Anh Hùng Dân Tộc

Những bài viết về anh hùng chống giặc Tàu xâm lăng của dân tộc Việt Nam
User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

2-LÝ TỐNG, NGƯỜI LÍNH VNCH CHƯA HỀ RÃ NGŨ :

Huyền thoại và anh hùng đã gắn bó và tạo nên ngàn trang sử Việt suốt bao đời, từ Tổ Hùng dựng nước Văn Lang cho tới hôm nay. Gần suốt thế kỷ XX và bây giờ, cọng sản quốc tế đệ tam đã đưa đất nước và dân tộc vào lò lửa chiến tranh tàn khốc và ác liệt, hết năm này tới năm khác, không bằng đạn bom, cũng là ý thức hệ , tạo cảnh tương tàn chia rẽ, có thể nói là bi thảm nhất chưa hề có trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử nước nhà.. Đã có không biết bao nhiêu nam nử anh hùng dân tộc đi vào lịch sử cận đại, sau khi toàn thể VN bị cọng sản nhưộm đỏ. Trong dòng người xã thân vì nước , hầu hết đều là những người lính VNCH, những Trần Van Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bach, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải..và nhất là Lý Tống. Tất cả những người dấn thân, xã mạng vì nước, hiện là những thành phần thượng lưu, trí thức, khoa bảng đương thời, nếu muốn làm giàu hay có đời sống nhàn hạ, hoặc thích mua danh mua chức, thì đâu có khó khăn gì. Nhưng cõi thế vốn vô thường, con người sinh ra đâu có ai thoất được qui luật tử sinh của trời đất. Bởi vậy với những bậc chính nhân quân tử, thì đã mang tiếng đứng trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Nên chết vì nước cho dù chỉ với tuổi đôi mươi như Phạm Hồng Thái hay hằng van người lính VNCH trong cuộc chiến vừa qua, vẫn mang một ý chí lớn hơn so với cảnh trăm năm đầu bạc, sống già lên lão làng, mà chẳng giúp gì được cho xả hội đồng bào.

Lý Tống sinh năm 1946 tại Hương Thủy tỉnh Thừa Thiên. Năm 1965 theo học khóa 65A , sĩ quan phi hành tại Trường Sĩ Quan không quân Nha Trang, kế tiếp vào năm 1966 được sang Hoa Kỳ tu nghiệp tại Trung tâm Lackland Air Force Bae. Về nước trở thành phi công phản lực A-37, phục vụ tại phi đoàn 114 và cuối cùng là Không đoàn 92 chiến thuật, thuộc Phi đoàn phản lực 548 tại Phan Rang. Ngày 5-4-1975, qua nhiệm vụ phá sập cây cầu trên QL1 từ Khánh Hòa về Ninh Thuận, phi cơ của Trung Uý Phi Công Lý Tống bị VC bắn hạ và bị bắt làm tù binh, tại Trại giam A.30 tỉnh Phú Khánh, tới ngày 12-7-1980 thì vượt ngục. Bắt đầu từ đó, người lính Miền Nam không còn đơn vị, sống không nhà nời đầu sông cuối bãi, ăn ngủ chốn sân ga, ghế đá, chung với đồng bào nghèo, tên khắp các nẻo đường quê hương, từ miền Trung vào tới sồng Tiền, sông Hậu. Đi đâu, chổ nào, dù ở phố Thị hay nơi đồng chua nước mặn, người lính cũng cũng không thể cầm nổi nước mắt, khi đối mặt với biển hận, trời thù, qua những hành động dã man, giết người cướp bốc, của từ trên xuống dưới VC. Cũng từ đó, ấn tượng và lương tâm, bổn phận của người Lính, trong trái tim yêu nước nồng nàn, thôi thúc Lý Tống, phải làm cho được một hành động khác đời, để giải thoát đồng bào nghèo cực, ra khỏi vũng bùn hôi tánh máu lệ, nơi xã nghĩa thiên đàng. Được định cư tại Boston, Hoa Kỳ vào ngày 1-9-1983, sau khi đã vượt qua nhiều quốc gia, từ VN, Kampuchia, Thái Lan, Mã Lai và cuối cùng là Tân Gia Ba..trên đường vượt biên tị nạn cọng sản.

Sau đó, Ông ngụ tại thành phố New Orleans,bắt đầu học lại ngành chính trị, tốt nghiệp cử nhân năm 1988, cao học 1990 và chuẩn bị nạp Luận Án Tiến Sĩ vào mùa hè năm 1992, thì con tim yêu nước thôi thúc Lý Tống , nên người Lính lại bỏ hết , để trở về đất Mẹ tìm thù, rửa hận cho nước với hoài bảo lật đổ bạo quyền thực dân cọng sản, giải thoàt đồng bào ra khỏi tù gông nghèo đói, bạo lực và những bất công xã hội

**Ngày 4-9-1992,Ó Đen Lý Tống Cướp Máy Bay Của VC,
Rải Truyền Đơn Xuống Thành Phố Sài Gòn :

Theo tin tổng họp từ AFP,AP, Reuter tại Hà Nội, cũng như các hãng thông tấn quốc tế của Bulgarian, News Agency, VOA tại Hoa Thịnh Đốn, BBC Luân Đôn, RFI Paris, VOF tại M5c Tư Khoa.. cho biết vào chiều thứ sáu (4-9-1992), Lý Tống, cưu Trung Uý Phi Công QLVNCH, đã cướp máy bay của VC, để rãi 50.000 tờ truyền đơn chống bạo quyền, xuống trung tâm thành phố Sài Gòn, trên đường Đồng Khởi (Tự Do cũ), đồng thời kêu gọi dân chúng trong nứớc tổng nổi dậy. Theo một hành khách Úc tên Paul Dempsey, nhân chứng trên chuyến bay, cho biết khi gần tới không phận Sài Gòn, bổng có một thanh niên VN, dùng dây điện và dao ăn, uy hiếp một nử tiếp viên, để bắt phi cơ hạ thấp xuống thành phố, cho ông rãi truyền đơn ra ngoài. Sau khi công tác hoàn thành, người đó cũng nhảy dù xuống đất.

Đó là chiếc Air Bus 310, mang số VN-850, của Công ty Bulgary Jess Air chi Hàng không VN mướn, bay đường Bangkok-Saigon-Hongkong. Phi cơ lúc đó chở 153 hành khách. Theo Nicolay Andreev, trưởng ban điều hành , thì phi cơ đã đáp được an toàn xuống phi trường Tân Sơn Nhất và chỉ bọ gãy một cánh cửa vì sức ép của gió mà thôi. Theo tin AFP, thi Lý Tống đã nhảy dù xuống Cát Lái, vì dù bị vướng cây, nên đã bị công an VC bắt được sau hai giờ tìm kiếm.

Hành động anh hùng của một người lính VNCH, đã làm nhiều người VN cũng như ngoại quốc cãm phục và kính nể. Tất cả các báo chí của Người Việt hải ngoại đều đăng các bài viết ca ngợi. Riêng tại thành phố Orange County hay Sài Gòn nhỏ, thủ đô của người tị nạn, đã tổ chức “ Đêm Không Ngủ “ để cầu nguyện và chúc phúc cho người chiến sỹ kiêu hùng, quên mình xã thân vì nước. Tại Hội quán Lạc Hồng ở Quận Cam, cũng như khắp các tiểu bang nước Mỹ có người Việt tị nạn cư ngụ, đều tổ chức các cuộc tranh đấu, đòi VC thả Lý Tống.

Tại Hà Nội hôm 7-9-1992, Nguyễn Mạnh Cầm, bộ trưởng ngoại giao của đảng Cộng sản, trả lời với ký giả Kathleen Callo của Reuter là vụ Lý Tống, là một trong những cái giá mà đảng phải trả, khi quyết định nới lỏng an ninh và mở cửa ra thế giới. Ngoài ra y còn gián tiếp răn đe các nước rằng, nếu muốn làm ăn với VC, thì đừng dung dưỡng những lực lượng của Người Việt Quốc Gia đang chống lại VC. Trong lúc đó dân chúng Đô Thành, cho biết báo Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 5-9-1992 có đăng tin này, một số khác biết khi theo dõi các đài ngoại quốc. Nhiều người đã nhặt được tờ truyền đơn, ở gần các khu vực quanh chợ Bến Thành, có khổ bằng tấm carte visite in hai mặt.

Riêng Võ Nguyên Giáp lúc đó đã 81 tuổi, cũng lên tiếng báo động rằng, nếu đảng bõ thiên đàng xã nghĩa, thì tư bản sẽ đe dọa nền an ninh của VN. Còn Đoàn Khuê, bộ trưởng quốc phòng VC viết trên tờ Nhân Dân rằng Đế quốc và các lực lượng phản động đang âm mưu lật đổ Cộng sản Hà Nội. Riêng tờ Reader’s Digest, qua bài ‘ LyTong’s long treck to freedom ‘ viết bằng 17 ngoại ngữ, đã không tiếc lời ca tụng chuyến trở về của người hùng, với mục đích hợp lực cùng với đồng bào, xóa bỏ chế độ Cộng sản VN, để quang phục lại quê hương đất nước. Tóm lại Lý Tống đã trở về, và dù thất bại hay thành công, theo nhận xét của Tiến Sĩ Stephen E..Ambrose tại Đại Học New Orleans, thì đây là hành động hào hùng đầy dũng cãm, đã nói lên khát vọng tự do dân chủ của dặt nước và dân tộc VN.

Tại hải ngoại, khi hay tin Hà Nội hối hã đem vụ Lý Tống ra xét xử, trước ngày cựu tổng thống đảng cộng hòa Goerge Bush, bàn giao quyền hành cho tân TT đảng dân chủ là Bill Clinton. Vì vậy tất cả các Cộng Đồng Người Việt tị nạn tại Mỹ, Canada, Úc, Âu Châu..đã phản ứng mạnh mẽ, đòi hỏi VC phải tôn trọng các công ước quốc tế, đã ký hứa với LHQ khi xin gia nhập tổ chức này vào năm 1982. Do đó Hà Nội loan báo dời lại phiên xử , đồng thời hăm dọa sẽ tử hình Lý Tống với tội danh không tặc và lật đổ chính quyền. Riêng Ủy Hội Nhân Quyền Quốc Tế, đã lên tiếng khẳng quyết với Hà Nội là việc đem xử vội vả Lý Tống, có thể bị thế giới kết án bất công, độc tài và gian ác. Ở Hồng Kông, tờ Asian Wall Street Journal, tại hai số báo phát hành ngày 18 và 19/9/1992, đã đăng một bài viết rất dài nơi tranh nhất, ca tụng hành động phi thường của cựu trung úy phi công QLVNCH Lý Tống, đồng thời còn tường thuật hành động đột nhập căn cứ không quân Upon của Không quân Hoàng gia Thái, với ý định đánh cắp một phản lực A-37, để bay về oanh tạc VN, nhưng ý định không thành, ông mới cướp máy bay của Hàng không VN, để rải truyền đơn xuống Sài Gòn. Tóm lại dù thế nào chăng nửa, thì sự kiện Người Lính VNCH Lý Tống, không còn vũ khí , mà chỉ có con tim yêu nước nồng nàn, đã đơn độc về lại quê Mẹ, gởi tới tay đồng bào 50.000 tờ truyền đơn chống cộng, bay rợp trời thủ đô Sài Gòn yêu dấu, vừa có tác dụng làm bầm mặt Bắc Bộ Phủ, vừa khích động lòng người trong nước, rằng đối với một đảng cướp thất đức bất nhơn, thì sớm muộn gì cọng sản cũng đền tội. Sự trở về của Lý Tống cũng là một trái đấm vào bọn Việt Gian Hải Ngoại, vì lợi lộc cá nhân, mà nhắm mắt làm tay sai cho kẻ thù chung của dân tội, nuôi dưỡng một chế độ bán nước hại dân, làm hủy hoại tương lại của VN.

Và rồi Lý Tống cũng bị VC đem ra xét xử tại Tòa Án cũ của Sài Gòn Gòn, trên đường Nguyễn Du, lúc 8 giờ sáng thứ tư 24-2-1993. Có chừng 300 người VN tham dự, các ký giả nhà báo được vào trong, còn dân chúng thì tụ tập ở bên ngoài theo dõi tin tức. Về ngoại quốc, duy nhất chỉ có một nữ ký giã của báo Bangkok Post và Nam Trân từ Hoa Kỳ về. Còn người Mỹ dù Dick Dowen của bộ ngoại giao có hứa bằng điện thoại ngày 23-4-1993, là sẽ cử nhân viên tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Bangkok, tới tham dự phiên xử như Hà Nội đã đồng ý, cuối cùng vẫn không biết đâu mà mò. Rốt cục VC tuyên án Lý Tống 20 năm tù ở, bồi thường 500.000 mỹ kim và thêm bảy triệu tiền Hồ. Nhưng trước áp lực quốc tế và sự tranh đấu không ngừng nghĩ của Người Việt Hải Ngoại, cuối cùng Lý Tống được VC phóng thích vào cuối tháng 9-1998 và trở lại Hoa Kỳ.

**Ngày 17-11-2000, Lý Tống lại Bay Về VN Rải Truyền Đơn
Chống Cọng Sản :

Nhân dịp vợ chồng tổng thống Mỹ Bill Clinton, sắp sữa mản nhiệm kỳ, nên sang du hí tại VN. Người lính gìa VNCH, cựu trung úy Phi Công Lý Tống lại bỏ hết tất cả danh lợi phù phiếm tại Mỹ, để trở về Đất Mẹ như Kinh Kha và Phạm Hồng Thái năm nào, một lần ra đi không trở lại. Ông về VN bằng phi cơ Thái Lan, để rãi truyền đơn chống cọng sản, chứ không phải để du lịch, hòa giải hay đầu hàng giặc như một số đàn anh hay đám con buôn văn nghệ đã làm. Người Chiến sỹ cô độc lại đi trên con đường đấu tranh hào hùng đầy gian khổ, giữa những lằn đạn bạn lẫn thù nhưng vẫn cứ hiên ngang theo gương Nguyễn Trải viết Bình Ngô Đại Cáo trên lá, tố giác sự tàn ác của giặc Minh xâm lăng, hay Phan Bội Châu quì mọp ôm ngực lép ói máu, để viết Huyết Lệ Thư, kêu gọi đồng bào trong nước , cùng đứng dậy đoàn kết, đánh đuổi thực dân Pháp, ra khỏi non sông Hồng Lạc. Người lính già Lý Tống, lúc đó mới 58 tuổi, lại chọn con đường đứng về phía đồng bào cả nước, đang bị cô đơn áp bức. Tóm lại đường nào Lý Tống chọn để trở về Quê Mẹ cũng cô độc và phũ phàng nhưng cũng chỉ bằng cách đó thôi, ai biểu ông là lính chiến QLVNCH ?

Theo cáo trạng, cựu phi công Lý Tống đã bị chính quyền Thái Lan, bắt giam ngày 17-11-2000 về tội cưởng đoạt phi cơ và xâm phạm không phận. Đúng dịp vợ chồng Bill Clinton đang du hí tại Sài Gòn, Lý Tống giả vờ mướn chiếc máy bay cánh quạt loại nhỏ PB68C, để học lái. Máy bay xuất phát từ phi trường Bo Fai, ở miền nam nước Thái. Trên không, theo cáo trạng thì Lý Tống đã uy hiếp viên phi công, lái máy bay vào không phận VN , để ông rãi truyền đơn chống cọng sản tại thủ đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sau đó may bay đã trở lại đất Thái an toàn nhưng lại bị chính quyền nước này phạt 7 năm 4 tháng tù và sẽ mản hạn trở về Mỹ vào tháng giêng, năm 2006.

Cuối tháng 6-2005, thủ tướng đảng cọng sản là Phan Văn Khải, từ Mỹ-Canada và Nhật trở về nước, với thất bại và nhục nhả ê chề vị gặp phải sự chống đối của người Việt tị nạn khắp nơi. Điên cuồng vì mất mặt, giận cá chém thớt, Hà Nội ra lệnh cho công an đàn áp các tôn giáo, nhất là Phật Giáo Hòa Hảo và các giáo phái Tin Lành, một cách tận tuyệt. Mặt khác cọng sản VN dùng quyền lợi để dụ các nước Mã Lai. Nam Dương..phá bỏ những di tích của người tị nạn tại các trại tạm cư ngày trước. Huênh hoang và hợm hĩnh nhất, là sự kiện bộ trưởng tư pháp đảng cọng sản tên Uông Chu Lưu, tới Bangkok mua chuộc Thái, yêu cầu được dẫn độ Lý Tống về VN để tử hình, vì theo luật rừng cũa VC, nếu bị chụp mũ là khủng bố, sẽ bị tù trên 12 năm tới tử hình. Riêng bị ghép tội không tặc, bị tù từ 7 năm tới tử hình. Tóm lại kỳ này, Lý Tống đường nào cũng lên máy chém , dù bi ghép tội khủng bố hay không tặc. Mới đây, Boyce thư ký tại tòa đại sứ Mỹ ở Bangkok, đã gưi thư thông báo cho Lý Tống, là Thái đã đồng ý cho dẫn độ ông về VN, nếu Cọng sản chỉ xử ông về tội xâm phạm không phận mà thôi. Bức thư còn cho biết Hà Nội chưa trả lời. Còn Lý Tống thì luôn phủ nhận tội trạng mà Thái đã áp đặt cho Ông, vì đã có sự đồng thuận của người huấn luyện Thái với số tiền 10.000 đô la Mỹ.

Tính đến nay, Uỷ Ban chống dẫn độ Lý Tống tại Hải Ngoại, chỉ mới thu được 4000 chữ chữ ký, để gưỉ thỉnh nguyện tới vua và thủ tướng Thái, xin đừng dẫn độ Lý Tống về VN. Trong lúc đó, hằng giờ trên khắp các diễn đàn, người ta chỉ bu quanh để khai thác các xác chết chờ thối rửa với thời gian như Thủ Đức, văn bút hay thi nhau ra mắt sách về đời này đời nọ..Rốt cục, cũng chỉ còn lại những người lính già bát lực, ngơ ngáo thương bạn, thương mình, cứ đứng bên vệ đường thời gian mà khóc cho thân phận nhược tiểu của đất nước, cũng như người lính Miền Nam thuở nào.

Một lần nửa ta lại đặt câu hỏi và tra vấn lương tâm, khi nhắc tới những người như Phạm Hồng Thái buổi trước, hay các anh hùng Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải, Võ Đại Tôn..và Lý Tống. Họ là ai mà dám từ bỏ hết tất cả vinh hoa phú quý, gia đình và mạng sống, để dấn thấn vào con đường cứu nước, đầy bi tráng, gian nan và hiểm nghèo ? Thật sự họ chẳng là gì cả, mà chỉ là những người con ưu tú của VN, với bổn phận và lương tâm con người, nên không thể nào làm ngơ đứng nhìn đồng bào nghèo cực gục chết dần mòn, nơi đất mẹ gầy guộc hận đau vì bị thực dân cọng sản vắt máu, lóc thịt từng giờ. Cầu mong những ai thường tự xưng mình là người quốc gia chân chính, đây là cơ hội thể hiện mặt thật của trái tim mình, qua tình chiến hữu, nghĩa đồng bào mà quay mặt về với những người đang vì đời, vì mình mà phải chịu giam đời trai trẻ trong ngục tù máu lệ.

Tóm lại lý tưởng của kẽ sỉ thời nào cũng vậy, đó là hiến thân cho nước, coi mạng sống của mình như lông hồng, nên Lý Tống chắc chắn Ông có bao giờ để ý tới dẫn độ hay không dẫn độ, vì nếu sợ, thì Lý Tống đâu còn là Lý Tống : huyền thoại và anh hùng

Cuộc đời chỉ bằng ấy thôi, còn tất cả ai thèm để ý làm gi ?

Xóm Cồn

Ngày 12-9-2005

MƯỜNG GIANG

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Những giờ định mệnh


Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Sàigòn Nhỏ ngày 1.11.1963

Tú Gàn


Các tài liệu phát hiện gần đây cho thấy Hoa Kỳ đã hoạch định cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm kể từ năm 1961, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối không cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để mở rộng chiến tranh, và biến cố Phật Giáo vào tháng 5 năm 1963 được coi là một cơ hội tốt nhất để Hoa Kỳ thi hành quyết định của mình. Cuộc đảo chánh này đã được cơ quan CIA hoạch định rất chu đáo từng chi tiết, không để một kẻ hở nào. Ấy thế mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long chỉ một thời gian ngắn sau khi cuộc đảo chánh bắt đầu. Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chống lại các kề hoạch phản công và không quyết định ra trình diện, cuộc đảo chánh rất khó thành công.

Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”.

Trong cuốn “Việt Nam 1954 - 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã rời khỏi Dinh Gia Long, nhóm đảo chánh hết sức lo sợ. Tướng Minh kéo Tướng Là tới và bảo: “Toa đừng có lo, Moi đã tiên liệu rồi, Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ đã chuẩn bị sẵn sàng hai Dakota C47 bên Liên Đoàn Vận Tải để chúng ta và gia đình đi khỏi nơi này nếu cần”.

Sau khi cuộc đảo chánh kết thúc, Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA đã mở một cuộc điều tra để xem vì sơ hở nào mà hai ông Diệm và Nhu đã thoát ra được khỏi Dinh Gia Long. Ông Adams, Đệ Nhất Tham Vụ của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon đã đích thân đến gặp ông Cao Xuân Vĩ, người có mặt trong Dinh Gia Long khi cuộc đảo chánh xẩy ra, để điều tra về vụ này. Ông Cao Xuân Vĩ cho biết lúc đó ông chỉ trả lời qua loa, nói rằng ông chỉ là kẻ thừa hành, không biết gì nhiều về chuyện này.

Nay một trang sử đen tối của đất nước đã được lật qua, ông Cao Xuân Vĩ đã tiết lộ cho chúng tôi đầy đủ những chi tiết về cuộc ra đi khỏi Dinh Gia Long của ông Diệm và ông Nhu đã làm Tòa Đại Sứ Mỹ và cơ quan CIA hoảng sợ. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ trình bày những nét chính. Toàn bộ chi tiết của vụ này sẽ được chúng tôi trình bày đầy đủ trong bộ “Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam” Quyển II.

Để độc giả dễ nắm vững vấn đề hơn, trước hết chúng tôi xin lược qua kế hoạch tổ chức đảo chánh của CIA, sau đó sẽ trình bày vể vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu rời Dinh Gia Long.


1.- CIA XEM GIÒ XEM CẲNG

Sau khi cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 kết thúc, nhiều người lầm tưởng rằng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim và Đỗ Mậu là những nhân vật chủ chốt cầm đầu cuộc đảo chánh đó. Phật Giáo đã cử phái đoàn đi quàng vòng hoa cho Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Văn Đôn. Những nghĩ như thế là lầm.

Cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 do Đảng Đại Việt chủ mưu là một sự trắc nghiệm để CIA biết ai là những kẻ trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và tìm cách biến họ thành những tay sai của CIA trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Nhu không ngờ được chuyện này.

Khi cuộc đảo chánh này xẩy ra, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh đang giữ chức Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng ở Phủ Tổng Thống. Tướng Khánh đang ở nhà, nghe tin có đảo chánh, đã chạy vào Dinh Độc Lập. Thấy cửa đóng, ông leo qua hàng rào để vào. Tổng Thống Ngô Đình Diệm phong cho Tướng Khánh làm “Tư Lệnh Toàn Quyền” để thương lượng với phe đảo chánh.

Tướng Nguyễn Khánh ra hỏi Trung Tá Vương Văn Đông, người đang chỉ huy cuộc đảo chánh: “Mấy anh muốn gì?”. Trung Tá Đông cho biết muốn thay đổi chính phủ, trao chính quyền lại cho quân đội. Tướng Khánh vô trình ông Diệm và ông Nhu rồi trở ra cho biết Tổng Thống đã đồng ý và mời các tướng lãnh đến họp ở Bộ Ngoại Giao để bàn chuyện thay đổi chính phủ. Trong khi đó Tướng Khánh lại xúi ông Diệm kêu gọi Đại Tá Trần Thiện Khiêm đem Sư Đoàn 7 ở Mỹ Tho về giải cứu thủ đô. Nhờ sự câu giờ của Tướng Nguyễn Khánh, Đại Tá Trần Thiện Khiêm đã đem quân về giải vây Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tá Vương Văn Đông và một số người tham gia đảo chánh đã phải bỏ chạy qua Cam-bốt. Những người liên hệ khác kẹt lại đã bị bắt.

Sau vụ này, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh được thăng lên Trung Tướng và cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, rồi đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, còn Đại Tá Trần Thiện Khiêm được thăng lên Thiếu Tướng, cho giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Vợ Tướng Khiêm được bầu làm Dân Biểu Quốc Hội, luôn đi cạnh bà Ngô Đình Nhu. Biết ông Diệm và ông Nhu tin tưởng Tướng Khánh và Tướng Khiêm, CIA móc nối ngay.

Người thứ ba được CIA chú ý là Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, vì đây là một sĩ quan có khả năng đang được ông Ngô Đình Nhu đánh giá cao và xây dựng để cho giữ những chức vụ quan trọng sau này. Đại Tá Thiệu lại đã theo Đạo Công Giáo khi lấy một bà sơ người Mỹ Tho xuất dòng, nên càng được ông Nhu tin cậy hơn. Năm 1957, Đại Tá Thiệu được cho đi học một khóa chỉ huy và tham mưu tại Command and General Staff College ở Ft. Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Năm 1959 được đi tu nghiệp tại Okinawa, Nhật Bản, và năm 1960 trở lại Hoa Kỳ học về võ khí mới ở Fort Bliss. Đây là cơ hội tốt để CIA móc nối.

Cuối năm 1960 Đại Tá Thiệu trở về Việt Nam, được Ông Ngô Đình Nhu tạm thời cho làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân do Tướng Dương Văn Minh đang làm Tư Lệnh. Đây là một tổ chức mới được lập ra để cho Tướng Minh “ngồi chơi xơi nước”, vì Đoàn Công Tác Đặc Biệt vừa khám phá ra Tướng Minh đã liên lạc và chứa chấp hai tên tình báo Việt Cộng trong đó có người em là Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, một cán bộ cao cấp do Hà Nội gởi vào liên lạc. Ông Diệm không muốn đưa vụ tai tiếng này ra ánh sáng nên chỉ tìm cách cô lập Dương Văn Minh mà thôi.

Năm 1962, có lẽ do sự sắp xếp của CIA, Đại Tá Thiệu đã xin gia nhập Đảng Cần Lao để được ông Nhu tin tưởng hơn. Trong kế hoạch xây dựng Ấp Chiến Lược để cô lập Việt Cộng, Đại Tá Thiệu đã có nhiều ý kiến rất xuất sắc nên được ông Nhu khen ngợi.

Khi Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân và đưa Tướng Minh về làm “Cố Vấn Quân Sự” của Tổng Thống, một chức vụ hữu danh vô thực, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu được cử đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở Huế. Đầu năm 1963, khi thấy tình hình lộn xộn, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đưa Đại Tá Thiệu về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 đóng ở Biên Hòa. Đại Tá Thiệu được ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu trao nhiệm vụ giải cứu thủ đô khi có đảo chánh. Ông Nhu không hề hay biết Đại Tá Thiệu là người của CIA.

Tướng Đôn không được cả ông Diệm lẫn ông Nhu tin dùng lắm vì cho rằng “ăn chơi quá”. Những người thân cận với ông Ngô Đình Cẩn đã cho biết vào năm 1962, Tướng Đôn đã ra Huế và vào xin ông Ngô Đình Cẩn cho theo đạo Công Giáo. Ông Cẩn nói rằng việc theo đạo là việc của Giáo Hội Công Giáo. Nếu muốn theo đạo, cứ việc tới gặp Linh mục Đỗ Bá Ái, tuyên úy quân đội. Sau khi nói chuyện với Tướng Đôn, Linh mục Đỗ Bá Ái đã phán ngay: “Anh này nhiều vợ quá, không theo đạo được!”

Tướng Đôn cũng không được CIA tin dùng vì quá thân Pháp. Nhưng lúc đó Tướng Đôn đang giữ chức Tư Lệnh Lục Quân, nên CIA phải dùng. CIA dự trù khi sắp làm đảo chánh, họ xúi Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, đi Hoa Kỳ chửa bệnh mấy tháng, thế nào Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng sẽ cử Tướng Đôn làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, vì không còn ai hơn. Mọi việc đã xẩy ra đúng như vậy.

Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn đã mô tả ông ta như là sếp sòng trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, mọi sự đều do ông ta hoạch định và chỉ đạo. Nhưng sự thật không phải như vậy. Tài liệu cho thấy, trong các quyết định quan trọng, Tướng Đôn không hề được tham dự, như quyết định giết ông Diệm chẳng hạn. Quyết định này chỉ có Lucien Conein, Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh biết mà thôi.


2.- CIA LẬP KẾ HOẠCH ĐẢO CHÁNH VÀ GIÀNH QUYỀN LÃNH ĐẠO MIỀN NAM

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Tướng Nguyễn Khánh đã tiết lộ rằng khi Hoa Kỳ quyết định lật đổ ông Diệm, người đầu tiên được Lucien Conein bàn hỏi không phải là Tướng Dương Văn Minh hay Tướng Trần Văn Đôn, mà là Tướng Trần Thiện Khiêm. Lucien Conein, Tướng Khiêm và Tướng Nguyễn Khánh đã họp với ông Al Spera, cố vấn Bộ Tổng Tham Mưu, để bàn định việc này. Sau khi bốn người bàn định xong những việc phải làm, Lucien Conein mới tiếp xúc với Tướng Trần Văn Đôn để yêu cầu Tướng Đôn phối hợp với Tướng Khiêm lập kế hoạch đảo chánh. Khi kế hoạch được Cabot Lodge duyệt y mới giao cho Tướng Dương Văn Minh thực hiện dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Lucien Conein và Tướng Khiêm. Lực lượng chính dùng để đảo chánh là Sư Đoàn 5 của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu ở Biên Hòa. Các tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính chỉ là kẻ thừa hành. Đại Tá Đỗ Mậu chỉ được dùng để sai vặt.

Ngoài ba nhân vật chủ chốt là Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu, CIA còn móc nối được với hầu hết những nhân vật khác được ông Diệm và ông Nhu tin cậy như Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, ông Trần Quốc Bữu, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, v.v.

Ba nhân vật then chốt nói trên cũng được Hoa Kỳ dùng để điều hành miền Nam Việt Nam sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim... chỉ là những con bài thí. CIA đã tạo ra cuộc chỉnh lý ngày 30.1.1964 để loại các con bài thí này, đưa những người đã được họ tuyển chọn lên nắm chính quyền để thực hiện kế hoạch đưa quân Mỹ vào Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh để thực hiện các cuộc đấu thầu quốc phòng. Lúc đầu, Hoa Kỳ định đặt Tướng Khánh làm Quốc Trưởng còn Tướng Khiêm làm Thủ Tướng. Nhưng Tướng Khánh cho rằng làm Quốc Trưởng chỉ là làm bù nhìn, nên tìm cách đẩy Tướng Khiêm ra ngoại quốc để kiêm luôn chức Thủ Tướng, tình hình rối loại mới xẩy ra. CIA dùng Phạm Ngọc Thảo làm đảo chánh để loại Tướng Khánh rồi đưa Nguyễn Văn Thiệu lên thay. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng chỉ là một con bài thí, được Cabot Lodge dùng để dẹp tan phong trào Phật Giáo mà CIA đã dựng lên để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, nay đã trở thành kiêu binh. Về sau, phong trào Phật Giáo đã được dùng như một lực lượng phản chiến để đưa quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Khi tình hình bắt đầu ổn định, Tướng Khiêm được đưa về làm Bộ Trưởng Nội Vụ rồi từ đó lên làm Thủ Tướng muôn năm. Nhìn lui nhìn tới, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam luôn được đặt dưới quyền lãnh đạo của các nhân viên tình báo Mỹ: Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm.


3.- TÌNH HÌNH TRONG DINH GIA LONG KHI CUỘC ĐẢO CHÁNH BẮT ĐẦU

Sáng 1.11.1963, để cầm chân Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho các tướng hội họp để tổ chức đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu, Đại Sứ Cabot Lodge đã dẫn Đô Đốc Harry D. Felt, Tư Lệnh Thái Bình Dương, vào thăm ông Diệm. Sau cuộc viếng thăm, ông Diệm có mời ông Cabot Lodge ở lại để nói chuyện thêm. Trong khi nói chuyện, ông Diệm có hỏi ông Lodge rằng nghe tin sắp có đảo chánh, có đúng như vậy không. Ông Lodge nói rằng ông không hề nghe tin đó, nếu có nghe ông sẽ báo tin cho Tổng Thống biết ngay, và quả quyết Hoa Kỳ không đồng ý một cuộc đảo chánh như vậy.

Trong khi Đại Sứ Cabot Lodge gặp ông Diệm, CIA cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, vào gặp và nói chuyện với ông Ngô Đình Nhu để cầm chân ông này. Đại Tá Thiệu đã hỏi ông Nhu rằng có nghe tin gì về đảo chánh không. Ông Nhu cho biết không có tin gì mới cả.

Chiếu 31.10.1963, theo lệnh của Lucien Conein, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đã điều động 2 trung đoàn của Sư Đoàn 5, một tiểu đoàn pháo binh và một chi đoàn thiết giáp, nói là đi hành quân ở Phước Tuy, nhưng khi đến ngả ba xa lộ Biên Hòa và quốc lộ 15 đi Vũng Tàu, các đơn vị này được lệnh dừng ở đó đợi lệnh.

Sáng 1.11.1963, Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên, cháu của Đỗ Mậu, Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, ra lệnh hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến là Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Trần Văn Nhựt và Tiểu Đoàn 4 của Đại Úy Lê Hằng Minh đi hành quân ở núi Thị Vãi, Ba Rịa, rồi bất thần đưa về Saigon tiến chiếm Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Nội Vụ, Nha Truyền Tin và đài phát thanh Sài Gòn. Còn Tướng Mai Hữu Xuân đưa tân binh quân dịch ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung về chận các ngả vào Sài Gòn.

Đến 1 giờ trưa, Đại Tá Thiệu bất thần ra lệnh cho cả hai trung đoàn di chuyển về Saigon, một trung đoàn đóng ở Phú Lâm, còn một trung đoàn đóng ở ngả tư Hàng Xanh để ngăn chận quân cứu viện từ ngoài tiến về giải cứu Sài Gòn. Bản doanh của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 5 được đặt tại Trường Đại Học Sư Phạm ở đường Cộng Hòa.

Lúc 1 giờ 30, tiếng súng bắt đầu nổ ran tại một vài nơi ở Sài Gòn. Ông Cao Xuân Vĩ, Tổng Giám Đốc Thanh Niên, đã gọi cho Ngô Đình Nhu tại Dinh Gia Long để hỏi thăm tin tức. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi quanh một vòng xem tình hình như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng rồi vào báo tin cho ông Nhu biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông Nhu hỏi: “Chúng nó lấy lực lượng nào để đảo chánh?” Ông cho biết sáng nay Đại Tá Thiệu mới đến đây nói chuyện và báo cáo tình hình vẫn yên tỉnh.

Trung Tá Lê Như Hùng, Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống đặc trách liên lạc với quân đội, được gọi đến Dinh Gia Long để liên lạc với những đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn. Trung Tá Hùng đã liên lạc ngay với Tướng Trần Thiện Khiêm ở Tổng Tham Mưu và Tướng Tôn Thất Đính ở Quân Đoàn III, hai nơi này cho biết Tướng Khiêm và Tướng Đính đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Hùng gọi cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, ở đây cho biết Đại Tá Thiệu đang đi hành quân. Trung Tá Hùng quay qua gọi cho Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, nhưng không ai trả lời. Ông Ngô Đình Nhu không hề biết Đại Tá Quyền đã bị lực lượng đảo chánh giết chết. Trung Tá Hùng liền gọi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Ở đây trả lời Đại Tá Tung đi họp ở Tổng Tham Mưu. Ông Nhu cũng không biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đem Đại Tá Tung ra sau Nghĩa Trang Bắc Việt thủ tiêu rồi.

Trong khi đó, ông Cao Xuân Vĩ gọi cho Tổng Nha Cảnh Sát nhưng không liên lạc được, vì nơi đây đã bị Thủy Quân Lục Chiến chiếm. Ông liền liên lạc với Trung Tá Phước, Phó Đô Trưởng Nội An. Trung Tá Phước cho biết tình hình vẫn yên tỉnh. Ông đã gọi ông Bửu Thọ, Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Sài Gòn, và dặn nếu quân đảo chánh xâm nhập, phải cho phá đài phát thanh ngay.

Trước tình trạng này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã điện thoại cho Đại Sứ Cabot Lodge cho biết ông vừa nghe tin có đảo chánh và xin ông Đại Sứ cho biết tin đó có đúng không. Đại Sứ Lodge trả lời rằng xin Tổng Thống cứ yên tâm, không hề có chuyện đó. Nếu có tin gì, ông sẽ cho Tổng Thống biết ngay.

Lúc 2 giờ 30 chiều, đài phát thanh bổng im lặng. Ông Vĩ liền gọi đến đài phát thanh, nhưng không ai trả lời. Có lẽ lúc đó Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống đang giao tranh với Thủy Quân Lục Chiến, vì đang nghe tiếng súng ở phía đó. Tổng Thống Ngô Đình Diệm liền gọi lại cho Đại Sứ Lodge lần thứ hai. Đại Sứ Lodge cầm điện thoại lên ngay. Tổng Thống Diệm cho biết ông đã nghe tiếng súng, yêu cầu ông Đại Sứ cho biết tin tức. Ông Lodge quả quyết không có chuyện gì xẩy ra cả. Tổng Thống Diệm yêu cầu ông Lodge liên lạc với cơ quan MACV xem sao. Ông Lodge vẫn quả quyết không có chuyện gì xẩy ra.

Lúc 4 giờ 45, đài phát thanh Sài Gòn bắt đầu loan tin Quân Đội đã đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Hội Đồng Tướng Lãnh yêu cầu ông Diệm từ chức và cùng ông Nhu rời khỏi Việt Nam.

Khi biết chắc một số tướng lãnh đã đứng ra làm đảo chánh, ông Nhu bảo Trung Tá Hùng gọi cho Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, xem tình hình ra sao. Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mữu Trưởng Liên Binh Phòng Vệ cầm điện thoại trả lời và cho biết Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Liên Binh, đã đi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng không thấy về. Về tình hình, Thiếu Tá Duệ trình rằng Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm đài phát thanh và bắt đầu bắn vào thành Cộng Hòa. Trung Tá Hùng yêu cầu Thiếu Tá Duệ cho biết tình hình của Liên Binh Phòng Vệ, Thiếu Tá Duệ cho biết Liên Binh có khoảng 2 tiểu đoàn gồm khoảng 1500 quân, chia ra thành 6 đại đội, đang đóng rãi rác ở Sở Thú, thành Cộng Hòa, Dinh Độc Lập và vườn Tao Đàn. Ngoài ra, Liên Binh còn có một Liên Chi Đoàn Thiết Giáp, một Đại Đội Phòng Không và một Đại Đội Truyền Tin. Ông Nhu ra lệnh cho Thiếu Tá Duệ thay Trung Tá Khôi chỉ huy Liên Binh.

Trung Tá Hùng gọi điện thoại cho Thiếu Tá Phạm Văn Phú, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 77 thuộc Sở Liên Lạc và hỏi có quân không. Thiếu Tá Phú cho biết không còn đại đội nào cả, vì trong những tuần qua, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh giao các đại đội của Liên Đoàn cho Tướng Tôn Thất Đính xử dụng vào các cuộc hành quân.

Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu và ông Cao Xuân Vĩ đi xuống hầm trú ẩn ở dưới Dinh Gia Long, Thiếu Tá Duệ gọi đến và yêu cầu cho mở cuộc hành quân tiến chiếm Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đó, Thiếu Tá Phạm Văn Phú gọi vào cho biết có một đại đội biệt kích mới đi hành quân trở về. Anh Đại Đội Trưởng đề nghị cho mở cuộc hành quân vào Bộ Tổng Tham Mưu xúc hết các tướng đảo chánh. Theo kế hoạch của anh, một đơn vị của Liên Binh Phòng Vệ sẽ đánh nghi binh lên mặt tiền Bộ Tổng Tham Mưu, còn anh sẽ dẫn đại đội của anh đánh bọc hậu phía sau, tiến vào bắt hết các tướng đảo chánh. Ông Cao Xuân Vĩ trình các đề nghị này lên Tổng Thống Diệm thì Tổng Thống Diệm quát tháo om sòm và nói: “Tôi là Tổng Tư Lệnh Quân Đội, tôi không thể ra lệnh cho quân đội đánh quân đội được. Hãy để quân đội đi đánh Việt Cộng”.

Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối dùng quân sự để chống đảo chánh, ông Cao Xuân Vĩ nghĩ rằng có thể dùng lực lượng quần chúng để chống đảo chánh. Ông liền gọi cho ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công, một đảng viên Đảng Cần Lao, nhưng không ai trả lời. Ông Vĩ lại gọi cho ông Lê Mỹ, người lãnh đạo các công nhân khuân vác ở thương cảng Sài Gòn, nhưng cũng không gặp. Sau này ông mới biết ông Trần Quốc Bửu đã hợp tác với CIA.

Khoảng 5 giời chiều, Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi điện thoại cho ông Cabot Lodge lần thứ ba, cho biết một số tướng lãnh phản loạn đang họp ở Bộ Tổng Tham Mưu để làm đảo chánh lật đổ chính phủ. Ông yêu cầu ông Lodge cho biết quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ về cuộc đảo chánh này. Ông Lodge nói rằng ông cũng có nghe tiếng súng nổ, nhưng không biết hết sự kiện. Vã lại, lúc này là 4 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chính phủ Mỹ không thể có một quan điểm.

Ông Vĩ điện thoại cho Trung Tá Phước ở Tòa Đô Chánh, yêu cầu dời bộ tham mưu tiền phương vào trung tâm xã hội ở Đại Thế Giới, Chợ Lớn. Sau đó ông cùng với ông Ngô Đình Nhu tìm một giải pháp. Lúc đầu, ông Vĩ đề nghị để Tổng Thống Diệm lại trong Dinh, còn ông và ông Nhu ra khỏi Dinh để có thể giải cứu cho nhau. Nhưng Tổng Thống Diệm bác ngay. Ông Diệm sợ ông Nhu khi rời khỏi ông sẽ bị giết. Ông Nhu đề nghị cả hai cùng đi. Ông Diệm liền hỏi: “Đi mô?” Trước hết, ông Nhu đề nghị đến ẩn náu tại Tòa Khâm Sứ của Tòa Thánh Vatican ở đường Hai Bà Trưng. Ông Diệm trả lời không được. Theo ông, không nên gây khó khăn cho Tòa Thánh. Ông Nhu đề nghị tới Tòa Đại Sứ Úc. Ông Diệm bảo đừng tin vào những Tòa Đại Sứ Tây Phương. Ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Nhật, ông Diệm bảo Nhật không có tốt với mình đâu, ông đã có quá nhiều kinh nghiệm với Nhật rồi. Cuối cùng, ông Nhu đề nghị đến Tòa Đại Sứ Đài Loan. Ông Diệm cho rằng mình mới ban hành nhiều biện pháp đối với người Hoa, bây giờ đến đó coi sao được. Nói tóm lại, ông Diệm không muốn rời Dinh Gia Long nên tìm cách bác bỏ các đề nghị của ông Nhu.

Ông Cao Xuân Vĩ đề nghị với ông Nhu hoặc đi lên Cao Nguyên với Tướng Nguyễn Khánh, hoặc đi xuống miền Tây với Đại Tá Bùi Dinh. Ông Nhu bảo ông Vĩ đi xem tình hình xem như thế nào. Ông Vĩ lái xe đi một vòng thì thấy không thể đi đường bộ được, vì quân đảo chánh đã chận ở Phú Lâm và cầu xa lộ Biên Hòa rối. Ông Vĩ nghĩ rằng có thể đi bằng ghe xuống miền Tây, nhưng trong khi chờ đợi tìm ghe để đi, phải rời khỏi Dinh Gia Long ngay lập tức. Ông Nhu vào trình với ông Diệm rằng phải ra khỏi Dinh Gia Long, vì tình thế rất nguy hiểm. Ông Diệm nói rằng làm Tổng Thống không thể đi trốn được. Ông Nhu giải thích rằng mình không đi trốn, đây chỉ là “dịch cư” để bảo đảm an ninh rồi trở về lại mà thôi. Ông Nhu thuyết phục ông Diệm rằng trên nguyên tắc, một cuộc đảo chánh nếu trong 48 giờ không thành công, sẽ thất bại. Mình chỉ rời khỏi Dinh một thời gian thôi. Ông Diệm làm thinh.

Bổng ông Cabot Lodge gọi đến nói rằng ông lo cho sự an toàn của Tổng Thống. Ông nói nếu ông có thể làm gì cho sự an toàn của Tổng Thống, xin cứ gọi ông. Ông Diệm liền trả lời: “Tôi đang cố gắng tái lập trật tự”.

Như vậy, khi ở Dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm đã gọi ông Cabot Lodge tất cả ba lần, và ông Lodge đã gọi cho Tổng Thống Diệm một lần. Nhưng trong hồ sơ, ông Lodge nói ông Diệm chỉ gọi cho ông một lần mà thôi. Trong cuốn “Lodge in Vietnam” bà Blair có cho biết khi cuộc đảo chánh bắt đầu, ông Lodge đã ra đứng ngoài hành lang điều khiển, để những mệnh lệnh của ông không bị ghi băng!


4.- ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!

Sau khi nói chuyện với ông Cabot Lodge, ông Diệm cho gọi ông Nhu vào và bảo: “Đi thì đi!” Chuyện xẩy ra quá bất ngờ nên ông Cao Xuân Vĩ trở tay không kịp. Ông liền gọi điện thoại cho Trung Tá Phước bảo đem đến Tòa Đô Chánh ngay một chiếc xe. Trung Tá Phước tưởng ông Vĩ cần xe chờ đồ nên cho Đại Úy Hưng lái một chiếc xe fourgonnette (xe chở hàng nhỏ - truck) đến. Ông Vĩ bảo tắt máy xe rồi cùng Đại Úy Hưng đẩy băng qua đường Pasteur, vào cửa bên hông của Dinh Gia Long. Khi xe đến, ông Vĩ vào báo cho ông Diệm và ông Nhu biết. Ông Diệm bảo Đại Úy Bằng lên lấy chiếc cặp cho ông. Khi ra xe, ông Diệm lầu bầu: “ĐI NHƯ RI LÀ MẤT NƯỚC!”. Không ngờ lời nói đó đã trở thành một lời tiên tri!

Vì xe fourgonnette là loại xe chở hàng nên ở thùng sau không có ghế ngồi, nhưng hai ông cũng bước lên và ngồi giữa sàn xe. Đại Úy Bằng muốn đi theo, nhưng Đại Úy Đỗ Thọ, cháu Đỗ Mậu, tình nguyện đi. Ông Cao Xuân Vĩ vội chạy vào Dinh lấy cái nệm cho hai ông ngồi, nhưng khi trở ra thì xe đã chạy mất rồi. Lúc đó là khoảng 7 giờ 30 tối. Xe ra ngả đường Pasteur, xuống đường Lê Lợi, qua đường Trần Hưng Đạo, đến Đồng Khánh rồi vào khu Đại Thế Giới, nơi đặt bộ tư lệnh tiền phương của Trung Tá Phước. Ông Cao Xuân Vĩ gọi cho ông Mã Tuyên, một Tổng Bang Trưởng của người Hoa và là Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa ở Chợ Lớn, nhờ tìm nơi tạm trú cho Tổng Thống. Ông Mã Tuyên nhận lời ngay, mặc dầu ông chưa bao giờ gặp mặt ông Diệm và ông Nhu.

Không ai biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã rời Dinh Gia Long, ngoài Đại Úy Bằng, nên mọi người cứ tưởng ông Diệm và ông Nhu vẫn còn ở trong Dinh. Ông Cao Xuân Vĩ gọi ông Lê Mỹ ở thương cảng mua thực phẩm tiếp tế cho các binh sĩ trong Dinh trước khi ra đi. Lúc đó, lực lượng trong Dinh có một Đại Đội An Ninh Phủ Tổng Thống do Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc chỉ huy. Bên ngoài, Liên Binh Phòng Vệ do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tham Mưu Trưởng, và Thiếu Tá Phan Văn Hưởng, Tham Mưu Phó chỉ huy. Sau này Tướng Nguyễn Văn Thiệu nói rằng nếu ông Diệm không trình diện, phải có ít nhất 3 trung đoàn mới có thể chiếm được Dinh Gia Long.

Thu xếp xong công việc, ông Cao Xuân Vĩ vào Đại Thế Giới thì ông Diệm và ông Nhu đã vào nhà Mã Tuyên rồi.


5.- TỰ QUYẾT ĐỊNH SỐ MỆNH

Ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và ông Cố Vấn đang ở trên lầu. Ông Cao Xuân Vĩ nói với ông Mã Tuyên rằng không thể ở đây lâu được vì thế nào cũng sẽ bị phát hiện. Phải tìm một nơi nào an toàn hơn. Ông Mã Tuyên liên lạc với những người Hoa rồi cho biết đã tìm được hai kho hàng trống ở Bến Bình Đông và đang cho dọn dẹp sạch sẽ. Ông Cao Xuân Vĩ dự trù vào lúc 6 giờ sáng, khi giờ giới nghiêm chấm dứt, sẽ cho xe đưa Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu đến đó.

Sau này ông Mã Tuyên cho biết, suốt cả đêm hai ông không ngủ, cứ gọi điện thoại cho hết chỗ này đến chỗ kia, và bàn định công việc. Đúng 6 giờ sáng, khi vừa hết giờ giới nghiêm, ông Cao Xuân Vĩ đến nhà Mã Tuyên thì ông Mã Tuyên cho biết Tổng Thống và Cố Vấn đã đi vào xem lễ ở nhà thờ Cha Tam, cuối đường Đồng Khánh.

Sau này người ta được biết ông Diệm nhất định không chịu đi theo kế hoạch của ông Cao Xuân Vĩ. Ông nói rằng “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (Thà chết chứ không chịu nhục). Theo ông, “Tổng Thống không có đi trồn”! Ông ra lệnh cho Liên Binh Phòng Vệ buông súng rồi gọi điện thoại báo tin cho ông Cabot Lodge biết ông bằng lòng từ chức và đi ra ngoại quốc. Trước khi tin cho các tướng đảo chánh biết, ông đến nhà thờ để dự lễ và cầu nguyện. Ông Diệm không ngờ quyết định này là quyết định chấm dứt cuộc đời của ông. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Trần Văn Đôn cho biết, Lucien Conein, người điều khiển trực tiếp cuộc đảo chánh, đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d'omelette sans casser les oeufs.” Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng. (trang 228)

Quyết định này của ông Diệm cũng là quyết định về số phận của miền Nam Việt Nam. Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ đã nắm chủ quyền tại miền Nam Việt Nam và dùng miền Nam làm công cụ phục vụ quyền lợi của tư bản Mỹ. Trong tác phẩm “President Kennedy, Profile of Power”, sử gia Richard Reeves đã ghi lại như sau:

“Người Mỹ, vì các mục tiêu thực tế, đã cai quản đất nước. Các tướng lãnh Việt Nam cười trước các máy quay phim, nhưng lo lắng và chờ đợi tiền và chỉ thị từ Washington, thủ đô mới của miền Nam Việt Nam.” (trang 651)

Cũng có nhận định tương tự, trong cuốn “The Vietnam War, 1945 - 1990”, Marilin B. Young nói rằng ông Diệm đã làm hỏng chính sách của Hoa Kỳ về phương diện chiến thuật nên được Hoa Kỳ thay thế bằng một nhóm tướng lãnh. Khác với ông Diệm, họ lệ thuộc vào Hoa Kỳ và vì thế sẵn sàng theo những lời cố vấn.

Những nhân viên tình báo của CIA như Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang, được Hoa Kỳ đưa ra lãnh đạo miền Nam, đã để mất chủ quyền quốc gia, đưa miền Nam đến ngày 30 tháng 4 năm 1975

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Image

Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.



Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.



Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;



Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.



Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.



Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.



Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.



Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.



Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Những điều ít được biết về Hoàng đế Quang Trung

Image


Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm. Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải gắng sức. Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan: “Giận phó quốc ra lòng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”. Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng: “Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét…”. (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: “Chư quân, hãy vì ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”. Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quý kỷ sự). Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và cho lập Viện Sùng chính, sắc phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đã được huấn luyện thuần thục của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đã phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó xin hai con voi; Xem con nào cụt vòi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đã nói làm cho mọi người đều cười ầm: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử xem có tốt không…”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất. Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người được vẻ vang như nàng?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo… Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...

Nguyễn Tấn Tuấn



Những điều ít được biết về Hoàng đế Quang Trung

Nguyễn Huệ quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cùng dòng họ với Hồ Quý Ly và Hồ Xuân Hương. Năm Ất Mùi (1655), quân Nguyễn chiếm được 7 huyện ở sông Lam, bắt dân đưa vào Đàng Trong khai hoang. Cụ tổ bốn đời của Nguyễn Huệ bị bắt vào Nam. Lúc đầu ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc huyện Quy Ninh, phủ Quy Nhơn. Đến đời Hồ Phi Phúc rời đến ở ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, Bình Định. Hồ Phi Phúc và bà vợ là Nguyễn Thị Đồng sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Côn, nơi có bến Trường Trầu, cùng với giếng nước, cây me xưa vẫn còn đến ngày nay. Thuở nhỏ, Nguyễn Huệ có tên là Hồ Thơm. Ba anh em Nguyễn Huệ đều theo học thầy giáo Hiến - một nhà Nho bất đắc chí với chính sách tàn ác của Trương Phúc Loan nên trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp An Thái (An Nhơn ngày nay). Biết tài năng khác thường của ba anh em Tây Sơn, nên ông đã truyền cho họ hoài bão và ý chí của mình. Ông thường kể với họ việc chúa Nguyễn mưu biến Đàng Trong thành một nước riêng biệt, sống xa hoa đàng điếm. Quyền thần Trương Phúc Loan mặc sức đặt quan lập chúa, hãm hại người trung, vơ vét tiền của. Vàng bạc châu báu của Loan sáng rực cả sân. Ông khích lệ, cổ vũ cho sự nghiệp lớn của họ bằng câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”, nghĩa là Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở đất Bắc, các con phải gắng sức. Mùa xuân năm 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi, cuộc khởi nghĩa bùng nổ, đất Tây Sơn sôi động. Lá cờ nghĩa bằng lụa đỏ dài 10m được dựng lên với khẩu hiệu lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo và lời hịch kể tội Trương Phúc Loan: “Giận phó quốc ra lòng bội thượng; Nên Tây Sơn xuống nghĩa Cần Vương”. Trong sách viết về nhà Tây Sơn được phổ biến dưới thời Nguyễn, con người và sự nghiệp Nguyễn Huệ đã bị xuyên tạc. Nhưng qua những tài liệu ấy, kết hợp với những tài liệu mới phát hiện gần đây, ta có thể thấy vài nét chân dung Nguyễn Huệ. Ông có mái tóc xoăn, da săn, mắt sáng, tiếng nói sang sảng như chuông, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Ông “có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn lược thuật). Thậm chí, một cung nhân của nhà Lê nói rằng: “Nguyễn Huệ trỏ tay, đưa mắt, ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét…”. (Hoàng Lê nhất thống chí).

Tiếng nói của Nguyễn Huệ cũng rất đặc biệt, như tiếng chuông, lời nói ngắn gọn, giản dị, thấm vào lòng người, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm sâu sắc. Một lần ở Thanh Hóa, Nguyễn Huệ ngồi trên mình voi nói lớn: “Chư quân, hãy vì ta giết sạch chó Ngô đi. Nếu ai không muốn chiến đấu thì hãy xem ta trong một trận giết hàng vài vạn mạng người, đấy không phải là chuyện lạ đâu”. Ông vừa dứt lời, quân lính dạ ran như sấm, rung động núi rừng, trời đất biến đổi cả cảnh sắc, chiêng trống đồng thời vang lên (Lê Quý kỷ sự). Nguyễn Huệ được xem là một bậc anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Năm lần vào Nam, ba lần ra Bắc, đều ẩn hiện như quỷ thần. Mỗi lần xông trận, ông thường dẫn quân đi đầu. Ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu, trời còn chưa sáng, Nguyễn Huệ thân chinh đốc chiến, cho hơn trăm voi tiến lên trước, bộ binh theo sau, đánh nhau kịch liệt với quân Thanh. Giữa trưa, ông cùng với tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói thuốc súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Tuy là võ tướng, nhưng Nguyễn Huệ rất am hiểu văn chương. Ông là vị Hoàng đế đầu tiên mạnh dạn dùng chữ Nôm để viết các văn bản của triều đình và cho lập Viện Sùng chính, sắc phong La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm dùng vào việc dạy học cho nhân dân. Tương truyền trong một bức thư của vua Càn Long xin hai con voi đực đã được huấn luyện thuần thục của nước ta, Hoàng đế Quang Trung đã phê dí dỏm rằng: “Thằng Càn Long nó xin hai con voi; Xem con nào cụt vòi cho nó một con”. Hàng ngày, Nguyễn Huệ ứng đối, pha trò rất giỏi. Lần ra Bắc diệt họ Trịnh, khi Nguyễn Hữu Chỉnh ngỏ ý làm mối công chúa Lê Ngọc Hân cho ông, ông đã nói làm cho mọi người đều cười ầm: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử xem có tốt không…”. Tuy vậy, Nguyễn Huệ rất nhân hậu, biết trọng nhân tài và giàu lòng thương người, với người tài và biết thời thế như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… thì ông tin dùng đối đãi rất hậu. Với kẻ có tài nhưng không chịu cộng tác, ông vẫn mở cho họ con đường sống: “Đáng lẽ trẫm phải ra oai sấm sét, khép các ngươi vào tội không chịu làm tôi, tịch thu gia sản và giết các ngươi để tỏ rõ phép thường. Nhưng các ngươi như người có bệnh nặng mà tối tăm nhầm lẫn... Trẫm một lòng yêu tiếc nhân tài, không thể chốc lát quên được. Nên đặc trách ban ơn tha tội cho các ngươi”.

Trong gia đình, Nguyễn Huệ sống với vợ con rất tình cảm. Ông có hai bà Hoàng hậu. Bà chính cung quê ở Quy Nhơn, là em cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật. Bà này sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Nguyễn Quang Toản là con cả, được lập làm Thái tử, về sau là vua Cảnh Thịnh. Bà họ Phạm là một phụ nữ thôn dã, nhưng có lẽ do gắn bó với Nguyễn Huệ từ rất sớm nên được ông quý trọng, thương yêu. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất. Trong một bức thư viết ngày 17/7/1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: “Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn”.

Bắc cung hoàng hậu là công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông và bà nguyên phi Nguyễn Thị Huyền người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (1770) tại quê ngoại, mất năm Kỷ Mùi (1799). Ngọc Hân đã sinh hạ cho Nguyễn Huệ một con trai là Nguyễn Văn Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc, sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Công chúa Ngọc Hân là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, vua Quang Trung rất yêu và có phần tự hào về bà. Hôm cưới, ông đắc ý nói với Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua đã có mấy người được vẻ vang như nàng?”. Hôm lễ tế vua Lê Hiển Tông, Nguyễn Huệ mặc đồ tang, đứng coi xét lễ nghi hết sức chu đáo… Nguyễn Huệ sống khoan dung, nhân hậu nên những người gần gũi ông đều tỏ lòng cảm kích. Bài thơ khóc chồng của công chúa Ngọc Hân thật cảm động, chứng tỏ tình yêu và lòng ngưỡng mộ của bà với tài, đức, công lao sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ...

Nguyễn Tấn Tuấn
Last edited by khieulong on Sat Sep 19, 2009 6:34 am, edited 1 time in total.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Ngô Quyền
(939 - 944)
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Ðinh Tỵ (897) ở Ðường Lâm (Ba Vì, Hà Tây) cha là Ngô Mân, một hào trưởng có tài đức.

Ngô Quyền thông minh, khôi ngô , mắt sáng như chớp, văn võ toàn tài, được Dương Ðình Nghệ tin yêu, gả con gái là Dương thị Ngọc và giao cho Ngô Quyền cai quản đất ái Châu (Thanh Hóa).

Khi nghe tin bố vợ bị Kiều Công Tiễn giết hại, Nhà Nam Hán lại cho con là Vạn Vương Hoàng Thao đưa quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết chết tên phản bội Kiều Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.

Ðể đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Ðằng.

Tháng 10 năm Mậu Tuất (11-938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Ðằng, quân ta nhử cho thuyền giặc vượt qua trận địa cọc, đợi cho nước thủy triều xuống, quân ta bắt đầu tấn công dữ dội, đánh vỗ mặt và hai bên sườn, làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm gần hết, Hoàng Thao bị đâm chết tại trận , quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán (đây là chiến thắng Bạch Ðằng lần thứ nhất ).

Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Ðằng, Ngô Quyền lên ngôi Vua, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội), đặt ra các quan văn, võ, đặt ra nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc Lập tự chủ của đất nước ta.

Ngô Quyền làm Vua được 5 năm (939-944 ) thì mất, thọ 48 tuổi. Ngô Quyền mất, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi tự lập làm Vua là Dương Bình Vương (944-950).

Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng lịch sử

Ngô Quyền, người làng Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Tây) cùng quê với Phùng Hưng.Ông sinh năm 897, con trai thứ sử Ngô Mân, một hào trưởng địa phương. Được truyền thống địa phương hun đúc, được cha dạy bảo, từ tấm bé Ngô Quyền đã tỏ ra có ý chí lớn. Thân thể cường tráng, trí tuệ sáng suốt, chăm rèn võ nghệ. Sử cũ miêu tả ông "vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có chí dũng, sức có thể nhấc vạc dơ cao".

Năm 920, Ngô Quyền đi theo Dương Đình Nghệ, một tướng của họ Khúc ở đất ái Châu (Thanh Hóa). Dương Đình Nghệ là anh hùng dân tộc từng có công đánh đuổi giặc Nam Hán, chiếm được thành Đại La năm 931, thúc đẩy bước tiến của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng Tiết độ sứ, giao cho Ngô Quyền cai quản Châu ái. Yêu mến tài năng và nhiệt huyết cứu đời, giúp nước của Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ông.

Trong 7 năm (931-938), quản lĩnh đất ái Châu, Ngô Quyền trổ tài lực, đem lại yên vui cho dân trong hạt.

Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngô Quyền trở thành ngọn cờ qui tụ mọi lực lượng yêu nước.

Sau một thời gian tập hợp lực lượng, Ngô Quyền đem quân từ Châu ái ra bắc, tiến công thành Đại La, diệt trừ Kiều Công Tiễn.

Năm 938, trời đang tiết mưa dầm gió bấc. Đoàn quân Ngô Quyền, người người lớp lớp vượt đèo Ba Dội tiến ra bắc. Quân xâm lược còn đang ngấp nghé ngoài bờ cõi thì đầu tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị bêu ở ngoài cửa thành Đại La (Hà Nội). Mối họa bên trong đã được trừ khử. Kế sách trước trừ nội phản sau diệt ngoại xâm đã được thực hiện.

Ngô Quyền vào thành, hợp các tướng tá, bàn rằng: "Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được!
"Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng trước thì chuyện được thua cũng chưa thể biết được!
"Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy cả.

Chư tướng đều phục kế sách ấy là tuyệt vời.

Phán đoán đúng con đường tiến quân của địch: Ngô Quyền - người được nhà sử học Lê Văn Hưu ngợi ca là "mưu giỏi mà đánh cũng giỏi" - đã chủ trương bố trí một trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng, rồi nhân khi nước triều lên, nhử thuyền địch tiến vào bên trong hàng cọc và tập trung lực lượng tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh, gọn, triệt để.

Sau khi diệt trừ xong bọn Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền và bộ chỉ huy kéo quân về vùng ven biển Đông Bắc chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng thuộc xã Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ từ Bình Kiều. Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền. Hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, đều phân bố tập trung ở vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Đồn trại của Ngô Quyền đóng tại các thôn Lương Xâm (An Hải, Hải Phòng), Gia Viên (nội thành Hải Phòng)

Trước mưu đồ xâm lược trở lại của phong kiến Trung Quốc, ngọn cờ cứu nước của Ngô Quyền trở thành ngọn cờ đoàn kết của cả dân tộc. Đội quân Ngô Quyền, từ một đội binh ái Châu đã nhanh chóng trở thành một đội quân dân tộc. Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.

Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm chiến trường quyết chiến.

Bạch Đằng ngày ấy cũng như ngày sau vẫn mang "tên nôm" giản dị: Sông Rừng!

Sông Rừng thường có sóng bạc đầu, vì vậy mới có thêm một "tên chữ" Bạch Đằng giang.

Bộ sử Cương mục mô tả:

"Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến".

Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ Biển Đông vào nội địa Việt Nam. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ vùng đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cửa biển ngược lên gần 20 km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi vôi Tràng Kênh với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng hiểm trở.

Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài cây số. Lòng sông đã rộng, lại sâu, từ 8 m - 18 m. Triều lên xuống vào độ nước cường, nước rút đến hơn 30 cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh lệch khi cao nhất và thấp nhất khoảng 2,5 - 3,2 m.

Lịch sử thành tạo vùng Bạch Đằng trên đây và một số tài liệu địa lý học lịch sử cho phép khẳng định, cửa sông Bạch Đằng thế kỷ 10 không phải là cửa Nam Triệu với địa hình như hiện nay.

Lúc bấy giờ cửa sông Nam Triệu là cửa biển chung của sông Cấm (hay sông Nam Triệu) và sông Bạch Đằng. Cửa biển Bạch Đằng ngày xưa ở vào khoảng đó, nằm sâu vào phía trong so với cửa Nam Triệu hiện nay khoảng hơn chục cây số. Giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, trên cơ sở sức mạnh đoàn kết và ý chí độc lập của cả dân tộc, Ngô Quyền khẩn trương giàn bày một thế trận hết sức mưu trí, lợi hại để chủ động phá giặc.

Ông huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt (hẳn số thợ rèn được huy động đến cũng khá đông) rồi cho đóng xuống lòng sông thành hàng dài tạo thành một bãi cọc, một bãi chướng ngại dày đặc ở hai bên sông. Khi triều lên mênh mông, thì cả bãi cọc ngập chìm, khi triều xuống thì hàng cọc nhô lên cản trở thuyền qua lại. Bãi cọc tăng thêm phần hiểu trở cho địa hình thiên nhiên.

Trận địa cọc là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng phá quân Nam hán và cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa phát hiện được thêm nhiều di tích của bãi cọc này.

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Nguyễn Trãi

Image

Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.

Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.

Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điêm cơ bản sau:

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. O*? Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà tho* tầm cỡ kiệt xuất.

Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử.

+ SỰ NGHIỆP THƠ VĂN:
- Nhà văn, nhà thơ lớn: là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. "Quân trung từ mệnh tập" là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế "đánh vào lòng", ngày nay gọi là địch vận. "Bình Ngô đại cáo" lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. "Lam Sơn thực lục" là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Dư địa chí" viết về địa lý lịch sử nước ta. "Chí Linh sơn phú" nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán.

Về thơ, có hai tập: "Ức trai thi tập" bằng chữ Hán, "Quốc âm thi tập" bằng chữ Nôm, tức chữ Việt, đó là thơ cả một đời, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Nội dung thấy rõ trong đó là tâm tình đối với quê hương, gia đình, với nước, với dân, với bao éo le trong cuộc đời...

- Tình yêu quê hương gia đình: Nội dung thơ văn ông rất phong phú. Đây chỉ nói vắn tắt một vài khía cạnh. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên ở quê hương. Bắt đầu là những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu, nhưng chan chứa thân thương. Rau muống, mồng tơi, râm bụt, cây chuối, cây đa, cây mía... đều thành vần điệu. Đào, liễu, tùng, trúc cao sang đứng liền bên cạnh rau muống, mồng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Không chút gì phân biệt sang hèn. Tất cả đều được lòng ông trìu mến. Ông nói một cách trang trọng: "Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn", mà cũng vừa vui tươi chân chất: "Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen". Ông phát hiện ra cái đẹp bình dị rất bất ngờ: Đêm trăng gánh nước thì gánh luôn trăng đem về ("Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về"). Bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại ("Thế giới đông nên ngọc một bầu"). Thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc ("Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi"). Con rùa, con hạc, núi, chim, mây, trăng, ông coi là con cái, là láng giềng, là anh em: "Rùa nằm, hạc lẩn nên bầy bạn, U ấp cùng ta làm cái con...", "Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam". Có lúc, ông như hòa tan mình vào thiên nhiên đến mức dòng suối, tảng đá phủ rêu, vòm thông tán trúc như hòa nhập với ông làm một: "Côn Sơn có suối rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, Trong lèn thông mọc như nêm, Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn"... (Côn Sơn ca - dịch).

Tiếp theo là niềm tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm ông phải lẫn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầụ Đêm thu, xa nhà, bên ngọn đèn khuya, ông day dứt: :Gió thu đến, lá rụng rồi. mình vẫn lận đận quê người, Đêm mưa, bên ngọn đèn leo lét, hồn mộng cứ vẫn vơ mãi nơi đất khách" (Đêm thu đất khách - dịch). Tiết Thanh minh đến, theo tục, con cháu phải về thăm mồ mã ông bà, sửa sang, bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ, cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm ông không về được. Ông chỉ não lòng: "Thân mình xa ngàn dặm, mồ mã ông bà ở quê không sao giẫy cỏ thắp hương, Mười năm đã qua, những nguời ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai, Đành mượn chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê" (Thanh minh - dịch).

Ông mất mẹ lúc mới lên sáu. Lòng con thương mẹ càng nồng. Ông bà ngoại, cậu, dì đều ở Côn Sơn. Quê nội nhiều đời cũng ở đó. Một lần đi thuyền về thăm, ông ôn lại bao nỗi đắng cay trong những ngày lưu lạc. Nghe sao mà tha thiết: "Mười năm rồi mình trôi dạc như cánh bèo, Đêm ngày nổi nhớ quê cứ như giày vò trong lòng, Bao lần đã gửi hồn tìm về quê cũ, Nhưng rồi đành nhỏ nước mắt thấm máu mà gội rửa trong tưởng tượng nấm mồ mẹ, mồ mã ông bà, còn xóm làng, bà con, trong lúc giặc giày xéo thì tránh sao được những hành vi bạo tàn của chúng! mà mình thì cứ đang phải thương xót suông, Trời: biết làm sao đây! Một đêm trôi qua bên gối, không cách nào nhắm mắt được" (viết trên thuyền về Côn Sơn - dịch).

- Đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân: Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào: "Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao". Cấy cày là niềm vui: "Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê". Người dân bùn lấm đáng được biết ơn: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh: "Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là", "Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng", xa lánh chốn lợi danh nham hiểm: "Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe". Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm "lòng thơm".

Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân. Có khi ông gọi đó là "lòng trung hiếu", "lòng ưu ái". Nó suốt đời sôi nổi: "Bui có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen", "Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Nó dựa trên lý tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng cao qúy xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với ông, nhân nghĩa là "yên dân", "trừ bạo" hay "Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược". Được như vậy mới thực sự "Có nhân, có trí, có anh hùng". Nhân trí, anh hùng ấy thuộc lòng yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vời. Nói cụ thể như : "cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân". Đất nước bị ngoại xâm, nó hiện thành lòng lòng căm thù giặc cao độ và ý chí kiên trì, gang thép tiêu diệt quân thù: "Căm giặc nước thề không cùng sống", "Nếm mật nằm gai, há phải một sớm hai tối, Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh". Quân giặc quét sạch rồi, nó là khát khao xây dựng một đất nước hưng thịnh, nhân dân đời đời ấm no hạnh phúc: "Xã tắc từ đây bền vững, Giang sơn từ đây đổi mới...., Muôn thởu nền thái bình vững chắc".

User avatar
macco
Posts: 3542
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

TƯỞNG NIỆM ANH HÙNG PHẠM HỒNG THÁI
ÐÃ HY SINH VÌ NƯỚC
NGÀY 19-6-1924 TẠI CHÂU GIANG


MƯỜNG GIANG
Những sử gia chân chính xưa nay khi luận anh hùng, thường không chú trong tới sự thành công vật chất mà chỉ quan tâm tới giá trị tinh thần. Bởi vậy trong dòng sử Việt từ thuở bình minh dựng nước tới nay, ngoài những vĩ nhân tài đức giúp nước chống ngoại xâm như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tôn, Hưng Ðạo Ðại Vương, Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, Nguyễn Trải, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Hoàng, Sãi Vương, Hiền Vương, Nguyễn Hửu Cảnh, Nguyễn Phúc Chu, Quang Trung Ðại Ðế.. Còn có không biết bao nhiêu liệt nữ anh hùng đã hy sinh cho Tổ Quốc và Dân Tộc Việt.

Họ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Nguyễn Biểu, Ðặng Dung, Lê Lai, Trương Công Ðịnh, Ung Chiếm, Bùi Hàng, Thủ Khoa Huân, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Cô Bắc, Phan Bội Châu, Cường Ðể.. Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Bá, Hoàng Cơ Minh, Trần Thiện Khải.. và còn không biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đã hiến đời mình cho đất nước. Tất cả đã không thành công nhưng ‘ thành nhân’ danh thơm muôn thuở , hào khí ngất trời, đáng được cho con cháu nghìn thu ngưởng phục.

Tất cả đều hy sinh vì nước và đều chết dưới tay của kẻ thù. Trong số này hào hùng nhất có lẽ là Tráng Sĩ Phạm Hồng Thái, một mình dám ôm bom vào tận bàn tiệc trong khách sạn Victoria, thành phố Sa Ðiện thuộc tô giới Pháp. Ông quyết giết tên đại thực dân Pháp Martial Merlin là toàn quyền Ðông Dương, trên đường từ Nhật Bổn ghé Hồng Kông trước khi về Hà Nội, để trừ hại cho dân trả hận cho nước và những chiến sĩ đã gục ngã trước giặc Tây. Hôm đó là ngày 19-6-1924, tráng sĩ Phạm Hồng Thái đã không giết được kẻ thù của dân tộc dù bom đã nổ ngay trong bàn tiệc. Sau đó ông bị giặc truy giết và đã quyên sinh dưới dòng nước Châu Giang là con sông ngăn cách giữa Hồng Kông và thành phố Quảng Châu (Quảng Ðông) trên đất Trung Hoa, quyết không để xác thân lọt vào tay giặc ..

Ðúng là ‘ Anh Hùng mạc bã doanh dư luận

Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu

(thơ Mai Xuân Thưởng)

Cụ Phan bội Châu đã dịch‘ Tiết nghĩa đã lưu cùng vũ trụ, hơn thua sá kể với anh hùng’ . Xưa nay, trai hùng và nữ lưu đất Việt thà ‘ chết vinh hơn sống nhục’ , chết trẻ nhưng sống mãi trong lòng dân tộc và đất mẹ VN thân yêu, chứ không ham sống già, sống dai chỉ để níu kéo chút hư danh cát bụi, làm nhục con cháu trước những hành vi khả ố hợm đời.

Năm mươi năm sau, nhằm ngày 27 tết (19-1-1974) khi trận hải chiến Hoàng Sa giữa QLVNCH và Trung Cộng kết thúc, quân Tàu đỏ chiếm được đảo. Có 42 người gồm Hải Quân 16, Trung Ðội Ðịa Phương Quân tỉnh Quảng Nam và 4 nhân viên khí tượng kẹt lại trên đảo , bị giặc bắt làm tù binh. Tất cả bị giải về giam tại Trại thu dụng tù binh của bộ đội tỉnh Quảng Ðông. Trại này nằm trên bờ sông Châu Giang là địa điểm mà giặc Pháp đã phơi thây người Anh Hùng Ðất Việt Phạm Hồng Thái vào tháng 6-1924. Nhưng rồi tất cả 42 người sau đó cũng được TC thả về nước qua ngã Hồng Kông. Chỉ tội nghiệp cho Phạm Hồng Thái vẫn hắt hiu cô đơn lạnh lẽo trong lòng đất suốt mấy chục năm qua nới đất khách quê người, không biết bao giờ nấm xương tàn của người chiến sĩ Quốc Gia, mới được trở về cố quốc. Hởi ôi đời thế nên sao chẳng buồn ?

1- NGHỆ AN QUÊ HƯƠNG PHẠM HỒNG THÁI :

Ngoại trừ thủ đô Hà Nội là đất ngàn năm văn vật, hai tỉnh Nghệ An và Quảng Nam cũng là nơi đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng liệt nữ của dân tộc Việt. Nghệ An là một trong những tỉnh lớn nhất nước, thuộc miền bắc Trung Phần, giáp giới Thanh Hóa, Lào, Hà Tỉnh và Ðông Hải, diện tích chừng 14.000 km2 nhưng phần lớn là rừng núi, sông ngòi mà ít bình nguyên.

Nghệ An là vùng đất cổ xưa của dân tộc nên có rất nhiều di tích lịch sử như đền thờ An Dương Vương, đền và mộ Mai Hắc Ðế, thành Lục Niên, Phượng Hoàng Trung Ðô.. Ðây cũng là quê hương của Phan Bội Châu (Nam Ðàn) , Ðặng Nguyên Cẩn, Ðặng Thái Thân (Hải Côn), Hồ Tông Thốc, Dương Doản Am (Quỳnh Lưu), Hồ Sĩ Dương (Hoàng Hân), Nguyễn Trường Tộ ( Hưng Nguyên).. Sông núi anh linh nên đã hun đúc nhiều anh hùng liệt nữ.


Phạm Hồng Thái còn có tên Phạm Thành Tích hay Phạm Cao Ðà, sinh năm 1896 tại làng Xuân Nga, tổng Văn Viên, phủ Hưng Nguyên gần thành phố Vinh xứ Nghệ, trong một gia đình có truyền thống cách mạng chống thực dân Pháp, lại được chứng kiến cảnh quốc phá gia vong, dân tình khốn khổ lầm than vì sống dước ách nô lệ của ngoại bang. Thêm vào đó là các biến cố chính trị quan trọng đang xảy ra trong nước như vụ đảng viên của VN Quang Phục Hội do Cường Ðể và Phan Bội Châu làm thủ lảnh, đã ném bom vào Hà Nội Hotel để mưu sát toàn quyền Ðông Dương Albert Sarrant, vụ ám sát tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hân, vụ đồng bào chống thuế tại miền Trung. Nhưng quan trọng nhất vẫn là hai cuộc khởi nghĩa của Ðội Cấn và Lương Ngọc Quyến tại Thái Nguyên. Còn vụ thứ hai do Vua Duy Tân cùng hai chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân khởi xướng tại kinh thành Huế.

Do ảnh hưởng trên nên Phạm Hồng Thái đã bỏ học rất sớm giữa lúc đang miệt mài sách vở tại Trường Vinh, ra Bắc dấn thân vào con đường cách mạng chống Pháp. Tại đây ông càng thêm uất ức trước cảnh thực dân Pháp toa rập với Việt gian , thẳng tay bóc lột dân đen, tuy ngoài mặt vẫn giả bộ yêu dân mến nước với các danh từ hoa mỹ, hào nhoáng như ‘ bảo hộ, khai hóa, văn minh.. ’ ’. Do đó ông đã cùng với một số thanh niên yêu nước thời đó, tìm đường xuất dương để học hỏi những điều hay mới của người,hy vọng một ngày đạt được thoả nguyện trên con đường cứu nước, cho vẹn cái chí tang bồng :

‘ Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ

Hà tất cùng sầu đối cỏ cây ‘.

(thơ Nguyễn Bá Trạc)

Năm 1922 Phạm Hồng Thái từ Xiêm sang Trung Hoa, được các nhà cách mạng hải ngoại kết nạp vào Việt Nam Nghĩa Hòa Ðoàn, hoạt động tại Quảng Ðông. Ở đây người Việt không đông lắm và phần lớn đều làm việc trong tô giới Pháp, tức là thành phố Sa Ðiện, ngăn cách với thủ phủ Quảng Châu bởi dòng Châu Giang. Tỉnh trưởng Quảng Châu lúc bấy giờ là Hồ Hán Dân rất có cảm tình với các tổ chức cách mạng người Việt chống Pháp. Ðây cũng là nơi sống lưu vong của một số lãnh tụ Văn Thân và Cần Vương như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật

Phạm Hồng Thái là một trong 9 thành viên của Tâm Tâm Xã gồm có : Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Vũ Hải Thần.. đều là đảng viện thuộc VN Quang Phục Hội do Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể và Phan Bội Châu làm thủ lảnh, hầu hết là người tỉnh Nghệ An, theo chủ trương dùng bạo động chống Pháp. Theo Cường Ðể vào năm 1922, chính ông đã ra lệnh cho Lê Hồng Sơn (Lê Văn Phan) , ám sát Phan bá Ngọc, con trai Phan Ðình Phùng vì tội theo Pháp , phản bội dân tộc. Năm 1924 Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần từ Hàng Châu về Quảng Châu để tái tổ chức lại VN Quang Phục Hội. Dịp này hai ông vào bái yết Tưởng Giới Thạch và Lý Tế Thâm, lúc đó đang chỉ huy Trường Võ Bị Hoàng Phố được xây dựng trên đảo Trường Châu phía đông Quảng Châu, để yêu cầu thâu nhận một số thanh niên Việt Nam và được chấp thuận. Chính thời gian này, cụ Phan đã đổi tên VN Quang Phục Hội thành VN Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ) , đồng thời cải tổ lại cách tổ chức đảng, dựa theo QDÐ Trung Hoa. Sau đó Ông ủy thác cho Hồ Tùng Mậu (Hồ Bá Cư) đưa chương trình và đảng cương về hoạt động trong nước



Còn Hồ Chí Minh lúc đó qua bí danh Nguyễn Ái Quốc, mãi tới tháng 10/1924 mới được lệnh rời Liên Xô sau khi nhận chức ‘ Ủy viên ban Phương Ðông ‘ phụ trách Cục Phương Nam, để chỉ đạo các phong trào CSQT qua lớp vỏ Cách Mạng tại các nước Ðông Nam Á. Như vậy thì làm sao mà đồng chí Lê Hồng Phong được Tâm Tâm Xã cử đi tham sự đại hội với đồng chí Nguyễn Ái Quốc , trong đại hội quốc tế cộng sản lần thứ V tại Mạc Tư Khoa tù 17/6 ố 8/7/1923 như báo đảng đã viết ?

Sau khi Phạm Hồng Thái đã hy sinh vì nước vào ngày 19-6-1924 tại Sa Ðiện, thì tới cuối tháng 10/1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc qua bí danh là Lou, thư ký kiêm thông ngôn cho phái bộ Borodin của Nga ở Quảng Châu, mới đang trên đường từ Mạc Tư Khoa tới Hải Sâm Uy bằng xe hỏa. Ngày 11/11/1924 lần nữa, đồng chí Lou lại đổi tên là Lý Thụy, qua tài trợ của Nga với nhiệm vụ chính là tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản quốc tế, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản tại Ðông Dương. Nhờ lớp son ‘ thư ký kiêm thông ngôn ‘ của Borodin và ‘ phóng viên của hảng thông tấn Rosta’ nên chỉ sau hai tháng, Quốc đã làm quen được với Phan Bội Châu và Nhóm Tâm Tâm Xã. Ðể từ đó âm mưu với Lâm Ðức Thụ vào năm 1925 bán đứng cụ Phan cho mật thám Pháp. Ðồng thời tóm thu hoàn toàn nhóm Tâm Tâm Xã, biến những thanh niên nam nữ yêu nước thành những công cụ phục vụ cho Hồ Chí Minh và cộng sản quốc tế , hại dân hại nước kéo dài tới ngày nay.

Cũng từ đó những cán bộ Tâm Tâm Xã gốc Nghệ An cùng quê với Quốc như Lê Văn Phan (Lê Hồng Sơn), Lê Duy Doãn (Lê Hồng Phong), Hồ Bá Cự (Hồ Tùng Mậu), Nguyễn Công Viên (Lâm Ðức Thụ), Ðặng Xuân Hồng, Lê Cầu, Nguyễn Giản Khanh.. đều lần lượt theo cộng sản từ đầu năm 1925, kể cả rễ của Phan Bội Châu là Vương Thúc Oánh. Với những thành phần còn lại không chịu theo cộng sản, thì Lý Thụy lần lượt thủ tiêu hay báo cho mật thám Pháp bắt, Tâm Tâm Xã coi như tan rã hoàn toàn sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt và an trí ở Huế cho đến lúc qua đời tại Bến Ngự vào năm 1940

2- PHẠM HỒNG THÁI VÀ TIẾNG BOM SA ÐIỆN :

Bấy giờ hầu hết các nhà cách mạng VN chống thực dân Pháp đều tập trung hoạt động tại Nhật Bản và Trung Hoa, trong đó có các lãnh tụ Cường Ðể, Nguyễn Hải Thần, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Ðặng Tử Mẫn.. Vì nhìn thấy sự lớn mạnh của các đảng cách mạng trên, nên toàn quyền Ðông Dương là Martial Merlin quyết định sang Nhật và Tàu, dùng quyền lợi có sẳn tại thuộc địa, san sẽ cho các nước trên, để yêu cầu trục xuất hết các đảng cách mạng cũng như du học sinh VN trong phong trào Ðông Du về nước. Vì vậy các yếu nhân trong tổ chức Tâm Tâm Xã quyết định phải ám sát Merlin khi Y trên đường từ Nhật ghé qua Hồng Kông. Phạm Hồng Thái được Phan Bội Châu ủy nhiệm công tác cực kỳ khó khăn và nguy hiểm trên, lúc đó ông mới 28 tuổi.

Vì Merlin là một nhân vật đặc biệt nên khi đương sự ghé Hồng Kông , được nhà cầm quyền Anh và Pháp tại tô giới, tổ chức lực lượng an ninh bảo vệ cẩn mật, từ nơi tá túc tới địa điểm tổ chức buổi tiệc tiếp tân, tại nhà hàng sang trọng của khách sạn Victoria, nằm trong thành phố Sa Ðiện, thuộc khu tô giới (concession) Anh-Pháp, sát bờ sông Châu Giang

Hôm đó là đêm 19-6-1924 (Giáp Tý). Vì tất cả người Việt đều bị cấm lai vảng đến địa điểm trên, nên Phạm Hồng Thái phải hóa trang thành một phóng viên nhiếp ảnh người Nhật, mới tới được gần khách sạn. Cả khu vực được trang hoàng rực rở với đèn lồng và hoa giấy đủ màu sắc. Merlin được người Tàu tại Quảng Châu tiếp rước thật long trọng với kiệu, kèn trống, cờ xí và dàn nhạc bát nhả. Theo hầu sau trước có lính Tàu bảo vệ, còn đội lính thủy người Ấn Ðộ của Anh thì canh gát vòng ngoài chật như nêm. Hoạt cảnh lúc đó không khác gì các cuộc du hành của vua chúa ngày xưa với tiền hô hậu ủng mà ai cũng thấy qua các phim Tàu.

Ngoài Merlin và đoàn tuỳ tùng đông đảo từ Hà Nội sang. Buổi tiệc đêm đó còn qui tụ nhiều chức quyền của Tây phương đang có mặt tại Cảng Thơm như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Bồ.. với các mệnh phụ phu nhân người Hoa lẫn ngoại quốc, cùng với đoàn nữ vũ công bản xứ xinh đẹp múa hát giúp vui. Tóm lại trong đại sảnh có hơn 50 người toàn yếu nhân hiện diện. Tiệc do các thương gia Anh Pháp tại Quảng Châu khoản đãi. Khách danh dự đêm đó ngoài Merlin còn có Giám đốc Ngân Hàng Anh tại địa phương và lãnh sự Pháp tại Hồng Kông tham dự. Vì cả hai có bộ dạng bên ngoài hao hao với Merlin, nên Pham Hồng Thái đã nhìn lầm và đánh bom lạc mục tiêu, nhờ vậy tên đại thực dân mới thoát chết, chỉ bị thương nhẹ

Ðêm đó thực dân Anh Pháp đã bố trí rất nhiều công an mật thám, thủy binh Ân Dộ kể cả lính Tàu nhưng Phạm Hồng Thái vẫn đột nhập được vào gần bàn tiệc của Merlin và ném chiếc máy chụp hình vào ngay mục tiêu định sẳn, trong đó đã gài sẳn một trái bom nhỏ nhưng có sức tàn phá ghê gớm. Bom nổ làm rung chuyển cả căn phòng lớn làm tung vở cả đồ đạc tại chổ, đèn điện phụt tắt , nhiều người thương vong, trong đó có tên lãnh sự Pháp tại Quảng Châu là Louis Cordeau, tên giám đốc ngân hàng Anh ở Hồng Kông với một chính khách Trung Hoa và một vũ nử ngồi kế Merline. Cộng chung đêm đó có 6 người chết và 28 người bị thương, khiến cho Merlin và bè lủ Pháp có mặt tại chỗ gần như vở mật kinh hồn. Còn những người ngoại quốc khác thì thán phục. Riêng người Hoa vô cùng nể phục và cám ơn VN đã thay họ ‘ trả được mối hận ‘ bị tây phương và Nhật đang xâu xé đất nước mình, mà bất lực không làm gì được.

Tuy tên toàn quyền Ðông Dương không chết nhưng ảnh hưởng của tiếng bom Sa Ðiện lúc đó như một lời thách thức của người Việt Quốc Gia yêu nước đối với thực dân Pháp đang cưởng chiếm lảnh thổ VN, rằng phải có một ngày không xa Người Việt sẽ quét sạch chúng ra khỏi nước như quá khứ đã từng đánh đuổi giặc Tàu xâm lược phương Bắc. Tin được báo chí tại Quảng Ðông cũng như Anh, Pháp, Nhật loan tải một cach trang trọng chiếm hết trang nhất. Tên tuổi của Anh Hùng Phạm Hồng Thái, hiên ngang một mình ôm bom vào tận bàn tiệc quyết giết toàn quyền Pháp tại Ðông Dương là Merlin để trả thù rữa hận cho tổ quốc VN, được toàn thế giới lúc đó đón nhận và kính phục.

3- PHẠM HỒNG THÁI NGÀN NĂM LIỆT OANH :

Sau khi thi hành xong nhiệm vu, lợi dụng sự hổn loạn và bóng tối nên Phạm Hồng Thái thoát khỏi khách san nhưng ông vẫn bị bọn công an mật thám và đám thủy binh Ấn Ðộ truy đuổi gắt gao ở phía sau. Giữa lúc vô cùng nguy ngập, lại không có ai tiếp ứng, trong khi đó bên mình chỉ có một khảu súng lục phòng thân, mà trước mặt là bờ sông Châu Giang mênh mông sóng nước ngăn chận. Nhưng Phạm Hồng Thái vốn là người can đảm phi thường, anh hùng cái thế, nên mới dám nhận lảnh một nhiệm vụ khó khăn đầy nguy hiểm, biết trước chỉ có con đường chết dù có thành công hay thất bại. Bởi thế sau khi bắn tới viên đạn cuối cùng, ông lấy hết sức bình sinh dỏng dạc la lớn ‘ Việt Nam Muôn Năm ‘ rồi lao mình xuống dòng nước đang chảy xiết quyên sinh, quyết không để sa vào tay giặc. Lúc ấy ông mới 28 tuổi, đang trong lứa tuổi xuân thì đầy mộng mơ hoa bướm của đời người.

Trên mặt sông xuất hiện hằng trăm chiếc ca nô chở đầy lính tráng, đèn mở soi sáng cả một vùng, lùng sục truy tìm cho được xác Phạm Hồng Thái. Còn hai bên bờ sông, lính Anh Pháp tại tô giới vẫn túc trực canh chừng suốt đêm ngày, quyết tâm tìm cho được thi hài người trai hùng nước Việt, để hành hạ trả thù cái nhục của tên toàn quyền thực dân Pháp Merlin bị ám sát trước đám đông, không thể nào tẩy xóa cho hết được, dù hắn sau khi từ Sa Ðiện về Hà Nội, đã điên cuồng ra lệnh đàn áp dữ dội các phong trào cách mạng VN hơn bao giờ hết.

Ðúng ba ngày sau xác của Phạm Hồng Thái nổi lên mặt nước và tấp vào chân cầu Châu Giang. Lập tức lảnh sự Pháp tại Sa Ðiện ra lệnh vớt lên bờ nhưng không cho đem chôn cất, mà để đó phơi nắng mưa sương gió suốt ba ngàyđêm, mặc cho ruồi bọ và kiến lửa bu đầy cấu xé rất thê thảm đau lòng, khiến cho ai nhìn thấy cũng không cầm nổi giòng lệ, xót thương cho người trai hùng nước Việt.

Ðó là hành động dã man của hầu hết bọn thực dân da trắng, miệng lúc nào cũng nói nhân nghĩa đạo đức, văn minh khai hóa nhưng thực chất chỉ đi xâm lược nước người mà quá khứ ai cũng biết. Bởi vậy bọn Pháp đã bị dân chúng Trung Hoa tại địa phương phản đối dữ dội, đồng thời họ khiếu nại với nhà cầm quyền Quảng Châu, can thiệp với thực dân phải để họ chôn cât thi hài của Phạm Hồng Thái, giữ vệ sinh công cộng. Cuối cùng vì sợ bị mất mặt trước dư luận thế giới, nên Pháp đành giao xác ông cho người Tàu.

Nhờ sự vận động của các đảng phái cách mạng VN tại Trung Hoa, nên cuối cùng xác ông được chuyển giao cho Hội Quảng Tế Y Viện tẩn liệm và đem chôn dưới chân đồi Bạch Vân trông ra giòng Châu Giang là nơi mà liệt sỹ đã hy sinh vì nước. Hầu hết các lãnh tụ VN hải ngoại đều tham dự đám tang. Chính cụ Phan Bội Châu đã thân hành viết mộ bia cũng như sáng tác nhiều tác phẩm liên quan đến người Anh Hùng Phạm Hồng Thái như : Phạm Liệt Sỹ Hồng Thái Tiên Sinh Truyện, Tuyên Ngôn Thư của VN Quốc Dân Ðảng về Tiếng Bom Sa Ðiện, Văn Tế truy điệu Liệt Sỹ Phạm Hồng Thái..

Năm sau vì cảm hóa và kính phục trước cái chết liệt oanh của một Tráng Sỹ Anh Hùng Việt Nam, đã làm cho bọn thực dân Anh-Pháp phải vở mật kinh hồn ngay trên đất Trung Hoa mà chính người Trung Hoa phải cúi đầu khuất phục chúng. Do đó các lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Ðảng như Uông Tinh Vệ, Liêu Trọng Khải và Tỉnh Trưởng Quảng Châu là Hồ Hán Dân, đã bỏ ra số tiền 3000 đồng , để cải táng mộ của Phạm Hồng Thái từ chân đồi Bạch Vân về chôn tại Hoàng Hoa Cường là Nghĩa Trang Quốc Gia, nơi an giấc nghìn thu của 72 Liệt Sĩ Trung Hoa đã hy sinh đầu tiên, trong cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911, lật đổ nhà Mản Thanh.

Hoàng Hoa Cương nằm cách thủ phủ Quảng Châu của tỉnh Quảng Ðông chừng 2km, đạy là thánh địa tôn quý của Trung Hoa Dân Quốc lúc bấy giờ. Sự kiện di cốt của Anh Hùng Phạm Hồng Thái được nằm cạnh các Liệt Sỷ Trung Hoa, mang một ý nghĩa to lớn về tinh thần, nói lên sự ngưởng phục những người vì dân vì nước, không phân biệt chủng tộc. Mộ của Liệt Sỹ nằm trên một hòn núi nhỏ trước Hoàng Hoa Cương, đối diện với hàng mộ bia của 72 Liệt Sỹ Trung Hoa., được kiến trúc rất hùng vỹ, có xây bia đình và một tấm mộ bia cao lớn do Trần Lộ Tiên Sinh đề ‘ Việt Nam Liệt Sỹ Phạm Hồng Thái Tiên Sinh Chi Mộ ‘.

Hôm giổ đầu tiên của Liệt Sỹ nhằm ngày 19-6-1925, hầu như tất cả các nhà Cách Mạng VN và Trung Hoa đều tham dự . Bọn thực dân Pháp tại tô giới phản đối kịch liệt nhưng chẳng làm gì được vì Hoàng Hoa Cương thuộc lảnh thổ Trung Hoa, hơn nữa đây là thánh địa tôn quý và thiêng liêng của người Tàu, nên chúng không dám đến phá phách vì sợ gây rắc rối ngoại giao , trong lúc khắp nơi đang sôi sục phong trào nổi dậy đánh đuổi bọn thực dân da trắng và Nhật ra khỏi đất Tàu.

Tiếng bom Sa Ðiện tuy không giết chết được Merlin nhưng cũng đã làm cho tên đại thực dân Pháp mất vía và mất mặt trước đại diện của các nước Anh, Mỹ, Bồ, Nhật.. tại Quảng Châu. Ðể trả thù người Việt, một mặt Phap ra lệnh cho toàn quyền Ðông Dương phải thẳng tay đàn áp và dập tắt cac phong trào chống Tây trong nước. Mặt khác bọn công sứ Pháp tại Bắc Kinh yêu cầu chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, phải ra lệnh cho nhà cầm quyền Quảng Châu, trục xuất hết các đảng phái cách mạng VN hải ngoại về nước. Ðồng thời bắt Tàu bồi thường thiệt hại và xin lỗi nước Pháp. Nhưng tất cả thái độ trịch thượng trên đều bị Tỉnh truởng Quảng Châu là Hồ Hán Dân cự tuyệt một cách quyết liệt.

Tám mươi năm thực dân Pháp làm mưa gió tại VN thì cũng liên tiêp trong 80 năm đã có không biết bao nhiêu người yêu nước đã dấn thân chống lại. Trong hằng triệu anh hùng liệt nử VN đã hy sinh vì nước, Liệt Sỹ Phạm Hồng Thái tuy chưa đạt được mục đích là giết tên toàn quyền Pháp Merlin Nhưng ông đã thành công trong sứ mạng là làm cho kẻ thù phải khiếp sợ và kính nể người VN, nêu gương anh hùng dũng liệt, làm gương cho những thế hệ của VN Quốc Ðảng kế tiếp như Ðảng Trưởng Nguyễn Thái Học cùng với những Anh Hùng Xứ Nhu, Phó Ðức Chính, Ðặng Trần Nghiệp, Lương Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Tường Tam..

Khác với tâm trạng của kẻ sĩ thời xưa là liều chết vì tri kỷ hay vua chúa. Ngược lại Liệt Sỹ Phạm Hồng Thái ngày trước hay các vị Tướng Lảnh VNCH thời nay như Pham Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng , Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn năm 1975 hay gần đây có Trần Văn Bá , Hoàng Cơ Minh, Võ Ðại Tôn, Lý Tống, Nguyễn Thi Ngọc Hạnh.. liều chết hay vào tù ra khám .. cũng chỉ vì Ðại Nghĩa Dân Tộc, qua sứ mệnh chống Pháp và cộng sản đệ tam quốc tế.

Ðời xưa hay thời nay, con người sống trên cõi thế, hơn nhau chỉ có một tiếng ‘ Anh Hùng ‘ mà thôi. Còn tất cả đều vô nghĩa đâu có gì đáng nói ?

Mường Giang

User avatar
dodom
Posts: 2723
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Image

Lịch sử: Giai thoại các danh nhân và con trâu
Hoàng đế chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh

Ai cũng biết trong sử sách nước ta, vua Đinh Tiên Hoàng xuất thân là một mục đồng hồi bé, chăn trâu cắt cỏ cho người chú là Đinh Thúc Dự. Thuở nhỏ cậu bé Đinh Bộ Lĩnh chăn trâu cùng các bạn nhỏ, thường bày ra trò chia phe đánh trận, tay cầm ngọn cỏ lau dài làm khí giới và cờ phướng lọng quạt, cưỡi trên lưng trâu. Sau này “Cậu bé chăn trâu” trở thành tướng quân họ Đinh oai phong lẫm liệt dẹp được loạn “Thập Nhị Sứ Quân”

xưng đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, mở ra một trang sử mới cho đất nước Đại Cồ Việt...


Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cỡi trâu xung trận

Trong trận đánh giặc Nguyên - Mông trên sông Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cỡi voi vượt qua sông Hóa, không may con voi bị sa lầy. Ông đành phải xuống voi. Quân lính cùng nhau ra sức kéo lên nhưng con voi càng bị lún sâu, chẳng hề nhúc nhích. Con voi này đã từng đưa Hưng Đạo Vương xông pha nơi trận mạc. Ông động viên quân lính cố hết sức đẩy con voi ra khỏi bãi lầy... nhưng cuối cùng đành bất lực.

Ngay lúc ấy, có một chú bé chăn trâu chạy đến thưa với ông rằng: “Bây giờ voi không đưa Ngài qua sông được nữa, xin Ngài cỡi lên lưng con trâu của cháu, cháu sẽ giong trâu bơi qua”.

Hưng Đạo Vương nhìn chú bé mỉm cười rồi gật đầu và nói: “Cháu bé giỏi lắm! Thế thì cháu ngồi trước còn ta thì ngồi sau. Cháu ngồi trước thì mới cầm dây thừng giong trâu chứ !”.

Chú bé vâng lời. Đoàn quân sung sướng nhìn vị tướng và chú bé cưỡi trâu sang sông. Hưng Đạo Vương quay lại nhìn con voi bị sa lầy đang chìm dần dưới lớp bùn, ứa nước mắt và nói: “Đến ngày ta thắng trận, ta sẽ dựng tượng voi và cả tượng con trâu này bên bờ sông”.

Đào Duy Từ : Kẻ chăn trâu quân tử

Đào Duy Từ bỏ Đàng Ngoài vào Đàng Trong để đi tìm minh chúa. Những ngày đầu tiên đến đất Hoài Nhơn, chưa gặp người giúp đỡ, ông phải đi ở chăn trâu cho nhà họ Chúc, thuộc thôn Tùng Châu, phủ Quy Nhơn. Một hôm, dắt trâu qua cửa tư thất một vị tướng thì nghe tiếng đọc sách và bàn luận chuyện văn chương, chính sự, ông liền buộc trâu lại đứng nghe. Viên quan thấy vậy liền gọi vào và hỏi:

- Anh có biết chữ không?

- Thưa, tôi vừa nghe các ngài bàn về nho tiểu nhân và nho quân tử. Tôi lấy làm thú vị lắm!

- Thế anh hiểu thế nào là nho quân tử và nho tiểu nhân?

- Thưa ngài, về nho thì tôi chưa được rõ. Tôi chỉ biết đi chăn trâu nên chỉ xin được nói về kẻ chăn trâu. Có kẻ chăn trâu quân tử, có những kẻ chăn trâu tiểu nhân, cũng như các ngài nói về nhà nho vậy. Chăn trâu tiểu nhân là những kẻ dắt trâu ra đồng ăn cỏ, đến tối là dắt trâu về, không nghĩ ngợi, lo lắng chi cả. Còn kẻ chăn trâu quân tử là những kẻ vừa chăn trâu vừa ôn tài, luyện chí, chưa gặp dịp nên tạm theo việc để sinh nhai đó thôi. Sử sách ngày xưa còn ghi lại không hiếm gì kẻ chăn trâu quân tử. Nịnh thích làm tưởng nước Tề, Bách Lý Hề làm tướng nước Tần, trước đều là những kẻ chăn trâu cả đấy!

Viên quan thấy lời lẽ như vậy, đoán ngay đây là một nhân tài, liền báo với chúa Nguyễn dùng lễ mời Đào Duy Từ ra giúp, tạo nên cơ nghiệp nhà Nguyễn ở xứ Đàng Trong.

Thiên Hộ Dương và đội binh trâu

Thiên Hộ Dương là lãnh tụ nghĩa quân ở Đồng Tháp Mười hồi cuối thế kỷ XIX. Ông có tài đặc biệt là cưỡi trâu ra trận. Đã có lần ông đem các thuộc hạ ra bờ kênh xem ông cưỡi trâu từ dưới nước vượt lên bờ. Các tướng cố sức ngăn cản những đường roi của ông nhưng ông đã gạt phăng hết khí giới của họ, thúc trâu tả xông hữu đột khiến mọi người đều thán phục.

Biết ông có tài đặc biệt ấy, nghĩa sĩ Đồng Tháp Mười đều hưởng ứng, đến qui phục dưới cờ ông. Có một người dẫn đến hàng trăm con trâu rừng đã được anh ta thuần phục. Anh điều khiển trâu không cần tiếng la hét, hay dùng roi vọt mà bằng tiếng... mõ. Cứ theo tiếng mõ của anh mà đàn trâu biết tiến, thoái, biết quì phục tùy theo ý của người chỉ huy.

Thiên Hộ Dương đã tiếp nhận người nghĩa sĩ này và giao cho anh ta chỉ huy một trận đánh. Đội quân trâu tuân theo tiếng mõ của anh ào ạt xông vào đội hình bọn giặc. Giặc trở tay không kịp chạy tán loạn. Tiếng mõ bèn chia đàn trâu làm hai toán rượt theo giặc. Giặc bắn ra, đàn trâu cũng biết nghe theo tiếng mõ để tránh đạn vì vậy mà có rất ít con trâu bị thương, còn phía địch thì hoảng loạn, tan rã hàng ngũ. Sau trận đánh thắng lợi này, Thiên Hộ Dương đã phong cho nghĩa sĩ chỉ huy đội quân trâu là Ngưu quân Thượng tướng.

Phạm Phú Thứ: dùng xe trâu đưa nước vào ruộng

Việt sử có ghi, năm 1865, triều đình nhà Nguyễn bắt đầu cho chế xe tát nước bằng sức trâu kéo, phỏng theo cách thức phương Tây. Sở Đốc công chịu trách nhiệm chế tạo 27 cỗ xe để đưa cho các tỉnh từ Phú Yên, Bình Định đến Nghệ An, Thanh Hóa làm mẫu rồi theo đó mà chế tạo.

Giai thoại đất Quảng kể rằng: Khi tiến sĩ Phạm Phú Thứ theo phái đoàn sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, lúc đến sông Nil (Ai Cập) ông để ý đến loại xe nước giống như bên ta nhưng to lớn và thay vì dùng chân để đạp thì lại dùng trâu để kéo. Ông sai người vẽ lại thật tỉ mỉ hình ảnh và cách vận hành chiếc xe trên. Ông mang về nước bản vẽ ấy rồi đem bàn với các lão nông giàu có tìm cách thực hiện.

Như đã nói, bánh xe giống như bánh xe đạp nước và hoàn chỉnh hơn đem đặt ở bờ sông hay bờ hồ. Cái trục giữa của xe đưa thẳng vào bộ máy chạy toàn bằng các bánh xe có răng cưa theo cách vận hành của đồng hồ quanh một cái trục lớn đứng thẳng. Từ trục ấy đưa ra một đòn gỗ dài mà cuối cùng là nơi bắt ách trâu. Trâu dùng từ một đến hai con và chúng đi chung quanh cái trục dưới ngọn roi của người giữ trâu. Các bánh xe răng cưa vận hành cho trục ngang quay để xe từ từ đưa nước vào máng dẫn nước chảy vào ruộng.

Chiếc xe trâu đầu tiên đóng tại Hòa Vang (Quảng Nam) và được nhân dân mến mộ, dần dần phát triển cách thức dẫn thủy mới mẻ này.

Về sau, người ta tôn ông Phạm Phú Thứ là “hậu tổ” xe trâu (đây là xe trâu đưa nước vào ruộng chứ không phải xe trâu chở rơm rạ hay nông cụ thường thấy). Gọi Phạm Phú Thứ là “hậu tổ” vì “ông tổ” nó ở tận bên sông Nil, xứ Ai Cập.

Cậu bé chăn trâu trở thành tiến sĩ

Xin kể qua về Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn (1825-1889). Ông quê ở xã Lương Điền, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, thuở ấu thơ sống trong một gia đình nghèo khổ, nên ông phải đi chăn trâu cho một phú hộ trong làng. Phú hộ có nuôi một thầy đồ dạy học cho cậu quý tử của mình, hằng ngày ông đi ngang qua phòng học để “nghe lén học lóm”. Khi lùa trâu ra đồng, ông dùng lưng trâu làm bảng, dùng đất sét làm phấn để viết lại những chữ đã học, tiếp thu rất nhanh. Ngày nọ, ông thầy đồ xin gia chủ nghỉ phép về quê, trước khi đi có để lại một bài tập rất khó, lắt léo nhiều điểm cốt ý khiến cho cậu chủ nhỏ điên đầu nhức óc đánh vật với chữ nghĩa trong suốt thời gian thầy đồ vắng mặt. Nguyễn Xuân Ôn bấy giờ mới làm giùm bài cho cậu chủ. Khi ông thầy đồ trở lại, ông kinh ngạc đến sửng sốt vì không thể ngờ cậu chủ lại làm bài quá xuất sắc như vậy. Thầy hỏi dò nơi phú hộ xem thử trong thời gian thầy vắng có vị khoa bảng nào ghé đến nhà chơi hay không, vì thầy chắc chỉ có “cỡ khoa bảng” mới làm được “bài tập hóc búa” mà thầy ra cho cậu chủ. Ông phú hộ khăng khăng là không có ai đến nhà. Vặn hỏi một hồi, cậu chủ cuối cùng khai ra người làm bài tập là “thằng ở đợ chăn trâu”. Thầy đồ lập tức mời Nguyễn Xuân Ôn lên ngồi “ngang mâm cùng chiếu” với mình. Sau đó ông giúp đỡ để “cậu bé chăn trâu” họ Nguyễn được học hành đến nơi đến chốn. Nguyễn Xuân Ôn được thầy thương yêu, hết lòng dốc sức mài sử sôi kinh để báo đáp ân sư. Sau, ông đậu Tiến Sĩ vào năm 1871, làm quan tiến chức dưới triều vua Tự Đức...

NGUYỄN NHÂN THỐNG - MÃN ĐƯỜNG HỒNG
Last edited by dodom on Sat Sep 19, 2009 6:32 am, edited 1 time in total.

User avatar
saulong
Posts: 114
Joined: Thu Aug 06, 2009 6:02 pm

Post by saulong »

Image

Ðại Nghĩa Và Dân Chài



Các nhà quân chính khi làm một việc gì lớn lao thường phải lo giảng luận vấn đề danh nghĩa. Tuy có binh lực mạnh trong tay nhưng nhiều lúc họ vẫn e ngại dùng dằng, sợ cái cái sự xuất vô danh ra quân không có gì danh nghĩa, thẹn mặt với dư luận đương thời, đắc tội với sử sách ngàn thu .

Danh nghĩa dễ nhận thức, nhất là Ðại Nghĩa Dân Tộc. Kẻ thù đến xâm chiếm đất nước mình, mình có bổn phận phải đánh đuổi bọn nó đi. Còn như đánh nổi hay không thì đó lại là một việc khác. Vấn đề được đặt ra là dám làm hay không dám làm. Ðại sự trong thiên hạ không có gì lớn hơn việc đánh đuổi quân xâm lược .

Thực dân pháp xâm lược nước ta. Năm 1862, chúng đã nuốt được ba tỉnh Miền Ðông. Chưa thỏa mãn túi tham. năm 1867, chúng nuốt luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên ở Miền Tây nữa. Thế là mất trọn 6 tỉnh Nam Kỳ !

Những người yêu nước bừng bừng nổi giận. Trong số ngưòi dám nổi giận này có một gã dân chài. Và gã đã lập được hai chiến công làm vinh rạng rỡ sử sách

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên điạ
Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỷ thần !

Nghĩa là: ngọn lửa hồng ở vàm Nhật Tảo làm nổ chiến thuyền Espérance của giặc, tiếng nổ vang dội đến Chợ Lớn còn nghe. Lưỡi gươm sáng loáng vung lên ở kiên giang, quỷ thần cũng phải kinh hoàng gào khóc !

Hai chiến công này làm cho lịch sử Việt Nam sống động hẳn lên . Thiệt là những chiến công vô song mà sử sách đã được vinh hạnh ghi chép. Vận nước gặp hồi truân chuyên, ít nhất cũng phải có một quốc sĩ dám vùng lên. Vùng lên, giáng cho quân thù những đòn quyết liệt rồi có chết cũng cam tâm. Người dân chài - quốc sĩ ấy là Nguyễn Trung Tr ực .

Ngày 17-6-1868 (Năm Mậu Thìn, 27 tháng 4 nhuận) thiếu tướng Ohier đem quân đi tàn sát Miền Tây. Ðến Sóc Trăng, nghe tin dân chúng sắp khởi nghĩa, thiếu tướng vội vàng sai người báo tin cho quân Pháp hay. Nhưng đã trễ rồi !

Ðêm ấy, Lâm Quang Ky xuất phát từ Tà Niên (xã Vĩnh Hoà Hiệp quận Kiên Thành) do đường biển sang Rạch Gía phối hợp với quân của xã Tấn ở Hòn Chông dưới sự chỉ huy của Nguyễn Trung Trực. Kết quả trận kỳ tập: 5 sĩ quan Pháp, 67 binh sĩ địch bị giết, chỉ có một lính Pháp chạy trốn, sống sót là Du Pleissis .

Nghĩa quân làm chủ tình hình Rạch Giá được ba ngày .

Ðến ngày 21, Pháp đem lực lượng hùng hậu từ Vĩnh Long xuống, mở trận phản công .

Lâm Quang K ỳ rút lui về vùng Kim Quy (Cà Mâu) Nguyễn Trung Trực rút ra Phú Quốc .

Pháp đem tàu Le Goelaud chở 125 lính mã tà đổ bộ lên Hàm Ninh. Tên việt gian, Huỳnh Công Tấn buộc dân làng phải làm hướng đạo cho chúng truy kích nghĩa quân. Bị giặc bao vây và hết lương thực, Nguyễn Trung Tr ực đành phải chịu nạp mình để cho giặc đắc thắng rút lui. Một số nghĩa quân nhờ đó mà trốn thoát, duy trì ngọn lửa chiến đấu...

Ngày 27.10.1868, Nguyễn Trung Trực bị Pháp hành quyết ở Rạch Giá .

Cái chết của vị anh hùng tuẫn quốc này gây một mối xúc cảm sâu xa trong lòng dân chúng. Mặc dầu sống dưới chính quyền thuộc địa, dân chúng vẫn bí mật tìm cách thờ phụng Nguyễn Trung Trực như ở đình Vĩnh Thanh Vân (Rạch Giá). Người quốc sĩ – dân chài được dân thờ chung với Nam Hải tướng quân (danh hiệu cá voi theo tín ngưỡng miền biển).

Lại có đền thờ ở làng Vĩnh Hoà (Vĩnh Hoà Hiệp) nữa .

Cúc Nông Tiên Sinh có bài thơ tứ ngôn ghi lại sự tích và chiến công:

Ủy bỉ ngư nhân
Hùng tai quốc sĩ!
Hỏa Nhật Tảo thuyền,
Ðồ Kiên Giang lũy,
Ðịch khải đồng cừu,
Ðam đam Bạch Quỷ!
Cổ miếu lâm lưu,
Chương ngã trung nghĩa!

Chúng tôi phỏng dịch như sau:

Thương kẻ dân chài,
Mạnh thay quốc sĩ
Nhật tảo đốt thuyền,
Kiên Giang phá luỹ.
Thề với lòng son .
Ðuổi quân Bạch Quỷ
Miếu cũ nhìn sông
Rạng lòng trung nghĩa .

Ngọn lửa chiến đấu được chuyển sang tay Quản Hớn ở Hóc Môn, Ðỗ Thừa Tự ở U Minh, Trần Văn Thành ở Thất Sơn .

Toàn những tấm gương phấn dũng làm rạng rỡ sử sách. Tưởng niệm những anh hùng tuẫn quốc là nhiệm vụ của tất cả chúng ta .



Lam Giang Nguyễn Quang Trứ (1919-2009)
Truyện Hay Trong Sử Việt

User avatar
macco
Posts: 3542
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image

NỮ TƯỚNG BÙI THỊ XUÂN

Lãng Nhân - Hương sắc quê mình
Bà quê ở thôn Xuân Hoà, xã Bình Phú, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, Trung Việt, bà bẩm sinh thông tuệ và sức vóc hơn người, thêm cử chỉ đoan trang, nên được chung quanh kính nể. Thuở nhỏ theo đòi nghiên bút, lớn lên ham tập binh đao và nhất là học điều khiển voi trận.

Ngoài hai mươi, kết duyên cùng tướng Trần Quang Diệu của nhà Tây Sơn, chiêu mộ người làng cùng theo giúp chồng, lại lập riêng một đoàn nữ binh tinh nhuệ nức lòng theo vì phục tài thao lược và cảm mến đức tính cao quý của bà: không bao giờ ra lệnh giết những người đối phương đã bị bắt.

Trung thành với anh hồn vua Quang Trung sớm băng, hai vợ chồng đem hết lòng dũng cảm phò tá vua con Cảnh Thịnh trong lúc triều Tây Sơn suy yếu vì triều thần ganh tị nhau, chia bè kéo cánh, nguy hại cho thể thống.

Bấy giờ, nước ta chia làm hai phần: từ tỉnh Khánh Hoà miền nam Trung Việt ra Bắc dưới quyền triều Tây Sơn. Từ Khánh Hòa vào miền Nam do Nguyễn Ánh cai quản. Từ Khánh Hòa tới Qui Nhơn, vua Quang Trung dành quyền cho con Nguyễn Nhạc là Nguyễn Bảo chấp chính. Không ngờ Bảo mắc mưu Ánh, đầu hàng. Vua Cảnh Thịnh cho Vũ Văn Dũng cùng Trần Quang Diệu đem đại quân vào đánh Qui Nhơn, vây hãm hai mặt bộ và biển: hai tướng giữ thành, Ngô Tòng Châu uống thuốc độc tự tử, Võ Tánh nhảy vào đống lửa tự thiêu.

Thừa lúc đại quân Tây Sơn bận ở Qui Nhơn lại nhân có gió mùa đông bắc, Ánh cho một đạo quân ra tập kích Phú Xuân. Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng quân ở núi Linh Thái không ngăn nổi quân Ánh do Lê Văn Duyệt chỉ huy đổ bộ chiếm cửa Tư dung. Vua Cảnh Thịnh đích thân đem binh ra kháng chiến, nhưng không nổi, phải chạy ra Nghệ An. Phú Xuân vào tay Ánh. Dừng lại Nghệ An, vua Cảnh Thịnh cử em là Nguyễn Quang Thùy cùng bà Bùi Thị Xuân tiến quân vào Quảng Bình đẩy lui binh Ánh. Hai tướng liên tiếp uy hiếp lũy Trấn ninh và Đâu mâu, song không thắng được ngay. Vua Cảnh Thịnh nóng ruột, muốn lui quân. Bà Bùi Thị Xuân xin tiếp tục chỉ huy cuộc chiến. Có ngày bà thúc quân đánh phá lũy Trấn Ninh từ sáng đến hoàng hôn khiển quân Ánh nao núng.

Rủi ro xảy đến do một tì tướng Tây Sơn làm phản, nên trận Sông Gianh thua, kéo theo sự đầu hàng của một tướng khác ở lũy Động Hải, khiến bà Bùi Thị Xuân phải chia quân cứu ứng hai nơi, thành ra thể quân của bà ở Trấn Ninh suy giảm. Thấy quân Ánh sắp đổ bộ ở sông Gianh, Nguyễn Quang Thùy hoảng sợ rút binh, lui rồi bà Xuân mới biết. Bấy giờ bà đã tràn vào lũy Trấn Ninh, trọng yếu hơn các lũy khác.

Nhưng sự thoái chí của Thùy làm tinh thần binh sĩ sa sút, xin buông khí giới, hùa nhau chạy tán loạn. Cực chẳng đã, bà Xuân phải cùng một số quân trung kiên chạy về Nghệ An.

Ở đây ít lâu bà gặp lại chồng, Thái phó Trần Quang Diệu tuy chiếm được Qui Nhơn song không chống được quân địch từ hai phía, Bắc không chống được địch từ Phú Yên đánh ra và Nam từ Quảng Nam ập vào Phải hợp với Vũ Văn Dũng đỉ xuyên sơn qua Lào về Nghệ.

Rồi Nghệ thất thủ, vợ chồng cùng con gái chạy ra huyện Hương Sơn, sau tới huyện Thanh Chương thuộc miền núi tỉnh Thanh Hóa. Quân Ánh bủa vây nhiều lần không hiệu quả vì không địch lại đàn voi trận của bà Bùi Thị Xuân.

Sau Ánh cho lựa một số người giảo hoạt cải trang thành dân quê thường ngày đem cơm xôi hoa quả tiếp tế và tỏ lòng mến phục trung thành. Mới đầu vợ chàng ngờ vực, dần dần không để ý đề phòng đến nỗi mắc mưu, bị bắt. Ánh muốn dụ về hàng nhưng Trần Quang Diệu trả lời:

- Tôi trung không thờ hai chủ.

Thế là Trần Quang Diệu bị chém ngang lưng. Bà Bùi Thị Xuân cùng con gái 15 tuổi bị voi giày.

Giáo sĩ De la Bissachère mục kích vụ hành hình dã man này, đã kể lại trong cuốn ký sự "Relation sur le Tonkin et la Cochinchine" (tường thuật về Bắc Kỳ và Nam Kỳ) xuất bản năm 1807:

"Bùi Thị Xuân không đổi sắc, tiến đến trước con voi như chọc tức nó. Mấy võ quan ra lệnh bắt bà quỳ xuống. Bà cứ thản nhiên tiến bước. Voi lùi lại. Lính cầm dáo thọc vào đùi voi, con vật đau xông lên giương vòi quắp lấy bà, tung lên trời. Bùi Thị Xuân tắt thở rồi chúng lấy dao cắt lấy tim gan và thịt ở cánh tay, chia nhau ăn sống, ý chừng muốn được dũng mãnh như bà..."

Đời sau có thơ ca ngợi và kính phục vị nữ anh hùng:

Xưa nay khăn yếm vượt mày râu
Bùi thị phu nhân đứng bậc đầu
Chém tướng, chặt cờ, khoe kiếm sắc
Vào thần, ra quỷ, tỏ mưu sâu
Quên nhà, nợ nước đem toan trước
Vì nước, thù nhà để tính sau
Tài đức nghìn thu còn nức tiêng
Non Côn cháy ngọc bởi vì đâu? (1)

(khuyết danh)

Lãng Nhân - Hương sắc quê mình

____________________

Chú thích:

1. Non Côn cháy ngọc: Kinh Thư - Dận chinh – “hỏa viêm Côn cương, ngọc thạch câu phần". Lửa bốc cháy núi Côn, ngọc với đá cùng bị cháy. Sái Trầm tiên sinh đời Tống giải thích: Tám chữ trên chính là chê trách chính sự tàn bạo, không phân biệt kẻ tốt người xấu, đem giết hết, vậy thì còn khốc liệt hơn cả lửa cháy thiêu rụi hết, không phân biệt ngọc với đá nữa. "Non Côn cháy ngọc" thi nhân dùng bốn chữ này có ý nói trong lúc Tây Sơn suy yếu, chúa Nguyễn thừa cơ dấy lên nhưng chính sách quá tàn bạo, trang liệt nữ như bà Bùi Thị Xuân mà đem phanh thây thật là không biết phân biệt đâu là đá đâu là ngọc... (Tá Chi chú)

Post Reply