Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

hoangphong
Posts: 394
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Post by hoangphong »

Image

Thầy Trân

Đến giờ Sử Địa cả lớp học hồi hộp ngồi chờ. Hôm nay ông hiệu trưởng sẽ đưa giáo sư mới đến dạy, thay thế thầy Tuyên vừa về hưu. Con Chín, ngồi cạnh tôi, đoán già đoán non:

- Tao chắc lại một ông giáo sư già lụm khụm. Môn này không mấy hấp dẫn nên không có nhiều thầy trẻ như bên Việt Văn, Toán hay Sinh Ngữ.

Tự nhiên tôi lạc quan một cách vô cớ:

- Biết đâu kỳ này lớp ta sẽ may mắn rước được một thầy Sử Địa trẻ, đẹp trai lại độc thân cho mà xem.

Con Chín nheo mắt nhìn tôi cười:

- Được như mày nói tao sẽ chớp ngay, không để ông độc thân lâu đâu.

Tôi cười cười nhạo nó:

- Giáo sư độc thân trường mình thiếu gì. Nè thầy Vui bên Anh Văn,thầy Ngô bên Toán, sao mày không chớp đi để hai ông độc thân hoài vậy?

Con Chín nhún vai:

- Không hạp nhãn tao. Độc thân thì độc thân nhưng cũng phải bắt mắt một tí. Tao chấm thầy Thi bên Pháp Văn nhưng tiếc thầy có chủ mất rồi!

Trong lớp đệ tứ, lớp cuối cùng của trường nữ trung học duy nhất ở tỉnh lỵ nhỏ bé này, Chín và tôi là hai nữ sinh lớn tuổi nhất. Chín trễ học đến ba năm, còn tôi hai năm. Nó bị sốt rét, tôi thì thương hàn. Tiếp đến là tản cư rồi hồi cư, sau đó lại theo gia đình rời quận lên tỉnh. Cho nên khi học tới lớp chót của trường thì Chín đã 19 tuổi, còn tôi thì sắp 18. Hai đứa tôi thuộc loại học khá nhưng không phải là giỏi nhất lớp. Chín được chọn làm trưởng lớp vì nó vừa lớn tuổi vừa ăn nói dạn dĩ. Nhìn về nhan sắc, hoa khôi trong lớp là con Vy, 16 tuổi. Tôi được xếp hạng nhì. Tôi không rõ tôi được xếp hạng nhì vì tôi lớn tuổi hơn con Vy hay con Vy đẹp hơn tôi thật. Nhưng tôi rất bằng lòng nhận xét của con Chín:

- Con Vy đẹp thật nhưng là một cái đẹp lạnh, đẹp kiêu còn mi đẹp duyên, đẹp mặn. Mi sẽ làm đàn ông con trai mê mệt hơn nó cho mà xem.

Khi ông hiệu trưởng đưa tân giáo sư Sử Địa vào lớp giới thiệu, con Chín hích cùi chõ hông tôi nói nhỏ:

- Mi đoán đúng, thầy Trân sẽ là “hoa khôi” trong ban giảng huấn trường mình đó.

Tôi cũng phải công nhận thầy Trân trẻ và khôi ngô. Thầy lại có giọng giảng bài ấm, lối giảng của thầy gọn và lôi cuốn. Con Chín phê bình thầy Trân ngay sau giờ dạy đầu tiên:

- Thầy Trân giảng bài hay nhưng không phải mẫu người của tao. Tao không thích đàn ông nho nhã quá. Tao chịu mấy anh chàng sĩ quan tác chiến hơn. Đàn ông là phải hùng.


Bỗng nó quay sang nheo mắt nhìn tôi:

- Mi thích thơ văn chắc mẫu người của thầy Trân hợp với mi hơn. Mà này, mi tên Huyền, thầy tên Trân, trường lại là trường Huyền Trân, không chừng là duyên tiền định đó nghe mi!

Nói xong nó cười khanh khách, xách cặp chạy để tránh cái vói tay của tôi để véo nó. Nhưng câu nói đùa của Chín làm tôi suy nghĩ. Mà lạ thật, sao lại có sự tình cờ như thế được. Trò tên Huyền, thầy tên Trân, chung dưới một mái trường tên Huyền Trân.


Sự tình cờ đó khiến tôi để ý thầy Trân hơn các thầy khác. Và một lần trong lớp, khi gọi tên các nữ sinh để điểm danh, nghe đến tên Huyền tôi ngay ngắn đứng lên nhìn thầy Trân, nở một nụ cười dễ thương nhất mà tôi có thể tạo ra được để trình diện thầy. Tôi thấy thầy Trân có vẻ như khựng lại mấy giây trước nụ cười của tôi; thầy nhìn tôi mỉm cười rồi tiếp tục gọi tên nữ sinh kế tiếp.


Từ đó trong tuần tôi mong cho đến giờ dạy của thầy Trân. Tôi đâm mê môn học này khi nghe thầy Trân kể về tiểu sử của những nhân vật, những biến cố, những trận đánh lịch sử. Tôi bỗng nhiên trở nên một nữ sinh xuất sắc về môn Sử. Một hôm học về nhà Trần, thầy nói đến công ơn của các vua nhà Trần trong việc mở mang bờ cõi khi đem công chúa Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Rí. Con Chín bỗng đưa tay lên xin hỏi:

- Thưa thầy, vua Trần có công mở mang bờ cõi thật nhưng em nghĩ đem con gả cho vua một tiểu quốc thì không những bất xứng mà còn nhẫn tâm nữa. Vì thế cho nên mới có hai câu ca dao lưu truyền trong dân gian để vừa mai mỉa vua Trần vừa thương hại công chúa Huyền Trân :

“Tiếc thay cây quế giữa rừng

“Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”


Thầy Trân ôn tồn trả lời con Chín:

- Nếu tôi là một nhà đạo đức thì tôi cũng đồng ý với phát biểu của trò Chín. Nhưng vì tôi là một giáo sư dạy Sử nên tôi chỉ trình bày những hành xử có tính cách quốc gia của tiền nhân. Chắc tất cả đều biết Châu Ô và Châu Rí ngày xưa chính là hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, trong đó có cố đô Huế, của ngày nay. Nhưng tôi nghĩ sự hy sinh cho quyền lợi quốc gia của công chúa Huyền Trân đã được tổ quốc ghi ơn, bằng chứng là chúng ta đang ngồi ôn lịch sử dưới một mái trường mang tên Huyền Trân.


Cả lớp vỗ tay râm ran sau khi thầy Trân dứt lời. Đến lượt tôi đưa tay xin hỏi trước sự ngạc nhiên của cả lớp vì ai cũng biết bản tính rụt rè của tôi.

- Thưa thầy, lịch sử có nói đến một tướng nhà Trần tên là Trần Khắc Chung. Xin hỏi thầy có tài liệu lịch sử nào xác nhận tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân không?

Thầy Trân nhìn tôi cười mỉm rồi nói:

- Tôi chưa đọc được sử liệu nào nói tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân. Chỉ biết vua Trần, khi hay tin vua Chế Mân đột ngột băng hà, để cứu công chúa Huyền Trân khỏi bị thiêu sống theo chồng theo tục lệ người Chàm, đã sai tướng Trần Khắc Chung đem quân qua Chiêm giải cứu và đưa công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam. Lịch sử không ghi về lại Việt Nam công chúa Huyền Trân có tái giá với ai không. Nhưng sự tích Huyền Trân sang Chiêm đã là đề tài sáng tác cho giới văn nghệ sĩ về sau. Đặc biệt có một bài vọng cổ rất hay nói về mối tình Huyền Trân-Trần Khắc Chung. Có trò nào nghe chưa?


Cả lớp vang lên tiếng chưa. Con Chín bạo dạn gạ thầy:

- Chắc thầy ca hay lắm! Xin thầy ca cho tụi em nghe!

Thầy Trân cười thoái thác :

- Tôi cũng không thuộc, chỉ nhớ có một câu. Mà không hiểu sao tôi chỉ nhớ có câu đó.

Cả lớp nhao nhao:

- Một câu cũng được, xin thầy cho nghe!

Lớp học bỗng trở nên vui nhộn. Thầy Trân đứng trên bục, hai tay nắm sống lưng cuốn Sử được dựng đứng, nhìn lên trần lớp học, mắt mơ màng. Sau cái tằng hắng, thầy cất cao giọng trầm ấm, xuống câu vọng cổ :

“Huyền cô ơi! Huyền cô ra đi khiến cho địa thảm, thiên ơơơ ơ…sầu… ”

Thầy Trân ngân dài tiếng “sầu”, mắt rời trần lớp học hướng về chỗ tôi ngồi. Cả lớp vỗ tay khen giọng ca “mùi” của thầy. Thầy Trân kín đáo, qua câu vọng cổ, thổ lộ cảm tình của thầy với tôi chăng? Tôi nghe hai má mình nóng bừng. Suốt đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ với thắc mắc không biết thầy Trân đã có ai chưa? Tôi cho thầy Trân nhiều lắm cũng chỉ 25, 26 tuổi thôi. Nghe nói thầy tốt nghiệp sư phạm năm rồi và trường Huyền Trân là nhiệm sở đầu tiên của thầy. Tôi đi vào giấc ngủ muộn với ước mơ thầy Trân còn độc thân.


Nhưng oái ăm thay, nữ sinh đầu tiên trong lớp bị thầy Trân phạt lại chính là tôi. Cũng tại cái con khỉ Chín nó đem khoe cây bút Parker của thằng Thiếu Úy Biệt Động Quân, bồ nó, mới tặng nhân sinh nhật nó. Nhìn cây Parker bạc óng ánh tôi buột miệng khen: “Ồ! cây bút đẹp quá!” Lời khen của tôi tuy không lớn nhưng cũng đủ làm cả lớp, lúc đó đang im lặng nghe thầy Trân giảng, quay đầu về phía chỗ ngồi của con Chín và tôi. Con Chín giấu vội cây bút Parker, làm mặt nghiêm nhìn thẳng lên bảng đen. Thầy Trân nhíu mày nhìn tôi, không nói gì, tiếp tục giảng bài. Hết giờ thầy Trân gọi tôi đến bàn ông. Giọng ông vẫn ôn tồn nhưng sắc mặt lộ vẻ giận. Ông đưa tôi mảnh giấy và nói:

- Trò chép lại câu này 60 lần, sau đó đưa cho phụ huynh trò ký rồi đem nộp cho giám thị trường.

Tôi cầm mảnh giấy liếc nhìn mấy chữ “Tôi sẽ không lo ra trong lớp”. Nước mắt lưng tròng, tôi nhìn thầy Trân, miệng lí nhí:

-Em xin lỗi thầy, em không cố ý làm ồn trong lớp!


*


Thầy Trân mở cửa, thấy tôi, thầy đứng sững, ngạc nhiên. Hai tay cầm cuốn tập để trước vạt áo, mặt nóng ran, tôi nói trong hơi thở :

- Em đến xin thầy ký vào tập bài phạt để em nộp cho thầy giám thị. Em không dám đưa cho ba em ký, ông sẽ… đánh em chết! Xin thầy thương mà thông cảm vì em chưa bao giờ phạm kỷ luật trường cả.

Thầy Trân nhìn tôi, đứng nhích sang một bên rồi nói:

- Em vào đây, ta sẽ nói chuyện.

Phòng trọ của thầy Trân rất đơn sơ, chỉ vỏn vẹn một cài bàn viết với hai ghế ngồi, một tủ nhỏ và một chiếc giường ngủ. Tôi khép nép ngồi xuống ghế đối diện với ghế thầy ngồi và đưa tập bài phạt sang phía thầy. Thầy Trân không mở ra xem, chỉ đẩy tập vở sang một bên và nói:

- Thôi, thầy giữ tập viết này khỏi cần đưa cho thầy giám thị. Coi như thầy không phạt em. Thầy tin là em ngoan nhưng thầy thấy em và Chín là hai em lớn tuổi nhất lớp nên thầy muốn hai em là gương mẫu cho cả lớp.

Tôi sung sướng dạ nhỏ một tiếng rồi bỗng dưng bạo dạn hỏi thầy:

- Chị Chín, trưởng lớp, muốn tìm biết sinh nhật của thầy, để đến ngày đó cả lớp chúc mừng thầy như vẫn làm với các thầy khác. Thầy có thể cho em biết để em nói lại với chị Chín?

Thầy Trân cười vui vẻ:

- À, thầy sinh ngày 2 tháng 5. Thế còn sinh nhật của em?


Tôi ngạc nhiên sao thầy hỏi ngày sinh nhật mình. Một thoáng nghĩ làm tim tôi đập mạnh: Chắc thầy cũng để ý mình.

- Dạ, em sinh ngày 20 tháng 12.

- Như thế em sẽ được quà sinh nhật trước quà Giáng Sinh. Thích quá nhỉ!

Tôi nở một nụ cười buồn:

- Dạ em chưa bao giờ được quà sinh nhật lẫn Giáng Sinh.

- Sao lạ vậy?

- Dạ, vì nhà em rất… đơn sơ và không công giáo.

Thầy Trân nhìn tôi, tôi đọc trong đôi mắt thầy một sự trìu mến lạ thường. Giọng thầy trở nên thân thuộc:

- Hy vọng năm nay em sẽ được cả hai.

Nói xong thầy đứng dậy. Tôi cũng đứng dậy theo. Nắng bên ngoài gay gắt chiếu xuống thềm cửa. Tôi dang tay che nắng, nói lời từ giã:

- Em xin cám ơn và xin chào thầy.

Thầy Trân đứng yên đưa tay chào trả tôi và nói:

- Khi nào em có việc cần gặp thầy thì cứ đến, thầy không bị phiền đâu.

Tôi ra về, lòng nở hoa.


*


Hết giờ Toán thầy Ngô gọi tôi đến bàn và nói:

- Bài toán vừa rồi em giải sai phần sau. Nếu em muốn, mỗi tuần em ghé chỗ tôi trọ tôi chỉ thêm cho. Thầy biết em giỏi các môn khác, nếu toán cũng giỏi nữa thì em không những đẹp mà còn giỏi nhất lớp.

Tôi bối rối tìm cách trì hoãn:

- Dạ, em xin cám ơn thầy. Em phải về xin phép ba má.

Thầy Ngô bỗng đổi ý:

- Thôi em khỏi phải cần xin phép ba má. Khi nào em cần hỏi gì về toán thì sau giờ học trên đường về ghé thầy chừng 15 phút là đủ.


Tôi dạ và lặng lẽ cúi đầu chào thầy Ngô. Tôi ái ngại sự ân cần của thầy vì tôi nhớ có lần con Chín nói với tôi:

- Tao thấy thầy Ngô có vẻ chấm mi.

Tôi cũng thấy vậy. Thầy Ngô có bộ mặt nghiêm khắc nên tôi chỉ kính mà không cảm. Thầy Ngô không làm tôi mơ mộng như thầy Trân. Tôi làm bộ ngây thơ trả lời con Chín:

- Tao thấy thầy Ngô đối xử với ai hồi nào cũng như hồi nào.

Con Chín tỏ vẻ sành sõi:

- Mi đừng nhìn cái bề ngoài của mấy thầy. Núi lửa bên trong cả đó mi. Mi chờ xem, có ngày núi lửa của thầy Ngô sẽ phun ra cho mà coi. Mô phạm gì cũng có lúc tức nước vỡ bờ. Chuyện con tim mà, thánh mới kìm nổi nó.

Thấy con Chín nói quá đúng tôi làm thinh. Cũng may nó không tra khảo tôi gì về con tim của tôi đối với thầy Trân. Tôi cũng mong cho nó nghĩ tôi chỉ biết lo học chứ chưa thao thức gì về đàn ông.

Một tuần trước lễ Giáng Sinh, lúc tan lớp, đi ngang qua bàn thầy Trân, thầy ra hiệu cho tôi lại gần và nói vừa đủ cho tôi nghe:

- Huyền ghé nhà thầy: có quà tặng cho Huyền.


Lòng tôi rộn ràng khi sực nhớ lời thầy Trân nói với tôi trước đây: sinh nhật tôi và Giáng Sinh năm nay tôi sẽ có quà. Tôi chờ cho đám bạn về hết mới đạp xe đến nhà thầy. Dựng xe trước nhà trọ của thầy Trân, lòng tôi hồi hộp, bồn chồn. Tôi nhìn quanh xem có ai trước khi gõ cửa.

Thầy Trân đưa tay mời tôi ngồi ở chiếc ghế tôi ngồi lần trước. Thầy mở tủ lầy ra hai gói quà bọc giấy hoa, để trước mặt tôi và dịu dàng nói:

- Lần trước nghe Huyền nói chưa bao giờ có quà sinh nhật và Giáng Sinh thầy rất bùi ngùi. Thầy có hai món quà nhỏ tặng Huyền, một cho Giáng Sinh, một cho sinh nhật. Mừng Huyền 18 tuổi, tuổi truởng thành.

Tôi cảm động nhìn thầy Trân, miệng ấp úng:

-Em… em cám ơn thầy!

- Huyền mở quà ra đi. Thầy mong Huyền sẽ ưng ý.

Tôi lóng cóng bóc từng mảnh giấy hoa. Quà là một cây bút Parker và một cuốn album.

Tôi nhìn thầy Trân cười sung sướng:

- Cám ơn thầy, quà của thầy là những thứ em mơ ước từ lâu!

Khi đưa tôi ra cửa, thầy Trân thân mật khoác vai tôi, đặt một nụ hôn lên mái tóc tôi. Tôi đứng im, người nóng ran, vừa ngây dại vừa lo lắng cử chỉ kế tiếp của thầy. Nhưng thầy Trân ngừng lại ở đó:

- Cám ơn thầy lần nữa, em về.

- Huyền về, chúc Huyền một sinh nhật và một Giáng Sinh vui tươi, hạnh phúc.


*


Tôi đập con heo đất, lấy hết tiền để dành cho vào bóp rồi đạp xe ra phố. Phố của tỉnh lỵ nhỏ bé này đi bộ chừng 15 phút là hết. Tôi vừa lấy một quyết định táo bạo là đi mua một chiếc cà vạt tặng thầy Trân nhân dịp lễ Giáng Sinh. Tôi đi nhanh vào tiệm bán đồ đàn ông, chọn chiếc cà vạt màu xanh đậm, mua không cần trả giá, rồi trở ra xe thật lẹ. Tôi sợ có người quen bắt gặp, sợ người ta đọc được tâm tư mình rồi đàm tiếu. Tiền mua chiếc cà vạt chiếm hết hai phần ba số tiền tôi bỏ ống. Nhưng tôi không một chút xót xa.


Thầy Trân ra mở cửa, ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm thầy vào lúc sắp tối. Thấy tôi nháo nhác nhìn quanh, thầy nói nhanh:

- Huyền vào nhà nói chuyện.

Ngồi xuống ghế đối diện với tôi, thầy Trân nhìn tôi như chờ đợi một lời giải thích. Tôi lấy hộp đựng cà vạt trong cái giỏ mây ra để lên bàn rồi rụt rè nói:

- Em… em có món quà Giáng Sinh tặng thầy.

Thầy Trân ồ lên một tiếng, đưa hai tay nhận gói quà, tháo giấy, mở hộp, lấy chiếc cà vạt đưa lên ngắm nghía:

- Thầy cám ơn Huyền, thầy có một chiếc cà vạt màu xanh đã cũ, chiếc này đến thay thế rất là đúng lúc.

Thầy Trân bỗng đưa hai bàn tay sang úp lên hai bàn tay tôi. Tôi để yên, cúi mặt ngồi im, lòng rộn ràng. Cả phút dài trôi qua. Tôi nghe giọng thầy ngập ngừng:

- Ngoài cho quà, Huyền có… cảm nghĩ… gì khác không?

Tôi vẫn cúi mặt, thu hết can đảm trả lời thầy :

- Ngoài ra em… em muốn đến… thăm thầy!


Tay thầy Trân rời tay tôi. Tôi nghe thầy rời ghế bước sang phía tôi. Tôi nghe thầy đặt tay lên hai vai tôi, kéo tôi đứng lên, xoay người tôi lại. Bóng chiều phủ mờ căn phòng chưa lên đèn. Tôi ngước mắt lên. Trong đáy mắt tôi là cái nhìn đắm đuối của thầy. Rồi môi thầy chạm môi tôi. Thầy ôm sát tôi vào người. Toàn thân tôi mềm nhũn mà hừng hực lửa. Tay thầy, như vừa bứt phá mọi trói buộc, xoa nắn ngực tôi. Tôi co rúm người khi tay thầy lần xuống phía dưới. Ở giờ phút nầy tôi biết tôi không cưỡng lại bất cứ ý muốn nào của thầy vì tôi là một kẻ đồng lõa nhiệt tình. Nhưng tay thầy bỗng khựng lại ở thắt lưng tôi, như có một lực cản nào bắt thầy dừng lại. Tay thầy đi ngược trở lên, nhẹ nhàng trên ngực, trên môi, trên mắt, trên tóc tôi.


- Thôi, Huyền về kẻo sắp tối.

Trên đường về tôi nghe thân thể mình khác lạ, có thứ gì vừa mất đi, nhưng cũng có một thứ gì vừa chợt đến. Nhưng tôi không thấy hụt hẫng vì thứ mất đi mà tròn đầy thứ vừa ngập đến. Chưa bao giờ tôi thấy đời đáng yêu và đáng sống như bây giờ. Tôi sắp bước vào tương lai nào thì tôi không rõ, tôi chỉ biết tôi vừa từ giã tuổi thơ không chút luyến tiếc.

Hai tuần trước khi trường đóng cửa nghỉ Tết thì ông hiệu trưởng vào thông báo cho lớp học nghỉ giờ Sử Địa vì giáo sư bệnh. Tôi lo lắng không biết thầy Trân bệnh gì và nôn nóng muốn đến thăm thầy. Bất ngờ trong giờ ra chơi gặp thầy Ngô trong hành lang. Thầy nhìn tôi rồi nói:

- Giáo sư Trân bị cảm. Có hôn thê của ông xuống săn sóc.

Nói xong ông cười nhạt rồi bỏ đi. Tôi tái mặt vì nghi thầy Ngô biết chuyện tình cảm giữa tôi và thầy Trân. Nhưng điều làm tôi rụng rời, đau điếng là thầy Trân đã có hôn thê. Bây giờ thì tôi hiểu cái khựng lại của bàn tay thầy trên thân thể tôi. Bàn tay ngừng lại vì nó đã có chủ. Lương tri đã cản được đam mê của thầy. Tôi thấy đất như quay cuồng, trời như đang sụp đổ.


Giờ Sử tuần sau thầy Trân đi dạy lại. Mặt thầy hơi xanh nhưng giọng nói vẫn ấm áp truyền cảm. Có lúc hướng về phía tôi ngồi thầy nhìn tôi lâu hơn thường lệ. Tan lớp, tôi nấn ná để làm người cuối cùng rời lớp. Thấy tôi đi ngang qua bàn, thầy Trân nói khẽ:

-Huyền ra quán cà phê Mimosa chờ thầy. Thầy có chuyện muốn nói với Huyền.

Tôi dạ rồi lầm lũi đi. Tôi cảm thấy mình thương hại mình quá đỗi! Tôi đoán biết gặp tôi thầy Trân sẽ nói gì.

Thầy Trân có mặt ở quán trước tôi. Quán có hai bàn khách nhưng may mắn toàn là khách lạ. Tôi ngồi xuống ghế thì thấy có ly chanh đường để sẵn trên bàn. Thầy Trân khuấy khuấy ly cà phê đen nhưng không uống. Thầy cất tiếng trước, giọng buồn buồn:

-Thầy hiện đang có khách ở nhà trọ, Huyền không nên ghé thầy lúc này.

- Em biết, hôn thê của thầy xuống săn sóc thầy.

Thầy Trân ngạc nhiên:

- Sao Huyền biết?

- Thầy Ngô nói với em.

- Lại cái thầy Ngô! Cũng chính thầy Ngô báo cho Thu biết!

- Thu là hôn thê của thầy?

Thầy Trân im lặng gật đầu. Giây lâu thầy mới nói:

- Thầy xin lỗi Huyền về cử chỉ hôm trước Giáng Sinh vì đã không kìm hãm được xao xuyến của lòng mình.


Con tim có lúc đã vượt qua lí trí. Thầy không có quyền hành động như thế. Nhưng ít ra thầy cũng đã không để tình cảm đi quá đà. Thầy mong Huyền tha lỗi cho thầy.

Tôi rũ người, rung rung đôi vai, cố nuốt những dòng lệ. Thu hết can đảm tôi thốt ra được mấy lời cảm khái:

- Thầy không có lỗi gì hết. Em vẫn kính trọng thầy và… thương thầy!


Nói xong tôi với tay lấy ly chanh đường đưa lên môi hớp mấy ngụm nhỏ rồi đứng lên đưa tay vẫy chào thầy. Qua màn mắt nhập nhòa tôi thấy khuôn mặt trái xoan của thầy Trân vẫn đáng yêu như hôm thầy hôn tôi lần đầu.


Đó là lần cuối cùng tôi gặp mặt thầy Trân. Sau một tuần nghỉ Tết, đi học lại, cả lớp mới hay thầy Trân đã xin đổi trường. Tôi bàng hoàng khóc lẻ loi một mình suốt cả mấy tuần. Con Chín không hay biết gì chuyện sóng gió vừa xảy cho đời tôi cũng như lý do thầy Trân xin đột ngột đổi trường. Người thứ hai tôi nghĩ hay biết chuyện là thầy Ngô. Điều làm tôi hơi ngạc nhiên là vắng bóng thầy Trân, tôi vẫn không thấy thầy Ngô tỏ vẻ gì săn đón tôi hơn; trái lại mỗi lần chạm mặt tôi thầy có vẻ ngượng nghịu. Tôi có cảm tưởng thầy ân hận vì có phần trách nhiệm trong việc đổi trường của thầy Trân.


Thi đậu xong bằng trung học đệ nhất cấp, gia đình gởi tôi lên Sàigòn học tiếp. Và tôi chỉ biết học và học. Tôi không để ý đến đàn ông nữa. Tôi chỉ có một người đàn ông nhưng tôi đã mất ông rồi! Tôi đậu tú tài phần 1 rồi phần 2 dễ dàng. Vào đại học tôi cũng chọn ngành sư phạm, môn Anh Văn; tôi cũng sẽ là một giáo sư như thầy Trân.


Không ngờ năm học cuối cùng của tôi lại là năm mất Miền Nam. Tị nạn sang Hoa Kỳ, một lần nữa tôi lại muộn màng cắp sách đến trường. Nhờ vốn liếng Anh ngữ sẵn có tôi học lại dễ dàng. Tôi chọn ngành Luật. Tôi lập gia đình lúc đang tập sự hành nghề luật sư. Chồng tôi là một chuyên gia kinh tế người Việt. Chúng tôi sống êm đềm bên nhau đã 15 năm và có hai con. Mỗi khi chọn tên cho con tự nhiên tôi nhớ đến hai người của ngôi trường cũ. Đứa con gái đầu, 14 tuổi, tôi đặt tên Chi để nhớ con Chín, con bạn học ngồi cạnh tôi. Thằng con trai, 12 tuổi, tôi đặt tên Trung để nhớ đến thầy Trân. Chồng tôi không một chút thắc mắc khi tôi chọn tên Việt cho con; anh chỉ lo kiếm tên tương đương bằng tiếng Mỹ, Carolyn cho Chi và Tom cho Trung.


Tôi xa quê hương như vậy cũng đã gần hai mươi năm. Một hôm tôi ngỏ ý với chồng, tôi muốn đưa hai đứa nhỏ về thăm Việt Nam một chuyến cho chúng biết đất nước thật của chúng. Chồng tôi không hồ hởi cũng không chống đối. Anh chỉ nói:

- Nếu em quyết định về cùng hai con thì cứ đi. Riêng anh, tình hình chính trị bên đó chưa thuận tiện cho anh về.


Tôi biết chồng tôi nói khéo chứ tôi rõ lập trường của anh rất dứt khoát: anh chỉ trở về Việt Nam khi chế độ Cộng Sản sụp đổ.

Về lại Việt Nam chuyện đầu tiên tôi làm là về thăm ngôi trường cũ. Tôi thất vọng não nề khi thấy trường biến thành trụ sở nhân dân tỉnh với lá cờ đỏ sao vàng ngất ngưởng ở đỉnh cột cờ. Tôi không có cảm tình với lá cờ này vì thấy nó không “hiền” như lá cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam trước đây. Về thăm đất nước, sau gần hai mươi năm xa cách, tôi thấy mình chỉ là một du khách. Hiện tại không đưa tôi tìm lại được quá khứ. Dù những cái tên không thay đổi. Vẫn Đà Lạt, Nha Trang, vẫn Huế, Hà Nội, vẫn Hạ Long, Vũng Tàu. Nhưng cái xã hội vô hồn hiện nay khiến cho lòng người về cũng trở nên vô cảm trước cảnh vật. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng giảng giải sự tích của những nơi thăm viếng để hai đứa con tôi biết đôi chút lịch sử mấy ngàn năm của nước nhà.


Ba tuần trôi qua mau. Tuần thứ tư tôi đóng đô ở Sài Gòn. Sài Gòn xưa của tôi đã mất! Y lời của một bài hát tôi từng nghe: Tôi mất Sài Gòn như Sài Gòn đã mất tên! Đường phố đầy những kẻ tật nguyền ăn xin, đặc biệt là ở các tiệm ăn. Nhìn những kẻ cụt tay, cụt chân, tôi chạnh nghĩ trong số những người này không hiếm kẻ là thương phế binh của quân đội miền Nam trước đây. Tôi chợt nhớ đến con Chín và người tình đầu của nó, anh chàng Thiếu Úy Biệt Động Quân, người đã tặng nó cây bút Parker, không biết bây giờ ra sao. Còn sống hay đã chết? Còn ở với nhau hay đã chia tay? Nhớ tới cây bút Parker tôi lại nhớ chuyện bị thầy Trân bắt chép phạt, nhớ cây bút Parker, quà của thầy tặng tôi sau đó. Mặc cho bác xích lô đạp loanh quanh khắp nẻo Sàigòn, mặc cho hai đứa nhỏ ngồi phía trước líu lo chỉ chỏ cảnh trí bên ngoài, tôi ngả người vào nệm lưng chiếc xe, lim dim mắt, thả hồn về dĩ vãng.


- Mẹ, mẹ, họ bán gì kia?

Tôi giật mình, nhô đầu ra khỏi mui chiếc xich lô, nhìn sang vệ đường:

- À, họ bán vé số.

- Sao có nhiều người bán vậy?

- Chắc vì có nhiều người mua.


Vừa nói tôi vừa đảo mắt nhìn những quầy bán vé số. Ngồi đàng sau quầy là những bộ mặt buồn hiu, đàn ông có, đàn bà có. Tuy nói với hai con tôi nhiều quầy hàng vì có nhiều người mua nhưng tôi chẳng thấy người mua nào. Và tôi thắc mắc với ngần ấy quầy hàng, mỗi ngày một người bán được bao nhiêu vé để đủ sống? Tôi bỗng chú ý đến một người đàn ông ngồi sau quầy hàng cuối cùng. Trông ông ta quen quen. Tóc ông đã muối tiêu, má hóp, da mặt sạm đen. Nhìn mang tai trái của ông tôi giật mình:

- Thầy Trân!


Thầy Trân có cái nút ruồi nơi mang tai trái. Tôi sững sờ đi một lúc. Sao thầy Trân giờ lại ra nông nỗi này? Một ông giáo sư đi bán vé số! Tôi vẫn lạc quan tin nghề giáo, dưới bất cứ chế độ nào, vẫn hữu dụng. Tôi nghe lòng tê tái. Tôi bảo bác xích lô tấp xe vào bờ đường. Tôi mở ví, tìm cuốn sổ tay, xé một trang nhỏ, lấy bút ghi vội dòng chữ: “Ông có phải là thầy Trân dạy Sử trước đây ở trường Huyền Trân không?” Tôi đưa mảnh giấy cho Chi, con gái lớn của tôi, và nói với nó bằng tiếng Mỹ cho nó dễ hiểu và cũng để bác xích lô không biết chuyện:

- Con xuống xe, đi lại chỗ ông bán vé số quầy cuối cùng, đưa cho ông tờ giấy này. Ông đó là thầy dạy học của mẹ trước đây.

Con gái tôi mở tròn hai mắt:

- Thầy dạy học mà đi bán vé số! My God!

- Chắc tại ông mất việc.

Tôi đưa tiếp cho Chi hai tờ 100 mỹ kim và dặn thêm:

- Nếu ông nhận ông là giáo sư Trân thì con đưa cho ông số tiền này và nói của một học trò cũ của ông tặng. Mẹ dặn thêm, nếu ông có hỏi tên mẹ thì con trả lời: “Mẹ con dặn đừng nói”.


Thấy con bé ngỡ ngàng không hiểu vì sao tôi lại dặn nó dấu tên tôi, tôi giục nó:

- Con đi ngay và nhớ lời mẹ dặn.

Tôi ngồi thu mình trong xe theo dõi. Tôi thấy người đàn ông cầm tờ giấy tôi viết đọc. Tôi thấy ông nhìn sững con bé, rồi đưa hai tay ôm vai nó, đầu gật gật. Con bé đưa tiếp cho ông số tiền tôi đưa. Tôi thấy ông cầm tiền, đứng ngây người ra, rồi mắt nhớn nhác nhìn tứ phía như tìm kiếm ai. Tôi thấy ông cúi xuống như muốn gặng hỏi gì con bé. Con bé lắc đầu hai ba cái. Nó đưa tay ra bắt tay ông rồi vừa đi vừa chạy về hướng chiếc xích lô tôi ngồi. Tôi thấy ông cuộn tròn hai tấm giấy bạc, nắm chặt trong lòng bàn tay, mắt đăm đăm nhìn theo hướng con bé chạy. Tôi mở ví lấy cặp kính đen đeo vội để giấu đôi mắt đẫm ướt của mình.

Trang Châu

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image

HÀ GIANG.....NGƯỜI ĐÀN BÀ HIẾM CÓ TRONG ''TRẠI TÙ'' LAO CẢI......
1-
Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic.. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.
Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:
-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.
Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:
-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?
-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.
-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.
Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:
- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.
Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.
Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:
-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?
- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.
Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:
- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng.. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.
Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.

2-
Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.
Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:
- Anh còn nhớ anh Đôn không ?
Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:
- Trần Chánh Đôn!
Tôi hỏi lại:
- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?
Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:
- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam.

Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.
Bà xã tôi hỏi:
- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?
- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?
Tôi đưa tay ngăn lời cô:
- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.
Hà Giang chau mày:
- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.

Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ.. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.
Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:
“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được...“
Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:
“Tao đã tìm được anh ta.. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“
Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:
“Anh Chị ơi.
Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.
Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.
- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“

3-
Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:
...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.
Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa..

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...

Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.

hoangphong
Posts: 394
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Post by hoangphong »

Lé ơi
( hay là Mối Tình Đầu)
Tác giả : Tràm Cà Mau.

Thời đó, tại vùng Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, nơi quê nghèo, đất đai khô cằn, nông dân ăn độn khoai sắn gần như quanh năm, có một mối tình đầu của đôi trai gái quê mùa, yêu nhau từ khi còn để chỏm, mà không thành. Chàng tên là Ba, một nông dân học hành dở dang, mới vài ba năm tiểu học, nàng tên Lé, vừa biết đánh vần chữ quốc ngữ. Vào thời Tây đang cai trị xứ “An Nam” và vua Khải Định trị vì đó, thì có trình độ như đôi thanh niên nam nữ nầy, cũng đã được xem như là thành phần trí thức ở vùng quê xa xôi rồi.
Nhưng bọ ( bố) của nàng, không ưa chàng, vì tiếng chàng oang oang, và ánh mắt dưới đôi mày rậm, có cái gì gian ác. Cọng thêm cái tính trăng hoa của chàng, về tiếng đồn đi thả dê khắp các làng lân cận. Một ông thầy tướng số, có phán một câu về chàng rằng: “ Anh nầy không lo tu tỉnh, thì về sau chọc trời khuấy nước, làm chết hàng vạn hàng triệu người đó.”
Khi chàng nhờ người mai mối, bắn tiếng muốn cưới nàng làm vợ, thì ông bố của nàng từ chối và nói: “Khi mô thằng Ba làm vua, thì tui mới gả con Lé cho hắn.” Không biết lời từ chối có tính cách khinh khi, thách thức của bố cô Lé có nung nấu chàng thanh niên tên Ba suốt một đời tranh đấu, chà đạp lên thiên hạ, bất kể thủ đoạn nào, để mưu cầu cái danh vị quân vương hay chăng.

Người ta bảo rằng, khi yêu thì thần thánh cũng thành dại khờ. Những mối tình đầu thường ít khi thành, và lắm lúc làm ray rứt, nhức nhối con tim suốt một đời người. Nhưng nếu lấy được nhau, thì có khi vợ chồng cũng đánh cận chiến u đầu sứt trán, chữi rủa nhau thậm tệ. Khi tình yêu không mãn nguyện mà tự ái bị tổn thương, thì dễ trở thành cay cú, lửa hận nung đốt, và lắm lúc tạo thành những động lực lạ kỳ, thúc đẩy con người làm những việc không ai lường được.

Bị bố mẹ ngăn cấm, nhưng đôi trai gái vẫn bí mật liên lạc với nhau khi bóng đêm đồng lõa với các sinh hoạt lén lút . Về sau, chính anh Ba cũng công nhận rằng, nhờ những đêm hẹn hò vụng trộm, mà có kinh nghiệm nhiều trong sinh hoạt bí mật, tránh được con mắt dòm ngó của địch. Đôi trai gái hẹn hò nhau, đứng hai bên hàng rào, nói chuyện, than vãn tỉ tê, nói với nhau lời thương lời nhớ, chứ chưa dám cầm tay, sờ chân, hay đụng chạm thân thể. Như thế, cũng đã là quá liều, quá bạo vào thời đó. Một hôm, chàng Ba đánh bạo chui qua hàng rào, làm cô Lé sợ hết hồn, vừa đi thụt lùi vừa đưa hai tay ra chống đỡ, nói nho nhỏ: “ Đừng eng, đừng làm em sợ. Đừng, đừng...” Cô Lé vấp đống rơm sau lưng và ngã ngửa ra. Anh Ba nhào xuống, ôm chặt người yêu và toan hít lên má cô. Chưa kịp hành động, thì con chó mực nhà cô Lé nhảy chồm lên binh vực chủ, ngoạm một miếng ngon lành vào mông anh Ba, rồi lồng lộn, sủa ầm lên. Bố cô Lé tưởng có trộm, cầm gậy từ trong nhà phóng ra. Anh Ba khiếp vía, chui qua bụi hàng rào mà chạy trốn. Bố cô Lé tiện tay, cầm gậy phang cô túi bụi:
“Đồ đĩ thỏa, đánh cho chết mầy đi, rồi gọt đầu bôi vôi, dẫn đi bêu rếu khắp làng”
“Con lạy bọ, lạy bọ tha cho con, từ nay không dám nữa...” ( bọ là bố, theo tiếng địa phương)
“Mi đã 'ngủ ngáy' chi chưa?”
“Lạy bọ, con ngủ ngáy mỗi đêm.”
Cô Lé không hiểu chữ 'ngủ ngáy' của ông bố, nên trả lời sự thực, là đêm nào cô cũng có ngủ có ngáy. Ông bố thì tưởng cô thú thật tội lỗi, thất vọng quá, làm rơi cả cây gậy trên tay, than hai tiếng “Trời ơi” rồi ôm đầu đứng lặng. Cô Lé đau đớn nằm khóc trên đống rơm khô. Bỗng ông bố cô gầm lên như cọp rống:
“Tao phải giết chết thằng vô lại trước, rồi giết mi sau”.
Ông bố cô xách gậy phóng ra ngõ, đi tìm tên vô lại đã hại đời con gái quý của ông.

Anh Ba sợ quá, bỏ làng ra đi từ dạo đó. Cô Lé mang bệnh nằm liệt giường hơn hai tháng mới chống tay dậy nổi. Sáu tháng sau, khi cô bắt đầu có da có thịt lại, thì được gả chồng. Chồng cô, cũng là một nông dân trong làng, đã yêu trộm cô từ lâu mà không dám tỏ bày với ai, vì đã có anh Ba cản mũi kỳ đà. Anh nầy và anh Ba, cũng là chốn bạn bè.

Cô Lé thương chồng, thương con, luôn luôn vuông tròn đạo vợ chồng. Nhưng thỉnh thoảng, trong mơ, cô thấy hình bóng anh Ba hiện về. Từ ngày anh Ba bỏ làng ra đi, tin tức về anh rất hiếm hoi. Có người đi xa về, bảo rằng có thấy anh Ba đứng bẻ ghi đường sắt cho xe lửa. Rồi lâu lắm, có người nói anh đi đánh xe ngựa, khi khác, có người nghe nói anh đang làm công nhân lao động cho sở lục lộ. Ba lần anh Ba bị Tây bắt đi tù, cả làng đều biết, và ai cũng sợ, không dám công khai bàn tán về anh. Cả ba lần, cô Lé đều khóc với chồng, xin bán một ít lúa, mua đồ tiếp tế cho anh Ba. Cô tỏ cái tình cảm một cách công khai, vì cô không làm điều chi sai trái cả, khi nào cũng một lòng với chồng, con. Anh chồng cô hiền lành nói :
“ Phải rồi, hắn hoạn nạn, mình cũng nên giúp hắn. Vả lại, nhờ hắn bỏ làng đi, tui mới lấy được mụ. Hắn đi xa, không có ruộng đất cày bừa, làm ăn, thì đói khát, nên phải làm giặc mà sống.”
Phần anh Ba, trôi dạt theo giòng đời cơm áo, gian truân và hiểm nguy cũng nhiều. Làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Tình ái vụn vặt, lăng nhăng khắp nơi. Nhưng trong lòng không khi nào quên được cô Lé, mối tình đầu nơi quê hương. Vừa yêu vừa hận.
Có thời anh Ba dùng bạo lực cách mạng, cưỡng hôn được một giai nhân, nguyên là hoa khôi một trường nữ trung học lớn nhất ở Sài gòn, đem về làm "áp trại phu nhân", nhưng hình ảnh cô Lé, vẫn chói ngời đau đớn trong trái tim anh. Anh thề, phải có ngày gặp lại người xưa. Có ngày gặp lại ông bố khắc nghiệt của cô Lé, cho ông tiếc, ngày xưa đã chối từ, không gả con gái cho anh.

Mấy chục năm sau, kể từ ngày anh Ba vắt giò lên cổ chạy trốn cơn thịnh nộ của ông bố cô Lé, anh leo dần lên đến chức vụ tối cao của một nước, được mệnh danh là cọng hòa xã hội chủ nghĩa. Anh trở thành “lãnh tụ vô vàn kính yêu”. Bấy giờ đã 66 tuổi, có kẻ gọi bằng anh, nhưng nhân dân gọi là ông lãnh tụ. Ông lãnh tụ không dám để thiên hạ gọi bằng “ông”, vì chức ông cao hơn chức bác. Chức bác để dành riêng cho kẻ khác mà ông vừa tôn thờ, vừa diễu cợt.

Sau năm 1975, ông lãnh tụ cho người đi khắp nơi dò la, tìm kiếm gia đình bà Lé, nhưng biệt vô âm tín. Chiến tranh tàn khốc, ác liệt, đã càn qua quê hương Quảng Trị của ông không biết bao nhiêu lần. Tàn phá, chết chóc, li tán. Không gặp lại được những người ngày xưa, đã chê bai chối từ ông, để cho họ thấy cái quang vinh huy hoàng tột đỉnh của ông, thì uổng lắm. Cũng mất đi một phần ý nghĩa của cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ trong quá khứ của ông. E rằng, vết thương tình ái đầu đời, ông phải còn phải mang theo mãi cho đến khi xuống đến tuyền đài chăng.

Hai năm sau ngày hòa bình, người ta mới tìm ra được tung tích bà Lé. Gia đình bà đã trôi dạt về khu tị nạn Bình Tuy. Ông Ba lãnh tụ tức tốc bỏ cả việc nước, bay thẳng từ Hà Nội về Sài gòn. Cho người đem xe đến tận nhà, rước bà Lé vào dinh lãnh tụ. Trong xứ cọng sản, cái gì cũng là bí mật quốc gia. Người đi rước bà cũng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Gia đình bà Lé khóc lóc kêu than, tưởng cách mạng bắt bà đi học tập cải tạo vì mối thù năm xưa của ông lãnh tụ. Bà Lé ôm theo một bộ áo quần, hai củ khoai lang gói trong giấy báo. Bà cũng lo lắm, nhưng bà nghĩ rằng, bà chưa làm gì trái pháp luật, thì chắc cũng không đến nỗi nào. Có ở tù thì sau nầy sẽ được minh oan và về sớm.

Bà Lé được dẫn vào dinh. Trong đời bà, chưa thấy nơi nào sang trọng, nhà cao cửa rộng như thế nầy. Phòng khách rộng như cái đình làng. Đèn thắp sáng trưng như ban ngày thật là phí phạm. Bà Lé suy nghĩ lung lắm. Nếu nhà tù mà sang trọng như thế nầy thì bà cũng xin đi tù cho sướng thân. Ngồi chờ một lúc, thì cửa mở. Bà Lé thét lên mừng rỡ khi nhận ra ông Ba, người tình năm xưa :
“ Eng, có phải eng không? Mấy chục năm rồi, mới chộ lại eng. Eng mần chi ở đây ?” ( Anh, có phải anh không? Mấy chục năm rồi, mới thấy lại anh. Anh làm gì nơi đây?”

Rồi bà khóc hu hu làm ông lãnh tụ cũng cảm động mắt cay xè. Ông ngồi im lặng nhìn cố nhân, một bà già nhăn nheo, má tóp, tóc búi tó, sún hai răng hàm trên, một răng hàm dưới, mắt hấp hem, chân đen nứt nẻ, cái quần bạc màu nhăn nhúm. Ông thở dài nhè nhẹ. Bà Lé lấy tay áo quệt nước mắt và hỏi:
“ Nghe nói bi chừ eng mần vua phải không?” ( Nghe nói bây giờ anh làm vua phải không)
" Ừ, thì cũng giống như rứa"
Bà Lé lên giọng :
“ Vua, viếc? Vua chi mà ăn mược ( mặc) bần hàn rứa. Không có áo hoàng bào, mà mược áo sơ-mi trắng ngắn tay bỏ ra ngoài quần. Cũng không có hia mão chi cả, chỉ mang dép nhựa. Thiệt có hơn chi eng ( anh) tài xế xe đò?”
Ông Ba lãnh tụ nhìn bà Lé mà cười với ánh mắt tinh nghịch, trả lời:
“ Tui thuộc giai cấp công nông, lãnh đạo cách mạng, làm cách mạng. Ăn mặc cách nào cho gần gũi với nông dân thì cũng tốt thôi”
“ Rứa răng eng không ở trần, mược quần xà lỏn, đi chưn đất cho khỏe, chộ giống nông dân hơn? Hay là ngoài Bắc thiếu vải, eng không có vải mà may hoàng bào?” (Thế sao anh không ở trần, mặc quần xà lỏn đi chân đất cho khỏe, thấy giống nông dân hơn ? Hay là ngoài Bắc thiếu vải, anh không có vải mà may hoàng bào?”)
Ông Ba trợn mắt lên mà nói rõ ràng, chắc nịch:
“ Thiếu gì, cả nước!”
“ Tui tin eng. Giưng eng mần cách mạng để mần chi rứa ? (Tôi tin anh. Nhưng anh làm cách mạng để làm gì thế ? )
“ Mụ ni hỏi chi mà dị chưa tề. Làm cách mạng để đem no ấm, hạnh phúc và công bằng cho toàn dân, đem thế giới đến đại đồng chứ để làm gì” (“ Bà nầy hỏi chi mà kỳ chưa. Làm cách mạng để đem no ấm, hạnh phúc và công bằng cho toàn dân, đem thế giới đến đại đồng chứ để làm gì.”)
Bà Lé hừ một tiếng trong cổ họng, và nói:
“Ăn toàn khoai, sắn độn, lưng bụng, mà kêu là no. Mược (mặc) áo quần rách lòi mông lòi lưng, mà kêu là ấm. Đói vẩu miệng ra, thì hạnh phúc chỗ mô (nào) đây? Công bằng ở chỗ mô (nào), không thấy mô cả. Thế giới đại đồng là cái khỉ chi, tui không cần mô. Có đem cái đại đồng của eng ra hấp với cơm , ăn cho đỡ đói được không?”
" Nì, mụ đừng nói giọng mất lập trường, không được đâu. Mụ có nghe đến bạo lực cách mạng chưa?”
“ Chưa!”
" Nghĩa là nghiền nát bọn chao đảo, bọn mất lấp trường. Diệt, tận diệt hết.”
“ Nì, nì eng đừng dọa tui nghe. Dọa ai thì được, chớ tui thì không sợ mô.”
Nét mặt đanh thép dữ dằn của ông Ba lãnh tụ bỗng nhiên dịu xuống bất ngờ. Ông cười, nụ cười bối rối:
“Mấy chục năm rồi mà tính khí mụ vẫn thế, không thay đối chi cả.”
Đang nói chuyện, thì có một ông hé cửa vào nhìn vào, có vẽ khép nép, cũng nói giọng Quảng Trị:
" Thưa đồng chí bí thư thứ nhất vô vàn kính yêu ..."
Ông kia chưa nói hết lời thì vị lãnh tụ khoát tay, ra dấu bảo lui ra ngoài. Cửa vừa khép, bà Lé quay qua hỏi:
“ Liền ông mà cũng yêu nhau? Eng trở thành 'bà bóng' khi mô rứa? Khổ chưa!”
“ Đừng nói chuyện tào lao. Ông ấy là đại thi sĩ của nước ta đấy. Y là thi sĩ của nhân dân, không phải là trí thức như bọn văn thi sĩ khác”
“ Trí thức là cái chi rứa eng? “
Nghe bà Lé hỏi, ông lãnh tụ nghiêm mặt lại, lộ vẻ giận dữ, nói gằn qua kẽ răng:
“ Trí thức là bọn phản động. Cực kỳ phản động. Chúng có chút hiểu biết nên hay nghi ngờ những điều đảng ta nói. Không tuyệt đối tin tưởng như giai cấp nông dân, thợ thuyền. Đảng ta đã tận diệt bọn trí thức từ lâu, chà cho nát ngướu. Những tên còn lại thì co vòi rụt cổ, không dám ho he một tiếng. Bọn đó có hiểu biết, nhưng ít kẻ có can trường, sợ khó, sợ khổ, sợ đói. Càng khôn ngoan, thì càng biết suy tính lợi hại, và càng dễ đi đến hèn nhát. Cộng sản khắp nơi trên thế giới, đều ghét bọn trí thức, vì khó bịp được chúng lắm.”
“ Nì eng, không bịp được người ta, rồi ghét bỏ và tận diệt. Mần chi mà thất đức dữ rứa?”
“ Rứa thì mụ chưa hiểu chi về bạo lực cách mạng sao ?”

Ngồi im lặng một lát, bà Lé dịu dàng hỏi:
“ Eng mần vua có sướng không?” ( Anh làm vua có sướng không?)
Ông Ba thở dài:
“ Sướng thì có sướng thật. Nhưng cũng lo lắng lắm. Phải bận rộn, tâm trí căng thẳng, Tính mưu, lập kế, đối phó với bọn đồng chí bên trong, bọn thù địch bên ngoài. Sơ hở một chút là chúng giết mình chết không kịp ngáp. Lại thất đức lắm. Giết đồng chí thân cận, giết hại bạn bè, cả anh em, không từ ai cả. Chết nhiều người quá. Ba triệu thanh niên miền Bắc, và cả nửa triệu người miền Nam. Đất nước tan hoang đổ nát. Chỉ có mình tui, gia đình tui là sung sướng, chỉ có một số đảng viên hưởng phúc, hưởng lợi lộc. Úi chà! Tại sao tôi lại thổ lộ tâm can với mụ làm chi nhỉ? Gặp lại mụ, tự nhiên tôi mất cả đề cao cảnh giác thường nhật. Bậy thật .”
Bà Lé an ủi :
“ Thôi eng đừng buồn. Bác Hồ có nói xây dựng bằng mười ngày xưa.”
Ông lãnh tụ nói như gầm:
“ Xạo, xạo. Bố láo cả.”
Rồi ông Ba hạ giọng thì thầm:
“ Mụ phải thề, là đừng nói lại với ai những lời tôi vứa thổ lộ . Thề đi!”
“Thề, thề cá trê đục vô ống đó. Chuyện có chi quan trọng mà phải thề với thốt cho mệt. Ngày xưa, eng cũng thề thốt đủ điều rồi bỏ tui mà ra đi. Có thần thánh mô vật chết eng mô nà!”
Bà Lé dịu dàng nhìn ông Ba, rồi móc trong túi xách ra hai củ khoai luộc bọc trong giấy báo, đưa cho ông lãnh tụ và nói:
“ Eng ăn hai cộ (củ) khoai ni đi. Ăn cho đỡ đói.”
Ông lãnh tụ một tay ôm ngực như dằn cơn đau tim, một tay đưa ra cầm củ khoai mà nước mắt rưng rưng. Một hồi sau mới thốt được nên lời thì thầm:
“Bà làm tui cảm động muốn khóc. Tui nhớ năm xưa, bí mật về Cồn Tiên diễn thuyết, bị Tây vây bắt, trốn trong bụi rậm, đói khát gần chết, bà bới cho tui mấy củ khoai. Nhờ vậy mà còn sống sót đến hôm nay.”
Ông lãnh tụ cắn củ khoai, ăn cả vỏ. Bà Lé nhìn và nói:
“ Vua mà ăn khoai cả vỏ. Tội nghiệp chưa tề. Từ ngày giải phóng, chúng tui là nhân dân, mới ăn vỏ khoai, chớ eng là vua mà cũng ...”
Ông Ba cắt ngang, giọng buồn buồn:
“Tui ăn cả võ khoai để tìm lại cảm giác, đi về kỷ niệm năm xưa. Cái tình cảm hy sinh của mụ dành cho tui. Cái hồi gian khổ đó. Và bây chừ, ăn vỏ khoai, để chia xẻ cùng đồng bào ruột thịt hai miền đang đói. Để cả nước đói, là trách nhiệm của cả đảng, và tui là kẻ đứng đầu. Nhưng không biết làm chi hơn. “
Bà Lé đưa mắt nhìn quanh dinh thự, thấy trần cao, cột lớn, đèn đóm sáng rực, tường treo tranh, góc có dựng tượng mỹ thuật, sang trọng. Bà hạ giọng nói thầm với ông lãnh tụ:
“ Ông ở nơi xa hoa, sang trọng như ri, không sợ mai mốt cọng sản nỗi dậy, chúng nó có treo cổ ông lên không?”
Ông Ba lắc đầu chán nản, nhìn người yêu cũ quê mùa dốt nát bằng con mắt thương hại. Tự chỉ vào ngực mà nói:
“ Tui, tui là cọng sản đây nè. Tui treo cổ tui lên sao?"
“ Eng là cọng sản thiệt không? Hèn chi cả nước đói giơ cọng, giơ que ra.”
Ông Ba lãnh tụ nhìn bà Lé với vẻ mặt ngơ ngác. Quắc mắt lên vì giận. Nhưng rồi một lúc sau ánh mắt dịu xuống. Nét mặt như ôn hòa, cảm động. Ông nói:
“Chỉ có mụ là nói thật. Mấy chục năm nay tui chưa nghe được một câu nói thật nào. Toàn cả láo với láo mà thôi. Toàn cả những lời xu nịnh, bịp bợm, láo khoét, lặp lại như vẹt. Tui biết láo mà phải nghe, phải tán đồng, gật gù, khen tụng. Chung quanh tui, cả trên lẫn dưới, không ai dám nói một câu thật lòng. Nghĩ một đường, nói một nẻo. Cả đồng chí, bạn bè, vợ chồng, cha con, phải nói dối nhau, và biết người khác nói dối với mình, biết mình nói dối với kẽ khác. Ai nói dối nhiều, thì sẽ được thăng tiến mau. Đó là bản chất của cọng sản chúng tui. Không nói dối, thì đảng tui sẽ sụp đổ tan tành. Sụp ngay. Phần mụ, không phải đảng viên, cũng không là cán bộ, không là công nhân viên nhà nước, thì hãy giữ lấy cái chân thật còn lại, để may ra, các thế hệ con cháu sau nầy, khi cọng sản chúng tui đã tan rã, còn có gì mà noi theo.”
“Eng nói lạ chưa? Tui nghe người ta nói, mấy chục năm ni, cọng sản trên thế giới chỉ có bành trướng thêm, chứ không thu hẹp lại bao giờ. Làm sao mà sụp được?”
Ông lãnh tụ ôn tồn nói:
“Sông còn cạn, núi còn mòn, thì dối trá, láo khoét, bịp người, có bao giờ tồn tại mãi được. Láo khoét là sợi chỉ hồng xuyên suốt qua đường lối và tôn chỉ của đảng tui. Chỉ còn mụ, là người để tui có thể nói thật trong chốc lát, rồi sau đó, tui trở về bản chất của tui.”
Bà Lé nghe mà cảm động. Bà xuống giọng:
“Biết rứa, thì răng eng không bỏ đi cho xong chuyện?”
“Bỏ ngang đi mà được sao. Tui đang có quyền hành tuyệt đối. Bỏ ngang là chết ngay, chết cả nhà, chết cả toàn bộ phe nhóm. Mụ có biết, tui đã tốn bao tâm cơ, khó khăn, mưu mẹo, để leo lên địa vị nầy, thì có chết đi mới rời bỏ chức vị thôi.”
Ông lãnh tụ đưa bàn hai tay xoa mặt, theo kiểu rửa mặt khô, hít một hơi dài, ông thong thả nói:
“ Khó lắm chứ không dễ đâu. Phải thường trực đề cao cảnh giác”
“Răng mà eng hay nghi ngờ dữ rứa?”
Ông lãnh tụ hừ một tiếng và nói rất rõ ràng:
“ Nghi ngờ là bản chất của chúng tui. Phải nghi ngờ cả đồng chí, bạn bè, vợ con, cha mẹ. Và phải tự nghi ngờ chính cả bản thân mình nữa kia mà. Những điều tui nói ra, tui cũng không tin.”
“ Trời ơi. Rứa thì biết tin ai bi chừ?” (Thế thì biết tin ai bây giờ?)
“ Không tin ai cả.”

Có một mẫu thịt đang dính trong răng ông lãnh tụ, ông quờ lưỡi nạy hoài mà không ra. Chợt ông khám phá, hình như có cọng mây lòi ra sau lưng ghế dựa mà bà Lé đang ngồi. Ông nhìn chăm chăm vào cọng mây. Bà Lé tưởng ông đang chiếu tướng, nhìn bà say đắm, bà ngượng, xấu hổ, máu dồn lên cái mặt già, làm đỏ hồng. Ông Ba lãnh tụ đứng dậy, với tay qua phía bà, để bẻ cọng mây làm tăm xỉa răng. Bà Lé tưởng ông nầy định dỡ trò sàm sở. Hai tay xua lia lịa:
“Thôi đừng, thôi đừng. Trẻn quá eng ơi. Mình tra rồi. Lỡ ai chộ, trẻn lắm. Cho tui giữ chút, chút … với vong hồn ông dôn tui.” (Thôi đừng, thôi đừng. Xấu hổ quá anh ơi. Mình già rồi. Lỡ ai thấy, ngượng lắm. Cho tui giữ chút, chút … với vong hồn ông chồng tôi.)
Ông Ba cứ vói tay qua, làm bà Lé hai tay ôm mặt, nhắm mắt co rút người lại như thủ thế. Chờ mãi, không thấy bị đụng chạm, bà Lé mở mắt ra, nhìn thấy ông lãnh tụ Ba đang ngồi xỉa răng trong cái ghế của ông. Và ông nhổ phẹt ra một mẫu thịt nhỏ, văng nằm trên bàn. Ông lãnh tụ nhìn mơ hồ về phía xa, và nói nho nhỏ:
“Tui hỏi thiệt, mấy chục năm nay, gia đình mụ có được hạnh phúc không?”
Bà Lé gật đầu:
“ Có. Tui sống hạnh phúc. Ôn dôn (ông chồng) tui cày cuốc chăm chỉ, có cơm ăn gần như quanh năm. Năm mô mất mùa, lũ lụt, thì ăn độn nhiều tháng hơn. Chỉ có hồi 'giải phóng' xong, là đói hơn cả,”
Ông lãnh tụ thở dài, hình như cái tự ái bị tổn thương của ông chưa lành miệng, và bị chảy máu lại. Ông nói như giận với bà Lé:
“ Ông ấy mà còn sống, thì tui cũng cho đi cải tạo mút mùa lệ thủy, mục xương, không ngày về.”
Bà Lé gào lên khóc:
“ Ác chi mà ác dữ rứa eng ơi. Hèn chi hồi đó, bọ tui nói eng có tướng ác, sau ni thế nào cũng làm việc thất đức, nên cấm tui liên lạc với eng.”
“ Ngày trước, bố mụ nói với tui rằng, khi nào mày được làm vua, tao mới gã con cho. Bây chừ, bố mụ không còn sống, để thấy tui làm vua. Ha ha ha ..."
Bà Lé mím môi lại nói:
“Khi đó eng cũng lung tung, dòm ngó nọ kia, eng tưởng tui mù mắt không biết hê răng?” ( hay sao). Eng còn dớ ( nhớ) mụ Lụa không?
“ Mụ Lụa bi chừ ra răng? Lấy ai ? Con cái ra răng?” (Mụ Lụa bây giờ ra sao? Lấy ai ? Con cái ra sao?)
Bà Lé quắc mắt, có tia ghen tuông giận hờn trong cái nhìn. Nghiến răng mà nói:
“ Mụ nớ lấy ông xạ. Bán buôn giàu có, con cái thành công, hạnh phúc lắm. Eng có tiếc không? Còn mụ Bông, thì cả gia đình chạy giặc, bị Việt cọng pháo kích chết trên đại lộ kinh hoàng đó. Eng nghe có sướng không?”
Ông lãnh tụ im lặng, mắt thoáng buồn. Bà Lé bồi thêm:
“ Tui nghe thiên hạ đồn rằng, eng đã ép uổng cả chị hoa khôi Gia Long ngày xưa làm vợ bé, bỏ cả mụ vợ nhà quê. Bây chừ còn tò te với con đào cải lương nữa, phải không? Đào hoa cho lắm hí.”
“ Thôi mà mụ. Dù cho có cả ngàn tiên nga bên mình, tui cũng không hết cái đau vì bị bọ (bố) của mụ từ chối đuổi đi. Mụ có còn thương tui không?”
“ Hứ ! Thương cái xương không còn. Tra hết trơn rồi, nói chi chuyện ốt dột. Con cháu chúng cười cho thúi trốt” ( Hứ ! Thương cái xương không còn. Già hết cả rồi, nói chi chuyện xấu hổ. Con cháu chúng cười cho thối đầu)
Ông lãnh tụ đau đớn thở dài. Ông nói thầm cho riêng ông nghe:
“Chinh phục được một mụ nhà quê còn khó hơn chinh phục một đế quốc. Bọn tư sản phản động nói không sai.”
Vẻ buồn bã hiện rõ trên mặt ông lãnh tụ. Trầm ngâm một lúc, ông dịu dàng hỏi bà:
“ Rứa thì thằng con út của mụ bi chừ mần chi?”
“ Hắn đang phấn đấu để được vô đoàn, vô đảng. Eng có cách chi giúp hắn không?”
Ông lãnh tụ nhún vai, thở dài, rồi nhìn bà, nói giọng thì thầm, thành thật:
“ Thôi, thôi, mụ về nói với hắn đừng có dại mà ăn thêm phân gà nữa!”
Bà Lé tròn mắt ra nhìn, không hiểu ông lãnh tụ muốn nói gì.
Chín năm sau, khi ông lãnh tụ hấp hối, người nhà ghé tai nghe lời trăn trối cuối cùng của ông, chỉ nghe lời thì thào rất nhỏ “Lé ơi”. Cả nhà không hiểu ông muốn nói gì. Ông tắt thở và thọ 78 tuổi. /.

Mùa thu 2005

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Mộng Dưới Hoa
Thơ Đinh Hùng
Nhạc Phạm Đình Chương
Trình bày Jo Marcel





coi chừng vỡ mộng, hehehe

User avatar
mexanh
Posts: 480
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Post by mexanh »

Image

CHIM TU HÚ
Hồ Đình Nghiêm
1.

Người con gái ấy tuy thấp bé hơn tôi, tuy cao không bằng tôi, tuy trông ngác ngơ vụng dại hơn, tôi vẫn gọi Mộc bằng chị, đơn giản vì tôi biết chị Mộc lớn hơn tôi hai tuổi. Sách vở nhà trường vẫn dạy tôi món công dân giáo dục, về bài vỡ lòng là khi người ta lớn tuổi hơn mình, nên tôn ti trật tự khiêm cung nhún nhường gọi người ấy bằng chị, cho dù thân phận chị có thấp hèn đến mức nào đi chăng nữa.

Tôi lớn lên ở thành phố, chưa một lần đi xe đò ngược ra hướng bắc, chưa từng qua sông bằng con đò nhỏ luôn có nước đọng vũng giữa lòng, chòng chành mất nửa ngày mới về thấu làng bên nội. Ngôi làng mà ba tôi từ bỏ để đi xa lập nghiệp, tự hồi nào tới giờ vẫn là vùng xôi đậu, tuyệt không biết tới chữ an ninh, đêm ngày vẫn cắc bụp tiếng súng. Ở đó, gia đình chị Mộc đã tìm cách tỉa mỏng người, cố rời xa vùng khói lửa bằng đủ cách và như vậy chị Mộc từ ngoài làng đã vào trú thân trong nhà tôi với chức phận “người giúp việc”. Hợp đồng được thoả thuận ngầm: Bao ăn bao ở, một năm may cho hai bộ áo quần cọng thêm mấy ngàn bạc, đôi bông tai sợi giây chuyền cái nhẫn hai chỉ; ngược lại chị Mộc sẽ phải thức khuya dậy sớm chu toàn việc giặt giũ quét nhà gánh nước đi chợ nấu ăn rửa chén. Thời gian không định trước, hoặc thấy quá mỏi mệt “hồi nào ngoài làng ngó yên yên thì liệu về mà lo vun quén kiếm một ông chồng cho yên bề gia thất”.

Yên yên là chữ quá trừu tượng, ngay cả ở thành phố thỉnh thoảng cũng bị “ăn” đôi ba quả hoả tiễn rót về vô tội vạ gây hoang mang huống chi ngoài chỗ đồng không mông quạnh mãi gồng mình hứng chịu sự oanh kích tự do. Chẳng yên yên nên chị Mộc đành ở lại lâu lâu. Lâu tới độ tôi không biết rõ đã mấy năm, chỉ biết là thời gian khiến chị giờ này có da có thịt hơn hồi đó. Mẹ tôi dắt chị đi chợ, đích thân lựa mua cho chị một cái nịt vú. Tôi tưởng tượng ra lời mẹ tôi: Mi là thiếu nữ rồi đó, tối ngủ đừng dang tay dạng chân, giữ ý giữ tứ, khi nào tình hình yên yên tao bày gương lược phấn son ra chỉ cách săm soi làm tốt mặt mày chải tóc chải tai. Con gái không nói làm chi, chớ thành thiếu nữ rồi thì nên biết chút điệu đàng làm vốn. Nhưng mà cái chi cũng rứa cả, vừa phải thôi chứ không được làm tới, vượt rào cản cho phép. Phải biết thân biết phận, liệu cơm mà gắp mắm.

Tuy “nàng là phận gái ta là phận trai” nhưng do tuổi tác chẳng mấy chênh lệch, chị Mộc gần gũi thân cận với tôi, ngay cả khi lần đầu được mặc xú-chiên chị cũng nói chùng nói vụng rằng nó làm sao ấy, chưa quen, thấy không thoải mái lắm. Chị tả cảnh ngoài làng cho tôi nghe, chút nhớ thương ẩn nấp trong cách thuật chuyện và tôi hình dung được một cảnh quang đẹp vừa hiện tới dù người thuyết trình chẳng có khiếu ăn nói. Tôi đâm có tình cảm với chị, nghĩ là công việc phải cáng đáng giờ này của chị quá sức nhọc mệt, chứ nếu ngoài đó yên yên hẳn chị đã cắp sách đến trường giống như tôi và theo số tuổi sẽ học hơn tôi đến hai lớp.

Mùa thi, tôi thức khuya học bài, không thấy buồn ngủ vì chị Mộc vẫn còn loay hoay việc vàng gì đó dưới bếp. Hoá ra mẹ tôi biểu chị chịu khó nấu cho “hắn” tô cháo ăn cho có sức, có đêm đổi món từ mặn qua ngọt. Mặt chi Mộc đỏ, củi lửa làm lọn tóc mai bện lại với mồ hôi, chị bưng chén chè hạt sen nấu với đường phèn lên: Ăn thử có vừa miệng không? Đang gạo bài à? Sách vở có giải thích rõ ràng vì sao lại gái hơn hai trai hơn một? Thấy tôi ngồi đực mặt, chị Mộc quay lưng: Khuya rồi, tui đi tắm cái đã.

Sau bếp có vuông xi-măng dựng ngăn đơn sơ một tấm tôn dùng che đậy, bảo vệ cho người vào làm vệ sinh rửa ráy tắm táp. Tiếng nước dội xuống từ cái ca nhựa phát ra giai điệu nghe lâm ly hơn mưa rơi ngoài trời. Mùa hè thường vắng mưa, chỉ nghe âm thanh từng gáo nước đổ xuôi theo mình mẩy đứng khuất dưới kia cũng thấy mát mẻ phần nào. Mát mẻ đi kèm với tò mò. Tò mò xúi giục mạo hiểm. Mạo hiểm đánh động trí khôn. Trí khôn bày đường cho đôi chân lăng ba vi bộ cách sao cho thật êm thắm. Nói tội trời, nếu có thi môn đạo đức học e rằng tôi sẽ bị đánh rớt, tôi sẽ trượt vỏ chuối. Nhưng tình ngay tôi cũng trúng được lô an ủi, rằng chính sự lơ đãng của chị Mộc đã giúp tôi “sáng mắt”.

Theo như hàng chữ in trong sách từng cất công biên soạn: “Cơ thể con người chia làm ba phần: Đầu, mình và tứ chi”. Thiệt là thiếu sót quá lắm, bởi mình chị Mộc quả khác xa mình tôi bội phần. Ngực khác, bụng khác, khác tới tận cùng chỗ chia hai đôi chân (nhị chi). Tụng bài vở thì hai con mắt chực ríu lại đòi thiếp ngủ, nhưng chùng lén ngó chị Mộc đứng tắm… Tôi nói sáng mắt là vì vậy, ngủ ngáy chi được giờ này, còn sớm mà, cứ thoải mái kỳ cọ cho lâu lâu nghe chị Mộc. Coi kìa, bọt xà phòng cô Ba còn bám nơi nhúm tóc, nơi đầu vú. Vú đẹp thế kia cớ sao lại đi chèn ép nó, gò bó trong cái vật cà chớn kêu bằng xú-chiên, hấp, xào, luộc chín… quá sức bậy bạ.

Nhờ thức khuya học bài, tôi biết được giờ giấc sinh hoạt cuối ngày của chị Mộc. Khi thì ngồi bày kim chỉ để may vá chiếc quần bị sút chỉ, khi thì nắn nót chậm rãi viết thư về làng kể lại những ngày tha hương sau khi xin tôi giấy bút và nhờ tôi dò lại, sửa lỗi chính tả. Chị viết thật thà như đang tẳn mẳn trò chuyện, như đang nói. Và thỉnh thoảng lập lại câu: “Con không biết ngoài mình đã yên chưa. Cầu trời…”.

Trời ở xa, trời không nghe. “Ngoài mình” mang tiếng súng đi dần vào thành phố. Mọi người hốt hoảng bỏ chạy, mọi người tập bay để mong gặp đất lành chim đậu. Quýnh quáng sao đó, từ xe đò vô thấu Sài-gòn nhìn lui ngó lại thấy thiếu mặt chị Mộc. Tôi nhớ lại sáng đó, thấy chị nhét cái nịt vú trong túi vải: Đang búi xờm xờm, mặc thứ ni vô thêm tức ngực khó thở. Không biết bây chừ ba mạ tui ra răng? Ngực chị rung động sồi trụt sau làn vải mỏng. Và tôi đã lập lại lời chị: Không biết bây chừ Mộc của tui ra răng?


2.

Tôi dành dụm được một số tiền sau nhiều năm cày bừa trên cánh đồng mới. Ba mẹ tôi mất đã tám năm, mất trong đói kém và chẳng còn ai thân thuộc bên mình. Thiên tai bão lụt cũng như đề án thu hoạch đất đai bên đó làm tôi lo ngại đến sự an nguy của mộ phần song thân. Tôi có lý do chính đáng để đi Việt Nam, nơi mà khi leo lên ghe trốn chui ra biển lớn tôi đã quay đầu thốt lên hai chữ vĩnh biệt. Đâu còn gì mà mong ngày trở lại hở em?

Tôi đứng trước căn nhà cũ, nhìn không ra vì giờ này họ đập phá, nới rộng, nâng cấp để biến thành một cơ quan gì đấy treo đầy băng-rôn biểu ngữ cờ quạt toàn sắc đỏ. Có một cậu thanh niên bảo vệ từ trong chòi canh ra xua đuổi tôi đi, làm như tôi là thành viên trong tổ chức có mưu toan cài bom, khủng bố. Tôi bắt xe ôm đi dọ hỏi mất ngày trời mới tìm ra hai nấm mộ xiêu vẹo quá đỗi tang thương. Với tám trăm đô la, người ta hứa sẽ chỉnh trang, đắp xi-măng dựng bia trông sao cho “hoành tráng”. Tôi rất chán ngán, làm ơn đừng nói hoành tráng, có được không? Chuyện nhỏ. Người ấy nhún vai. Lạ, Việt kiều mà lại chẳng ưa hoành tráng! Trao một nửa cho chúng tôi mua vật liệu, khoảng tuần sau thì hoàn thành mọi công đoạn, chỉnh chu đâu ra đó. An tâm đi nhớ, sẽ có người lo sắm sửa nhang đèn vàng bạc các thứ linh tinh, bảy ngày sau, đúng hẹn, khi ấy bác hẳn trao nửa số tiền còn lại.

Cái ông đen đúa đứng ra lo việc lớn tuổi cỡ chú tôi, vậy mà luôn mồm kêu tôi bằng bác, xã giao kiểu gì ngó gay cấn thật. Bác thích sắm gì cho người khuất mặt nào? Xe hơi BMW đời mới hay đốt xuống hai cái di động iPhone 10? Người ở cõi âm giờ nầy rất chảnh. (Bác) giả bộ la to: Đã bảo đừng hoành tráng cơ mà, thiết thực hơn cả là nhờ quý vị liệu làm giúp cho một mâm cơm. (Cháu) hô: Chuyện nhỏ, ở đây bác là thượng đế, muốn sai bảo gì thì cứ mạnh miệng để mai sau khỏi hối tiếc.

Không biết cách tiêu hoang thời gian. Bảy ngày thì quá dài, phố thị giờ này lại quá xô bồ hỗn tạp, ngồi uống cà phê ngay góc đường lắm bụi nhấm nháp bột Trung Nguyên pha tạp nồng mùi, tôi quyết định thử tìm về thăm làng nội một lần cho biết rường cột cội nguồn. May mà họ chưa thay tên làng, hỏi thăm liền có người bày đường chỉ lối. Bị chặt chém hay không, tôi chẳng lấy đó làm điều vì qua sông thì phải luỵ đò, mấy thuở một lần, nên xí xoá. Dễ thông cảm, khác với trường hợp là người ta bị chém mà mình lại chảy máu, con tim mình già cỗi dần vì hết còn xúc động, chẳng thấy ra cảnh đáng yêu, thoi thóp cho đến khi gặp phải lãnh cảm.

Làng quê vốn chôn trong dự tưởng của tôi là một thứ gì thật êm ả, lắm sắc xanh, nhiều bóng mát. Đình làng, cây đa, bờ đê, dáng trâu bò, đồng ruộng tuyệt không hiện diện ở đây. Nó là một thị trấn dựng đặt thật nhiều hình khối bê tông cốt tre kích thước chẳng mấy rộng, chỉ vậy thôi. Người ta muốn làm cách mạng tất thảy, thích cái vẻ hào nhoáng diêm dúa bên ngoài, ưa hiện đại hoá mặc dầu người ta chưa thể chế tạo ra một cây đinh sắt. Vậy thì bọn đinh tặc mua đinh từ đâu mà rải xuống đường lắm thế? Đinh Trung quốc hay đinh Thái Lan hay đinh xứ Hàn? Nghề vá lốp xe cuối đường so ra cũng chịu khó tốn kém nhỉ? Ông hành nghề xe ôm mặc sức thoá mạ trên lộ trình ngắn, ông vất tôi xuống trước một nhà nghỉ rồi gọi tôi bằng cậu: Xứ cậu ở có nuôi sống một bọn người chuyên đi làm thủng ruột xe của bà con không? Tôi nói không, làng quê bên ấy êm đềm lắm cơ, thơ mộng lắm kìa. Máy xe vẫn nổ, tiền trao cháo múc đã lâu, vậy mà ổng vưỡn mặn việc láng cháng, dùng dằng quyến luyến chẳng nỡ chia tay: Cậu thích vui vẻ thì nhớ nói, trời tối tôi thồ tới cho cậu một con bò lạc, ngon cơm nhưng giá bèo. Tôi nhăn răng cười, lắc đầu quầy quậy, nuốt xuống bụng câu nói: Cậu đây chưa thấy hứng thú, xéo đi cha nội.

Nhà nghỉ mang tên Hoa Mộc Lan, cách bài trí vẫn chưa thoát ra khỏi luỹ tre làng, hoa hoè hoa sói đậm chất phèn chua nước lợ. Tôi vào, dựa người vào quầy tiếp tân làm thủ tục nhận phòng, chỉ một đêm thôi. Anh thanh niên ngước mắt lên khỏi màn ảnh chiếc máy vi tính: Mấy người ạ? Một. Nom bác như người ở phương xa về, bác có cần hướng dẫn viên dắt đi tham quan những khu vực nổi tiếng ở địa phương không ạ? Họ vừa tu sửa và khánh thành căn hầm nơi từng diễn ra trận giao tranh ác liệt, cấp số ta chỉ một tiểu đội nhưng đã đánh thắng cả tiểu đoàn giặc Mỹ xâm lược… Môn bài nhà nghỉ là Hoa Mộc Lan, vậy gần đây có cánh rừng trồng nhiều kỳ hoa dị thảo không? Ai là người sẽ dắt tôi vào vạch lá tìm sâu? Bác lại khéo đùa.

Tôi lên phòng, nằm ở lầu một. Dường như đã lâu chẳng có ai nhỡ lạc đường vào ngã cái lưng hòng tìm lại sức, mùi gì lưu trú ở mọi góc kẹt dồn tới khi cửa phòng được mở. Mùi cá kho bị khét, mùi mực nướng, hay mùi nước mắm? Không biết, choáng váng nồng, kiểu đặc thù bản sắc dân tộc. Tiếng là làng quê nhưng nó đã vĩnh biệt mùi lúa mạ reo trong gió, mùi đất nồng vừa cày xới. Tôi hơi bị tưởng tượng, cứ ngầy ngật với bao ảo tưởng. Tôi mở toang cánh cửa sổ, đứng nhìn chân mây màu tím đang chìm trôi trong bóng hoàng hôn rút về mảng đen của Trường Sơn chụp vội. Vất ba-lô xuống giường, tìm một bộ áo quần sạch và tôi cần đứng tỉnh người dưới vòi nước lạnh, càng lạnh càng tốt.

Nước chảy yếu, lấy lệ, kiểu vòi kia chưa hỏng hóc có chảy nước. Tôi trì chí đứng tắm, lảm nhảm câu: Đi một ngày đàng học ba sàng dại. Bước ra, lau mình lau mẩy lại lầm bầm: Ai nên khôn mà chả dại một đôi lần. Tự gẫm, tại sao lại “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”? Tôi loay hoay trong phạm vi chật hẹp chưa định được bước đi sắp tới thì nghe có tiếng gõ cửa. Tiếng động lớn, có thể lôi đầu ai đó thoát khỏi giấc ngủ say. Tôi đang thức nên tôi giật mình, từ khi về lại cố hương tôi mãi bị giật mình, hình như chốn này không dành cho ai mang bệnh yếu tim? Chẳng biết việc đăng ký tạm trú có gì trở ngại, tôi nhẹ nhàng mở cửa ra. Ngoài hành lang dựng đứng một người đàn bà cao ngang vai tôi, mặt mày khó nhìn đoán tuổi tác vì bà trang điểm có hơi mạnh tay, nửa thành thị nửa ruộng đồng. Ngó một đỗi thì hoài nghi in tuồng mình có gặp qua đâu đó, chí ít cũng một lần trong đời.

Chú không nhìn ra chị à? Còn nhớ Mộc không?

Tôi chôn chân. Nếu đúng là chị Mộc thì quá sức hoang đường, ngay cả giọng nói giờ đây cũng đổi thay, nghe khác trước. Ngày đó chị Mộc không thích mặc áo nịt ngực, tôi nhớ lại để vô tình mắt tôi đọng vào vòng một của vị nữ nhân kia. Ôi bể dâu! Ngực chị Mộc hơi bị “hoành tráng”. Xài xú hàng Trung quốc chứ gì nữa, nhô ra, cứng cáp hơn cả nón bảo vệ.

Tuy có hơi ngờ ngợ nhưng linh tính chị thì quả đoán một hai là chú. Thú thiệt là nhà nghỉ có lén bắt ca-mê-ra trong phòng vệ sinh, chị thấy chú đứng tắm cả nửa giờ và chị nóng lòng lên gõ cửa để xác minh là chị chả nhìn lầm người. Quả không sai trật. Ôi, tuy đã là ông Việt kiều mà sao hình tướng trông vẫn thế. Chú có tin vào duyên số không?

Chị Mộc đi vào phòng, tự tay chốt lại cửa. Ôi thôi, cuộc đời nầy thật nghĩ không ra, về cách đi giáp vòng của nó, thứ mà chị Mộc kêu bằng duyên số. Tôi từng vụng dại rình xem chị Mộc khoả thân kỳ cọ da dẻ trơn láng, vuột trôi qua bao sóng gió, giờ đây chị ấy lại vụng trộm nhìn lén thằng Trần Văn Trụi đứng tắm. Ai cho phép nhà nghỉ lắp đặt caméra ở chỗ kín đáo? Với chức phận gì chị Mộc có quyền theo dõi những thước phim “đồi trụy”? Đồng chí này công tác ở bộ Công An chăng?

Chị Mộc ngồi xuống giường, trông lên tôi bằng ánh mắt của người quen nhìn bọn tội phạm. Không, tả vậy thì hơi bị hàm oan cho chị ấy. Chỉ là đọng chút lượng định, chút tò mò, chút đắm đuối chẳng thể biểu tỏ bằng ngôn ngữ. Nghía cho no con mắt mới tâm sự đôi điều:

Gia đình chị có công với cách mạng, trước đây họ đề bạt chị giữ chức chủ tịch hội phụ nữ. Được hai năm chị xin từ chức vì nghĩ chả ăn được cái giải gì lại thêm vở kịch đạo đức gương mẫu làm gương cho chị em ta thì quá khó nhập vai. Vào lòn ra cúi một hồi rốt cuộc con người chị biến đổi như ngày hôm nay.

Chữ biến đổi chị dùng quá chính xác. Làng quê đã hăm he hiện đại hoá. Một người giúp việc lam lũ đã trở thành bà chủ nhà nghỉ. Một đứa học trò bị bứng ra khỏi quê nhà để mang phận làm đứa Việt kiều. Việt kiều chả làm nên công trạng gì ghê gớm cả và Việt kiều hồi hộp này đã bị đánh cướp mất chữ yêu nước. Chị Mộc hối tôi thay áo quần: Mình kiếm cái quán ăn ngồi trao đổi cho cạn tâm tư. Chỗ này bức bối quá, nó chỉ thích hợp cho việc ngủ ngáy. Chú lặn lội về đây để tìm chị, có phải không?

Chị Mộc dắt tôi vào quán KFC chuyên trị gà. Lạ, thịt con gà nội địa ngon dường ấy lại bày đặt chê bai, ưa vọng ngoại, thích xơi gà Tây gà Mỹ ớn tận cổ. Vác mặt lên, xem ta là dân sành điệu. Thằng Tây thằng Mỹ thì ta buộc chúng phải cút về nước, nhưng con gà của chúng thì lại khác, nhớ? Cớ sao chúng không nhập thịt chó vào nước ta nhỉ? Khoái khẩu phải biết. Về quê cũ, chú đừng lo ngại việc gì cả, đã có chị đây. Chị Mộc nói. Tuy không ăn học đến nơi đến chốn nhưng chị là người còn biết tới đạo nghĩa. Có đâu như con Hồng, cũng bỏ làng quê lên thành phố giúp việc cho gia đình người bà con, sau giải phóng nó mặc đồ bộ đội tìm đến gia đình nọ lớn tiếng chửi rủa bọn bóc lột, lời lẽ thô nhám hiểm hóc khiến bà con dòng họ kia phải điêu đứng bỏ chạy lên vùng kinh tế mới. Chị Mộc ngừng nói, nhai cái cánh gà rau ráu. Tôi ngồi rụt cổ, không dám nhìn chị. Tôi đang là con gà nuốt dây thun, nếu muốn, chị Mộc có thể “nhai” tôi bằng trăm ngàn cách. Chị cho hay, lắp caméra trong buồng rất lợi hại, chị thu được lợi nhuận nhờ vào những thước phim đồi trụy. Mình gửi thư đen vào di động, liệu thần hồn mày không trả tiền thì bà tải nó lên mạng cho bà con thưởng lãm khúc lâm ly.

Năm giờ sáng tôi lặng lẽ bắt xe ôm ra bến xe. Hãy để làng nội của tôi nằm yên trong nếp suy nghĩ đầy trừu tượng mà tôi từng cất giữ. Tôi đã vào quốc tịch một đất nước khác. Tôi nên trở về đất nước ấy, dù trong dù đục chốn đó vẫn hơn. Bảy ngày sau, tôi cúi đầu thắp nhang trước mộ phần song thân còn “thơm” mùi xi-măng nơi hai tấm bia dựng đặt không được “hoành tráng”. Tôi chảy nước mắt, những hành lệ lưu lạc mấy mươi năm mới có dịp tuôn đổ xuống vùng đất khô. Thôi con đi, lời vĩnh quyết. Nghe gì đành đoạn tới huyết thống mình.

Hồ Đình Nghiêm
Tháng Tư năm 2019

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image

“Hòa bình rồi sao Ngoại chết chi dzậy!”
Hoàng Chính

“Chúng nó đến rồi! Chúng nó đến nơi rồi!” Bà hàng xóm – nhà ở tận cuối ngõ – vừa chạy từ đầu ngõ vào, vừa hớt hải gào không ra hơi.

“Đến đâu rồi?” Bà cụ nhà bên ngóng cổ ra khỏi cửa, hỏi.

Một tràng súng liên thanh lốp đốp nổ. Tiếng đạn chiu chíu bay, nghe như tiếng ai dùng móng tay tuốt sợi dây cước.

Bà hàng xóm đứng sựng lại, trợn tròn con mắt, hai tay ôm chặt lấy ngực, miệng há hốc ra thở, “Gần lắm rồi! Gần lắm rồi!”

Con bé em vừa chạy ra tới cửa, thụt ngay lại nhưng cũng cố ngóc cổ ra, “Gần lắm là ở đâu vậy bác?”

Người đàn bà lắc đầu quầy quậy, “Hết rồi! Hết cả rồi!”

Mẹ ở tận dưới bếp, gọi với ra, “Có vào phụ mẹ một tay hay không, con bé kia?”

Bố đi ra đi vào. Cái radio cầm chắc trong tay như sợ nó sẽ biến đi bất cứ lúc nào. Dưới bếp tiếng nồi niêu bát đũa chạm vào nhau lanh canh. Mấy đứa em luống cuống không biết làm gì. Tôi cũng đi ra đi vào. Rồi tôi đứng. Tôi cũng không biết làm gì. Tôi nhìn mẹ, nhìn qua bố, rồi nhìn lũ em. Qua cánh cửa mở toang. Tôi thấy những con ruồi bay vòng vòng. Vẫn những con ruồi của mọi ngày. Nắng vẫn lên cao trên khóm tre trước nhà. Con mèo vàng lại vừa bắt được một con gián từ rãnh nước trước nhà, nó tha con gián vào bậc thềm, thả cho đi, rồi vồ bắt lại. Bà hàng xóm vẫn đứng trước sân, cúi gập thân người xuống để thở. Miệng lẩm bẩm. “Hết thật rồi!”

Bà cụ nhà kế bên vẫn lom khom chờ câu trả lời của bà hàng xóm cuối ngõ. Con bé em cũng nóng ruột, đầu vẫn thò qua khung cửa, “Chúng nó đến đâu rồi bác?”

“Đến ngã tư chợ rồi! Chúng nó bắt…”

“Bắt ai hở bác?” Con bé em xớn xác.

Một tiếng nổ vang làm rung rinh những cành tre đang đu đưa trong nắng, phá vỡ cái lao xao buổi sáng. Người đàn bà ngồi thụp xuống sân. Hai tay kéo cái nón, che vội lấy đầu.

Con bé em chạy ra kéo người đàn bà, “Vào đây đi bác ơi.”

Người đàn bà đổ xuống trong cánh tay yếu ớt của con bé. Tôi chạy ra phụ với nó kéo người đàn bà vào nhà. Tôi nhìn lướt thật nhanh thân thể bà ta. Chỉ thấy lớp da nhăn nheo. Và mớ áo quần nhăn nhúm. Không chỗ nào loang đỏ. Không lạc đạn. Vậy là mừng. Nhưng thân hình gầy guộc của người đàn bà bỗng dưng nặng như cối đá. Chúng tôi ì ạch kéo bà vào nhà.

Cửa đóng sập lại. Bóng tối ập lấy căn nhà. Bố đứng ở góc nhà, loay hoay rà đài trên cái máy thâu thanh. Bố bảo cái đài bố đang nghe tự nhiên bị cắt mất. Tôi với con bé em đỡ người đàn bà ngồi xuống chiếc ghế đẩu.

“Chúng nó bắt ai hở bác?” Mẹ ngẩng đầu lên khỏi chỗ cơm đang vắt thành nắm, hỏi.

Người đàn bà vẫn ôm chặt lấy ngực, “Thanh niên. Chúng nó bắt thanh niên đi trước…”

“Để làm gì hở bác?” Con bé em tròn mắt.

“Để làm bia đỡ đạn chứ còn làm gì nữa!” Người đàn bà trừng mắt nhìn con bé.

Tôi chờ cái câu kế tiếp. Nhưng bà hàng xóm không nói thêm cái câu cửa miệng bà vẫn dùng để mắng thiên hạ. “Sao mà ngu thế!” Giờ phút này ngu hay không thì cũng cùng chung số phận. Tôi nghĩ.

Mẹ bỏ vội nắm cơm xuống đĩa, “Bắt thanh niên à bác?”

“Bắt thanh niên đi trước, chúng nó đi sau để lính mình không dám bắn…”

Ngực tôi thắt lại. Tôi nhìn bố. Bố nhìn tôi. Tôi đọc trong mắt nhìn của bố niềm tuyệt vọng của con bệnh trong phút lâm chung không nói lên được một lời trăn trối. Tôi nhìn mẹ, bắt gặp trong ánh mắt mẹ chao chao nỗi sợ hãi.

“Anh phải trốn đi thôi,” con bé em nói.

Mẹ lẩm bẩm, “Biết trốn đi đâu bây giờ?”

“Vào nhà thờ. Hồi Mậu Thân mình cũng vào nhà thờ đấy, có Chúa, có Đức Mẹ…” Con bé em nhanh nhảu. Dù hồi chạy loạn Tết Mậu Thân, mẹ còn bế đứa bé gầy như que củi là nó trên tay.

“Chúng nó mới pháo kích sập tháp chuông nhà thờ dưới ngã tư đấy!” Bà hàng xóm cảnh báo, tay vẫn chèn cái lồng ngực lép kẹp.

Tiếng rột roạt tĩnh điện phát ra từ chiếc máy thâu thanh của bố. Và giọng xướng ngôn viên xớn xác, ngột ngạt như người ngạt mũi. Rồi giọng ai đó đều đều như tiếng đứa con hoang đàng vừa mới trở về, đang lẩm nhẩm những lời tạ tội với mẹ cha.

Bố ép sát tai vào cái máy sắp hết bin.

Rồi bố bỏ cái máy thâu thanh quý giá của bố xuống bàn. “Bà ấy nói đúng. Hết rồi! Đầu hàng rồi!”

Và bố thở dài.

Mẹ nhìn tôi. “Phải đi thôi con à.”

Hồi nãy, trên đường chạy về nhà, tôi thấy người ta đổ xô ra đường. Chạy tới chạy lui, chạy xuôi, chạy ngược. Toàn người là người. Kẻ chạy hướng bắc, người chạy phía nam. Đông tây nam bắc chả còn đâu là phương hướng. Người ta réo gọi nhau trong tiếng súng lẻ tẻ vung vãi, trong tiếng đạn pháo kích bất kể nơi nào, trong tiếng động cơ gào rú của những chiếc xe nhà binh mà trên ấy chất đầy những người không mang áo lính; giữa khói đen mịt mù, trong mùi khét của nhà cửa bị cháy thiêu, của thịt người bị đốt.

Tôi cắn môi, “Biết đi đâu bây giờ?”

Biết đi đâu bây giờ! Câu hỏi chạy vòng quanh trong đầu.

Nhưng rồi chúng tôi cũng tìm được câu trả lời.

Mẹ chèn nắm cơm trong cái hộp nhựa. Gói giấy nhỏ đựng muối mè nhét một bên. Một cuốn sách giáo khoa, The Merck Manual; sách gối đầu giường của sinh viên trường Y. Và mẹ làm dấu Thánh Giá lúc tôi đẩy chiếc xe gắn máy ra khỏi cửa. Tôi vừa đạp máy, sắp sửa sang số thì mẹ gọi giật lại, “Còn quên cái này!”

Con bé em chạy ra quàng cái ống nghe lên vai tôi. Nó vẫn thích hình ảnh anh mình mặc áo blouse trắng, ống thính chẩn vắt ngang vai. “Cẩn thận nhé anh!” Con bé dặn. Tôi thoáng thấy tia nhìn đục ngầu lo âu trong mắt nó. Tôi gật đầu, gỡ cái ống nghe xuống, nhét vội vào cái túi vải. Và tôi lao mình vào cái hỗn loạn chưa từng thấy.

Sài Gòn của tôi đang hấp hối. Việt Nam của tôi đang đổ xiêu vào phút sinh thì.

Người và người. Trước mặt đầy người. Sau lưng cũng chật cứng những người. Tôi luồn lách trên đường phố chật cứng những người và xe cộ. Những chiếc xe hung hãn leo cả lên lề đường, cán nát những khóm hoa. Những chiếc xe cuồng nộ lủi vào những chiếc xe gắn máy chạy chậm phía trước. Người ngã gục. Những vòi máu phun tung tóe mặt đường tráng nhựa. Máu tuôn vào những ổ gà trên phố. Máu kéo thành những vệt dài đến những khung cửa đóng chặt. Những chiếc xe phóng như bay trên phố, với bọn rừng rú đeo băng vải màu đỏ ở cánh tay này, và súng AR-15 hay AK-47 ở tay kia. Những tràng đạn bắn lên trời. Tiếng súng lẫn vào tiếng hò hét của những con thú sổng chuồng.

Tôi vào bệnh viện. Bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu chết ở giờ phút cuối cùng của chiến tranh. May ra tôi có thể cứu được một vài người. Những con người vô tội. Tôi vội vã khóa cổ, khóa chân chống chiếc Honda Dame bố mẹ mua cho ngày thi đậu vào trường Y trong bãi đậu khu sinh viên thực tập, và tất tả băng qua sân bệnh viện. Một tràng đạn nổ dòn. Tôi cúi đầu tuông chạy. Tiếng đạn xé gió trên cao. Lũ lâu la nhặt được súng, chuyền tay nhau bóp cò. Tôi len lỏi, luồn lách giữa đám người xớn xác trong hành lang bệnh viện, chạy vào phòng cấp cứu. Tôi trượt chân trên vũng máu loang cửa phòng cấp cứu, loạng choạng vung tay đập vào thành cửa đau nhói.

Một dãy xác người nằm nghiêng ngả trên nền nhà loang lổ. Tôi trợn tròn mắt nhìn. Những thân người nhúc nhích. Không phải là xác chết. Không có ai chết. Hay đúng hơn là chưa có ai chết. Những hình người đứng, ngồi nhấp nhổm trên những thân xác co quắp hay duỗi dài trên nền gạch hoa lấm lem. Tiếng rên rỉ, tiếng la hét, tiếng réo gọi, tiếng khóc trộn lẫn nhau thành một khối kinh hoàng.

Một người đàn ông khoác áo choàng trắng đang loay hoay trên một xác người. Những dây truyền nước biển đan vào nhau rối mắt. Người đàn ông khoác áo choàng trắng ngước lên. Chúng tôi nhìn nhau. “Vào tìm thêm nước biển, mau lên!” Người đàn ông nói như gào.

Tôi cuống cuồng luồn lách giữa những thân người.

Kéo vội cái ống nghe, quăng đại cái tủi vải vào góc phòng, tôi cuống cuồng khoác chiếc áo blouse lên người.

Một cô gái khoác áo blouse trắng loang máu đỏ hình dạng bàn tay với những ngón dài vạch trên lưng áo. Cô đang xớn xác mở tung những ngăn tủ đựng thuốc và dụng cụ y khoa. Tôi chạy đến bên cạnh. “Còn nước biển không?”

“Hết sạch rồi!” Cô gái quay lại nhìn tôi, cánh tay buông thõng hai bên thân người. Tôi nhìn vào từng ngăn tủ trống trơn. Bao nhiêu là chai đựng nước biển, bao nhiêu là bọc plastic chứa dịch truyền, tất cả đều đã hết sạch.

Tôi chạy ra chỗ người đàn ông, cố tránh để không dẵm lên những thân người vặn vẹo, “Hết sạch rồi!”

Người đàn ông vẫn loay hoay làm hô hấp nhân tạo cho một bà cụ. Tiếng khóc tiếng la xớn xác từ hành lang đổ vào cửa phòng cấp cứu. Hết thuốc, hết nước biển, hết tất cả mọi thứ mà bệnh nhân càng lúc càng đông.

Tôi ngồi xuống bên cạnh người đàn ông áo trắng. Tôi đọc vội cái tên thêu bằng chỉ đỏ trên túi áo anh. Bác Sĩ Phước. Bà cụ mà anh làm hô hấp nhân tạo vẫn trợn trừng hai con mắt, và thân thể cứng đờ.

“Em đi tìm thật nhiều vỏ viết BIC nhé. Mình làm tracheotomy!” Bác sĩ Phước nói.

Tôi đứng bật dậy. Cô gái khoác áo blouse trắng chạy tới bên chúng tôi, “Hết sạch rồi!”

Hết rồi; hết sạch rồi! Điệp khúc ấy vang vọng suốt phần đời còn lại của tôi.

Tôi nhìn ngôi sao thêu bằng chỉ đỏ trên ngực áo cô gái. Cô sinh viên năm thứ nhất. Tôi nhìn qua anh bác sĩ đang vuốt mắt cho bà cụ. Giờ này người ta chạy ra bến tàu, chạy vào Tòa Đại Sứ Mỹ. Anh với cô sao lại ở đây? Và tôi nữa, cậu sinh viên y khoa với ba ngôi sao trên túi áo, sao lại chạy vào đây?

Chúng tôi lục lọi tất cả hộc tủ, chúng tôi chạy lên các trại bệnh. Nhân viên y tế đi đâu hết cả thế này! Chúng tôi mở banh những hộc tủ và lục soát hung hăng như hai đứa cướp cạn. Gom tất cả những cây bút nguyên tử, chúng tôi tháo ruột bút bỏ lại, chỉ lấy cái vỏ ngoài. Bao nhiêu là bệnh nhân bị thương tích ở mặt, ở cổ, ở ngực… đường hô hấp bị tắc nghẽn. Để vậy nạn nhân sẽ chết ngạt. Chúng tôi dùng dao mổ khoét một lỗ ở cuống họng, chúng tôi nhét cái vỏ bút BIC vào khí quản. Bệnh nhân (hay nạn nhân) thở khì khọt qua cái vỏ bút BIC. Biết đâu rồi họ sẽ sống sót, qua cái thời khắc ngặt nghèo.

Chúng tôi chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Chúng tôi quên thời gian, chúng tôi không biết đói, chúng tôi không còn thấy mệt. Áo blouse của chúng tôi đỏ lòe đỏ loẹt. Chúng tôi nói bằng giọng khao khao không còn hơi hướm. Chúng tôi không còn thuốc men, không còn nước biển. Nạn nhân mất máu chúng tôi khâu vết thương cho máu thôi chảy; hết chỉ để khâu, chúng tôi dán mép vết thương bằng băng keo; hết băng keo, chúng tôi xé áo, xé quần họ làm băng; nhưng không có nước biển chúng tôi đành truyền cho nạn nhân và thân nhân họ niềm hy vọng.

Một trái đạn pháo kích nổ đâu đó thật gần. Đất cát và mảnh đạn ném rào rào vào kính cửa sổ phòng cấp cứu. Tai tôi điếc đặc không biết bao lâu. Tiếng khóc bên ngoài nghe mịt mù xa xăm như vọng lại từ cõi khác. Lại những thân người được kéo lê trên nền nhà nhơm nhớp máu.

Tôi nhìn khu vườn kinh dị của những vỏ cây bút BIC mọc tua tủa lên từ những cổ họng con người. Khi cơn điếc đặc đã loãng đi, tôi thấy tôi chìm vào vùng âm thanh khọt khẹt tiếng thở đọng đầy đàm nhớt và máu từ những lồng ngực rạn nứt, qua những khúc cây nhựa màu trắng mọc lên từ những cổ họng khẳng khiu chen chúc giữa những bàn tay co quắp, cạnh những thân người tay xuôi tuyệt vọng.

Tiếng khóc rộn rã. Tiếng khóc của một cô gái nhỏ ùa vào phòng cấp cứu. Một người đàn ông và một người đàn bà kéo lê một thân người đã rũ xuống như hình nộm nhồi bông mà bông gòn bên trong ai đó đã moi ra hết. Cô gái – đầu tóc rối bù – lếch thếch bám theo cái hình nhân ấy.

Tôi nhìn quanh. Anh bác sĩ đang lúi húi cạnh một thân người. Cô sinh viên năm thứ nhất đang kiểm soát rừng cây bút BIC mọc trên cổ những thân người. Tôi nhìn cái hình người mà thân nhân vừa đẩy hai thân người nằm trên nền nhà sang hai bên lấy chỗ đặt xuống nền gạch bông loang máu. Tôi vạch mắt ông cụ. Con mắt trắng đục. Đồng tử dãn hết rồi. Tôi đặt ống nghe lên những chiếc xương sườn. Không có tiếng động nào ngoài tiếng đạn réo từng chặp bên ngoài, tiếng khò khè từ rừng cây bút BIC và tiếng khóc sụt sùi của cô gái. Tôi tìm động mạch cổ, tôi tìm mạch cổ tay. Tất cả lạnh băng và tĩnh mịch. Cái im lặng đáng sợ của Tử Thần.

Tôi ngước lên nhìn người nhà của ông cụ. Tôi không biết nói gì với họ. Rồi tôi lại nhìn xuống cái thân người khô khốc. Rồi tôi lại đặt tay lên cái lồng ngực trần trụi. Băng giá xoáy vào bàn tay tôi, len vào từng lỗ chân lông, buốt lạnh. Muộn rồi. Hết rồi!

Và tôi chống tay đứng dậy, hai mắt hoa đi trong giây lát. Cô gái lại khóc òa. Tôi nhìn cái bóng nhòe nhoẹt của cô. Khuôn mặt mếu xệch thảm thương. Chợt hai bàn tay mỏng mảnh vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật như người đi đòi nợ. “Bác sĩ cứu giùm Ông Ngoại em! Bác sĩ phải cứu Ông Ngoại em!”

Rồi hai bàn tay mỏng mảnh ấy buông cổ áo tôi ra, cái dáng nhỏ ấy ngồi thụp xuống bên xác ông cụ, “Ngoại ơi, hòa bình rồi mà Ngoại chết chi dzậy! Hòa bình rồi mà!” Và tiếng khóc nức nở ấy loang ra, bồng bềnh như con sóng, tràn ngập không gian phòng cấp cứu.

Tôi đứng đó. Tôi biến thành tượng đá. Tôi muốn hỏi cái hình người đang nằm trên nền nhà phòng cấp cứu, kế bên chỗ tôi đang đứng, và bao nhiêu người đang ngổn ngang trên nền gạch bông loang máu rằng hòa bình rồi, sao lại bỏ đi như thế!

Bất chợt cô gái đứng dậy, và lại vồ lấy hai mép cổ áo blouse tôi, giằng giật và nhìn thẳng vào mắt tôi, con mắt đen tròn tung tóe những tia lửa hận, “Bác sĩ tàn nhẫn lắm! Bác sĩ hổng cứu Ngoại tui! Ngoại tui chết là tui bắt thường bác sĩ cho coi!”

Tôi không cưỡng lại đôi cánh tay con gái. Tôi nín thở. Tôi lắc lư như gã bù nhìn quăng quật trong gió chướng. Người đàn ông có hai con mắt sâu hoắm tần ngần nhìn những thân người xếp lớp dưới chân. Những nếp nhăn chợt mọc đầy vầng trán. Người đàn bà để mặc nước mắt lăn dài trên má. Khi cơn gió thôi quăng quật, gã bù nhìn tôi lặng lẽ đứng nhìn. Cô gái buông tôi ra, quay qua người đàn bà, “Đưa Ngoại về cho rồi! Ở đây làm chi nữa!”

Ba người lại nhùng nhằng với cái thân thể gầy guộc của ông cụ. Họ len lỏi giữa những thân người la liệt trên nền gạch bông trơn trượt. Hai bàn chân đen đúa của ông ngoại cô gái kéo lê trên nền gạch, để lại một vạch màu nâu nhợt.

“Hòa bình rồi Ngoại ơi, hòa bình rồi, mắc mớ chi Ngoại chết Ngoại ơi!” Giọng con gái loãng ra và chìm dần vào vũng âm thanh hỗn độn cuối ngày.

Vài ống bút BIC bị nghẹt vì máu đọng, cô sinh viên tất tả đem vào nhà vệ sinh để thông cho hết nghẹt. Tôi nhìn những thân người sắp lớp cạnh nhau rồi quay qua anh bác sĩ, thì thầm, “Những người chết, mình phải làm sao đây?”

Anh bác sĩ khẽ lắc đầu. Và tôi biết mình hỏi cho có hỏi, thế thôi. Đừng để người đang chiến đấu với Tử Thần phải nằm cạnh những người đã chết. Tinh thần của họ bị ảnh hưởng và họ sẽ suy sụp nhanh chóng. Ai mà chẳng biết điều đó. Nhưng biết làm sao bây giờ. Ngày Sài Gòn hấp hối. Chúng tôi đếm không hết những người đã chết ngoài hành lang, trong phòng cấp cứu bệnh viện. Và phố xá ngoài kia. Và ở khắp nơi trên miền Nam nước Việt. Ngoài những tiếng cầu kinh rời rạc của thân nhân, không Linh Mục nào có mặt để xức dầu thánh cho họ, không Thượng Tọa, Đại Đức nào hiện diện để đọc cho họ một câu niệm Phật cuối đời, không bác sĩ nào có mặt để ký cho họ mảnh giấy khai tử. Chúng tôi ở đó. Một bác sĩ, một sinh viên y khoa năm thứ ba, một sinh viên y khoa năm thứ nhất. Chúng tôi sắp kiệt sức, sắp ngã gục vì kiệt sức, cũng có thể chúng tôi sẽ chết banh xác vì một trái hỏa tiễn 122 ly người ta bắn vào thành phố để dằn mặt những ai kháng cự.

Chập tối, tôi ra trước sân, tò mò nhìn những chiếc T-54 rầm rộ cày nát đường phố. Toàn thân nhức mỏi, tôi đi vào bãi đậu xe, bởi tôi không biết phải đi đâu. Hai gã thanh niên đang lẩn quẩn bên chiếc Honda Dame. Chúng làm gì với xe tôi thế này. Một đứa đỡ nghiêng chiếc xe qua một bên, đứa kia chĩa mũi súng M-16 vào ổ khóa. Rồi chúng dắt xe của tôi đi. Tôi thản nhiên đứng nhìn. Và tôi lủi thủi lẫn vào đám đông đang lũ lượt đi lên, đi xuống, đi qua, đi lại.

Phòng cấp cứu tanh nồng. Tiếng rên đan lẫn vào nhau, như tiếng côn trùng, tiếng giun dế sau cơn mưa. Cái ống nghe ban nãy để trên bàn làm việc, bây giờ mất đâu rồi. Một người đàn ông lảo đảo bước vào, dẵm lên cả những thân người xếp lớp trên nền nhà. Anh ta mặc độc một chiếc quần lính trận, bàn chân trần trụi lấm lem bùn đất. Cái thân người ấy áp chặt bàn tay lên một bên má đã lõm sâu, máu ứa qua những kẽ ngón tay. Máu đỏ loè trên ngực. Tôi đỡ vội lấy thân người ấy.

Tôi không biết tên người thanh niên ấy. Tôi không kịp hỏi anh ta câu nào hết. Vậy mà anh ta cũng cố lết được vào tới phòng cấp cứu. Chắc anh ta nghĩ bệnh viện là chỗ an toàn. Như hồi sáng mẹ tôi nghĩ vậy.

Tôi về nhà để bố mẹ và bầy em yên lòng. Xe tăng đã vào thành phố nghĩa là bọn họ không cần ai làm bia đỡ đạn nữa. Hơn nữa ở lại bệnh viện tôi cũng chẳng còn sức để làm bất cứ thứ gì. Tôi đón xe lam về nhà. Không dám nói cho bố mẹ biết là đã mất xe và mất cả ống nghe. Nhưng chuyện mất xe thì không giấu được. Tôi nhớ mãi những tiếng thở dài của bố mẹ. Bố mẹ chắc cũng nghĩ như tôi rằng những mất mát của mình có thấm vào đâu so với cái mất mát của của bao nhiêu con người trên nửa quê hương này.

Và tôi cũng không dám kể lại rằng có người nhà bệnh nhân níu áo tôi, bắt đền.

Buổi sáng hôm sau tôi cọc cạch xe đạp trở lại bệnh viện. Tôi vào chỗ giữ xe cho sinh viên thực tập. Một cô gái chặn tôi lại. Giọng nói hằn học, “Đi đâu vậy?”

Tôi nhanh nhảu, “Tôi đi thực tập. Tôi là sinh viên Y Khoa.”

“Đem xe đi chỗ khác.”

“Chị là ai vậy? Cái anh mọi khi vẫn giữ xe ở đây đâu rồi?”

“Tôi là sinh viên chi đoàn Văn Khoa.” Cô ta nói và giơ tay lên cho tôi thấy băng vải đỏ viền quanh cánh tay. Chi đoàn Văn Khoa. Tôi lạc hậu quá rồi. Cái tên chưa bao giờ bắt gặp.

Tôi nhì nhằng, “Lúc trước tôi vẫn gửi xe ở đây.”

“Bây giờ khác rồi!”

Tôi lầm lũi bỏ về. Tôi nhớ mãi câu nói ấy. Tôi nhớ mãi cái giọng gầm gừ của một sinh vật vừa mới gỡ bỏ cái vỏ duyên dáng của nữ sinh viên Văn Khoa Sài Gòn. Bây giờ khác rồi!

Mấy mươi năm qua, tôi vẫn không quên chốn ấy. Cái bệnh viện mà tên mới Trung Tâm Thực Tập Y Khoa luôn phải kèm theo tên cũ Nguyễn Văn Học khi chỉ đường cho ai đó. Tôi cũng nhớ hoài anh bác sĩ với cái tên vỏn vẹn một chữ Phước và cô sinh viên Y Khoa năm thứ nhất – mà hôm ấy – tôi không có thời gian và không còn tâm trí để đọc tên.

Ơi, những con người có tấm lòng nhân ái ấy! Mong họ được bình yên.

Và tôi vẫn tự hỏi sẽ nói gì với cô gái níu cổ áo tôi năm xưa, nếu như tình cờ gặp lại? Còn cái cô sinh viên Văn Khoa đeo băng đỏ ở chỗ gửi xe bệnh viện ngày cuối tháng Tư năm ấy, giờ này cô ấy ở đâu? Và dây băng đỏ đeo trên cánh tay có còn cất kỹ trong một ngăn ký ức?


Thứ Bảy 20 tháng Tư, 2019.
Hoàng Chính

hoangphong
Posts: 394
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Post by hoangphong »

Image

Mưa Bên Đời

Đỗ Bình

Từ độ quê nghèo yên khói lửa,
Mẹ ngồi khắc khoải đếm sương khô.
Núi sông phảng phất mùi thây rữa,
Vất vưởng hồn oan chẳng nấm mồ!
(Tử Sĩ - ĐB)

Mưa Paris chiều nay làm tôi gợi nhớ về những chiều mưa trên quê hương, những cơn mưa chợt nắng Sài Gòn, những ngày mưa lê thê Phố Huế, mưa lạnh trên Cao Nguyên và cơn mưa phùn Hà Nội của thuở xa xưa lúc còn bé. Đang thả hồn bay bổng trong những kỷ niệm đẹp hồn tôi bỗng se lại vì chợt nhớ cơn mưa chiều năm ấy. Những hình ảnh cũ hiện ra như một khúc phim của một quãng đời tưởng đã nhạt phai theo thời gian nhưng nó vẫn ẩn trong tiềm thức. Chiều năm ấy màu hoàng hôn đầy mây xám, trời đổ những cơn mưa tầm tã làm giăng mờ con đường rừng dẫn đến trại tù. Mưa trút nước trắng xóa lớp hàng kẽm gai rào quanh trại như muốn xóa bỏ những móc nhọn đang vây hãm những người bị mất tự do. Trời nhá nhem tối tiếng mưa lẫn tiếng gió hú tạo thành một âm thanh rờn rợn tê tái khiến cảnh sắc trại tù thêm thê lương!

Hồi còn ở trại tù Suối Máu và trại An Dưỡng tôi gặp lại rất nhiều bạn thời đi học cũng như bạn cùng đơn vị, ngày ấy tôi đã gặp một người bạn thuộc lớp đàn anh của tôi trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, anh có bằng cao học Văn Khoa trước khi vào lính. Đang đảm trách trưởng khối của một đặc khu chẳng hiểu bị đổi hay anh thích phong trần nơi chiến trường nên xin thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến và được đưa về ban tham mưu bộ chỉ huy chiến thuật nhưng chẳng đảm trách nhiệm vụ gì, mặc dù cấp bậc của anh ngang với tiểu đoàn trưởng! Anh Nghiêm Đặng dáng người cao dong dỏng nghệ sĩ nhưng trong màu áo trận đậm nét phong sương của núi rừng trông anh có vẻ oai hơn. Anh ít nói, cử chỉ từ tốn, thích trầm tư như triết gia phong cách ngược hẳn với một người lính nhanh nhẹn xông xáo. Anh có tài thổi Harmonica thỉnh thoảng giúp vui văn nghệ nên được tất cả mọi người trong đơn vị qúy mến.
Sau hiệp định Paris chiến tranh ngày càng khốc lệt, đã có biết bao người ngã xuống nơi chiến trường nhưng anh không tìm cách ở hậu cứ nấn ná nơi văn phòng có rất nhiều việc để làm, mà thường theo chúng tôi đi hành quân. Anh và tôi có chung một nhiệm vụ ra chiến trường vũ khí anh mang theo là cây bút và mớ kiến thức về chính trị thì chắc không phải muốn làm người hùng mà chỉ muốn làm giống các bạn trong đơn vị tác chiến.

Cuộc hành quân kéo dài liên miên cũng may trong nhiều trận đánh khốc liệt đạn đã tránh nên anh còn lành lặn sau cuộc chiến. Có lần đơn vị dừng quân bên ngoài một thành phố nhỏ nghỉ dưỡng được ít ngày, thời gian đó các bạn tôi quây quần bên nhau uống rượu đàn hát. Nghiêm Đặng cũng có mặt, anh thích uống rượu vui văn nghệ thì làm sao mà bỏ lỡ cơ hội này. Anh uống rất nhiều nên đã ngà ngà say và nằm võng ngủ gần đó. Riêng tôi vì không biết uống rượu nên chỉ ngồi chơi với anh em, hòa nhập vào không khí văn nghệ thưởng thức những tiếng đàn hát tiếng cười nói thật vui nhộn. Đến quá nửa khuya Alpha Ẩn một cây văn nghệ tham gia, anh là một đại đội trưởng thâm niên có nhiều huy chương chiến trận. Ẩn hát một bản nhạc tiền chiến nổi tiếng một thời, ca khúc có giai điệu thật dìu dặt nhưng Alpha N Hữu Chung men rượu đã thấm, chếch choáng say nên đệm không đạt khiến nhạc phẩm mất một phần tinh hoa! Bỗng dưng tiếng anh Nghiêm Đặng gắt lên như xé âm thanh:
"Thôi xin ông đừng đàn nữa tôi điếc ráy rồi!"

Chúng tôi cứ ngỡ anh Nghiêm Đặng đã ngủ nhưng anh vẫn còn thức nằm nghe các anh em đàn hát. Nghe anh hét Chung đang chơi đàn bỗng nhiên xìu mặt, nó cũng là dân cựu Văn Khoa đã tốt nghiệp cử nhân và là một đại đội trưởng gan dạ. Nó nửa đùa nửa thật cười nói:"Thôi cha! Anh biết đàn đâu mà dám chê tui?.. Xin niên trưởng để chúng em yên!".

Cả nhóm cuời ồ lên và tiếp tục đàn hát. Không thấy anh Nghiêm Đặng trả lời, tôi nghĩ anh say, nhưng lại thấy anh ngồi dậy im lặng trên võng nghe hết bản nhạc rồi đứng lên tiến đến tôi miệng nở nụ cười và chậm rãi nói:
"Cậu lấy cho tớ cây mượn đàn".

Tôi hơi ngạc nhiên tưởng anh đùa vì quen biết anh đã lâu ở Sài Gòn không hề thấy anh chơi đàn. Tôi hơi ngần ngừ nhưng vì nể anh tôi cũng mượn cây đàn của Chung đang chơi. Chung vì nể tôi nên đã trao đàn mà lòng không vui! Cả nhóm trố mắt nhìn anh ôm đàn, có lẽ họ nghĩ là anh Nghiêm Đặng đang muốn diễu? Tôi biết anh hát nhạc tiền chiến rất hay và nghĩ anh ôm đàn làm dáng để hát góp vui. Nhìn cách ôm đàn và so lại dây hơi lâu mà không cần nhấn nhiều vào phím, sau đó lại xuống dây số 6 thành Rề, tôi giật mình vì chỉ những nhạc sĩ có lỗ tai nhạy bén âm độ và đạt mức chuẩn âm mới lên dây đàn kiểu này. Tôi ra dấu bảo các bạn im lặng, Nghiêm Đặng rít mạnh mẩu điếu Basto xanh dính trên môi một hơi và trịnh trọng vào nhạc.



Những ngón tay trái của anh như đoàn vũ ballet lướt trên cung bậc diễn tả bản Capricho Arabe của danh sư Francisco Tarrega một cách tài tình, đây là một bản nhạc khó, kỹ thuật cao của guitare trong dòng nhạc cổ điển Tây Phương. Nghiêm Đặng chơi tiếp một số bản khác. Hay quá, một sự việc không thể ngờ được! Rất tiếc các ngón tay của anh vẫn chưa mềm để có thể diễn tả đến mức tuyệt vời những hình nốt trong cấu trúc bác học của dòng nhạc cổ điển Tây Phương. Đáng lẽ anh cần phải để các ngón tay quen dần dạo qua một số bài đơn giản trước khi chơi bản Capricho Arabe của F. Tarraga! Có lẽ do lâu ngày không cầm đàn nay cầm lại khiến anh hứng quá và chơi liên tục chứ anh không có ý định khoe hay biểu diễn.
Các bạn không ai bảo ai giữ im lặng tạo một không gian thật tĩnh để lắng nghe tiếng đàn và đêm càng khuya chỉ còn tiếng đàn dìu tâm hồn người nghe vào một thế giới riêng thật huyền ảo của âm nhạc. Tiếng đàn đang réo rắc bỗng ngưng lại vì anh Nghiệm Đặng đặt đàn xuống lấy trong túi ra gói thuốc Basto xanh rút một điếu thuốc se se nhẹ hai ngón tay chậm rãi gõ điếu thuốc vào lưng bàn tay trái, sau đó gắn lên môi rồi móc trong túi lấy chiếc bật lửa Zippo mồi thuốc. Cử chỉ của anh chậm chạp làm chúng tôi sốt ruột! Anh rít mạnh một hơi rồi tiếp tục ôm đàn dạo tiếp đoạn nhạc cổ điển, dòng nhạc liên tục chuyển sang nhạc Việt với những nhạc phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật cao của một số nhạc sĩ tiền chiến và đương thời đã được các nhạc sĩ tài danh về guitare soạn hòa âm guitare. Cứ như thế chúng tôi thay nhau mồi thuốc khi điếu thuốc của anh sắp tàn để dòng nhạc được liên tục cho đến 3 giờ sáng mới chấm dứt. Về sau tôi hỏi anh tại sao chơi đàn giỏi thế mà giấu, anh cười buồn trả lời:
"Cũng tại mê đàn tớ mới mất mối tình đầu, và sống độc thân đến nay gần 40 mà chưa vợ!"Tôi tôn trọng chuyện riêng của anh nên không hỏi gì thêm.
Sau biến cố tháng tư năm 75 tôi từ Tổng y viện Cộng Hòa ra và đi tù. Gặp lại anh Nghiêm Đặng trong tù anh em chúng tôi vừa mừng vừa tủi, tôi trông anh gầy hốc hác do thiếu ăn mà còn phải lao động nhiều, nhưng phong cách vẫn nghệ sĩ. Anh nắm tay tôi trìu mến ái ngại cho tình trạng sức khỏe của tôi đang chống cặp nạng! Tôi cười bảo anh yên tâm tôi chịu đựng được !Anh khoe với tôi đang cho một con chim sẻ ăn cơm. Tôi cười hỏi:
"Ở tù cơm không có mà ăn, anh nuôi chim lấy đâu cho nó ăn ?!"
Anh cười:
"Nhín một chút sẽ có hạt cơm cho nó ăn ngay, hơn nữa nó ăn được cả bo bo!"
Tôi bảo:
"Đã ở tù rồi anh lại nuôi nó chẳng khác nào anh nhốt tù nó ?"
Anh Nghiêm Đặng:
"Cậu không hiểu, ở đây làm bạn với chim vui hơn người; mình thích nó hơn. Còn ở đất nước mình chỗ đếch nào mà chẳng là nhà tù... mình có nhốt nó đâu?"
Tôi và anh ở chung không lâu thì bị biên chế trong đợt ra Bắc lần đầu, dù có tên trong danh sách chuyển trại nhưng vì những vết thương cũ của tôi bị nhiễm trùng nên được nằm điều trị bệnh xá trại, ở đó có nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Đại tá Đông cũng bị hoãn đưa ra Bắc vì bệnh nặng. Họ xếp tôi vào loại là bệnh mãn tính nên không có thuốc chữa do đó tôi phải rời viện trở về lán lao động. Về trại, các bạn bảo tôi trông giống bộ xương khô biết đi và tưởng tôi đã đi "đứt" nhưng tôi vẫn sống, vẫn lết từ trại nầy sang trại tù khác dù sức khỏe càng ngày càng tệ.



Ngày tháng cứ dần trôi và sự gian khổ cũng dần quen, người được thả về thì ít người bị bệnh thiếu thuốc ra nghĩa trang ngày càng nhiều! Sự chuyển trại cứ vẫn liên tục, dù bị chuyển đến đâu các bạn thấy tình trạng sức khỏe của tôi đều thương nên đã lãnh thế những công tác lao động nặng như vào rừng cưa cây, đập đá núi làm đường,... anh em để tôi làm những việc nhẹ ở lán. Có lần tôi và người bạn được giao đi lãnh cơm vì tôi không còn đi bằng cặp nạng nữa, vết thương cũ đã tạm lành nhưng con mắt bị nhiễm trùng vì không được thuốc chữa thì trở nặng, gần như mù! Còn người được phân công khiêng cơm với tôi là bạn cũ, anh ấy bị cụt một chân phải đi bằng chiếc chân gỗ. Ngày trước anh ấy là một người anh hùng rất can đảm trong chiến trường đã giành được chiến thắng. Nhưng cũng ở nơi đó anh đã để lại một phần thịt xương thịt của mình trên ngọn núi 1062 cùng với bao chiến hữu khác nằm yên nghỉ muôn đời nơi chiến trường Thường Đức năm xưa! Mới ngày nào khi rời ghế đại học tâm hồn chúng tôi đầy mơ mộng, đầy hoài bão về một tương lai rộng mở, thế nhưng chiến tranh càng khốc liệt thì sự tử vong càng nhiều, đất nước rất cần thanh niên dấn thân đi bảo vệ quê hương, giữ gìn sự tự do an bình cho tổ quốc đang bị lâm nguy.
Tiếng gọi quê hương đã thúc dục chúng tôi lên đường nhập ngũ tiếp nối truyền thống hào hùng của cha ông, chúng tôi thay vì ở văn phòng đã tình nguyện ra những đơn vị tác chiến hiên ngang xông pha trận mạc. Thế sự thay đổi khiến thế đời cũng dổi thay nên hôm nay hai chúng tôi làm kiếp tù nhân đang khiêng thau cơm nặng cho các bạn tù khác ở lán. Cái thau đựng cơm được gò bằng tôn chế biến lại trông nó có vẻ to tưởng đựng được nhiều, nhưng đến khi chia ra cho mỗi người cũng chỉ được lưng chén! Chúng tôi đang khiêng hau cơm về gần đến lán thì đoàn tù lao động cũng vừa trở về chưa đến lán nhưng đã thấy thau cơm, các bạn đã reo lên vì đói!….Người bạn khiêng thau cơm đi phía trước của tôi chẳng biết vì xúc động bởi những tiếng reo của các bạn hay vì đường trơn ướt mà chiếc chân gỗ không chịu quen nặng nên đã bước lệch khiến hai người té sấp xuốngđường! Trong đoàn tù có những tiếng rú lên mà thanh âm nghe não nuột:
-Trời ơi! Cơm đổ rồi!

Tôi nghe tiếng thét mà rụng rời cùng với những tiếng chân vội vã chạy đến như đang dẫm vào hồn tôi! Sự áy náy trách nhiệm tạo cảm giác hụt hẫng, trống vắng nhưng trong đầu vẫn vang lên âm thanh lảnh lót:"Đổ cơm rồi"! Tôi bỗng cảm thấy đau nhói vì chẳng một tiếng thở dài xót thương cho hai kẻ thương binh bị té xấp! Có lẽ trong số bạn tù chẳng ai còn tâm trí nghĩ đến tình chiến hữu thuở nào! Phải chăng khi con người trong cơn đói lả thì miếng ăn đã ám ảnh che lấp tình đồng loại? Cái đói đã khiến người tù không đủ hơi sức kêu thành tiếng khác, ngoài sự ám ảnh của cơn đói vọng lên âm thanh từ vô thức "đổ cơm rồi"!

Những khoảng khắc giao động của cảm xúc lắng xuống, một số bạn tù ùa nhau chạy lại kẻ thì đỡ tôi, người thì vực Quý Dù. Một số khác xúm nhau nhặt từng hột cơm văng xuống dưới rãnh hiên lán rồi đem rửa từng hạt cơm như đãi cát tìm vàng. Mặc dù không trông thấy rõ nhưng tôi vẫn cảm nhận được cơn đói hằn trên khuôn mặt anh em khiến mắt tôi tuôn trào như cơn mưa chiều đang giăng mờ!

Dù trong tình trạng vết thương cũ chưa lành hẳn, tôi không chịu làm việc nhẹ nữa. Kể từ hôm đó tôi cùng anh em vào rừng cưa cây, tôi còn quyết định để một nửa phần cơm chiều của mình dành cho bữa cháo sáng. Tôi nghĩ: "Đây cũng là cách chuộc lỗi đã tắc trách làm đổ thau cơm của anh em". Bạn cùng tổ lúc đầu còn áy náy khi thấy tôi nhịn bớt phần cơm mình để có phần cháo sáng, nhưng dần dần thành quen, không còn ai thắc mắc. Tình trạng thiếu ăn ở trong tù ngày càng trầm trọng! Hạt cơm trong tù qúy và hiếm lắm! Ai đã từng trải qua cơn đói lả mới thấy giá trị của miếng ăn! Cơn đói đã trở nên gối đầu, nghĩa là ăn bữa nay mà cái đói nó dồn từ vài bữa trước.

Nhiều buổi chiều lao động về đói quá tôi đã ăn hết phần cơm để dành dể nấu cháo. Sáng ra vài bằng hữu không thấy cháo đâm nổi quạu! Tôi ngạc nhiên và tự hỏi tại sao lại nổi quạu? Và chợt nghĩ:"Hình như các bạn ấy ngỡ bổn phận của tôi là phải có cháo sáng cho họ ăn…Thế mới biết một việc được lập đi lập lại nhiều lần dù ở trong tù hay bất cứ ở nơi đâu cũng thành thói quen!”
Tôi bùi ngùi thở dài, trong lòng vừa có chút xót xa vừa cảm thấy ưng ức! Rồi lại nghĩ:"Mình thì bệnh tật, lại thường hay phát biểu bị quy là chống đối, và bị kỷ luật, có lẽ mình sẽ bỏ xác trong tù! Mình có ăn thêm một chút thì cũng chỉ kéo dài sự sống, thêm chuỗi ngày đau khổ,nhưng nhín chút cháo sáng lại là chút niềm vui nhỏ mỗi ngày…cũng ấm lòng cho ít bạn bè". Tôi lại tiếp tục nhịn, nhịn riết rồi cũng quen. Niềm vui nhỏ đó thoáng nhanh, chỉ một thời gian không lâu chúng tôi lại bị biên chế, nhóm bạn ấy và tôi bị phân tán đi khắp nơi.



Sau này ở hải ngoại gặp lại một số bạn tù, các bạn kể trong số những người bạn cũ, có người đã chết vì bệnh, người thì kiệt sức ngủ yên nơi góc rừng khe núi. Nghe kể lòng tôi xót xa! Các bạn tôi và tôi chẳng còn ai thèm những hạt cơm rơi nữa, nhưng tôi vẫn nhớ hạt cơm rơi trong chiều mưa.Tôi có gặp lại Nguyễn H. Chung nhưng anh Nghiêm Đặng thì không!

Paris đã vào mùa xuân nhưng tiết trời còn lạnh, chiều nay ngồi trong căn phòng ấm nhìn những hạt mưa rơi lòng tôi chợt cảm thấy buồn! Cơn mưa chiều đã gợi nhớ những hình ảnh những người bạn năm xưa; mà nay có người còn kẻ mất! Những kỷ niệm vui buồn của một thời khói lửa, và những năm tháng ngậm ngùi sau cuộc chiến về thân phận con người!

"Đời buồn như chiếc lá,
lặng rơi bên hiên nhà.
Mưa vô tình ngập lối
Cuốn trôi mảnh hồn ta !"

Đỗ Bình

User avatar
saohom
Posts: 2215
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Mẹ ơi! đừng khóc
Việt Phương
Thế rồi gia đình tôi lại được dọn đến một chốn riêng tư của mình, mặc dù nơi chúng tôi mới đến chỉ là căn nhà gỗ đơn sơ, không có điện. Chúng tôi đến nhà mới khi buổi chiều đang tàn. Mẹ tôi loay hoay dọn dẹp chỗ cho chúng tôi ngủ tạm. Khuôn mặt người thật vui, tôi biết. Vì qua bao nhiêu tháng dài chung sống chật hẹp trên căn gác lửng của một người bà con, mẹ tôi đã trải qua không biết bao nhiêu cay đắng. Căn gác nhỏ với những trưa mùa hè nóng cháy da và anh em chúng tôi lại nằm xếp hàng như cá, thin thít, dù không ngủ được. Mẹ tôi là một người đàn bà tự trọng, không muốn để anh em chúng tôi làm phiền lòng hàng xóm, nhất là chủ nhà, trong những trưa êm ả họ cần một giấc ngủ ngắn.

Anh em chúng tôi đến nhà mới như cá được thả vào nước. Chúng tôi tha hồà có vườn bao bọc chung quanh, nằm ở ngoại thành. Mỗi ngày ba tôi phải đạp xe đi làm xa hơn, nhưng người chấp nhận nó với số tiền khiêm nhường có thể tậu đuợc một chốn riêng tư cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi mất hết trong cuộc tấn công của Việt cộng năm Mậu Thân ở Huế. Trong một thời gian ngắn mà ba mẹ chúng tôi lại xoay sở được một ít tiền để mua nhà thì thật là một điều không đơn giản.

Trở về với căn nhà gỗ, nơi có những nỗi vui buồn của gia đình chúng tôi. Mặc dù sau này, căn nhà đã biến dạng thành một dãy nhà khang trang, nhưng kỷ niệm trong căn nhà gỗ vẫn là những hình ảnh tôi không bao giờ quên được. Buổi sáng, lo xong cho chúng tôi mọi thứ, mẹ tôi lại quẩy gánh cho kịp chuyến hàng sáng. Cứ như thế, phụ với đồng lương công chức của ba tôi cũng đắp đổi được qua ngày.

Căn nhà gỗ với những buổi sáng nắng chiếu xuyên qua những lỗ đinh dọi xuống khuôn mặt chúng tôi. Rồi những lúc trời mưa nhỏ nước xuống gối chăn. Lúc đó, nồi niêu soong chảo được dàn binh bố trận cùng khắp nhà. Tôi nghe mẹ tôi nén tiếng thở dài trong những lúc lăng xăng hứng những giọt nước mưa đổ xuống. Những ngày mưa chợ ế, mẹ tôi xong việc trong nhà, ngồi nhìn những bọt bong bóng nổ lách tách bên hiên nhà, mắt buồn rười rượi.

Tôi đã thấy mẹ tôi khóc bên nồi cơm vừa bắc lên. Đó là buổi chiều sau một ngày mưa dầm dề, mẹ tôi với gánh hàng còn nặng trĩu trở về nhà cùng nỗi buồn còn đọng lại trên đuôi mắt. Mẹ tôi lặng lẽ ra sau bếp. Tôi biết mẹ tôi buôn bán ế ẩm hôm nay. Tôi ngồi nhìn những hạt mưa rơi tí tách từ tàu lá chuối. Chán chê. Tôi mới xuống bếp, lân la lại gần hỏi nhỏ:

"Mạ khóc?"

"Không, tại khói. Trời mưa làm bếp núc, than củi ướt hết."

Tôi nhìn từng đợt khói ngùn ngụt trong bếp, ngần ngại:

"Hay mạ để con thổi lửa cho."

Mẹ tôi xoa đầu tôi, cười gượng gạo:

"Hơi hám mô mà thổi. Con trai không nên vô bếp, học dốt cho coi. Đói bụng rồi phải không?"

Tôi dúi mặt vào lưng mẹ tôi, cười:

"Mô có."

"Thôi con lên nhà chơi đi, chờ ba con về rồi ăn cơm. Sắp xong rồi. Hôm nay, có món đặc biệt lắm."

Tôi nhìn vào chiếc rổ bên cạnh, reo lên:

"A! Hôm nay mạ chiên mực ống dồn thịt."

Mẹ tôi cười rạng rỡ:

"Con thích lắm phải không? Hồi sáng thấy bà bán cá nài nỉ quá, mạ mua giúp bà ấy. Lâu lắm rồi ba con chưa có được miếng ăn ngon."

Sau cơn mưa, trời tối rất nhanh. Mẹ tôi lên tiếng sai anh tôi thắp đèn. Ba tôi vẫn chưa về tới nhà. Hình như mẹ đang sốt ruột:

"Không biết ông ấy làm chi mà giờ này còn chưa về?"

Anh em chúng tôi nôn nao ngồi bên cửa chờ ba về. Mưa đã ngưng hạt, ngõ vào nhà lầy lội. Ánh sáng ngọn đèn dầu trong nhà hắt ra vườn một vùng sáng yếu ớt. Vài chú ễnh ương kêu gọi bóng đêm đổ xuống nhanh hơn. Có một bóng đen đang bước vào vườn, hình như là bóng ba. Tôi reo lên:

"Ba về, ba về."

Mẹ tôi nghe tiếng tôi gọi, vội vàng chạy xuống bếp hâm đồ ăn. Ba tôi thiểu não bước vào, tóc người đẫm ướt. Người cởi chiếc áo mưa ra máng lên vách. Chiếc áo mưa cũ và rách nhiều chỗ không đủ che cho người. Áo quần ba tôi ướt sũng, nhểu nước xuống nền nhà. Ba tôi cố giấu run vì lạnh. Tôi thấy môi ba tôi tái ngắt. Anh tôi cất tiếng hỏi:

"Xe mô mà ba đi bộ rứa?"

Ba tôi đặt ngón tay trỏ lên môi ra dấu cho anh em chúng tôi đừng nói lớn. Ba tôi lặng lẽ vào buồng riêng. Sau khi lau tóc và thay quần áo. Ba bước tới ngồi bên bàn ăn, cố nói giọng tự nhiên:

"Mình ơi! Đói bụng lắm rồi đó."

Tiếng mẹ tôi từ trong bếp vui vẻ vọng ra:

"Gần xong rồi."

Anh em chúng tôi háo hức ngồi bên cạnh ba tôi. Chúng tôi mở lớn mắt nhìn xuống bếp, chờ đợi. Tôi đang náo nức với những con mực được mẹ tôi nhồi thịt, cùng nấm mèo và bún tàu. Con nào cũng nung núc được mẹ tôi chiên lên rồi kho rim lại thơm nức mũi. Còn chiếc chảo nữa, tôi đã quanh quẩn với mẹ dưới bếp "đặt cọc" trước để... trộn cơm; chiếc chảo mà tôi biết chắc rằng mẹ tôi sẽ còn dành ở đó vài cái đầu mực. Tôi nghe có tiếng soong chảo chạm vào nhau dưới bếp. Ba tôi sốt ruột lên tiếng hỏi:

"Răng mà lâu rứa mình?"

Không có tiếng trả lời của mẹ tôi từ sau bếp. Ba tôi quay qua bảo anh tôi:

"Con xuống dưới xem mạ con đang làm chi mà lâu rứa?"

Khi tôi xuống nhà bếp thì thấy mẹ tôi đang ngồi nhặt từng con mực dưới nền đất lên chùi cát. Cái chảo nằm lăn lóc bên cạnh. Những con mực đang nằm tội nghiệp rải rác chung quanh, vài ba con nằm phơi mình trong vũng nước đọng trên nền như mắc cạn. Tôi hốt hoảng ngồi xuống bên mẹ:

"Mạ làm đổ hết rồi hở?"

Mẹ tôi im lìm. Người lặng lẽ lau sạch những con mực bỏ vào đĩa. Tôi thấy mẹ tôi khóc. Tôi bồi hồi nhặt một con mực lên chùi cát giúp mẹ. Bóng hai mẹ con tôi chập chờn bên ngọn đèn dầu. Mẹ tôi lẩm bẩm:

"Con mèo nhà ai mà vô hậu rứa không biết. Mạ vừa quay lưng là nó tha đi gần hết, còn làm đổ tứ tung nữa. Mạ thật vô ý. Làm ba và tụi con hỏng ăn."

Tôi làm vẻ thông minh:

"Mình đem rửa rồi rim lại."

Mẹ tôi gượng cười:

"Như rứa thì còn chi mà ngon nữa? Thôi, con lên trên nói ba con đợi một chút nghe."

Tôi tiu nghỉu bước lên nhà trên. Anh em tôi nghe tin cũng xụ mặt xuống, chống cằm lên bàn, thiểu não. Ba tôi rời ghế đi xuống bếp. Một lúc sau, tôi nghe tiếng người nói với mẹ tôi:

"Đổ hết rồi thì thôi, ăn chi lại không được. Thôi đừng buồn nữa mình ạ."

Tiếng mẹ nức nở:

"Nhưng bấy lâu nay cả nhà đâu có được miếng ăn ngon, toàn là cơm rau muối mắm. Tội nghiệp thằng Tí thòm thèm từ hồi chiều đến giờ."

Không dưng, tôi thấy thương mẹ tôi thật nhiều. Tôi nhớ khuôn mặt mẹ lúc chiều rạng rỡ bên rổ mực tươi. Tôi nhớ mẹ thấy tôi mừng làm mẹ rất vui. Giờ đây, giọng mẹ nghẹn ngào chỉ vì ước mơ nhỏ nhặt của tôi bị vụn vỡ. Tôi tự hứa với lòng là từ nay về sau sẽ không háu đói để mẹ khỏi bận lòng nữa.

Tối hôm đó, gia đình chúng tôi trải qua một bữa cơm thật ảm đạm. Sáng hôm sau, khi tôi vừa mở mắt dậy thì lại nghe tiếng mẹ tôi khóc:

"Răng anh không nói cho em biết sớm?"

Ba tôi ngồi vừa nhấp trà, vừa nhỏ giọng:

"Tối hôm qua thấy em buồn quá làm sao anh mở miệng được?"

Mẹ tôi ngơ ngác hỏi:

"Bây giờ anh tính sao?"

"Thì phải đón xe lam đi làm tạm một thời gian đã."

Ba tôi ngập ngừng trả lời. Mẹ tôi cất giọng tiếc nuối:

"Gia tài chỉ còn có chiếc xe đạp cho anh đi đỡ chân cũng bị mất. Không biết sao mà xui xẻo quá đi."

Ba tôi an ủi:

"Thôi, việc đến đâu hay đến đó, lo lắng cũng không giải quyết được chi."

Mẹ tôi suy nghĩ một chút rồi nói nhỏ với ba:

"Hay là đem nữ trang anh tặng em lúc cưới, bán đi để mua cho anh chiếc xe khác?"

Ba tôi nhổm người lên như đỉa phải vôi:

"Nhất định là không được, lúc trước cần tiền mua nhà chúng mình cũng quyết định không bán mà. Đó là kỷ vật của em."

Thấy mẹ tôi như muốn nói thêm. Ba tôi tiếp lời, dứt khoát:

"Để xem anh em ở sở ai có chiếc xe cũ nào cần bán, anh sẽ mua lại."

o O o

Đời sống thường mang lại quá nhiều phiền muộn, nhất là những người nghèo khổ như chúng tôi. Mẹ tôi chạy ăn từng ngày vẫn không đủ cho chúng tôi ngày càng lớn. Nỗi lo làm tóc mẹ tôi bạc sớm, lưng mẹ tôi còng mau. Hai người anh lớn của tôi phải ra chiến trường. Chiến tranh đã bắt đầu leo thang. Căn nhà gỗ của chúng tôi lại rung lên từng đêm khi có tiếng bom đạn dội về. Khoảng cách của tiếng bom đạn dần thu ngắn trong cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Rồi Tháng Tư gẫy gánh. Tháng Tư tôi bỏ trường về lại mảnh vườn xưa. Tháng Tư anh ba tôi chết trên đường triệt thoái cao nguyên. Tháng Tư ba tôi đi lao động khổ sai.Tháng Tư nhà tôi tan nát. Căn nhà năm xưa tuy nghèo nhưng đầy vang tiếng cười, nay chỉ còn mình tôi bên cạnh mẹ tôi hiu hắt tiếng thở dài. Mẹ tôi lại buôn thúng bán mẹt chắt chiu từng chút một để dành có dịp thăm nuôi ba tôi. Còn người anh cả của tôi không biết lưu lạc phương nào? Mẹ tôi thường nằm mơ thấy anh tôi vẫn còn sống, nhưng tôi nghĩ là không thể nào. Nếu có, anh cũng trở về bên chúng tôi hoặc ít nhất là cho chúng tôi biết tin. Nhưng mẹ tôi vẫn tin tưởng ông trời có mắt, lúc nào cũng nhìn xuống lòng thành của con người.

Cuộc sống ngày càng chật vật, chúng tôi phải đương đầu với nhiều áp lực của chính sách mới. Chính sách thay đổi bất chợt, từng ngày. Như bữa cơm đạm bạc trong gia đình chúng tôi; hôm qua có khoai thì độn khoai, hôm nay có bắp thì độn bắp, ngày mai không biết chừng chúng tôi chỉ đuợc ăn khoai luộc trừ cơm. Tôi lại bị kêu đi làm nghĩa vụ lao động liên miên, riết rồi thành nghề của tôi. Ai mướn đi làm thế, cũng nhận lời. Cuối cùng sự gặp gỡ giữa mẹ tôi và tôi cũng thưa dần.

Một hôm, mẹ tôi cầm bàn tay đen đúa và khô nhám của tôi bật khóc. Mạ đã lo cho con đâu vào đó rồi. Gia tài của mạ chỉ còn lại sợi dây chuyền và chiếc vòng tổng cộng là ba lượng. Ba và Mạ không bao giờ dám nghĩ là sẽ tiêu xài đến nó, vì đây là quà cưới của ba con cho mạ. Nhưng thấy con khổ cực quá, mạ phải lo cho con. Con cái người ta đã lần lượt vượt biên hết, con cũng nên đi tìm tương lai cho mình. Mạ không thể nào thấy con như vậy mà không đau lòng. Mạ sẽ chờ ba con về. Tôi gục đầu vào vai mẹ tôi khóc ròng. Hình như hôm đó là buổi chiều. Nắng thoi thóp trên tàn cây trứng cá trong vườn. Mạ tôi tiếp. Mạ tưởng con không về kịp hôm nay. Mạ sợ con hụt chuyến này thì mạ sẽ ân hận suốt đời. Ngày mai con phải đi rồi đó, tất cả mọi thứ mạ đều chuẩn bị cho con cả rồi. Tôi bật người ra sau, thảng thốt:

"Ngày mai? Mau vậy?

Mẹ tôi lặng lẽ gật đầu. Tôi không còn nhớ tâm trạng của tôi lúc ấy ra sao, có lẽ tôi vui, vì chung quanh, bạn bè đã ra đi gần hết. Tôi thường ngưỡng mộ những đứa bạn tôi đã ra đi trót lọt, nhưng tôi biết khả năng kinh tế của gia đình tôi không để cho ước mơ của tôi có dịp bộc lộ. Nhưng ngày mai? Trời ơi! Đột ngột quá. Tôi không biết nói gì với mẹ tôi hết, tôi chỉ biết rưng rưng mắt mà lòng xót đau. Tối hôm đó, nhìn bóng mẹ tôi khòm khòm đi lại trong nhà, thỉnh thoảng người lại mở túi xách của tôi xem xét còn thiếu món gì nữa không, tôi không khỏi mủi lòng. Ánh sáng của ngọn đèn dầu đêm đó hình như làm lưng mẹ tôi còng thêm theo từng vệt sáng tù mù hắt lên tường nhà. Thỉnh thoảng, mẹ tôi dừng tay, nói như để trấn an tôi:

"Con đừng sợ, đây là nơi thân tín, mạ năn nỉ quá họ mới nhường cho mình một chỗ. Lúc đầu họ đâu chịu nhận nữ trang, nhưng số con may mắn lắm đó..."

Suốt đêm hôm đó, tôi nằm thao thức theo tiếng trở mình của mẹ tôi.

o O o

Rồi tôi cũng được qua tới Mỹ, với lần tiếp kiến phái đoàn Mỹ thật là trôi chảy, trôi chảy như chuyến vượt biên của chúng tôi. Ba tôi còn trong trại cải tạo là lý do khiến tôi được phái đoàn Mỹ chấp nhận sớm nhất, trong thời gian mà những người Việt Nam vượt biên bằng những chiếc thuyền gỗ mỏng manh còn làm thế giới lưu tâm tới. Tôi qua đến Mỹ, vừa học vừa làm cũng có chút tiền gởi về thường xuyên cho mẹ.
Nhu cầu của mẹ tôi không nhiều nên vấn đề xoay sở của tôi bên này không phải là gánh nặng cho tôi trong thời gian còn đi học. Tôi vẫn nhận được thư của mẹ tôi thường xuyên. Và lá thư làm tôi không thể nào ngủ được mấy đêm liên tục, đó là lá thư của anh cả tôi. Người anh tưởng như đã chết trong cuộc tháo chạy năm nào, nay đang bình yên ở Mỹ. Tôi gọi điện thoại cho anh tôi bày tỏ nỗi hân hoan cùng lòng xúc cảm. Anh em chúng tôi khóc với nhau trên đường dây điện thoại. Chuyện nhà, chuyện ba mẹ được tôi tường tận kể ra cho anh tôi cùng những dòng nước mắt tủi hờn. Mùa hè năm đó, theo lời anh tôi, tôi bay lên miền Bắc nước Mỹ thăm anh tôi. Cuộc đón tiếp nơi phi trường làm tôi ngỡ ngàng. Anh tôi cùng người đàn bà Mỹ và một nhóc tì tròn trịa nhìn tôi bằng đôi mắt bi ve không nhấp nháy. Người đàn bà lạnh lùng bắt tay tôi với một câu xã giao thường lệ. Anh tôi rưng rưng nước mắt nhìn tôi im lặng. Ngay trên chiếc xe đưa chúng tôi về nơi anh cư ngụ, là tôi đã có ý định thu ngắn thời gian ở lại với anh tôi. Anh tôi nói với tôi bằng những giọng nhát gừng, thỉnh thoảng xen một vài câu tiếng Anh vào khi thấy khuôn mặt hơi cau lại của bà vợ. Người chị dâu đã không cho tôi được cái thiện cảm tôi gặp lúc đầu. Nhìn bà phục phịch bước lên xe là tôi đã cảm thấy có một chút gì đó bất hạnh xảy ra trong đời sống của anh tôi. Anh tôi biết ý đã giải thích với tôi bằng một câu rất gọn. Năm 1975, lúc anh mới qua Mỹ không có chỗ nào hơn ngoài gia đình June. Hình như tôi có gợi ý với anh dọn về nơi nắng ấm, nhưng anh tôi khẽ lắc đầu. Sống đâu quen đó rồi chú ạ.

Tối hôm đó, anh em chúng tôi thức suốt đêm để ôn lại những ngày tháng cũ. Vợ anh thỉnh thoảng lại bước ra phòng khách giục anh đi ngủ nhưng anh làm lơ. Anh hỏi tôi:

"Chú có định lên đây ở cho có anh có em không?"

Tôi lắc đầu, vì tôi biết anh tôi hỏi để mà hỏi. Tôi không muốn anh bị lấn cấn tình cảm giữa anh em và vợ chồng.

Đến ngày tôi ra phi trường để về lại nơi tôi ở, anh tôi đưa tôi đi một mình. Anh hỏi tôi khi tôi đang chờ kiểm tra hành lý. Sao chú lại về nhanh quá vậy? Có điều gì chú không bằng lòng nơi anh phải không? Tôi đáp nhỏ. Em có cảm tưởng chị June không thích sự hiện diện của em lắm. Anh tôi im lặng. Tôi biết lời nói của tôi đã làm cho anh tôi buồn nhiều. Lúc máy bay cất cánh, tôi thấy anh tôi vẫn còn đứng trong phi trường, dáng anh thật cô đơn.

o O o

Ba tôi qua đời trong trại cải tạo đã làm kiệt quệ mẹ tôi. Tôi biết và càng đau lòng hơn khi thấy bóng dáng mẹ tôi nơi phi trường. Người lựng khựng bước ra với chiếc áo dài nâu lạc lõng trên phi trường quốc tế. Vợ tôi ngọt ngào săn đón. Phải! Tôi đã có vợ sau khi ra trường đi làm được vài năm. Vợ tôi người Bắc, khéo ăn, khéo nói. Thời gian sau này tôi cũng bị vợ tôi hạn chế gửi quà về cho mẹ. Đến bây giờ, tôi mới thông cảm nỗi khổ của anh tôi. Thảo nào, gần hai mươi năm sống ở Mỹ, anh tôi chỉ gửi quà về cho mẹ tôi được vài lần, rồi thôi. Trước khi mẹ tôi qua, anh em chúng tôi cũng đã bàn thảo với nhau ai sẽ rước mẹ về ở chung. Giọng anh tôi ra điều thiểu não:

"Chú bây giờ dầu sao cũng được ổn định. Anh công ăn việc làm tạp nham, hơn nữa June nó người Mỹ sợ mạ không thích. Vợ chú dầu sao cũng là người Việt Nam. Mạ cũng dễ sống."

Tôi xuôi lòng dầu biết rằng vợ tôi cũng có phần khó chịu. Anh tôi cũng có mặt trong ngày mẹ tôi qua Mỹ. Nhìn mẹ đi đứng khép nép trong phi trường, tôi đâm ra thương mẹ lạ lùng. Tôi tự nhủ lòng sẽ hết lòng săn sóc, hiếu thảo với mẹ.

Những ngày đầu mẹ tôi đến Mỹ, chúng tôi sống với nhau thật là vui vẻ. Vợ tôi thấy mẹ tôi chăm sóc cho bé Nam chu đáo cũng mến mẹ tôi. Tôi biết, trong thâm tâm vợ tôi là tiết kiệm được một số tiền gửi trẻ. Nhưng không sao, mẹ tôi cũng rất cưng cháu nội của bà. Hơn nữa, ở nhà một mình, có bé Nam cũng làm cho mẹ tôi khuây khỏa được phần nào.

Cho đến một hôm tôi đi làm về sớm hơn thường lệ, thì nghe có sự lớn tiếng trong nhà. Tôi rón rén bước vào, thấy vợ tôi hùng hổ:

"Con đã nói với mẹ rồi, bé Nam phải cho ăn uống đúng giờ đúng giấc. Mẹ làm thế nào mà mấy bình sữa của bé Nam vẫn còn y nguyên?"

Mẹ tôi nhỏ giọng:

"Tại mạ thấy bé Nam ngủ ngoan quá, nên không đành lòng thức nó dậy để bú sữa."

Giọng vợ tôi, cất lên chua buốt xương:

"Mẹ làm vậy là giết con đó. Nó ngủ đẫy giấc, tối nay nó quấy con thì làm sao con ngủ cho được? Ở Mỹ phải tập cho con nít nó ngủ đêm. Mẹ không biết gì cả."

Tôi không kềm được giận dữ, xông vào, tát vợ tôi một cái. Nàng tru tréo lên:

"Anh dám đánh tôi? Có ngon thì đánh tôi thêm một cái nữa đi nào?"

Nói xong, nàng xấn tới phía tôi chìa mặt thách thức:

"Anh có tin là tôi kêu cảnh sát bắt anh không nào?"

Tôi giận quá, mất khôn, tát nàng thêm một cái nữa. Nàng òa ra khóc như cha chết rồi quay qua chiếc điện thoại, chụp bấm lia lịa. Tôi xông tới, mẹ tôi sợ tôi đánh nàng nên vội kéo tay tôi ra:

"Thôi con à. Mọi sự cũng tại mạ hết."

Tôi quát lớn:

"Bấy lâu nay vợ con đối xử với mạ như vậy sao mạ không cho con biết... Thật là quá đáng mà."

Tôi buông mình xuống sô pha ngồi thở dốc. Nửa tiếng đồng hồ sau, xe cảnh sát chạy đến trước nhà tôi như điều tôi đã đoán. Sáng hôm sau, tôi gọi điện thoại về bảo vợ tôi mang tiền đến bảo lãnh tôi ra, nhưng nàng không chịu. Giọng nàng còn tức tối:

"Có gan đánh vợ thì có gan ở trong đó vài ngày. Kêu réo làm gì?"

Nàng cúp dây. Tôi đành muối mặt gọi bạn tôi nhờ đến lãnh tôi ra. Khi tôi về đến nhà thì mẹ tôi đang ngồi khóc trong bếp. Tôi ngồi xuống vỗ về:

"Xin lỗi mạ. Con không biết mạ bị vợ con xài xể sau lưng."

Mẹ tôi vuốt đầu tôi:

"Mạ sợ họ nhốt con luôn chứ. Trời ơi! Xứ chi mà đánh vợ một cái nhẹ là bị công an còng tay."

Tôi cười, giễu:

"Đàn bà, nhất là đàn bà Việt Nam ở đây là những động vật sắp bị tuyệt giống, cần phải bảo vệ kỹ lưỡng mà mạ."

Mẹ tôi đánh yêu vào má tôi (như dạo tôi còn bé):

"Thằng con. Rứa mà cũng giỡn được."

Tôi đứng dậy:

"Thôi để con vô tắm cái đã."

Mẹ tôi nói với theo:

"Rứa con định tính sao với con Duyên?"

"Thì coi như không có nó."

Nói như vậy nhưng lòng tôi đang thắc mắc là giờ này nàng đang làm gì? Ở đâu?

o O o

Tôi tưởng là tôi có thể làm mặt lơ được. Nhưng không, vợ tôi còn lỳ hơn tôi. Nàng có thể im lặng không nói từ tuần lễ này sang tuần lễ khác. Đôi khi nàng biểu lộ sự bực mình của nàng bằng cách quăng chén bát dơ vào chậu rầm rầm. Đôi khi vô cớ nàng đánh tét vào mông bé Nam cho nó ré lên ngặt nghẽo. Mẹ tôi giơ tay ra bế thì nàng lại ngoe nguẩy vác bé Nam vào phòng. Tôi nhìn ngứa mắt lắm nhưng cố tình làm ngơ. Không khí trong gia đình tôi ngột ngạt, đến mức độ sau khi tan sở, tôi thật sự không muốn về nhà chút nào hết.

Một hôm, mẹ tôi gọi tôi vào phòng. Người bảo:

"Mạ không muốn ở đây cản trở hạnh phúc của con nữa. Mạ muốn về Việt Nam."

Tôi khóc:

"Mạ giận con phải không? Khó khăn lắm mới qua được bên này, mạ về Việt Nam cũng đâu còn ai?"

Mẹ tôi cười hiền từ:

"Mạ còn bà con láng giềng. Ở đây mạ như mù như điếc. May mà căn nhà ở Việt Nam mạ không bán, mạ chỉ cho gia đình dì Huệ ở và coi sóc giùm hương khói ba con và thằng Ba."

Tôi cất giọng thống thiết:

"Con có làm điều chi sai thì mạ thứ lỗi cho con, dầu sao con cũng là con của mạ. Con thà bỏ vợ chứ không thể để mạ trở về Việt Nam đâu."

"Con đừng nói rứa mà mạ mang tội. Mạ già rồi, ở đâu lại không được. Vợ chồng đánh nhau đầu giường thì hòa nhau cuối giường, có chi mô mà con làm cho lớn chuyện?"

Cuối cùng rồi tôi cũng bị mẹ tôi thuyết phục. Ngày mẹ tôi ra phi trường để về lại Việt Nam, chỉ có mình tôi đưa. Lại chiếc áo dài nâu mẹ tôi đã mặc trong ngày qua Mỹ, mẹ tôi nhỏ nhoi vô cùng giữa hàng người hớn hở về thăm quê hương. Tôi không còn cầm được nước mắt. Mẹ tôi cũng vậy, người hứa sẽ trở lại thăm chúng tôi, nhưng tôi biết chắc mẹ tôi sẽ không bao giờ trở lại lần nữa. Lúc máy bay cất cánh. Tôi thấy mẹ tôi đã mang theo rất nhiều điều tôi chưa nói được...

Thắm Nguyễn

User avatar
mexanh
Posts: 480
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Post by mexanh »

Image

Khói nhang
Hồ Đình Nghiêm
Mạ tôi không có nhiều áo dài, đâu chừng chỉ ba chiếc. Áo của mạ đúng là áo dài, dài miên man, vướng víu hai tà gần chấm gót. Cổ cao, in tuồng có độn mi-ca ở trong cho cứng cáp. Không mấy khi thấy mạ ủi, xếp trong tủ mà chừng như luôn phẳng phiu, chẳng nhăn nhàu. Thợ may khéo, đã đành, qua thời gian hàng vải lạ thường kia không hề thu rút lại một mảy may. Chúng vẫn ôm lấy, sát sao cơ thể một người đàn bà có đông con. Thường thì thời gian hậu sản, da thịt người mẹ hơi bị “phát tướng”, hơi bị sỗ sữa; nhưng mạ tôi cứ rứa, thuỷ chung thi gan cùng tuế nguyệt. Nếu dùng thuật ngữ mà thời buổi lạ lùng này, người trong nước cắc cớ ưa nhắc là “số đo ba vòng” thì chẳng cần dùng thước đo đạc, ngày đó mạ tôi vẫn “chuẩn” không cần “chỉnh”, không phì nhiêu chẳng giảm sút, ôm vào lòng vẫn ấm gọn một vòng tay, vẫn bất di bất dịch lượng suối trong nguồn chảy ra, vẫn chuối chín cây, vẫn biển Thái bình hiền hoà sóng vỗ êm đềm, che chở và bảo vệ suốt đời một bờ bãi luôn được bồi đắp phù sa. Có một câu tiếng Pháp viết như thế này: Je n’ai pas besoin de m’aimer avant de t’aimer, parce qu’il n’y a pas d’ordre, juste l’amour. Có lẽ tác giả chỉ dành cho tình yêu lứa đôi. Đâu cần phải yêu mình trước khi yêu người… Mình được mạ đẻ ra thì mình yêu thương mạ là chuyện ắt có và đủ. Không so đo, chẳng phân bì. Vẻ đẹp do tình yêu mang lại nó vốn thế.

Mạ tôi thương người con đầu ra sao thì thương thằng út một mực như vậy. Người con đầu ra riêng thì cán cân tự động lệch hẳn một phía. Nào lạ gì khi trong gia đình ai nấy đều thông hiểu câu “con út trút gia tài”. Tôi là đứa hưởng được cái đặc ân kia, thứ lề luật không tiện viết ra văn bản. Trong mâm cơm, món ngon hoặc thứ “hắn” thích mạ luôn xí phần: Ăn chi vô hậu rứa bây, cứ tranh ăn với em là tại vì răng? Thằng út hay bị chảy máu cam, mạ nấu cho nồi chè đậu đỏ ăn giải nhiệt sau khi biểu hắn nằm xuống tấm phản đắp trán bằng khăn ủ nước lạnh và lỗ mũi đã nhét chật một lá trầu xanh nhằm ngăn chận giọt máu đào thất thoát, hao hụt.

Hôm ấy (một sáng sương Thu đầy gió lạnh?) mạ tôi mặc lấy chiếc áo dài màu xanh rêu, hàng nhung êm mịn. Bối tóc sau khi chải mượt bằng chiếc lược làm bằng sừng trâu, xỏ đôi bông tai có nạm ngọc xanh vào trái tai chỉ thua đức Phật chút đỉnh về độ dài. Mạ đeo vòng kiềng bằng vàng 24 le lói, chỉ hèn kém thua vật trang sức của Nam Phương hoàng hậu nhưng đủ tăng hào quang khi tôi ngó sững tới mạ. Nó “ăn” với chiếc áo màu xanh rêu nhung gấm ấy quá và tổng thể, những vật phụ kiện vừa cài đặt kia đã khiến mạ ăn gian thần thời gian tới cả chục niên, hàm hồ mà nói rứa. Trong xóm vắng có ai lạc giọng hát bài “Tôi đưa em sang sông”, giọng chất ngất tâm sự:… chiều xưa mưa rơi âm thầm để thấm ướt chiếc áo xanh… hôm nao em sang ngang, bằng xe hoa thay con thuyền, giờ phút cuối đến tiễn em… gót chân ngày xa xưa sợ lấm trong bùn khi mưa…

Khi mạ chính thức sang ngang, bản nhạc này chưa thể hiện hữu. Ngoài làng mạ ở cũng có một dòng sông, nhưng cây đa bến cũ con đò năm xưa hình như chỉ dành riêng cho một mình ba tôi đến đón đưa. Thời đó, khi thất tình, người ta sẽ làm gì? Người ta bỏ làng nước để trốn đi làm cách mạng ư? Bây giờ thì xem chừng người ta đã làm quen với tất cả những cơn sóng tràn bờ, với thứ lãng mạn tiểu tư sản, dùng nó vỗ về chút thương đau. Ai thất tình mà hát giọng buồn chi lắm thế? “Anh” nhắc tôi nhớ hôm nay là ngày chị tôi thực sự lên xe hoa, không sang ngang chẳng qua đò, cũng không xác pháo vướng gót chân. Vì đại sự nên mạ tôi đã “diện” chiếc áo đẹp nhất mà mạ có. Chiếc áo “ăn nói” ít khi tìm ra cớ để khoác thân. Nôm na là xếp trong đáy tủ để “phòng khi hữu sự”. Và hữu sự đã tới, sánh đôi cùng những lời mạ thủ thỉ dành cho chị tôi, người từng ái ngại để bùn hoen gót chân trong ngày mưa:

Kể từ ngày mạ đẻ con ra
Ai mớm cơm, trún cháo lớn mà từng ni?
Hai tay bưng đọi chè tàu
Vừa đôi thì lấy ham giàu làm chi.

Rõ là:

Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.

Có ngồi chào vao, có kiếm cách chuyển vẫn gì đi nữa thì cuối cùng chị tôi cũng “bỏ nhà ra đi”. Dù anh hàng xóm buồn đời hát hỏng “mưa bên chồng có làm em khóc?” thì mọi chuyện cũng đã lỡ sang trang. Dâu bể cuồng nộ vùi dập phận người tả tơi rồi cũng đâu vào đó huống hồ chuyện nhi nữ thường tình. Xe hoa mang đi chỉ một người đâu sánh bằng chiếc thuyền chở hàng trăm tính mạng bọt bèo trôi sông đổ biển? Nghe ai đó nói “người tình không chân dung” nọ đã xếp bút nghiên theo việc đao cung. Là sĩ quan lính thứ dữ, đánh đấm ra trò ở mặt trận cổ thành Quảng Trị, là nơi do vua Minh Mạng dựng xây mà trong phạm vi lớn chưa tới 3 cây số vuông đã hứng chịu 320 ngàn tấn bom đạn chăm cày xới trong 81 ngày đêm khói lửa triền miên. “Anh không chết đâu anh”. Anh cũng không làm bại tướng cụt chân, nhưng khi anh trở về thăm xóm, vô tình anh khiến mạ tôi siêng đi chùa.

Ngoài chiếc áo nhung xanh rêu mạ còn hai chiếc khác: Một màu lam và một màu nâu. Có người gọi lam là màu khói nhang, có người kêu nâu thành màu nu. Và có người đưa nhận xét, đó là những màu căn bản mà con em gia đình Phật tử vẫn thích mặc vào người. Không tin hả? Mấy sư cô, các sư nữ hằng tin rằng thứ sắc độ ấy ít trêu ngươi, ưa lắng chìm vào sự trầm tịch. Vậy thì chẳng lẽ kiếp trước mạ tôi là o con gái quét lá sân chùa, rót nước dâng hoa lên bàn Phật? Bên ngoài cảnh giới nghiêm cẩn đạm bạc ấy có lắm màu vui nhộn non tươi là thế răng mạ lại đi chọn thứ màu “kín đáo” rứa hè?

Giống hầu hết quý vị phụ nữ thời đó, mạ tôi làm thứ nghề nghiệp kỳ cục được ghi nắn nót trong sổ gia đình: Nội trợ. Phong trào nữ quyền là gì? Nào ai hay! Cũng như kế hoạch hoá gia đình là gì? Condom là cái quỷ sứ chi? Quý ông đầu đội trời chân đạp đất vẫn như vịt nghe sấm, nước đổ lá môn, chẳng làm nhăn mặt nước hồ thu từ bao lâu vẫn phẳng lặng. Nội trợ là giúp đỡ việc trong nhà? Quán xuyến việc chăm con, giặt giũ, may vá, đi chợ, nhặt rau, nấu ăn, rửa chén bát. Nếu có nuôi bầy gà thì sáng ra sân vãi nắm gạo cho chúng ăn để chạng vạng thì tục tác gọi chúng về chuồng. Đầu tắt mặt tối thì có vẻ hàm oan vì mạ tôi tự ví mình là ba đầu sáu tay “mặt trận nào cũng đánh thắng”. Đã thế còn biết cách thu xếp lịch lao động để chừa ra một khoảng trống trong hai mươi bốn giờ lu bu trấn nhậm hậu phương. Khoảng thời gian phù du ấy mạ tôi dành vào việc đọc sách. Bà có một trí nhớ phi thường, kể ra vanh vách từng chi tiết, tên các nhân vật nằm trong toàn bộ các tiểu thuyết của bao tác giả ở nhóm Tự Lực văn đoàn. Mạ nào con nấy, tôi cũng bắt đầu sa ngã lòng mình, thổn thức theo những trang văn chương có khả năng dắt trí tưởng mình dẫm chân vào những “vùng địa đàng” tuyệt đối không hề có cảnh tên bay đạn lạc. Người sĩ quan binh chủng Thuỷ quân lục chiến xóm giềng hết ba ngày phép, sang chào mạ tôi để kịp có mặt ở một trận đánh ác liệt khác. Anh nhìn tôi: Mi không lo học thì bữa mô chân cẳng cũng phải lội khắp bốn vùng chiến thuật như tao. Một xanh cỏ hai đỏ ngực là thứ khiến mạ tao phải ăn chay trường trì chú tụng kinh. Coi chừng, mạ mi cũng rứa thôi, kêu trời răng thấu?

Tôi học rất kém. Vẫn ước ao có được đầu óc minh mẫn giống mạ mình. Thông tín bạ luôn có hàng chữ mực đỏ của thầy cô phê: “Chăm chỉ, hiền ngoan nhưng học lực cứ không thấy tiến bộ”. Mấy thầy cô “học lực” coi bộ kém thua ba tôi. Ông phán, kiểu tam đoạn luận: Thằng ni luôn coi sách vở là kẻ thù, đã là kẻ thù thì buộc phải tránh xa, vì xa lánh sách đèn nên dốt đặc cán mai nào là chuyện lạ! Thấy chưa toàn vẹn, ba tôi buông một dấu chấm: Đồ con hư tại mạ! Mạ tôi chẳng lấy đó làm điều, bà hoá thân thành một nhà hiền triết: Không có học trò dốt, chỉ có thầy cô chẳng nắm vững phương pháp giáo dục thôi! Chao ôi, một người chỉ biết nghề nội trợ mà dõng dạc phát ngôn ra thế. Dễ nể thật! Khẩu khí nọ đi thẳng vào người tôi, sướng như cởi được tấc lòng, như đả thông được hai huyệt nhâm đốc. Mạ tôi mô phải là người mạ bình thường, bà còn là thần tượng của tôi nữa, không phải rứa hay răng? Bà là chưởng môn nhân môn phái Tình Thương: Hỡi những con chim chưa ra ràng đang bị vặt lông, hãy nối kết cánh lại. Tôi chưa đủ lông đủ cánh vì rứa nên cứ bu mạ như sam. Tôi nghĩ quẩn, e chiếc áo dài xanh rêu nhung gấm sang trọng và đẹp đẽ của mạ sẽ bị xếp xó, ngủ yên dưới đáy tủ, vì rằng cái ngày mà tôi cả gan “đem nàng về dinh”, đưa nàng sang sông, tam thập nhi lập… thì ngày đó có diễn ra sẽ không cách chi có sự hiện diện của mạ. Sức người có hạn, có là tài thánh mới bắt mạ mình chờ được, nhìn ngó đứa con út dại khờ tự lập thân chập chững vào đời.

Rồi thần thời gian đã lén “đi đêm” với thần chết. Quỷ khóc thần sầu đã vi phạm hiệp định ngưng bắn, đang an vui là thế họ tới gõ cửa, điểm danh đúng tên mạ tôi. Bà chẳng có một biểu hiện nào trước đó, rất đột ngột một cơn bệnh ngặt nghèo đã vật bà xuống. Anh chị tôi mang bà vào Sài Gòn, tìm đến một bệnh viện nổi tiếng nhất, nhưng họ bó tay sau một tuần làm đủ các xét nghiệm. Sẽ không lâu nữa đâu, chúng tôi buộc lòng phải nói thế. Hãy mang cụ về nhà để nhỡ có những việc cụ đang dở dang việc hoàn thành… Một người nội trợ, hãy nghiệm xem, những việc nhỏ nhặt họ làm thường nhật có đáng không để bận tâm mưu cầu một vuông tròn? Cho dù chẳng ra cơm ra cháo thì… ba vạn cũng bỏ. Hãy thõng tay vào chợ. Xin cho một lần được thảnh thơi. Không, tôi quả thật hồ đồ, tôi quá trẻ người non dạ. Tôi đâu biết tâm niệm của mạ là được ngó mặt tôi lần cuối. Không biết ở ngoài nớ, việc ăn uống ngủ nghê sách đèn của thằng út con mạ ra răng? Mạ ở xa hắn có nhớ quay quắt không?

Chị tôi nói trong nước mắt: Theo chị đoán thì thực sự tim mạ đã ngừng đập khi nằm trên máy bay, tay chân lạnh ngắt. Chị không ngờ mạ đã gắng gượng, dùng tàn lực để mở mắt ra trông em phút cuối. Hãy nhớ đến thời khắc nọ để ghi chính xác tới ngày giờ tử của mạ. Tôi không vuốt mắt vì thứ nhãn tuyến mù mờ ấy đã vội đóng, đồng tử khép lại liệu có kịp thu giữ nhân diện thằng con út của người? Một giọt nước mắt trườn ra khỏi khoé, bò chậm xuống những đường da nhăn. Ai đã mặc cho mạ tôi chiếc áo dài màu khói nhang trên người? Chiếc áo đã bạc tình thôi ôm giữ sát sao cơ thể mạ như ngày nào. Một bầu trời vừa sụp đổ xuống người tôi.

Trước khi chạy được sang tới đây, tôi mất cả mạ lẫn ba, bỏ lại hai nấm mồ hoang lạnh. Như ca dao ví, tôi là một cây đờn bị đứt hết dây, tình tang chi nữa hỡi con bạn mình ơi! Tôi vượt biển cùng một người con gái đất Thần kinh mà mạ tôi nào chứng giám là hắn vừa có vợ. Tôi lên đò chòng chành sóng lớn, ôm theo hành trang một “con sáo sổ lồng bay đi” vô phương hướng. Đất lành chim đậu là một từ ngữ thậm chính xác. Đất lành cho nên thống kê về số tử vong gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện nhỏ. Cũng vì đất lành cho nên đến lúc trái gió trở trời, chim có lạc đường bay, có rụng lông gãy cánh thì người sống trên cuộc đất ấy sẽ ra công tô đậm thành ngữ “cho chim liền cánh như cây liền cành”. Tôi từng vào nằm nhà thương, mát dạ mát gan khi nằm yên cho họ lắp cánh tháp cành. An tâm, rồi bạn sẽ chóng bình phục. Họ hỏi: Trong gia đình bạn có ai mất vì chứng ung thư không? Tôi nói có, hiền mẫu. Họ bày dao kéo chuẩn bị làm một cuộc banh da xẻ thịt, họ bảo mức độ nguy hiểm chỉ lên tới 17% và rồi tôi bị đánh thuốc mê, chìm trôi không hay biết chuyến đò chèo mát mái hay sông trôi lộn bờ. Nhận chén cháo lú hay hoàn hồn reo to chữ Freedom như ngày nào chính thức giã từ kiếp thuyền nhân.

Chuyến “sang ngang” ấy tối đen hơn mộ huyệt, chừng tám tiếng sau có người cúi mặt thấp xuống thăm dò sự hô hấp của tôi, mặt nạ dưỡng khí làm tôi trông lên không rõ hư thực một quang cảnh xa lạ, đầy hơi nước mù ẩm. Người ấy nói: Tôi tên Sylvie, y tá chăm nom bạn hôm nay, chúng tôi sẽ chuyển bạn lên tầng bốn, nằm ở phòng đầy đủ máy móc dụng cụ để dễ theo dõi tiến độ sức khoẻ bạn mang. Bạn thấy thế nào? Từ một tới mười, cơn đau của bạn đang ở lằn mức số mấy? Không cần nói, bạn dùng tay để ra dấu. Sylvie có mái tóc vàng, tôi chỉ nhận ra điều ấy trước tiên. Thật có hơi bất tiện nếu tôi di chuyển cánh tay trái, bởi ở đó còn ghim một mũi kim với ống nhựa chuyền nước biển. Tay phải tôi xoè cả 5 ngón, cộng thêm 3 ngón ở lần hai. Ô, vậy thì thuốc tê đã bắt đầu hết gây ảnh hưởng, hãy uống bốn viên này đi. Vừa morphin giảm đau vừa thuốc tăng lực, giúp chóng hồi phục.

Cửa thang máy mở. Một nam y tá cao to đẩy chiếc giường tôi nằm vào một diện tích quá đỗi rộng rãi. Sylvie theo cùng, cô ta cũng đẩy một cái bàn có bốn bánh xe đặt để hai cái máy hình thù kỳ lạ. Cô nhặt một tấm mền mỏng từ dưới giường, trải rộng rồi đắp vào người tôi. Trong bệnh viện dường như bao giờ cũng có một cơn gió lạnh vụt thoáng qua. Một ngày có mấy chục bệnh nhân câm lặng thay đổi chỗ trú thân? Từ “khách sạn 3 sao” này xuôi đổ về cái motel hoang lạnh mọc chơ vơ bên xa lộ, đưa mặt cho người ta tô son trét phấn như kiểu thủ tục làm đẹp để trình diện Diêm vương ngó sao cho tử tế?

Tôi nghĩ là bạn khỏi cần thở bình dưỡng khí nữa. Chừng nửa giờ sau, có người sẽ mang phim đặt dưới lưng bạn để chụp quang tuyến X. Sylvie nói khi phụ người y tá lực lưỡng cẩn trọng nhấc hỏng tôi đặt sang một chiếc giường khác, êm ái hơn, tươm tất hơn. Tối nay chúng tôi gồm ba người sẽ thay phiên vào xem chừng bạn, sợi dây này có cái nút nhựa đỏ, bấm nó chừng nào bạn cần tới sự giúp đỡ. Trong lúc này bạn ngủ được chừng nào tốt chừng đó. Tấm màn được kéo lại, bóng điện hạ độ sáng xuống sau khi Sylvie hý hoáy ghi vài hàng chữ vào tấm bìa cứng rồi máng nó gần đầu nằm. Cô bóp nhẹ vào vai tôi thế một lời tạm biệt.
Nửa khuya, chừng khoảng hai giờ sáng, tôi bị lôi ra cơn ngủ vùi do ảnh hưởng thuốc cứ mãi uống cách khoảng bốn tiếng. Một bóng trắng vừa lẻn vào, mang theo chút giá lạnh và bà mặc đồng phục y tá ấy đã vạch áo tôi thăm dò vết cắt cùng những đường chỉ khâu y như có một con rết mãi bám cứng, mãi hút máu, mãi truyền độc tố làm tê nhức. Đẹp. Ổn thoả. Chẳng sưng tấy. Bà từ tốn chậm rãi lau mặt cho tôi bằng chiếc khăn ấm áp vừa hấp tẩy xong. Bà dịu dàng điều chỉnh cho chiếc giường gấp lại để từ nằm tôi đổi qua thế ngồi, xong thì bà ôm lấy tôi vào lòng vỗ về, thì thầm nói hãy mơ tới một điều gì thật tốt đẹp, phải tự nhìn nhận rằng cuộc đời này vẫn còn đó những điều đáng yêu, dẫu nhỏ nhặt. Tôi dựa đầu vào vai bà, khứu giác ngửi ra một hương mùi quen thuộc, xa vắng. Tôi vòng tay ra ôm cứng lấy bà, tôi lục soạn trí nhớ và mơ hồ nghĩ rằng thân thể vừa kích ấy rất trùng hợp với mạ tôi. Bà nói bà biết tôi đang đắng miệng, vậy thì thèm ăn hoặc uống một thức gì cứ cho hay, khuya mai bà sẽ mang vô. Tôi có những cuốn truyện hay nhưng ngại là mắt người bệnh hẳn còn yếu, chưa nên đọc. Hãy nên thương mình trước khi yêu tha nhân. Hãy cố tĩnh dưỡng, bởi được đi lại bình thường là một món quà của thượng đế trao tặng cho mỗi chúng ta.

Những gì bà nói thoảng qua tai tôi có mãnh lực khiến căn phòng hồi sức này tự động biến sang vuông không gian ở Huế ngày cũ. Tự dưng tôi nhớ mạ mình đến muốn khóc. Trong đời, chỉ có mạ tôi mới quan ngại chăm lo kiểu đó, kỳ dư chẳng còn một ai. Lương y như từ mẫu hoặc y tá như mẹ hiền thì cũng nằm ở một chừng mực nào đấy thôi. Từ một tới mười, bà thương tôi ngang mức số mấy? Nếu có hỏi e rằng bà ấy chỉ xoè bàn tay đủ năm ngón là cùng. Mức trung bình. Vậy cũng nên xem là tốt phước.
Tôi chóng bình phục, tình trạng khả quan đến độ cả bác sĩ lẫn năm cô y tá thường theo dõi chăm sóc tôi cũng phải ngạc nhiên. Họ nhận xét: Thường thì người Á châu tuy thể lực không bằng dân Âu châu Nam Mỹ nhưng ngược lại, tinh thần của họ rất vững vàng, giỏi chịu đựng. Sự chịu đựng của bạn là phương thuốc quý, nhưng chúng tôi nghĩ, ngoài ra hẳn bạn phải nương vào một phép nhiệm mầu nào đó, khó giải thích. Họ thay phiên bắt tay tôi, chúc mừng ngày tôi trở lại sinh hoạt với nhân quần bên ngoài khuôn viên bệnh viện. Tạm thời quên chuyện mưu sinh đi nhé, chúng tôi sẽ viết giấy chứng nhận rằng bạn cần tĩnh dưỡng ít lắm là một tháng. Tháng sau nhớ vào lại đây cho chúng tôi xét nghiệm, một thủ tục cần có, chỉ vậy thôi.

Tôi thưa với họ là tôi chưa an lòng ra đi khi lỡ quên thốt lời cảm ơn chân thành đến một bà y tá. Ai vậy? Bà đó tên gì? Họ trố mắt nhìn tôi. Bằng vào sự ấp úng khi diễn đạt vừa tiếng Anh chen lẫn tiếng Pháp: Tôi thật vụng về quên hỏi tên bà ấy. Bà vẫn đến hằng đêm, vào khoảng hai giờ sáng, ôm ấp tôi, vỗ về tôi… Không biết tên, vậy thì nhân dáng bà ta ra sao? Mập, ốm, màu da, độ tuổi? Tôi cà lăm, phụ diễn bằng tay… rằng thì là tôi trông không rõ mặt, chỉ biết bà có một mái tóc đen… bà ngồi trên giường nên tôi cũng chẳng biết cao thấp ngang đâu… không ốm chẳng mập, đủ ôm vừa một vòng tay và người bà thơm thứ mùi nồng đậm tựa trầm hương. Cả ê-kíp vây quanh tôi, đứng nhìn nhau mặt nhăn mày nhíu, Sylvie là phát ngôn viên sau cùng: Mỗi ca trực chúng tôi đều ghi rõ tên họ, giờ giấc của từng y tá. Điều anh nói thì rõ là hoang đường, không riêng khu này, tôi e là khu lân cận cũng chẳng có một người y tá như anh vừa tả. Chúng tôi hy vọng là liều lượng thuốc mà chúng tôi trao anh uống suốt tuần lễ qua sẽ không gây cho bệnh nhân một ảo giác nào cả. Dù sao thì trường hợp này sẽ buộc chúng tôi nên lưu tâm. Vậy đi nhé. Chúc may mắn.

Về nhà, việc đầu tiên là tôi quét dọn bàn thờ, mua trái cây đặt lên, rót nước trà, thắp ba cây nhang cắm trước di ảnh đen trắng mạ tôi. Tấm ảnh duy nhất mà tôi có chụp mạ trong ngày cưới chị tôi. Chiếc áo dài nhung xanh rêu, đôi bông tai, cái vòng vàng quanh cổ, đầu tóc bối cao, đôi mắt đen láy, nụ cười đôn hậu hiền lành. Mạ tôi không thể hình dung được là có ngày đứa con út của bà vụng dại đi vào nghiệp viết văn. Tổn hao bao giấy mực nó chưa hề lắng lòng viết riêng cho mạ hắn một trang. Tôi nghĩ là chắc các bạn đọc cũng rộng lòng tha thứ cho lỗi lầm tôi mang. Khi đứng trước biển, bạn có tài cán gì để lột tả hết sự bao la vô bờ đến choáng ngộp mà con sóng từ ngàn trùng cứ mãi chuyên cần vỗ lao xao vào bờ, vào triền cát ẩm mơn trớn bàn chân trần mình đặt để, mỗi khi một lún xuống? Nếu bạn không có được sự ví von biển cả là lòng mẹ thì tôi xin thôi đối thoại cùng bạn. Chỉ một chuyện sau cùng xin bạn hiểu cho, mỗi khi gặp điều bất ưng khiến lòng sầu muộn tôi đều nhớ tới mạ mình để tìm quên. Ngay cả khi hoạn nạn bất ngờ đổ ập xuống, hình bóng mạ tôi là cái phao giúp tôi vượt qua gian khổ, kể cả vực tôi lên khỏi hai bờ tử sinh. Tôi quả quyết để thưa với bạn rằng: Bà y tá “vô danh” xuất hiện hằng đêm trong bệnh viện ấy, đó chính là mạ tôi.

Tôi đợi ba cây nhang cháy hết chiều dài nó mang, lụn tàn trong bát đựng gạo rồi mới “đi thưa về trình”: Mạ ơi, chừ thì đến giờ con vô phòng uống thuốc đã, mạ nghe!

Hồ Đình Nghiêm.

User avatar
macco
Posts: 3544
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image

Bà Năm Xóm Chợ Bà Chiểu.

Phan Đức Minh
Mấy hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ vì chỉ còn 1 ngày nữa thôi, sáng mai là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đình, sống với đứa con gái lớn đã sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 2 chục năm rồi. Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền 5, 6 trăm đô la mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà con, chòm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết. Bà già rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn 2,3 bửa rồi đi đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà thì mở Ti Vi , coi băng video cải lương , phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, Quận Bình Thạnh nơi đất Sài Gòn này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ… để kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.

Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo “Bà Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo gì đâu?“

Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài Gòn rồi còn chi nữa. Bảo đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài Gòn, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài lòng thòng…Thành Phố Hồ Chí Minh, nghe mệt thấy mồ.

Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài Gòn cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “loại thư Việt Kiều gửi về quê“, Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ, lương tiền nhà nước làm chi đủ sống. Chu cha! Đất Mỹ đẹp quá trời! Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li, một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh còn đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên nữa lận. Con Nguyệt nó bảo làm thủ tục bảo lãnh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả? – Băng Video phim Việt Nam, phim Tầu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể. Chẳng thiếu thứ gì. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà coi. Bà muốn đi Chùa hả? – Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả giò, đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ, chạy tưới hạt sen, lộn xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!

Mấy năm trước, khi Ông Cụ còn sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái là Ông chửi toáng cả lên: ”Không có đi đâu cả! Ở quê nhà với bà con, chòm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên không sướng hơn hay sao? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm?”

Thế nhưng từ ngày Ông Cụ mất đi, Bà Cụ thấy buồn buồn làm sao ấy. Thiếu người bầu bạn. Đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện ”Đi hay ở” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn thưc sự. Người già có cái tình yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người gia. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi còn gian nan về những phen chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một mình mà nước mắt rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá chừng chừng…

Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc 5 giờ. Bà Năm có 2 đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đã hơn 2 chục năm. Con Lan là thứ nhì mà cũng là út, lúc ấy còn bé tí ti. Bây giờ con Lan đã lớn tướng rồi, đã vào Đại Học và theo mấy khoá Tiếng Anh. Chị nó bảo ”Sang Mỹ, con Lan sẽ vào Đại Học, tha hồ mà học.” Con Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó còn thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy rằng đi Mỹ thì nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đã từng gắn bó với nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đã hơn 2 chục năm, mau dễ sợ! Nó tính trong đầu: sang Mỹ chịu khó mất vài 4 năm thì cũng lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài Gòn. Lúc đó là đi thẳng cái một, khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng, cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học lớp 12 với nó ở Sài Gòn, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng… danh lam, thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ… cho bõ ghét những ngày… con nít chẳng dám đi đâu hay làm cái gì…

Có tiếng xe "pin! pin!" ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở người đi… Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế! Mẹ con Bà Năm với mấy cái va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đã lên xe. Một số bà con thân thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đã từ từ lăn bánh.

Bà Năm cố nhìn lại cái xóm cũ đã gắn bó, sống chết với Bà từ bao nhiêu năm nay. Những dãy nhà hai bên đường phố chạy thụt lui lại phiá sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài Gòn quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.

Bác tài xế bấm còi "pin! pin!" khi tới chỗ ngã tư đông người lộn xộn làm con Lan giật mình khi còn đang ngủ gà, ngủ gật vì sáng nay nó phải dậy sớm. Xe qua cổng phi trường, vòng qua vòng lại rồi đậu phiá trước một ngôi nhà đông nghẹt những người.

Hai mẹ con Bà Năm đã lọt vào trong căn phòng ”cách ly” để lạï bên ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến độ sót sa. Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch túi, mất giấy tờ, tiền bạc như thiên hạ vẫn đồn đại, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà Năm đã già, lẩm cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời trăng, mây nước gì đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ chóe, bà hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con Lan hích hích cùi chỏ rồi thò tay bấm Bà ”Má để con!” Con nhỏ này nó học ở đâu mà bữa nay nó lanh … như quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an bằng những cái phong bì ”có nhân” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng còn coi ai ra gì cả. Công việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lão công an, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi ”Bà và Cô có đem theo đô la không?” – Thưa không! – Thế còn giữ tiền Việt Nam không? Con Lan lại hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái phong bì to bự đựng mớ tiền Hồ còn lại, đưa cho lão công an, miệng líu ríu ”Còn lại mấy trăm ngàn, xin biếu… đồng chí uống cà phê.” Lão công an phì cười khi nhét cái phong bì vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như người ta làm xiệc. Lão ta cười chắc là vì lão ta có đồng chí đồng choé gì với Bà Năm bao giờ đâu…

Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt vì khó chịu, nôn nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà Năm thấy phố xá, đồng ruộng quanh vùng Sài Gòn lu m, xa dần rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ còn là mây trắng xoá, mịt mờ…

Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh. Con Lan giương tròn đôi mắt nhìn Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó. Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nửa vòng trái đất đầu tiên và chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đã thấy nhớ món cá lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điã giá sống… Con Lan cứ ăn tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gẫy sừng bò còn được, huống hồ năm nay nó đã lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ vẩn vơ ”Nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá!” Mà không, con gái Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tầu, chợ Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún bò giò heo, bún cá, phở, mì, bánh canh, bánh xèo, chả giò, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy … lên tinh thần.

Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh tinh. Dễ sợ thật! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông từa tựa như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, hoạ hoằn mới cho chúng nó… giải lao nghỉ xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan ”Con ăn nhiều thế, mai mốt béo phị ra thì ai nó thèm lấy!” Con Lan phì cười ”Má đừng có lo ! Con biết hết trơn rồi.”

Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chứng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.

San Diego
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là phi
trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi. Con gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại nơi này. Người đâu mà đông thế? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời, bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài Gòn của bà tí nào. Đàn ông, con trai thì lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài Gòn đi ăn cưới.có người chỉ mặc có mỗi chiếc áo ”may-ô ba lỗ”, có người cởi trần trùng trục đi lại tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô, mấy bà hạng sang ở sài Gòn, nhưng có nhiều người lại mặc váy, quần cụt, ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai. Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên thì vú vê to nung núc, rùng rà rùng rình, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là … để ra ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại còn xẻ rạch lên một khúc nữa… Trông dễ sợ quá! Bà Năm không biết con gái mình, con Nguyệt nó có ăn mặc như thế này không? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế nữa thì không biết rồi ra làm sao? Liệu Bà sống nổi hay không? Tự nhiên Bà chặc lưỡi… kệ nó tới đâu thì tới, đã đến đất Mỹ thì cũng như… đã leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu còn được nữa. Thôi thì… cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem… đất Mỹ xoay vần tới đâu .

Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lý ra phiá ngoài. Còn đang ngơ ngác thì con gái Bà, con Nguyệt, đã la lên ”Má! Má Con đây nè!” Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như ”đầm” ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh ”Đây là chồng con. Đây là hai đứa cháu ngoại của Má! Và đây là bạn bè của con… ” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai …

Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bầy đồ đạc tùm lum tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn giầu lắm. Hai đứa cháu ngoại thì cứ nhìn Bà mà nói với nhau bằng thứ tiếng gì Bà không hiểu. Chắc là tiếng Mỹ! Vợ chồng con Nguyệt nói với Bà thì bằng tiếng Việt, còn khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.

Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm nước bầy ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài Gòn. Chúng nó lấy xe chở Mẹ con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.

Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ còn Bà với con Lan ở nhà, cái nhà rộng thinh rộng thang, phòng dưới nhà, phòng trên lầu, đủ kiểu. Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái phòng để ngủ, một phòng cho khách ngồi chơi, còn lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm đã lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành, chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được Chị nó dẫn đi học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ còn có một mình Bà ở lại với ngôi nhà to lớn rộng thênh thang mà thôi. Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn, cái buồn miên man khó tả. Con Lan đã chỉ cho bà cách bật Ti Vi bằng cái… bấm cầm tay. Bật máy lên thì Bà chỉ thấy toàn là đánh lộn, la hét um xùm. Bật sang kênh khác thì lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Bà ráng thử bật sang kênh khác nữa. Trời đất quỷ thần ! Một lão đàn ông, một mụ đàn bà ôm nhau cứng ngắc, hôn hít cứ y như là cắn nhau vậy thôi. Rồi cả hai… nhào lên giường vật lộn... hung hãn, trông mà phát khiếp, chi mà kỳ lạ ! Chán quá, Bà tắt máy chẳng buồn lắp phim, coi cải lương với lại chưởng Tầu.... Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ vịt. Mà nằm xuống thì đâu có ngủ được…

Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao mùa lạnh mới sang Bà đã thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài Gòn, Bà có thấy lạnh bao giờ đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo, trông to bự trác như hình vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở Ti Vi, Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, bão bùng, xe cộ tông nhau, người chết, nhà cửa tan tành… Ở Mỹ cái gì đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà.

Tối đến vợ chồng con Nguyệt mới đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về phòng người nấy, hay vợ chồng con Nguyệt lại lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. Còn có con Lan thì nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái Ti Vi để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét um xùm. Hình như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả mặt, đau cả đầu. Không thế thì nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế?

oOo

Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh. Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được Bà. Chỉ có con Lan về sau nó hiểu, nó hỏi ”Có phải ở đây Má buồn, Má không chuyện trò được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ Quê Hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ Bà Chiểu… nên má đau, má bịnh phải không?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chẩy hai hàng ”Sao Má không ở lại Việt Nam với chòm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má? Má không chịu đi Mỹ thì đâu con có đi! Con nhất định ở với Má cho đến khi nào Má… không còn nữa, Má đi với Ba cơ mà!” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức sót thương cho Mẹ, người đã suốt đời khổ cực vì chồng vì con, hình như chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính mình… Bỗng bà Năm tỉnh táo, vẫy tay cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay 2 đứa con gái, nói trong hơi thở nghẹn ngào ”Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi vì Má thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh vì mong cho nó được ăn học nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như Chị nó ở đất nước văn minh, giầu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp nhận… Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba con…”

Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn. Nguyệt đã chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đã không làm được một việc mà nhiều gia đình Việt Nam khác đã làm được. Đó là vợ chồng Nguyệt không để ý hay không làm được cái việc: dậy cho 2 đứa con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác thì Bà Năm đã có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện trò với hai đứa cháu ngoại mà Bà thương hết mình. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay vì chuyện trò như nhiều gia đình gốc Việt Nam khác, thì lại chỉ biết nhìn nhau như những người xa lạ ở đâu đâu ấy. Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để dấu đi những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đã từ giã tất cả để đến nơi đây sống với mình. Nguyệt thương Mẹ nhưng đã không hiểu được Mẹ. Bây giờ thì mọi sự đã trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một lần… Nếu 2 đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với nhau thì… Bà Năm không nói được nữa, Bà đã vĩnh viễn ra đi để được sống với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa…

Phan Đức Minh
(Đặc San Lâm Viên)

Post Reply