Ôn cố tri tân

Những bài viết về anh hùng chống giặc Tàu xâm lăng của dân tộc Việt Nam
Post Reply
User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Ôn cố tri tân

Post by phu_de »

Ôn Cố Tri Tân

Trường Sơn DHN

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em quân dân cán chánh, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp "may" chứng kiến tận mắt được những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của những người tự xưng là "giải phóng cho đồng bào miền Nam", của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, của những người gọi là cùng một dòng máu Lạc Hồng, những người Việt Nam tự hào được mang dép râu đội nón cối!

Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nưóc phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử, ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam. Đến giờ nầy, có người trong chúng ta không muốn tin chuyện này. Do đó, chúng tôi muốn kể lại những gì đã xảy ra tại Sài Gòn và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975. Những chuyện này là những điều mắt thấy tai nghe..., để tạm gọi là "ôn cố". Đồng thời, chúng tôi cũng kèm theo vài mẩu chuyện nho nhỏ trong hiện tại, tạm gọi là "tri tân", để cùng những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng mình trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm dữ kiện chính xác về bản chất của chánh sách và của con người cộng sản Việt Nam.

Chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của thế giới từ ngày 30/4/1975, vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Balê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, lại vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan, chủ quan, xa, gần v.v.. chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong hơn 20 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn trước hết kể lại một số chuyện thật, vui buồn lẫn lộn, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước



Tinh Thần Bất Khuất và Tính Liêm Sỉ của Những Người Bị Bắt Buộc Phải Ngừng Chiến Đấu, Đầu Hàng Kẻ Địch


Ngày 28/4/75, toàn bộ phi trường quân sự Biên Hòa di tản về Tân sơn Nhứt . Từ 10 giờ đêm cộng sản pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhứt và những vùng phụ cận. Chúng pháo kích bằng hỏa tiển và đạn pháo 130 ly cho đến sáng, gây rất nhiều thiệt hại không những cho các đơn vị không quân, mà cho cả dân chúng vùng phụ cận (nhất là vùng Lăng Cha Cả và Trương minh Ký) cũng bị thiệt hại lây về nhân mạng cũng như vật chất.

Ngày 29/4 lúc 9 giờ sáng, Ông Dương Văn Minh với tư cách là Tổng Thống VNCH (mới được 2 ngày) đã gởi một phái đoàn vào gặp phái đoàn VC tại trại Davis (Tân sơn Nhất). Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền (Nghị sĩ, Phó Tổng thống của Dương Văn Minh), Vũ văn Mẫu (Thủ Tướng của Dương văn Minh) và chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh (Quyền Tham mưu trưởng QLVNCH từ 29/4/75, sau nầy được biết là đã làm tay sai cho VC từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một VC nằm vùng). Không biết họ đã bí mật thỏa hiệp được với VC những điều gì, đã rời trại Davis khoảng 10 giờ. Ông họp Hội Đồng Chánh Phủ sau đó và cho biết là địch (MTGPMN) đã bác bỏ đề nghị của ông (hai Bên bàn thảo để giãi quyết vấn đề nội bộ của nhau, về một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam). Ông tuyên bố là chỉ còn một cách duy nhất là đầu hàng địch mà thôi, và đến 11 giờ trưa ngày 30/4/1975 thì tướng Minh đọc lời tuyên bố "đầu hàng vô điều kiện" và tiếp theo đó tướng Hạnh nhân danh QuyềnTổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH kêu gọi quân nhân các cấp "hạ súng xuống, ngưng chiến đấu".

Và sau đây là một vài sự việc đã được ghi nhận sau lời tuyên bố của hai ông tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh:

- Quá 1 giờ trưa, chúng tôi còn thấy một số anh em thuộc "biệt kích 81 dù" đã bắn hạ một loạt hơn 13 chiến xa T.54 Bắc Việt nằm ngổn ngang trên đường từ Lăng Cha Cả Phú Nhuận, dài lên hướng Củ Chi (hạ một cách dễ dàng) trên đường về trại Hoàng Hoa Thám gần đó, trong lúc đài phát thanh Saigon và đài phát thanh quân đội vẫn lải nhải lập đi lập lại những lời tuyên bố "đầu hàng" của hai ông tướng Minh, Hạnh...

- Từ 12 giờ trưa, các con đường chung quanh sân bay Tân sơn Nhứt và vùng phụ cận vắng lặng như tờ, chỉ có tiếng rốc kết và đạn pháo thỉnh thoảng xégió bay ngang qua nghe rợn người. Không một chiếc xe, không một bóng người, chỉ có xác chết nằm rải rác trên đường và trên vỉa hè, không có một phi cơ nào lên xuống phi đạo.

- Khắp các nẽo đường Saigon Chợ Lớn Gia Định có không biết bao nhiêu súng ống đạn dược đủ cỡ, đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của đủ mọi quân binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang khắp các vỉa hè, thùng rác... vì chỉ có cách nầy họ mới ngừng chiến đấu được ..... và các quân nhân chạy lông nhông đầy đường, có lẽ không nhà quen không thân nhân ở đô thành. Hầu hết đều chỉ có một chiếc quần cụt hay một xì líp che thân, miệng chửi thề tục tĩu vang trời không biết để hoan hô kẻ chiến thắng, hay để chửi người chủ bại đầu hàng địch. Cho đến chiều tối thì Đô Thành mới có vẻ yên tịnh trở lại.

Dân chúng sau những giờ phút ngỡ ngàng rút vô nhà đóng cửạ Ngoài đuờng chỉ có bọn vô gia cư tiếp tục như hai ngày 28 và 29/4, đi lục lạo cướp giật, hôi của, từ các nhà ở hoặc cư xá Mỹ. Dần dần bọn cướp cũng đến các nhà những người bỏ nhà đi lánh nạn.

Cũng như những ngày trước đó, suốt ngày 30/4 người ta tấp nập chen chúc nhau tìm đường rời bỏ quê hương, nhất là sau lời tuyên bố của hai tướng Minh, Hạnh.... từ Giang Cảng Mới trên xa lộ Biên Hòa (new Port) đến Bến Bạch Đằng và dọc theo các bến tàu Tân Thuận, nơi có nhiều phương tiện tàu thuyền, nhất là Hải Quân Việt Nam, đang tìm cách đưa hết chiến cụ ra khơi, vừa giúp di tản cho đủ mọi thành phần quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa, vừa không để một chiếc tàu nào lọt vào tay cộng sản. Trong lúc đó, trên đường bộ từ Bình Đông Chợ Lớn đến Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, giòng người đông đảo gồng gánh ẵm bồng, tay xách nách mang.... liên tục tuôn đi như dòng nước lũ, bằng đủ mọi phương tiện, (kể cả đi bộ), tìm cách đến vùng ven biển Gò Công để kiếm phương tiện ra khơi... mong còn gặp được hạm đội 7 của Hoa Kỳ, tìm tự do.

Các phi công thì tìm mọi cách đưa phi cơ đủ loại của đơn vị ra khỏi Việt Nam, vừa tự mình và gia đình thoát khỏi bàn tay CSVN, vừa không để cho CSVN chiếm đoạt được chiến cụ của Không Lực VNCH. Họ qua Thái Lan, Hongkong, Đài Loan, Đại Hàn v.v.. ngắn nhất cũng là Phú Quốc hoặc ra hàng không mẫu hạm của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, ở ngoài khơi biển Đông... Có nhiều người không đủ nhiên liệu phải hy sinh dọc đường, nhưng cũng nhờ đó CS không thu được bao nhiêu chiến lợi phẩm của Không Quân. (Chiếc Boeing duy nhất của Hàng Không Dân Sự VN cũng được Đ/T Huỳnh hữu Hiền mang đi tạm giao lại cho chánh quyền Hong Kong ngày 30/4, quyết không để bọn CS chiếm hữu).

Nếu ngày xưa Đất Nước ta đã có Ngài Phan Thanh Giản tuẩn tiết vì không giữ nổi Nam Kỳ Lục Tỉnh, thì ngày 30/4/1975 không phải chỉ có một người mà có rất nhiều người đã theo gương "bất khuất và liêm sỉ" của Ngài, thà tuẩn tiết chớ không chịu nhục với kẻ thù, để tạ lỗi với quốc dân đồng bào!!! Đó là các Tướng Nguyễn khoa Nam, Tướng Lê văn Hưng (Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Vùng 4 Chiến Thuật), Tướng Phạm văn Phú (Tư Lệnh Vùng 2), Tướng Trần văn Hai (Tư Lệnh Sư Doàn 7 Bộ Binh), Tướng Lê nguyên Vỹ (Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh),... Ngoài ra còn có không ít sĩ quan Quân Lực và Cảnh Sát đã tự sát hoặc cùng gia đình đã tự tử tập thể... không thua gì các tướng tá của quân đội Nhật Bản đã tự mổ bụng để tạ lỗi cùng Tổ Quốc và dân tộc khi Nhật phải chịu gác kiếm đầu hàng năm 1945 vậy... (Các ký giả người Pháp đã chứng kiến ngay tại Sài Gòn rất nhiều vụ tự sát của sĩ quan và cảnh sát VNCH nên đã mô tả đây là một "dịch tự tử" tại Miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975", đặc biệt có trường hợp tự thiêu của một trung tá ngay tại tượng đài chiến sĩ trước quốc hội mà bộ đội Bắc Việt ngăn cản không cho một ai đến gần kể cả ký giả ngoại quốc. Nhưng mỉa may thay, theo như những ký giả nầy mô tả thì "bô đội" không chịu ngăn cản người tự thiêu).



Chánh sách Chiến Lợi Phẩm, Cướp vàVơ Vét Trắng Trợn


Sau khi tiến chiếm được Miền Nam Việt Nam, việc đầu tiên của chánh phủ Bắc Việt (VNDCCH) là "thu chiến lợi phẩm". Đối với Miền Bắc, Miền Nam là thù địch. Do đó, tất cả những "tài sản, tài nguyên, phương tiện sản xuất, công (quốc gia) hay tư (cá nhơn) thuộc Mỹ Ngụy (cả ngụy quân và ngụy quyền) đều được cộng sản liệt vào thành phần chiến lợi phẩm", bên cạnh những quân cụ, quân trang quân dụng của QLVNCH. Đó là chánh sách .



1. Hơn Hai Mươi (20) tấn vàng



Căn cứ theo chánh sách nói trên, ngay chiều ngày 30/4/1975, "Ông tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo" đã phải trao 3 chìa khóa hầm vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam cho đại diện Bắc Việt, để ngay tối đêm đó họ chở trên 20 tấn vàng về Bắc (chiến lợi phẩm!).

- Ông Hảo đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75với tướng Dương văn Minh, ccùng với nội các của ông Vũ văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xung thuộc thành phần thứ ba (như Dương văn Ba, Hồ ngọc Cứ, Võ long Triều, Nguyễn văn Binh, v.v...). Khi bộ đội miền Bắc vào đến dinh Độc Lập thì ông Hảo đã nói một câu "bất hảo" bất hủ với một sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng: "Tôi đã ở đây để chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng (vàng bảo chứng thuộc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam)." Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc: "Đó chẳng phải là quà gì cả, xin lỗi ông, đó là chiến lợi phẩm mà chúng tôi phải tịch thu, ông hãy đưa chúng tôi đi thu ngay đi!." Những câu đối đáp nầy đã đi vào lịch sử, cho cá nhơn ông Hảo và cái gọi là "Chánh Phủ VN Dân chủ Cộng hòa"! Cũng nên biết Hảo là đương kim Tổng trưởng Tài Chánh của chánh phủ VNCH.

- Nhưng sau đó, trong bài diễn văn đọc nhơn ngày quốc tế lao động, Tướng Trần Văn Trà đã cho quốc dân đồng bào biết là (nguyên văn): "số vàng trên 20 tấn đã được Thiệu mang đi lúc chạy ra nước ngoài rồi". (điều nầy về sau được biết trong một phiên họp của Bộ Chánh Trị đảng CSVN vào cuối thập niên 80, Trường Chinh đã thú nhận là số vàng nầy "đã manh múng tiêu pha hết rồi", Bùi Tín cũng xác nhận điều nầy).



2.- Hàng Tiêu Dùng, Máy Móc và Nguyên Vật Liệu Công Nông, Ngư Nghiệp



Từ sau ngày 30/4 suốt cho đến gần 3 tháng sau, hằng ngày đã có trên 300 xe vận tải liên tục chở chiến lợi phẩm về Hà Nội. Họ đã dùng xe vận tải Molotova, xe GMC tịch thu từ các đơn vị của QLVNCH, và xe vận tải trưng dụng của tư nhơn người Hoa để chuyên chở đủ mọi loại chiến lợi phẩm sau đây về Bắc Việt:

- Gạo (thuộc các kho dự trữ an toàn)
- Tất cả các tiện nghi văn phòng đủ loại của các cơ quan quân sự và hành chánh vừa tiếp thu
- Y dược và dụng cụ y khoa lấy hết từ các kho quân y dược trung ương Phú Thọ, và từ các bệnh viện quân dân, công tư, ở Saigon, Gia Định và Chợ Lớn
- Các tủ lạnh, máy điều hòa không khí, máy may đủ kiểu, và các loại tiện nghi dụng cụ về điện
- Máy truyền hình, máy thu thanh và các loại tiện nghi khác thuộc loại âm thanh
- Xe đạp đủ kiểu đủ cỡ, xe mô tô (honda, suzuki v.v.v.) kể cả còn trong thùng.
- Salon, bàn ghế đủ cỡ, đủ loại
- Các loại dụng cụ cơ giới Nông Lâm Ngư Nghiệp (máy cày, máy xới, máy đuôi tôm .v.v...)
- Và đặc biệt nhất là toàn bộ máy kéo chỉ, máy dệt, nhuộm,v.v... tháo gở từ các nhà máy dệt Vimitex, Vinatexco,v.v...

Tại sao chúng tôi nói là đặc biệt? Vì lẽ ra nếu nghĩ đến "sự ấm no của bà con cô bác đồng bào ruột thịt miền Nam" như họ đã nói, thì tại sao Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Bắc Việt không để các nhà máy dệt được tiếp tục hoạt động, sản xuất hàng vải cho dân chúng Việt Nam xài (cả hai miền Nam Bắc)? Hậu quả là từ 30/4/75 cho đến ít nhất năm 1980 người dân mỗi người không có quá 1 bộ đồ bà ba để mặc! Ngoài ra theo các tài xế vận tải QLVNCH kể lại thì trên đường về Hà Nội, họ có lén vứt đi một vài bộ phận quan trọng (phá hoại) nên toàn bộ máy móc không sao ráp lại thành xưởng dệt được cả. Sau này, khi bị tù và bị đưa ra miền Bắc, chúng tôi mới biết rõ, đó là sự thật 100%. Xưởng dệt Nam Định lớn nhất miền Bắc chỉ sản xuất được khoản 300 ngàn mét/tháng, không bao giờ đủ cung ứng cho dân chúng miền Bắc rồị Trong lúc chỉ riêng Vimitex đã sản xuất hơn 3 triệu mét/ tháng. Cho nên khi đã tháo các xưởng dệt của miền Nam đem về Miền Bắc ráp lại không được rồi thìlàm sao có đủ vải cung ứng cho cả dân chúng hai miền Nam Bắc?

Ôi, chiến lợi phẩm chỉ là một đống sắt vụn trong kho ở Nam Định mà thôi! Trong lúc đó, dân chúng thì rách rưới, chỉ có quyền mặc áo ngắn khi ra đường vì thiếu vải! Chiếc áo dài truyền thống của dân tộc Việtnam không còn thấy xuất hiện ở miền Nam Việt Nam nữa (vì không có vải mà cũng vì có lệnh cấm ăn mặc xa hoa). Áo dài chỉ mới được phép sử dụng từ năm 1987.



3. Gia Cư và Gia Sản, Tài Sản Của Quân Cán Chính VNCH



Hầu hết gia đình anh chị em quân cán chánh VNCH đều là nạn nhân đau khổ của chánh sách "chiến lợi phẩm" nói trên. Đúng với chánh sách nầy, thì tất cả mọi thứ, từ nhà cửa (đang ở, dù tự xây cất, mua, hay mướn), ruộng vườn, xe cộ, gà vịt heo chó... cho đến mọi thứ dụng cụ đồ đạt trong nhà, từ cái mùng cái mền cái gối, cái bô, cái bốc, thượng vàng hạ cám... đều là chiến lợi phẩm. Vì một lẽ rất giản dị là tất cả đều "do tiền của đế quốc Mỹ Ngụy mua sắm cho" (nguyên văn), cho nên không có món gì là gia sản của cá nhơn người nào cả. Thật là gọn.

Tại Saigon, nơi có mặt của vài ký giả ngoại quốc thì việc tịch thu nhà cửa còn hơi nhẹ tay, vì họ còn dè dặt chút dư luận quốc tế. Họ chỉ làm mạnh tay từ sau ngày 15/6/75 là ngày cả triệu quân cán chánh đi vào nhà tù cải tạo. Tuy vậy cũng có một vài gia đình lẻ tẻ chống lại lịnh tịch thu, thì ban quân quản lại có chánh sách khác.

Còn ở các tỉnh thì họ thẳng tay. Tất cả gia đình thuộc diện quân cán chánh VNCH đều bị đuổi ra khỏi nhà đang ở, ra mình không, không được mang theo bất cứ món gì, dù là một cái mền để cho trẻ con cần đắp! Họ không cần biết gia đình bị tịch thu nhà sẽ phải đi đâu, ở đâu, ăn uống ngủ nghỉ ra làm sao? Không thể kêu ca vào đâu dưới họng súng AK lăm le sẵn sàng nhả đạn. Thật là hết sức nhân đạo! Thật là hết sức chiếu cố cho "bà con cô bác đồng bào ruột thịt miền Nam đang sống cơ hàn đói rách dưới sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ Ngụy" như Bác và Đảng đã nói! Còn rất nhiều loại chiến lợi phẩm lặt vặt khác nữa, nhưng chúng tôi chỉ nêu lên đây vài loại chiến lợi phẩm điển hình thuộc loại công nghiệp và cá nhơn mà thôi.

Đến giai đoạn "đánh tư sản" kế tiếp, CSVN mới thật sự vơ vét thêm đủ loại chiến lợi phẩm khác nữa, của tư nhơn, mà chủ yếu là vàng và gia sản cơ nghiệp của người dân thường có cửa hàng mua bán để sống ở chung quanh các phố chợ lớn nhỏ khắp Miền Nam Việt Nam, nhất là của người Hoa. Lý do cũng rất đơn giản: có cửa hàng tư mua bán là có hợp tác với Mỹ Ngụy, là có bóc lột nhân dân rồi! Tài sản phải bị tịch thu (nhân dân tịch thu!) và gia chủ thì phải được đưa đi cải tạo, hoặc đưa về những vùng kinh tế mới ở các tỉnh khác. Đó là chánh sách! Một gia đình ở quận 11, gần nhà tôi đang trú ngụ, nửa đêm 1 giờ khuya, bị gọi dậy và lùa đi lên xe Molotova bít bùng, (hai vợ chồng và 4 con, 3 cháu), không được đem theo một món gì, dù đó chỉ là một cái mền cho cháu nhỏ, bị chở đi về hướng tỉnh Rạch Giá, cùng với hơn 10 gia đình khác cùng quận. Đến xã Mông Thọ gần Ngã ba Rạch Sỏi, cách tỉnh lỵ hơn 16 cây số ngàn, vào lúc hơn 4 giờ chiều, xe ngừng lại và cả đoàn người phải xuống xe hết để xe còn trở về Saigon, và đoàn người nầy phải chịu cảnh màn trời chiếu đất cạnh quốc lộ như vậy, không cơm không nước uống cho đến ngày hôm sau mới được xã Mông Thọ lùa vào một vùng đất hoang phía Bắc xã Mông Thọ, được gọi là Khu Kinh Tế Mới cách quốc lộ gần 10 cây số lội ruộng, để rồi sống sao thì sống, vì bị ghép vào tội tư sản mại bản, hợp tác với Mỹ Ngụy. Dĩ nhiên tài sản của họ sẽ "được nhân dân quản lý".



4. Hai chữ Nhân Đạo



Tổng Y Viện Cộng Hòa tại Hạnh Thông Tây (Gò vấp) là một trong những bệnh viện thuộc QLVNCH được cộng Sản Miền Bắc liệt vào hàng "Chiến lợi phẩm" quan trọng nhất khi vào đến Sài Gòn. Ngay chiều ngày 30/4/75 chúng đã đến "tiếp thu" quân y viện nầy, và ra lịnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện "ngay tức khắc". Dĩ nhiên các bác sĩ quân y, các nam nữ trợ y và các nữ trợ tá xã hội, các lao công dân chính đều phải tuân lệnh ai về nhà nấy. Nhưng còn các thương bệnh binh hiện đang được điều trị tại tổng y viện nầy thì sao? Xin thưa là tất cả đều bị "đuổi" ra khỏi bệnh viện ngay tức khắc (tức là ngay từ 2 giờ chiều ngày 30/4/75) không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã lành hay chưa, không cần biết thời gian nhập viện,v.v.. Hậu quả thật là khủng khiếp cho những thương binh vừa lên bàn mỗ hay vừa được mỗ chưa kịp khâu lại, phải xuất viện ngay, ôm vết thương lang thang ra dân y viện hoặc tìm bác sĩ tư nhờ tiếp tục mỗ hay khâu lại giùm, hoặc tiếp tục tạm chữa trị giùm... nếu không thì chỉ có nước về nhà chờ ngày ra nghĩa địa.. Nhưng khổ nổi nhà ở đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? gia đình ở đâu mà về? Có nhiều quân nhân từ các Vùng Chiến Thuật xa xôi được tản thương thẳng về quân y viện Cộng Hòa. Ngay cả tin tức gia đình còn chưa biết rõ thì làm sao có nơi nương tựa để chữa thương và dưỡng thương? Đây là một câu chuyện bi thảm nhất trong lịch sử chiến tranh Quốc Cộng của dân tộc Việt Nam chúng ta trong những ngày sau 30/4/1975. Chúng tôi được biết sau đó bệnh viện Đô Thành và Nguyễn văn Học (Gia Định) có tạm nhận chữa tiếp giùm khoảng 50 ca khẩn cấp và một số bác sĩ tư cũng có điều trị giúp cho một ít thương bệnh binh nặng đang được giải phẫu dở dang vừa bị đuổi ra khỏi quân y viện.

Ngày 16/6/1975 trước khi đi tù, chúng tôi có dịp đi ngang bệnh viện Cộng Hòa thì thấy tất cả các khoản đất trống trong quân y viện đều được các bác sĩ và y tá Bắc Việt trồng khoai, chuối, rau muống, rau cải... đủ loại, gọi là "tận dụng mặt bằng để lao động tăng gia sản xuất cho đơn vị"! Cho tới năm 1987 khi ra tù, chúng tôi thấy quân y viện Cộng Hòa vẫn còn thuộc cơ quan quân y cộng sản, nhưng được ngăn chia ra làm 3 khu vực bằng những bức tường gạch cao. Vườn tược bên trong của cả 3 khu đều rất xum xuê một cách vô trật tự, đủ mọi giống cây ăn trái ngắn hạn dài hạn, rau cải đủ loại kể cả đủ mọi loại cỏ dại... có lẽ để anh bộ đội và gia đình anh từ Miền Bắc vào tiện nuôi heo, gà vịt và trâu bò trong chương trình tự túc của gia đình và cả đơn vị quân y. Dĩ nhiên các dãy nhà gạch đều bị xuống cấp không thể tả được, vì đơn vị quân y và gia đình họ ở đây chỉ biết có nhu cầu "thực phẩm" nhứt thời, không có vẻ gì gọi là một bệnh viện cả. Nó giống như một trại tạm trú trên đường mòn Hồ chí Minh không hơn không kém.

Và dĩ nhiên thời gian trôi qua, sự việc cũng trôi theo, giờ nầy dân chúng Miền Nam Việt Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy, có mấy ai còn nhớ gì và biết gì đến buổi chiều ngày 30/4/75, một buổi chiều bi thảm nhất của QLVNCH nhất là của anh em thương bệnh binh Miền Nam Việt Nam đang điều trị tại quân y viện Cộng Hòa, khi bị xua đuổi thẳng tay hết sức "vô nhân đạo" ra khỏi giường bịnh của mình do sự tiếp thu của Cục Quân Y / Quân Đội Nhân Dân của Bắc Việt !

Tôi cũng xin trích thêm ra đây một sự kiện "hào hùng và nhân đạo" nữa của những người tự gán cho mình cái tên rất kêu là giải-phóng-quân của MTGPMN, mà người dân Miền Nam gọi nôm na là Việt Cộng, (từ quyển "la Mort du Viêt Nam" của Tướng Vanuxem, trrang 84 và 85)

- "Bác sĩ Vincent, người Pháp gốc Việt, (Hội Việt Kiều Yêu Nước bên Pháp), thuộc đoàn "bác sĩ không biên giới" (Médecins sans frontière) được cử sang Việt Nam trong phái đoàn y-tế Pháp. Ông là một người có tư tưởng tự do phóng khoán, nên trong cương vị bác sĩ, ông và phái đoàn y tế không từ chối sự khoản đãi rất linh đình của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày 13/4/75 tại Paris, trước khi qua Việt Nam.Trong bữa tiệc, MTGPMN khuyên phái đoàn không nên liên lạc với Việt Nam Cộng Hòa và hãy chịu khó nằm ở Vũng Tàu đợi gặp giải phóng quân. Do vậy, ông Vincent và các bác sĩ trong phái đoàn chỉ ghé qua Saigon và đi thẳng ra Vũng Tàu, tạm nằm trong một dân y viện. Vào ngày 29/4/1975, sau mấy đợt pháo kích, người ta tải đến trên 80 người bị thương, có cả dân, và lính dù lẫn lộn. Phái đoàn của bác sĩ Vincent đang lo băng bó và chữa trị cho họ thì có một toán Việt cộng có võ trang đột nhiên đến ngăn cản không cho các bác sĩ làm việc nầy, đồng thời bảo họ phải đưa hết các thương bệnh binh ra khỏi bịnh viện, vì họ đang cần nơi nầy. Phái bộ y tế của bác sĩ Vincent vì lương tâm nghề nghiệp đã từ chối vì không biết sẽ đưa những người thương binh đi đâu bây giờ. Tức thì người chỉ huy V.C. nói ngay với bác sĩ Vincent:

- "Dễ quá mà ! Vừa nói anh ta vừa móc súng lục ra kê vào đầu một anh thương binh gần đó và bóp cò. bác sĩ Vincent phản đối dữ dội, người ta kéo bác sĩ ra một chỗ khác, và bác sĩ Vincent còn nghe có nhiều tiếng súng lục sau đó... đến khi bác sĩ trở lại thì bệnh viện đã trống, người ta nói là đã sẵn sàng cho giải phóng quân sử dụng rồi ! Sau nầy về đến Paris, bác sĩ Vincent khi thuật lại việc nầy, ông dùng danh từ "bọn người man rợ !" (nguyên văn; les barbares)



Những Người Đã Bỏ Mình Vì Nước và Nơi An Nghỉ Cuối Cùng Của Họ



Người Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã có câu "Chết Là Hết", cho nên khi một người nào đó dù có thù hằn với gia đình mình thế mấy đi nữa mà đến khi chết rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ hẳn, không một ai còn muốn nhắc đến nữa, vì đó thuộc về quá khứ rồi. Nhưng đối với cộng sản Việt Nam thì không thể như vậy được. Có lẽ vì họ đã tiêm nhiễm quá sâu tư tưởng Mácxít Lêninít hay Stalinít, nên không còn một chút lương tâm con người và mất hết dân tộc tính Việt Nam.

Do đó mà sau ngày 30/4/1975, họ có những hành động quá ư tàn nhẫn, dã man, không có một chút lương tâm đạo lý nào đối với những người quân nhân thuộc QLVNCH đã chết trong cuộc chiến. Đối với họ, sống hay chết đều là kẻ thù cả!

- Họ đã dùng xe ủi đất, (buldozer) ủi sạch và san bằng hai nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một ở Hạnh thông Tây (Gia Định), một ở Thủ Đức (Biên Hòa). Họ san bằng bình địa để vừa gọi là "trả thù cho quân đội và nhân dân miền Bắc", vừa xóa sạch vết tích QLVNCH để cho chủ trương sửa lại lịch sử Việt Nam cận đại của người cộng sản được dễ dàng hơn trong những ngày tháng sắp tới...

Dĩ nhiên, ở khắp các Tỉnh thuộc khắp miền Nam Việt Nam từ Sông Bến Hải đến mũi CàMau họ đều làm y như vậy. Đó là "Chánh Sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa". Trong khi tại Hoa Kỳ, qua cuộc nội chiến đẫm máu, dù quân đội hai bên là kẻ thù, nhưng tử sĩ của hai phe Nam Bắc Mỹ đều được chánh phủ cho chôn cất "đàng hoàng trong danh dự" tại những "nghĩa trang quốc gia" và được trọng vọng như nhau.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

- Tượng hình điêu khắc "Thương Tiếc" là một tác phẩm mỹ thuật rất có giá trị, đặt trước nghĩa trang quân đội trên xa lộ Biên Hòa bị CSVN phá nát bằng cốt mìn, ủi sạch không còn dấu vết, chỉ vì đó là tượng hình của một người lính Thủy Quân Lục Chiến của QLVNCH, một biểu tượng của kẻ thù !

- Anh Trung úy Nguyễn Văn Ngọc thuộc xã Long Hồ (VĩnhLong) chết cả năm trước, chôn lâu rồi, nhưng hai ngày sau 30/4/75, cũng bị "giải phóng quân" quật mồ lên, cả quan tài lẫn xác được cho nổ tung bằng cốt mìn, giữa chợ, cũng chỉ vì lúc sanh tiền anh quân nhân Nhảy Dù nầy đã có quá nhiều huy chương thuộc loại "diệt cộng". Và dĩ nhiên còn có không biết bao nhiêu chiến binh VNCH khác nữa đã "được chết hai ba lần" một cách dã man như thế, ở khắp Miền Nam Việt-Nam.

- Đến giờ nầy, "nghĩa trang quân đội ở khắp miền Nam Việt Nam đều được trang hoàng tươm tất, lại có yết thị rõ ràng kêu gọi mọi người hãy dừng lại để tưởng nhớ những liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ-Quốc. Nhưng ai nấy đều phải biết rằng những nơi nầy chỉ dành cho cán binh Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ngoài ra hoàn toàn không có chỗ nào dành cho những người lính chiến của VNCH", (trích một đoạn của bài Searching for Nguyễn tấn Hưng, tác giả là Cô Lily Dizon Nguyễn Thị Bằng Phương, con của Đại úy Hưng, cô là biên tập viên báo Los Angeles Times, ngày 29/8/1994, kể lại chuyến đi về Việt Nam tìm cha Cô, nguyên là sĩ quan QLVNCH, SĐ 22 BB, bị mất tích trong trận Tân Cảng, năm 1972).

Đây là những bằng chứng hùng hồn, cụ thể và trung thực nhất về "sự thù hận thiên thu đối với người lính chiến VNCH dù là họ đã chết".

Lấy đó mà suy thì chúng ta sẽ phải thấy rõ ràng như ban ngày, chủ trương và chánh sách của Cộng Sản Việt Nam là "bằng mọi cách xoá bỏ vĩnh viễn tập thể người của chế độ VNCH, chớ không chút nào và không bao giờ có vẻ "quên hận thù" hay "xóa bỏ hận thù" như chúng vẫn thường rêu rao và cho cò mồi rêu rao chiêu bài láo khoét "xóa bỏ hận thù hòa hợp hòa giải dân tộc" (trích một đoạn trong bài Tương Lai Dân Tộc Việt Nằm Trong Tay Ai" của Nguyễn Việt Nữ, báo Xây Dựng).

Và những người làm chánh trị nào còn chút lương tâm và liêm sỉ của người Miền Nam Việt Nam, hãy nhìn kỹ vào thực trạng đau khổ không bến bờ của anh chị em quân cán chính VNCH, đã nằm xuống rồi, cũng như còn sống trong cảnh dốt, đói, khổ trong nước hay đang sống tha phương cầu thực ở quê người, sau hằng chục năm tù tội khổ sai, hãy nhìn tận mặt con người CSVN với chủ trương và chánh sách của ho. Chớ bao giờ mơ hồ hay ngây thơ nghe theo luận điệu phỉnh gạt muôn đời của họ, để tự bán mình cho loài quỷ đỏ, cam tâm làm tay sai tuyên truyền cho giải pháp "xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải dân tộc,v.v...



Câu Chuyện Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy



Ngay sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân miền Nam gọi là cọp 30), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.

"Văn hóa đồi trụy" được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa văn nghệ, phim, ảnh. v.v... được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

Mục tiêu mà các "ông cọp 30" chiếm trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành công pháp quốc tế, khoa học kỹ thuật, hàng không và cả hàng không không gian,v.v... mà anh quản thủ thư viện đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị "cọp 30" sơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị một "cọp 3O" khoảng 16 tuổi tới đuổi:

- "Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Độc lập rồi cần gì ba cái thứ nầy nữa !!" Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!! (Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi rời VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới và tiệc "liên hoan" của cán bộ công nhân viên các cấp).

Mục tiêu kế tiếp là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt bỏ... nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ" nầy.

Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu hành, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).

Nói tóm lại, Chánh Phủ "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào.



Câu Chuyện Về Giáo Dục



Về vấn đề Giáo Dục, từ sau ngày 30/4/75, CSVN đã chủ trương một chánh sách ngu dân để dể thống trị , và chủ trương "phân biệt đối xử" giữa các thành phần sinh viên học sinh, dựa trên tờ khai lý lịch ba đời của mỗi em.

Do đó, tất cả con em thuộc gia đình quân cán chính của VN CH không bao giờ vào được bậc cao học hay đại học vì hàng rào lý lịch mà CSVN cố tình dựng lên trong suốt 20 năm qua. Hậu quả thật tai hại cho cả dân tộc, vì thay vì đầu tư chất xám cho đất nước, CSVN cố tình hạn chế và đè bẹp thế hệ trẻ có thừa khả năng và trí thông minh trên con đường học vấn. Do vậy chỉ có con em thuộc giai cấp của đảng và các cậu ấm con lãnh đạo đảng mới được vào đại học, mặc dầu điểm thi tuyển dưới điểm trung bình rất xa.

Đây là một thời kỳ Tần Thủy Hoàng thứ hai ở Việt Nam, đốt sách và ngăn cấm học trò. Cho dù CSVN có sửa lịch sử cũng không bao giờ gột sạch được tội mình trước hồn thiêng của Đất Nước, trước dư luận quốc tế và quốc nội.

Các giáo viên cấp tiểu học và giáo sư Trung Đại Học còn tiếp tục nghề gõ đầu trẻ mà họ đã lựa chọn vì say mê nghề nghiệp và có lương tâm chức nghiệp. Nhưng có những sự việc "bất khả kháng" mà những Thầy Cô dù có say mê và tận tâm thế mấy, cũng phải đau lòng mà từ bỏ nghề cao quí nầy.

- Dạy Học được xếp vào hàng thứ yếu, sau lao động chân tay. Do đó lương hằng tháng chỉ đủ nuôi gia đình (80.000 đến 100.000 một tháng, tương đương 8 đến 10 dollar năm 1991), tiện tặng lắm cũng tạm cháo rau được chừng hơn nửa tháng, lại còn bị nạn "Nhà Nước không đủ tiền lẻ" nên có khi 3, 4, 5 tháng mới được lãnh lương một lần. Cho nên, "túng phải tính": dạy học là "nghề tay trái" còn đạp xích lô mới là "nghề tay mặt" (những Thầy ở Saigon Chợ Lớn và Gia Định), và đạp xe đạp ôm, đạp xe lôi (những Thầy ở các Tỉnh, Quận). Đó là nghề mà các cô giáo không thể nào làm được...!

Cái cảnh trò ngồi xe xích lô cho thầy đạp được thấy nhan nhản ở Đô thành! Do vậy, ngay những năm của thập niên 90 gần đây, số giáo viên tốt nghiệp trường Sư Phạm (riêng tại Miền Nam Việt Nam) vào nhận việc, chỉ bằng 1/3 số giáo viên nghỉ việc, ra khỏi ngành (thống kê của Bộ Giáo Dục,1990).

- Trường cấp tiểu học thì vẫn để mặc cho thời gian và gió mưa lụt lội, không ai để tâm vào việc tu sửa, nói chi đến việc xây cất thêm cho trẻ em vốn càng ngày càng đông. Cho đến năm 1992, tình trạng các trường ở xã ấp có nơi thì mái dột cột xiêu, có nơi không vách, trông thật thiểu nảọ Xã ấp được giao cho trách nhiệm sửa chửa mà không được cấp ngân sách.

- Một số trường Trung học cấp 1 và cấp 2 vì không có đủ giáo sư, không có học trò, nên chánh quyền Tỉnh, Quận sử dụng "mặt bằng để bán vật tư xây cất" hay cho các công ty quốc doanh thuê làm kho hàng để thu thêm lợi tức, lơi nhuận cho ngân sách.

- Sỉ số học sinh thì càng ngày càng giảm sút. Có nhiều lớp Thầy trò cộng lại chỉ trên dưới muời người mỗi buổi học, vì các em còn bận giúp cha mẹ làm ruộng làm vườn làm rẫy. Các em còn ham đi chạy hàng lậu (như thuốc hút) dọc theo biên giới, chợ trời,... hơn là đi học (điển hình vùng Gò Dầu, Trảng Bàng, Tây Ninh, và các Tỉnh ven biển). Do đó "nhà nhà làm kinh tế, trò trò làm kinh tế" áp dụng đúng câu "dân giàu nuớc mạnh" của Đảng đề ra, cần gì học! Mà không có trò thì Thầy còn mê nghề gõ đầu trẻ làm sao được nữa?

Chưa nói đến chuyện ngược đời là cộng sản khuyến khích"cho điểm Thầy Cô". Đây là hình thức gián tiếp cho phép bọn học sinh xấu,... "gõ đầu thầy" hay trả thù thầy, khiến cho Thầy phải nghỉ dạy và Cô phải tự tử (2 vụ tự tử, một ở trường Bùi thị Xuân Sài Gòn, và một ở thư viện Cần Thơ), để cảnh cáo chủ trương và chánh sách giáo dục của Đảng và Nhà Nước từ sau 30/4/75.

Tựu trung đây là Chánh Sách Giáo Dục của CSVN đối với đồng bào Miền Nam Việt Nam, chủ trương làm cho người dân càng ngu dốt càng dễ trị. Cho nên nước Việt Nam cho đến năm 1995 vẫn chưa ngóc đầu lên nỗi so với các nước láng giềng ở vùng Á Châu nầy.



Về Đời Sống Của Người Dân



Vào chiếm được Miền Nam, cộng sản đem chánh sách và chủ trương mà họ đã từng áp dụng ở Miền Bắc ra áp dụng ngay. Tức là canh chừng người dân từng hành động, từng lời ăn tiếng nói, và nhất là từng miếng ăn của từng gia đình. Hết sức là ty tiện!

Tất cả các nhà dân đều được bộ đội chia nhau tới "xin ở nhờ"", nhưng thật sự là để điều tra thành phần nhân sự, tư tưởng, hành động, sinh hoạt hằng ngày và nhất là của chìm của nổi.... Ban Quân Quản xúc tiến kiểm kê từng nhà (cộng sản gọi là hộ khẩu) và thành lập "liên gia" để kiểm soát thật chặt chẽ sinh hoạt của mỗi gia đình, từ tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người ...mà nhất là thành phần thức ăn của mỗi bữa cơm trong gia đình.

Thật ra lúc nầy không người dân nào có tiền, (vì tất cả ngân hàng đều được lệnh đóng cửa, các xí nghiệp hãng xưởng được lệnh ngưng hoạt động, không dễ gì kiếm được đồng tiền như thời trước 30/4, dù là mua gánh bán bưng). Người lớn thì sinh hoạt học tập chánh trị ban đêm; ban ngày phải đi lao động sản xuất xã hội chủ nghĩa (kiếm bất cứ miếng đất trống nào để trồng khoai trồng sắn) trẻ em thì tạm ngưng học chữ để học hát và làm vệ sinh lượm rác suốt ngày ngoài đường... Đây là một hình thức "tù cải tạo tại gia" áp dụng cho toàn Miền Nam, cải tạo luôn bao tử bằng cách bắt dân phải ăn độn ngô khoai và bo bo. Người dân Sài Gòn ai cũng có thân nhân họ hàng ở các tỉnh, nên lúc đầu được tiếp tế gạo, thịt từ dưới quê. Nhưng sau đó cộng sản ra lệnh "ngăn sông cấm chợ" để xí nghiệp lương thực quốc doanh độc quyền cung cấp gạo và thực phẩm cho dân theo tiêu chuẩn do Quân Quản ấn định (luôn luôn dưới mức nhu cầu bình thường cho mỗi người, tức là chỉ cho ăn đói triền miên).

Nói cách khác là cộng sản nhất quyết kiểm soát cho bằng được "miếng ăn" của người dân trên toàn Miền Nam theo đúng chánh sách của đảng. Những sự đi lại từ tỉnh nầy sang tỉnh khác được kiểm soát gắt gao (từ quận, từ xã ấp cũng vậy). Các trạm kiểm soát của công an dọc theo các trục lộ trên bộ và trên sông hoạt động ngày đêm 24/24 không để một kí gạo, một con cá, một miếng thịt hay một bó rau nào được mang từ vùng nầy sang vùng khác (vì đây là phần việc của công ty lương thực nhà nước). Điều nầy làm cho người dân Miền Nam khốn đốn (vì quen ăn không quen nhịn, nhất là trẻ con, mãi cho đến cuối thập niên 80, thời Nguyễn văn Linh lệnh ngăn sông cấm chợ mới được thu hồi). Dĩ nhiên trong lúc dân đói thì cán bộ đảng và nhà nước vẫn no nê phè phỡn, nên mới có câu "dân khỏi no, mọi việc đã có đảng và nhà nước no rồi".!

Người nông dân ở thôn quê cũng chết dở sống dở, vì chánh sách hợp tác xã. Ai cũng làm chủ tập thể ruộng đồng, nhưng ông chủ rủi mà đau ốm không có ngày công lao động nào trong tháng thì ngày đó ông chủ bị tập thể khóa miệng và khóa bao tử lại ngay! (không được lãnh lúa).

Người công nhân ở thành thị cũng không hơn gì. Cũng được cộng sản phong làm chủ tập thể công ty, xí nghiệp, nhưng ông chủ rủi mà không giao sản phẩm đúng theo mức khoán của nhà nước thì cũng phải chịu cảnh đói dài (chánh sách khoán sản phẩm). Trái lại, nếu ông chủ vượt chỉ tiêu mức khoán, thì phần gạo được tăng, nhưng sau đó thì nhà nước lại tăng mức khoán lên, v.v.. Cứ như thế mà nhà nước trì kéo với ông chủ nhằm mục đích kéo tiêu chuẩn gạo xuống mức tối thiểu để cho ông chủ đói dài mới thôi.

Nói tóm lại, chánh sách "ngăn sông cấm chợ", "khoán sản phẩm", "hợp tác xã"... đều nhằm mục đích canh chừng từng miếng ăn của người dân, để cai trị dân, bắt người dân vì miếng ăn mà nhất nhất phải chạy theo đảng và nhà nước. Đó là chánh sách, dường lối và chủ trương của cộng sản, được áp dụng cho toàn dân Miền Nam, sinh hoạt ở ngoài xã hội cũng như trong nhà tù không khác, vì cộng sản xem nhân dân là thù địch, nên cộng sản đã biến cả nước thành một nhà tù vĩ đại trong suốt gần hai thập niên từ 30/4/1975.



Phút Ngỡ Ngàng Của Những Người "Tập Kết"



Họ là những người Miền Nam Việt Nam, tập kết ra miền Bắc vào những tháng cuối năm 1954, sau khi nước Việt Nam bị chia đôi, theo Hiệp ước Genève 1954. Họ là cán bộ cộng sản, là bộ đội Việt Minh đa số là du kích, nhưng hầu hết đều là những người dân quê bị cộng sản dụ dỗ, lừa phỉnh, hoặc ép buộc đưa ra miền Bắc. (Xin nhắc lại là đối với quốc tế thì có vẻ như là dân chúng Miền Nam cũng có người lựa chọn chế độ dân chủ cộng hòa miền Bắc. Số người tập kết không quá 200 ngàn người theo thống kê chánh thức của cơ quan kiểm soát đình chiến 1954 (ICC), trong khi riêng dân chúng miền Bắc đã có gần 2 triệu người di cư vào Nam, cũng như sau tháng 4/75 cho đến nay đã có trên 2 triệu người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sống tha phương cầu thực tỵ nạn ở ngoại quốc .)

Vào khoảng tháng 5 và tháng 6/75 họ mới được phép trở về miền Nam trong tư thế bộ đội miền Bắc về giải phóng quê hương,"giải phóng bà con cô bác ở Miền Nam đang sống nghèo nàn cơ cực, đói lạnh rách rưới, dưới ách thống trị độc tài bóc lột tận xương tủy của đế quốc và tay sai Mỹ Ngụy."

Từ khi tập kết ra miền Bắc, họ bị cấm không được liên lạc với thân nhân ở Miền Nam và họ đã được bộ máy tuyên truyền miền Bắc nhồi nhét tin tức một chiều rằng "đồng bào, bà con cô bác ở miền Nam sống rất khổ sở, "ăn thì không đủ no" (không đủ gạo ăn vì bị đế quốc Mỹ vơ vét hết), thậm chí, không có đủ chén bát nên phải ăn cơm bằng miễng dừa (gáo dừa khô), "mặc thì không đủ ấm" thậm chí cha con chỉ có một chiếc quần thay phiên nhau mặc khi cần đi ra ngoài, "ở thì không có đủ nhà để ở", phải sống chen chúc dưới gầm cầu, hay các nhà ổ chuột, "đời sống thì bị kềm kẹp" không còn một chút tự do tối thiểu nào." Vì thế cho nên khi được về Nam ai cũng nôn nóng, cố mang theo một ít quà cho bà con cô bác thân nhân trong gia đình, người thì mang theo vài cái chén đá, người thì gắng sức mang theo vài cân gạo mà họ đã cố tình bớt xén lại từ tiêu chuẩn gạo hằng ngày của họ. Có người thì mang theo một vài chiếc áo chiếc quần cũ. Có người dành dụm hằng bao nhiêu năm, bọc sẵn được theo mình vài ba chục bạc tiền Hồ,v.v... Tất cả đều chỉ tha thiết mong mỏi mang về để giúp đỡ thân nhân đang sống đói rách ở miền Nam Việt Nam.

Sau đây là câu chuyện điển hình mà tôi đã chứng kiến tận mắt, vì có quen với gia đình nầy:

Từ sáng sớm ngày 1/5/75, anh Tư Xê về đến trước cửa nhà của anh mình! Anh vừa mừng vừa rụt rè, cố tình nhìn đi nhìn lại..thật kỹ... Đúng rồi, đây là con đường Trần Hưng Đạo cũ. ĐDây là ngã tư Nancy cũ, và đây là căn nhà số 618... nhà của anh Hai mình đây rồi, nhưng tại sao nhà cũ không có lầu mà nhà nầy có thêm 2 tầng lầu nữa vậy? Nhà lầu đúc to quá, đẹp quá, chắc không phải là nhà anh Hai mình rồi! Hay là anh Hai mình đã bán nhà đi đâu rồi... và nếu vậy thì làm sao biết anh ấy ở đâu mà tìm bây giờ?

Tư Xê ngồi xuống bên lề đường đối diện căn nhà số 618, nơi mà anh đã rời bỏ "đi bưng" từ năm 1951, rồi từ bưng bị đi tập kết vào năm 1954 không về được lại Sài Gòn để từ giã gia đình... Anh ngồi đó một hồi lâu cố tình chờ xem có ai quen để hỏi thăm về anh mình. Chợt có một người từ trong căn nhà lầu ba tầng nói trên bước ra... một người con gái khoảng 20 tuổi, trắng đẹp, có vẻ con nhà quý phái dù chỉ mặc áo bà ba trắng. Anh lật đật chạy ngay lại hỏi thăm:

- Thưa cô, xin cô cho tôi hỏi thăm một chút.

- Dạ thưa ông hỏi chi?

- Thưa cô trong nhà nầy có ai tên là Hai Minh không cô?

- Dạ có, thưa ông. Cô dè dặt trả lời, hơi lo, vì thấy người vừa hỏi mình là một anh mặc quân phục xanh Bắc Việt, nhưng lại nói giọng Nam.

- Phải vợ ổng tên là Hương không cô?

- Trời ơi! sao mà ông hỏi nhiều quá vậy ông? Phải, Hương là tên của má tôi đó, ông còn muốn hỏi gì nữa không? Cô gái đáp có vẻ hơi giận.

- Như vậy nhà nầy là nhà của anh Hai Minh phải không cô?

- Trời ơi! Vậy chớ ông tưởng là nhà của ai, xin thưa với ông đây là nhà của Ba Má tôi, nhà của gia đình tôi! Xin lỗi ông tôi có việc cần phải đi đây, Ông đứng đó chơi nghen. Cô gái nói xong dợm bỏ đi....

Anh Tư Xê mừng rỡ, cẩn thận xách túi dết lên (vì sợ bễ mấy cái chén trong túi!), bước lại chận cô gái lại và nói:

- Trời đất ơi ! Chú đây cháu, chú là Tư Xê, chú Tư của cháu đây nè, cháu đưa chú vô gặp anh Hai chị Hai đi cháu!

Vào nhà anh em gặp nhau dĩ nhiên mừng mừng tủi tủi, hàn huyên tâm sự.. chừng đó anh Tư Xê mới nhận chân được sự lố bịch hết chỗ nói của mình (là mang 2 kí gạo, 5 cái chén đá từ Hà Nội về gọi là để giúp đỡ gia đình người anh mà theo Bác và Đảng đã nói là đang sống đói rách, ở dưới gầm cầu chữ Y).

Còn không biết bao chuyện na ná như thế đã xảy ra ở Sài Gòn và khắp miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước. Hầu hết những anh chị em tập kết khi trở về trong Nam, được thưởng thức bữa cơm "đầm ấm và đạm bạc" với thân nhân và gia đình, họ mới thật sự "vỡ lẽ" và chừng đó mới thật sự thưởng thức được hương vị hết sức ngọt ngào nhưng quá chua chát của những giọng điệu tuyên truyền lẫn kềm kẹp của Bác và Đảng trong suốt 20 năm ở Bắc Việt.

Ôi! Thật là quá tội nghiệp và ngỡ ngàng!!!



Tạm Kết



Có những người không muốn nhớ đến hay cố tình quên đi ngày 30/4/75. Họ không còn nhớ lý do tại sao họ và gia đình phải bỏ quê hương chạy ra ngoại quốc sống tha phương cầu thực. Khi tình trạng gia đình được ổn định, trong túi và trong trương mục ngân hàng đã có đô la gọi là dư dã, khi đã làm chủ được một vài ba căn nhà, một vài cửa tiệm, hay một ít bất động sản, khi con cháu ăn học thành tài đã có công ăn việc làm vững chắc... họ bỗng quên đi nhãn hiệu "tỵ nạn chánh trị" của chính mình, hoặc muốn bóc bỏ đi nhãn hiệu đó một cách vô liêm sỉ. Họ chạy theo tiếng uyển giọng đờn của kẻ thù xưa, muốn "xoá bỏ hận thù" để về "làm ăn" với kẻ đã từng liệt họ vào thành phần "phản quốc Mỹ Ngụy". Hay họ muốn "hòa hợp hòa giãi" với kẻ thù, mon men về tìm một chỗ đứng nào đó, dù trên là lưỡi lê dưới là lửa đỏ.... Họ núp dưới chiêu bài về lo giúp đồng bào nghèo, khổ, v.v.... nhưng sự thật chỉ là vì chút hư danh hảo huyền, vì quyền lợi riêng tư....

Họ "cố tình" giả điếc giả mù, làm ngơ, chớ làm gì họ không nghe không thấy được những gì bọn cộng sản xăm lăng Miền Bắc đã làm trước và trong những ngày mất nước. Họ biết rõ những gì bọn cầm quyền cộng sản trong 20 năm qua đã làm cho cả nước Việt Nam phải chịu đói chịu nghèo chịu dốt, chịu sống thụt lùi vào thời kỳ đồ đá, trong lúc các quốc gia khác đang tiến nhanh như trên mọi lãnh vực, nhất là về kinh tế.

Chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện cho những người nầy bình tâm trở lại, thấy rõ đâu là chánh đâu là tà, đâu là liêm sỉ đâu là phản bội, để họ cùng đi một con đường với dân tộc trong giai đoạn cần phải nhất tâm tranh đấu để tiến tới một sự giải trừ bọn mafia cộng sản lưu manh, hại nước hại dân hầu đem lại thanh bình, tự do thật sự và ấm no cho dân tộc Việt Nam chúng ta.

Chủ trương và chính sách của đảng cộng sản Việt Nam muôn đời vẫn không sai khác. 30 tháng Tư 1975 đã như vậy, thì 20 năm sau 1995, hay 30 năm sau 2005, cộng sản vẫn là cộng sản, nếu cộng sản còn cố giữ vai trò lãnh đạo đất nước, chắc chắn là đảng cũng chỉ lo cho quyền lợi của đảng cộng sản và các cá nhân trong tập đoàn lãnh đạo mà thôi. Còn tương lai dân tộc, của đất nước ra sao, chúng ta có thể n nhìn về quá khứ thì sẽ thấy được tương lai.

Nếu cộng sản Việt Nam còn ngoan cố dành mãi độc quyền lãnh đạo đất nước, chắc chắn họ chỉ muốn biến đất nước thành "một nhà tù vĩ đại" kiểu Goulak của Liên Xô cũ. Cộng sản Việt Nam ôm chặt nắm xương tàn của "bác Hồ vĩ đại" để thực hiện "mục tiêu vĩ đại" muôn thuở của người "cộng sản quốc tế" mà thôi, cho dù chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn sụp đổ từ lâu.

Nhưng chắc chắn là dân tộc Việt Nam quyết không để cho bọn rợ Hồ đè đầu kềm kẹp mãi. Bởi vì ông cha ta đã có câu: "Tức nước phải vỡ bờ!". Đi ngược lại với lòng dân thì trước sau gì cũng phải bị diệt vong mà thôi!



Trường Sơn DHN

Post Reply