Những con bò sữa ...

Những đề tài nóng của Thời Sự. Các bài viết lượm nhặt trên Net ở nơi đây chỉ dùng để tham khảo không phải là chính kiến riêng của nhóm phụ trách.

Moderators: CayQueo, phu_de

Post Reply
dacung
Posts: 409
Joined: Tue Dec 13, 2005 6:26 am
Location: USA
Contact:

Những con bò sữa ...

Post by dacung »

Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés?
(Một ngày nào dó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con
lưu lạc - Chuyền từ anh NĐXuân)

Séb Ch. Leconte (Le Masque de fer)


Cách đây 32 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge, thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những nguời Việt Nam dầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền dó có thể tiên đoán được điều gì?

Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon, David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R. Haldeman, Stanley Karnow.

Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:
-Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?

Halberstam dáp:
-Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng ý chứ? Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.

Karnow:
-Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.

Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:

-Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?

-Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn nán lại dể cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.

Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:
-Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó chết' dó không chết phứt đi cho rồi.

Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi bọn người đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.

Chẳng bao lâu sau, dại sứ Martin đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công diện của H. Kissinger đánh đi như sau: "Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations! "

Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy tùng nhắn lại:

"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người ‘ vô tổ quốc’. Phải cởi bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì."

Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:

"Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."

Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hon 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.

Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng dến tức tưởi!

Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ dã có thể làm một điều như vậy. Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong dất liền đã thổi giạt họ ra biển...

Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.

Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi vùng kinh tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản", và cuối cùng "đi bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước. Tổng cộng dã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những người để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước
đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để làm ‘vệ sinh miền Nam ’ là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện hoặcđể trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình "ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure Program). Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme ) tóm tắt đầy đủ ý nghia tóm gọn trong một câu "Những con bò sữa thuyền nhân".

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm "nhổ sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Và để gợi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cu, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghia là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hon cả là Việt Kiều.

Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hon. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:

"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngu địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình." Số phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...

Về phía những người Việt Hải ngoại, xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào? Những nhà văn đã thay chúng ta nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn, niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập tho mỏng của Cao Tần nói lên đủ.

Vài câu tho góp nhặt đó đây để cùng nhớ lại:

Thù quê hương như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mui ngu ngo
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương


Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số 1, có bài phỏng vấn người nhạc si tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt Nam quá. Thương quá Việt Nam .” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người tuôn ra những câu tho ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:

Xin cúi đầu mình xuống
Khóc quê hương, trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu một phút
Nhớ anh em, sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu hận thù
Mong và chờ, về Việt Nam ước mo
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương
Đời hai lần ta bỏ que, bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về, ta chiếm lại quê huong
Ta phải về xây lại đời ta
Ta chống Cộng, ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm ngàn đồng hương
Mai nay rồi, ta về VN mến yêu.


Thời ấy nay còn đâu.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la tình nghia hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội Bài, chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé. Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là noi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ, cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại noi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, noi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng "thung lũng của ngành tin học".

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối. Những câu truyện do người lớn kể ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Phải chăng thời của họ đã hết? Họ bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái noi mình đi tới và cả cái noi mà từ đó mình đã ra đi?

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Năm xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hon nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ đô la. Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất mực in và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Sofitel Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào linh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu.

Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như "Tổ quốc Việt Nam , quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ." "Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước".

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam . Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam ."

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng." (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.)

Từ Sài Gòn ra biển đông (30/4/1975)

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 32 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là di vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền đô la từ mọi noi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghia hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một diều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc, choi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa choi đủ kiểu, đi điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu co đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, co quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hoi SUV. Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà "Làng Việt Kiều". Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ , Canada . Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California , có những hàng dừa cọ, những hồ boi với những hàng chữ tiếng Anh: "Welcome!" Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo.

Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth, Brigitte, Linda…. Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một si quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng com là Ngọc để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn có vòi tắm hoi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.
Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: "Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hon ở Hoa Kỳ rất nhiều." (2)

Thiệt là Việt Kiều.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố xanh" (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài goon, tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu. Nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ” , “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc, Mỹ Hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam , khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm i cả lên. Anh bực tức nói: Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.

Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành một mẩu trong Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam , mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ. Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt Nam . Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam , anh cũng không có ý ở hẳn VN.. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hang khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.

Nguyễn Anh có hoi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam , nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam "Xem thể thao" chứ không choi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công an việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự choi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.

Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn choi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết choi, vì ở đó có sân choi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng. Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để choi Golf. Choi đâu chả được. Phí tiền nữa. Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

Nói gì thì nói, nghi gì thì nghi. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cu: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy. Những vị lãnh đạo trong nước thì nghi rằng:

Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được. Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ nghĩa Cộng Sản ra biển?

Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra. Ðó là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam – 2006"?

Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết.

Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào thì còn chưa nói hay được. Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường. Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản lừa phỉnh.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

DO NHU CẦU QUỐC DÂN ÁP LỰC QUỐC TẾ ASEAN THÀNH LẬP ỦY BAN NHÂN QUYẾN
LÝ ĐẠI NGUYÊN









Hội nghị cấp Ngoại Trưởng lần thứ 40 của ASEAN khai diễn ngày 30-07-07 tại thủ đô Manila của Philippine đã quyết định đưa vấn đề Nhân Quyền vào dự thảo Hiến Chương ASEAN, nhằm xây dựng một cộng đồng vững mạnh, chia xẻ, hỗ trợ nhau, để tiến tới hình thái sinh hoạt như Liên Hiệp Âu Châu hiện nay. Chi tiết về quyền hành của Ủy Ban Nhân Quyền sẽ được hoàn tất sau, để trình hội nghị các Nguyên Thủ Quốc Gia của Khối vào tháng 11 năm nay ở Singapore. Ngay trong buổi họp đầu tiên, các vị bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên đã đồng ý thành lập một cơ cấu mang tên Ủy Ban Nhân Quyền ASEAN. Mặc dầu trước đó, Miến Điện cực lực phản đối. Còn Lào, Kampuchea và Việtnam lên tiếng là, họ chưa sẵn sàng, nhưng cuối cùng họ đành phải nhượng bộ trước áp lực của các thành viên khác. Thế là sau 40 năm Khối ASEAN mới tự phá vỡ nổi lớp vỏ bọc khô cứng của nguyên tắc “không can thiệp vào nội bộ của nhau”. Tuy nhiên Khối ASEAN cũng chưa có biện pháp nào để đối phó với trường hợp vi phạm nhân quyền trầm trọng của chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện.



Miến Điện vẫn bị cho là một nước “hung đồ” trong mắt các nước phương Tây về những hành động vi phạm nhân quyền trầm trọng. Chính vì vậy mà Hoa Kỳ và EU đã tăng cường cấm vận triệt để với nước đó. Vì thế, 2 năm liên tiếp, ngoại trưởng Mỹ, Condoleezza Rice đã không tham dự hội nghị an ninh Á Châu do ASEAN tổ chức. Năm nay Mỹ cử thứ trưởng ngoại giao John Negroponte thay thế. Ngay cả tổng thống Mỹ, Geoger W. Bush cũng đã tỏ dấu không đi dự hội nghị thượng đỉnh của khối vào tháng 11 này. Điều đó làm cho dư luận nghi ngờ là Hoa Kỳ lạnh nhạt với ASEAN, để cho Trung Cộng mặc sức thao túng toàn vùng. Nhất là trong khi đó ngoại trưởng Úc, Alexander Downer tại diễn đàn an ninh Á Châu tổ chức tại Philippine hôm nay 31-07-07 đã lên tiếng hối thúc Trung Cộng và Ấn Độ làm áp lực để chính quyền quân nhân Miến Điện, ngưng vi phạm nhân quyền, và trả tự do cho các nhân vật chính trị đối lập. Vì Miến Điện bị quốc tế cô lập, họ đang lệ thuộc rất nhiều vào các khoản viện trợ và đầu tư của 2 nước này. Như vậy lại càng làm tăng thêm mối nghi là Hoa Kỳ bỏ rơi ASEAN. Măc dù trước đó, chính Trung Cộng đã kêu gọi Hoa Kỳ tiếp giúp xây dựng Dân Chủ Miến Điện.



Như vậy, phải chăng Trung Cộng đang có cơ hội bành trướng ảnh hưởng chính trị, kinh tế và quân sự trong khối ASEAN? Mới nhìn thì hình như thế, nhưng suy nghĩ cho chín thì biết đâu, đây chẳng là cơ hội để dân chúng và chính khách các nước ASEAN trực tiếp nếm mùi cho biết, thế nào là một cuộc chơi thắm thiết mà độc hại với Đế Quốc Trung Cộng? Để rồi sẽ phải trả cái giá như Thái Lan, bằng một cuộc đảo chính Thaksin Shinawat, một thủ tướng cật ruột của Trung Cộng, đã mở rộng cánh cửa thị trường Thái cho sản phẩm nông nghiệp Trung Cộng vào đè bẹp trái cây vốn nổi tiếng của nước Thái. Nhất là lúc này, những sản phẩm của Hoa Lục bị khám phá có chứa nhiều độc chất, đang bị thị trường Âu - Mỹ tẩy chay, sẽ được dịp đổ xuống vùng Đông Nam Á một cách vô tội vạ. Chính vì vậy đã khiến cho các nước ASEAN tỏ ra lo ngại trước thái độ lạnh nhạt của Mỹ. Và biết đâu đây chẳng là một áp lực cuối cùng buộc các lãnh tụ ASEAN phải tích cực đặt vấn đề Nhân Quyền lên hàng ưu tiên trong cuộc họp Hội Nghị Ngoại Trưởng mới đây. Thực tế, Trung Cộng cũng hiểu, dù gì, họ cũng không đủ khả năng một mình một chợ chiếm trọn thị trường béo bở tại đây.



Hơn ai hết, Trung Cộng phải biết đối thủ của họ trong vùng này là Nhật với Ấn và luôn luôn có chàng khổng lồ Mỹ ở sau lưng. Mỹ lờ lững với ASEAN, vì khối này vẫn chỉ là nắm cát rời, không dại gì hăm hở để chộp lấy, vừa dễ bị tuột tay, vừa bị oán ghét. Cho nên Hoa Kỳ đã áp dụng một đường lối thực tiễn hơn, đó là đi thẳng vào từng nước Á Châu, và sẽ tìm cách ngắn nhất để đến được với chính “chủ nhân ông” của các nước đó là Người Dân, qua cao trào Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, mà tổng thống Geoger W. Bush đã chính thức tuyên bố tại diễn đàn Dân Chủ Praha là, yêu cầu ngoại trưởng Rice chỉ thị cho tất cả các Đại Sứ Hoa Kỳ ở những quốc gia thiếu tự do: “Phải tìm gặp những nhà hoạt động dân chủ. Tìm đến những người tranh đấu nhân quyền”. Riêng với các Quốc Gia Dân Chủ giầu mạnh như Nhật, Ấn, Úc thì Hoa Kỳ tích cực tăng cường quan hệ chiến lược phòng thủ chung để “chống khủng bố, ngăn bành trướng”, nhằm bảo đảm an ninh trong vùng Á Châu Thái Bình - Ấn Độ Dương. Mỹ đã vừa ký với Ấn về chương trình hơp tác nguyên tử. Chính nhờ vậy, dù Trung Cộng vẫn nuôi mộng bành trướng mà chưa dám lộ liễu. Chúng chỉ hiếp đáp Việt Cộng để tranh phần làm chủ vùng dầu khí Trường Sa, với hy vọng lấy đó mặc cả với Mỹ để trao đổi với số phận của bọn đàn em còn ngồi trong Bộ Chính Trị Việt Cộng.



Thực ra, nếu ở trong chỗ riêng tư, tâm tình mà hỏi, từ Nông Đức Mạnh trở xuống tới các đảng viên Việt Cộng thường, về việc: Nếu buộc phải chọn Mỹ hay Tầu Cộng? Chắc rằng cả đám sẽ có câu trả lời thủ thỉ thì thầm là chọn Mỹ. Thế nhưng đi với Mỹ thì phải Dân Chủ Hóa chế độ, để hội nhập với toàn cầu, làm gì còn có cơ hội cho họ lạm quyền tham nhũng, bóc lột dân oan. Nên họ vẫn muốn dựa vào Trung Cộng để yêu sách với Mỹ, nhằm củng cố cộng đảng mà bám ghế. Mới đây, một hội nghị cấp cao giữa Tô Huy Rứa ủy viên Trung Ương Việt Công với người tương nhiệm của Trung Cộng là Lưu Văn Sơn tại Quế Dương Trung Hoa về lý thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa. Xem ra, Việt Cộng vẫn muốn cố gắng bám lấy thứ chủ nghĩa chết tiệt ấy. Nhưng thái độ của tổng thống Bush trong dịp gặp Nguyễn Minh Triết đã cho thấy, ông Bush quyết thực hiện chính sách Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền ở Việtnam. Trong khi đó Trung Cộng buộc phải buông đàn em Bắc Hàn để được Nam Hàn và Mỹ cưu mang. Đến bọn quân phiệt Miến Điện, Trung Cộng cũng không dám giữ độc quyền. Bởi vậy số phận của những người như Nông Đức Mạnh- tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng- chủ tịch quốc hội, Nguyễn Khánh Toàn- thứ trưởng công an và bọn đàn em Trung Cộng, giống như chỉ mành treo chuông.



Trong khi đó nhiệm kỳ của đại sứ Mỹ tại Hà Nội, Michael Marine kết thúc, ông này trước kia vốn là phó đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh Trung Cộng. Những năm ông làm Đại Sứ Mỹ tại Việtnam đó là sự biểu hiện chính sách ngoại giao của Mỹ về Việtnam, là phải nắm vững được những mối tương quan nhân quả giữa Việt Cộng và Trung Cộng, để Mỹ tùy duyên ứng xử. Đến giai đoạn mới này, tổng thống Bush bổ nhiệm ông Michael Michalak, người từng làm phó đại sứ tại Tokyo Nhật Bản, hiện là nhân viên cao cấp của Mỹ tại tổ chức APEC, vào chức vụ tân đại sứ Mỹ tại Hà Nội. Điều đó chứng tỏ chính sách ngoại giao Mỹ tại Việtnam sắp tới, hướng về phía Nhật Bản hơn là Trung Cộng. Phải chăng mối quan hệ Mỹ - Tầu về Việtnam đã ngã giá? Phải chăng cũng chính nhờ thế, mà Việt Cộng phải ngậm bồ hòn làm ngọt để cho ASEAN thành lập Ủy Ban Nhân Quyền? Đúng là: “Biết buông thì sẽ được”.



Little Saigon ngày 31-07-2007.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Cựu TT Nguyễn văn Thiệu đã nói một câu nhớ đời"

"Đừng nghe những gì cộng sản nói,
mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm"
Mời các bạn đọc một bài hay:

------------------------------------------------------------------------



Về làm ăn tại Việt Nam phải trả một cái giá khá đắt
James Hookway
Khánh Đăng lược dịch

“…nỗi tức tưởi của ông Nguyễn là một điển hình của những mối hiểm nguy lớn dành cho các nhà đầu tư ngoại quốc đang đổ dồn vào Việt Nam…”



Khi doanh nhân người Mỹ tên Hoan Nguyễn đến Việt Nam cách đây một thập niên với những dự án để xây dựng một ngôi trường quốc tế, thì ông ta nói rằng ông ta rất phấn khởi với niềm hy vọng cho nơi chôn nhau cắt rốn của ông

Nhưng hồi năm ngoái ông đã phải nằm trên một cái chõng ẩm ướt trong nhà tù B14 tại Hà Nội sau một vụ tranh chấp trong việc làm ăn với các đối tác của nhà nước Việt Nam, và vụ đó trở thành một cuộc điều tra của công an với ông Nguyễn là nghi can chính.

Những nỗi tức tưởi của ông Nguyễn là một điển hình của những mối hiểm nguy lớn dành cho các nhà đầu tư ngoại quốc đang đổ dồn vào Việt Nam, nơi mà nền kinh tế tăng trưởng ở mức hơn 8 phần trăm một năm và được các nơi đánh giá là một thị trường mới xuất hiện, nóng bỏng nhất trong thế giới thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Ðộ. Niềm đau của ông Nguyễn cũng cho thấy các cơ quan hoặc cán bộ viên chức của nhà nước Việt Nam đôi khi họ có thể dùng những mánh lới cứng rắn để đạt được điều họ muốn khi chuyện làm ăn bị đổ bể.

Nằm tù 14 tháng trong khi chờ công an điều tra sự việc, ông Nguyễn phải nghe đài của nhà nước Việt Nam oang oang mỗi buổi sáng trong sân nhà tù với các xướng ngôn viên thúc giục người Việt hải ngoại trở về để bồi đắp vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của đất nước.

Ông bảo rằng “Thật là ngẫu nhiên. Tôi làm chính xác như điều nhà nước Viêt Nam muốn và cuối cùng thì vào tù.” Ông Nguyễn năm nay 58 tuổi, được thả ra hồi tháng 6 và bây giờ đang ở Hà Nội để chờ phán quyết cuối cùng về trường hợp của ông ta.

Ông Nguyễn nói rằng, trong thời gian nằm trong nhà tù, ông chỉ được gặp luật sư có 2 lần trong thời gian đó và tố cáo rằng ông ta đã bị một nhân viên công an đánh đập. Ðồ ăn trong tù thì được rất ít. Ông Nguyễn cho biết, trong dịp Tết, ông chỉ được cho ăn có một miếng thịt gà nhỏ xíu và một khẩu phần cơm mỗi ngày như thường lệ. Các viên chức công an thì không muốn nói gì về việc giam giữ ông Nguyễn.


Ê chề


Rồi thì sau khi ông Nguyễn đã ngồi tù được 14 tháng mà không bị buộc vào tội danh nào, gia đình của ông ta phải trả 85 ngàn Mỹ kim mà nhà nước Việt Nam bảo là tiền thế chân, công an Việt Nam kết luận trong bản báo cáo sơ khởi là không có bằng chứng rõ rệt nào để đưa ông Nguyễn ra tòa và thả ông ra. Tiền thế chân chưa được hoàn trả. Và ông Nguyễn vẫn đang chờ đợi xem các công tố viên Việt Nam có quyết định chính thức để buộc ông vào bất cứ tội danh nào hay không.

Sau hàng thập niên dưới sự cai trị của Cộng sản, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn quá yếu kém để có thể áp dụng vào việc giải quyết các vụ tranh chấp làm ăn tư nhân, mà thường ở các quốc gia với nền kinh tế thị trường đã được ổn định thì các vụ tranh chấp này được giải quyết bởi các cơ quan độc lập.

Vậy thì khi không có sự bảo chứng từ các toà án dân sự, những người khiếu kiện có thể mang những khiếu nại của họ đến thẳng cho công an, và công an có thể giam giữ các nghi can đến hàng tháng trời mà không cần phải đưa ra một cáo trạng nào đối với các nghi can này. Trong những trường hợp điển hình khác, nhà nước Việt Nam đã dùng quyền hành của họ để tước đoạt các cơ sở kinh doanh tư nhân, không cho các chủ nhân một chút hy vọng nào để tìm lại công lý nơi các toà án.

Ông Tony Foster là đồng giám đốc của một cơ sở tại Việt Nam thuộc công ty luật Anh quốc Freshfields Bruckhaus Deringer, nói rằng một trong những điều hợm hĩnh của nền luật phápViệt Nam - một cái đống lôi thôi lộn xộn giữa luật lệ nội địa và luật lệ du nhập từ nước ngoài – là trong đó có cả một số các quy định rất chung chung về các tội hình sự, mà các quy định này có thể dùng để áp dụng cho một cơ sở kinh doanh.

Một trong những tội này là “quản lý kinh tế sai lạc” làm thất thoát tài sản nhà nước. Ông Foster cho biết rằng một cơ sở kinh doanh ngoại quốc có hợp đồng làm ăn chung với một cơ quan nhà nước có thể bị kết tội hình sự nếu họ vướng mắc vào một vấn đề quản trị đơn thuần, đưa đến trường hợp bị kết vào tội chính trị.

Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã nhận thức trong một cuộc phỏng vấn rằng đất nước của ông ta cần phải cải tổ hệ thống luật pháp cho thích hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng theo những người gần gũi với quyết tâm cải tổ hệ thống luật pháp của Việt Nam thì việc này sẽ phải mất một thời gian đáng kể. Sự thúc đẩy việc cải tổ đã được thực hiện trong nhiều năm qua, ngoài những vấn đề khác thì còn lại là chú tâm vào việc tạo một sân chơi công bằng cho giới kinh doanh trong lẫn ngoài nước.

Cùng lúc đó, thì các vụ tranh chấp kinh doanh và vi phạm luật lệ bị vốn coi như là các tội hình sự thì tiếp tục chồng chất.

Hồi năm ngoái, 4 nhà kinh doanh người địa phương của chi nhánh Việt Nam thuộc ngân hàng ABN Amro Holding NV của Hoà Lan đã bị bắt giữ sau khi công an Việt Nam buộc tội họ là đã thực hiện một số vụ mua bán ngoại tệ với một nhân viên không có thẩm quyền của ngân hàng nhà nước, làm nhà nướcViệt Nam bị thất thoát 5 triệu đô la. ABN Amro phải trả cho nhà nước Việt Nam 4,5 triệu đô la hồi tháng 11 để cho nhân viên của họ được thả, bây giờ thì 4 nhà kinh doanh dịch vụ ngân hàng này được tự do hành nghề và đi lại trong nước. Nhưng cuộc điều tra về các hành vi của nhân viên ngân hàng ABN Amro này vẫn chưa được huỷ bỏ. Trước đó, một nữ phát ngôn viên cuả ABN Amro đã bác bỏ bất cứ hành vi sai trái nào của nhân viên họ tại Việt Nam.

Các ngân hàng ngoại quốc khác đã viết thư cho nhà nước Việt Nam để phản đối các hành động của công an, than phiền rằng dưới luật pháp của Việt Nam thì việc buộc tội hình sự cho các tranh chấp dân sự quá ư là dễ dàng.

Một cuộc tra cứu của nhà nước vào năm nay đã kết luận rằng các ngân hàng Việt Nam không tiến hành đúng đắn quy trình mua bán ngoại tệ.

Những người Việt hải ngoại trở về tham gia vào hành trình của Việt Nam để tiến ra khỏi nền kinh tế tập trung, đã kém thành công hơn hầu hết các nhà đầu tư ngoaị quốc khác. Nhiều người, trong đó có ông Nguyễn, than phiền rằng tư cách pháp luật của họ bị yếu thế vì nhà nước Việt Nam ngần ngại không coi họ như những người nước ngoài, mặc dù họ là những công dân hợp pháp của các quốc gia khác. Thí dụ như một trong những lý do mà công an giam giữ ông Nguyễn trong tù hơn một năm, theo những người đang theo dõi sâu sát vụ này cho biết, là để điều tra xem ông Nguyễn có nhận một cách bất hợp pháp bảo hiểm y tế dành riêng cho các nhân viên người nước ngoài làm việc cho Trường quốc tế Hà Nội mà ông ta đã giúp để tạo dựng hay không – mà không quan tâm đến việc ông Nguyễn là một công dân mang quốc tịch Hoa Kỳ.

Ðể cho ăn chắc, một số người Việt hải ngoại đã có vẻ coi thường luật pháp của Việt Nam trong quyết tâm làm giàu, gây hại đến uy tín của những người Việt hải ngoại khác –còn được gọi là Việt kiều – là những người trở về để làm ăn trong những doanh nghiệp đàng hoàng. Trong một vụ khá nổi tiếng, doanh nhân người Pháp Nguyễn Gia Thiều tạo dựng một cơ sở làm ăn với người em để buôn bán điện thoại di động hiệu Nokia và Samsung. Vào năm 2003, công an đã bắt giữ ông Thiều vì bị cáo buộc là đã buôn lậu điện thoại di động vào Việt Nam để tránh không phải đóng thuế nhập cảng. Sau đó ông ta đã bị kết tội và tuyên án 20 năm tù.

Trong khi đó thì ông Nguyễn vẫn đang cố gắng để minh oan cho mình.

Là một người đàn ông với một mái tóc bạc dầy và các bằng cấp từ hai trường đại học Vanderbilt và George Mason ở Hoa Kỳ, Nguyễn Ðình Hoan rời Việt Nam từ thập niên 1960s và không trở về quê hương trong hàng chục năm vì chiến tranh và tình hình chính trị rối rắm Giống như nhiều người Việt hải ngoại khác, ông ta đã thay đổi tên từ sau ra trước theo như cách của người Tây phương, và trở thành Hoan Nguyễn.

Cuối cùng thì vào năm1995, ông ta đã trở về với các kế hoạch để thiết lập một ngôi trường quốc tế để phục vụ cho gia đình của những người ngoại quốc lúc bấy giờ đang bắt đầu ồ ạt đến Việt Nam. Ông Nguyễn lập ra Trường quốc tế Hà Nội với sự hợp tác của Trung tâm Giáo dục nhà nước Việt Nam vào năm 1996. Nhà nước cung cấp một hợp đồng 20 phần trăm thuê mướn trên một mảnh đất mà bây giờ rất có giá gần trung tâm Hà Nội, để lấy về 30 phần trăm lợi tức trong nghiệp vụ này.
Khi mà trị giá của miếng đất mà ngôi trường được xây trên miếng đất đó gia tăng, thì căng thẳng giữa ông Nguyễn và các đối tác của ông ta cũng tăng theo. Theo báo cáo của công an điều tra thì vào tháng 4 năm 2006, công an đã bắt giữ ông để điều tra việc đối tác nhà nước tố cáo rằng ông đã nhận bảo hiểm y tế một cách bất hợp pháp, và việc ông bị cáo buộc là đã thuê mướn lậu một người trợ tá riêng để giúp ông trong một doanh nghiệp giảng dạy Anh ngữ riêng biệt.

Thân nhân của gia đình ông bà Nguyễn cho biết là, trong khi ông Nguyễn đang nằm tù, thì Toà Ðại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã khuyến cáo vợ ông Nguyễn là không nên đi về Việt Nam để cố tìm cách lấy lại tự do cho chồng bà, bởi vì họ không thể nào bảo đảm cho sự an toàn của bà tại đây.

Hồ Ngọc Ðại [*], cựu giám đốc Trung tâm Giáo dục của nhà nước Việt Nam, là đối tác của ngôi trường quốc tế này, và là con rể của một cựu Tổng bí thư đảng, đã gọi ông Nguyễn là “một tên ăn cắp” nhưng từ chối không chịu giải thích lý do tại sao hắn ta chắc chắn ông Nguyễn là một tội phạm, và không muốn nói nhiều thêm về vấn đề này.

Ông Nguyễn vẫn nhất mực nói rằng ông ta không hề làm điều gì sai cả - và tiền lương trả cho người trợ tá riêng của ông được chia đôi giữa nhà trường và cá nhân ông ta

Vào tháng 6, sau khi ông Nguyễn được thả ra, thì trường hợp của ông được đưa lên bàn làm việc của thủ tướng Việt Nam là Nguyễn Tấn Dũng, nguyên là một cựu thống đốc ngân hàng trung ương với một uy tín về tính thẳng thắn. Theo báo Công an Nhân dân thì Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo cho các thành viên người Việt trong ban giám đốc nhà trường phải giải quyết ngay những tranh chấp giữa nhà trường với ông Nguyễn, nếu không xong thì nhà nước sẽ ra tay với những quyết định riêng.

James Hookway
Nguồn: Wall Street Journal, ngày 14/08/2007
Khánh Ðăng lược dịch

[*] Hồ Ngọc Đại: con rể ông Lê Duẩn, là kẻ đã moi tiền bạc triệu từ ngân sách nhà nước qua các dự án cải cách giáo dục của cái gọi là Trung Tâm Công Nghệ Giáo Dục. Không biết ai là "một tên ăn cắp" đây?(BBT)

http://www.thongluan.org/vn/modules.php ... e&sid=2033

-------------------------

Post Reply