QUÁN BIÊN THUỲ

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Image

Những Trận Đánh Cuối Cùng và Chân Dung Người Lính VNCH



Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo

Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.

Tuyên truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng – vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải buông súng.

Image
Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ và bền bỉ trong cuộc chiến chống cộng ròng rã suốt 3 thập niên.


Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà dược hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH ?

Năm 1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.

Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.

Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai.

Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.

Image
Những chiến xa T-54 của Cộng Sản bị bắn cháy gần phi trường Tân Sơn Nhất trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975.

Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.

Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau :

“…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…

Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương…Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta . Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”.

Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bộị Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.

Trong cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.

Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.

Tác giả Mỹ Louis Ạ Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam): “Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiềụ Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.

Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do” không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người không có ý chí để tự bảo vệ!”

Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.

Image
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:

“Thứ Hai 28/4/75.

Saigon sáng nay yên tĩnh.

Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.

Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.

Ông trả lời:

– Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.

Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:

“Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết”.

Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”

Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:

– Các anh có biết là sắp bị giết chết không?

Một thiếu úy trả lời:

– Chúng tôi biết chứ.

– Vì sao?

– Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

“…Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát

Đến chiều tối, 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”

Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.

Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:

“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liê lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.

Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:

“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót…Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.

Ông ta còn đích thân đi quan sát tiền tuyến nữạ. Ông ta đã bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, vì kẻ ấy nhất định đòi đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái lệnh của tướng nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam thì tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng võ trang đuổi theo, rồi bắn chìm chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.

Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấỵ Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết ngay tại chỗ.”

Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong dó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.

Và đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:

“Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.

Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:

“Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặt cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”

Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt…không còn được ai nhắc tới, biết tới. Những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.

Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH?

Sơn Tùng.

User avatar
MatVit
Posts: 832
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by MatVit »

Image

Ngày 30-4-1975, qlvnch buông súng nhưng không ðầu hàng
hatat

Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bỏm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn Nhất và các vùng đông dân lân cận.

Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi trường trống không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh lửa hồng từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ vì mãnh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc Gia Nghĩa Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên đường Võ Tánh, là nơi tạm trú của mấy trăm gia đình di tản thuộc các Ty Cựu Chiến Binh từ Miền Trung chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan, nằm ngồi trên nền xi măng hay các bàn ghế học trò lạnh lẽo, đói khát. Lũ con nít thiếu nước, thiếu sữa nên la khóc inh ỏi.

Lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã tư Bảy Hiền, xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đã được chính người miền Nam , qua cái rổ tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc, để rước cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài Gòn thơ mộng hiền hòa, vô ưu, vô tâm và vô trách nhiệm.

Trong nổi câm nín của những ngày Việt Nam sắp mất nước, đất trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của một dân tộc nhược tiểu, bị chính đồng bào mình, qua nhân danh lãnh tụ, đem bán đứng cho các thế lực ngoại nhân, trong đó có đế quốc Tàu đỏ, là kẻ thù ngàn đời mãn kiếp của dân tộc Việt. Bởi vậy bốn bề chỉ thấy cảnh tượng mông mênh sầu thảm, qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc phòng, có chiếc máy thu thanh của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt nhiên vắng ngắt , lâu lâu phát ra những tiếng gió sè sè lãng xẹt.

Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực chờ, bổng thấy thèm những giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ phong lưu dỏm dáng, trắng trẻo no tròn, với bộ đồ trận rằn ri, luôn còn nguyên nếp gắp và mùi thơm vải. Tình nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù, TQLC, BÐQ, Lôi Hổ.. Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm tình mến nước yêu dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lãnh tụ, cha-thầy, kể cả các trí thức khoa bảng của Sài Gòn. Rồi những cuộc biểu tình chống chính phủ, chống tham nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí đến nỗi hàng trăm ký giả bị khủng bố bốc lột gần trần truồng chịu đói lạnh không nổi, đành phải đi ăn mày để có được tự do ngôn luận như các đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xã hôi chủ nghĩa, cái gì cũng có như ‘ nước đá ‘ xài không hết phải phơi khô để dành..

Nhưng giờ này họ ở đâu ?, vì hôm qua còn thấy chường mặt đủ trên đài truyền hình hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả tay chân quả đấm đòi này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào. Họ nói có quyền mới có hòa hợp hoà giải,mang lại hòa bình cho đất nước và trên hết người Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết vì thèm mắm tôm cà pháo nơi xứ người.

Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng bào thân yêu, lính tráng đồng đội đang còn tử chiến với giặc khắp chiến trường, các thương bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài Gòn ba trăm năm, trong cơn hấp hối :

+ Sài Gòn, những phút giờ hấp hối :

Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu. Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở Canada về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ.

Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.

Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không có cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề ‘ một đỗi một ‘ được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng.. đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cọng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cọng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam.

Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ : ‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cọng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình.’

Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cọng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có hòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune : ‘ giờ thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cọng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đã biết rõ cọng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc môi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam cọng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.’. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị bộ đội cọng sản miền bắc tàn sát dã man trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả.. Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biết hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.

Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cọng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự.

Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tứớng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là sự thật lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước tức tốc, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.

Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi. Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cùng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày làm vua ngắn ngủi.

VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh.. lúc đó đang xã thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cọng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó những sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, qua 35 năm đoạn trường máu lệ,vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.

Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal :’Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch , qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cọng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khói lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cọng sản quốc tế’.

Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt

Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cọng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973 qui định. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục ‘.

Chính hành động phi thường và thái độ mã thượng này mà sau tháng 5-1975, chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ mới cho phép người Việt vào đất Mỹ, để phần nào trả lại chút Ân Tình cho QLVNCH. Chúng ta đừng quên điều này dù muốn hay không muốn chấp nhận sự thật .

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

MƯỜNG GIANG

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Image


Hương Lộ 555 Lẻ Loi
MX Lưu Văn Phúc


fb Son H Cao

Đã hơn 28 năm qua, bây giờ viết lại chỉ mục đích nhắc lại một giai đoạn ngắn của cuộc hành quân triệt thoái chiến trường Quảng Trị.
Với cái nhìn hạn hẹp của một người chỉ huy cấp Pháo đội. Mong rằng những gì không được đẹp lòng, xin quý vị có liên quan rộng tình thứ lỗi.
----------

Thứ I: Những ngày trung tuần tháng 3 năm 1975.

Cuộc họp được biết qua tình cảm bạn hữu, một vị Sĩ Quan có mặt trong cuộc họp đã tiết lộ chút ít nội dung: “Hai Lữ Đoàn 258 & 369 Thủy Quân lục chiến cùng Bộ Tư Lệnh và các Tiểu đoàn tác chiến, Quân Y, Truyền Tin, Công Binh, Yểm Trợ Thủy Bộ… sẽ hành quân về Đà Nẵng.

Nhiệm vụ thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù. Ngoại trừ một Pháo đội thuộc Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC được chỉ định ở lại Quảng Trị; Thiếu Tá Lạc đã chọn Pháo đội B nhận lãnh trách nhiệm đó. Cá nhân tôi thoáng một chút lo âu, bối rối. Vì cách ngày này một tuần lễ, tôi có xin phép Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn để cho vợ tôi đem 2 đứa con nhỏ (3 tuổi và 9 tháng) ra thăm. Dự định, chờ chuyến liên lạc gần nhất sẽ cho vợ con trở về Sài Gòn. Bây giờ biết giải quyết ra sao?

Tôi hỏi lại người bạn: “Có chắc rằng Thiếu Tá Lạc chỉ định Pháo đội B?”.

Người bạn đáp: “Chắc. Mày ráng mà liệu cho vợ con của mày về Sài Gòn càng sớm càng tốt”.
Ngay trong buổi chiều, tôi thu xếp và nhờ Trung úy Huỳnh Thái Sơn, Pháo đội phó, người Sĩ Quan phụ tá, đưa dùm vợ con của tôi ra Huế. Cố gắng mua vé máy bay Hàng Không Việt Nam cho vợ tôi và 2 con rời Huế, về Sài Gòn.

Cám ơn Thượng Đế, cám ơn Sơn, may mắn đã mua được vé phi cơ chuyến chót Huế – Sài Gòn. Trung úy Sơn liên lạc với tôi từ phi trường Phú Bài, Huế bằng máy PRC 25 qua trung gian tiếp vận tại hậu trạm. Biết được vợ và 2 con đã ngồi trên máy bay rời Huế về Sài Gòn, tôi thật sự thở phào nhẹ nhõm.

3. Nhận lệnh:

Gần tối 14-03-1975, Thiếu Tá Lạc cho lệnh gọi tôi lên Bộ Chỉ huy TĐ1/PB/TQLC họp hành quân. Ông nói rằng họp hành quân cũng không đúng ý nghĩa. Vì Thiếu Tá Lạc ra lệnh trực tiếp cho Pháo đội trưởng PĐB, không có bất cứ Sĩ Quan nào hiện diện, kể cả Thiếu Tá Tiểu đoàn phó hoặc Đại úy Trưởng ban 3. Cũng tương tự như những gì tôi đã được người bạn thân tiết lộ. Chỉ có vài chi tiết sau đây, cho đến bây giờ ngồi viết những dòng chữ này, sau hơn 28 năm trời dài đằng đẵng, tôi vẫn chưa tìm được câu giải đáp; đó là: “PĐB/TQLC sẽ đơn độc, không có một đơn vị tác chiến nào bảo vệ phòng thủ vòng ngoài, hay yểm trợ an ninh. (Ai đã quyết định như thế?)

Chiều 16-03-1975, PĐB phải chuyển giao tất cả 7 xe G.M.C cơ hữu cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. (Pháo không xe kéo! Trong lúc quân bạn không còn hiện diện tại vùng hành quân. Một lệnh kỳ quái nhất, chưa từng xảy ra trong lịch sử cuộc chiến!) “Lãnh tiền ăn (mua thực phẩm ở đâu?) và gạo cùng điện trì cho 10 ngàỵ.”

4. Thủy Quân Lục Chiến rời vùng Quảng Trị.

Sáng sớm ngày 17 tháng 03 năm 1975, BCH/LĐ258/TQLC, các đơn vị trực thuộc đó là 3 tiểu đoàn tác chiến TQLC, TĐ1/PB gồm BCH/TĐ và Pháo đội A, Pháo đội C, các đơn vị Thiết Giáp tăng phái…lần lượt di chuyển đoàn xe rời vùng hành quân.
Vẫy tay chào quân bạn mà lòng chẳng có gì đáng vui.
Đã chấp nhận vào cuộc chiến là chấp nhận hy sinh, nhưng chỉ phiền rằng cấp trên đã “lột” hết phương tiện di chuyển và đem con bỏ bơ vơ một mình.

Trương Công Thông – Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC Thần Tiễn – dòng sông cũ

Thứ II: PĐB/TQLC hành quân đơn độc 4 ngày Hương Lộ 555.

1. Nhiệm vụ Yểm Trợ:

Phòng tuyến của LĐ258/TQLC được bàn giao cho Liên đoàn 913 Địa Phương Quân/Tiểu Khu Quảng Trị gồm 4 Tiểu đoàn.

Phòng tuyến của LĐ369/TQLC chỉ còn lại TĐ6/TQLC. Pháo đội B có nhiệm vụ yểm trợ tất cả các lực lượng kể trên. Nhận lệnh trực tiếp từ Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh BTL nhẹ SĐ/TQLC/Hành Quân. Pháo đội B đã nhanh chóng liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Khóa 13 Võ Bị Đà Lạt), báo cáo tình hình: quân số (không quá 90 pháo thủ), vũ khí (6 Đại bác không xe kéo, cùng các vũ khí cá nhân), đạn đại bác, đạn súng cá nhân, 10 ngày gạo + điện trì, không phương tiện mua và tiếp tế thực phẩm!

Nội dung cuộc điện đàm qua hệ thống vô tuyến giữa Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Đà Lạt) với Đại úy Lưu Văn Phúc (Phúc Yên)
– Phúc Yên: kính chào Thẩm Quyền Đà Lạt, tôi Phúc Yên, Bravo 1.
– Đà Lạt: chào Phúc Yên, đây Đà Lạt, nghe bạn rõ. Cho biết tình hình của bạn. (Bằng ngụy hóa, Phúc Yên đã báo cáo đầy đủ lên Đà Lạt như nêu trên).
– Đà Lạt tiếp: Đây là các tần số liên lạc yểm trợ. Tôi đã ra lệnh các Đề Lô vào hệ thống tác xạ của bạn. Bạn có câu hỏi gì cần giải quyết?
– Phúc Yên: Chúng tôi đơn độc. Cần đi, lại dễ dàng. Nhưng cả 7 GMC của Pháo đội B, Lạc Long trưng dụng. Mong Thẩm Quyền can thiệp và hơn nữa Lạc Long còn lệnh cho chúng tôi dọn sạch các kho đạn: Hội Yên, Phong Điền, Điền Môn đưa về Thuận An.
– Đà Lạt: Tôi can thiệp để Lạc Long hoàn trả bạn những GMC ngaỵ (Thế nhưng mãi chiều ngày 19-03-1975, Pháo đội B mới đón nhận được đoàn xe trở về vị trí. Cám ơn các tài xế, các bạn đã hoàn thành xuất-sắc nhiệm vụ khó-khăn, vượt lằn đạn pháo của địch từ cây-số 17 trở ra Hội Yên với Pháo đội).
2. Diễn tiến từ 17 đến tối 21/03/1975
Sau cuộc liên lạc với Thiếu Tá Đạt, Pháo đội B đặt trong tình trạng ứng chiến. Sẵn sàng “Yểm trợ Quân Bạn” và tự “Phòng Thủ”.

Ngay chiều và tối 17/03/1975, nhiều đơn xin Tác xạ các Sĩ Quan Tiền sát viên thuộc 4 Tiểu đoàn Địa Phương Quân và Tiểu đoàn 6/TQLC.

Thiếu hẳn Trung tâm Phối hợp Hỏa lực nên không có sự thống nhất chỉ-huy. Pháo đội B tính yếu-tố bằng 3 xạ bảng, 3 hệ thống tác xạ khác nhau, cố gắng thỏa mãn những yêu-cầu Yểm Trợ. Cần thêm đạn – dược, Pháo đội phải xử dụng 1 xe jeep chuyên chở đại-bác không thùng gỗ, và vác bộ bởi các pháo thủ được cử ra của mỗi khẩu đội, các ban Truyền tin, đại liên, tạp vụ…và mỗi khẩu đội cử 2 người làm vào công tác chuyển đạn từ Tiền trạm Hội Yên về vị trí Pháo đội (khoảng cách chừng non 1 cây số).

Gần nửa đêm, chấm dứt Tác xạ Yểm Trợ. Pháo đội chia phiên tăng cường phòng thủ, thay nhau ăn, ngủ, canh gác, dọn dẹp dư liệu tác xạ…
Một đêm nặng – nề trôi qua . Những ngày sắp đến ra sao?

Ngày 18/03/1975, mới từ sáng sớm tôi được đánh thức bởi Hạ sĩ quan trực, dù rằng chỉ chập-chờn ngủ hơn 1 tiếng đồng hồ trước đó.
– “Ông thầy dậy đi, vọng lính gác cao nhất phát hiện có nhiều quân di chuyển về hướng mình” [Sở dĩ anh ta gọi tôi là “ông thầy” vì vào năm 1967, chúng tôi là thầy trò cùng một toán Tiền sát Pháo Binh].
Nhanh chóng đi đôi giầy trận, tôi theo Trung sĩ Thiềng, người Hạ sĩ quan trực, tiến lên vọng canh gác. Chiếu ống nhòm quan – sát, quả thực nhiều cánh quân đang di chuyển về phía chúng tôi. Quay sang Trung sĩ Thiềng, tôi nói: “Kẻng báo động”

Pháo đội từ Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh sĩ gần 90 pháo thủ nhanh chóng vào vị – trí với đầy đủ súng, đạn cá nhân, áo giáp, nón sắt, mặt nạ. Tiếp tục quan sát, vào hệ – thống Tiền sát viên để liên lạc, biết được quân bạn là các đơn vị Địa-Phương Quân đã rời tuyến phòng thủ bên bờ Thạch-Hãn để tái phối – trí lực-lượng tại phía tây cầu Vân Trình đến Quốc lộ 1.

Tuy nhiên, còn được an – ủi phần nào vì Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến vẫn vững tay súng gần thị – xã Quảng Trị đổ nát. Kể từ lúc này, trước mặt và bên hông phải không còn quân bạn. Pháo đội B: “6 Đại bác + không xe kéo súng + gần 90 pháo thủ chưa từng tác chiến bộ binh” ở vị trí cao nhất, xa nhất! Từ điểm đóng quân Pháo đội về đến Hương Điền, nơi đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Đoàn không còn quân bạn, ngoại trừ một toán (tương đương cấp tiểu – đội) canh gác kho đạn Điền Môn! Tha hồ mà mát mẻ, anh em pháo thủ Pháo đội B ơi! Mát cả mặt, mát lưng và lạnh cẳng! Nhưng ngoài mặt, tôi với nhiệm vụ Pháo-đội-trưởng vẫn cố giữ vẻ bình thản. Chỉ bàn riêng với Trung úy Pháo đội phó Huỳnh Thái Sơn và 3 Sĩ Quan Trung đội trưởng. Tăng cường canh gác và phòng thủ. May thay! Quân Cộng Sản Bắc Việt chưa biết phòng tuyến Thạch Hãn đã bỏ trống. Hay chúng lo ngại “nghi binh để lừa chúng vào vòng” của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng Hòa?

Nhưng đối với tôi, 1 đơn vị nhỏ cấp Pháo đội = cấp Đại đội, cứ yên được lúc nào hãy mừng lúc đó.

Một đêm 18/03/1975 nặng nề, u ám đã qua .

Ngày 19/03/1975, tôi ngủ thiếp trong đài tác xạ. Giật mình thức vì tiếng súng đại bác. Ngồi dậy, tôi hỏi: Yểm trợ đơn vị nào?
– Trung úy Sơn nói: Dạ, yểm trợ cho Tiểu đoàn 6/TQLC.
– Pháo đội trưởng: Pháo đội yểm trợ lâu chưa?
– Trung úy Sơn: Mới tác xạ điều chỉnh xong và bắt đầu bắn hiệu quả.
– Phúc Yên: Sơn có cho lấy thêm đạn từ kho đạn về không?
– Trung úy Sơn: Anh em đang vác thêm.
Không dùng xe Jeep, vì tài xế cho biết còn rất ít xăng!
– Phúc Yên: Đáp ứng theo yêu cần của quân bạn. Nhưng tác xạ 5 khẩu, còn 1 khẩu phòng thủ. Giải quyết cho hết số đạn tại kho đạn Hội Yên!
Quay sang âm thoại viên, tôi bảo:
– Dùng máy PRC25 khác gọi Hậu Trạm (Thành nội Huế).
Sau khi gọi nhiều lần. Chúng tôi liên lạc được Hậu Trạm, đoàn xe cơ hữu của Pháo đội B mới từ Đã Nẵng về đến Huế.

Mỗi xe một tài xế, không lực lượng hộ tống! Can đảm thay và cũng thương các chiến sĩ tài xế này. Vắn tắt, tôi an ủi anh em và bảo họ nghỉ ngơi vài tiếng tại Hậu Trạm, yêu cầu Ban 4 Tiểu đoàn (còn lại vài nhân viên) cho lãnh nhiên liệu, thu xếp vào vị trí Pháo đội trước 4 giờ chiều.

Các tài xế thi hành nghiêm chỉnh lệnh, và chiều ngày 19/03/1975 đoàn xe 7 GMC đã chạy ngược từ Huế (tương đối còn an toàn) vào Hội Yên, Hải Lăng, Quảng Trị đầy dẫy bất trắc dọc đường vì đạn địch pháo kích, quân bạn chạy ra Huế, dân chúng chạy theo…
Toàn thể Pháo đội hoan hô và tuyên dương các bạn tài xế.

Trung úy Thái Sơn ra lệnh phân tán các GMC để tránh đạn pháo kích của địch.
Trung úy Tri Thường, Thiếu úy Lương Văn Phúc, Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn đôn đốc việc phòng thủ.
Ngày 19/03/1975 là ngày đầu tiên chẳng được đơn vị nào “cover” phía trước. Sau này tôi được biết: TĐ 7/TQLC bàn giao vị trí phòng thủ cho Tiểu đoàn 6/TQLC. Trong ngày này, TĐ 6 di chuyển vào Đà Nẵng.

BCH/TĐ7/TQLC phòng thủ tại cầu Phổ Trạch, một Đại đội ngược hướng Bắc đến ngã tư Hội Yên (nơi Pháo đội B đang chiếm đóng đơn độc) và Hương Lộ 555. (Nhưng thời gian ấy, Pháo đội không được nhận được bất cứ lệnh gì từ bất cứ cấp chỉ huy nào).
Ngày hôm sau 20/03/1975, TĐ 7/TQLC nhận được lệnh của Đại tá Tư lệnh phó SĐ/TQLC chuẩn bị di chuyển vào Đà Nẵng thay thế TĐ 11 Dù nằm trên đèo Hải Vân. (Cam Ranh: TĐ 7/TQLC và LĐ147, những ngày cuối tháng 3 tại chiến trường Huế).

PHÚC YÊN TỰ QUYẾT ĐỊNH LUI BINH:

Màn đêm buông xuống, cảnh vật vắng lặng đến “lạnh mình”, đằng trước không quân bạn!, liên lạc cấp trên không có trả lời.

Hệ thống truyền tin “im lặng vô tuyến”.

Lòng tôi buồn vời vợi, lo âu ngập tràn. Tôi “uống thuốc liều”, ra lệnh các sĩ quan họp khẩn cấp, và quyết định: LUI BINH, chấp nhận mọi hậu quả đến với cá nhân mình sau này.

Thứ 1: Rút toán tiền trạm Hội Yên và Pháo đội cho GMC gom hết tất cả đầu nổ đạn Đại bác – Di chuyển thêm đạn dược được chừng nào hay chừng nấy.

Thứ 2: Lợi dụng ban đêm, hơn 7 giờ tối Trung úy Sơn cùng Thiếu úy Lương Văn Phúc dùng 3 GMC kéo 2 đại-bác, đạn dược, truyền tin, tác xạ di chuyển về hướng Nam, theo Hương lộ 555, đóng quân gần ngã ba Vân Trình, sẵn sàng yểm trợ Pháo đội. Chỉ hơn 2 tiếng đồng hồ sau, Bích-Chiêu 3 do Trung úy Thái Sơn giám-sát và Thiêú úy Lương V. Phúc trực tiếp chỉ huy đã báo cáo: “sẵn sàng”.

Thứ 3: Trong khi chờ Bích Chiêu 3 hoàn trả 3 GMC về Pháo đội. Tôi chỉ thị Trung úy Tri Thường đem con cái Bích Chiêu 1 cùng 2 đaị-bác, đạn dược, lương thực, vũ khí cá nhân, dùng 3 GMC khác: “Thế lên đường” và suôi nam Hương lộ 555, qua mặt Bích Chiêu 3, tìm vị trí thuận lợi đóng sau Trung đội 1/B/TQLC khoảng 3 cây số. Hướng súng yểm trợ Bích Chiêu 3 và Pháo đội. Chú trọng việc phòng thủ vị trí. Gửi trả Pháo đội 3 GMC. Báo cáo sẵn sàng.

Thứ 4: “Đúng là trời đất mênh mông, đâu là quân bạn?!” Trung đội 2/Pháo đội B/TQLC với Ban Chỉ huy Pháo đội chưa đếm đủ con số 40, bây giờ ở ngay “tuyến đầu”. Chốt sang sông, đâu mong gì trở lại. Nhưng khi gom đủ 7 GMC, Phúc Yên nói Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn (ông SQ trẻ này đã được Phúc Yên chấp thuận cho rời nhiệm vụ vào ngày 25/4/1975 tại Long Thành để cùng cha mẹ, vợ con di tản sang Hoa Kỳ ngày 28/4/1975, hiện định cư tại tiểu bang Wisconsin) thu dọn tất cả đạn dược, cuộn mìn Claymore dọc theo các vòng rào phòng thủ, đem tất cả những gì có thể đem được, chất lên 7 GMC và 1 jeep. Báo cáo Phúc Yên khi sẵn sàng, nhưng đừng quên canh gác trong lúc dọn dẹp vị trí Pháo đội. Thiếu úy Kim Sơn cho biết: Đạn dược chỉ có thể mang theo 1 cấp số và tất cả đầu đạn. Tôi ra lệnh: “Gài chất nổ các kho đạn để phá hủy.” Đây là 1 quyết định LIỀU LĨNH. Nhưng cấp trên đã bỏ chúng tôi, chúng tôi phải làm như thế để tìm con đường SỐNG! Liên lạc Thái Sơn & Tri Thường theo dõi “những vòng bánh xe âm thầm” của gia đình Bích Chiêu (PĐ-B (-)). Vẫy tay vĩnh biệt vị trí cũ thân yêu để theo Hương Lộ 555 suôi Nam.

Cho xe ghé đón toán tiền trạm Điền Môn. Vượt qua Bích Chiêu 3 & 1 thì đồng hồ đã chỉ hơn 3 giờ sáng ngày 20-03-1975.

Ngày 20-3-1975, ngồi trên xe, dẫn đoàn xe đưa gia đình Bravo tìm chỗ “dung thân”, Phúc Yên chỉ thị Bích Chiêu 1 và 3 chỉ liên lạc nội bộ. Toàn bộ còn lại của Pháo đội chiếm đóng vị trí phía Bắc cầu Đại Lộc. Công việc xong thì trời hừng sáng. Tôi nói Ban ẩm thực lo cho các tài xế và Trưởng ban Quân Xa vấn đề ăn uống.

Lúc này Pháo đội phó phải chỉ huy Trung đội 3, nên việc gì tôi cũng cần trực tiếp. Thiếu úy Kim Sơn lo tổ chức vị trí và phòng thủ.

Các ban tác xạ truyền tin làm Đài Tác Xạ, ban đại liên và công vụ lo canh gác. Tôi chỉ thị ông Hạ sĩ quan Quân xa cho 3 GMC về vị trí Trung đội 3 và 3 GMC về vị trí Trung đội 1. Mấy chú em của tôi thật giỏi.
Đài tác xạ chưa thiết lập xong, truyền tin còn đang dựng ăng ten dù, thì họ đã đem cho tôi và Thiếu úy Kim Sơn mỗi người một tô mì gói và nửa ca cà phê, riêng tôi còn có thêm gói thuốc lá PallMall. Thôi thì cũng cố mà ăn để còn lấy sức, tới đâu hay tới đó.

Ngó vào đài tác xạ đang được thiết lập, tôi thấy Trung úy Nguyễn văn Phú đang giúp hướng dẫn các nhân viên Ban Tác xạ thiết lập xạ-bảng; chỉ bảo Hạ sĩ quan Tác xạ cùng Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn gióng hướng súng sẵn sàng yểm trợ Bích Chiêu 1 va Bích Chiêu 3.
Phúc Yên ra lệnh Gia Đình Bích Chiêu 3: “Thế lên đường”.

Hơn 8 giờ sáng, Trung đội 3/PĐ-B “dọn” đến ngang chỗ Pháo đội đóng quân. Tôi lái jeep ra gặp Thái Sơn và Lương v. Phúc ngay trên lộ 555, chỉ vị trí đóng quân cho Trung đội 3/PĐ-B gần Chợ Biện.

Khoảng 10 giờ sáng 20/3/1975, Bích Chiêu 3 báo cáo: sẵn sàng tác xạ. Phúc Yên tiếp tục chỉ thị Bích Chiêu 1 do Trung úy Tri Thường chỉ huy “nhổ neo” dọn nhà về đóng chung với vị trí Pháo đội. Công việc hoàn tất hơn 12 giờ trưa. Cho đến giờ phút đó, địch vẫn chưa biết thật sự tình hình phòng tuyến quân ta tại chiến trường Quảng Trị, tôi đoán thế. Mệt mỏi, tôi nằm xuống “ghế bố” đặt trong đài tác xạ ngủ thiếp.

Giật mình thức dậy khi nghe nhiều tiếng đạn nổ.
À, vậy ra địch cũng tìm được vị trí của tôi! Chúng đang chào mừng Pháo đội B đó! Tôi nhỏm dậy, hỏi nhân viên tác xạ: “Pháo đội có sao không?”
Phương, hạ sĩ trực truyền tin nói: “Dạ thưa không có gì, đại úy.”

Tôi chụp nón sắt lên đầu, khoác áo giáp bước ra khỏi căn hầm. Đài tác xạ tạm làm bằng thùng đạn đổ đất, trên có vỉ sắt và 3 lớp bao cát chống pháo kích.
Tiếng người trưởng đài tác xạ cất lên: “Nó đang pháo kích ông thầy ra ngoài chi vậy?” Tôi trả lời: “Xem anh em thế nào. Coi chừng sau màn pháo là nó đánh. Loạng quạng ‘tiêu’ với nó.”

Đạn pháo kích vẫn nổ, nhưng chưa quả đạn nào lọt được vị trí. Đa số rơi xuống sông chảy ngang cầu Đại Lộc. Tôi ra lệnh anh em cứ ẩn nấp, sẵn sàng chiến đấu, đừng nghĩ chuyện phản pháo. Yêu cầu Trung úy Tri Thường và nhờ Trung úy Phú cùng đo phương giác, ước lượng khoảng cách đưa lên xạ bảng để tôi cùng Ban Tác Xạ xác định vị trí súng địch. Có được những điểm nghi ngờ, tôi ra lệnh Trung úy Sơn cho Bích Chiêu 3 phản pháo kích của địch quân.
Không biết phản pháo có hiệu qủa hay không, nhưng địch im tiếng súng.
Lúc đó, trời đã ngã về chiều. Tôi nói Tri Thường, Kim Sơn hãy lo thay nhau cơm nước, nghỉ ngơi và đôn đốc canh gác.

Tôi cũng nhắc Thái Sơn đừng quên “đang ở một mình, ráng mà giữ thân.”
Thái Sơn trả lời: “Phúc Yên cứ an-tâm, Sơn và Lương v. Phúc sẽ thay nhau chong mắt nhìn màn đêm, gia đình Bích Chiêu 3 cảnh giác cao độ.”

Đêm 20/3/75 rạng 21/3/75, khoảng gần 3 giờ sáng, lợi dụng sương mù dày đặc ban đêm địch đã bò từng toán từ rặng đồi dương liễu và ven sông để mong đột nhập vào vị trí pháo đội. Nhưng các trạm canh gác phát hiện sớm, chúng bị ăn đạn súng cá nhân và đại bác nên bỏ chạy.

Sáng sớm chúng tôi không dám mạo hiểm hành quân lục soát, lính Pháo binh thì chỉ biết bắn đại bác và phòng thủ vị trí đã khá lắm rồi.
Ngày 21-3-1975, đợi sáng hẳn, tôi cho mời Thường vụ Pháo đội đến gặp tôi nhận công tác.
“Anh chỉ huy 1 toán gồm 7 người kể cả 1 binh sĩ truyền tin với máy PRC25. Di chuyển bộ, vượt cầu và đến phía Nam, bên trái có 1 trường học có lẽ bỏ trống lâu ngày; chiếm giữ, canh gác an ninh 2 bên đầu cầu và vị trí trường học. Pháo đội sẽ di chuyển sang ngay sau khi anh báo cáo bố trí an-ninh phòng thủ xong. Quân trang, quân dụng của 7 Pháo thủ này sẽ do Trung đội Công vụ bảo quản và đưa lên GMC.”

Thường vụ Pháo đội thi hành lệnh nhanh chóng cùng toàn Thám sát vị trí lên đường. Triệu tập Tri Thường, Kim Sơn, tôi nói: “Cơm nước nhanh, dọn dẹp lẹ, thay phiên trực gác để có thể ăn uống và sẵn sàng thế lên đường khi có lệnh.”

Nhờ Phú chỉ thị Thái Sơn tính yếu tố bắn yểm trợ cho Pháo đội rút lui nếu cần.
Không thể liên lạc được với Bộ Tư Lệnh nhẹ SĐ/TQLC/HQ, mất liên lạc với mọi đơn vị bạn từ trưa 19/3/75.
Với nhiệm vụ người chỉ huy một đơn vị nhỏ mà ở ngay tuyến đầu, nặng nề với súng đại bác, công tác dọn các kho đạn không thể thi hành. Trong lịch sử chiến trận chưa bao giờ Pháo binh lại đơn độc như tình hình Pháo đội B hiện nay.

May thay, quân Cộng sản Bắc Việt chưa xua quân vượt Thạch Hãn để truy đuổi chúng tôi. Chúng nó còn sợ bóng vía cứ tưởng rằng phòng tuyến Quảng Trị vẫn còn những chiến sĩ Cọp Biển anh hùng, từng cắm cờ Cổ Thành Đinh Công Tráng, từng tay đôi với xe tăng bọn chúng. Nếu chúng biết rõ tình hình lúc đó tại tuyến đầu Quảng Trị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 1 Pháo đội với khoảng 90 tay súng. Từ Thạch Hãn đến Nam Cầu Vân Trình đường thênh thang rộng mở, thì bọn địch chỉ cần xử dụng 1 đơn vị cấp Tiểu đoàn là có thể đưa gia đình Bích Chiêu đi nghỉ phép dài hạn ở thế giới bên kia.

Phúc Yên và các Sĩ Quan trong Pháo đội lo âu và bàn tính mọi cách bảo toàn lực lượng. Nhưng anh em pháo thủ vẫn hoạt động bình thường vì họ chẳng biết gì về tình trạng nguy nan của đơn vị.

Mọi lệnh đưa xuống, các Trung đội, các khẩu đội, các ban trực thuộc đều nghiêm chỉnh thi hành.
Xin dừng ở đây để viết lời cám ơn anh em.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 21/3/7, Pháo đội B đã “sang sông”, tạm chiếm đóng tại sân trường học đổ nát, tọa lạc tại phía Nam cầu Đại Lộc. Chưa kịp làm hầm hồ phòng thủ, Pháo đội lại bị Pháo kích. Tôi nghĩ có Đề-lô của địch bám sát và trà trộn trong dân chúng địa phương.

Vài quả đạn đã bắn gần vị trí. Rơi ngay các thửa ruộng sũng nước làm tung toé nước lẫn bùn. Vài quả đạn địch bắn dài hơn.

Tiếng của Tri Thường gọi Thái Sơn phản pháo. Bên ngoài đài tác xạ, có Kim Sơn và tôi đang cùng anh em tìm chỗ khả dĩ có thể tránh đạn pháo kích, nhưng vẫn lo phòng thủ.
Có lẽ đại quân chưa xuất hiện, chỉ đơn vị nhỏ của địch Pháo kích chúng tôi bằng súng cối. Nhưng tôi thật nóng ruột. Mù mờ về tình hình bạn và địch. Phải chi còn liên lạc được với cấp chỉ huy thì đỡ biết chừng nào.

Bớt đạn pháo kích, tôi chạy nhanh vào đài tác xạ và nghĩ miên man. Tiếng nói vang lên từ loa khuếch đại của hệ thống truyền tin.
– Đà Lạt: Bích Chiêu đây Đà Lạt, nghe rõ trả lời.
– Âm thoại viên: Đà Lạt đây Bích Chiêu, tôi nghe Đà Lạt 5/5.
– Đà Lạt: Cho gặp Phúc Yên, thẩm quyền của bạn.
– Phúc Yên: Chào Đà Lạt, Phúc Yên nghe.
– Đà Lạt: Bạn bây giờ ở đâu? Sao không liên lạc báo cáo cho tôi?
Giọng nói của Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt khá gay gắt.
Tôi bình tĩnh trả lời: “Trình Thẩm Quyền, từ trưa 19/3/75 tôi cố liên lạc hoài không được với thẩm quyền và bất cứ đơn vị bạn nào”. Tôi đoán rằng Thiếu Tá Đạt thông cảm hoàn cảnh không sáng sủa gì của Pháo đội B.
Nên ông dịu giọng: “Thôi, gỡ loa đi, về nhà pháo (33.40 #33.41)”.
– Phúc Yên: Đáp nhận.

Tóm tắt cuộc điện đàm như sau:

1- BTL nhẹ SĐ do Đại tá Tư Lệnh phó Nguyễn Thành Trí trực tiếp chỉ huy tại Hương Điền, chỉ có 1 trung đội Viễn Thám canh gác bảo vệ.
Phòng 3 còn 1 vài Sĩ quan cấp nhỏ và số ít nhân viên. Trung tá Nguyễn văn Nhiều, Trưởng Phòng 4 và một số nhân viên trực thuộc còn ở lại. Pháo binh vỏn vẹn 4 thầy trò Thiếu Tá Đạt.

2- Kho đạn Hương Điền với hơn 20,000 đạn đại bác được phòng thủ và bảo quản bởi toán tiền trạm không hơn 15 người do Trung úy Phan Đông, Sĩ Quan Đạn dược, Tiểu đoàn 1 Pháo binh chỉ huy. Tại đây còn có 1 trung đội Công Binh TQLC? (Phan Đông hiện định cư tại Ohio).
Chi khu Hương Điền không biết rõ họ còn bao nhiêu quân nhân tại chỗ? Ôi, Tư Lệnh cả một chiến trường mà lực lượng phòng thủ mỏng đến thế hay sao? Tôi nghe mà thở dài ngao ngán.

3- Tiểu khu Quảng Trị đã về đến Huế (để thi hành nhiệm vụ gì?).

4- Lệnh cho Pháo đội B lui binh, không có bộ binh tác chiến bảo vệ đằng sau.:
Phải rút về cửa Thuận An khoảng trước sau 5 giờ chiều, không sớm cũng không muộn.

5- Thiếu Tá Đạt yêu cầu tôi báo cáo vị trí Pháo đội.
Tôi vì muốn dấu vị trí thật, nên báo cáo láo như sau: Gia đình Bích Chiêu phân tán, tôi cho một đứa con Bích Chiêu 3 ra ở riêng, buôn bán gần Chợ Biện; còn lại thì thầy trò tôi ở Điền Môn.

Thiếu Tá Đạt sốt ruột và nói: Sao giờ này còn ở đó? Chờ đến bao giờ mới về gần nơi đây? Tôi trả lời: Có giới chức nào cho lệnh gì đâu mà dám di chuyển?
Thiếu Tá Đạt là cấp chỉ huy đầu tiên của tôi vào thời gian tháng 8/1966 lúc tôi vừa đáo nhậm đơn vị sau khi tốt nghiệp khóa 21 Sĩ Quan Pháo Binh, Dục Mỹ, Nha Trang.

Ông ta hiểu tôi là “ưa liều lĩnh”, nhưng càng trải chiến trận, tôi càng thận trọng hơn trong mọi việc “xuất, sử,” tuy nhiên tôi chỉ làm những gì theo bổn phận, trách nhiệm, tuyệt đối chưa bao giờ “nói hay hơn làm” để vừa lòng cấp trên.

Bởi vậy tôi thường hay lận đận, khoá 21 SQ Pháo Binh phục vụ binh chủng TQLC tất cả 5 người thì 4 SQ kia lần lượt đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng từ năm 1970. Riêng tôi thăng từ Đề Lô cấp đại đội, tiến lên Đề Lô cấp Tiểu đoàn, rồi làm Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh các BCH Lữ Đoàn cho đến tháng giêng năm 1973. Nước cạn bèo dính đất, khoá 22, 23, 26, 2/68 đã là Pháo đội trưởng chả lẽ tôi cứ tiếp tục Sĩ Quan liên lạc, nên tháng 4/1973 cấp trên cũng giao cho tôi 1 Pháo đội tình trạng đang đà tuột dốc.

Được dịp “khảo sát khả năng lãnh đạo chỉ huy,” nên cấp trên chỉ định tôi cùng Pháo đội B ở lại “trần trụi” với chiến trường Quảng Trị bỏ ngỏ!!!

Cho nên Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt thương cho hoàn cảnh của chúng tôi.
Ông bỏ nhỏ: “Ráng mà đem gia dình Bravo về cửa Thuận An trước trời sập tối của ngày 21/3/75”.
Tôi đáp nhận. Chấm dứt liên lạc.
Tôi chỉ thị Pháo đội (-) các chi tiết lui binh.
Gọi Bích Chiêu 3 chờ đón, xe Jeep đưa 4 thầy trò tôi về gặp Thái Sơn.
Gặp anh em Trung đội 3/PĐ-B đóng gần Chợ Biện, tôi họp nhanh với Thái Sơn và Lương v. Phúc.
Cho 2 Sĩ Quan này biết kế hoạch triệt thoái và giờ giấc. Chúng tôi quay lại vị trí Pháo đội (-). Mới về đến gia đình Bích Chiêu, bước vào đài tác xạ, người trực truyền tin cho tôi biết Trung úy Phan Đông. Chỉ huy Tiền trạm Hương Điền chờ tôi trên hệ thống nhà Pháo (33.40).

Tôi vào máy và qua điện đàm, Phan Đông cho tôi biết phải mau chóng qua được Nam Cầu Đại Lộc, vì Công Binh TQLC có lịnh phá cầu. Tôi cám ơn Phan Đông nhưng không hề tiết lộ vị trí thật và chúng tôi cũng đã dự trù để ngăn chặn chiến xa địch nếu cần thì chính Pháo đội B sẽ giật xập cầu trước lúc lui binh. Bây giờ có anh em Công Binh làm công tác đó, càng khoẻ cho chúng tôi. Cám ơn bạn Phan Đông.

RÚT LUI VỀ THUẬN AN.

Khoảng gần 3 giờ chiều 21/3/75, tôi ra lệnh trung đội 1 do Trung đội trưởng Trung úy Tri Thường kéo đại bác, đạn dược, vũ khí, quân dụng rút trước.
Tôi nói khéo với Trung úy Phú để ông ta đi cùng Trung đội 1 rút lui trước. Ban chỉ huy Pháo đội và Trung đội 2/B cùng tất cả các ban rút sau. Về ngang Chợ Biện, nhập với Trung đội 3/B. Pháo đội chúng tôi cho xe ghé vào kho đạn Hương Điền đón toán tiền trạm của Trung úy Phan Đông.

Tôi chỉ bốc đầu đạn (mà cũng không hết) và quyết định bỏ mặc kho đạn Hương Điền. Sức kham không nổi. Tôi quyết định “uống thuốc liều”, tới đâu hay đó, tôi nghĩ: “giữa cái chết của đơn vị và cái án tù bất tuân thượng lệnh dành cho cá nhân mình, thì nên chọn cái nào, bên nào nặng, bên nào nhẹ?”

Đoàn xe về đến cửa Thuận An chừng độ 5 giờ chiều, tôi nói với Thái Sơn cho hạ càng súng đại bác, xe phân tán, phân chia các trung đội phòng thủ, nghỉ ngơi ăn uống. (Pháo Binh có thuốc bồi đạn đại bác, nên nấu nước chế gạo xấy, hay hâm nóng thịt hộp, nấu cà phê, pha trà, thậm chí nấu cơm rất nhanh.)

Tôi lái đến gặp sĩ quan chuyển vận Phòng 4/SĐ/TQLC và được cấp 1 phà quân sự lần lượt đưa toàn bộ Pháo đội gồm tất cả Pháo Thủ với xe kéo súng, xe jeep, quân dụng, vũ khí, 1 cấp số đạn đại bác…qua phía Nam cửa Thuận cũng phải 4 chuyến mới hoàn tất. Qua đến phía Nam, trời đã về chiều.

Tôi cho gọi Hậu Trạm Pháo đội B tiếp tế lương thực, nhiên liệu cho Pháo đội chuẩn bị kéo súng di chuyển đường bộ về Đà Nẵng, có thể sáng hôm sau 22/3/75.
Vặn Radio để nghe tin tức, rà mãi chẳng nghe đài phát thanh Huế phát sóng lên tiếng. Hơn 7 giờ 30 chiều, Trung sĩ Nguyễn văn Mới, Hậu trạm Pháo đội B gặp Pháo đội bằng 1 GMC, tuy có nhiên liệu nhưng đáp ứng rất ít! Lương thực hoàn toàn không. Anh ta chỉ kịp ghé chỗ quen mua tạm cho Pháo đội ít cà phê, đường, và thuốc lá.

Trung sĩ Mới cho biết: Hậu trạm các Tiểu đoàn kể cả Hậu trạm Tiểu đoàn 1 Pháo binh đã di chuyển về Đà Nẵng.
Hiện vài thầy trò Thượng sĩ Huỳnh Nghiệm lo dọn nốt quân dụng. Nếu họ di chuyển thì chỉ còn lại Hậu trạm Pháo đội B với 3 GMC trong dó 2 GMC hư hỏng không phụ tùng sửa chữa.

Tôi trấn an anh ta: “Nếu Pháo đội về Đà Nẵng, tôi cho liên lạc trước, toán hậu trạm của anh sẽ đón chúng tôi, trên đường chạy xuống phi trường Phú Bài, thứ gì có thể đem được thì đem, còn lại bỏ hết, kể cả 2 GMC hư hỏng. Không có gì phải lo lắng. Yên trí, Pháo đội không bỏ rơi các anh đâu!”.

Lệnh Trở Lại Chiến Trường: NHƯNG, lại có chữ NHƯNG. Đời qủa là rắc rối.
Người âm thoại viên tới, chào và nói: “Trình Đại úy, Thiếu Tá Đạt cần gặp”.
Tôi bước đến xe jeep có thiết trí máy PRC25 và gặp Thiếu Tá Đạt qua hệ thống vô tuyến. Ông cho tôi biết: Lệnh của Đại tá Trí là Phúc Yên phải quay lại ngay nhận lệnh; toàn thể Pháo đội kéo đại bác trở lại sau. Tôi thở dài ngao ngán. Nhưng Lệnh phải thi hành.
Cho mời Trung úy Phú, cựu Pháo đội phó Pháo đội B, hiện đang cùng Pháo đội ở lại Quảng Trị, (lý do tại sao thì chỉ Thiếu Tá Lạc biết).

Phú vừa tốt nghiệp khóa Pháo Binh Trung cấp. Đáng lẽ Phú xứng đáng giữ chức vụ Pháo đội trưởng bất cứ Pháo đội A, B hay C. Nhưng cấp trên lại giao cho một Sĩ Quan cùng khóa 26 Pháo Binh với Phú từ đơn vị khác thuyên chuyển về đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng.

Đời thường vẫn có cảnh: “Bụt nhà không linh thiêng” là thế đó.

Cá nhân Phúc Yên đôi ba lần đề nghị giao PĐ-B để Phú chỉ huy, đồng thời Phúc Yên đã làm đơn nộp xin thuyên chuyển xuất binh chủng TQLC.
Ngày nào còn phục vụ trong PB/TQLC thì sao chiếu mệnh là “sao quả tạ”.
Vì để tránh nguy hiểm đến với Phú. Từ ngày 16/3/75 đến hôm nay (21/3/75) tôi đề nghị Trung úy Phú chỉ nên ở trong Đài tác xạ. Giúp được gì tùy ý, tôi không muốn Phú lao ra ngoài nguy hiểm như những ngày còn quân số Pháo đội B.
Trung úy Phú gặp và hỏi tôi: “Đại úy cho gọi tôi có việc chi, tôi sẵn sàng”.
Làm như có lệnh trên, tôi nói: “Tiểu đoàn gửi công điện từ Đà Nẵng, yêu cầu Phú về Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC. Bây giờ Phú đi cùng Trung sĩ Mới về Huế. Cố gắng tìm phương tiện nhanh nhất về Đà Nẵng. Chúng tôi sẽ về đó sau”.
Phú nói: “Đại úy báo cáo với Tiểu đoàn, tôi ở lại cùng Pháo đội và sẽ cùng về Đà Nẵng một lượt”.
Tôi nói: “Phú ơi, bạn phải về Tiểu đoàn. Tôi không còn phương tiện liên lạc với họ. Tôi chỉ được Thiếu Tá Đạt chuyển lệnh”. Tôi phải nói dối để Phú rời vùng Pháo đội hành quân. Chúng tôi quay trở lại Quảng Trị với nhiệm vụ trì hoãn chiến ngăn sức tiến quân của địch. Đơn vị ở lại được xem như thành phần không có hy vọng trở về nguyên vẹn.
Phú buồn bã chào tôi và từ biệt Pháo đội, bắt tay những người đứng gần và thu xếp ba lô lên xe GMC cùng Trung sĩ Mới về Huế.
Bằng cách nào Phú về đến Đà Nẵng an toàn, tôi chưa hề hỏi lại Phú.
Quay sang Thái Sơn, tôi nói: “Sơn ơi, bây giờ tôi, Phương (âm thoại viên), Tài (cận vệ) và Thông (tài xế xe jeep) xuống phà trở lại trước. Bạn chỉ huy Pháo đội kéo súng xuống phà, quay lại sau, thứ tự ưu tiên: Trung đội 1, 2, Trung đội chỉ huy và Trung đội 3. Giữ liên lạc. Gần đến Hương Điền, tôi sẽ đón”. Tôi hạ giọng và nói nhỏ với Thái Sơn: “Tụi mình vào nơi gió cát xa trường làm một nhiệm vụ khó hoàn thành: Trì hoãn chiến”.

Thay lời kết:

Thái Sơn và các bạn Pháo thủ Pháo đội B thân mến, cám ơn các bạn đã sát cánh cùng tôi chu toàn nhiệm vụ khó khăn. Cá nhân tôi không có gì xuất sắc, nhưng tôi đã làm tròn lời nói với Pháo đội B khi tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy: “Không bao giờ bỏ anh em để tháo chạy lấy thân, nếu khi rút lui, tôi sẽ đoạn hậu“.
Mong có dịp may gặp lại các bạn sau gần 30 năm một người một nơi.

MX Lưu-văn-Phúc
Washington State, USA (21-11-2003)

Kỷ niệm ngày Gia đình Thái Sơn đến Mỹ định cư.
Thân tặng Pháo thủ, Pháo đội B Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Đặc biệt mến tặng Huỳnh Thái Sơn người đến Mỹ muộn màng (Ngày 21 tháng 11 năm 2003).

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Image

NGƯỜI LÍNH (DÙ) CHẾT SAU CÙNG TẠI NGÃ NĂM BÌNH HÒA,
GIA ĐỊNH SÀI GÒN.

Triều Phong
(Charleston, South Carolina) - fb Steven Lam
"Tác giả ghi lại những gì diễn ra trước mắt mình, ngay trước nhà mình, ngay trong khu phố mình sống, những giờ phút cuối cùng của miền Nam." Ngày ấy, tác giả vừa tròn 15 tuổi. Viết cho ngày 30 Tháng Tư năm ấy. Viết cho những người lính cấp bậc nhỏ, nhưng hy sinh lớn.


Viết cho những người lính vô danh, Vị quốc vong thân lúc thành mất nước tan. Ai cũng sống cả một đời, nhưng chết chỉ một lần. Các anh, những người lính nhỏ, Các anh, những người lính vô danh, nhưng hy sinh vĩ đại!
Suốt 40 năm qua, tôi đã đọc, đã nghe và cũng đã xem nhiều về những hy sinh của các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa khi nước mất nhà tan vào tay Cộng Sản trong ngày 30 Tháng Tư đau buồn của năm 1975. Lúc ấy tôi được 15 tuổi, chưa trưởng thành, chưa đủ khôn và đủ hiểu biết chuyện đời, nhất là chuyện thời cuộc.


Ở tuổi này, tuy chưa đủ lớn, ký ức mình cũng đủ “già dặn” để không quên điều xảy ra. Và trong ý nghĩ đó, có một câu chuyện cho đến giây phút này vẫn còn in đậm trong ký ức của tôi.
Mấy mươi năm qua, tôi cho đó là “chuyện nhỏ.” Sau này, tôi chợt nhận thức, rằng chuyện nhỏ này lại có ý nghĩa vô cùng to lớn mà hôm nay tôi muốn ghi lại và chia sẻ với những ai quý tự do, yêu độc lập và chuộng hòa bình.


Lúc ấy là 09 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975!” (Tín Võ)

Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười, khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi…


Xảy ra tại phía Tây Nam cầu Bình Triệu (Cư xá Thanh Đa vào trưa ngày 30/4/1975). Nơi đăy là khu vực của LỮ ĐOÀN 4 NHẢY DÙ trấn giữ, vào những giây phút đen tối cuối cùng. TĐ15/ND kiểm soát tại số 1, ĐĐ151/ND kiểm soát tại số 2. Sau khi nghe lệnh đầu hàng của ông Minh, TĐ15/ND rút về vị trí số 3, và đđ151/ND rút về vị trí số 4, v.v... (có lẽ câu chuyện thương tâm trên có liên quan đến TĐ15/LĐ4/ND/QLVNCH ??? qúy vị nào biết rõ chi tiết, xin cho ý kiến)


Thời khắc ấy cách đây đúng 40 năm, trong cảnh hỗn mang của ngày tàn cuộc chiến, trong xóm tôi ở Ngã Năm Bình Hòa-Gia Ðịnh, bỗng xuất hiện bốn năm người lính Nhảy Dù. Họ chạy lúp xúp men theo vách tường nhà Dì Sáu của tôi rồi dừng lại trước nhà tôi. Tất cả đều còn rất trẻ và người họ mang đầy súng ống đạn dược. Áo quần họ bám đầy bụi đỏ. Chỉ cần nhìn thoáng qua, ai cũng biết những người lính này mấy ngày trước đây đã từng xông pha trận mạc. Họ đứng trước khoảng đất trống, ngó dáo dác một đỗi, thì người lính có mang một bông mai trên cổ áo nói, như
ra lệnh:
– Anh em đào ở đây đi.
– Tuân lệnh thiếu úy!
Một người trong họ trả lời. Thế là các anh tháo gỡ trên vai xuống mấy cái xẻng cá nhân. Với thao tác nhanh lẹ, phút chốc họ đã biến chúng thành những cái cuốc và bắt đầu đào hố cá nhân.
Trong nhà, má tôi lo lắng ra mặt. Bà đang phân vân chẳng biết có nên di tản không và nếu đi thì chưa biết phải đi đâu. Bất ngờ, bây giờ thấy lính tráng chuẩn bị hầm hố chiến đấu trước cửa nhà, bà thêm hoảng sợ.
Tuổi thiếu niên đang lớn, hiếu kỳ, tôi tò mò bước ra sân, tiến gần đến khoảng đất trống ngồi chồm hổm xem mấy người lính làm việc. Lâu lâu có tiếng đại bác vọng về, tiếng súng bắn lẻ tẻ vang lên đây đó làm cho bầu không khí chết chóc thêm ngột ngạt, hình ảnh chiến tranh thêm rõ nét.


Dân trong xóm tôi nhốn nháo chạy tới chạy lui, mặt mày ai nấy đều lấm la lấm lét khi đi ngang qua nơi mấy người lính đang làm việc. Bộ mặt của thành phố Sài Gòn lúc đó như người bệnh nặng sắp mất.
Ðộ chừng nửa tiếng sau, khi hố được đào khá sâu, một người lính đứng lên, mồ hôi nhễ nhại trên mặt. Anh đưa cánh tay lên cao, quẹt lấy mớ tóc bê bết trên trán để lộ một cái sẹo thật to nơi đuôi mắt phải, đoạn nhìn tôi:
– Em trai chạy vô nhà lấy cho anh xin miếng nước uống đi em.
Tôi đứng dậy co giò phóng vào nhà. Ít phút sau tôi mang ra cho các anh một ca nước đá bự, một cái ly và một ít kẹo đậu phọng với bánh in mà má tôi đưa thêm. Họ ăn, họ uống, họ nói cười vui vẻ, cơ hồ như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có người thiếu úy là không ăn uống gì cả.


Người thiếu úy này cũng còn trẻ và đẹp trai như Tây lai nhưng dáng dấp rất phong trần, uy dũng. Tôi đoán chừng tuổi đời anh chỉ khoảng 23, 24 gì thôi. Anh có vẻ như đang lo lắng trước tình hình chiến sự lan rộng nên nét mặt luôn phủ một lớp sương mờ căng thẳng.
Nắng lên khá cao…
Bỗng một tiếng nổ lớn từ đâu dội lại rung chuyển cả mặt đất. Tôi hoảng hốt. Mấy người lính ngưng đào, ngẩng đầu nhìn quanh. Viên thiếu úy ngó về cuối xóm một thoáng rồi nói với đồng đội:
– Anh em cứ tiếp tục đi, để tôi xuống dưới này xem sao.


Người thiếu úy xốc khẩu M-16 đang mang trên vai lên cao và bỏ đi trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bên trong, má tôi gọi tôi vào và không cho ra khỏi nhà, vì sợ đạn lạc. Xế trưa, lúc ông Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ buông vũ khí và đầu hàng vô điều kiện thì má tôi vội vã kêu tôi cầm cái radio-casette hiệu Sanyo ra cho những người lính bên ngoài nghe. Trong khi họ còn sững sờ thì viên thiếu úy từ dưới đang vội vã đi lên. Một anh lính trẻ giơ chiếc radio về viên sĩ quan, hớt hải, nghẹn ngào. Anh nói như sắp khóc:
– Thiếu úy, thiếu úy, ông Minh đầu hàng rồi. Mình thua rồi!
Viên sĩ quan khựng lại một lúc rồi chăm chú nhìn vào cái radio trong im lặng não nề. Tiếng ông Minh kêu gọi đầu hàng cứ được lập đi lập lại hoài khiến người sĩ quan trẻ nổi cáu:
– Ð.m. sao chưa đánh đấm gì đã lo đầu hàng?
Người thiếu úy giận dữ quát tháo, gương mặt đan xen nỗi đau và buồn.
Sau một đỗi phân vân, cuối cùng thiếu úy hạ giọng:
– Thôi đi.
Thế là họ bỏ chiến hào đang đào dang dở và hấp tấp chạy trở ra đường.

Ðộ chừng một tiếng đồng hồ sau, người ta nghe nhiều tiếng súng AK-47 nổ giòn giã rồi tiếng M-16 bắn liên thanh đáp trả. Lẫn lộn trong đó thỉnh thoảng có cả tiếng súng M-79 đệm vào. Ðứng trong sân nhà nhìn ra, tôi thấy có vài cột khói đen bốc lên cao.

Từ bên ngoài, vài người trong xóm tôi tất tả chạy về. Gặp má tôi đang đứng lấp ló nơi cửa, họ báo:
– Ðang đánh nhau ở ngoài Ngã Năm dữ lắm cô Ba.
Ngã Năm Bình Hòa là giao điểm của năm con đường từ năm hướng khác nhau. Năm Mậu Thân 1968, nhiều trận đánh đã diễn ra ở đây khi Lực Lựợng Bảo Vệ Biệt Khu Thủ Ðô của quân đội VNCH ngăn chặn các mũi tiến công của cộng quân từ bên ngoài đổ về qua mấy cửa ngỏ như Gò Vấp, Cầu Bình Lợi, Lò Vôi hay Ðồng Ông Cộ… nên nó trở thành một trọng điểm chiến lược vì là một trong những lộ chính tiến vô thủ đô Saigon.


Chiều cùng ngày, khi lịch sử đã an bài, dân chúng bắt đầu túa ra đường phố. Lớp thì đón quân “Giải Phóng,” lớp khác lại mừng đất nước “Ðộc Lập,” trong khi tôi thì tò mò theo người cậu họ ra xem tình hình ngoài ngõ. Nghe thiên hạ bàn tán xôn xao có lính chết ở chỗ Ngã Năm Bình Hòa, cậu cháu tôi lần bước tới quan sát. Một đám đông đang vây quanh trước Nhà Thuốc Tây Tiến Thành, là nhà thuốc của má thằng bạn tôi. Cố gắng chui vào đám người hiếu kỳ ấy và luồn lách một tí, tôi tới được bên trong. Giữa vòng người nọ là xác một người lính nhảy dù nằm chết cứng. Ngực thủng một lỗ lớn, chiến bào loang đầy máu và đã chuyển sang nâu sậm nhưng đôi mắt anh vẫn mở trừng trừng. Nhìn kỹ, tôi chợt giật mình: người đó chính là viên thiếu úy ban sáng!
Ðang còn ngỡ ngàng, tôi bỗng thấy có một thanh niên vẹt đám đông bước lại gần xác người thiếu úy. Anh mặc một chiếc quần tây đen ngắn củn và áo thì rộng lùng thùng như đồ của ai cho chớ không phải của anh vậy.


Anh khom người xuống, giơ tay vuốt nhẹ nhàng lấy khuôn mặt lạnh vô hồn kia. Ðôi mắt từ từ nhắm lại và nơi khóe miệng một dòng máu nhỏ rỉ ra bên mép. Dường như chàng thanh niên lâm râm khấn vái điều gì đó nho nhỏ, đoạn anh đứng lên, bước ra với đôi mắt đẫm lệ. Tôi nhận ra ngay anh chính là người lính xin nước tôi lúc sáng, nhờ vết sẹo to nơi đuôi mắt.
Thiên hạ bàn tán sôi nổi khi dòng máu tươi nơi khóe miệng của thi hài đã lâu kia rỉ ra. Người miền Nam vốn duy tâm, thiên hạ tin rằng đấy là một điều linh thiêng vì vị sĩ quan này có lẽ còn có chuyện chi oan ức.

Ðột nhiên, chị Bảy bán tạp hóa sau lưng tôi lên tiếng kể lể với những người xung quanh:
– Ông thiếu úy này và mấy người lính của ông ta nấp ở vách tường bên kia kìa. Ðứng trông cửa sổ nhà nhìn qua, tui thấy mấy ổng bắn xuống phía mấy ông “Việt Cộng” ở dưới Ðồng Ông Cộ quá trời. Cuối cùng chắc thấy không xong, ổng biểu mấy người lính của ổng chạy đi còn ổng thì vẫn ở lại. Rồi hình như ổng bị thương sao đó nên bò sang nấp vô Cổng Ðình Thần Bình Hòa này nè. Hai bên còn bắn nhau một lúc lâu nữa và khi không còn nghe tiếng súng thì tui dòm ra thấy ổng lết tới đây rồi chết luôn.

– Hết chiến tranh rồi mà chết, tội nghiệp quá! Không biết có gia đình vợ con gì không? Thân nhân mà hay được chắc là buồn lắm.
Ông già bên cạnh chị Bảy nói theo làm mọi người mủi lòng trước sự hy sinh oai hùng của viên thiếu úy. Chợt một bà cụ cầm tấm chăn, không biết từ đâu, tách đám đông bước vô phủ trùm lên xác người thiếu úy và mếu máo:
– Dù con không có họ hàng gì với bà nhưng bà thấy con chết thảm bà thương quá. Tội nghiệp, con cái nhà ai vậy không biết nữa. Thôi con chết rồi, con hãy thanh thản ra đi và nếu hồn con có thiêng thì phù hộ cho bà con nơi đây được nhiều an lành nha con!


Nhiều tiếng khóc sụt sùi vỡ ra bởi lời lẽ chân thành của bà già. Cảm thấy quá đau lòng trước thảm cảnh thương tâm ấy, tôi thẫn thờ bước ra, chợt trông thấy người lính trẻ còn đang đứng dựa cột nơi quán cơm tháng của Dì Mười khóc rấm rức như trẻ thơ. Ôi, còn đâu người chiến sĩ anh dũng ngày nào! Ôi, còn đâu bộ đồ trận kiêu hùng một thuở! Ðôi vai run run theo tiếng nấc của anh làm tôi bùi ngùi. Ngẩng mặt lên bắt gặp tôi đang nhìn anh trân trối, anh vụt bỏ đi.
Ngó cho đến khi bóng dáng xiêu vẹo của anh khuất nơi cuối chợ, tôi thấy lòng nao nao buồn. Cảm khái trước một nỗi niềm mất mát bao la của tình đồng đội thiêng liêng cao quý lẫn tiếc nuối cuộc đời binh nghiệp nữa đường gãy đổ, tâm hồn tôi tràn ngập cả một sự chua chát to lớn.

Nhưng tôi đâu biết rằng, đó chỉ là khởi điểm của một trang sử đau thương cho dân tộc, cho hàng vạn sinh linh sau này.

Triều Phong

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by kalua »

Tháng Ba 1975, ngày ta bỏ núi
(Trích hồi ký Ngày ta bỏ núi, của Thiếu Tá Vương Mộng Long, TĐT/TĐ 82 BĐQ)
Vương Mộng Long
11 tháng 3, 2024
Image
Sáng 10 Tháng Ba năm 1975, bộ chỉ huy liên đoàn báo cho tôi biết tin địch đang pháo kích vào tiền cứ Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát trại Thiết-Giáp trên đường đi Bản-Ðôn. Người chỉ huy tiền cứ của liên đoàn là Thiếu Tá Lê Ðình Hồng đã bị thương nặng.

Hậu trạm của tiểu đoàn tôi ở Ban Mê Thuột cũng có mặt sáu người là, Thiếu Úy Huỳnh Kim Hoàng, Chuẩn Úy Lê Hữu Ðức, Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước, Trung Sĩ 1 Lưu Ðức Hoàn, lao công Phan Thành Hoàng, và ông Tàu Hỷ – chủ câu lạc bộ. Không rõ tình trạng của các ông này ra sao?

Tới trưa thì có tin chiến xa Việt Cộng nối đuôi nhau chạy rầm rầm giữa trung tâm thị xã. Mọi cuộc đàm thoại vô tuyến bị đứt đoạn vì không có đài tiếp vận.


Liên lạc giữa Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân từ Gia Nghĩa với tiền cứ Ban Mê Thuột bằng các hệ thống máy tầm xa như VRC 67 và PRC 74 cũng đột nhiên chấm dứt.

Ðêm đó Đài BBC loan tin Ban Mê Thuột thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì tiền cứ của tiểu đoàn tôi cũng như gia đình binh sĩ đều ở thành phố này.

Ngày 11 Tháng Ba năm 1975, tôi nghe được tiếng Ðại Tá Phạm Duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời Ban Mê Thuột, và gọi tôi. Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường. Ðại Tá

Tất buồn rầu trả lời: “Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình thế. Không biết có được hay không?”

(“Thằng Dậu” là Trung Tá Lê Quý Dậu, Liên Đoàn Trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân).

Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được hai, ba tháng, thay thế cho Trung tá Nguyễn Lang (Lang Trọc) vừa giải ngũ.


Tôi cố nài nỉ ông chỉ huy trưởng: “Trường An cho phương tiện bốc tôi về Ban Mê Thuột đi! Trường An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của tôi ở đó!”

Trường An là danh hiệu truyền tin của Ðại Tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2.

Lúc đó tôi nghẹn lời. Bên tôi, người sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn, Trung Úy Trần Văn Ðăng mắt cũng đỏ hoe.



Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa hẹn, “Rồi! Ta sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phạm Văn Phú) để bốc Thái Sơn về!”

Thái Sơn là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu Ðoàn 11/ Biệt Ðộng Quân, Pleiku, thời 1967-1969.

Ðược lời như cởi tấm lòng. Tôi quyết định rút trung đội tiền đồn của Ðại Ðội 4/82 trên đồi Bù-Row cách 3 cây số hướng Bắc về.

Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng một đại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đang tăng cường cho tôi lên gặp tôi.

Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba Kiến Ðức thay cho Ðại Ðội 1/82 Biệt Ðộng Quân của Thiếu Úy Ðặng Thành Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi.


Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị hai ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng.

Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào.

Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những khuôn mặt sạm nắng. Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.

Suốt ngày 12 Tháng Ba 1975, tuy không nghe tiếng Ðại Tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được một phi công đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột.

Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi những gì anh nhìn thấy dưới chân anh.

Tôi mô tả con đường Hàm Nghi cạnh nhà thờ Vinh Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu tiền trạm của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.

Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết rằng cả hai nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt.

Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm một cung Mi Thứ, lần mò một bài tình ca buồn.

Nhớ lại lần đầu, sáu năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột tan trường.

Sau đó mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô, xin cô ta về làm dâu họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách ba đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa.

Image
Bản đồ chiến sự đường cao nguyên xuống đồng bằng, 1975.
Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm. Trời sáng lúc nào tôi không hay.

Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một ngày.

Bên tôi là những cây hoa móng tay.

Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã vàng vọt úa màu.

Bên những cây hoa này, hai đứa con gái tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây hoa đó.

Sau Noel 1974 tôi đã đón vợ tôi và hai đứa con gái lớn lên tiền đồn này chơi vài ngày. Hai đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây hoa móng tay.

Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Ðầu óc tôi phừng phừng.

Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, giày vò lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can.

Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua môi, xuống miệng.

Tôi oán trách ông Trời; tôi oán trách Ðại Tá Tất; tôi oán trách Tướng Tường; tôi oán trách Trung Tá Dậu; tôi tự oán trách tôi.

Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) len lén đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt, “Bình tĩnh lại thiếu tá! Ðài BBC nói Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Ðánh nhau nhanh như vậy chắc là ít người chết. Nhà hai bác ở xa khu quân sự, hy vọng chị và các cháu không hề hấn gì.”

Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng Bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn.Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời.

Xa lắm, nơi chân mây hướng Ðông Bắc là Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.

(Trích hồi ký Ngày ta bỏ núi, của Thiếu Tá Vương Mộng Long, TĐT/TĐ 82 BĐQ)

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by saohom »

Image

TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 58 BIỆT ĐỘNG QUÂN
Mũ Nâu ĐĐT, cựu Sĩ quan LĐ7 Biệt Động Quân QLVNCH
Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân do Đại tá Nguyễn Kim Tây làm Chỉ huy trưởng nằm trong Sư Đoàn 106 BĐQ được thành lập cấp tốc trong những ngày giữa cuối tháng 4/1975, đóng tại Phú Thọ (ngay trong trường đua Phú Thọ), Liên đoàn 7 BĐQ trách nhiệm mặt Phú Lâm, từ Xa cảng miền Tây đến Cây Da Xà.
-------------

------------------

Tiểu đoàn 58 của tôi trách nhiệm chiếm các cao ốc, chận địch từ hướng Long An lên, hai Tiểu đoàn bạn trong Liên Đoàn 7, TĐ32/BĐQ trách nhiệm từ Mũi tàu dọc theo Xa lộ Đại Hàn, TĐ85/BĐQ tăng phái cho Tiểu khu Gia Định.

Chiều ngày 28-4-75, lúc 19 giờ, địch quân từ hướng Long An tràn vô Xa cảng miền Tây và hướng Cây Da Xà.

Tôi cho lệnh các khẩu đội đại bác SKZ75 và 57 cũng như 6 khẩu đại liên gồm đại liên 30 và đại liên M-60 (lấy hết trong kho đem ra bố trí sẵn sàng tiếp địch).
Ý định tôi chờ địch càng gần càng đẹp. Một mặt tôi chỉ thị cho sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị khẩn yêu cầu đồng bào lui về hướng trường Minh Phụng (trường học của người Hoa), tại nơi đây đã có BCH/LĐ7 đang đóng quân.

Đúng 21 giờ 17 phút, Việt cộng xung phong ồ ạt vào tuyến phòng thủ của đơn vị tôi, trong khi còn cách xa tuyến phòng thủ 200m. Đứng trên nóc bằng tầng lầu 3, tôi nhìn xuống thấy rõ mồn một nhưng chưa đúng tầm sát hại của các loại vũ khí cầm tay như M16 và lựu đạn M67.

Địch quân không quen tấn công thành phố, nên chúng chạy vào như là đàn vịt rất ngon xơi. Suốt đời binh nghiệp 12 năm quân ngũ, chưa trận nào tôi thấy địch đông như vậy. Đã có kinh nghiệm xem phim quân đội Hoa Kỳ phản công trận Nhật tấn công ngọn đồi Bataan, Philippines, nên tôi chờ địch quân vào cận tuyến mới cho lệnh nổ súng.

Khi còn cách 30m … rồi 20m … rồi 10m … Rất hồi hộp và sướng run, tôi nổ súng Colt cầm tay khai hỏa và bồi tiếp một quả lựu đạn Mini. Đồng loạt một tuyến dài từ Xa cảng miền Tây đến gần Cây Da Xà, tất cả đều bóp cò vang. Súng nổ dòn, tôi đứng trên cao ốc nhìn xuống … địch quân ngã như sung rụng. 2/3 ngã tại chỗ, số còn lại rút chạy ra xa tầm súng.

Tôi đứng cạnh khẩu súng cối 81 ly đặt trên cao ốc, cho lệnh bắn chận bít chúng lại. Sáu con gà cồ đại liên 30 và M-60 gáy rộ, địch ngã trông thật khoái mắt. Chỉ 10 phút sau không còn thấy bóng dáng và nghe tiếng súng AK của chúng bắn trả vào. Tôi cho lệnh ngưng tác xạ.

Từ khi ấy cho đến sáng ngày 29-4-75, đúng 6 giờ sáng đại đội báo cáo có 7 binh sĩ ta bị thương. Tôi cho lệnh Đại úy Huỳnh Lập Quốc, Trưởng ban 3 xin tản thương về Tổng Y viện Cộng Hòa.

Đúng 7 giờ tôi điều động các Đại đội tung quân ra trước tuyến tuần tiểu rẽ quạt, tìm và tiêu diệt số địch quân chém vè tại chỗ. Các đại đội báo cáo đã tịch thu một số lớn vũ khí cá nhân trên xác chết địch, trên trăm khẩu đủ loại.

Vũ khí tịch thu tôi cho chất thành đống trong nhà thờ Phú Lâm. Suốt cả ngày 29-4-75 địch không dám mở đợt tấn công nào cả. Đứng trên cao ốc đặt ống nhòm nhìn ra hướng Tân An thấy địch rõ ràng, chúng đang bố trí các hỏa tiễn.

Tôi cho lệnh các Đại đội dàn quân ngoài tuyến. Một binh sĩ một hố cá nhân, phải sâu đến cổ. Đích thân tôi và Đại úy Hiệp đi kiểm soát hố đến 18 giờ thì hố cá nhân hoàn tất.

Đến 22 giờ đêm 29-4-75, địch lại tràn vào tấn công. Tôi và Đại úy Hiệp cho lệnh các đơn vị chống trả mãnh liệt, địch không sao tiến đến tuyến Tiểu Đoàn chúng tôi được. Tôi để Đại úy Hiệp lo việc đốc thúc binh sĩ Tiểu Đoàn chống trả. Tôi lo gọi Pháo binh từ trong phi trường Tân Sơn Nhất bắn ra chận hậu, nhưng đến nay địch đông quá, lớp này ngã lớp khác bám vào, có cả dân chúng bị VC lùa đi trước quân của chúng. Đây là một trở ngại cho chúng tôi.

Trọn đêm 29 rạng ngày 30-4-75 Pháo binh Tân Sơn Nhất bắn yểm trợ cho Tiểu Đoàn thật là chính xác. Địch chết và bị thương vì Pháo binh khá nhiều. Đến 5 giờ sáng ngày 30-4-75 chúng không thể tấn công tuyến dàn quân phòng thủ của Tiểu Đoàn được. Chúng lui ra xa và điều quân đến bao vây đồn Bà Hom.


Tuy nhiên, chúng vẫn còn một thành phần khá hùng hậu yểm trợ cho đơn vị súng nặng của chúng. Chúng cho pháo lai rai vào tuyến phòng thủ của chúng tôi.

Giờ phút cuối cùng của trận đánh để đời có điều đặc biệt xảy ra cho đơn vị chúng tôi là suốt một đêm phòng thủ, cho đến sáng ngày 30-4-75, mặc dù chúng tung quân tấn công và Tiểu Đoàn chống trả đến bốn đợt tấn công của địch rất ư là mãnh liệt, luôn cả Tiểu đoàn Trưởng cho đến giờ phút chót, không một binh sĩ nào trong đơn vị bị thương và tử trận cả. Điểm đặc biệt trong đời quân ngũ của tôi, đây đúng là một phép lạ.

Nhưng đến mười giờ ngày 30-4-75, TT Dương Văn Minh kêu gọi trên đài phát thanh Sàigòn: "Buông súng xuống chờ lệnh tại chỗ". Từ lúc ấy chúng tôi không còn được chiến đấu nữa. Sau đó bị chúng đưa đi các trại tù cải tạo. Trong miền Nam thì tại Long Giao, Long Khánh, Suối Máu, Biên Hòa, Rồi chúng đưa ra Bắc, Sơn La, Yên Bái, Hà Nam Ninh.

Rồi giờ đây sống lang thang nơi xứ lạ quê người. Tôi nhớ lại điều đặc biệt mà tôi hằng mong mỏi khi còn đang ở tù Cộng Sản là: Tự Do, Tự Do và Tự Do.

Mũ Nâu ĐĐT, cựu Sĩ quan LĐ7 Biệt Động Quân QLVNCH

Post Reply