Anh Hùng Dân Tộc

Những bài viết về anh hùng chống giặc Tàu xâm lăng của dân tộc Việt Nam
User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Anh Hùng Dân Tộc

Post by khieulong »

Mê Linh Quật Khởi
Dựng Nền Độc Lập Triều Đại Trưng Vương
Trong tâm khảm người Việt chưa ai quên được 80 năm dưới chế độ Thực dân Pháp dân tộc ta đã chịu biết bao nhiêu thống khổ dưới gót giày xâm lược. Thực dân tha hồ bắn giết, nhiều làng bị san bằng như làng Cổ An ở Hải Dương năm 1932 trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam.
Người dân đói khát khổ cực, miếng cơm không có ăn, manh áo không có mặc. Chúng bóc lột bằng mọi thứ thuế, trong đó có cả thuế thân! Muốn sống cuộc đời trâu ngựa ai cũng phải đóng thuế!
Và dưới chế độ độc tài, thế hệ chúng ta đã chịu bao nhiêu điêu linh cay đắng! Sống chết nhờ họa, phúc, bất trắc đọa đày.
Đấy là những người cầm quyền cùng nòi giống Việt , nói chi đến chế độ cai trị trực tiếp trăm lần khắc nghiệt của thực dân phương Bắc trong gần 250 năm , từ 207 trước TL đến năm 40 sau TL, là năm hai chị em bà Trưng phất cờ khởi nghĩa lấy lại độc lập cho đất nước.
Trong thời gian đen tối đó, quan cai trị người Tàu, lính tráng người Tàu mặc tình chém giết, vơ vét của cải, người dân Việt nghèo đói, túng thiếu đến nỗi trai gái lớn lên không có tiền để cưới hỏi. Hình ảnh những người Việt phải xuống sông, xuống biển mò ngọc trai, lên rừng tìm ngà voi, sừng tê giác nộp cho bọn Thứ Sử, Thái Thú ... để chúng đem về triều cống vua Tàu và bỏ túi riêng làm giàu trên xương máu người bản xứ.
Chúng ta thử tưởng tượng thời xa xưa ấy quận Giao Chỉ có 746.217 người, quận Cửu Chân có 166.013, tức từ miền Bắc tới Quảng Bình dân số vỏn vẹn chưa tới 1 triệu (912.230 người), đất đai, sông ngòi còn hoang rậm. Thú dữ như cọp, báo, chó sói, tran, rắn ... tràn ngập trên rừng, cá sấu, cá mập lúc nhúc dưới sông, dưới biển thì những người phải đi tìm châu báu nộp cho quan lại Tàu mấy người được toàn thân trở về.
Những chuyện truyền khẩu trong dân gian kể lại cho tới bây giờ việc quan lại Tàu giàu có khi về nước của cải đem theo không hết phải đào hầm chôn giấu và bắt các trinh nữ người Việt trói chặt ngồi trên ghế, miệng ngậm sâm nhốt trong hầm làm ma khô giữ của cho chúng (chúng sẽ để lại họa đồ cho con cháu sang lấy).
Chính sự tham lam tàn bạo ấy dến thời Tô Định đã lên cao tới cực điểm làm dân chúng oán hờn và những người nặng lòng với dân với nước căm giận nổi lên khắp nơi.
Ngoài gia đình Trưng Vương ở Mê Linh và ông Thi Sách ở Châu Diên còn có ông Trương Quân ở Thái Bình, ba anh em ông Cao Doãn ở Lai Tảo Hà Đông, ông Nguyễn Nga ở Tuy Lai. Khi thấy lòng dân đã lên cao độ, ông Thi Sách, một người khí phách và nhân hậu ở Châu Diên (nay là Sơn Tây và Vĩnh Yên) viết thư kể tội Tô Định: “Lúc nào cũng bô bô nói chuyện thương dân thế mà tấm lòng bóc lột kẻ dưới càng ngày càng dữ. Rán mỡ dân để thỏa lòng dục ...” và ông cảnh cáo: “Nếu không sửa đổi chính sách cho rộng rãi thì sẽ nguy vong đến nơi đãy!” (Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên Q1, trang 172).
Những kẻ bạo ngược từ xưa đến nay không bao giờ nghe lời nói phải. Ông Thi Sách sửa soạn lực lượng để khởi binh nhưng trong một lúc sơ hở bị Tô Định bắt và đem giết.
Bà Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhì lên thay quyền phát hịch gửi đi khắp Châu quận kêu gọi khởi nghĩa được hào kiệt các nơi hưởng ứng đem quân về hợp lực.
Cũng nên nhắc lại, hai Bà Trưng là con một vị lạc tướng ở Mê Linh mồ côi cha sớm, được mẹ là bà Thiện dòng dõi vua Hùng (Sử Tàu ghi là Man Thiện cũng như họ kêu bà Triệu thị Trinh là Triệu Ẩu. Không hiểu sao những người viết sử ở Việt Nam cũng ghi như vậy?) nuôi nấng, dạy dỗ, hai Bà trở thành những người đảm lược, có ý chí và lòng độ lượng. Tương truyền chính bà Thiện là người đứng ra chuẩn bị cuộc kháng chiến ngay từ đầu. Khi chuẩn bị xong bà giao cho con rể là ông Thi Sách và con gái là Trưng Trắc và Trưng Nhì. Hổ mẫu sinh hổ tử! Những người xứng đáng là giòng giõi của các vua Hùng! Vì vậy gia đình Trưng Vương được toàn dân tin tưởng, mến mộ.
Khi hai bà khởi binh trong tay vỏn vẹn có hai ngàn nghĩa sĩ nhưng chỉ trong thời gian ngắn, anh hùng hào kiệt từ các nơi kéo về, quân lên tới 60 ngàn người. Dân số nước ta lúc ấy khoảng 1 triệu mà có tới 60 ngàn người tình nguyện, nhập ngũ, chứng tỏ lòng dân căm phẫn nô nức đánh giặc để lại quyền độc lập, tự do như thế nào.
Lễ xuất quân tổ chức tại bến Nam Nguyên. Hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp, che lọng vàng cầm gươm thúc đại quân đánh thẳng vào Liên Lâu, bản doanh của Tô Định bên bờ sông Nhuệ thuộc Hà Đông. Hiện nay ở giữa Lương Sơn và Mỹ Đức tỉnh ấy còn dãy núi được kêu là núi Vua Bà. Liên Lâu thất thủ, Tô Định và bọn quân Tàu chạy thoát về Nam Hải, tức đảo Hải Nam bây giờ.
Thừa thắng, quân của Hai Bà tiến như vũ bão giải phóng đất nước. Chẳng bao lâu hơn 60 thành trì treo cờ độc lập. Hai Bà lên làm vua đóng đô ở quê nhà Mê Linh, nay thuộc tỉnh Phúc Yên dựng nên triều đại Trưng Vương.
Lên ngôi xong thấy đất nước điêu tàn, nhân dân thống khổ sau bao nhiêu năm sống trong nô lệ: cha mất con, vợ mất chồng, con côi bơ vơ đói khát , hai Bà cho giảm binh để thanh niên trở về cùng với mọi người lo xây dựng đất nước cốt cho nhân dân sớm được hưởng cảnh thái bình thịnh trị của tổ tiên như đã được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Tiền Biên: “Nước Nam về dời Lạc Hồng, vua dân cùng cày ... Dân sống đời bấy giờ cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét, không nóng. Người già thì chết, người trẻ đến lúc già không biết đến việc đánh nhau. Có thể gọi được là đời chí đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì yên vui như tượng Phật. Dân thì vẽ mình làm ăn không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì phải canh phòng. Vua, dân thân nhau, dẫu vài ngàn năm cũng không thay đổi.”
Nhờ ân đức của hai Bà, già trẻ trai gái vui vẻ chăm lo trồng trọt chăn nuôi, cây cỏ tươi tốt, chim muông nhởn nhơ vui hót ca ngợi cảnh thanh bình.
Nhưng cảnh sống yên vui đó chẳng được bao lâu vì bọn thực dân phương Bắc rắp tâm phục hận. Tháng Chạp (11) năm 41 Hán Quang Vũ sai Mã Viện và Đoàn Chí, Lưu Long đem 20 ngàn quân sang Việt Nam. Cái gương Tô Định còn sờ sờ trước mắt nên lão luyện như Mã Viện mà còn run sợ. Chúng không dám đường đường, chính chính xuất quân mà phải âm thầm chặt rừng phá núi hàng ngàn dậm từ Quảng Đông qua miền Lạng Sơn vào nước Việt. Thủy quân của Đoàn Chí tiến sang song trên nhánh Bắc sông Thái Bình để hai bên yểm trợ cho nhau. Khi đoàn quân xâm lăng tới Tây Lý, một địa điểm ở giữa Mê Linh và Hà Nội thì bị quân của hai Bà chận đánh kịch liệt làm Tô Định phải lui về Lãng Bạc vùng Tiên Du (Bắc Ninh).
Nữ tướng của hai Bà là Thánh Thiên Công Chúa đem binh tới đánh mấy trận giết cả ngàn quân Hán làm Mã Viện phải lui về cố thủ ở Bắc Giang xin tiếp viện và chờ hậu quân tiếp viện. Mặt khác Mã Viện dùng kế nghi binh giả đưa binh lên đánh vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang. Thánh Thiên Công Chúa đem quân lên cứu viện miền thượng du.
Mã Viện thấy lực lượng của hai Bà bị phân tán liền tiến về Lãng Bạc, hai Bà thân chinh cầm quân chiến đãu. Quân Nam chiến đãu rất hăng nhưng trước quân thù quá đông đảo đành thất bại. Hai Bà lui binh về Kim Khê vùng núi Ba Vì.
Lão tướng Đô Dương từ Cửu Chân đem quân bị chận đánh, Thánh Thiên Công Chúa rút về cứu nhưng không kịp.
Khi quân giặc tiến đánh Kim Khê, hai bà thua chạy dọc theo hữu ngạn sông Hát tới An Hát (nay là xã Hát Môn) chỗ cửa sông Hát chảy ra sông Hồng được dân chúng tiếp đón nồng nhiệt dâng bánh trôi (bánh xôi nước) và lương thực cho đoàn tùy tùng. Nhưng rồi quân giặc lại đuổi theo, hai Bà gieo mình xuống giòng sông Hát từ trầm. Tất cả quân theo hầu và hai trinh nữ dâng bánh trôi lên hai Bà cũng lao theo làn nước.
Đất nước Việt phủ màu tang tóc, Giòng sông Hát dậy sóng căm hờn!
Từ đây toàn dân lại đắm chìm trong nô lệ, tủi nhục , làm thân trâu ngựa cho người.
Ngày ấy là ngày 6-3AL năm 43 sau TL. Người dân An Hát lập đền thờ hai Bà tại nơi hai vị hiển thánh và xây một cái miếu nhỏ thờ hai trinh nữ dâng bánh gọi là miếu hai Cô hiện nay vẫn còn và sáng chiều nhang khói. Hàng năm, đúng ngày mồng 6 tháng 3 người dân làm lễ đại tế kỷ niệm, trong các lễ vật luôn luôn có bánh trôi để tưởng nhớ bữa ăn cuối của hai Ngài. Lễ Đại Tế được tổ chức theo nghi vệ dành cho những vì Vua. Hai Bà ngự trên Ngai vàng, che lọng vàng có đoàn quân phù gía cầm gươm đao, cờ quạt rợp trời theo hầu. Tiếng chiêng, trống, thanh la rộn ràng như lệnh xuất quân đánh vào thành Lư Lâu thuở nào.
Theo Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên, vua Lý Anh Tông (1138-1175) vì trời làm hạn hán nêu vua sai thiền sư Tịnh Giới đến đền thờ ở An Hát cầu mưa và trời làm mưa. Nhà vua thấy linh ứng sắm lễ vật đến tế và sai sứ rước về phía bắc Đại Nội dựng đền Vũ Sư thờ phụng. Sau nhà vua cho lập đền thờ ở làng Cổ Lai, huyện An Lãng tức là kinh đô Mê Linh, quê hương hai Bà.
Riêng ở Hát Môn trải qua gần hai ngàn năm, lịch sử có lúc thăng trầm nhưng đền hai Bà vẫn sáng hôm nhang khói tưỏng nhớ công đức.
Tấm gương anh dũng của hai Bà luôn sáng ngời cho các thế hệ con cháu về sau tiến bước. Bà Triệu khởi nghĩa chống quân Ngô. Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo diệt quân xâm lược ở sông Bạch Đằng, hai lần giòng sông nhuộm đỏ máu quân thù: “Đằng Giang tử cổ huyết do hồng.” Tụy Động mồ chôn giặc Minh và Đống Đa giặc Thanh không còn manh giáp.
Dân tộc Việt Nam trường tồn cùng năm châu trên thế giới, đất nước Việt Nam trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu như một bức trường thành nằm bên bờ Biển Đông đời đời bền vững.
Hai Ngài thật xứng danh với lời tôn vinh của người sau:
Phù An Quốc Thế Thạch Bàn Nam
Phủ Trấn Thần Uy Đồng Trụ Bắc
nghĩa là:
Hai Bà phù giúp cho nước Nam vững như bàn thạch
Uy danh hai Bà phủ mờ và trấn áp cột đồng ở biên giới phía Bắc!
(câu đối trên cổng đi vào đền thờ Hai Bà ở xã Hát Môn.)

Phạm Hy Sơn

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Bài Ca Bình Bắc
Thơ Vũ Hoàng Chương

Kể từ đấy, đã sáu mươi ngàn lần
Mặt trời mọc ở phương Đông, ngùn ngụt lửa
Mặt trời lặn ở phương Đoài, máu chứa chan.

Kể từ đấy, cũng đã sáu mươi ngàn lần...
Trăng tỏ bóng nơi rừng thiêng đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam.

Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn,
Hãy dừng lại, thời gian, trả lời ta có phải?
Dưới vầng nguyệt, lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương, thiêu đốt quan san.

Sóng hưng phế xô nghiêng từng triều đại,
Mà chí lớn dọc ngang
Mà mộng lớn huy hoàng
Vẫn nghìn thu còn mãi
Vẫn nghìn thu người áo vải đất Quy Nhơn.

Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận năm đường giáp công.
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng!

Giờ đây lại đã Xuân sang
Giữa phố quận một muà Xuân nghịch lữ,
Ai kia lòng có chợt mang mang...?

Đầy vơi sầu xứ
Hãy cùng ta ngẩûng đầu lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thép, từng trang...

Một phút oai thần dậy sóng
Tan vía cường bang.
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót mây năm mầu chiêm ngưỡng
Dài mênh mông một dải tới Nam Quan.

Bóng ấy đã in sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ của nhân gian.
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
Ôi! Diễm tuyệt người anh hùng áo vải.

Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang.
Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ rung bao tính mệnh sẵn sàng!

Người cất bước, cả non sông một dải
Vươn mình theo dẫy Hoành Sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại.
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang!

Người ra Bắc oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Hịch mang xuống lời lời tâm huyết,
Lệnh truyền quân, ai dám bước chân dồn?

Gươm thiêng cựa vỏ, giặc không mồ chôn.
Nát lũy tan đồn, ôi một khúc hành ca, hề!
Gào mây thét gió!
Mà ý tướng lòng quân, hề!
Bền tóc tươi son!

Để một mai bông thắm cỏ xanh dờn
Ca trống trận khuê lay bóng nguyệt,
Mừng đất trời gió bụi tan cơn.

Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
Một trận Đống Đa, ngàn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết,
Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Tại sao gọi là vua Lê Đại Hành? Bài viết "Nạn dịch sai đang phá hỏng tiếng Việt" của Bùi Việt Bắc có đề cập tới cách gọi tên của vua Lê Đại Hành. Xin trích nguyên văn như sau:

"Hà Nội ta có phố Lê Đại Hành. Thực ra chẳng có ông vua nào lấy hiệu Đại Hành cả, mà vua nào cũng được gọi là Đại Hành tức là đang thực hiện chuyến đi lớn. Sang thế giới bên kia! Một nhà sử học dịch bài văn điếu, gọi Lê Hoàn là Lê Đại Hành, những nhà sử học khác cứ đinh ninh cho rằng đó là đế hiệu của ông ta!"

Bạn đọc talawas có thể nêu thắc mắc tại sao ông Bùi Việt Bắc lại không đưa rõ đích danh nhà sử học đã dịch bài văn điếu nào đó trong bài viết của mình. Xin nói ngay là việc gọi vua Lê Hoàn là Lê Đại Hành không thể là vì kết quả của việc dịch một bài văn điếu nào đó như Bùi Việt Bắc đã nói. Ba chữ Lê Đại Hành chính là cái tên được sử dụng trong các bộ Quốc Sử của Việt Nam, mà thí dụ điển hình nhất là bộ sử xưa nhất, đồ sộ nhất: bộ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT). Một công trình biên khảo của nhiều sử gia lớn của nước Việt ta trải nhiều triều đại, trên mấy trăm năm (xem ĐVSKTT của Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1998). Nhưng trước khi bàn đến việc tại sao Lê Hoàn được gọi là Lê Đại
Hành, chúng ta hãy đi ngược về thời xa xưa, vài ngàn năm trước vào thời thượng cổ trong lịch sử Trung Quốc để hiểu rõ thêm về tục lệ xưng niên hiệu và miếu hiệu của các vua thời xưa.

Ở Trung Quốc, về việc đặt miếu hiệu có thể bắt đầu từ triều đại nhà Chu hoặc xa hơn nữa vào thời nhà Hạ, Thương. Những bằng chứng rõ nhất mà ai có chút ít hiểu biết về lịch sử nhà Chu cũng có thể nhớ được, đó là tên những ông vua như U Vương, Lệ Vương. Chữ U có nghĩa là u tối, Lệ là lăng lệ, tàn bạo. Truyện Lục Vân Tiên có câu “Ghét đời U Lệ đa đoan, khiến dân luống chịu lầm than muôn phần”, U Lệ chính là U Vương và Lệ Vương. Tại sao những ông vua này lại có những cái tên xấu như vậy? Xin thưa đó là miếu hiệu của họ, hay còn gọi là tên thuỵ. Đối với người thường, không phải là vua, tên thuỵ - đôi khi được dịch nôm na là tên bụt - là cái tên một người sau khi chết được thân nhân, con cháu đặt cho, và được dùng trong việc tế tự về sau. Cũng có trường hợp tên thuỵ được vua ban cho, thí dụ như Chu Văn An được vua Trần Nghệ Tông ban cho tên thuỵ là Văn Trinh.

Trong sử sách, một đời vua được biết đến qua hai cái tên “hiệu”, đó là niên hiệu và miếu hiệu. Một ông vua khi lên ngôi phải ban hành niên hiệu, và niên hiệu là danh hiệu chính thức được dùng trong chiếu, chế, biểu và công văn khác trong triều đình. Nhưng vua không tự đặt miếu hiệu của mình. Khi nào vua băng (mất), xác còn quàn cho đến lúc đưa vào lăng thì gọi là Đại Hành, tức là chuyến đi lớn sang thế giới bên kia, như Bùi Việt Bắc đã nói. Sau khi được đưa vào lăng yên ổn, thì vua kế vị họp quần thần bàn đức hạnh của vua, hay hay dở mà đặt tên thuỵ tức là miếu hiệu. Chính vì do quần
thần đặt miếu hiệu nên mới có những cái tên xấu như U Vương, Lệ Vương. Ở đây xin mở ngoặc về một ngoại lệ trong lịch sử Trung Quốc vào thời Tần. Tần Thuỷ Hoàng khi lên ngôi cho rằng việc vua kế nhiệm cùng bầy tôi bàn việc đặt miếu hiệu sau khi vua băng là việc trái lẽ, vì con không thể nghị luận cha, bầy tôi không thể nghị luận vua. Cho nên đời nhà Tần bắt miếu hiệu bắt đầu bằng Thuỷ Hoàng rồi đến Nhị Thế, Tam Thế... không như các triều đại khác các vua thường có miếu hiệu như
Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông...

Còn vua Lê Hoàn tại sao lại vẫn giữ mãi miếu hiệu là Lê Đại Hành?

Đó chính là cái vết trong lịch sử nước Việt mà những sử gia như Lê Văn Hưu đã ghi lại để răn đe thế hệ sau về việc sai trái của Lê Long Đĩnh. Đó chính là cái hay của nhà viết sử, một tên gọi, một chữ viết trở thành búa rìu giáo huấn thế hệ con cháu mãi nghìn năm sau. Xin trích đoạn trong ĐVSKTT tập I trang 231:
"Ất Tỵ, /Ứng Thiên/ năm thứ 12 [1005], (Tống Cảnh Đức năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, vua băng ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng Đế, sau nhân đó dùng làm miếu hiệu mà không đổi, chôn ở sơn lăng châu Trường Yên (sách Điạ Chí bản cũ chép vua băng vào năm Bính Ngọ [1006], đó là lấy khi Lê Ngọa Triều xin mệnh (nhà Tống) mà nói, không phải là thực. Nay theo Lê Văn Hưu là đúng).

Lê Văn Hưu nói: Thiên tử và hoàng hậu khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành Hoàng Đế, Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh hay hay dở để đặt thụy là mỗ hoàng đế, mỗ hoàng hậu, không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất hiếu, lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế."

Như vậy tên Lê Đại Hành, thứ nhất, không thể là do việc dịch một bài văn điếu của một nhà sử học nào đó như Bùi Việt Bắc đã nêu. Thứ hai, Lê Đại Hành là tên thuỵ của vua Lê Hoàn như đã truyền qua bao đời trong Quốc Sử Việt Nam, lý do thì sử gia Lê Văn Hưu đã ghi như trên trong phần trích đoạn.

Huy Phan © 2005 talawas

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image Dựng Cõi

Đi từ Trăng ngậm khói
Đã đầy năm ngàn năm
Núi cao rừng vẫy gọi
Biển sóng hoài ghé thăm
Động Đình đau sóng dội
Tăm tắp hồn Long Quân

Trăm con lìa đôi ngả
TRẤN SƠN, Lòng Mẹ Âu
ĐỊNH HẢI, Thân cha Lạc
Cương vực truyền muôn sau

Vó ngựa rung bờ cõi
Gươm thiêng lòa trăng sao
Xương trắng vun thành núi
Biển xanh tươm máu đào
Giặc thù như cọp đói
Lòng ta như báu đao

Đêm dài hơn ngàn năm
Quốc thù loang huyết hận
Uất khí bầm tím gan
Núi gào cây tiết oán
Biển gầm đau sóng tan

Khí linh bừng núi Tản
Ngất ngất Bạch Đằng Giang

Chi Lăng đầu qủy dữ
Vạn kiếp bạt thây thù
Chương Dương vẫn còn đó
Dạt vía, gò Đống Đa
Giặc cuồng xâm phách bở
Ngàn sau gương còn kia

Giặc tham tàn sói lang
Gươm thiêng ta sẵn đó
Thép bốc mờ trăng ngàn
Triệu lòng chung máu đổ
Bát ngát hồn Núi Sông


Trần Thúc Vũ

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Lý Thường Kiệt Và Trận Ðại Thắng Ở Như Nguyệt Năm Ðinh Tỵ 1077 Trong Tình Cảm Của Thiền Sư Pháp Bảo
Nguyễn Khắc Thuần
Image
Đền thờ Đại Vương Lý Thường Kiêt.
Lý Thường Kiệt vốn có họ và tên thật là Ngô Tuấn, người làng Bắc Biên, xã Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau ông dời nhà về định cư phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội).Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sau vì có công, được triều đình ban thưởng rất trọng hậu, lại còn cho lấy theo họ của Hoàng Ðế nhà Lý, đương thời liền nhân đó ghép họ được ban với tên tự mà gọi là Lý Thường Kiệt, mãi rồi thành quen, khiến cho không ít hậu sinh quên mất cả họ lẫn tên thật của ông.Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.

Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử nươc nhà trong thế kỷ thứ XI ; Trong chính trị, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dưới thời trị vì của Hoàng Ðế Lý Nhân Tông (1072-1127) ; Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của Nam quốc sơn hà - áng hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.Trong bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của mình là Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bác học Phan Huy Chú viết về Lý Thường Kiệt như sau :"Ông là người giàu mưu lược lại rất có biệt tài làm tướng súy, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Ðế (gồm Lý Thái Tông : 1028-1254 , Lý Thánh Tông : 1054-1072 và Lý Nhân Tông : 1072-1127 - NKT), phá Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy ".

Năm 1069, Lý Thường Kiệt được cùng với Hoàng Ðế Lý Thánh Tông cầm quân đánh thẳng vào Nam, trừng trị đích đáng hành vi quấy phá của Chiêm Thành và bẻ gãy mưu đồ lợi dụng Chiêm Thành mà nhà Tồng đã công phu chuẩn bị từ nhiều năm trước.Năm 1075, Lý Thường Kiệt là người trực tiếp vạch kế hoạch, đồng thời cũng là tướng tổng chỉ huy quân đội Ðại Việt, bất ngờ tiến như vũ bão sang Trung Quốc, san bằng ba căn cứ lớn ở Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu, tiêu diệt một phần tiềm năng quân sự rất quan trọng của nhà Tống.Năm 1077, một lần nữa, Lý Thường Kiệt vừa là người trực tiếp vạch kế hoạch, lại cũng vừa là tướng tổng chỉ huy quân dân Ðại Việt trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống quân Tống xâm lăng.Với trận đại thắng lẫy lừng ở trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt (tháng 3 năm Ðinh Tỵ - 1077), tên tuổi của Lý Thường Kiệt đã trở nên bất diệt với lịch sử nước nhà.Dư âm của trận Như Nguyệt vang khắp bốn phương, khiến cho các nhà tu hành Phật Giáo lúc bấy giờ cũng không ngớt lời tán thưởng.

Sau trận đại thắng ở Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt được bổ làm Tổng Trấn Thanh Hoa (đất này từ thời Thiệu Trị mới vì lệ kỵ húy mà đổi gọi là Thanh Hóa).Bấy giờ có thầy học của Linh Nhân Hoàng Thái Hậu (tức bà Ỷ Lan - thân mẫu của Hoàng Ðế Lý Nhân Tông) là Sùng Tín Ðại Trưởng Lão từ Thăng Long vào chơi, Lý Thường Kiệt liền nhờ Sùng Tín Ðại Trưởng Lão tìm đất để dựng chùa và Sùng Tín Ðại Trưởng Lão đã chọn khu đất nằm ở phía Nam núi Ngưỡng Sơn.Ðất này xưa thuộc xã Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.Chính Lý Thường Kiệt là người đã trực tiếp trông coi việc xây cất ngôi chùa này.Sau bốn năm (1085-1089) thì khánh thành, Lý Thường Kiệt đặt cho tên gọi là chùa là Linh Xứng.

Từ khi có thêm chùa Linh Xứng , Phật Tử vốn dĩ đã rất nể trọng Lý Thường Kiệt lại càng có phần nể trọng hơn.Thiền Sư Thích Pháp Bảo (tức Giác Tính Hải Chiếu Ðại Sư) là người có cơ may được chứng kiến sự kiện khá đặc biệt này.Theo ghi chép của các thư tịch cổ như : Vĩnh Lộc huyện phong thổ chí lược, Ái Châu bi ký, Thanh Hóa tịnh chí, v.v. thì sau khi Lý Thường Kiệt qua đời, chính Thích Pháp Bảo là người đã có vinh dự được giao việc soạn bài văn bia cho chùa Linh Xứng. Thích Pháp Bảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khó khăn này.Khoảng đầu thế kỷ XX, chùa Linh Xứng bị đổ nát hoàn toàn, tuy nhiên, tấm bia trên đó có khắc bài Ngưỡng sơn Linh Xứng tự bi minh (bài minh khắc trên bia để tại chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn) do Thích Pháp Bảo soạn thì vẫn còn.Ðó thực sự là một trong những tác phẩm văn học sáng giá của thế kỷ thứ XI.Bài này khá dài, vì thế, chúng tôi chỉ xin trích dịch và giới thiệu với bạn đọc vài ba trích đoạn ngắn mà thôi.

Thứ nhất là trích đoạn kể về việc xây dựng dựng chùa Linh Xứng : " Thế là cùng nhau phát hết những bụi cỏ rậm, bạt hết những tảng đá to ; Thầy phong thủy thì xét hướng, thợ lành nghề thì vẽ kiểu, các quan thì góp tiền, sĩ dân khắp nơi cũng cùng nhau kéo tới ; Bấy giờ, ai kém sức thì bào hoặc gọt, ai giỏi nghề thì dựng hoặc xây ; Chùa Phật rộng thênh thang nằm ở giữa còn phòng chay rộng rãi thì ở hai bên ; Phía sau chùa có tháp Chiêu An cao chót vót những chín tầng. Chùa mở cửa bốn bên và cửa nào cũng có song tiện, phía trong lại có rèm the.Tiếng gió rung chuông bạc quyện với tiếng chim rừng; Nắng soi tháp báu, sắc vàng điệp lung linh; Quanh lan can trồng đầy hoa cỏ à đúng là cảnh thức tỉnh hồn mê, xua tan mọi nỗi niềm tục lụy ".

Ðoạn thứ hai là những lời ca ngợi công đức của Lý Thường Kiệt, chân thành, thắm thiết và cũng thật là cảm động :"Lúc còn trẻ, Thái Úy (chức của Lý Thường Kiệt - NKT) được chọn vào cấm đình, hầu Thái Tông Hoàng Ðế chưa đầu một kỷ (một kỷ là mười năm - NKT) mà tiếng thơm đã nức nở khắp hoàng cung.Ðến khi Thánh Tông Hoàng Ðế nối ngôi trị nước, Thái Úy lại hết lòng phò ta, là người luôn ra sức siêng năng, thật là nổi bật trong hàng tả hữu, cho nên mới được gia phong hàm Kiểm Hiệu Thái Bảo.Khi nước Phật Thệ (tức Chiêm Thành - NKT) khinh nhờn phép tắc, chẳng chịu vào chầu, vương sư liền rầm rộ tiến đánh.Thái Úy thao lược hơn đời, được vào cấm cung để nhận mưu chước, ước chế quân luật thật nghiêm để đánh quân thù. Hoàn Vương (chỉ vua Chiêm Thành -NKT) hết đường chạy trốn, đành phải tự bó tay mà chịu cắt tai ".

"Ðầu niên hiệu Thái Ninh (niên hiệu của Hoàng Ðế Lý Nhân Tông, dùng từ năm 1072 đến năm 1076 - NKT) đức kim thượng Minh Hiếu Hoàng Ðế (chỉ Lý Nhân Tông - NKT) lên ngôi, Thái Úy với tư cách là Y Doãn, Hoắc Quang (hai danh thần của Trung Quốc đời nhà Thương và đời nhà Hán đã có công phò tá Hoàng Ðế Trung Quốc lúc còn tuổi ấu thơ, đây chỉ việc Lý Thường Kiệt là Phụ Chính Ðại Thần của Lý Nhân Tông - NKT) được Hoàng Thượng giao quyền nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc.Bỗng chốc, quân biên ải của nhà Tống dòm ngó nước ta, Thái Úy sẵn mưu chước của triều đình, thống lĩnh quân sĩ, tràn sang diệt hết cả ba châu (chỉ Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu - NKT) và bốn trại (chỉ bốn trại lính lớn của nhà Tống ở Ung Châu là Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình và Cổ Vạn - NKT)dễ dàng như bẻ cành gỗ mục.Chẳng bao lâu sau, giặc lại ồ ạt kéo đến sông Như Nguyệt, sục sôi quyết chí trả thù cho ba châu, Thái Úy liền cầm quân ra chống trả".

"Thái Úy vào trong thì sáng suốt khoan hòa, ra ngòi thì nhân từ giản dị, đổi dời phong tục nào có quản công, việc gì cũng siêng năng, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên, đời được cậy nhò chẳng phải ít".

"Thái Úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn luôn hướng về Tam Thừa (chỉ Tiểu Thừa, Trung thừa và Ðại Thừa, tức là Phật Giáo nói chung - NKT) có lẽ vì Hoàng Thượng và Thái Hậu thực tâm tôn sùng giáo lý nhà Phật chăng ? Cho nên, vâng theo ý chỉ của Hoàng Thượng và Thái Hậu, Thái Úy không ngừng nâng đỡ Phật Giáo . Nhân lúc rảnh việc triều đình,

thầy của Thái Hậu là Sùng Tín Ðại Trưởng Lão mới từ kinh sư đi vào, mở mang giáo hóa, khơi

thông tập tục mới lạ, răn điều ác, trọng việc thiện, khác nào cây cỏ được nhuần thấm trận mưa rào, cho nên, không ai là không vui tươi hớn hở."

Kết thúc Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh là phần văn vần khá dài, lời lẽ giản dị mà hùng tráng, vùa tỏ được cái tâm khả kính của người tu hành,lại cùng vừa ngời sáng niềm kiêu hãnh của một thần dân trước sự nghiệp phi thường của bậc vĩ nhân Lý Thường Kiệt.Xin được giới thiệu một trích đoạn ngắn như sau :

Việt hữu Lý công,
Cổ nhân chuẩn thức.
Mục quận ký ninh,
Chưởng sư tất khắc.
Danh dương hàm hạ,
Thanh chấn hà vực.
Tông giáo quy sùng,
Cảnh phúc thị thực.
Nghĩa là :
Nước Việt có tướng công người họ Lý,
Noi theo đúng thể thức của người xưa.
Trị dân thì dân được yên,
Xuất quân thì tất thắng.
Tên tuổi vang lùng khắp cõi,
Tiếng thơm nức bốn phương.
Thuận theo và tôn sùng Phật Giáo,
Giữ gìn phúc đức quả là đây.

Trong thư tịch cổ, hình như viết về danh nhân Lý Thường Kiệt, hiếm thấy tác phẩm nào có lời lẽ cảm động như Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh . Văn bia còn, cái tâm mhời sáng của Thích Pháp Bảo cũng mãi còn với "vạn cổ thử giang sơn" (muôn đời non nước này).
Last edited by khieulong on Sat Mar 19, 2005 4:44 pm, edited 1 time in total.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng lịch sử Năm 938, quân Nam Hán vượt biển xâm lược nước Việt và sa vào trận địa cọc ngầm mai phục tài tình của Ngô Quyền (897-944) trên sông Bạch Đằng, chịu thất bại thảm hại, phải từ bỏ ý đồ xâm lược. Chiến thắng Bạch Đằng đã mở đầu cho một kỷ nguyên độc lập lâu dài của nước Việt.

Ngô Quyền, người làng Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Tây) cùng quê với Phùng Hưng.

Ông sinh năm 897, con trai thứ sử Ngô Mân, một hào trưởng địa phương. Được truyền thống địa phương hun đúc, được cha dạy bảo, từ tấm bé Ngô Quyền đã tỏ ra có ý chí lớn. Thân thể cường tráng, trí tuệ sáng suốt, chăm rèn võ nghệ. Sử cũ miêu tả ông "vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có chí dũng, sức có thể nhấc vạc dơ cao".

Năm 920, Ngô Quyền đi theo Dương Đình Nghệ, một tướng của họ Khúc ở đất Ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ là anh hùng dân tộc từng có công đánh đuổi giặc Nam Hán, chiếm được thành Đại La năm 931, thúc đẩy bước tiến của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng Tiết độ sứ, giao cho Ngô Quyền cai quản Châu Ái. Yêu mến tài năng và nhiệt huyết cứu đời, giúp nước của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ông.

Trong 7 năm (931-938), quản lĩnh đất Ái Châu, Ngô Quyền trổ tài lực, đem lại yên vui cho dân trong hạt.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngô Quyền trở thành ngọn cờ qui tụ mọi lực lượng yêu nước.

Sau một thời gian tập hợp lực lượng, Ngô Quyền đem quân từ Châu Ái ra bắc, tiến công thành Đại La, diệt trừ Kiều Công Tiễn.

Năm 938, trời đang tiết mưa dầm gió bấc. Đoàn quân Ngô Quyền, người người lớp lớp vượt đèo Ba Dội tiến ra bắc. Quân xâm lược còn đang ngấp nghé ngoài bờ cõi thì đầu tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị bêu ở ngoài cửa thành Đại La (Hà Nội). Mối họa bên trong đã được trừ khử. Kế sách trước trừ nội phản sau diệt ngoại xâm đã được thực hiện.

Ngô Quyền vào thành, hợp các tướng tá, bàn rằng: "Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được!

"Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng trước thì chuyện được thua cũng chưa thể biết được!

"Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả. (*)

Chư tướng đều phục kế sách ấy là tuyệt vời.

Phán đoán đúng con đường tiến quân của địch: Ngô Quyền - người được nhà sử học Lê Văn Hưu ngợi ca là "mưu giỏi mà đánh cũng giỏi" - đã chủ trương bố trí một trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng, rồi nhân khi nước triều lên, nhử thuyền địch tiến vào bên trong hàng cọc và tập trung lực lượng tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh, gọn, triệt để.

Sau khi diệt trừ xong bọn Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền và bộ chỉ huy kéo quân về vùng ven biển Đông Bắc chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng thuộc xã Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ từ Bình Kiều. Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền. Hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, đều phân bố tập trung ở vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Đồn trại của Ngô Quyền đóng tại các thôn Lương Xâm (An Hải, Hải Phòng), Gia Viên (nội thành Hải Phòng) **

Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến Trung Quốc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết của cả dân tộc. Đội quân Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành một đội quân dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.

Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến.

Bạch Đằng ngày ấy cũng như ngày sau vẫn mang "tên nôm" giản dị: Sông Rừng!

Sông Rừng thường có sóng bạc đầu, vì vậy mới có thêm một "tên chữ" Bạch Đằng giang.

Bộ sử Cương mục mô tả:

"Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến".

Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ Biển Đông vào nội địa Việt Nam. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ vùng đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cửa biển ngược lên gần 20 km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng hiểm trở.

Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài cây số. Lòng sông đã rộng, lại sâu, từ 8 m - 18 m. Triều lên xuống vào độ nước cường, nước rút đến hơn 30 cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất khoảng 2,5 - 3,2 m.

Lịch sử thành tạo vùng Bạch Đằng trên đây và một số tài liệu địa lý học lịch sử cho phép khẳng định, cửa sông Bạch Đằng thế kỷ 10 không phải là cửa Nam Triệu với địa hình như hiện nay.

Lúc bấy giờ cửa sông Nam Triệu là cửa biển chung của sông Cấm (hay sông Nam Triệu) và sông Bạch Đằng. Cửa biển Bạch Đằng ngày xưa ở vào khoảng đó, nằm sâu vào phía trong so với cửa Nam Triệu hiện nay khoảng hơn chục cây số. Giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, trên cơ sở sức mạnh đoàn kết và ý chí độc lập của cả dân tộc, Ngô Quyền khẩn trương giàn bày một thế trận hết sức mưu trí, lợi hại để chủ động phá giặc.

Ông huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt (hẳn số thợ rèn được huy động đến cũng khá đông) rồi cho đóng xuống lòng sông thành hàng dài tạo thành một bãi cọc, một bãi chướng ngại dày đặc ở hai bên sông. Khi triều lên mênh mông, thì cả bãi cọc ngập chìm, khi triều xuống thì hàng cọc nhô lên cản trở thuyền qua lại. Bãi cọc tăng thêm phần hiểu trở ho địa hình thiên nhiên.

Trận địa cọc là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng phá quân Nam hán và cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa phát hiện được thêm nhiều di tích của bãi cọc này. ***

Trong khi chuẩn bị trận địa, Ngô Quyền không những lợi dụng địa hình thiên nhiên, mà còn biết lợi dụng cả chế độ thủy triều. Đây cũng là một trận đánh biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, mở đầu cho truyền thống lợi dụng thủy triều trong nhiều trận thủy chiến sau này. Rất tiếc là cho đến nay, chưa xác định được ngày tháng xảy ra trận Bạch Đằng, nên chỉ có thể đưa ra một số giả định nào đó, chưa thể có những kết luận cụ thể về điều này. *****

Quân thủy bộ, mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, có lẽ trong khoảng hạ lưu và trung lưu sông Bạch Đằng; trong các nhánh sông và trên hai bờ sông.

Theo truyền thuyết và thần tích, Dương Tam Kha chỉ huy đạo quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đạo quân bên hữu ngạn, mai phục ở hai bên bờ sông để cùng phối hợp với thủy binh đánh tạt ngang vào đội hình quân địch và sẵn sàng tiêu diệt số quân địch trốn chạy lên bờ. Có thể suy đoán rằng, ngược lên phía thượng lưu là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn làm nhiệm vụ chẹn đầu, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh vỗ mặt đội binh thuyền của địch.

Cũng theo truyền thuyết, thần tích người thanh niên Nguyễn Tất Tố, vốn giỏi bơi lặn và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên, nhử địch vượt qua bãi cọc vào cạm bẫy bên trong.

Trong thế trận của Ngô Quyền, rõ ràng trận địa mai phục giữ vai trò quyết định. Trận địa cọc ở cửa sông là nhằm chặn đường tháo chạy của tàn quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô Quyền là phen nàykhông phải chỉ đánh bại quân giặc mà còn phải tiêu diệt toàn bộ quân giặc, đập tan mộng tưởng xâm lăng của triều đình Nam Hán.

Cuối năm 938, cuộc kháng chiến chống xâm lược Nam Hán lần thứ hai của quân dân Việt đã giành được thắng lợi hết sức oanh liệt.

Cả một đoàn binh thuyền lớn của giặc vừa vượt biển tiến vào mạn sông Bạch Đằng đã được nhử ào thế trận đã bày sẵn và bị tiêu diệt gọn trong một thời gian rất ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của giặc bị đánh đắm, hầu hết quân giặc bị tiêu diệt. Chủ soái của giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng bị giết tại trận.

Chiến thắng Bạch Đằng có những nét rất độc đáo và giữ một vị trí trọng đại trong lịch sử dân tộc.

Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh, gọn, triệt để đến mức độ vua Nam Hán đang đóng quân ở sát biên giới mà không sao kịp tiếp ứng. Nghe tin quá bất ngờ và kinh hoàng, chúa Nam Hán đành thương khóc thu nhặt tàn quân quay về nước. Y bèn hạ đổ tội cho Trước tác Tá Lang hầu Dung "làm cho khí thế quân binh không phấn chấn lên được". Lúc này Dung đã chết, chúa Nam Hán tàn bạo sai quật mả, phơi thây Dung để trả thù!

Sau chiến thắng chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc Ngô Quyền bắt tay xây dựng quốc gia. Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, định đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Ông đặt ra chức quan văn, võ, nghi lễ trong triều. Nhưng đáng tiếc thời gian tại ngôi của ông thật ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944).

Ông mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn, thọ 47 tuổi.

Ngợi ca Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong "Đại Việt sử ký toàn thư":

"Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng Tóm lược nội dung : «Thái tổ nhà Trần vua Thái Tông băng hà năm Bảo Phù thứ 5, 1277, thọ 6o tuổi, trị vì 33 năm. Nhà Nguyên muốn lợi dụng nước ta đang có tang muốn đem quân sang xâm chiếm, chúng sai nhiều sứ giả sang nước ta chiêu dụ vua nhà Trần sang triều cống Mông-cổ. Nhưng Đức vua Trần Nhân Tông đã khéo léo từ chối và tìm cách kéo dài thời gian để chuẩn bị lực lượng chống Nguyên.

Với chủ tâm xâm chiếm nước ta, ngày 21 tháng 12 năm Giáp Tý (1284) quân Mông-cổ do Thoát Hoan cầm đầu đã tràn xuống tới biên giới của nước ta. Trước sự tấn công hung hãn của giặc lần lượt các ải Khả-Ly (thuộc Lạng Sơn), Nữ-Nhi, Chi Lăng, bến Vạn Kiếp v.v…rơi vào tay giặc.»

Ngày 14 tháng giêng (1285), quân ta lập các cứ điểm (gồm các sào lũy bằng gỗ) phòng ngự phía Nam sông Cái để chống giặc, ở đây mở màn cho trận đánh thành Thăng Long. Theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a4 ghi như sau –Toàn Tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát- về rõ bối cảnh của trận đánh «Trấn Nam Vương liền cùng quan hành tỉnh tự mình đến Đông Ngạn, sai quân đánh, giết được rất nhiều, bắt được 20 thuyền. Hưng Đạo Vương thua chạy. Quan quân buộc bè làm cầu, sang bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên bố trí binh thuyền, dựng rào gỗ dọc theo sông. Thấy quan quân đến bờ, lập tức nổ pháo, hô lớn thách đánh. Đến chiều lại sai Nguyễn phụng ngự mang thư đến Trấn Nam Vương và quan hành tỉnh, xin rút đại quân. Hành tỉnh lại đưa thư trách, rồi lại tiến quân. Nhật Huyên liền bỏ thành chạy, đồng thời sai Nguyễn Hiệu Nhuệ đem thư xin lỗi và biếu phương vật, cùng xin rút quân. Hành tỉnh lại đưa thư chiêu dụ, rồi điều quân sang sông, đóng ở dưới thành An Nam. Hôm sau, Trấn Nam Vương vào quốc đô của nước đó. Cung thất đều trống trơn, chỉ lưu lại mấy tờ chiếu sắc và mấy lá thư của hành tỉnh, tất cả đều bị xé nát».

Ở đây cho ta thấy toàn diện bối cảnh của trận đánh ngay bên ngoài kinh thành Thăng Long do Đức vua Trần thống lãnh ba quân chiến đấu. Tuy rằng cách đây hơn một tháng vào ngày 9 tháng giêng và liên tiếp sau đó nhiều ngày quân ta đã kịch chiến với giặc ở bến đò Bình Than và lại rút lui, nhưng cũng cần phải hiểu đó là cuộc triệt thoái nằm trong kế hoạch dự trù để dụ quân địch vào nơi mà ta thấy thích hợp để đánh. Kế hoạch rút quân của ta từ Bình Than về Thăng Long và từ Thăng Long về Thiên Trường là nhằm bảo toàn lực lượng tránh đi ba mũi tấn công của giặc Nguyên. Một mũi do chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha từ phía Đông Bắc xuống, mũi kế là từ Tây Bắc thọc qua do Nạp Tốc Lạt Đinh và cuối cùng, quan trọng hơn là mũi từ phương Nam đâm lên do Toa Đô chỉ huy. Khi quân Nguyên tới phía bắc bờ sông Hồng (tức sông Phú Lương), chúng kết bè để làm cầu vượt sông. Binh sĩ ta trông thấy lập tức nổ súng (pháo) chống giặc và cố tình trêu chọc bằng cách thách thức đánh nhau. Trong lúc hai bên đang kịch chiến, Đức vua Trần Nhân Tông sai Nguyễn Hiệu Nhuệ sang trại quân Nguyên đưa thơ và cống phẩm yêu cầu Thoát Hoan rút lui. Thoát Hoan không nghe vừa gởi thơ trách móc vừa tiếp tục tấn công.

Về nhân vật đưa thư thì trong An Nam Truyện ghi là tên hai người là Nguyễn Phụng Ngự và Nguyễn Hiệu Nhuệ (trong Cương Mục và sách Trần Hưng Đạo của Hoàng Thúc Trâm cũng ghi là Nguyễn Hiệu Nhuệ không thấy ghi Nguyễn Phụng Ngự). Mục đích là nhằm dò thám quân tình thực hư của địch cho nên ta mới duy trì sự liên lạc với chúng một cách chừng mực, sự duy trì này ta thời nay gọi là vừa đánh vừa đàm. Phía quân Nguyên có rõ mưu lược này của ta hay không thì không ai được biết, nhưng mỗi lần ta đưa thơ qua, chúng đều trả lời (dĩ nhiên là với những lời lẽ không thuận lợi) và cho sứ giả của ta đi vào doang trại của chúng, đây là một sự thành công về chiến lược tình báo do Đức vua Trần chủ trương. Có thể nói phương pháp này chỉ có triều đình nhà Trần là xử dụng một cách hiệu quả nhất từ xưa đến nay mà thôi.

Thoát Hoan không chấp thuận lời rút quân, bèn cho quân lính tấn công và bắc cầu phao sang sông, sau đó đóng doanh trại sát kinh thành. Tại đây theo An-Nam Chí-Lược quyển 4 tờ 37 thì Đức Hoàng Đế Trần cùng quân sĩ trấn giữ Lư-Giang (có lẽ đây là một phần của sông Hồng trước khi vào Thăng Long). Quân ta ở hai bờ sông lập đồn chống cự dữ dội nhưng không được đành phải rút lui. Thoát Hoan vào được Thăng Long chỉ thấy thành quách trống trơn không người lui tới, chỉ còn lại các văn thư của Mông-cổ đã bị xé nát. Đó đây dưới các gốc cây còn để lại nghiêm lịnh cấm quân dân Đại Việt đầu hàng kẻ thù. Tuy chiếm được Thăng Long nhưng Thoát Hoan e dè sợ lọt vào ổ phục kích của ta nên không dám đóng quân trong thành. Về thời điểm khi thành Thăng Long thất thủ thì Cương Mục Chính Biên quyển VII ghi «Ngày hôm sau, kéo quân vào thành, thì lúc bấy giờ nhà vua đã chạy ra ngoài rồi, Thoát Hoan cho quân đuổi theo».

Việt Sử Tiêu Án ghi «ngày đã về chiều, quân giặc qua sông vào kinh thành». Toàn Tập Trần Nhân Tông của giáo sư Lê Mạnh Thát ghi ở trang 73 như sau: «Chính trong ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu ấy (1285) khi Thoát Hoan vào kinh thành yến tiệc với thuộc hạ». An-Nam Chí-Lược của Lê Tắc quyển đệ tứ ghi: «Ngày 13 Bính Tuất…Trấn-Nam-Vương qua sông mở tiệc tại cung đình An-Nam». Quyển Đạo Phật và Dòng Sử Việt của tác giả Đức Nhuận ghi ở trang 265: «ngày 18 tháng 2…địch dùng súng đại bác bắn yểm trợ…kéo đến đánh chiếm Thăng Long; nhưng khi vào được thành thì chỉ còn trơ trụi những thành quách».

Tại sao lại có sự khác biệt nêu trên về thời điểm thành Thăng Long thất thủ như thế? Quyển Toàn Tập Trần Nhân Tông của giáo sư Lê Mạnh Thát ghi 14 tháng giêng năm Ất Dậu (1285); còn Đạo Phật và Dòng Sử Việt của tác giả Đức Nhuận ghi vào ngày 18 tháng 2. Còn Thăng Long mất vào buổi sáng, chiều hay ngày hôm sau, có nơi ghi là ngày 14 tháng giêng là do sự đề kháng của quân ta ở những nơi chốn khác nhau, và khi không có sự đề kháng nữa thì Thoát Hoan mới vào được bên trong thành. So sánh đối chiếu nhiều bộ sử khác nhau, chúng tôi đi đến quyết định lấy ngày 14 tháng giêng là ngày giặc chiếm thành Thăng Long.

Khi quân giặc kéo vào Thăng Long thì Đức vua Trần và toàn thể quân dân Đại Việt đã rời khỏi kinh thành để lui về Thiên Trường (Nam Định) mà lập phòng tuyến mới. Trong khi đó quân Nguyên vẫn tiếp tục truy sát quân ta để cố bắt cho được hai vị vua của ta.

Ngài rước Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đi Tam Trĩ Nguyên (là sông Ba Chế, ở huyện Ba Chế thuộc tỉnh Quảng Ninh), Thoát Hoan khi vào thành biết rằng nhà vua đã đi xa nên càng gấp rút đuổi theo. Hưng Đạo Vương là người có tài, nhưng có hiềm khích trong gia đình với hai vị vua (vì cha là An Sinh Vương Trần Liễu đã khởi binh chống lại triều đình), khi thấy ông cầm một cây gậy đầu có bịt sắt đi theo hai vua bôn đầu, khiến nhiều người dân để ý, ông đã tháo bỏ đầu bọc sắt, chỉ xử dụng gậy không, từ đó dân chúng mới yên lòng. Điều này chứng tỏ ông là một người biết gát bỏ thù riêng để lo việc nước, hành động này thật đáng ca ngợi và còn lưu mãi tiếng thơm ở đời sau.

Quân do thám Mông-cổ dò biết được nơi chốn đào tỵ của hai vua nên chúng chia hai đường do Tả thừa truy đuổi bằng đường thủy, Hữu thừa rượt theo bằng đường bộ. Đức Hoàng đế Trần bỏ đường thủy phò Thượng Hoàng đi bộ cùng với quân dân. Trong Cương Mục và Toàn Thư không thấy ghi cách tổ chức hành quân triệt thoái vào đời Trần ra sao, nhưng có một điều chắc chắn rằng đã được các vị lãnh đạo thời đó suy nghĩ cũng như sắp xếp một cách chu đáo cuộc triệt thoái này. Ngày nay nhiều nhà quân sự tiếng tăm trên thế giới cho rằng hành quân triệt thoái nó còn khó hơn cả khi tấn công và đất địch vì đạo quân bị rơi vào thế thụ động vừa phải tìm cách bảo toàn lực lượng vừa lo chống đỡ kẻ thù truy kích, thì cách đây 718 năm về trước, một vị Hoàng đế người Việt Nam đã thành công trong việc chỉ huy đoàn quân triệt thoái giữa lúc đang bị kẻ thù xâm lăng truy đuổi gắt gao. Người đó không ai khác hơn đó là Đức Hoàng đế Trần Nhân Tông.

Như ta đã thấy ở các trận, ngoại trừ trận Nội-Bàng, Chi-Lăng, Vạn-Kiếp đây là những chiến trường mà ta và quân Mông-cổ giao tranh rất ác liệt và gay go. Nhưng với quân số áp đảo, Mông-cổ đã đánh bứt được các vị trí trú phòng trên vùng biên giới khiến ta phải rút lui một cách bất ngờ ngoài dự định. Đặc biệt khi chiến tuyến Nội-Bàng thất thủ đã làm xáo trộn hoàn toàn kế sách phóng thủ của quân đội Đại Việt. Lý do như các đoạn trước có nói là vì ta bố trí binh sĩ dựa theo sự bố phòng của danh tướng Lý Thường Kiệt cách đây 200 năm về trước chống lại quân nhà Tống, phương pháp này đã rất có hiệu quả vào thời đó. Nhưng vào lúc mà quân Nguyên tấn công vào ta trên nhiều trận tuyến, thì phương pháp này hoàn toàn thất bại, vì quân thù ngày nay khác với trước. Quân thù này ngày càng hung hăng hơn năng động hơn, ta có thất bại một vài trận đầu là chuyện đương nhiên không thể tránh khỏi.

Để điều chỉnh khiếm khuyến chiến lược này Đức Hoàng đế Trần đã gấp rút đi bằng thuyền nhẹ ra Hải-Đông đến nỗi quên cả ăn sáng để hội họp cấp tốc với Hưng-Đạo-Vương. Từ đó một kế sách mới được hình thành. Đó là chiến lược rút lui, phòng thủ và phản công. Và chiến lược này bắt đầu thực hiện, từ trận Bình-Thang do Đức Hoàng đế Trần Nhân Tông đích thân thống lãnh hơn 100 ngàn quân dân Đại Việt chiến đấu chống giặc.

Một trong những phòng tuyến xa bảo vệ Thiên Trường (Nam Định nơi đặt triều đình tạm của ta) là bãi Tha-Mạc (tức sông Thiên-Mạc ở bên sông Cái thuộc Hưng-Yên. An-Nam Chí-Lược gọi là ải Thiên-Hán), vị tướng trấn thủ phòng tuyến này là Bảo-Nghĩa-Hầu Trần Bình Trọng. Ngày 21 (nhâm thìn) tháng giêng năm Ất Dậu (1285) quân ta chạm địch ở bãi Tha Mạc trong nỗ lực ngăn chận sự tiến quân của chúng làm phòng tuyến xa cho Thiên Trường. Cũng cần biết thêm về Bảo-Nghĩa-Vương Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi vua Lê Đại Hành, là người chồng sau của công chúa Thụy Bảo, có thân phụ làm quan trong đời vua Trần Thái Tông. Ông được triều đình cho phép mang họ Trần. Trong trận giao tranh với địch quân ở bãi Tha-Mạc (hay Đà-Mạc nay là bãi Mạn Trù theo Toàn Thư tức hạ lưu sông Phú Lương ở tại bãi Mạn Trù của huyện Đông Yên vùng tỉnh Hưng-Yên) quân Nguyên chiếm được nơi này và chúng bắt được Bảo-Nghĩa-Vương. Khi bị giặc bắt Bảo-Nghĩa-Vương Trần Bình Trọng nhất định cự tuyệt việc ăn uống và không hé môi nói một lời nào về tình hình quân đội và triều đình Đại Việt. Thoát Hoan hỏi Vương rằng: «Có muốn làm Vương đất Bắc hay không»?

Bảo-Nghĩa-Vương hét lớn: «Ta thà làm ma nước Nam chứ không làm Vương đất Bắc».

Thoát Hoan thấy không thể nào chiêu dụ được vị dũng tướng như thế nên hắn ra lịnh giết đi để trừ hậu hoạn. Nghe được hung tin Bảo-Nghĩa-Vương Trần Bình Trọng tử quốc, Đức Hoàng đế Trần và triều đình đã vô cùng thương khóc cho người nghĩa tướng một lòng vì dân vì nước. Phải nói cái chết của Bảo-Nghĩa-Hầu Trần Bình Trọng là một sự mất mát lớn lao của triều đình nhà Trần, đặc biệt là đối với Đức vua Trần Nhân Tông là người rất coi trọng tình nghĩa gia đình, cho nên trong Cương Mục ghi lại phản ứng của ngài là «Nhà vua được tin này, vật vã thương khóc».

Đại Cương Lịch Sử Việt Nam tập I ở trang 228 ghi ngày 26 tháng 2 năm 1285 giặc Nguyên giết chết danh tướng Trần Bình Trọng. Bị giặc bắt trong gần một tháng, ông phải đối phó với nhiều thủ đoạn mua chuộc cũng như áp lực tinh thần của kẻ thù, chưa hết ngày 1 tháng 2 xảy ra sự kiện Chương Hiến Hầu Trần Kiện (một tôn thất nhà Trần) đầu hàng kẻ thù, tin tức bất lợi như thế làm thế nào mà ông không hay biết, làm sao mà kẻ thù không khai thác có lợi cho chúng? Thế mà ông vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu và lòng trung thành với tổ quốc và dân tộc Việt Nam, không hổ danh là Bảo Nghĩa Hầu và tiếng thơm này vẫn còn lưu truyền ở ngàn đời sau.

(Trích Đức vua Trần Nhân Tông, tinh anh và tổng lực của tộc Việt. Biên khảo sử của Trúc Lâm Lê An Bình. -Chưa xuất bản-).

Trúc Lâm Lê An Bình

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Danh TướngTrần Khắc Chân
Nguyễn Quang Ân


Ông thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, một danh tướng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ13. Cũng theo sử cũ, Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người sáng lập nhà Tiền Lê thế kỷ 10. Như thế, Trần Khát Chân gốc họ Lê ở Châu ái.

Văn bia xã Tương Mai ghi năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) cho biết ông sinh ngày Tân Sửu, tháng Chạp, năm Thiệu Khánh thứ nhất (1370).

Năm Kỷ Tỵ (1389), quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đem quân đi chống cự. Bị thua, Quý Ly trốn về Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bèn sai Trần Khát Chân làm tướng đem quân đi chặn đánh giặc đang theo đường sông Hồng tiến về Thăng Long. Ông "vâng mệnh, khảng khái rỏ nước mắt lạy tạ rồi ra đi". Thượng hoàng cảm động cũng khóc, lấy nước mắt tiễn đưa.

Quân Đại Việt đến Hoàng Giang thì gặp địch. Ông liệu nơi ấy không thể đánh nổi nên rút lui về phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà. Ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), thuyền địch đi qua đấy, ông tập trung hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm tan tác như rắn mất đầu, vội rút về nước không dám gây sự nữa. Chiến công này đã cứu Thăng Long khỏi tai họa bị tàn phá. Ông được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan Nội hầu và được ban thái ấp ở vùng Kẻ Mơ, phía nam kinh thành Thăng Long.

Năm 1399, thấy Hồ Quý Ly chuyên quyền, giết vua Trần Thuận Tông, ông cùng một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc). Việc bị bại lộ, hơn 730 người bị giết. Người đời truyền rằng khi sắp bị chém, Trần Khắc Chân gào thét ba tiếng. Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như còn sống.

Tại nơi ông bị hành hình, sau có đền thờ ở làng Phương Nhai và ở sườn núi Đốn Sơn. Ba tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Nam Cai có tới 29 làng cúng tế. ở Thăng Long, dân vùng Kẻ Mơ cũng lập đền thờ, tạc tượng đá, dựng bia ghi nhớ công đức của ông. Hiện nay, ở Hà Nội có đường phố mang tên Trần Khắc Chân.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Tinh Thần Độc Lập Dân Tộc Của Anh Hùng Quang Trung Nguyễn Huệ

Trần Thanh Hằng
Image Chiến thắng Đống Đa đã xảy ra cách đây đúng hai trăm mười sáu năm. Trong một chiến dịch kéo dài 5 tuần lễ kết thúc bằng 5 ngày tổng phản công, quân dân Việt Nam đã quét sạch gần ba trăm ngàn quân binh Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, giải phóng dân tộc, giành lại chủ quyền và sự độc lập cho đất nước. Chiến thắng Đống Đa là một chiến công ghi dấu tinh thần yêu nước, yêu nòi giống của người Việt Nam. Chiến thắng Đống Đa cũng là kết quả của quyết tâm bảo vệ tổ quốc do một vị anh hùng dân tộc phát huy thành sức mạnh sấm sét. Bậc đại anh hùng đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đuổi quân Thanh đến thành công và đã thống nhất đất nước sau hai trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh là một người nổi bật trong thời đại Lê mạt, vì một tinh thần hầu như đã bị các vua chúa lãng quên, đó là tinh thần độc lập dân tộc.

Quang Trung Hoàng Đế là người có tinh thần độc lập, và được dân tộc kính cẩn ghi ơn vì tinh thần này.

Trong bối cảnh tao loạn thời Lê mạt, dân tộc ta bị lãnh đạo bởi vua hôn ám nhu nhược, chúa lộng quyền tàn ác, bởi tầng lớp sĩ phu, Bắc Hà và Nam Hà, đóng khung tư tưởng trong cái học Trình Chu, lấy lễ nghĩa Trung Quốc làm "tiêu chuẩn văn minh", coi thứ dân như mán mọi. Tầng lớp lãnh đạo ấy đem Thánh hiền Trung Quốc ra che đậy và biện minh cho thái độ thủ thân. Có chút hiểu biết thì cũng chỉ loanh quanh với những phỏng đoán chiều gió quyền lực ở Phú Xuân hay Thăng Long. Còn việc an dân định quốc, việc trù liệu cho họa ngoại xâm gần kề thì hình như không phải là mối quan tâm của họ, nói chi đến việc khơi động lại niềm tự hào dân tộc, niềm hãnh diện là người Việt Nam. Việc bảo tồn bản sắc Việt càng là chuyện xa vời viển vông nữa.

Có nhớ lại hoàn cảnh xã hội nước ta như vậy, vào hai thế kỷ trước, với những phân hóa sâu đậm ở mọi lãnh vực và với ảnh hưởng mê muội của cái học Tống Nho trong tầng lớp trí thức lãnh đạo quốc gia ta mới thấy tính chất cách mạng trong ý thức dân tộc và ý chí xây dựng lại tinh thần dân tộc của người anh hùng Nguyễn Huệ. Chữ "cách mạng" là chữ bậc anh hùng này sử dụng khi nói thẳng với quần chúng, vượt ra ngoài cái khuôn nô dịch của tầng lớp lãnh đạo đương thời. Xuyên qua những ý nguyện và hành động của Ngài, ta thấy là tinh thần dân tộc của Ngài được thể hiện qua hai hoài bão lớn lao: Ngài không chỉ quan tâm tới việc bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ mà còn có ý chí thống nhất ý thức dân tộc trong bản sắc Việt Nam. Trong thời gian ngắn ngủi từ lúc dựng nghiệp cho đến khi thống lãnh sơn hà, Vua Quang Trung đã làm đủ mọi cách thực hiện cho được hai hoài bão này.

Nhớ lại công đức của Ngài, ta hãy so sánh tinh thần độc lập dân tộc trong triều đại của Ngài với tinh thần của hai triều đại trước và sau đó: Thời Lê mạt của Lê Chiêu Thống và thời Tân Nguyễn của Gia Long Nguyễn Ánh.

*Trước khi vua Quang Trung thống nhất đất nước là thời kỳ Lê mạt: Vua Lê đã mất hết thực quyền từ hai trăm năm. Miền Bắc Hà do các chúa Trịnh nối giòng cai trị, thành một loại lãnh chúa tập trung mọi quyền hành quốc gia. Vua chỉ còn có cái tiếng, một loại bình phong để nhà Trịnh núp đằng sau, biện minh cho sự tiếm quyền của mình bằng danh nghĩa "phò Lê". Thời đó, vua Lê vẫn phải nhận sắc phong của triều đình Trung quốc và có lệ triều cống hàng năm. Việc cầu phong và triều cống được coi là một biện pháp ngoại giao mềm dẻo của triều đình ta để được yên nước yên dân, tránh họa chiến tranh từ phương Bắc, ngay cả sau khi đã lật đổ được ách đô hộ của Minh triều trên đất nước. Tiếng là được sắc phong, nhưng thực tế là kẻ chiến thắng, các vua Việt Nam đời trước không coi mình là một thứ vua "phong" mà luôn luôn hành xử như một quốc trưởng có chủ quyền trên một lãnh thổ độc lập.

Nhưng đến đời Lê Mạt, thì ý chí độc lập đó không còn nữa. Thậm chí, khi quyền lực bị đe dọa, Lê Chiêu Thống đã tìm đủ mọi cách để trở lại ngai vàng, kể cả với cái giá bán nước. Lòng hướng về "Đại Thanh" như nguồn gốc quyền lực, Lê Chiêu Thống khóc lóc cầu cứu Tôn Sĩ Nghị giúp đỡ và ngụy trang thực tế bằng lời tâu dối trá:"..Quốc thành bị giặc (Tây Sơn) đánh phá, quân giặc cướp bóc tàn bạo không thể kêu xin với ai. Cho nên ai cũng căm thù thề không cùng sống với chúng, lắm người trốn trong núi, kết thành đồ đảng chỉ vì chưa có người chủ trương cho nên vẫn linh đinh. Nếu có Thiên binh sang cứu, các xứ đồng thời nổi lên thì chắc có thể lấy lại được quốc thành...". Mới thấy đầu óc của Chiêu Thống vừa thu gọn vấn đề trong quyền lợi của mình, vừa không nhớ đến công lao cứu nước của tổ tiên là Lê Lợi khi bị một Trần Thiêm Bình khóc lóc xin Minh triều cấp cứu.

Sách kể khi còn lẩn khuất ở Kinh Bắc và được tin báo từ bên Thanh về là đèn xanh vừa bật -Thanh Đế đã chuẩn lời "xin" và sẽ cho quân sang "cứu"-, thì Lê Chiêu Thống "rất mừng rỡ, chắp tay lên trán mà nói: Kẻ tiểu tử này gặp nhà nhiều nạn, đức Đại Hoàng Đế đoái thương nước nhỏ, trong nước lại được thấy bóng thiên nhật (ý chỉ Hoàng Đế Mãn Thanh), cái cớ trung hưng chắc ở lúc này"(!).

"Mừng rỡ" như vậy nên khi theo Tôn Sĩ Nghị về lại Thăng Long rồi, Lê Chiêu Thống đã tự bỏ hiệu Cảnh Hưng để dùng niên hiệu Càn Long trong các công văn. Tự coi như đã là nô bộc nhà Thanh và coi đất nước của tổ tiên để lại như quận huyện của Mãn triều!

Trái ngược với sự ươn hèn, tăm tối và vọng ngoại của Chiêu Thống là khí phách và sự hãnh diện dân tộc của vua Quang Trung.

"...Trong vòm trời đã chia sao Dực Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người Bắc không phải nòi giống ta thì tất khác dạ. Từ nhà Hán về sau, chúng cướp đất đai ta, cá thịt nhân dân, vơ vét của cải. Nông nỗi ấy, quốc dân ai cũng phải nghĩ để đánh đuổi đi...".

Cái chí của vị vua anh hùng này quả có khác với mộng "chiếm lại quốc thành" của Lê Chiêu Thống. Nhưng, qua chí hướng đó vua Quang Trung còn xác định rõ ràng tinh thần dân tộc: Việt Nam là nước của dân tộc Việt Nam, chứ không phải là là một loại "nước nhỏ được đức Đại Hoàng Đế đoái thương" như Chiêu Thống tự nhủ.

Vua Quang Trung cũng đã phát triển ý thức dân tộc một cách trọn vẹn khi huy động dân quân ra Bắc khu trừ giặc nước và bọn tòng vong Chiêu Thống. Ngài xác định chính nghĩa nằm ở lòng dân, không nằm ở chế độ, và càng không nằm nơi những giá trị do chế độ tạo ra để bảo vệ quyền lực của nó.

Phúc An Khang, đệ nhất dũng sĩ Mãn Thanh, thượng tướng của Càn Long đã vì sợ tấm gương của tiền nhiệm Tôn Sĩ Nghị, mà phát huy sáng kiến mọi kiểu để giữ hòa khí với nước ta. Đến độ dối cả hoàng đế của mình để khỏi làm mất lòng vua Quang Trung. Những việc đòi bãi bỏ lệ cống người vàng, hay khéo léo bắt nhà Thanh phải cung ứng ngựa tốt, sâm quý..., đều phản ảnh sự khôn ngoan trong đối xử mà vẫn tỏ lộ sức mạnh dân tộc của triều đại Quang Trung. Sử chép rằng khi được Càn Long mời sang Bắc Kinh, vua Quang Trung nhất định không đi. Phúc An Khang phải "dung hoà" bằng cách chịu mưu của ta là cho một nhân vật khác giả làm vua Quang Trung sang thăm Càn Long. Phái đoàn Việt Nam đã được triều Thanh cung phụng như chưa từng thấy.

*Trong khi đó thì ở phía Nam, một người khác cũng nuôi mộng trở lại vị thế quyền uy của giòng họ là Nguyễn Ánh, tức vua Gia Long sau này. Từ thời Huệ Vương trở đi, họ Nguyễn trong Nam cũng đã mục nát không kém triều đình của vua chúa Bắc Hà. Bị nhà Trịnh chiếm Phú Xuân, bị nhà Tây Sơn đuổi khỏi Gia Định, nhà Nguyễn chưa chịu dứt nghiệp: Nguyễn Ánh tìm đủ mọi cách duy trì quyền lực cho giòng họ và cản trở công nghiệp thống nhất đất nước của nhà Tây Sơn. Lòng dân không phục nên triều Cựu Nguyễn đã bị mất Phú Xuân, Thuận Hoá, Quảng Nam, Quảng Ngãi, và Nguyễn Ánh bị năm lần thất bại mỗi khi Nguyễn Huệ đưa quân vào Gia Định. Là người trì chí, Nguyễn Ánh tìm đến cả hậu thuẫn của ngoại bang. Đây cũng là một đặc điểm của ông chúa này: Quyền lợi của dân tộc, ông coi nhẹ hơn cái ngai chúa của ông rất nhiều. Không địch nổi Nguyễn Huệ, ông đi cầu viện hết Chân Lạp đến Xiêm La, đem cả quân ngoại quốc về đánh phá nước ta, làm dân ta khổ. Trận Rạch Gầm Xoài Mút năm 1785 là trận phá ngoại xâm đầu tiên của anh hùng Nguyễn Huệ. Dưới sự hướng đạo của Nguyễn Ánh, vua Xiêm La cho 50,000 quân sang đánh Nam Hà. Đạo quân Xiêm tàn ngược này cùng quân Nguyễn Ánh bị quân ta phục binh đánh cho tan tành, gây rúng động đến tận Vọng Các, chấm dứt vĩnh viễn mọi ý đồ xâm lăng Việt Nam của vua Xiêm. Năm 1789, khi Lê Chiêu Thống đưa quân Thanh về chiếm nước, Nguyễn Ánh cũng đã gởi lương thực tiếp vận Mãn Thanh (chỉ vì ông ta nghĩ kẻ thù của Mãn Thanh cướp nước là vua Quang Trung Nguyễn Huệ mà không nghĩ kẻ thù của Quang Trung là quân Mãn Thanh cướp nước!) Cũng còn may cho đất nước là thuyền lương "hữu nghị" của Nguyễn Ánh bị bão đánh đắm.

Chiến thắng Đống Đa không chỉ chấm dứt ước mơ quyền hành của Chiêu Thống, ông vua bất tài bất mục đã mếu khóc khi Nguyễn Huệ rút quân khỏi Bắc Hà vì "hắn để lại cái nước rỗng cho ta, bây giờ biết làm gì". Chiến thắng này còn kết thúc cả ước mơ đánh "hợp đồng" giữa Càn Long nhà Thanh với Nguyễn Ánh ở Đàng Trong, nhằm xiết chặt lực lượng Quang Trung trong gọng kìm thủy bộ ở cả hai mặt Bắc Nam.

Cầu viện "cấp vùng" không thành, Nguyễn Ánh nhìn xa hơn, xoay sang Tây Dương, qua trung gian các giáo sĩ để cầu viện nước Pháp. Trong chuyến vận động của Giám Mục Bá Đa Lộc với triều đình Louis 16 này, Nguyễn Ánh đã định tâm bán đứng một phần lãnh thổ và hy sinh quyền lợi quốc gia lâu dài cho người Pháp để đổi lấy sự trợ giúp vũ khí và kỹ thuật quân sự của họ. Sách chép rằng, Bá Đa Lộc được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh để thương thuyết với Pháp đã cam kết cùng triều đình Louis 16 như sau:

"...Vua An Nam (tức Nguyễn Ánh) bằng lòng nhường cho vua Lang Sa, và sẽ cho kẻ tức vị nối quờn, đặng trị lấy cửa Hàn (Đà nẵng) cùng cả địa phận cửa ấy và những đảo áp cửa Phố và Ải Vân; Cho nên từ ấy về sau cho đến đời đời các đất ấy đều thuộc về nước Lang Sa..." (Điều 4 của Tờ Giao Ước - Sử Ký Đại Nam Việt Quốc Triều)

"...Hoặc sau này, nếu vua Lang sa có phải đánh giặc nước nào bên Phương Đông, thì vua An Nam (Nguyễn Ánh) phải cho quan sứ Lang sa được thâu 14,000 binh An Nam đặng cho đi giúp... (Điều 8 Tờ Giao Ước).

Nhượng đất nước của ông cha để lại cho ngoại bang khai thác, lại hứa sẽ cho dân đi làm "nghĩa vụ quốc tế", là Nguyễn Ánh. Lợi dụng giáo sĩ ngoại quốc làm việc cho mình, rồi sau lại cấm đạo, gây chia rẽ trong dân tộc cũng là ông vua này. Tinh thần bao dung dân tộc đã không có, tinh thần độc lập dân tộc cũng bị Nguyễn Ánh hy sinh cho tham vọng quyền lực của mình.

Chiếm được ngôi vua rồi, bản chất vọng ngoại của Nguyễn Gia Long cũng đã thể hiện qua việc rập khuôn theo văn hóa Trung Quốc: Từ việc xây dựng kinh thành rập khuôn Bắc kinh của Mãn Thanh cho đến việc du nhập lại cái học từ chương Tống Nho: Cũng chỉ vì văn hoá này có lợi cho việc gìn giữ quyền uy của nhà Nguyễn. Điều này giải thích tại sao trong khi Nguyễn Ánh là người có nhiều dịp tiếp xúc với các nền văn minh khác trước nhất, trong giai đoạn mà cuộc cách mạng kỹ nghệ Tây Phương đang chuyển mình đưa các quốc gia lên hàng tiến bộ, thì triều đại nhà Nguyễn lại từ khước mở mang, lại "bế quan toả cảng", để đến nỗi chỉ 80 năm sau chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung, đất nước bị lâm vào cảnh ngoại thuộc dưới thời Tự Đức. Dân trí bị bưng bít trong sự tối tăm, dân khí bị lãnh đạo làm cho nhu nhược, và quốc gia không theo kịp trào lưu thế giới, đó kết quả của biết bao xương máu đổ ra cho việc tranh hùng thời nội chiến

*So sánh với tinh thần vọng ngoại (vào nhà Thanh) của Gia Long, ta đã thấy vua Quang Trung hành xử ra sao?
"...Tôi nay ra đánh cho nó (quân nhà Thanh) chết. Dẹp giặc xong rồi thì xin rước thầy (Nguyễn Thiếp) ra dậy học. Tôi muốn khí dụng gì cũng chẳng mua của nước Tàu..."
Trên đây là lời vua Quang Trung nói cùng La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp khi dừng quân ở Nghệ An trên đường ra Bắc đánh quân Thanh.

Ý thức độc lập dân tộc của vua Quang Trung không dừng ở chỗ bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, mà còn ở niềm hãnh diện về bản sắc Việt và khả năng của dân tộc mình.

Khi đã đuổi được quân Mãn Thanh và Lê Chiêu Thống khỏi bờ cõi, vua Quang Trung đã áp dụng một chính sách ngoại giao vừa nhu hòa, vừa biểu lộ được sức mạnh và tinh thần dân tộc với nhà Mãn Thanh. Tránh được cho đất nước nạn đao binh mà vẫn không nhượng bộ cho ngoại bang bất cứ điều gì có hại cho quyền lợi đất nước.

Đối với vua Quang Trung, lãnh thổ cha ông đã đổ máu gìn giữ cho đời sau là những gì linh thiêng, không thể để ngoại bang xâm chiếm. Sau khi đã ổn định trong nước, Ngài đã chuẩn bị đòi Mãn Thanh trả lại 6 Châu vùng Hưng Hóa Tuyên Quang mà nhà Hậu Lê và nhà Mạc đã dâng cho Trung Quốc sát nhập vào lãnh thổ Lưỡng Quảng: "...Chỉ vì phần đất cõi Nam đứng làm phên dậu, bốn bề ráp ranh những đâu sách đã chép rõ..." (Thư vua Quang Trung gởi Càn Long đòi đất).

Bình định được trong nước rồi, Ngài còn lập chí muốn "đòi" Càn Long hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Tiếc rằng việc chưa thành thì Ngài đã mệnh chung. Và di sản tinh thần dân tộc đó, nhà Nguyễn đã không giữ gìn phát huy, mà còn làm băng hoại gây nên những hậu quả cho đất nước đến ngày nay.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Bố Cái Đại Vương


Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã bắt đầu suy yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp kinh lược sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó y được cử làm đô hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của nhân dân ta, đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội) là Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.

Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng không nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm hay Cam Lâm.

Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ. Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).

Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.

Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.

Phùng Hưng còn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu tú của đất Đường Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đô hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm.

Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.

Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành. Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy, sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm.

Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng chết rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng còn hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ quy mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc họ Phùng còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà Tây),v.v.

Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng Hưng còn lại ở đầu phố Giảng Võ (gần bến xe Kim Mã), vì khi chết, ông được mai táng ở cạnh phủ Tống Bình, sau đó mới đưa thi hài về quê hương. Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc,

Post Reply