyết tâm giữ từng tấc đất của người Việt không để chính quyền giao cho ngoại bang.

Người dân Việt coi đất như một phần xương thịt của mình. Cầm một mảnh đất trên tay, chúng ta có bao nhiêu điều suy nghĩ về đất: Đất nước tôi; từ đất tôi sinh ra, tôi lại về với đất; đất lề quê thói; một tấc đất, một tấc vàng; đất là mẹ ta, đất là cha ta; đất cung cấp thực phẩm, đất nuôi ta sống. Và đất là nơi ta trở về tìm, đất là nơi ta gửi xương gửi thịt.

Trong quá khứ, bằng trực tiếp hay gián tiếp chính quyền Việt Nam đã mang bán từng mảnh đất biên giới cho quốc gia hàng xóm. Người dân đang sống giữa hai ranh giới đó cũng bị bán đi mà không biết, để rồi chỉ một, hai thế hệ con cái về sau bỗng nhiên trở thành người nước khác mà không cần một lý do pháp lý nào. Những “người lạ” càng ngày càng giành dân lấn đất ngay trên quê hương của chúng ta. Cái viễn ảnh bị lấn át, chiếm đoạt ngoài biển, trên bờ ngày càng rõ rệt.

Ngày hôm nay, kinh hoàng hơn nữa khi nghĩ đến việc chính những nhà lãnh đạo đất nước lại mang đất nước cho ngoại bang thuê dài hạn cả thế kỷ. Chín mươi chín năm (99 năm) tức là 4 thế hệ: Ông Bà, Cha Mẹ, Con cháu, Chắt. Ai là người sẽ đứng ra để thu lại được mảnh đất người lạ đã làm chủ bốn đời.

Ngôn ngữ của quốc gia mình cũng chẳng giữ được nói chi đến đất. Những chủ mới trong 99 năm đó sẽ biến xứ sở Việt thành nước thứ hai của họ.
Họ đến, họ ở lại và họ chiếm đoạt.

Bởi vậy ngày nay người dân phải ra sức bảo vệ đất đai của quốc gia dù có phải đương đầu với bắt bớ giam cầm ngay cả nguy hiểm đến bản thân.

Trải bốn ngàn năm dựng nước nhà

Sông khoe hùng dũng núi nguy nga

Trả ta sông núi muôn đời trước

Không đòi ai trả núi sông ta. (Thơ-Vũ Hoàng Chương)

Cha ông ta đã hy sinh bao nhiêu thế hệ để giữ từng tấc đất, người dân Việt ngày hôm nay nhất định không để cho nhà cầm quyền xẻ sông phá núi dâng đất nước cho ngoại bang.

Bạn có biết cũng hôm nay người dân đã.

Cùng nhau chống lại luật an ninh mạng của nhà nước để người dân được tự do thông báo cho nhau từng cơn gió trở mình của đất nước.

Cấm liên lạc trên mạng là cấm tất cả những liên lạc giữa người dân với nhau bằng một hình thức hiệu quả nhất. Làm sao để gọi nhắn nhau tụ họp, xuống đường, chống lại những sai trái của nhà nước. “Luật An Ninh Mạng là luật bịt mắt, bịt tai, bịt miệng người dân.” Khi mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói người dân sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào chính quyền, như người khuyết tật lệ thuộc vào bàn tay dắt đi và ai cũng biết bàn tay của chính quyền ngày nay dắt chúng ta đi tới đâu.

Bạn có biết đêm nay ở Bình Thuận-Phan Rí có những chiếc xe cảnh sát bị người dân đốt cháy, những viên gạch ném vào trụ sở của tỉnh, những người cảnh sát phải bỏ mũ áo chạy dưới sức mạnh của người dân không vũ khí. Họ chỉ có những mảnh giấy chống đối cầm tay, những viên đá nhặt ở dưới đất chống lại với súng đạn.

Bao nhiêu năm nay từ ngày “Thống Nhất”, đất nước luôn luôn ở trong tình trạng người dân bị chính quyền đàn áp bằng những luật lệ bất thành văn, cá lớn nuốt cá bé, kèm theo bắt bớ, nhà tù. Người dân Việt vốn dĩ cầu an, nếu đất nước còn đó, giang sơn còn đó, họ cũng cố chấp nhận những bất công để sống. Nhưng khi bị dồn vào tình thế đất nước dần dần thuộc về ngoại bang họ có phản ứng. Tức nước thì bờ phải vỡ. Họ cùng kéo nhau ra đường, hô lên tiếng nói và lòng yêu nước, với hai bàn tay không họ chống lại những người cầm súng.

Trong những người cảnh sát ra làm nhiệm vụ dẹp loạn thế nào cũng có những người cùng một lòng với dân, như hình ảnh của anh Cảnh Sát Cơ Động (CSCĐ) dưới đây.
Image
Hy vọng anh không bị lụy đến thân vì tấm hình rất đẹp này.
Trong tiếng hò hét phẫn nộ chợt bạn nhìn thấy một nụ cười. Nụ cười rạng rỡ an bình của người Cảnh Sát Cơ Động trong một hình hài thất thế, vết tích tang thương hai tay trần không súng không kiên chắn, buông xuôi nhưng miệng nở một nụ cười thật đẹp.

Nụ cười trên môi anh chính là chùm hoa lily và nhành nguyệt quế gắn trên đầu súng..

Nụ cười của anh cho chúng ta biết là anh đã nhận ra điều gì. Anh bắn ai, bắn vào đồng loại, bắn vào cô, bác, anh chị, hay chính vào cha mẹ mình.

Trên nét mặt của anh không có cái phẫn nộ của người thất thế, anh đã nhận ra được vẻ đẹp của chùm hoa và hương thơm của nhành nguyệt quế trên cây súng anh vừa vứt xuống. (tmt)

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

MỒ CÔI CON
Trần Mộng Tú


Tháng chạp âm lịch, Hà Nội trở rét. Rét đậm, rét ngọt, rét thấm qua áo mỏng, áo dầy, áo len khoác ngoài, “rét đến tận xương” như người Hà Nội thường kêu lên thảng thốt. Năm giờ sáng vợ chồng tôi thức dậy ở khách sạn Hồng Ngọc phố Hàng Mành, sửa soạn thật nhanh, cho kịp cái hẹn sáu giờ với anh Sơn tôi ở khách sạn Hà Nội Tower, phố Hai Bà Trưng. Chúng tôi cùng nhau đi Nam Định trước khi mặt trời lên.

Từ Hà Nội đến Nam Định gần một trăm cây số, chúng tôi sẽ mất khoảng hai tiếng xe để đến tu viện Đa Minh thuộc Trung Lao, huyện Trực Ninh, Nam Định.

Anh Sơn tôi, thời gian gần đây đã đi đi, về về giữa thành phố Vienna, tiểu bang Virginia đến Trung Lao, Nam Định, phụ giúp các Sơ dòng Đa Minh giúp nuôi các cụ già mồ côi con, và các trẻ em mồ côi cha mẹ.


Xe đến Trung Lao, gặp lúc đường đang sửa, các lối đi bị cản ngang, mặc dù anh tài xế taxi quen, đã nhiều lần chở anh Sơn tôi đến đây, vẫn phải gọi điện thoại cho một Sơ trẻ đi xe gắn máy ra dẫn đường vào tu viện.

Đã có năm, sáu Sơ đứng đợi chúng tôi trước cửa chính, có một vài người già đang sống ở đó cũng áo bông, áo len, co ro ra đón chúng tôi.

Khuôn viên tu viện khá rộng, nhưng cũ kỹ và không đủ tiện nghi theo tiêu chuẩn cần thiết. Các Sơ dòng Đa Minh tự chăn nuôi (cá, heo, gà) và trồng trọt (rau, lúa, ngô, khoai) nhưng những gặt hái này ngay cả chỉ dùng cho các Sơ cũng đã thiếu hụt, nói chi đến việc phải nuôi thêm người ngoài.

Một Sơ giới thiệu cho chúng tôi gia đình của ba anh em ruột, họ vừa mù, câm và điếc đang được các Sơ nuôi. Họ chưa từng lập gia đình, họ cũng chẳng hề có một thân nhân nào khác, ngoài một người anh cũng vừa mù, vừa câm, vừa điếc nữa; ông này có vợ, có con. Nhưng Sơ nói thêm, ông đó gầy ốm lắm, vì suy dinh dưỡng.

Frank, chồng tôi, đến khoác tay cả hai ông; ông anh gần bảy mươi tuổi, ông em hơn sáu mươi tuổi. Frank đứng giữa cầm tay hai ông cho hai ông xoa vuốt lên mặt mình, xong anh lại lấy hai bàn tay ôm từng mặt hai người xoa đầu xoa cổ họ, như biểu hiệu của những lời chào. Anh ôm tay quàng sang vai hai người; ba người đàn ông thân mật như ba người anh em ruột, họ bước đi vòng quanh khuôn viên tu viện. Tôi nhìn thấy giọt lệ ứa ra ở hai con mắt nhắm của người em, và nét mặt đầy xúc động của người anh. Trong cái gió lạnh của mùa đông đất Bắc, mặt trời vừa lên, ánh nắng vừa đủ dịu dàng trên đầu, trên tóc, của ba người đàn ông, tôi cũng thấy mắt mình ứa lệ. “Tất cả chúng ta đều là anh em trong Chúa.” Câu nói này, đang được nói lên không thành lời trong buổi sáng hôm nay. Tôi biết họ ít khi (có thể nói là chưa bao giờ) được ai chạm tay, vuốt ve như vậy. Các Sơ chỉ có thể cho họ những lời dịu dàng thôi.

Tôi đi theo một Sơ khác thăm các cụ già nằm ở trong buồng. Có cụ gần trăm tuổi, sống hoàn toàn vào sự chăm sóc của các Sơ. Cụ có con không? Có cháu không? Có nhà không? Trả lời cho cả ba câu đó là: “Không.” Ai đó đến báo cho các Sơ, ở một nơi nào đó, có một người thật già, thật bệnh, thật đói, không con cháu, thân nhân, là các Sơ đón về. Cơm đâu, thuốc đâu, quần áo đâu? Những điều đó tính sau. Các Sơ biết chắc chắn các Sơ có một cái quỹ rất đầy và các Sơ có thể mang ra phân phát cho các cụ “mồ côi con,” đó là: “tình thương” của các Sơ.

Ba người đàn ông vẫn tay khoác tay đi dưới vầng nắng dịu dàng. Tôi đi tìm người em gái út, chị năm nay ngoài năm mươi tuổi, trông chị tươi tắn, khỏe mạnh, các Sơ cho chị mặc ấm áp, tươm tất, chị tên Hồng. Tôi cầm tay chị Hồng hỏi han, chị cười, nhưng chỉ u ơ, gật lắc. Chị cứ nắm chặt tay tôi cho đến khi tôi từ giã về, nhất định chị không buông ra, thậm chí chị còn lôi tôi về phía cổng như muốn cùng đi với tôi. Sơ Liên cho tôi biết, chị mù 90%, nên ban ngày, có nắng, chị có thể nhìn được lờ mờ. Có ngày chị dắt hai anh đi chơi, buổi chiều ập xuống, bóng tối phủ nốt 10% còn lại, chị không biết đường về. Tu viện phải phái người đi tìm.

Tôi cầm cả hai tay chị dỗ dành mãi, hẹn chị tôi sẽ trở lại, sẽ thế này, sẽ thế kia (toàn là hứa mơ hồ, ngay cả cho chính mình,) chị mới chịu buông tay tôi ra. Tôi ôm chị rất khẽ, như sợ phải ôm một sự thật không vui. Frank đang chia tay hai người anh em mới của mình, Frank giỏi lắm, anh buông họ ra và nói: “Đã đến lúc tôi phải đi,” và anh không tỏ dấu bịn rịn. Lúc lên xe anh nói với tôi, mình phải làm cho nhanh, càng chần chừ họ càng buồn. Mình làm nhanh, họ biết là mình bắt buộc phải hành động như vậy.

Chúng tôi lên xe sang một địa điểm thứ hai của các Sơ cũng thuộc dòng Đa Minh. Ở đây có hai khu nhà. Khu thứ nhất nuôi người già, cũng tương tự như khu chúng tôi vừa thăm. Các cụ ở đây có cụ ngoài tám mươi, lưng cong như con tôm, nhưng vẫn đi lại trong sân, vẫn xâu tràng hạt để phụ giúp chi thu cho các Sơ được. Một cụ ngoài tám mươi, vừa thấm nước mắt vừa nói, chồng con cụ chết hết vì nạn đói Ất Dậu, không biết tại sao mà chỉ có mình cụ sống. Tôi chẳng biết trả lời cụ thế nào, đó là bất hạnh hay may mắn! Ở phòng khác có cụ cả trăm tuổi, nằm hắt hiu một góc buồng, chờ Sơ đổ sữa, chờ Sơ làm vệ sinh.

Khu thứ hai đi cách một cái sân rộng và sang hẳn một tầng nhà khác, nơi nuôi bốn mươi em mồ côi. Các em mồ côi này đặc biệt lắm, các em vẫn có cha có mẹ. Cha các em chưa hẳn đã chết, họ là nạn nhân của bệnh HIV hay là nạn nhân của ma túy. Cha các em biến mất trong đời sống các em, bay vèo như chiếc lá cuối thu. Mẹ các em buổi sáng thả các em vào tu viện, các Sơ cho ăn, cho ngủ, dạy học. Có bà mẹ trả cho nhà dòng năm, bảy ngàn một ngày (mười tám ngàn bằng một Mỹ kim,) có bà mẹ chẳng trả đồng nào.

Chúng tôi bước vào một căn buồng khá rộng. Lúc đó, ở một góc phòng, có hơn hai mươi em đang ngủ trưa,(hôm nay trưa thứ bẩy, có em được về nhà,) chúng nằm cạnh nhau, xếp thành hai hàng, bên dưới chúng là một cái vỉ tre, trên trải chiếu, chúng co ro, không có chăn. Hôm nay anh Sơn tôi đưa chúng tôi đến thăm trả tiền cho bốn mươi tấm nệm, bốn mươi cái chăn anh đã đặt . Sơ chăm sóc các em còn rất trẻ, chắc mới trên hai mươi, Sơ xưng con với chúng tôi. Sơ chỉ những bức tranh vẽ trên tường, tranh vẽ con thỏ, con sóc, Bạch Tuyết và bẩy chú lùn rất đẹp. Sơ nói, con vẽ đó, các em không có đồ chơi, con vẽ cho các em xem. Tôi đưa mắt nhìn chung quanh bốn bức tường, không thấy một ảnh nào về tôn giáo, duy nhất bức hình ông Hồ ôm một em bé lộng kính treo trên cao. Không biết ông Hồ có nhìn xuống, có trông thấy mấy em này không? Trong mấy năm liền, tôi đã đi thăm nhiều tu viện, có nhà trẻ, tôi thấy gần như mỗi buồng đều có treo tấm hình này.

Sơ dắt chúng tôi ra sân, chỉ cho tôi các phòng trống, cũ kỹ, gần như bỏ không, vì không có phương tiện tu sửa, nước không có, điện không có thì không dùng phòng được nữa. Ở một góc sân, sát buồng của các em, có năm sáu cái “bô” cho các em làm vệ sinh; buổi sáng Sơ xếp ra, buổi chiều Sơ đem đi rửa. Tôi vừa nghe Sơ nói chuyện, vừa nhìn khuôn mặt còn rất trẻ của Sơ, mấy cái mụn trứng cá lấm tấm, nụ cười tươi và dung dị như hoa cúc trắng, tôi thấy thật xúc động. Phải có lý tưởng lắm, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân lắm, mới hiến cả tuổi trẻ của mình ở một chốn xa xôi như thế này, làm một công việc bác ái, cao cả như thế này. Trông bên ngoài chẳng có gì là vĩ đại cả, nhưng không phải ai cũng làm được, nhất là người tuổi trẻ. Tuổi trẻ phòng trà, tuổi trẻ phóng xe, tuổi trẻ thuốc lắc, tuổi trẻ rượu mạnh, tuổi trẻ kiếm tiền bằng đủ mọi cách, tuổi trẻ phung phí đời mình, như sáng mai sẽ chết! Tôi nhìn tuổi trẻ của Sơ không biết nói lời gì, cho xứng.

Ngày còn nhỏ, đi học, thỉnh thoảng trường công giáo hay tổ chức cho đi thăm viện mồ côi. Tôi hiểu, mồ côi có nghĩa là cha mẹ mình mất từ khi mình còn rất bé, không có họ hàng giơ tay ra vớt nên mình phải vào viện mồ côi. Bây giờ tôi được biết thêm, người ta bất cứ tuổi nào, nếu không có ai thân thích cũng có thể gọi là mồ côi như các cụ đang sống ở trong bàn tay săn sóc của các Sơ Đa Minh, các cụ “Mồ côi con”.

Cũng thật may, trên trái đất này, vẫn còn những con người tốt đẹp, còn có những tấm lòng thơm hơn cả hương hoa của các Sơ, các Ni cô. Thánh đường có bị đạp đổ, thánh giá có bị kéo xuống, tăng ni có bị đuổi ra khỏi chùa, thì những trẻ em mồ côi cha mẹ, những người già mồ côi con cái, vẫn còn một chỗ dung thân.

tmt

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

CON CHÓ VỆN & NGƯỜI TÙ CẢI TẠO Ở NÚI RỪNG MIỀN BẮC !!!! Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người ''sinh Nam, tử Bắc'' và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của Tỉnh Sơn La, phía Bắc giáp Yên Bái-Lào Cai, phía Tây giáp Lai Châu, phía Đông giáp Phú Thọ-Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: ''Khe Thắm'' thuộc Huyện Văn Chấn.

Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông-Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của Binh Chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sỹ ở lán 4.
Mùa Đông năm 1976 là một mùa Đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam.. Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại ? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.


Đi tắm vào mùa Đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ ''Tao Đàn'' đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống ''văn minh, văn hóa mới'' lắm rồi!

Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội cộng sản Bắc Việt quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 người và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, ''ngồi đồng'' hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo ''nhân dân'' hoặc ''quân đội nhân dân'', những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.

Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ: Gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà.. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo...để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...


Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí ''bí thư xã'' có vũ trang súng trường AK-47. Phía sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: Phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, dấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.

Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói:
- Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy, Đèo tiếp. Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!
Tôi hỏi:
- Vậy chớ, mầy định đi đâu ?
Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
- Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!
Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát ? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!
Đèo quả quyết nói:
- Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.
Tôi nghi ngờ, hỏi:
- Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ ?
- Mầy nhớ không ? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!
- Phi vụ nầy mầy lo hay để tao ? Tôi hỏi.
Đèo nói, giọng quả quyết:
- Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!
Tôi cười, nói:
- Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tĩnh gì thì la báo động cho tao biết để tao chuồn!
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tĩnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:

- Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:
- Chờ tớ! Chờ tớ...
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!
Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
- Chó tới! Chó tới...
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là ''Chó tới!'' chớ không phải ''Chờ tớ!'' thì đã muộn. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặc lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan ''thái giám'' là cái chắc!
Tôi thét lên, cầu cứu:
- Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- Trúng chỗ nào vậy cha ?
Tôi bực quá thét:
- Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!
- Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả ? Hắn mách nước. “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thùng thình, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy. Thế là thoát nạn!

Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực, thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che phần dưới lại, sợ nó nhìn thấy ''thịt tươi'' thèm nhỏ dãi tội nghiệp!

Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà xát lên các mật khu lừng danh của việt cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy ''té khói'' như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật đó!

Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi! Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là ''lao động cải tạo'', con chó vện đối với tôi bây giờ nó đã trở thành ''con cọp''. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào!

Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:
- Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà!
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
- Mầy yên chí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!
Tôi miễn cưỡng nói:
- Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc ''Bác cùng chúng cháu hành quân'' một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận...nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome ''đồng chí Đèo''. Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người.

Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo và ''đồng chí vện'' ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặc con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: Thịt! Thịt! Thịt!...Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa ''rựa mận'' đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt âu yếm nhìn nhau...tóe khói, hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy! Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên Thiếu Tá Khoát (trại trưởng) có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng xuất, chuẩn bị trồng sắn đại trà. Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ ''chăn lợn''. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên Trung Sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa ra.
Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn tóm tèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...

Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong bụi cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản..
Hắn nói:
- Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.

Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc.

Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy...Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: ''Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!''

Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưỡi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là ''vắt nái''. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây ''anten'', rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiễm trùng, vết cắn bị ngứa ngáy, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh.

Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bỗng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:

- Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à ? ông cảnh báo. ''Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!
Tôi nói:
- Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!
Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ ?
- Tôi tên Phạm công Trừng, ông lão buồn rầu, than thở. Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ! Ông chỉ hai thanh niên, tiếp. Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!
- Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy ? Đèo hỏi.
Ông cụ thở dài, nói:
- Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ!
Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao ?
Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ ?
- Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên ''Reostop'', chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ, Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. Mầy thấy tao có nên giúp họ không ?
- Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi! Tôi nói.
- Tao quyết định cứu họ! Đèo trả lời một cách dứt khoát. Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc ''con nhọng'' chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!
Ông cụ nghe đến thuốc ''con nhọng'', mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó sơi nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bật thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông.

Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giã ra về. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc ''Reostop'' còn đủ 10 viên rồi dấu dưới gối.

Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc ''Reostop'' vào tay ông cụ rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
- Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy!

Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác ''dân vận'' một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho chính bản thân mình.

Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Một người bạn cùng đơn vị là cựu Thiếu Tá Trần Sỹ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa ? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến sĩ, anh ta bàn kế hoạch ''chuyển trại giả'' với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm.

Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe Thiếu Tá Khoát (trưởng trại) ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc ''reostop'' chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.

Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo ''bày hành lý bán chợ trời'' tiếng lóng một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn ''thoát y vũ'' bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên ''Reostop'' của Lê Xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên Thiếu Tá Khoát và tên tù phản bội Phạm Thành K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn...

Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và Tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá chứng tên ''Xuyên Tâm Liên'' để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vỡ các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy ?

Vào mùa Thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên ''Xuyên Tâm Liên'' và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội ''chây lười lao động''. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô. Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.

Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa....
Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam ''tenor'', những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột, đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: ''Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...'' và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một ''bi trường khúc'' đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt mỏi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai. Tôi nghe cả láng hoảng hốt, thét lên: ''Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!...''.

Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô, hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù...

Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sỹ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại khoảng 2 cây số. Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.

Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi!

Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cổng trại. Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống, loang lỗ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng..

Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát, con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến.

Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất ''người'' dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó: Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!

Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: Nằm đây chờ tao, lát nữa, tao trở lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy! Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng, hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó với tôi chăng ?

Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên Trung Úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu!
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.

Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề ''NẤM MỒ HOANG'' để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.

Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng
Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!



Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẽ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt. Tên Trung Sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế ?
Tôi nhanh trí, đáp:
- Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.
Hắn nói:
- Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.
- Được, việc gì thế ? Tôi hỏi.
Hắn nói như ra lệnh:
- Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau.
Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.

Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.

Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ...Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh đến rét run.

Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.

Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.

Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: Phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống....rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ nó đi nhá!
Có tiếng quát vọng xuống:
- Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!
Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!
Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
- Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!
Tôi vội vàng đính chính ngay:
- Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!
Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu ?
Tôi buông thỏng một câu:
- Đèo chết rồi!
Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo, phải thế không ?
- Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!
Bà cụ nói:
- Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc ''con nhọng'' của anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chữa bệnh cho mình nhỉ ?
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo ''lính ngụy'' các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội ''Kin Chiêng Bók May'' của dân tộc Thái chúng em!
Tôi hỏi:
- Mùa lễ hội ''Kin Chiêng Bók May'' là lễ hội gì vậy ?
Cụ Trừng giải thích:
- Đó là ngày ''Hội Hoa Ban'' trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa Xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập Xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn ''piêu'', có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần ''sin'' (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe, cụ Trừng cố mời. Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày ''Hội Hoa Ban''. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa.
- Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên thành phố Hồ chí Minh do tập đoàn lãnh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ ''Sài Gòn'', Thủ Đô thân yêu của người miền Nam.
Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao! Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích.. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc mọi Quân, Binh Chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia ''bức màn sắt'', do bọn cộng sản Bắc Việt dựng lên tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.

Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sỹ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN!

Nguyễn Vĩnh Long Hồ

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

KHÓI NHANG
Hồ Đình Nghiêm
Mạ tôi không có nhiều áo dài, đâu chừng chỉ ba chiếc. Áo của mạ đúng là áo dài, dài miên man, vướng víu hai tà gần chấm gót. Cổ cao, in tuồng có độn mi-ca ở trong cho cứng cáp. Không mấy khi thấy mạ ủi, xếp trong tủ mà chừng như luôn phẳng phiu, chẳng nhăn nhàu. Thợ may khéo, đã đành, qua thời gian hàng vải lạ thường kia không hề thu rút lại một mảy may. Chúng vẫn ôm lấy, sát sao cơ thể một người đàn bà có đông con. Thường thì thời gian hậu sản, da thịt người mẹ hơi bị “phát tướng”, hơi bị sỗ sữa; nhưng mạ tôi cứ rứa, thuỷ chung thi gan cùng tuế nguyệt. Nếu dùng thuật ngữ mà thời buổi lạ lùng này, người trong nước cắc cớ ưa nhắc là “số đo ba vòng” thì chẳng cần dùng thước đo đạc, ngày đó mạ tôi vẫn “chuẩn” không cần “chỉnh”, không phì nhiêu chẳng giảm sút, ôm vào lòng vẫn ấm gọn một vòng tay, vẫn bất di bất dịch lượng suối trong nguồn chảy ra, vẫn chuối chín cây, vẫn biển Thái bình hiền hoà sóng vỗ êm đềm, che chở và bảo vệ suốt đời một bờ bãi luôn được bồi đắp phù sa. Có một câu tiếng Pháp viết như thế này: Je n’ai pas besoin de m’aimer avant de t’aimer, parce qu’il n’y a pas d’ordre, juste l’amour. Có lẽ tác giả chỉ dành cho tình yêu lứa đôi. Đâu cần phải yêu mình trước khi yêu người… Mình được mạ đẻ ra thì mình yêu thương mạ là chuyện ắt có và đủ. Không so đo, chẳng phân bì. Vẻ đẹp do tình yêu mang lại nó vốn thế.

Mạ tôi thương người con đầu ra sao thì thương thằng út một mực như vậy. Người con đầu ra riêng thì cán cân tự động lệch hẳn một phía. Nào lạ gì khi trong gia đình ai nấy đều thông hiểu câu “con út trút gia tài”. Tôi là đứa hưởng được cái đặc ân kia, thứ lề luật không tiện viết ra văn bản. Trong mâm cơm, món ngon hoặc thứ “hắn” thích mạ luôn xí phần: Ăn chi vô hậu rứa bây, cứ tranh ăn với em là tại vì răng? Thằng út hay bị chảy máu cam, mạ nấu cho nồi chè đậu đỏ ăn giải nhiệt sau khi biểu hắn nằm xuống tấm phản đắp trán bằng khăn ủ nước lạnh và lỗ mũi đã nhét chật một lá trầu xanh nhằm ngăn chận giọt máu đào thất thoát, hao hụt.

Hôm ấy (một sáng sương Thu đầy gió lạnh?) mạ tôi mặc lấy chiếc áo dài màu xanh rêu, hàng nhung êm mịn. Bối tóc sau khi chải mượt bằng chiếc lược làm bằng sừng trâu, xỏ đôi bông tai có nạm ngọc xanh vào trái tai chỉ thua đức Phật chút đỉnh về độ dài. Mạ đeo vòng kiềng bằng vàng 24 le lói, chỉ hèn kém thua vật trang sức của Nam Phương hoàng hậu nhưng đủ tăng hào quang khi tôi ngó sững tới mạ. Nó “ăn” với chiếc áo màu xanh rêu nhung gấm ấy quá và tổng thể, những vật phụ kiện vừa cài đặt kia đã khiến mạ ăn gian thần thời gian tới cả chục niên, hàm hồ mà nói rứa. Trong xóm vắng có ai lạc giọng hát bài “Tôi đưa em sang sông”, giọng chất ngất tâm sự:… chiều xưa mưa rơi âm thầm để thấm ướt chiếc áo xanh… hôm nao em sang ngang, bằng xe hoa thay con thuyền, giờ phút cuối đến tiễn em… gót chân ngày xa xưa sợ lấm trong bùn khi mưa…

Khi mạ chính thức sang ngang, bản nhạc này chưa thể hiện hữu. Ngoài làng mạ ở cũng có một dòng sông, nhưng cây đa bến cũ con đò năm xưa hình như chỉ dành riêng cho một mình ba tôi đến đón đưa. Thời đó, khi thất tình, người ta sẽ làm gì? Người ta bỏ làng nước để trốn đi làm cách mạng ư? Bây giờ thì xem chừng người ta đã làm quen với tất cả những cơn sóng tràn bờ, với thứ lãng mạn tiểu tư sản, dùng nó vỗ về chút thương đau. Ai thất tình mà hát giọng buồn chi lắm thế? “Anh” nhắc tôi nhớ hôm nay là ngày chị tôi thực sự lên xe hoa, không sang ngang chẳng qua đò, cũng không xác pháo vướng gót chân. Vì đại sự nên mạ tôi đã “diện” chiếc áo đẹp nhất mà mạ có. Chiếc áo “ăn nói” ít khi tìm ra cớ để khoác thân. Nôm na là xếp trong đáy tủ để “phòng khi hữu sự”. Và hữu sự đã tới, sánh đôi cùng những lời mạ thủ thỉ dành cho chị tôi, người từng ái ngại để bùn hoen gót chân trong ngày mưa:

Kể từ ngày mạ đẻ con ra
Ai mớm cơm, trún cháo lớn mà từng ni?
Hai tay bưng đọi chè tàu
Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi.

Rõ là:

Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

Có ngồi chào vao, có kiếm cách chuyển vẫn gì đi nữa thì cuối cùng chị tôi cũng “bỏ nhà ra đi”. Dù anh hàng xóm buồn đời hát hỏng “mưa bên chồng có làm em khóc?” thì mọi chuyện cũng đã lỡ sang trang. Dâu bể cuồng nộ vùi dập phận người tả tơi rồi cũng đâu vào đó huống hồ chuyện nhi nữ thường tình. Xe hoa mang đi chỉ một người đâu sánh bằng chiếc thuyền chở hàng trăm tính mạng bọt bèo trôi sông đổ biển? Nghe ai đó nói “người tình không chân dung” nọ đã xếp bút nghiên theo việc đao cung. Là sĩ quan lính thứ dữ, đánh đấm ra trò ở mặt trận cổ thành Quảng Trị, là nơi do vua Minh Mạng dựng xây mà trong phạm vi lớn chưa tới 3 cây số vuông đã hứng chịu 320 ngàn tấn bom đạn chăm cày xới trong 81 ngày đêm khói lửa triền miên. “Anh không chết đâu anh”. Anh cũng không làm bại tướng cụt chân, nhưng khi anh trở về thăm xóm, vô tình anh khiến mạ tôi siêng đi chùa.

Ngoài chiếc áo nhung xanh rêu mạ còn hai chiếc khác: Một màu lam và một màu nâu. Có người gọi lam là màu khói nhang, có người kêu nâu thành màu nu. Và có người đưa nhận xét, đó là những màu căn bản mà con em gia đình Phật tử vẫn thích mặc vào người. Không tin hả? Mấy sư cô, các sư nữ hằng tin rằng thứ sắc độ ấy ít trêu ngươi, ưa lắng chìm vào sự trầm tịch. Vậy thì chẳng lẽ kiếp trước mạ tôi là o con gái quét lá sân chùa, rót nước dâng hoa lên bàn Phật? Bên ngoài cảnh giới nghiêm cẩn đạm bạc ấy có lắm màu vui nhộn non tươi là thế răng mạ lại đi chọn thứ màu “kín đáo” rứa hè?

Giống hầu hết quý vị phụ nữ thời đó, mạ tôi làm thứ nghề nghiệp kỳ cục được ghi nắn nót trong sổ gia đình: Nội trợ. Phong trào nữ quyền là gì? Nào ai hay! Cũng như kế hoạch hoá gia đình là gì? Condom là cái quỷ sứ chi? Quý ông đầu đội trời chân đạp đất vẫn như vịt nghe sấm, nước đổ lá môn, chẳng làm nhăn mặt nước hồ thu từ bao lâu vẫn phẳng lặng. Nội trợ là giúp đỡ việc trong nhà? Quán xuyến việc chăm con, giặt giũ, may vá, đi chợ, nhặt rau, nấu ăn, rửa chén bát. Nếu có nuôi bầy gà thì sáng ra sân vãi nắm gạo cho chúng ăn để chạng vạng thì tục tác gọi chúng về chuồng. Đầu tắt mặt tối thì có vẻ hàm oan vì mạ tôi tự ví mình là ba đầu sáu tay “mặt trận nào cũng đánh thắng”. Đã thế còn biết cách thu xếp lịch lao động để chừa ra một khoảng trống trong hai mươi bốn giờ lu bu trấn nhậm hậu phương. Khoảng thời gian phù du ấy mạ tôi dành vào việc đọc sách. Bà có một trí nhớ phi thường, kể ra vanh vách từng chi tiết, tên các nhân vật nằm trong toàn bộ các tiểu thuyết của bao tác giả ở nhóm Tự Lực văn đoàn. Mạ nào con nấy, tôi cũng bắt đầu sa ngã lòng mình, thổn thức theo những trang văn chương có khả năng dắt trí tưởng mình dẫm chân vào những “vùng địa đàng” tuyệt đối không hề có cảnh tên bay đạn lạc. Người sĩ quan binh chủng Thuỷ quân lục chiến xóm giềng hết ba ngày phép, sang chào mạ tôi để kịp có mặt ở một trận đánh ác liệt khác. Anh nhìn tôi: Mi không lo học thì bữa mô chân cẳng cũng phải lội khắp bốn vùng chiến thuật như tao. Một xanh cỏ hai đỏ ngực là thứ khiến mạ tao phải ăn chay trường trì chú tụng kinh. Coi chừng, mạ mi cũng rứa thôi, kêu trời răng thấu?

Tôi học rất kém. Vẫn ước ao có được đầu óc minh mẫn giống mạ mình. Thông tín bạ luôn có hàng chữ mực đỏ của thầy cô phê: “Chăm chỉ, hiền ngoan nhưng học lực cứ không thấy tiến bộ”. Mấy thầy cô “học lực” coi bộ kém thua ba tôi. Ông phán, kiểu tam đoạn luận: Thằng ni luôn coi sách vở là kẻ thù, đã là kẻ thù thì buộc phải tránh xa, vì xa lánh sách đèn nên dốt đặc cán mai nào là chuyện lạ! Thấy chưa toàn vẹn, ba tôi buông một dấu chấm: Đồ con hư tại mạ! Mạ tôi chẳng lấy đó làm điều, bà hoá thân thành một nhà hiền triết: Không có học trò dốt, chỉ có thầy cô chẳng nắm vững phương pháp giáo dục thôi! Chao ôi, một người chỉ biết nghề nội trợ mà dõng dạc phát ngôn ra thế. Dễ nể thật! Khẩu khí nọ đi thẳng vào người tôi, sướng như cởi được tấc lòng, như đả thông được hai huyệt nhâm đốc. Mạ tôi mô phải là người mạ bình thường, bà còn là thần tượng của tôi nữa, không phải rứa hay răng? Bà là chưởng môn nhân môn phái Tình Thương: Hỡi những con chim chưa ra ràng đang bị vặt lông, hãy nối kết cánh lại. Tôi chưa đủ lông đủ cánh vì rứa nên cứ bu mạ như sam. Tôi nghĩ quẩn, e chiếc áo dài xanh rêu nhung gấm sang trọng và đẹp đẽ của mạ sẽ bị xếp xó, ngủ yên dưới đáy tủ, vì rằng cái ngày mà tôi cả gan “đem nàng về dinh”, đưa nàng sang sông, tam thập nhi lập… thì ngày đó có diễn ra sẽ không cách chi có sự hiện diện của mạ. Sức người có hạn, có là tài thánh mới bắt mạ mình chờ được, nhìn ngó đứa con út dại khờ tự lập thân chập chững vào đời.

Rồi thần thời gian đã lén “đi đêm” với thần chết. Quỷ khóc thần sầu đã vi phạm hiệp định ngưng bắn, đang an vui là thế họ tới gõ cửa, điểm danh đúng tên mạ tôi. Bà chẳng có một biểu hiện nào trước đó, rất đột ngột một cơn bệnh ngặt nghèo đã vật bà xuống. Anh chị tôi mang bà vào Sài Gòn, tìm đến một bệnh viện nổi tiếng nhất, nhưng họ bó tay sau một tuần làm đủ các xét nghiệm. Sẽ không lâu nữa đâu, chúng tôi buộc lòng phải nói thế. Hãy mang cụ về nhà để nhỡ có những việc cụ đang dở dang việc hoàn thành… Một người nội trợ, hãy nghiệm xem, những việc nhỏ nhặt họ làm thường nhật có đáng không để bận tâm mưu cầu một vuông tròn? Cho dù chẳng ra cơm ra cháo thì… ba vạn cũng bỏ. Hãy thõng tay vào chợ. Xin cho một lần được thảnh thơi. Không, tôi quả thật hồ đồ, tôi quá trẻ người non dạ. Tôi đâu biết tâm niệm của mạ là được ngó mặt tôi lần cuối. Không biết ở ngoài nớ, việc ăn uống ngủ nghê sách đèn của thằng út con mạ ra răng? Mạ ở xa hắn có nhớ quay quắt không?

Chị tôi nói trong nước mắt: Theo chị đoán thì thực sự tim mạ đã ngừng đập khi nằm trên máy bay, tay chân lạnh ngắt. Chị không ngờ mạ đã gắng gượng, dùng tàn lực để mở mắt ra trông em phút cuối. Hãy nhớ đến thời khắc nọ để ghi chính xác tới ngày giờ tử của mạ. Tôi không vuốt mắt vì thứ nhãn tuyến mù mờ ấy đã vội đóng, đồng tử khép lại liệu có kịp thu giữ nhân diện thằng con út của người? Một giọt nước mắt trườn ra khỏi khoé, bò chậm xuống những đường da nhăn. Ai đã mặc cho mạ tôi chiếc áo dài màu khói nhang trên người? Chiếc áo đã bạc tình thôi ôm giữ sát sao cơ thể mạ như ngày nào. Một bầu trời vừa sụp đổ xuống người tôi.

Trước khi chạy được sang tới đây, tôi mất cả mạ lẫn ba, bỏ lại hai nấm mồ hoang lạnh. Như ca dao ví, tôi là một cây đờn bị đứt hết dây, tình tang chi nữa hỡi con bạn mình ơi! Tôi vượt biển cùng một người con gái đất Thần kinh mà mạ tôi nào chứng giám là hắn vừa có vợ. Tôi lên đò chòng chành sóng lớn, ôm theo hành trang một “con sáo sổ lồng bay đi” vô phương hướng. Đất lành chim đậu là một từ ngữ thậm chính xác. Đất lành cho nên thống kê về số tử vong gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện nhỏ. Cũng vì đất lành cho nên đến lúc trái gió trở trời, chim có lạc đường bay, có rụng lông gãy cánh thì người sống trên cuộc đất ấy sẽ ra công tô đậm thành ngữ “cho chim liền cánh như cây liền cành”. Tôi từng vào nằm nhà thương, mát dạ mát gan khi nằm yên cho họ lắp cánh tháp cành. An tâm, rồi bạn sẽ chóng bình phục. Họ hỏi: Trong gia đình bạn có ai mất vì chứng ung thư không? Tôi nói có, hiền mẫu. Họ bày dao kéo chuẩn bị làm một cuộc banh da xẻ thịt, họ bảo mức độ nguy hiểm chỉ lên tới 17% và rồi tôi bị đánh thuốc mê, chìm trôi không hay biết chuyến đò chèo mát mái hay sông trôi lộn bờ. Nhận chén cháo lú hay hoàn hồn reo to chữ Freedom như ngày nào chính thức giã từ kiếp thuyền nhân.

Chuyến “sang ngang” ấy tối đen hơn mộ huyệt, chừng tám tiếng sau có người cúi mặt thấp xuống thăm dò sự hô hấp của tôi, mặt nạ dưỡng khí làm tôi trông lên không rõ hư thực một quang cảnh xa lạ, đầy hơi nước mù ẩm. Người ấy nói: Tôi tên Sylvie, y tá chăm nom bạn hôm nay, chúng tôi sẽ chuyển bạn lên tầng bốn, nằm ở phòng đầy đủ máy móc dụng cụ để dễ theo dõi tiến độ sức khoẻ bạn mang. Bạn thấy thế nào? Từ một tới mười, cơn đau của bạn đang ở lằn mức số mấy? Không cần nói, bạn dùng tay để ra dấu. Sylvie có mái tóc vàng, tôi chỉ nhận ra điều ấy trước tiên. Thật có hơi bất tiện nếu tôi di chuyển cánh tay trái, bởi ở đó còn ghim một mũi kim với ống nhựa chuyền nước biển. Tay phải tôi xoè cả 5 ngón, cọng thêm 3 ngón ở lần hai. Ô, vậy thì thuốc tê đã bắt đầu hết gây ảnh hưởng, hãy uống bốn viên này đi. Vừa morphin giảm đau vừa thuốc tăng lực, giúp chóng hồi phục.

Cửa thang máy mở. Một nam y tá cao to đẩy chiếc giường tôi nằm vào một diện tích quá đỗi rộng rãi. Sylvie theo cùng, cô ta cũng đẩy một cái bàn có bốn bánh xe đặt để hai cái máy hình thù kỳ lạ. Cô nhặt một tấm mền mỏng từ dưới giường, trải rộng rồi đắp vào người tôi. Trong bệnh viện dường như bao giờ cũng có một cơn gió lạnh vụt thoáng qua. Một ngày có mấy chục bệnh nhân câm lặng thay đổi chỗ trú thân? Từ “khách sạn 3 sao” này xuôi đổ về cái motel hoang lạnh mọc chơ vơ bên xa lộ, đưa mặt cho người ta tô son trét phấn như kiểu thủ tục làm đẹp để trình diện Diêm vương ngó sao cho tử tế?

Tôi nghĩ là bạn khỏi cần thở bình dưỡng khí nữa. Chừng nửa giờ sau, có người sẽ mang phim đặt dưới lưng bạn để chụp quang tuyến X. Sylvie nói khi phụ người y tá lực lưỡng cẩn trọng nhấc hỏng tôi đặt sang một chiếc giường khác, êm ái hơn, tươm tất hơn. Tối nay chúng tôi gồm ba người sẽ thay phiên vào xem chừng bạn, sợi dây này có cái nút nhựa đỏ, bấm nó chừng nào bạn cần tới sự giúp đỡ. Trong lúc này bạn ngủ được chừng nào tốt chừng đó. Tấm màn được kéo lại, bóng điện hạ độ sáng xuống sau khi Sylvie hý hoáy ghi vài hàng chữ vào tấm bìa cứng rồi máng nó gần đầu nằm. Cô bóp nhẹ vào vai tôi thế một lời tạm biệt.

Nửa khuya, chừng khoảng hai giờ sáng, tôi bị lôi ra cơn ngủ vùi do ảnh hưởng thuốc cứ mãi uống cách khoảng bốn tiếng. Một bóng trắng vừa lẻn vào, mang theo chút giá lạnh và bà mặc đồng phục y tá ấy đã vạch áo tôi thăm dò vết cắt cùng những đường chỉ khâu y như có một con rết mãi bám cứng, mãi hút máu, mãi truyền độc tố làm tê nhức. Đẹp. Ổn thoả. Chẳng sưng tấy. Bà từ tốn chậm rãi lau mặt cho tôi bằng chiếc khăn ấm áp vừa hấp tẩy xong. Bà dịu dàng điều chỉnh cho chiếc giường gấp lại để từ nằm tôi đổi qua thế ngồi, xong thì bà ôm lấy tôi vào lòng vỗ về, thì thầm nói hãy mơ tới một điều gì thật tốt đẹp, phải tự nhìn nhận rằng cuộc đời này vẫn còn đó những điều đáng yêu, dẫu nhỏ nhặt. Tôi dựa đầu vào vai bà, khứu giác ngửi ra một hương mùi quen thuộc, xa vắng. Tôi vòng tay ra ôm cứng lấy bà, tôi lục soạn trí nhớ và mơ hồ nghĩ rằng thân thể vừa kích ấy rất trùng hợp với mạ tôi. Bà nói bà biết tôi đang đắng miệng, vậy thì thèm ăn hoặc uống một thức gì cứ cho hay, khuya mai bà sẽ mang vô. Tôi có những cuốn truyện hay nhưng ngại là mắt người bệnh hẳn còn yếu, chưa nên đọc. Hãy nên thương mình trước khi yêu tha nhân. Hãy cố tĩnh dưỡng, bởi được đi lại bình thường là một món quà của thượng đế trao tặng cho mỗi chúng ta.

Những gì bà nói thoảng qua tai tôi có mãnh lực khiến căn phòng hồi sức này tự động biến sang vuông không gian ở Huế ngày cũ. Tự dưng tôi nhớ mạ mình đến muốn khóc. Trong đời, chỉ có mạ tôi mới quan ngại chăm lo kiểu đó, kỳ dư chẳng còn một ai. Lương y như từ mẫu hoặc y tá như mẹ hiền thì cũng nằm ở một chừng mực nào đấy thôi. Từ một tới mười, bà thương tôi ngang mức số mấy? Nếu có hỏi e rằng bà ấy chỉ xoè bàn tay đủ năm ngón là cùng. Mức trung bình. Vậy cũng nên xem là tốt phước.

Tôi chóng bình phục, tình trạng khả quan đến độ cả bác sĩ lẫn năm cô y tá thường theo dõi chăm sóc tôi cũng phải ngạc nhiên. Họ nhận xét: Thường thì người Á châu tuy thể lực không bằng dân Âu châu Nam Mỹ nhưng ngược lại, tinh thần của họ rất vững vàng, giỏi chịu đựng. Sự chịu đựng của bạn là phương thuốc quý, nhưng chúng tôi nghĩ, ngoài ra hẳn bạn phải nương vào một phép nhiệm mầu nào đó, khó giải thích. Họ thay phiên bắt tay tôi, chúc mừng ngày tôi trở lại sinh hoạt với nhân quần bên ngoài khuôn viên bệnh viện. Tạm thời quên chuyện mưu sinh đi nhé, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận rằng bạn cần tĩnh dưỡng ít lắm là một tháng. Tháng sau nhớ vào lại đây cho chúng tôi xét nghiệm, một thủ tục cần có, chỉ vậy thôi.

Tôi thưa với họ là tôi chưa an lòng ra đi khi lỡ quên thốt lời cảm ơn chân thành đến một bà y tá. Ai vậy? Bà đó tên gì? Họ trố mắt nhìn tôi. Bằng vào sự ấp úng khi diễn đạt vừa tiếng Anh chen lẫn tiếng Pháp: Tôi thật vụng về quên hỏi tên bà ấy. Bà vẫn đến hằng đêm, vào khoảng hai giờ sáng, ôm ấp tôi, vỗ về tôi… Không biết tên, vậy thì nhân dáng bà ta ra sao? Mập, ốm, màu da, độ tuổi? Tôi cà lăm, phụ diễn bằng tay… rằng thì là tôi trông không rõ mặt, chỉ biết bà có một mái tóc đen… bà ngồi trên giường nên tôi cũng chẳng biết cao thấp ngang đâu… không ốm chẳng mập, đủ ôm vừa một vòng tay và người bà thơm thứ mùi nồng đậm tựa trầm hương. Cả ê-kíp vây quanh tôi, đứng nhìn nhau mặt nhăn mày nhíu, Sylvie là phát ngôn viên sau cùng: Mỗi ca trực chúng tôi đều ghi rõ tên họ, giờ giấc của từng y tá. Điều anh nói thì rõ là hoang đường, không riêng khu này, tôi e là khu lân cận cũng chẳng có một người y tá như anh vừa tả. Chúng tôi hy vọng là liều lượng thuốc mà chúng tôi trao anh uống suốt tuần lễ qua sẽ không gây cho bệnh nhân một ảo giác nào cả. Dù sao thì trường hợp này sẽ buộc chúng tôi nên lưu tâm. Vậy đi nhé. Chúc may mắn.

Về nhà, việc đầu tiên là tôi quét dọn bàn thờ, mua trái cây đặt lên, rót nước trà, thắp ba cây nhang cắm trước di ảnh đen trắng mạ tôi. Tấm ảnh duy nhất mà tôi có chụp mạ trong ngày cưới chị tôi. Chiếc áo dài nhung xanh rêu, đôi bông tai, cái vòng vàng quanh cổ, đầu tóc bối cao, đôi mắt đen láy, nụ cười đôn hậu hiền lành. Mạ tôi không thể hình dung được là có ngày đứa con út của bà vụng dại đi vào nghiệp viết văn. Tổn hao bao giấy mực nó chưa hề lắng lòng viết riêng cho mạ hắn một trang. Tôi nghĩ là chắc các bạn đọc cũng rộng lòng tha thứ cho lỗi lầm tôi mang. Khi đứng trước biển, bạn có tài cán gì để lột tả hết sự bao la vô bờ đến choáng ngộp mà con sóng từ ngàn trùng cứ mãi chuyên cần vỗ lao xao vào bờ, vào triền cát ẩm mơn trớn bàn chân trần mình đặt để, mỗi khi một lún xuống? Nếu bạn không có được sự ví von biển cả là lòng mẹ thì tôi xin thôi đối thoại cùng bạn. Chỉ một chuyện sau cùng xin bạn hiểu cho, mỗi khi gặp điều bất ưng khiến lòng sầu muộn tôi đều nhớ tới mạ mình để tìm quên. Ngay cả khi hoạn nạn bất ngờ đổ ập xuống, hình bóng mạ tôi là cái phao giúp tôi vượt qua gian khổ, kể cả vực tôi lên khỏi hai bờ tử sinh. Tôi quả quyết để thưa với bạn rằng: Bà y tá “vô danh” xuất hiện hằng đêm trong bệnh viện ấy, đó chính là mạ tôi.

Tôi đợi ba cây nhang cháy hết chiều dài nó mang, lụn tàn trong bát đựng gạo rồi mới “đi thưa về trình”: Mạ ơi, chừ thì đến giờ con vô phòng uống thuốc đã, mạ nghe!

Hồ Đình Nghiêm
25 tháng 8, 2018.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

CON CỌP YÊU QUÍ CỦA TÔI

Hưng yên

Tôi nhất đinh đòi thày bu tôi phải cưới Hương cho tôi. Tôi thích nàng, tôi yêu nàng và tôi phải lấy nàng cho bằng được. Nếu thày bu tôi không hỏi cưới nàng cho tôi thì tôi sẽ bỏ nhà ra đi, đi giang hồ hay đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra. Chẳng thà thế chứ sống mà thiếu Hương tôi sống không được. Tôi cũng đã ngỏ ý ấy với nàng và nàng bảo hễ cứ có mai mối bên nhà tôi tới là bên nhà nàng bằng lòng ngay.

Tình yêu của tôi đối với Hương nó vĩ đại và mãnh liệt như thế có lẽ cả làng ai cũng biết. Biết nhưng có ai giúp gì được cho tôi đâu, có khi họ còn nói ra nói vô khiến bu tôi càng quyết liệt không cho tôi lấy Hương, và khi nghe tôi dọa đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra, bu tôi còn bảo:

- Chẳng thà Tây nó bắn mày chứ bu giết mày không được con ạ – Bu tôi rơm rớm nước mắt – Ðẻ mày ra, nuôi mày tới bây lớn sao tự dưng mày lại không muốn sống nữa hở con? Gái làng này thiếu gì sao mày không lấy mà mày lại đòi lấy cái con tuổi cọp ấy? Mày tuổi lợn mà bu lại cưới vợ tuổi cọp cho mày thì có khác nào bu giết mày không?!

Thày bu tôi hiếm muộn chỉ sanh được có 8 người con, 5 trai 3 gái. Các chú các bác tôi người nào cũng từ 10 đến 12 con cơ. Chỉ cái việc có 5 thằng con trai thôi mà đã gây ra một sự xì xèo rồi. Người ta bảo sanh 5 đứa con gái là sanh được “Ngũ Long Công Chúa” quý lắm, cha mẹ thế nào cũng được nhờ, tha hồ ngồi rung đùi mà hưởng. Chả thế mà ca dao Việt Nam ta đã có những câu:

Mẹ sinh con trai làm chi

Ðầu gà má lợn đem đi cho người!

Mẹ sinh con gái như tôi

Ðầu gà má lợn mẹ ngồi mẹ sơi!

Lúc đầu bu tôi làm liền tù tì một lèo 3 đứa con gái, thày tôi khoái chí bảo: “Bu mày ráng thêm 2 con tèo nữa cho đủ Ngũ Long Công Chúa, sau đó làm thêm vài thằng cu tí nữa là tha hồ mà sướng!” Nhưng bu tôi chỉ sanh có 3 đứa con gái, kế đó lại làm một lèo 5 thằng con trai rồi thôi luôn.

Chơi tam cúc có 4 con tốt cùng loại đỏ hay đen thì gọi là tứ tử, có 5 tốt là ngũ tử. Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, khéo chơi một chút là ăn trùm làng. Còn đẻ mà 5 thằng con trai thì người ta lại bảo là ngũ quỷ, thế nào trong 5 thằng cũng có một, hai thằng chẳng ra gì. Trong 5 anh em trai thì tôi là thằng thứ ba, nếu tính cả ba người con gái thì tôi là thằng thứ sáu. Hai ông anh trước tôi đã lập gia đình rồi, các ông ấy củ mỉ cù mì, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lấy vợ xong là chí thú làm ăn, chỉ mong sao nói được nghiệp nhà, cầy ruộng cấy lúa. Nói một cách giản dị là làm một anh nông dân chứ không có cao vọng gì cả. Hai đứa em trai thì còn đi học, chúng chưa biết gì, có muốn vợ cũng phải chờ vài năm nữa.

“Nữ thập tam, nam thập lục” các cụ ta đã bảo như thế nên dù tôi mới 16 tuổi đã đòi vợ cũng không ai nói gì được. Cái điều ồn ào nhất là tôi tuổi heo mà lại đòi lấy vợ tuổi cọp. Hương kém tôi 3 tuổi, mới 13 thôi mà trông cứ mơn mởn ra, mỗi lần gặp nàng là tôi chỉ muốn cắn cho một cái. Trai làng tôi nhiều thằng nhìn nàng đôi mắt cứ hau háu, thèm nhỏ dãi, nhưng chúng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn thôi chứ không dám xáp lại gần. Lấy vợ tuổi cọp để về chầu ông bà ông vải sớm à?! Con gái tuổi Dần khó lấy chồng lắm, chả biết đã có bao nhiêu bà bị ở giá xuốt đời vì sanh nhằm năm Dần và đã có bao nhiêu ông sớm ngỏm củ tỏi vì lấy phải vợ tuổi cọp, thế nhưng người ta vẫn cứ kiêng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà lị!

Thày tôi ngày trước có đi lính Pháp, dù gì thì cũng đã có tiếp xúc với Tây học một tý nên không đến nỗi nào. Thấy tôi tuyên bố nhất định phải lấy Hương, dù hôm trước cưới, hôm sau có đi ngủ với giun ngay cũng cứ lấy, thày tôi bảo:

- Nó đã nhất định như thế thì mình cứ đi nói con đó cho nó. Biết đâu thằng này chẳng đặc biệt hơn người ta, tôi nghe kể heo rừng mà thuộc loại “lăn chai” thì cọp cụng chả làm gì được!

Nghe thày tôi nói, tôi đã mừng mừng nhưng bu tôi lại gắt lên:

- Ông có đẻ đâu mà ông đau, đã không cản nó thì chớ lại còn nối dáo cho giặc, không nghe cụ Lý Ngọ bảo “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” đấy à? Ai lại đi cưới con gái tuổi Dần về cho con mình, có mà điên!

Thày tôi cười khà khà:

- Gớm, cái lão Lý Ngọ ấy nói đã chắc gì đúng. Lão để mồ, để mả, coi hướng nhà hướng cửa, bói toán cho người khác thì được thế mà chính lão lại nghèo rớt mồng tơi!

Cụ Lý Ngọ người làng bên, làm thày địa lý và coi bói, cũng phét lác khiếp lắm. Nhờ cụ coi thế đất hoặc sửa hướng cửa, hướng nhà cho thì chỉ một bữa rượu với vài đồng bạc. Cụ khoe là đã để mồ để mả cho nhiều người, có người nhờ cụ mà ăn nên làm ra hoặc con cái học hành đỗ đạt làm đến tri phủ, tri huyện, còn những hạng như lý trưởng, chánh tổng thì khối. Có điều cụ làm cho người ta được, còn làm cho chính mình lại không được, hoặc giả là cụ quên chưa làm cho mình nên lúc nào cụ cũng chỉ có một cái quần cháo lòng với cái áo the thâm rách và cái khăn xếp dán nhấm tứ tung. Một hôm đi qua trước cửa nhà tôi, cụ đứng ngắm nghía một lát rồi lững thững bước vào. Nghe chó sủa, thày tôi chạy ra, may mà đúng lúc, nếu không thì cụ đã bị mấy con chó cắn cho te tua rồi, “chó cắn áo rách” mà lị!

Sau một tuần trà nước, cụ bảo:

- Tại căn nhà này quay về hướng Nam , chứ nếu mà hướng Bắc thì ông đã có 5 đứa con gái thay vì 5 thằng con trai rồi!

Chắc ý cụ muốn nói thay vì “Ngũ Quỷ” là “Ngũ Long” chứ gì. Thấy tôi ngồi học ở bàn, cụ gọi đến cho cụ coi, ngắm nghía một lát, cụ phán:

- Thằng này tướng mạo coi cũng tạm được, nhưng mặt này là mặt bán trời không mời Thiên Lôi đây!

Khi cụ đi rồi, tôi nghe thày tôi lẩm bẩm:

- Làm cửa về hướng Bắc để mùa Ðông gió Bấc thổi vào cho mà chết rét, còn nhà có nhiều con gái chỉ tổ lo ngay ngáy chứ nước mẹ gì, dốt thế mà cũng bàn!

Riêng tôi, chỉ nhìn hình dáng cụ là đã chán rồi, tôi hỏi thày tôi:

- Chắc nhà ông thày Ðịa Lý này ngon lành lắm hở thày?

- Không bằng cái bếp nhà mình!

Có tin vào thày bói cũng chỉ nên tin một phần nào cho nó vui thôi chứ chẳng nên tin nhiều làm gì.

Những vị có chân tài, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm chả nói làm gì, còn phần đông là những tay ấm ớ, nghèo rớt mồng tơi lại chỉ cách cho người khác làm giầu mới tiếu lâm chứ?! Cứ tin vào những điều các vị ấy tán hiêu tán vượn thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn! Làm cái gì cũng phải coi ngày, coi giờ, hạp với không hạp, kiêng cái này cữ cái kia... Cứ như việc lấy vợ của hai ông anh tôi thì rõ. Trước khi cưới dâu, bu tôi đã nhờ thày so tuổi, coi ngày đủ thứ, thế nên hai ông anh tôi mới dinh về được hai bà vợ, một bà thì như cái hột mít, còn một bà lại gầy đét như con cá hố!

Hai người con dâu này đều do bu tôi chọn cả. Tôi ấy à, nếu không lấy được người tôi yêu chẳng thà tôi ở giá cho đến già hoặc đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra chứ nhất định không chịu bắt chước mấy ông anh tôi.

Thày tôi xem chừng đã ngả hẳn về phía tôi, chỉ riêng bu tôi là còn găng lắm, có lúc bà nổi cơn tam bành chửi tôi thậm tệ, bà nhiếc: “Cho mày đi học ngậm bút sắt hay ngậm cái gì mà mày ngu thế? Tử tế không muốn lại muốn rước cái của nợ vào mình”. Có lần bu tôi lại dùng tình cảm để lung lạc tôi, bà mếu máo:

- Mày có chọc phá đền miếu nào không hở con, để đến nỗi những người khuất mày khuất mặt nổi giận mà phạt mày trở nên dở dở ương ương thế? Có thì bảo cho bu biết để bu sửa lễ tạ lỗi cho, kẻo càng ngày nó càng lậm vào thì khổ đấy con ạ, chứ cưới vợ đẹp về rồi lăn đùng ra chết thì cưới làm gì?! Mày nghe lời bu đi, chọn con khác, hễ bu nhờ thày coi tuổi mà thấy hạp là bu cưới ngay cho!


Mặc bu tôi nói gì thì nói, tôi vẫn khăng khăng chỉ lấy Hương của tôi thôi. Nói mãi mỏi mồm, bu tôi bèn đổi chiến thuật là không thèm nói gì đến tôi nữa. Trong làng tôi lại có tiếng xì xèo: “Ðã bảo là đẻ 5 thằng con trai, Ngũ Quỷ thì thế nào chả có một, hai thằng chẳng ra gì mà”! Ngoài ra họ còn đồn tôi là thằng dở hơi hoặc điên điên khùng khùng... Một lần Dì Năm, em gái của bu tôi tới chơi, lấy tay sờ trán tôi như mấy bà mẹ thường khám xem con mình có ấm đầu không rồi Dì hỏi:

- Mày có bị làm sao không thế hở con?

Tôi hỏi lại:

- Làm sao là làm sao hả Dì?

- Nghĩa là mày có ốm đau, bệnh tật gì không mà mày lại kỳ cục thế?

- Con có làm gì đâu mà Dì bảo là kỳ cục?

- Không kỳ cục làm sao mày tuổi Hợi lại đòi cưới con vợ tuổi Dần?

- Thế tuổi nào mới lấy vợ tuổi Dần được?

- Không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được!

Tôi ngập ngừng:

-Thế nếu Dì cũng tuổi Dần thì Dì có bảo là không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được không?

Bu tôi đứng bên cạnh, cho là tôi hỗn với Dì, sẵn tay cầm cái chổi, bà đập lên đầu tôi cái cốp làm tôi giật mình bỏ chạy.


Thế mới biết ở đời làm chuyện gì cũng phải có quyết tâm mới được. Việc càng khó thì quyết tâm càng phải cao, chứ nếu cứ xìu xìu ển ển, đến đâu hay đến đó thì còn lâu mới thành công được. Thày tôi tuy đã ngả hẳn về phía tôi nhưng là theo kiểu thụ động thôi, chứ thày tôi cũng không thể bênh vực tôi một cách tích cực được, dù gì thì cụ ông cũng phải nể cụ bà chứ! Riêng tôi, đã “chót đành phải chét”, làm một phát tháu cáy. Nếu bu tôi theo ván bài này tới cùng có lẽ tôi phải đổi chiến thuật khác. Thú thật, bỏ Hương để lấy người khác thì tôi không bỏ được, còn bỏ nhà đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra tôi cũng teo lắm, thế nhưng tôi vẫn phải tố một cú chót xem sao.

Một hôm tôi giả vờ sắp xếp quần áo bỏ vào một cái rương nhỏ, như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Tôi cố làm dềnh dang cho bu tôi thấy. Quả nhiên, tưởng tôi sắp bỏ nhà đi xa thật, bu tôi khóc bù lu bù loa:

- Ối giời ơi, con ơi! mày tính bỏ thày bỏ bu mày đi thật đấy à? Mày muốn lấy vợ thì bu lấy cho mày chứ bu có cấm cản gì mày đâu? Chẳng qua là bu chỉ không bằng lòng cho mày lấy cái con tuổi Dần ấy thôi. Ðẻ mày ra, nuôi mày từ lúc một bàn tay không hết, hai bàn tay không đầy cho tới bây lớn để mày giả nghĩa thày, nghĩa bu như thế đấy hở con?!

Dù chỉ mới dàn giáo thế thôi chứ tôi đã định đi ngay đâu, nhưng thấy bu tôi khóc thảm thiết quá, tôi cũng mủi lòng nước mắt, nước mũi chẩy lã chã, nói không nên lời:

- Bu không thương con thì bu cứ để con đi chết trận chết mạc, chết đông chết tây cho rồi!...

Quả thật là tiến thoái lưỡng nan. Làm cho bu tôi tưởng là tôi sắp đi, bây giờ không đi cũng kỳ, còn đi thật thì biết đi đâu? Ðang lúng túng không biết phải làm sao, thì may quá, cậu Út tôi tới. Bên Ngoại tôi chỉ có cậu Út là người danh giá và có uy tín với chúng tôi hơn cả. Chẳng những cậu có uy tín với đám trẻ mà còn uy tín cả với người lớn nữa. Cậu có bằng Ðíp lôm lại đang làm Nhật trình ở trên Hà Nội. Ngày đó ở quê tôi, các vị làm văn, làm báo được coi là danh giá lắm. Cậu Út làm Nhật trình tức là làm báo. Thỉnh thoảng cậu mới về thăm nhà một lần, đầu cậu chải bi-dăng-tin bóng loáng, tóc để cánh gà úp sát vào tai, chân đi giầy đơ-cu-lơ, quần tây trắng, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, túi áo cài chiếc bút máy hiệu Kaolo, thứ bút mà mỗi khi viết phải mở nắp rồi xoay xoay cho cái ngòi bút trồi lên, viết xong lại vặn cho cái ngòi bút tụt xuống rồi đậy nắp lại. Ngày ấy bọn trẻ chúng tôi thì thào chỉ mấy ông làm Nhật trình mới có loại bút đó. Mỗi lần cậu Út về, cậu kể chuyện Hà Nội tưng bừng, cậu nói gì người lớn cũng như đám trẻ chúng tôi đều tin hết.

Bước vào nhà, thấy bu tôi đang bù lu bù loa, còn tôi thì mếu máo, cậu mới hỏi đầu đuôi sự việc. Bu tôi kể câu chuyện tôi đòi lấy vợ tuổi Dần cho cậu nghe. Ðợi bu tôi nói xong, tôi cũng bầy tỏ nỗi lòng để cậu hiểu. Nghe xong, cậu cười cười hỏi tôi:

- Cháu định lấy cái con Hương, con ông Chánh Ðoàn ở xóm Giữa chứ gì? Vừa rồi đi đường cậu cũng có gặp nó, con này được, đã thắt đáy lưng ong lại mảnh mày hay hạt...

Quay về phía bu tôi, cậu tiếp:

- Chị mà được đứa con dâu như thế là quý lắm rồi còn đòi chi nữa. Còn cái vụ tuổi tác, hạp với không hạp, nó xưa quá rồi chị ơi. Cứ tin vào mấy ông thày bói thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn rồi hoa hồng không trưng đi trưng hoa cứt lợn!...

Thật cậu là người ăn học có khác, cậu nói câu nào cứ chắc nình nịch câu ấy. Chiều hôm đó, cậu ở lại dùng cơm với gia đình tôi và cũng nhờ sự dẫn giải của cậu mà bu tôi nghe ra. Cuối năm đó, tôi rước được con cọp yêu quý của tôi về nhà. Cậu Út tôi lại còn bảo:

- Cưới vợ rồi, nếu mày không muốn ở nhà quê thì lên Hà Nội làm Nhật trình với cậu. Cũng phải ra ngoài để mở mắt ra với người ta, chứ cứ lúi húi thế này mãi đến bao giờ mới khôn được?!

Người xưa có câu “Không vào hang hùm sao bắt được cọp con” thật đúng quá sức. Tôi không chỉ vào “hang hùm” một lần, mà đã mò mẫm vào nhiều lần, có thể nói là rất nhiều lần.. Cứ thế rỉ rả tôi đã khều ra được gần một tá cọp con, con nào con nấy đều rất dễ thương, còn con cọp mẹ thì càng ngày càng hiền khô à. Nghe đến đây có lẽ quý vị thày bói cảm thấy ngứa tai, “nghịch nhĩ” lắm đấy: Ừ, ba hoa cho lắm vào, đến khi lăn đùng ra chết nhăn răng mới không kịp hối! Quý vị rủa tôi như thế cũng chẳng sao. Tôi sinh năm 1935, tuổi Ất Hợi, còn con cọp cưng của tôi sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần. Con Heo 64, con Cọp 61.. Hai con ôm nhau ngủ đã gần 50 năm nay mà chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giả như bây giờ tôi có nhắm mằt xuôi tay mà về chầu ông bà đi chăng nữa thì cái câu “Tứ Hành Xung” của quý vị thày bói cũng là sai rồi!.. ....

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image

Tiểu Thơ
Phạm Tín An Ninh

Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào xem phim “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè lên bụng đau muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần thì nghe tiếng quát tháo:

– Ê! bộ ba “chàng ngự lâm pháo thủ” mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp, chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì… à… cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuổi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo, vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn “ô tô”:
– Số còn hên đó. Cái vélo không bị hư gì. Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một cái rồi rồ ga chạy mất tiêu.

Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội “con nhà không có lư hương”, bọn tôi cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước:
– Đ.m. con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh, nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mọng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi. Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trễ. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời sự: Tổng thống Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng, hồi mới ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó “đi dăm phút trở về chốn cũ”, vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.

Quê tôi ở ngoài Vạn Giã. Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái, sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình điện. Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: “cháu còn nhỏ mà coi bộ có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi, sau này dám qua mặt tao nữa đó “. (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc, nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu).
Cả năm cứ mong tới mùa hè là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với thương trường (!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một công trình “hợp tác mỗi bên cùng có lợi”. Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ..
Tôi rụt rè theo sau ông chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nể trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông chồng dược sĩ, có ông bồ là đại úy phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này. Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt mù. (Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô ca sĩ có giọng hát buồn…vào hồn không tên nào đó). Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.

Tôi ngồi sau lưng ông chú, ghi ghi chép chép cứ như là… phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn cơm. Một bữa ăn thịnh soạn từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà. Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi, thì tôi giật mình, sững sờ đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ… vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
– Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo thủ bị xe tông… ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
– À, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi bộ tây này còn xổ cả tiếng Nôm tiếng Hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chỉ có mỗi chữ “dạy kèm”thôi chứ sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà chỉ có mỗi một cô con gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ ngũ trường Nữ trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó…

Môn toán thì tôi không biết vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng tôi “tán bậy” con gái, nên phong cho tôi cái chức “bán tự vi sư nhất tự vi sư” để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé chọc quê tôi không biết.
Thấy “diễn nôm điển tích” mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay bút hiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về cuộc tình lãng mạn của hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả, cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt… nhìn xa xăm.
Có một điều tôi quên nói: cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân. Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ Huế nào cũng đẹp và… lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng nghe. Mẹ nàng vốn là một Phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tĩnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường theo cha lên chùa Hải Đức. Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là “chú tiểu” Lan, nhưng lại rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái này thì đúng là tiểu thơ muốn hại “đời tư” của tôi đây. Mang tiếng là học ban C nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng đọc:
N gày tháng trôi dần theo nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn vương
N ên tình mây nước cùng trăng gíó
H ẹn ở ngày mai một nẻo đường
YÊU vầng trăng sáng in cành lá
V à khúc nhạc lòng dâng đến hương
 n ái giờ đây là mơ ước
N gỡ một tâm tình một vấn vương
Cô bé đọc xong không biết có hiểu gì không, (mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu với không), gật gù khen và hỏi:
– Sao bài thơ không có tên?
– Có tên rồi đó mà tiểu thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh giấy:
– Tên với tựa gì đâu, không thấy, trả lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học trò:
– Thì Vân cứ ghép tất cả các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt, vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất:
– Không thèm chơi với Thầy nữa.
Nói là không thèm chơi, nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quý ông gia sư nhóc tì này, vì thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn.
Mùa hè năm đó, cô bé theo tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội. Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với “ông Thầy”, cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu…đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to của mình. Cô bé được ông già chở lên ga Nha Trang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ “đi là chết ở trong lòng một ít”, làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền và cám ơn rối rít.
Vậy mà cái tình yêu ấy (không biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường. Nhưng lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình… con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã trở thành người lớn và quên “ông Thầy” thích đọc thơ tình cho cô học trò… lim dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
Ra trường, tôi được bổ sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972, tôi bị thương trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về Quân y viện Pleiku điều trị. Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vị đề cử về Sài gòn trong đoàn “chiến sĩ xuất sắc” được Tổng Thống tiếp đón tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn độc thân thì hăng máu lắm, chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh “anh trở về dang dở đời em”. Nhưng chiến tranh đang hồi ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi, mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. “Chiến sĩ xuất sắc” được ưu ái đi bằng máy bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một phi công phản lực F5, thuộc dơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có ông xã hào hoa, đi mây về gió, vừa khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón đi Maxim nghe Lệ Thu hát bài Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn “đáo nhậm” đơn vị nữa. Cuối cùng nàng đến có một mình, “ông xã” vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một chút, mời “ông Thầy” uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt – mà chủ nhân thường pha chế đặc biệt cho riêng nàng- để nhớ những ngày cô còn ở đó.. Dường như khi đã lớn rồi, người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến tranh mà, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” biết đâu mà hẹn.
Tháng 3 /1975, Nhat Trang rồi cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số “di tản” vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi kéo xuống tham dự những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh xa lạ: Bến Lức, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, nhằm ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có “đại bàng”. Lần cuối cùng tập họp anh em lại hô “tan hàng” mà không còn nghe “cố gắng” nữa, thì tôi mới biết là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi! Thôi thì, xưa nay người ta đã nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô” mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi tôi được người “anh em” chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng “chính sách khoan hồng của kách mệnh”!
Tám năm lưu đày từ nam ra bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải “cảnh giác”, chứ không khéo cũng bị cùm vì cái tội “luyến tiếc quá khứ”. Bạn bè cùng cảnh luyến tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò, và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm “gia sư” của tôi còn hơn là nhớ tới mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn “ta vốn hiền khô – ta là lính cậu, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem chiến cuộc như tai trời ách nước”. Tôi hình dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ. Ông xã là không quân mà, lại đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố xưa, tôi có cảm giác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là “hang động tuổi thơ”của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang – Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến.
Một hôm tôi đang lui cui đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
– Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt đầm đìa.
– Tiểu Thơ, à quên…Vân, làm sao mà em lại ra đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng, không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng:
– Ông xã em bị kẹt ngoài Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yểm trợ cho anh em Thủy Quân Lục Chiến rút về Đà Nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không, nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
– Còn ba em đâu?
– Nhà cửa ba em bị tịch thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
– Vậy bây giờ Vân ở với ai?
– Em ở với con gái em. Nó gần mười tuổi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó tôi gặp lại nàng chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người khác, bởi không đủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện vượt biên.
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng, thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi, tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà. Anh cho biết là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Na Uy vớt trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Na Uy là nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali,.Anh chị vừa có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa con trai còn nghi ngút khói hương.
Sáng hôm sau, anh chị đưa tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với Sư Bà trù trì, Bà rất quý anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do công sức của anh cúng dường.
Ngôi chùa không lớn lắm, khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa. Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được một cô Phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng ngọ.
Khi ông anh bà chị đứng bật dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ và trông rất phương phi, nhất là hai tai thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận Bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên, tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ.
Điều ngạc nhiên hơn là Sư Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha Trang đang tu ở chùa này, trong đó có con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa. Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết, chỉ còn lại một mình. Ban đầu Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân tiện bà giới thiệu với mấy ni cô gốc Nha Trang cho biết, bởi tôi cũng là một Phật tử thuần thành.

Tôi theo ông anh bà chị xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại:
– Chú là người lạ, không nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn dài, gồm các ni cô và một vài Phật tử, chỉ có chúng tôi là “dân sự”. Sư Bà giới thiệu chúng tôi là đồng hương, những Phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới có đôi mắt ấy mà thôi

Dùng cơm xong, là đến giờ nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện kim để trùng tu chánh điện.

Tôi từ giã Sư Bà, trong lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng, ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay “chú tiểu” Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng, mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.

Phạm Tín An Ninh

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Những Đứa Con Của Má

Song Nhi
Hồi nội đem trầu cau cưới má về cho ba, nhiều người nói má có phúc lấy chồng ăn học đầy mình . Đã vậy còn đẹp trai, con út , vườn ruộng thì mênh mông. Bên xứ đó biết bao con gái vậy mà qua tuốt miệt này cưới má . Sau đám cưới một tuần má lên chức má liền. Không phải má của Dung đâu . Bởi lúc đó Dung còn là một sinh linh bay phất phơ tận phương nào . Má thành má của một đứa nhỏ hai tuổi ốm nhách ốm nhom tên Xiêm . Con của ba với một cô miên lai nào đó ở miệt Sóc Trăng – Trà Vinh .

Một năm sau má sinh thêm Dung , suốt khoảng thời thơ bé của mình Dung gặp Bác Hai ở trên xóm chợ nhiều hơn ba mình . Ba Dung làm soạn giả , kiêm dàn dựng kiêm luôn ông bầu cho một đoàn gánh hát . Chắc vì kiêm nhiều việc như vậy nên ba đi quanh năm , suốt tháng . Quên luôn mình còn có vợ , hai con gái và một bà mẹ già ở cái xóm Xẻo Mây này. Gánh của ba hát hay cở nào đi lưu diễn bao nhiêu tỉnh miền Tây thì Dung với má không biết. Dung chỉ biết má với Dung chưa một lần được coi đoàn của ba diễn. Ba nổi tiếng nổi danh ra sao cũng chẳng biết . Chỉ biết ba chỉ về nhà khi ba cần tiền mà thôi .

Ba về lâu thì bữa trước bữa sau là đi , mau thì ăn xong bữa cơm . Trước khi đi bao giờ trong tay ba cũng có cái kim tây đính một hai khâu vàng của bà nội đưa . Nội không đưa thì má cũng đưa vậy thôi, không có gì khác biệt. Những lần ba về chị hai Xiêm và Dung đứng lấp ló chỗ hàng cột nhà lén len nhìn ba . Tóc ba mướt rượt , quần áo thẳng băng không như ba của tụi thằng Tí hay con Lượm . Chị hai với Dung không dám mơ được ba làm nhong nhong cho mình cưỡi như ba tụi nó . Chỉ muốn được ba ôm một cái để hít hà mùi dầu thơm trên người ba cho đã . Nhưng chắc tại chị hai Xiêm lem nhem nên ba không nhận ra được đó là con gái của mình . Cũng như sợ ẵm Dung sẽ làm nhăn mất bộ đồ hổng chừng .

Lần này ba về bốn ngày rồi mà ba chưa đi . Không ai biết lý do gì nhưng Dung biết . Sáng hôm kia má đi chợ , Dung nghe giọng nội cương quyết :

- Bây đói thì về đây tao nuôi . Tao không cho bây tiền làm tuồng dựng tuồng gì đó nữa. Bao năm nay bây rút rỉa nhà này giờ còn cái vỏ mục chớ còn cái gì đâu . Chuyện bây tác tệ bên ngoài tao biết hết . Nhưng tao nói trước cho bây biết , nhà này chỉ có con dâu duy nhất là má con Dung thôi . Bây mà dẫn cái ngữ ẻo lả , ngã ngớn đó về . Tao vác chổi chà tao đập cho mang nhục .

Ngày hôm sau thì ba đi . Lúc xuống đò ba còn dặn đi dặn lại má ” Coi ráng chạy dùm anh nghe mình ” . Đó là lần đầu tiên Dung nghe ba gọi má ngọt ngào êm dịu như vậy .

Cả tuần đó má quơ quào từ vườn sau ra tới nhà trước . Bầy vịt định nuôi đẻ , đám heo mới vô tạ , cá dưới ao , má đem bán hết . Bán mão * luôn đám xoài cát sau vườn . Sợ ba trông , thay vì nhắn ba về như dự định . Má tất tả dẫn theo chị hai với Dung đón xe đò đi tới chỗ đoàn hát của ba đang diễn. Khuya , má tần ngần thở dài mấy lần khi gói cặp vòng cưới chạm kiểu bánh ú trong cái khăn mùi xoa . Má sợ chưa đủ số ba cần .

Tới chỗ đoàn hát của ba đang dựng rạp thì trời đã trưa . Má kêu hai ly nước mía trước cửa rạp cho chị hai Xiêm với Dung uống . Biểu hai đứa ngồi yên đó đừng chạy lung tung . Nói đôi ba câu nhờ dì bán nước mía ngó chừng . Má đi vội vô rạp kiếm ba . Má nói đi một chút mà Dung uống hết ly nước mía cả buổi trời hổng thấy má trở ra . Tới lúc chị hai Xiêm ngủ gục lên gục xuống mới thấy má ra. Hồi đi má nói sẽ ở mấy ngày cho hai chị em coi hát đã luôn . Vậy mà trả tiền nước mía xong má xốc lại giỏ đệm má biểu chuẩn bị về cho kịp chuyến đò chiều . Mặc kệ dì nước mía có lòng nài giữ , dì nói :
- Chị về chi giờ này cho mệt , sáng mai hãy về cho khoẻ . Chắc chị có bà con là đào kép gì hả . Nếu chị hổng ngại chị lại nhà tui nghỉ ngơi . Tối nay đoàn hát tuồng Dương Qúy Phi hay lắm . Cô Mỹ Hạnh vợ ông bầu Thanh đóng vai chánh . Đào hát ở Sài Gòn chính tông nghe . Trời ơi , cổ đẹp hết biết luôn …

—–
Bẵng đi mấy năm , hôm đó lối xế xế chiều . Nghe con Mực sủa inh ỏi ngồi ngõ má bước ra . Thấy một người đàn bà trẻ đẹp tay bồng , tay dẫn con nhỏ . Đứng bợ ngợ trước cổng rào . Má đon đả mời vô nhà uống miếng nước . Miệng hỏi chớ em kiếm ai . Người đàn bà chần chờ một chút rồi nói kiếm người bà con mà tìm nhà không ra . Không biết họ dọn đi chỗ khác hay sao đó . Má ừ hử theo , má nói giờ nhiều người dọn tới dọn đi nên nhiều khi một ngày một bữa kiếm không ra . Rồi má mời người đàn bà đó ở lại ngủ mai hảy kiếm tiếp . Mặc cho nội rầy rà dân cù bơ cù bất biết tốt xấu thế nào mà rước vô nhà . Lỡ gặp dân lừa gạt sáng ra không còn cái quần mà bận . Mà má cũng kỳ ghê nơi , cho người ta ở nhờ là tốt rồi . Má còn mần gà nấu cháo đãi người ta . Chị hai Xiêm hỏi :
- Mắc mớ gì không dọn canh rau má cá kho đang ăn mà phải mần gà vậy má .
Má thở hắt ra , trả lời :
- Người ta dân Sài Gòn sợ ăn không quen đồ ăn ở quê.
Má thiệt là hay nhìn sơ vậy mà biết người ta dân Sài gòn dù má chưa đi Sài gòn bao giờ .

Sáng ngày hôm sau nhà không bị mất mát cái gì . Ngược lại còn dư ra nữa là khác . Dư hai đứa nhỏ đang ngủ trên bộ ván và cái phong thư được dằn bằng ly uống trà để trên bàn . Nội kêu chị hai Xiêm đọc coi phong thư nói cái gì . Chị lập cà, lập cập vừa đọc vừa đánh vần, chữ được chữ mất. Chị đọc xong thì nội kêu trời ơi, đất hỡi. Biểu Dung chạy lên chợ kêu bác hai xuống liền cho Nội . Bác hai xuống tới nói đôi ba câu Nội lại sai bác đi kêu ba về gấp . Về liền coi thực hư ra sao .

Còn phần má , hổng cần tới cái thư bởi má hổng biết chữ . Nhưng Má vẫn biết hết , Má biết người đàn bà đó tên Mỹ Hạnh . Má nhớ rõ vóc dáng gương mặt ấy dù chỉ nhìn lén thoáng qua có một lần . Chắc tại cổ ỷ y tưởng má hổng biết mặt cổ . Ui, mà cần gì biết . Nhìn tay cổ đeo hai chiếc vòng kiểu chạm bánh ú thì má biết cổ là ai liền . Ngay khi cổ cùng hai đứa nhỏ ngồi trên bộ ván má cũng đã biết hai đứa nhỏ đó con ai luôn kìa . Chẳng cần tới chờ ba về xác nhận .

Tuần sau , má xách cặp gà tơ mập ú với giỏ xoài cát chín cây đi lên nhà ông chủ tịch xã . Vợ ông chủ tịch xã hồi trước ở chung xóm với nhà nội . Chẳng biết do ông chủ tịch xã thông cảm hoàn cảnh má . Hay do sợ oai bà chủ tịch xã . Chỉ biết hôm sau má xách cái sổ hộ khẩu lên xã thì ổng lấy con dấu đóng lộp cộp gì đó trên mấy tờ giấy. Vậy là má có thêm liền hai đứa con nữa khỏi phải đẻ chửa gì ráo trọi .

Nhiều bữa thấy má ăn chén cơm mà bỏ lên bỏ xuống mâm hai ba lần . Tay này chan canh cho bé Thủy , tay kia lấy xương cá cho út Thông . Nội lại kêu trời kêu đất : ” Dâu ơi , dâu hỡi bây hiền chi mà hiền dữ vậy ”. Nào đâu chỉ có vậy má trần thân lai nhộng với tụi nói. Mấy tháng đầu đêm nào thằng Thông cũng thức giấc khóc rỉ rả cả tiếng đồng hồ . Má một tay xoa lưng nó miệng ầu ơ ví dầu .
"Ngủ đi con ngủ ngoan má thương" . Vậy mà nó cứ luôn miệng gọi má ơi , má ời .

Con Thủy chiều chạng vạng nào nó cũng ra đứng trước cổng rào khóc hù hụ như ma trù . Má hỏi nó nhớ má nó hả , nó lắc đầu nói không phải . Nó khóc vì nó sợ tiếng con Vạt Sành kêu trên cây mận hồng đào trước sân . Nó nói có câu vậy thôi đó . Bữa sau má xách dao ra đốn bay cây mận hồng đào bự chảng . Không ai dạy ai biểu nó hết mà bữa kia thấy má ngồi phơi đậu xanh trước hàng hiên . Nó lụm cái nón lá má để gần đó lon ton chạy lại đứng sau lưng quạt quạt hỏi " mát hông má , má bớt mệt chưa má" . Má cười trả lời với nó "má mát , má hổng mệt" trong khi mồ hôi vẫn chảy thành dòng trên mặt .

Ba gần như là biệt tích biệt tăm . Không phải ba bận rộn như hồi xưa đâu . Sau khi cô đào chánh Mỹ Hạnh đi theo người tình mới vài tháng . Ba cũng bán gánh hát lại cho người khác . Ba về trồng kiểng làm thơ cùng người yêu dấu mới của ba . Một bà góa trẻ ở gần chợ Tam Bình .

Năm đó , mới ra giêng thì ba về . Mém chút nữa Dung không nhận ra ba . Ba gầy yếu ,mái tóc bù xù , nước da vàng vọt , khác với dáng dấp phong độ thường ngày . Chiều ngày ấy trong khi nội vẫn kêu ” trời ơi , đất hỡi ” như thường lệ ở nhà trên thì má ngồi khóc hu hu ở sau bếp . Má kêu bốn chị em Dung lại dặn dò chị hai Xiêm những công việc vườn ruộng , heo gà . Phần Dung má cắt đặt lo nấu cơm , nấu nước . Thủy với Thông phải luôn ở nhà trên để nội sai biểu lặt vặt . Má nói ba bị sơ gan cổ chướng nặng lắm . Do hồi trước ba uống rượu với hút thuốc nhiều . Sắp tới má phải lo đi chạy thuốc với ba . Bốn chị em thương má thì phải nghe lời má dặn .

Má bắt đầu những tháng ngày giành giật ba với tử thần . Thời đó chưa có xạ trị như bây giờ chỉ dựa vào thuốc nam thuốc bắc . Chỗ nào nghe có thầy hay má cũng lặn lội đưa ba tới coi mạch hốt thuốc. Ngày xưa , với những người đàn bà của ba , má còn giành giật không lại . Huống hồ chi bây giờ là tử thần . Gần một năm sau ba mất .

Một năm sau ngày ba mất , bữa chiều kia đang ngồi trên trường kỷ , nội bảo thấy nhức đầu . Nội vừa mới bước xuống đất định lại hộc tủ lấy chai dầu thì nội ngã ngang ra . Khi nội tỉnh dậy phân nửa người bị liệt không thể đi đứng như xưa . Thầy thuốc bảo nội trúng gió . Má tiếp tục chạy thầy chạy thuốc nhưng nửa năm sau nội cũng qua đời . Má thường ngày đã ít nói bây giờ càng ít nói hơn . Má như cái bóng câm lặng chỉ biết làm việc quần quật từ sáng tới chiều để nuôi bốn đứa con đang tuổi ăn , tuổi lớn .

Hôm đám giỗ đầu xả tang bà nội có một ông khách lạ đi cùng bác hai tới dự . Lạ vì trước giờ ổng không có qua lại chi với nhà Dung cũng không phải dòng họ bà con . Chớ ai cũng biết ổng là ông chủ tiệm tạp hóa Thuận Bình có cái nhà lầu bự chảng ngoài chợ gần nhà bác hai .

Tối đêm đó bốn chị em Dung núp ở ngoài mấy tấm ván bên mé hiên để nghe lén coi Bác hai nói gì với má . Dung nghe bác hai trai khuyên má tái giá với ông chủ tiệm tạp hóa . Bác nói má cực khổ nhiều rồi . Một thân một mình bốn đứa con làm sao mà lo xuể . Bác nói ổng là bạn bao năm với bác , người tử tế đàng hoàng , vợ chết sớm ở vậy nuôi con khôn lớn . Ổng qúy , ổng thương cái tính hiền lành chịu khó của má . Nhiều người cũng bẹo dáng , bẹo hình nhưng ổng không có chịu . Bác hai gái cũng nói thêm vào , bác nói:
- Anh tư Bình là bà con bên tui thành ra tui biết rõ gia cảnh ảnh . Thím đừng có lo những chuyện rườm rà sau này . Mấy đứa con của ảnh tụi nó hiểu chuyện lắm . Biết ảnh muốn chấp nối với thím tụi nó mừng . Ủng hộ nói vô hết mình . Thằng con lớn cưới vợ ảnh cũng chia phần ăn cho nó hẳn hoi . Con nhỏ kế thì có người ta đi hỏi rồi . Thằng út thì đang đi học sắp ra trường . Hai chị em nó đang ở cái nhà anh Tư mua trên Sài gòn hồi mấy năm trước .
Ảnh có nói với tui nếu thím ưng mọi chuyện sau này tùy ý thím hết. Thím dẫn tụi nhỏ ra đó cùng buôn bán . Giả như thím thích ở vườn ruộng . Nhà ngoài chợ ảnh cho thuê lấy tiền mỗi tháng rồi ảnh mua thêm đất đai về đây hủ hỉ cùng thím với mấy đứa nhỏ . Nói chung cần tình nghĩa với nhau chớ cuộc sống cơm gạo coi như không cần lo . Thím nghe anh chị khuyên , bước thêm bước nữa . Có người bầu bạn đở hẩm hiu lúc tuổi già . Con cái tụi nó phải lớn rồi lấy vợ lấy chồng đâu có ở cùng mình hoài được đâu .

Những ngày sau đó cứ đôi ba hôm vào xế chiều bác Tư đi cùng vợ chồng bác hai vào thăm má con Dung . Lần nào bác tư cũng xách lỉnh kỉnh bánh trái qùa cáp . Bốn chị em Dung thì thầm đoán già đoán non chuyện má có lấy chồng nữa không . Chị hai Xiêm nói tùy ý má còn Dung quen không có ý kiến xưa nay . Út Thông hình như nó thích bác Tư nhất là sau khi bác cho nó mấy món đồ chơi . Riêng con Thủy thì ngược lại nó nói một cách dứt khoát "Em , hổng cho má lấy chồng đâu" .Tưởng nó nói giỡn chơi ai dè nó làm thiệt .

Hôm trước lúc chạng vạng khi bác hai cùng ông bác tư ấy ra về . Vừa tới cây cầu nhỏ bắt qua con rạch thì hỡi ơi cái cây làm tay vịn cầu không cánh mà bay . Người nhà quê như mấy chị em Dung không cần tay vịn vẫn đi ào ào . Nhưng người ở chợ như những vị khách ấy thì lại khác . Má giả lả bảo chắc mấy đứa con nít trong xóm sơ ý làm rớt cây tay vịn . Má sai Dung với chị Xiêm lấy hai cây trúc thật dài cắm xuống bên mé rạch để mấy bác vịn vào như chống sào để đi cho dễ .

Quay vào nhà việc đầu tiên má gọi con Thủy hỏi nó giấu cây vịn cầu ở đâu mau ra gắn lại . Má nói nó làm vậy là vô phép , người ta biết sẽ cười má không biết dạy con . Còn như nữa má sẽ bắt khoanh tay qùy gối ở trên nhà trên . Lúc đầu nó chối nhưng khi nghe má nói "Con là con của má tánh nết con ra sao má biết rõ" thì nó cúi gầm mặt mím chặt môi . Chợt nó ngước mặt lên nói :
- Con hổng làm vậy nữa . Nhưng má đừng lấy chồng được không má . Hông ấy , con nghĩ học cho má đở cực , má đừng lấy chồng nhe má .
Nó nói tới đó thì mếu máo khóc . Thằng Thông chẳng biết trời trăng gì , thấy con Thủy khóc cũng hùa theo khóc . Nó ôm lấy má như sợ ai đó giật má đi mất hổng bằng . Nó nói bằng giọng ngọng nghịu :
- Con hổng cần mấy chiếc xe đồ chơi đó nữa . Chút con liệng nó xuống sông . Má đừng lấy chồng nghe má . Má đừng bỏ út Thông nghe má ….
Chị hai Xiêm với Dung đứng gần đó cũng oà khóc theo . Má đưa tay ngoắc chị em Dung Lại . Má ôm đứa này , rờ đầu đứa kia . Nước mắt má chảy ròng ròng mà miệng má cười , má nói :
- Má có nói má lấy chồng hồi nào đâu . Tụi con đừng khóc má không lấy chồng , má ở vậy với tụi con . Cuộc đời của má chuyện gì cũng thua kém , không bằng người khác . Cái má được nhất là có bốn chị em con . Thương má , cố gắng học hành nên người tử tế .

Không biết má nói gì mà bác Tư Bình không còn tới nhà nữa . Nhưng chắc chắc không phải sợ cái câu hăm dọa của con Thủy "Ổng mà còn tới nữa em dỡ cầu để ổng lội rạch về cho biết" . Người ta ở quê nuôi một đứa con đi học đã là chuyện khó . Đằng này bốn chị em Dung đều tới trường đầy đủ . Trăm dâu đổ đầu tầm má quần quật từ sáng đến chiều với ruộng vườn . Hết heo gà tới trồng rau trồng cải chuyện gì má cũng làm tuốt luốt .

Năm đầu tiên chị Xiêm học đại học ở Sài gòn thì gặp anh Hải . Anh là cháu ruột bà chủ khu nhà trọ chị đang thuê ở để đi học . Anh từ Mỹ về thăm họ hàng , trời xui khiến thế nào mà anh và chị phải lòng chị nhau . Anh ngỏ lời nếu chị ưng thuận thì anh sẽ cưới và rước chị về bển . Nhưng chị lại từ chối lời đề nghị của anh . Má biết chuyện má nhắn chị dẫn anh về quê chơi . Tối đó không biết Má nói gì với chị mà sáng bữa sau chị lại đồng ý lời đề nghị của anh.
Đám cưới được gấp rút tổ chức ngay sau đó . Dung hỏi má , má cười cười rồi nói :
- Má thấy cậu Hải mặt mũi dễ coi , nhìn cũng đàng hoàng tử tế . Má biết hai Xiêm nó cũng thương người ta . Nhưng chị hai bây hổng nở xa má với tụi bây . Nó muốn ở đây đở đần má … Con má tánh ý ra sao má biết rõ . Bởi vậy , má kêu nó đừng vì má mà lỡ duyên nợ. Má còn khoẻ còn lo tụi con được . Mai mốt má già báo hiếu má cũng chưa muộn .

Đám cưới xong , hai năm sau thì chị Xiêm theo chồng về Mỹ . Bữa đưa chỉ đi ra sân bay bốn chị em ôm nhau khóc sướt mướt . Chỉ có má là không khóc , má còn rầy mấy chị em là không được khóc người ta cười cho . Phải mừng cho chị chứ , có đâu khóc bù lu bù loa như con nít . Vậy mà , chị đi rồi ba ngày sau má đụng cái gì đổ bể cái đấy . Lá thư đầu tiên gửi về chị bảo bên nhà chồng rất tốt với chị . Sắp tới chị sẽ đi học tiếp . Chị kể chị nằm mơ thấy cùng với chị em Dung đi nhổ bông súng về nấu canh chua cá linh . Tỉnh giấc dậy chị nhớ nhà òa khóc khiến chồng chị phải an ủi mãi . Chắc sợ bấy nhiêu đó không đủ diễn tả nỗi nhớ của mình . Cuối thư chị còn nhắc lại "Nhớ má qúa trời má ơi" . Báo hại cả tuần sau đó má cứ lấy cái thư ra nhìn ngó hoài . Dù má không biết đọc rồi má lại lén lén kéo cái khăn lau nước mắt .

Bẵng đi một thời gian chừng năm mấy . Trong một lá thư khác chị Xiêm nói chị gặp một người tên là Caroh Lê . Chính là cô đào hát Mỹ Hạnh ngày xưa . Bà là khách quen của tiệm Nail nơi chị đang làm . Một lần bà thuận miệng hỏi chị ở tỉnh nào của miền Tây . Hỏi hỏi nói nói thế nào mà nhận ra là quen biết nhau . Nghe chị bảo Thủy và Thông đều đã lớn và học hành rất giỏi bà vui lắm . Chị nói bà bây giờ giàu có do ông chồng chết để lại rất nhiều tiền của . Bà có một đứa con với chồng sau . Hiện tại bà đang cặp kè với ông ca sĩ của một trung tâm ca nhạc . Nên thỉnh thoảng bà vẫn đi hát cho vui trong những dịp họp mặt , hội hè .

Mấy tháng sau , vào giữa mùa hè lối xế xế chiều có bà rất đẹp sang trọng đứng tần ngần trước ngỏ nhà Dung . Cũng y chang như hồi xưa má biết bà ta tên Mỹ Hạnh . Biết lý do bà ta tới nhà nên má lật đật mời người ta vô nhà rồi hối Dung bắt gà nấu cháo . Mấy hôm sau bà ta xin phép má đưa Thủy và Thông cùng đi chơi với bà ở đâu tận Nha trang – Đà lạt . Đúng ra bà mời cả nhà Dung cùng đi nhưng má từ chối khéo . Má nói má đi xe không quen vả lại con Heo nái ở nhà gần đẻ nên má phải canh chừng . Má không đi thì Dung dĩ nhiên cũng không đi .

Một tuần sau khi trở về nhà . Thủy với Thông tranh nhau kể cho má nghe chuyện đi chơi ở đâu . Chuyện bà Hạnh mua sắm cho mình những gì . Buổi tối , bà Hạnh ướm lời muốn làm giấy tờ đem Thủy và Thông về bển cùng mình cho có tương lai thì má gật đầu cái rụp . Như thể má đưa cho người ta hai cái trứng gà , trứng vịt chớ không phải hai đứa con của mình . Thế nhưng ngay lúc đó con Thủy lên tiếng liền , nó nói tỉnh khô hà , nó nói :
- Con cám ơn má còn nhớ tới tụi con và lo lắng tương lai cho tụi con . Con bây giờ đủ trí khôn biết quyết định cho cuộc đời mình . Con không đi đâu hết , con ở đây với má lớn và chị quen rồi . Út Thông nó có theo má thì theo chứ con thì không …
Biết tính con Thủy cứng cỏi đó giờ nên má quay qua khuyên nó , má nói :
- Đi đi con cho sung sướng tấm thân , má vẫn còn chị ba mày đở đần tay chân , đừng có lo cho má . Chừng nào quởn quởn thì về thăm má …
Không chờ má nói hết con Thủy cắt ngang lời :
- Đó giờ con có thấy cực khổ gì đâu má . Má kêu con đi chi bằng má kêu con nhảy sông chết khuất cho rồi .
Thấy khuyên lơn con Thủy không xong má quay qua thằng Thông . Nó xưa giờ ngoan hiền luôn nghe lời má . Nhưng má chưa kịp nói gì thì nó đã lắc đầu không ngừng và mếu máo nói :
- Hông con ở đây với má với mấy chị . Con hổng đi đâu hết , má đừng đuổi con đi nhe má , tội nghiệp .
Vậy cái má khóc , má khóc thì hai đứa nó với Dung cũng khóc theo.
————

Trong bốn chị em nhà Dung , Thủy xinh đẹp hơn hết tính tình cũng khác . Thủy mạnh dạn dám nghĩ dám làm như đàn ông , con trai. Hễ nó muốn làm cái gì là làm tới đầu tới đuôi . Má thường bảo trong bốn đứa con người má lo lắng nhất là con Thủy . Nhiều lúc Dung nói chơi với má nó không ăn hiếp người ta thì thôi , ai dám ăn hiếp nó mà má lo .

Hồi nó mười tám , mười chín tuổi đã có nhiều người ngoài xóm chợ giàu có mai mối xa gần . Nhưng nó chẳng quan tâm tới . Những khi ai mà khen ” con nhà ai nhìn ngộ qúa dễ thương qúa ” thì nó trả lời kiểu khơi khơi , nó nói :
- Giống má tui chớ ai , đừng có thấy má tui nhà quê mà lầm nghe , gái Nha mân chính gốc đấy . Đẹp nhất xứ bên đó nếu không nội tui đâu lặn lội qua tới bển cưới . Hồi ba tui mới mất má tui một nách bốn con mà vẫn có người đi hỏi cưới á . Tui còn lâu mới bằng má tui hồi trẻ …

Dung học sư phạm ra trường Dung xin về dạy gần trên xã cho gần nhà thì Thủy vào đại học . Dung quen rồi đi tới hôn nhân với Tánh làm hiệu phó trong trường . Trước đám cưới má kêu hai vợ chồng Dung lại . Má nói má cho hai đứa miếng đất kế bên để cất nhà ở riêng cho thoải mái . Nhưng Tánh không chịu , Tánh nói :
- Con cám ơn má nhưng ở riêng làm chi má ơi . Nhà mình cũng đơn chiếc cứ để tụi con ở chung phụ hợ má một tay . Chừng nào út Thông lớn cưới vợ hãy tính tiếp . Nhà con ở bển đông anh em nên không cần phải lo nhiều .

Ngày đám cưới Dung chị Xiêm mới sinh con còn non ngày tháng nên không về được . Trước đám cưới mấy bữa Thủy dẫn bạn trai về cho má biết mặt như đã hứa . Lần đầu gặp mặt bạn trai Thủy , Dung một phen hết hồn . Cậu con trai ấy cao ráo dễ nhìn nhưng hai cánh tay xăm chằng chịt những hình thù xanh đỏ như dân anh chị . Dung đem chuyện đó nói với má , kêu má dò hỏi Thủy không khéo lại rước họa vào thân . Bữa chiều lúc Thủy lui cui nấu cơm dưới bếp . Không biết má hỏi chuyện gì với nó mà sau đó coi mòi má ủng hộ tình cảm hai đứa . Dung dò hỏi má thì má nói một câu giống như hồi chị hai Xiêm lấy chồng , má nói : ” Con má tánh ý ra sao , má biết rõ ” .

Dung sinh đứa con đầu lòng là lúc đám cưới Thủy với cậu con trai ngày trước . Cậu ta là con chủ quán ăn mà Thủy đi làm thêm thời sinh viên . Hồi trẻ nghe đâu cậu cũng có một thời quậy phá nhưng từ khi quen Thủy thì mọi chuyện thay đổi hoàn toàn . Chẳng biết Thủy nhìn người đúng hay do má hên nên đoán trúng . Chỉ biết chồng Thủy tướng tá như con voi như vậy chứ Thủy hét một tiếng là chạy te te . Cưới vợ về thì nhất mực thương yêu chí thú lo mần ăn .

Thủy sinh đứa con đầu lòng thì Thông ra trường và lấy vợ . Chẳng biết thế nào mà Thông lại lọt vào mắt xanh của một cô dân Sài gòn chính gốc , nhà mặt phố . Thường ngày má hay nói Thông là đứa ngoan ngoãn và khiến má yên tâm nhất . Thế mà Thông cũng chính là đứa có nhiều rắc rối nhất trong cuộc sống gia đình .

Đầu tiên chuyện Thông cưới vợ . Dung là người đầu tiên lo lắng bởi vợ Thông vốn con nhà giàu được nuông chiều từ nhỏ . Người ta tiểu thư biết có hợp với nhà mình không . Thật tình Dung mong Thông cưới một cô vợ ở quê hơn .Sau khi nói một câu cũ rích ‘‘ Con má tánh ý ra sao má biết rõ ” thì má xách trầu cau đi hỏi vợ cho Thông . Sóng gió bắt đầu xảy ra từ lúc vợ Thông sinh đứa con đầu lòng . Trước đó , Thủy đã nhiều lần nói với Dung chuyện Hằng vợ Thông có ý khinh khi , chê má nhà quê . Hằng luôn tìm cớ tránh né để khỏi về quê chồng trong những dịp lễ tết hay giỗ kỵ .

Chuyện ngày càng lớn hơn khi bé Ngọc con Thông được vài tuổi . Một lần má lên thăm hai vợ chồng Thông . Khi má đưa cho bé Ngọc những qùa bánh dưới quê con bé cứ lắc đầu không chịu lấy . Má gạn hỏi nó ngây thơ trả lời là ” mẹ dặn như vậy ” . Chiều đó khi Thủy qua chơi chị giúp việc tọc mạch lại cho Thủy nghe . Với bản tính của mình Thủy làm ầm lên chưởi Thông không biết dạy vợ rồi một hai xách giỏ bắt má qua nhà mình ở . Về sau hễ má lên Sài gòn thăm cháu . Ngồi chưa nóng đít bên nhà Thông là Thủy xách xe chạy qua rước má về bên nhà mình . Từ đó sinh ra xích mích không thuận thảo với vợ chồng Thông . Khiến cho má buồn lòng thành ra mấy năm liên tiếp má không đi Sài gòn thăm cháu như hồi trước .

Người ta hay nói con nhà tông không giống lông cũng giống cánh thiệt hổng sai .Thông làm việc ở khối ngân hàng chẳng liên quan chi tới nghệ thuật . Nhưng Thông cao ráo đẹp trai , phong độ giống ba hồi trẻ . Thông lại có khiếu với cái đẹp . Thông thích chụp ảnh từ thời sinh viên . Tay ngang không qua trường lớp gì hết mà Thông lại đoạt giải trong một cuộc thi ảnh . Sau đó thì được người ta mời chụp cho mấy cô ca sĩ người mẫu . Thuận theo lẽ tự nhiên nhiều cô gái đẹp vây quanh Thông vì nhiều nguyên do riêng . Mới đầu Hằng cũng ghen tuông rồi ghen thế nào không biết mà Thông đòi li dị . Người ta đồn thổi về chuyện một cô người mẫu triển vọng đang ra sức mồi chài Thông .

Một bữa chừng xế trưa má đang ngồi trên võng trước hiên nhà . Vợ Thông dẫn bé Ngọc xuống tới . Vừa thấy má Hằng oà lên khóc tức tưởi . Hằng bảo Thông dứt khoát đòi li dị dù Hằng năn nỉ hết lời , Hằng nói :
- Hôm bữa con có qua nói cho chị tư nghe . Chị giận lắm chị có đi gặp con hồ ly tinh đó làm cho một trận . Nhưng mà nó nhất khoát không chịu buông anh Thông ra . Chị Hai cũng điện thoại về can ngăn anh Thông nhiều lần mà ảnh không nghe . Má giúp con với má ơi , ảnh mà li dị con với bé Ngọc phải làm sao đây .

Nhằm ngay mùa hè không có đi dạy nên Dung đi cùng má và vợ Thông trở ngược lên Sài Gòn . Tới nhà Thủy thì trời xế chiều . Trong khi Thủy hặm hực kể lại chuyện Thông bồ bịch và không nghe lời mình thì má kêu Dung gọi điện thoại cho Thông nói má lên vậy thôi .
Sau bữa cơm chiều Thông ghé qua nhà . Vừa thấy mặt Thông Thủy vẫn cái tính ào ào la rầy Thông như cũ . Ngay lúc đó cô con gái nhỏ của Thủy đi từ trên lầu xuống nó nói :
- Ngoại biểu mình cậu lên lầu cho ngoại nói chuyện
Bóng Thông vừa khuất sau góc cầu thang Thủy đã nói với Dung bằng giọng đầy lo lắng :
- Em coi vụ này chắc hổng xong qúa chị ba . Em làm dữ đòi từ mặt nó luôn mà nó còn không nghe huống hồ gì má . Má đó giờ có la rầy đứa nào bao giờ đâu . Má lại thương nó nhất không khéo nó năn nỉ má xiêu lòng cho coi .
Nghe Thủy nói như vậy Hằng đang ngồi trong góc nhà lại oà khóc tiếp . Gần nửa tiếng đồng hồ trôi qua vẫn không thấy má với Thông xuống nhà . Thủy nóng ruột đi ra đi vô rồi chợt như nghĩ ra cách Thủy kêu đứa con gái lớn của mình đang ngồi chơi với bé Ngọc và bảo :
- Diễm con vô tủ lạnh bưng hai ly nước lên lầu cho ngoại với cậu út . Nhớ đứng lại lâu lâu nghe coi ngoại với cậu út nói gì rồi xuống kể cho mẹ nghe .

Với khoản thời gian ngắn ngủi để hai ly nước con bé chỉ nghe lóm được bà ngoại nói với cậu út một cây như vầy ” Đã là đàn ông thì đừng có làm khổ những người đàn bà yêu thương mình . Vợ nó không biết thì từ từ nói cho biết .Má không giận , không trách nó . Con là chồng chấp nhất nó mà chi ” .
Lát sau Thông một tay dìu má chầm chậm bước xuống từng bậc cầu thang . Ngồi nói vài câu chuyện ở quê này nọ với Dung xong . Thông đứng dậy nhướng mắt về phía Hằng rồi nói :
- Chê má tui nhà quê mà xuống dưới kiếm má chi vậy . Tính ngủ ở đây luôn hả ? Về bển dọn dẹp nhà cửa cho bé Ngọc đi ngủ sớm . Lôi con bé đi cả ngày chắc nó mệt nhừ rồi .
Hằng sụt sùi chống chế ‘‘ em đâu có nói chê má nhà quê hồi nào đâu ” rồi lủi thủi dẫn con đi theo phía sau lưng Thông . Ra tới cửa Hằng còn quay đầu lại như có ý kiếm má , Hằng nói với vào ” Sáng sớm mai con qua chở má đi ăn sáng nhe má , má chờ con nghe má”.
Má cười cười ừ hử ” ừ , má chờ ” . Thông vừa rồ máy xe chạy khuất đầu ngõ Thủy nôn nóng hỏi liền :
- Sao rồi má , thằng Thông nó nói sao hả má ? Hổng ấy để mai con kiếm con kia làm cho trận nữa cho nó sợ .

Má không trả lời Thủy , Thông nói cái gì . Má chỉ nói ” Không có chuyện gì nữa đâu . ” Kế tiếp là cái câu mà mấy chị em Dung nghe không biết bao lần ” Con má tánh ý ra sao , má biết rõ ” .

Thông không li dị vợ như từng tuyên bố trước đó . Hằng cũng chẳng còn tính cách tiểu thư như xưa . Cứ lễ tết thì vợ chồng con cái kéo nhau về quê chơi . Vắng vắng vài tháng thì Hằng gọi điện thoại về kêu ” Má ơi , bé Ngọc nó nhắc má qúa chừng . Má lên chơi với tụi con vài tuần đi má . Con thèm bánh canh má nấu rồi ” . Đôi lúc con Thủy đâm ra hờn mát như hồi con nít . Nó bảo ” Má thiên vị thương vợ chồng út Thông hơn thương nó ” .

Thời gian cứ hối hả trôi . Má vẫn chạy tới chạy lui với những đứa con của mình . Một buổi trưa ăn cơm xong tự nhiên má kêu thấy nóng trong người . Má sai con Thanh con gái lớn của Dung nhắc cái ghế mây mà đợt trước chị hai Xiêm về thăm mua tặng ra gốc nhãn trước sân . Để má ra ngồi hóng gió từ sông thổi lên . Má biểu nó bật cái radio nhỏ xíu xài bằng phin của cậu mợ út đem về hôm bữa . Cho má nghe chương trình tân cổ như thường lệ . Má ngồi trên cái ghế mây nhìn theo bóng nắng che khuất một phần sông .

Chợt má xếp cái quạt lại để gọn trong lòng tựa người vào phía sau thành ghế . Má thở hắt ra một cái rồi khép chặt đôi mắt ngủ một giấc thiên thu không thức dậy nữa . Chẳng còn nói cái câu quen thuộc mà bốn chị em Dung nghe tới nổi thuộc lòng mấy chục năm nay : ” Con má tánh ý ra sao , má biết rõ ”
Gió từ mé sông thổi lắt lay trên những cành lá . Cái radio treo tòn ten sau lưng ghế đang thả vào không gian những câu vọng cổ buồn hiu hắt .

Song Nhi
Mùa thu 2014
* Bán mão : Bán hết số trái cây chưa chín trong một khu vườn với cái giá nhất định cho thương lái .Thay vì chờ chín bán giá sẽ cao hơn

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Kén chồng cho con
Ở xứ Mỹ nầy, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, mà cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường không dám tiếp xúc với ai. Sự thực, cô đã trên ba mươi. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách bằng ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác ghé thăm, chuyện vãn. Những chuyện trên hắn chỉ nghe trong cộng đồng người Việt bàn tán thế thôi. Ông bố cô gái, hắn biết, vì trước bảy lăm, hắn là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái, hắn cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ thêm tiêu chuẩn chống cọng vào đây vì trong các cuộc mít - ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẫn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Dẹp dịu dàng, quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.

Xin dài dòng về những điều hắn biết về ông bà và cô gái.

Năm 1973 hắn tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng hắn phải về tỉnh họp. Hắn thấy ông có một phong thái rất đặc biệt. Ông như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Ông hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm, đúng ra ông giống như “ngài quận công” em ruột “đương kim hoàng đế” ngày xưa vậy. Chẳng bao giờ ông giữ kẻ điều gì. Ông muốn là làm. Có một chuyện thực. Một lần ông báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả hắn ra bãi đáp nghênh đón. Trực thăng hạ xuống, ông đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong ông lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Ông đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Ông đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện nầy – chỉ có sai về thời gian thôi- kẻ nào sáng tác, nói láo, sẽ bị trời đánh.

Ông có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa Hành Chánh tỉnh, ông thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là ông vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc ông thường hút, đưa ra, ông lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho ông, mồi thuốc xong, ông bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết ông vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính ông tìm cũng không ra, rồi lại hỏi “Có thuốc không?” Mà chẳng phải ông nghiện thuốc, chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có ông là hắn được cái thú đếm xem ông hút bao nhiêu điếu thuốc trong buổi họp. Đến ngày mất nước, ông không bỏ chạy, ông đi tù. Lúc ở trại cải tạo Long Thành hắn có gặp ông. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ nên trông ông chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó ông được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể… Khi hắn qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp ông một lần. Chuyện nầy hồi sau sẽ rõ.

Còn chuyện hắn biết cô gái út của ông cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của hắn ngồi than thở là Tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rỉ bảo.

- Nhưng trong túi moa tài sản chừng mươi nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!


Hắn đề nghị mua một món đồ cổ, chẳng ai biết trị giá của nó nhưng trông đã đẹp lại quí. Thế là hắn được giao nhiệm vụ đó. Hắn đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Ông đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Cô học trường Đồng Khánh, từ dinh tỉnh trưởng, nơi cô ở, cô chỉ đi mấy phút là đến trường. Hắn ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại, nhưng hắn ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên hắn đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là hắn và em nói chuyện sa đà, đến chiều hắn lại ôm cái tô về. Sở dĩ hắn đến được nhiều lần như thế là vì hắn về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi nầy sai tài xế lấy xe jeep đưa hắn đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì. Tuy nhiên một lần ông tỉnh trưởng về sớm.

- Moa nghe mấy bữa nay toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con út Mai lớn chút nữa, lúc đó mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái dĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!

Dù sao thì em cũng đã cho hắn hôn em một lần và cả hai cũng có tặng hình cho nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau” Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp bê. Hình hắn tặng em là cảnh hắn đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình hắn ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”.

Đáng lẽ chuyện tình của hắn với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Hắn đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào hắn không rõ. Hình em tặng hắn cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, hắn vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em hắn tự tin bao nhiêu thì nay hắn không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ hắn cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa, hắn đứng bán Mc Donald!

Cho đến một sáng chủ nhật, hắn ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe hắn thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là ông bà đại tá tỉnh trưởng của hắn ngày trước. Hắn thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng ông vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng, cứ ngồi nhìn tay cảnh sát như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe… và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ hắn thông dịch. Hắn nói.

- Sorry! He Chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!

Anh ta chán cả hắn nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó ông mới nhìn hắn cười chúm chím rồi hai ông bà vô tiệm. Hắn có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên hắn nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỷ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại, sá gì đến hắn mà đèo bòng nên hắn phe lờ. Trong lúc hắn đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo.

- Toa thấy moa có nhanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket.

- Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế, hắn còng tay ngay.

Ông ta ngạc nhiên.

- Ủa, sao toa biết moa?

Lúc đó hắn mới bảo là hắn có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là cả hai vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, họ đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác.

- Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình?

Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về, không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gã con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.

Ông ta xen vào.

- Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi chợ búa phiền phức.
- Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.

Chuyện trò đến đấy thì hắn xin cáo từ, ông bà có mời hắn ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Hắn không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên hắn quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật, đi chợ, hắn lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời hắn ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, hắn theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái út của ông bà có pha trà mời hắn. Hắn không dám nhìn sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, hắn nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa. Thực ra hắn biết thân phận mình nên dững dưng.

Sáng hôm đó, ông bà nghe hắn nói lại những nhận xét, cảm tưởng của hắn lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên hắn chẳng dại gì nhắc đến chuyện hắn tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét hắn ra mặt thì chẳng vui gì.

Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời hắn đến uống trà trò chuyện. Hắn không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà hắn đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, hắn nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay tầm mắt hắn. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại hắn và tặng hắn một nụ cười. Hắn chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu hắn.

Nhưng hắn đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như hắn tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, hắn đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì hắn đã có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm hắn đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim hắn rung động nhưng đầu óc hắn tỉnh táo. Hắn dặn lòng “Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối, lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm” hắn thì khác, hể cố quên là hắn quên bẵng. Hắn lại hay nản chí, thấy chẳng hy vọng gì nên cứ lơ là dần.

Cho đến một buổi sáng, hắn nghe điện thoại reo.

- Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.

Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào, ngây thơ không thể tả. Hắn giả giọng Huế hỏi lại.

- Ba mạ cháu ở mô rứa?
- Dạ, ở nhà.
- Còn cháu ở mô?
- Dạ, cũng ở nhà.
- Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.

Hắn phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi hắn? Khi hắn đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời, dưới đất. Đến khi giả từ ông bà lại hỏi.

- Bà cụ có mạnh khỏe không?
- Dạ, cám ơn. Những người lớn tuổi không bịnh nầy thì bịnh kia.

Hắn tố thêm một đòn về gia cảnh của hắn.

- Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta.Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.

Tưởng ông bà sẽ dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc hắn đi làm. Mẹ hắn chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của thắn. Theo mẹ hắn kể, ông bà cứ suýt soa rằng hắn có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu.

Ông bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ hắn vừa kể vừa cười coi bộ hắn lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Hắn không nói gì, sợ mẹ buồn, nhưng hắn bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gã cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như hắn. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Hắn đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối hắn không tấn công. Hắn bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững.

Thế nên hắn rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Hắn chuẩn bị đi thực). Xong hắn chờ đối phương đi nước thứ hai.

Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, hắn được điện thoại của mẹ cô gái gọi.

- Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?
- Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất.
- Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ.
- Dạ, cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.

Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Ông bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại cũng giữ được tướng an toàn.

Sáng đó, thấy hắn ăn mặc tươm tất, mẹ hắn lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện nầy lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết hắn đã yêu cô gái. Chính hắn cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Hắn không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến hắn cảm động và hắn tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng hắn với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?

Đến nơi hắn để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Hắn thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, hắn đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, hắn cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, hắn đã chào cờ, hát quốc ca... .

Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim hắn theo thời gian như tình yêu thương mẹ, khi mất nước, mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Thế nên hắn chỉ sợ mọi người thấy hắn khóc khi nghe bài quốc ca. Một lý do nữa là hắn nghĩ “Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục” “Thấy người ta tử tế tưởng bở” Hắn yêu cô, ông bà tử tế với hắn nhưng chuyện cô yêu lại hắn là viễn vông, vô căn cứ. Cho nên khi nghe hắn bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại.

Thấy cô như giận, hắn mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã lỡ rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế nầy” Nghe chào cờ xong, hắn đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô lại nhờ hắn đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố.

Hắn đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo hắn vô nhà nhờ chút chuyện. Hắn lại vâng lời. Hắn ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi hắn sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy hắn thương mẹ cô đồng ý ngay. Hắn nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gã con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như hắn!?.Hắn biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên hắn xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi hắn nhận ân sủng đó. Bà mẹ chịu liền.

Thế rồi một buổi chiều, hắn đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào hắn mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng hắn nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.

- Chào chú ạ!
- Chú đến thăm Mai.
- Dạ, mời chú vào.

Cô lùi lại, hắn bước vào, cô gần như đứng sát bên hắn. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thướt tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn hắn nên khi cô ngước nhìn, đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên đều gì.

- Có ông bà cụ ở nhà không?
- Dạ không, mời chú ngồi.

Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hộp bánh ra,

- Mời chú!

Hắn cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười.

- Trà còn nóng, cháu vừa mới pha.

Hắn cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của hắn được? Thật khó tin!

- Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
- Dạ không.
- Thế mạ có nói chuyện nầy không?
- Dạ có.

Không khí như căng thẳng, hắn phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn.

- Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế nầy, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.
- Dạ.
- Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm. Ra tù chú làm đủ nghề đạp xích lô, bán vé số... Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh, đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.

Cô vẫn cúi đầu và nói.

- Chú thử lập gia đình, sẽ hết buồn ngay.
- Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.

Cô ngước lên, nhìn thẳng vào mắt hắn.

- Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?
- Chú chưa lập gia đình, vì chú có yêu ai đâu.
- Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin.
- Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì. Khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất, nhà tan vui thú gì mà yêu với đương.

- Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?
- Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh, em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với.

- Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú, khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.
- Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.
- Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bị công an rượt chạy muốn chết.

Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Hắn biết cô đã hết bối rối rồi.

- Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù! Phải không?
- Đâu có như chú, gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy cũng ở Sài Gòn, cháu đến thăm mấy lần.
- Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ!
- Ảnh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên.
- Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay.

Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao?! Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.

Rồi cô thở dài.

- Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được!

- Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?
- Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy...Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn.

- Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đa Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề nầy mau giàu lắm. Anh ta đi xe dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?

- Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Sài Gòn

- Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.

Cô cười bí mật.

- Đố chú biết đó! Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ.
- Chú có ngồi đó chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại... Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.

Hắn nhìn đồng hồ.

- Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên im lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao?

Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú một thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau nầy hối cũng không kịp.

- Nói xong hắn định đứng dậy. Cô ngước nhìn hắn vẽ giận dữ.

- Thật, xin lỗi chú chứ chú...ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?

- Trời đất! Làm gì có chuyện đó... Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mời chú mà lại yêu chú được?!

- Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều nầy. Theo cháu. Đi ngã nầy.

Cô đi trước , hắn rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng, đi vào “Vô đây!” Hắn sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cỡ tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường.

- Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?
- Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai.

Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa hắn.

- Nhìn kỹ xem là ai?

Hắn không tin ở mắt mình. Đó là hình hắn, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời” Tấm hình hắn tặng cô, qua bao năm với bao thăng trầm, cô vẫn còn giữ, hình cô tặng hắn thì hắn vất nơi nào, lúc nào không rõ.

-Ôi! Hình chú đây mà!

Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía hắn, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận hắn vô tình.

- Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay.
- Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi... Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?

- Chú nhớ chứ nhưng chú mặc cảm. Chú đâu dám mơ đến giây phút nầy. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?

- Mặc kệ... Người ta tìm muốn chết!

Yên lặng một lát.

- Hôm nào đi?
- Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú...

Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe, cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.

- Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó? Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em , rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?

- Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả.
- Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!

Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.

Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hoà. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con giành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang chết dần mòn trong ngục tù cộng sản.

Hôm đám cưới, vợ chồng hắn phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ hắn chỉ thấm môi nên hắn phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Hắn không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ hắn cũng say. Ông say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai hắn lè nhè.

Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con Út Mai của moa.

Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn gì, khi mô đâu? Mà vợ chồng moa đâu biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng.

Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già? Rứa mới chết chớ! Rứa là gặp đứa mô tuổi cụ mi cũng rước về nhà cho hắn nhận diện. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó đâu?!..

Phạm Thành Châu

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

Đêm Giã Từ Hà Nội
Mai Thảo

Hà Nội ở dưới ấy.

Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia. Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những hàng mái Hà Nội nhoà dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy, giữa một phút giây nhoè nhạt, anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà Nội. Của anh nữa.

Dưới những hàng mái cong trũng, ngập đầy lá mùa kia, đang xảy ra những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này đường Phượng không đoán hiểu được. Hà Nội đang đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng bắt đầu tiếp nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh, cách biệt, anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến mà nhìn về một vĩ tuyến bên kia. Bên ấy, có những hình ảnh chia cắt, đứt đoạn. Bên ấy, có những hình chiến luỹ, những hàng rào dây thép gai, những đoạn đường cấm, những vùng không người.
Phượng cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.

Phượng nhìn xuống lòng đường. Trong bóng tối, mặt nhựa lầm lì không nói gì. Những hình cây đổ nghiêng trên những tấc đất đá câm nín. Bí mật dàn ra những bề phẳng, những đường dài như một dòng sông ngăn chia hai bờ, và Phượng đã đứng ở bên này mà nhìn sang một bờ bến bên kia. Bên kia có Hà Nội. Bên này có anh. Có tập thể. Có những bạn đường. Có một chuyến đi về Hà Nội.
Chung quanh chỗ Phượng đứng, những tảng bóng tối đã đọng lại trên bờ đường như những bờ hầm hố. Nhìn xuống, Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm. Hà Nội ở dưới ấy.
Anh nhớ đến Thu. Thu cũng còn ở dưới ấy, trong Hà Nội. Cái mái nhà cũ kỹ bên kia, chính là mái nhà Thu, lại cũng chính là ở bên ấy, Thu sẽ đến với anh, ở bên này. Từ một mái nhà của Hà Nội đêm nay, đến bờ đường anh đứng, chỉ có một đoạn ngắn, nhưng Phượng biết rằng đêm nay, nó chứa đựng tất cả ý nghĩa của một đoạn đời. Và Thu, Thu phải đặt cả đời Thu vào một chuyến đi, thì Thu mới vượt được đoạn đường ngắn ngủi ấy, và Thu mới sang được với anh. Như anh, như hàng nghìn hàng vạn con người Hà Nội đêm nay, Thu sẽ ở lại hay sẽ vượt lòng biên giới cũ. Giữa những phút giây Hà Nội đang rắn lạnh lại trong chuyển đổi chính thể đã bắt nguồn, đứng bên này đường, Phượng mới cảm thấy rằng ở bên kia Hà Nội, Thu đã ở thật xa anh. Cái cảm giác ớn lạnh mỗi khi anh đứng trước một dòng sông lại nổi lên. Con sông biên giới đêm nay lại hình như con sông Hồng chảy qua một bờ Hà Nội. Trong Phượng, sóng lòng của chuyển dịch chưa kịp nổi lên mà những ngọn sóng của dòng sông cũ đã nổi dậy. Âm thanh oà oà. Lòng đêm Hà Nội chứa đựng những tiếng đổ vỡ đang xô chen trong bóng tối đặc quánh.

Qua bóng tối, Phượng nhìn thấy những hình khối của Hà Nội bên kia: một cửa ô đoạ đầy. Một hàng mái cũ. Những lớp phố phường sa đoạ. Những ánh đèn nhạt tái trên những bờ tường câm đen. Bóng tối chính thể đổ xuống làm nghiêng ngả những sự kiện này.
Bên kia, Hà Nội vẫn đang lặng lẽ đổi màu. Người Hà Nội dựng cửa tắt đèn để mà đổi thay trong bóng tối. Phượng thấy thương Hà Nội. Thương những người Hà Nội. Những người còn ở lại dưới những hàng mái cũ kỹ kia vì những vướng bận đau khổ.
Đêm khuya dần. Từ một cửa ô, Hà Nội bắt đầu ngây ngất dấy lên những ngọn gió núi rừng thổi về. Gió rừng hoang về qua cửa ô, đi thẳng vào tâm can của người Hà Nội. Ngọn gió tiền phong này đến trước chính thể, đang lọt dần qua cửa ô Yên Phụ, Kim Liên như một điển hình của hoang lạnh rộng lớn. Cả Hà Nội run lên, tê đi. Trước phút bỏ đi mà Phượng cũng như giá buốt cả cơ thể. Hà Nội đã bắt đầu đón nhận ấn tượng. Ngày mai, Phượng ở miền Nam rồi, Hà Nội sẽ phải còn đón nhận những sự kiện, những con người bên ngoài. Sau ấn tượng hoang vắng đêm nay, sẽ là sự thật tàn nhẫn ngày mai. Nhưng chỉ đón nhận ấn tượng, Phượng cũng đủ thấy Hà Nội không còn gì. Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia. Hà Nội chỉ còn là một thứ thuộc về bên kia. Bên kia như Đêm. Như Bóng tối. Như Sa đoạ. Như Tù đày.

Trên đầu Phượng, những ngọn lửa nhìn xuống. Ấy là những con mắt đau yếu của một Hà Nội không ngủ. Những ánh lửa tròn, nhợt nhạt, bé nhỏ, bị giam chặt giữa bóng tối. Phượng nghĩ đến những vì sao xa xôi đứng chết ở một góc trời cũ. Hệ thống ánh sáng Hà Nội đã hết bay múa. Bóng tối dềnh lên những đường lung linh. Từng điểm lửa gục đổ. Đêm nay, Phượng chỉ còn mong chúng có đủ ánh sáng để soi đường cho Thu đến được với anh. Phượng chỉ còn mong có thế thôi. Vì anh biết ngày mai những điểm lửa ấy sẽ không sáng nữa. Hà Nội sẽ không sáng nữa.

Buổi chiều, hồi năm giờ, gặp Thu ở cuối nhà Thuỷ Tạ, anh đã nhắc Thu đến một ngả đường. Đúng hơn đến một chuyến đi. Anh lại nhắc cả Thu đến một hạn định: Hôm nay là ngày cuối cùng người ta được tự do rời khởi Hà Nội.
Phượng bảo người yêu: “Hôm nay đã là ngày chót rồi, Thu ạ! Mười hai giờ đêm nay, chuyến xe cuối cùng sẽ đi qua cầu Long Biên. Anh sẽ đi chuyến ấy. Việc lớn việc nhỏ, anh đã thu xếp tạm yên cả rồi. Chưa yên hẳn, nhưng cũng đành vất bỏ hết. Việc đi khỏi Hà Nội trước hạn định cần hơn. Anh sẽ đến đợi em ở đầu phố tối hôm nay. Chúng mình sẽ cùng vào trong Nam”.
Phượng nói vắn gọn có thế. Bao nhiêu lần gặp trước, kể từ ngày có hiệp định chia đôi, anh và Thu đã bàn với nhau nhiều. Bàn đi bàn lại, nhưng vẫn chưa ngã ngũ ra sao cả. Vấn đề chỉ mới giải quyết xong về phần anh thôi. Trước sự lựa chọn một thái độ và trước những mưu toan xây dựng một cuộc sống tay đôi ở bên kia vĩ tuyến của hai con người cùng gắn bó đến những cái cao đẹp của đời sống, những gió bão của chiến thời ở đây lại có thêm những thảm trạng của đất nước bị chia rẽ. Sự ngăn chia đến cả từng cuộc đời. Đất nước ngăn cách làm hai miền, thì những cuộc đời cũng chia về hai phía. Như đêm và ngày. Bên này, bên kia. Biên giới oán thù dựng lên ở giữa.

Cho đến nay, Thu vẫn chưa quyết định. Thời hạn được ấn định cho di chuyển trong khu vực Hà Nội cứ vợi mãi trong phân vân lưỡng lự của người thiếu nữ. Phượng cũng hiểu cho người yêu. Anh khác, Thu khác. Cuộc sống mấy năm gần đây của anh trong Hà Nội cứ an định một chỗ, chỉ một ngụm gió nổi lên là cũng đủ đưa anh ra ngoài cửa ô. Di chuyển là một cần thiết cho đời sống của Phượng trong ngày cũ, bây giờ lại là một hành động của tự do. Cứu cánh của người Hà Nội hôm nay nằm trong sự thoát khỏi phố phường cũ.
Nhưng Thu, Thu chỉ là một người đàn bà. Vây quanh lấy đời Thu, Phượng cũng đoán thấy không biết cơ man nào là những sợi dây nối kết cuộc đời của Thu với Hà Nội. Như lúa với đất. Đi khỏi được, ít ra Thu cũng phải cắt đứt được bằng hết những sợi dây ấy. Chúng là những rễ lớn rễ con đã bám chặt lấy đời Thu từ tuổi thơ. Trên mái tóc suối chảy của người thiếu nữ, bóng dáng một mái nhà cổ kính đổ xuống. Những nếp nhăn trên trán người mẹ. Những sợi tóc bạc trắng của người cha. Đi thoát được mái nhà cũ, hành động của Thu sẽ là một hành động quyết liệt. Nó đòi hỏi nhiều đau khổ, nhiều mất mát. Lòng người vẫn phải rách nát vì những đau khổ, những mất mát ấy.

Phượng biết thế, nên người anh hùng cũng không giục giã người yêu. Mặt khác, anh muốn rằng trước thử thách này, Thu sẽ hành động, sẽ quyết định một mình. Như một con người tự do hành động và quyết định. Phượng vẫn thường có quan niệm rằng chính kiến của con người như một thứ hướng đi, tuỳ theo sự lựa chọn chân trời riêng. Đối với Phượng trái đất này có hàng triệu ngả đường thì con người cũng có hàng triệu hướng đi, trên đó đua nở những hoa cỏ cùng là rung động những tình cảm của người trước cuộc sống. Thảy đều mênh mộng, không bến bờ. Nhẹ thoáng như không khí. Bay múa như nắng.
Nếu không, thì trái đất không còn là trái đất nữa. Con người không còn là con người nữa.
Mấy ngày gần đây, Hà Nội của Phượng đã hết nắng. Hà Nội đã thiếu không khí, thiếu hơi thở. Bên kia tả ngạn Hồng Hà, bên này năm cửa ô, ngay trong nội tâm Hà Nội, những sự kiện mới mai đây sẽ về ngự trị trên Hà Nội đã như những tảng bóng tối mịt mùng dâng lên. Bóng núi bóng rừng chấp chới. Tim phổi người choáng váng, rức buốt. Những mạch đời ngừng nghỉ. Những màu sắc lộng lẫy nhất cũng nhạt tái lần lần.
Trên những sân ga, bến tàu, từ những trạm hẹn, những con người có sẵn thái độ như Phượng đã hướng vào chuyến đi. Những cuộc đời như đời Thu, rách nát vì mâu thuẫn, giờ phút này đang trải qua một cuộc tranh đấu quyết liệt với bản thân. Chúng là những miền còn tranh tối tranh sáng. Sau hết, là những người ở lại. Ở lại với Hà Nội. Vì hoàn cảnh vướng bận.

Chưa bao giờ Phượng lại cảm thấy Hà Nội chứa đựng nhiều khía cạnh, nhiều thời gian tính đến thế. Đứng trước cuộc đổi đời, Phượng va chạm với những con người đang lựa chọn để nắm lại trong dĩ vãng hay đi vào tương lai. Từ một bản hiệp định chia đôi, chói lên những phút giấy thử lửa. Thái độ của từng người phân định dần mãi. Như thế cũng hay. Lại hơn. Đằng nào cũng một lần.
Từ ngày Hà Nội thay đổi sắc thái, Phượng thấy cái việc giã từ Hà Nội của anh không đến nỗi sầu thảm như anh tưởng. Nhìn sang một lớp sự kiện còn nằm lại bên kia, đêm nay, Phượng, trong một cảm thông cụ thể, như đã sờ mó thấy trên đầu ngón tay cái lành khoẻ rộng lớn của một khối đời anh sẽ dựng lên sau chuyến đi. Dựng lên bằng niềm tin. Trong tập thể. Niềm tin này, riêng đêm nay, đã đốt cháy được hộ Phượng những sợi dây gắn bó với đời cũ. Với bên kia. Với Hà Nội. Theo anh, Hà Nội cũng không còn gì. Những người như anh lên đường đã mang theo Hà Nội vào chuyến đi.
Thanh toán cho xong được những chua xót lúc đầu, lòng người đi vậy là đã ổn định.
Duy có một vấn đề là Thu. Đối với Phượng, Thu đi hay Thu ở lại, việc ấy đã ra ngoài cái lãnh vực thường rất bé mọn của tình cảm. Anh yêu Thu, qua những rung cảm của tình yêu, còn có những nỗi niềm hết sức bao la, hết sức sâu nặng của con người anh gửi đến một người bạn cùng đường. Thêm Thu tập thể thêm đông, và đời Phượng cũng vui thêm trong xây dựng.

Chiều xuống dần. Hai người yên lặng bước đi. Buổi chiều cuối cùng ở lại Hà Nội, Phượng chỉ còn tìm thấy ở Thu một sự kiện lành mạnh gần gụi, khi mà tất cả những sự kiện khác đã sa đoạ, đã đổi màu.
Anh nhìn Thu: Mái tóc dài chảy xuống một bờ vai gầy. Hàng mi nghiêng nghiêng. Và con mắt sâu đen của Thu thì nhíu lại trong suy nghĩ. Phượng nhìn lâu lâu vào đôi mắt ấy, tận trong, đôi mắt u uẩn hình như đang thăm dò một ngả đường, trong đêm tối. Anh không biết Thu đang nghĩ ngợi gì. Nhưng anh đoán Thu đang đau khổ nhiều. Trong nội tâm người thiếu nữ cũng đang có những sự kiện vừa nằm xuống, vừa chìm lặn, cùng một lúc với những sự kiện đang đi lên, đang sinh thành. Bóng tối và ánh sáng chấp chới trên những mâu thuẫn chưa ổn định. Trong Thu đã có một ngả đường? Cháy một niềm tin? Đường mũi dài, đôi môi trang nghiêm của Thu in lên một nền nhờ xanh của sương mù, của buổi chiều. Bên kia, thấp thoáng những hàng cây, những mái nhà Hà Nội.

Một lát yên lặng. Phượng châm một điếu thuốc.

Thu nói với anh: “Em thì em cũng định đi rồi. Một phần vì Hà Nội. Cơ sự đã xảy ra thế này, cũng chẳng ở được nữa. Một phần vì em không muốn xa anh. Xa nhau, biết đến bao giờ mới gặp lại? Em sợ thay đổi lắm. Nhưng anh cũng biết, còn gia đình em đấy! Thầy me em già rồi. Me em đang đau nặng. Thầy em thì chỉ biết có lũ chậu hoa cây cảnh. Hồi này ông cụ chán đời cứ thở dài suốt ngày”.
Phượng hỏi Thu:
“Thầy me không bằng lòng cho Thu đi ư?”
“Không, thầy me em bằng lòng. Chính vì thế mà em phân vân. Anh hiểu cho em chứ?”
Phượng cúi đầu không nói gì. Hai người lại yên lặng bước đi. Phượng nhìn đồng hồ. 7 giờ 35. Anh bảo bạn:
“Thôi, anh đưa Thu về. Đêm nay, trên đường tới trạm di chuyển, anh sẽ đi qua nhà em. Em về nhà nghĩ lại đi. Cố thu xếp xem có được không?”
Thu đáp, tiếng nói bé nhỏ:
“Vâng, em sẽ cố gắng thu xếp. Dù sao, anh cũng đến, anh nhé!”
Hai người chia tay. Và Phượng, đúng 11 giờ đêm, đã xách va ly đến đợi Thu ở đây, bên này đường. Bên kia là Hà Nội.
Đêm Hà Nội càng về khuya càng lạnh buốt. Mặt nhựa loáng ướt. Những ánh đèn lu xanh một màu xanh hoang vắng trong sương. Trước mắt Phượng con đường Trần Nhật Duật chạy dài, một đầu phố nhạt nhoà mất hút về phía chân cầu Long Biên. Vắt qua lòng sông Hồng, những ánh lửa nơi chân cầu đổ về một hướng Gia Lâm. Gia Lâm, Phượng nghĩ đến những vùng cỏ tối bên ấy, nơi phi trường. Lát nữa anh sẽ vượt Hồng Hà, tới phi trường và ở đó, anh sẽ giã từ Hà Nội.

Lòng Phượng lắng đọng lại trong suy tưởng, trong đợi chờ. Những ý nghĩ nhẹ thoáng nhất cũng đều có những sắc thái rất mênh mông. Nhãn giới Phượng bắt gặp những hình khối của Hà Nội đang ngược đường về trong dĩ vãng, và lòng Phượng thì đã thơm rồi, những nhành hoa của xây dựng trên luống đất tương lai. Ngày mai, anh đi khỏi, tập thể xa rồi, Hà Nội sẽ ra sao? Những con người ở lại Hà Nội sẽ ra sao? Trong đêm giã từ, ba mươi sáu phố phường đi dần vào những tầng lớp của ký ức. Nhìn Hà Nội, Phượng bỗng liên tưởng tới những thành phố khác của thế giới, của thời đại. Hán Thành, Bá Linh. Những thủ đô đổ nát vì chiến tranh, bây giờ lại chứa đựng những ấn tượng buồn thảm của chia cách, hờn oán. Bên này, bên kia. Giã từ Hà Nội. Những con người cúi đầu. Một khung cửa đen câm. Những ngả đường ngoại thành hoang vắng. Những hàng mái đau yếu. Thu, Thu của anh.
Đứng một mình trong đêm dài, trước một Hà Nội ngủ thiếp, Phượng nghĩ đến những người bạn đường đã vượt Hồng Hà, đã bỏ Hà Nội, bỏ đất Bắc trước anh, vượt vĩ tuyến về tiếp tục cuộc đấu tranh cho tự do, cho con người, trên phần đất nước còn lại. Anh biết rằng thời đại, trong ngày tới sẽ nối kết con người bằng một ý niệm một hệ thống tự do. Tâm trạng của Phượng đêm nay cũng là tâm trạng của một người thợ máy Đức, một người dân cầy Triều Tiên, đang ngày đêm vượt khỏi những vĩ tuyến tù đày để tìm một hướng đi, một chân trời có không khí và ánh sáng. Năng lực đấu tranh của con người nằm trong những cạnh khía bay múa ấy.

Cái ý nghĩ cuối cùng của Phượng, gửi đến Thu. Anh nhìn sang bên kia đường. Vẫn không thấy gì. Có lẽ Thu đã ở lại. Phượng nhìn đồng hồ: Chiếc kim dạ quang chỉ đúng mười hai giờ đêm. Phượng cúi xuống nhấc va ly, bước đi.

Sau lưng anh, bống có tiếng gọi nhỏ: “Anh!”.
Phượng quay lại. Đôi mắt anh sáng lên trong tối. Từ bên kia bờ đường, từ bên kia Hà Nội, một bóng người bé nhỏ đang vượt lòng đường đi sang anh. Thu. Bóng Thu xiêu xiêu vội vã. Một thoáng, Thu đã đứng bên cạnh anh. Đôi mắt Thu còn ngấn lệ. Phượng đỡ lấy va ly Thu.
Tiếng thu vang lên trong đêm Hà Nội:
“Em được đi rồi. Cả thầy me cũng đi nhưng đi sau.
Và kéo tay Phượng.
“Chúng mình đi đi thôi anh ạ!
Phượng mỉm cười nhìn Thu. Giọt nước mắt của người lên đường nhập vào hàng ngũ của tập thể, của di chuyển, Phượng biết là một giọt nước mắt của tin tưởng. Sự đấu tranh cho tự do khởi thuỷ ngay cả ở chỗ ấy, nơi con người phải đấu tranh quyết liệt với chính mình, chịu đựng những mất mát, lìa bỏ ruộng đất, phố phường, để đến những miền tự do. Sau Thu, rồi còn hàng ngàn người như Thu, cũng chiến thắng được hoàn cảnh, cũng sẽ lên đường. Để bảo vệ một niềm tin. Để bảo vệ con người. Tất cả, họ sẽ trở về.
Phượng đưa Thu đi. Những ánh đèn xanh biếc của Hà Nội nghiêng theo những bước chân bắt đầu dời khỏi Hà Nội.
Bóng Phượng, bóng Thu nhoà dần. Rồi mất hẳn. Họ đã đi vào Tương Lai.

Mai Thảo

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Tình Yêu
Mặc Bích
Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!

“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”

Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:

“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”

Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:

“Con chơi, con phải “take care” nó đó!”

“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”

“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”

“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”

Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.

“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”
Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:

“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.

Bắt đầu từ ngày đó trở đi trong nhà nàng lại có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép trừ lúc có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy Joshua nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì rồi thương hại Duy lại thôi.
Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.

Duy la lên:

“Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”

Hương phì cười, nghĩ bụng “Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!” Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dậy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.

Vài tháng trôi đi, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!

Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ:

“Joshua chắc bị “shock” nặng nên nó không nói nữa!”

Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!

Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi mà Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao...

Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:

“Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?” “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”

“Cháu trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”


Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:

“Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”

“Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”

“Cậu con bà có thích con Joshua không?”

“Chúng tôi quý nó lắm..có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”

“Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”

Hương chép miệng:

“Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách.

Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
“Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
“Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”

Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
“Chúc bà may mắn!”

Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.

Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.

Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão:

“Alice Park! Alice ..Park!”

Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn bạc thếch theo với thời gian. Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp.

Những đôi mắt u uẩn hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt mà những ngôn từ, động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia.

Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:

“Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”

Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh: “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào ttrong rồi quẹo trái, đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”

“Cám ơn cô nhé!”

Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.

“Nó tên gì vậy bà?”

“Joshua!”
“Hi Hoshua! Hi!”

Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú. Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo:”Nó thích đàn bà, con gái mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!

Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng. Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa, Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất.

Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia mà đã có một lần họ đã sống qua. Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô độc chăng?

Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.

Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi.

Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:

“Love ya, Mama! Love ya, Mama!”

Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan. Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào. Chỉ có đôi mắt chớp khẽ. Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống.

Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
“Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”

Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại. Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị. Làm như thế gian này chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất, không có gì có thể chia lìa. Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên. Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà. Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.

Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được. Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà ta yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:

“I love you too. Joshua! Mama love you!”

Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:

“He hurt me!”

Bà ta sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:

“My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore. Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua?”

Joshua lập lại y hệt như vậy:

“Do you miss me, Joshua?”

Bà lão bật cười:

“No! Do you miss me, Mama?”

Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:

“No! Do you miss me, Mama?”

Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:

“Cô mang Joshua đến đây?”

Câu hỏi này thay cho câu hỏi: “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi. Hương thấy ngay điều này nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:

“Vâng!”

Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây. Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.

Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành. Một đành đoạn chia ly tất nhiên! Nàng dựa lưng vào băng ghế nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu rồi lìa cành. Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất, có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống, có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước? Nhưng có một điều chắc chắn những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa. Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống, tình yêu, nỗi chết, rồi cũng chỉ như thế thôi!

Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu: “I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy?

Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau, có nhau, cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa và những ngày kế tiếp có còn đến nữa hay không!

Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: “2:30 chiều!” Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về. Joshua phải trở về căn phòng của Duy và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống, chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!

Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa. Joshua đang đậu trên thành giường, còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người: nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn. Trông bà ta có vẻ mệt mỏi. Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi nhìn Hương rồi hỏi: “Cô quen thế nào với bà Alice?”

Hương chỉ con Joshua:

“Qua con két này!”

“Thật à?”

Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:

“Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
“Cô tử tế quá!”

Lần đầu tiên từ lúc gặp gỡ Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.

Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu: “Joshua! Đến lúc phải đi về..”

Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa, mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:

“Joshua!”

“Mama!”

Cô y tá thích thú kêu lên:

“Ồ nó nói được!”

“Go home, Joshua! Go home!”

Nó lập lại lời bà Alice:

“Go home! Go home!”

Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:

“Love ya, Mama! Go home!”

Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà ta nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
“Go home, baby! You can not stay here.. I have no home now! Go, baby!..Go..”

Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
“Nó ở lại với bà cụ được không cô?” Cô y tá lắc đầu: “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”

Hương lặng im.

Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice. Chỉ giữa con két xanh và bà lão. Nó bay lên và đậu vào vai Hương nhưng vẫn kêu lên: “Love ya Mama!”

“I love you too, Joshua!”

Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:

“Cám ơn cô.. đã mang Joshua đến đây.. Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì.. vui lắm.”

Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice và nhẹ nhàng nói:
“Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”

Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:

“Cám ơn cô.. cám ơn cô nhiều lắm!”

Nàng đi ra và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian.

Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương?

Mặc Bích

Post Reply