QUÁN BIÊN THUỲ

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by langbat »

K Ý Ứ C M Ộ T T H Ờ I.
Post lại, thân tặng các huynh trưởng khóa 9.73 Thủ đức ‘ .

Tháng 10 – 1974. Chiến trường Bắc Tam Quan , Bình Định.
Chuẩn úy Phương gốc Bắc di cư, sinh năm 1954, tốt nghiệp Bộ binh Thủ đức trước tôi vài Khóa. Ngay từ lần đầu tiên gặp nhau tôi đã có thiện cảm. Phương có giọng nói nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn, dáng cao gầy, ánh mắt xa xăm. Mãi nhiều năm về sau tôi mới nghiệm ra một điều , ánh mắt buồn là nỗi ám ảnh mơ hồ của định mệnh , những người có ánh mắt như vây rất giàu tình cảm và cuộc đời thường gặp nhiều bất trắc.
Chúng tôi cùng chung Đại đội, Phương chỉ huy Trung đội 1, tôi về Trung đội 2. Vị trí chốt của tôi nằm cách chốt của Phương không đến một cây số tính theo đường chim bay, ở vị trí trên đồi cao chúng tôi nhìn thấy nhau rất gần. Chốt là một thuật ngữ quân sự dùng để chỉ những vị trí chiến thuật. Thời gian đó , Bắc Tam quan là một trong những điểm nóng nhất nước, những địa danh như Đồi mười, Đồi núi chéo đã đi vào lịch sử . Nơi đây, chúng tôi và người anh em giành giật nhau từng vị trí xung yếu. Nhìn tổng quát , vị trí đóng quân hai bên như một tấm da beo lốm đốm trải dài chìm trong bạt ngàn rừng núi.
Lần cuối cùng gặp nhau , Phương khoe với tôi tấm hình bạn gái. Đó là một cô gái tuổi mười bảy có mái tóc dài và khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương. Tôi nói vài câu chúc mừng Phương mà buồn rười rượi. Cách đây mấy ngày, tôi nhận được lá thư cuối cùng của người bạn gái. Chúng tôi quen nhau trước ngày tôi nhập ngũ. Tình yêu của chúng tôi trút hết vào những lá thư , những câu chữ ân cần , dặn dò và ngập ngừng một chút thương nhớ . Trong lá thư Cô ấy viết .’’ qua Lễ Noel, em sẽ rời khỏi cuộc sống và anh để vào Tu viện , đó là tâm nguyện trước đây của gia đình và em. Gía như mình gặp nhau trong hoàn cảnh khác. Mà thôi, em không hề ân hận’’. Tôi đã ứa nước mắt khi đọc dòng chữ . ‘’Anh đừng buồn nhé , em vẫn hàng đêm cầu xin Chúa che chở cho anh, bây giờ, ngày sau và mãi mãi ‘’. Với những người lính trẻ chúng tôi , tình yêu như một cánh phao cho những ngày tháng dãy dụa , tuyệt vọng trong cuộc chiến sinh tử này. Nỗi buồn lại chồng chất , tôi nuốt nghẹn , chôn dấu cuộc tình đầu trong veo của mình vào tuồi mười chín.
- Biết mình có còn ngày về gặp em không.
Phương thở dài. Tôi không biết trả lời thế nào.
Hai đêm sau Phương mất.

Trong các lối đánh , chúng tôi sợ nhất lối đánh Đặc công của người anh em. Đó là lối đánh bất ngờ vào ban đêm , thường là nửa đêm về sáng. Khi đánh , người anh em đã điều nghiên tính toán rất kỹ. Năm , bảy người anh em bôi đen kín người , bò áp sát vị trí , cắt hàng rào và tấn công bằng lựu đạn chày, loại lựu đạn có chuôi , ném đâu là nằm yên đó , đảm bảo độ chính xác và sức công phá khá mạnh. Trong trường hợp này, hai bên gần như đánh xáp la cà , cắt đứt hoàn toàn mọi hổ trợ của đơn vị bạn.
Đêm đó, tiếng Mang ‘’ Tác’’ nhiều lắm. Mang là con thú rừng có hình dạng giống như con Nai nhỏ. ‘ Tác ‘’là tiếng gọi của con vật này , mỗi khi Mang ‘ Tác ‘’ thường mang lại điềm gở. Nghe tiếng Mang tác , cả Trung đội căng thẵng không ai chợp mắt . Tôi vừa đi kiểm tra một vòng về đến vị trí của mình , chợt nghe lác đác tiếng nổ và một loạt đạn M.16 báo động. Trung đội choàng dậy sẵn sàng. Tiếp theo hỏa châu bắn rực trời , ánh sáng vàng vọt , mờ nhạt xuyên qua lớp sương mù . Qua máy PRC 25 , tôi nghe giọng của Phương hò hét , điều động lấy tinh thần đồng đội. Tiếng lựu đạn nổ , tiếng súng , tiếng gào thét hỗn loạn trong máy lẫn trong sự hồi hộp của chúng tôi.
Tôi chưa kịp uống hết ca inox café của người cận vệ vừa đưa. Tiếng máy rè rè PRC25 thông báo cho toàn bộ đơn vị , chốt của Chuẩn úy Phương đã mất . Tôi rụng rời nhìn đồng hồ , mười hai giờ bốn mươi lăm , trận đánh kết thúc chưa đầy ba mươi phút.
Đúng mười lăm phút sau , tôi nhận lệnh từ Đại đội. Chia hai quân số, một nửa đóng chốt , nửa còn lại tấn công tái chiếm ngay. Bằng mọi giá chúng tôi phải chiếm lại ngọn đồi trước khi trời sáng. Tôi thông báo kế hoạch tác chiến và chuẩn bị chớp nhoáng. Trong màn đêm , mười ba con người như những bóng ma , lặng câm dọ dẫm tụt xuống ngọn đồi. Vội vàng quá , không ai kịp nghĩ đến con số xui xẻo.
Cách đỉnh đồi chừng hai trăm mét , chúng tôi dừng lại nằm yên. Trời bắt đầu lấm tấm mưa và lạnh. Tiếng đại bác yểm trợ bắt đầu rít liên tục , xuyên qua lớp sương mù dày đặc lướt trên đầu chúng tôi chúi xuống đỉnh đồi nổ tung , rồi cuộn từng lớp đất đá lên trời , trút xuống mịt mù. Vừa dứt tiếng Pháo, chúng tôi thận trọng trườn lên áp sát đỉnh đồi. Không có tiếng nổ , không có một sự phản kháng. Người anh em đã tiên liệu rút đi để tránh tổn thất. Chúng tôi vội vã đào xới lại các giao thông hào và bố trí ngay sơ đồ tác chiến. Kinh nghiệm cho tôi biết không được chủ quan , người anh em có thể sẽ quay lại bất ngờ trong đêm.
Không có thời gian thu dọn xác đồng đội, chúng tôi chăm sóc tạm cho các thương binh. Phải cầm cự cho đến trời sáng mới nhận được sự tiếp ứng . Cái lạnh tím tái thịt da .Thèm một hơi thuốc, nhưng không ai được hút vì đốm lửa và mùi thuốc lá dễ lộ mục tiêu. Mười ba con người mò mẫm làm cật lực, chai cứng cảm giác.
Trời lại lấm tấm mưa. Tôi đưa tay vuốt mặt mình và nhận ra mùi tanh của máu. Mặc kệ , phải đào cho xong hệ thống phòng ngự . Những nhát xẻng chạm vào độ cứng của đá núi, bật lại rát bỏng bàn tay. Người lính bên cạnh tôi thở hồng hộc.
- Em mệt quá, Chuẩn úy ơi.
Tính toán một lát , tôi quyết định.
- Tất cả chia làm bốn nhóm , xuống tạm giao thông hào che Poncho nghỉ ngơi.
Cứ nghỉ cho lại sức cái đã , chuyện gì đến tính sau .
Thời gian cứ chậm chạp trôi. Đôi mắt tôi muốn díu lại , lại phải cố gắng lên tiếng để đồng đội yên tâm. Ơn trời , đâu đó có tiếng gà gáy lẻ loi vẵng lại. Lòng chợt nhẹ như tiếng kinh cầu .
Một ngày mới bắt đầu , đã tờ mờ sáng .
.

Ánh sáng mù đặc của buổi chiều rừng núi hắt vào gian phòng , làm tăng thêm cảm giác âm u . Chính giữa gian phòng đặt song song hai dãy quan tài phủ lá cờ , sát tường là một bàn thờ tạm bợ , khói hương nghi ngút. Tôi lặng lẽ quay mặt không dám nhìn hai người phụ nữ , mẹ Chuẩn úy Phương và cô bạn gái đang quỳ bất động trước quan tài .
Trước đó, khi người con gái đặt vành khăn tang lên đầu mình , người mẹ đã ngăn lại, rồi hai người Phụ nữ đầu chít khăn tang úp mặt lã chã lên vai nhau . Tôi giả vờ cầm quyển sổ Nhật ký của Phương chăm chú lật vài trang. Từ trong quyển sổ Nhật ký rơi ra tấm hình người bạn gái của Phương , lem vết máu khô.
Nhặt tấm hình lên , tôi bước ra ngoài đốt thuốc lá. Nơi này, buổi chiều mùa Đông trời không mưa nhưng ẩm và lạnh , trần mây sà thật thấp, nhìn chung quanh núi rừng chỉ thấy một màu sương xám nhợt nhạt mênh mang . Bất chợt tôi nhớ đến vài câu trong một bài hát của Phạm duy phổ từ thơ Lê thị ý .
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thủa ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ nét son.
Tôi rùng mình nhận ra một điều , chỉ có cảm xúc xuất thần của người trong cuộc mới làm được khổ thơ này.


Tháng 12 – 1974 .
Sau một đêm cút bắt với người anh em, chúng tôi mệt nhoài. Trời đã mờ sáng. Lệ thường hai bên sẽ tạm dừng trò chơi chờ đến tối. Tôi quyết định cho Trung đội di chuyễn ra Tam Quan nghĩ ngơi, từ chỗ chúng tôi ra Thị trấn cũng gần, lội bộ chừng hai, ba cây số đường rừng.
Những ngày tháng này Thị trấn Tam Quan giống như một cảnh trong phim ‘’Cowboy’’, nhà cửa cũ kỹ, thưa thớt, những chiếc xe GMC chạy qua liên tục cuốn bụi mù trời, đâu đó hai bên đường, một vài tốp lính bụi bặm, đủ mọi sắc phục, súng ống nghênh ngang. Thị trấn chỉ có một vài Quán, gọi là Quán, nhưng món ăn chỉ có Mì gói, thức uống có Café, nước ngọt và bia.
Tôi ghé vào một Quán, thả mình trên chiếc võng đong đưa nhìn ra đường. Từ đằng xa một tốp lính đi lại. Trông người nào cũng tả tơi, hốc hác, có lẽ họ cũng vừa đụng trận đêm qua. Trong tốp lính có một người làm tôi chú ý, anh ta bị rách một ống quần, rách theo đường chỉ may từ gót chân đến lưng, mỗi bước đi anh ta để lộ ra bắp đùi, cẵng chân trắng hếu như các em gái thành phố.
Tốp lính vừa đi ngang. Tôi chồm dậy hét.
- Khải ơi, Khải…
Người lính ngoảnh mặt lại nhìn sững, rồi phẩy tay ngoắc cả bọn bước vào.
- Mày đó hả Huy.
- Ừ, tao đây.
Chuẩn úy Khải cùng khóa với tôi. Khi ra trường hai đứa về cùng đơn vị.
Khải ngồi phịch xuống ghế, khuôn mặt hốc hác đầy những vết xước rướm máu.
- Đêm qua tụi tao chia làm hai đi mở đường, tốp của tao lọt ổ phục kích. Cầm cự một lúc chịu không nổi, tụi tao tan hàng. Người anh em truy đuổi, tụi tao chạy từ nửa đêm đến bây giờ. Chạy tán loạn hết, ra đến Tam quan tốp của tao còn lại bốn thằng.
- Bây giờ mày tính sao.
- Tao báo cáo Đại đội rồi. Nghỉ đến trưa tụi tao kéo về chốt tập họp, nhận quân bổ sung.
Khải đưa tay chỉ vào phần đầu gối.
- Tao trúng đạn ngay chỗ này. Rách toạc túi quần văng tung hai trái lựu đạn, không hiểu sao lựu đạn không nổ - Khải cười buồn .
- Số tao còn hên.
Tôi nhìn xuống bùi ngùi. Sĩ quan tác chiến có luật bất thành văn, người này nhắc nhở người kia, ai cũng gài kỹ hai quả lựu đạn trong túi quần. Bị bắt sống cũng khó qua, thôi thì tự mình cát bụi. Cứ chuẩn bị như thế cho lòng thanh thản , dù vẫn biết trong giây phút đó có mấy ai đủ can đảm tự gạch xóa đời mình.
- Sắp Noel rồi Huy , ước gì mình có cánh bay về Qui nhơn thăm em.
- Có em nào chưa mà về . Tôi hỏi.
- Có em nào đâu , mình chỉ mơ vậy thôi .
Hai đứa nhìn nhau cười . Từ lúc ra đơn vị đến nay có thằng nào được nghỉ phép về Thành phố đâu . Thôi thì cứ gặp em trong mơ.
Ngày 24. 12.1974.
Chiếc xe đò giảm tốc độ rồi dừng lại trước Trạm kiểm soát Quân sự. Từng người một bước xuống kiểm tra. Người lính Quân cảnh đứng nghiêm chào tôi.
- Chuẩn úy đi phép hay công tác, cho tôi xem giấy tờ.
Tôi trả lời tỉnh bơ.
- Tôi được Đại đội cho nghĩ phép 24 giờ , chiều mai tôi quay về đơn vị. Thời gian ngắn quá , tôi không kịp về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nhận giấy phép.
Người lính Quân cảnh nhìn tôi lưỡng lự, trong giây lát có lẽ anh ta cảm nhận được vẻ bất cần và liều lĩnh của những người lính tác chiến. Anh ta trao đổi nhanh với cấp chỉ huy Trạm gác rồi quay lại chào tôi.
- Chúc Chuẩn úy có 24 giờ phép vui vẻ.
Từ bến xe , tôi đi bộ một quãng theo con phố chính về nhà. Hai bên đường , phố xá đã lên đèn rực rỡ, từng dòng người lũ lượt kéo về Nhà thờ đón Noel. Một tốp Áo dài trắng ngang qua , tôi vói theo cố tìm lại cho mình một bóng dáng.
Ngang qua một quán Café, tôi dừng lại bên ngoài đốt điếu thuốc và lắng nghe Bài thánh ca vẵng ra , cồn cào tâm hồn mình.

VŨ ĐÌNH HUY

User avatar
VuPhong
Posts: 2911
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by VuPhong »

Image

ĐƯỜNG CHIM HẠ LÀO

Vào một buổi sáng, Sai gòn còn chìm trong màn sương mai mỏng, chúng tôi, tất cả gồm 10 người, thuộc SĐ IV và SĐ III KQ tề tựu đông đủ trước phòng Đặc Trách Quan Sát BTLKQ, và được Thiếu Tá Trưởng Phòng hướng dẫn ra bãi đậu
Phi Cơ, chiếc DC4 ngoan ngoãn chờ đợi chúng tôi ở đó.

Hoa Tiêu lên mở máy, taxi, rồi cất cánh trực chỉ Nha Trang….Đáp Nha Trang hồi 8 giờ sáng, nửa tiếng sau cất cánh lại, vượt mây mưa và hàng trăm cây số núi rừng lên Pleiku, để nhận thêm mấy Sĩ Quan Liên Lạc KQ, rồi mới bay
thẳng ra Đông Hà.

Trên lộ trình cuối cùng này, trần mây thấp và dày đặc, Phi cơ tránh mây, đã phải bay lên cao, lên cao mãi…Tôi đoán chừng cao độ khoảng 15 ngàn bộ! Không khí buốt lạnh, làm chúng tôi ngồi co ro trong những chiếc áo Blouzon
và phải hút thuốc lá liên miên. Sau gần một tiếng đồng hồ trôi theo mây gió đường xa, Phi cơ chao nghiêng, chúng tôi nhìn thấy thành phố Quảng Trị hiện ra mờ xa dưới cánh, một Phố Thị mà riêng tôi đã non mười năm bỏ xa biền biệt…

Bây giờ, thì mỗi người thả hồn trôi theo những suy tưởng, những băn khoăn, và niềm lo lắng về sứ mạng sắp phải thi hành, trên Chiến trường khốc liệt, mà chúng tôi ai nấy đã biết ít nhiều qua báo chí, và đài phát thanh.

Phi Trường Ái Tử, hiện ra lờ mờ dưới lớp mây mù, in một vệt đen dài trong màn mưa mỏng, con tàu xà thấp cánh gió, đáp nhẹ và quay đậu, đổ chúng tôi xuống sân đậu.

Cơn mưa buồn và nhẹ hất vào mặt chúng tôi, giữa chốn mênh mông của Phi trường.

Chúng tôi đứng co ro khúm múm, trong cái lạnh buốt giá của mùa mưa xứ này. Sau 15 phút thấp thỏm chờ đợi, thì một chiếc xe Dodge cũ kỹ chạy lại gần, mười mấy khuôn mặt KQ từ trên xe nhảy xuống, chào hỏi qua loa, rồi vội vã
phóng lên Phi cơ, như trút bỏ tất cả khó nhọc lại cho trận chiến! Cho chúng tôi! Những ngày tháng rét lạnh, hiểm nguy và vất vả, nhọc nhằn….

Họ là những người hết hạn biệt phái và chúng tôi là lớp người tiếp nối nhiệm vụ của họ…

Chúng tôi lên xe về căn cứ, bảy cây số ngàn đuờng xe, với khung cảnh nhuộm đầy sắc thái Chiến Tranh, âm thanh hỗn loạn của Phi cơ, Trọng Pháo, Xe Tăng, Vận tải, chuyển quân rầm rộ…

Không khí mổi lúc mỗi ngồm ngộp, tạo nên bao nỗi giao động trong tâm hồn mọi người, cơn mưa như tấm màn lưới nhện, đan nhẹ vào không gian giá rét và không khí lạnh lẽo bao trùm rộng lớn.

Chúng tôi đến Biệt Đội VO10, một biệt đội thuộc biệt đoàn Tiền Phương, do Thiếu tá Mạnh làm Biệt Đội Trưởng,

Biệt Đội này gồm các loại máy bay như: HU1, H34, OV2, OV10.

Với nhiệm vụ Đổ Bộ, Tải Thương, yểm trợ Hỏa Lực.

Chúng tôi ở chung với anh em PĐ 110, và PĐ 114, cùng các Sĩ Quan Không Trợ, bay OV2 hướng dẫn C47 và C119 yểm trợ hỏa Lực ban Đêm.

Căn nhà chúng tôi tá túc, chỉ là một kho chứa vật liệu cũ của Hoa Kỳ, vừa chật chội lại vừa thiếu thốn tiện nghi,

Buổi Sáng, buổi Trưa chúng tôi dùng bữa ở Mess hall của Bộ Binh Hoa Kỳ, buổi chiều về nhận Briefing và đi bay, mỗi ngày chúng tôi có khoảng 24 Phi Vụ.

Chúng tôi bay phối hợp với Đồng Minh Hoa Kỳ, trên loại máy bay OV10.

Đây là loại Phi cơ vừa có thể bay bằng hệ thống Phản Lực, vừa có thể bay bằng hệ thống Cánh quạt.Trang bị 8 nòng Minigun và 14 Rockets, hoặc loại 4 nòng Minigun và 28 Rockets. Cũng có thể trang bị Minigun và 02 trái bom 250
lbs, tùy theo tình hình của Chiến trường.

Biệt đội có chừng 20 chiếc OV10, Hoa Tiêu Mỹ biệt phái từ Thái Lan qua.

Chúng tôi bay mỗi ngày 02 Phi vụ, mỗi Phi vụ từ 4 đến 5 tiếng đồng hồ.

Phần nhiều cất cánh dưới Trời mưa, và lên đến 9, 10 ngàn bộ mới lấy hướng, bình phi, và vượt hàng trăm cây số đường núi mới qua Hạ Lào.

Thời tiết vùng Hành quân thường tương đối tốt hơn vùng xuất phát.

Chúng tôi bay 7 hoặc 8 ngàn bộ trên mục tiêu. dưới tầm mắt chúng tôi là một màu xanh rừng núi, điệp điệp trùng trùng, một vùng hoang vu xa lạ, đầy dẫy huyền thoại về rừng thiêng nước độc, khói lửa bốc cháy ngút ngàn, ven sườn
đồi, chân núi, triền dốc, lối mòn, chỗ nào cũng lăn lóc, ngổn ngang xe Tăng, vận Tải Bắc Việt.

Hệ thống đường mòn và khe suối ở đây chằng chịt, chi chit.

Đồi 31, một ngọn đồi chiến lược, một cao điểm Quân sự, luôn luôn ở trong tầm mắt, trong liên tưởng thường trực với một trận giao tranh khốc liệt, bây giờ trơ trọi hoang tàn…

Mỗi Phi Xuất của chúng tôi hướng dẫn từ 4 đến 12 Phi tuần Phản lực Hoa Kỳ, U2

Oanh kích phần nhiều là tiếp cận, vì Cộng quân luôn bám sát các cánh quân Dù, Biệt động quân, Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 1 Bộ Binh.

Phản lực Mỹ gồm có A3, A4, A6, A7, F100, F4C,

F.A.C Việt Nam gồm những KQ ưu tú trong ngành Quan Sát, nên mặc dù hỏa lực của Địch rất mạnh (theo tin tức của Tình Báo thì có chừng 2 ngàn súng Phòng Không của Địch luôn hoạt động) chúng tôi cũng vẫn liên lạc chặt chẽ thường
xuyên với Quân Bạn, và hướng dẫn oanh kích thật chính xác mục tiêu, gây nhiều nỗi kinh hoàng cho Địch Quân cũng như những tổn thất trầm trọng cho đối phương.

Thời tiết thường xấu, nhất là tại các vùng hành quân, mây, mưa, gió, đạn Phòng Không vẫn là những đe dọa thiết thực đối với KQ.

Mặc dù vậy, chúng tôi đã tình nguyện gia nhập Quân Chủng Không Quân, làm việc trong đơn vị tác chiến, nên cho dù hiểm nguy cách mấy, chúng tôi vẫn không sờn lòng.

Có lao vào vùng lửa đạn, mới có những cảm giác “không tả”, “vô lường” vì cao xạ phòng không của Địch lúc nào cũng đan từng mảng lưới lửa đạn, và tạo thành từng rừng bông khói trắng từ 8, 10, 12 đến 14 ngàn bộ….Điều đó có nghĩa
là: Phi cơ lúc nào cũng bay trong tầm hiệu quả của Phòng Không Địch!

Phương thức “né đạn” là phải bay lượn thường xuyên, nhất là những lúc xạ kích hoặc chỉ điểm, chúng tôi phải rất cảnh giác và khéo léo “Xàng qua, Xàng lại” để tránh đạn của Địch.

Thông thường mọi người vẫn quan niệm “Đạn tránh người” nhưng thực tế ở chiến trận “Hành Quân Hạ Lào” này, thì…”Người phải tránh đạn”!!!

Vì OV10 có thể bay được bằng chong chóng và phản lực, nên rất lợi hại, muốn bay chậm hay bay nhanh đều dễ dàng hành động, cũng vì ưu điểm đó, mà giờ này tôi mới còn có cơ hội ngồi viết bài này!

Mỗi Phi vụ ở Chiến trường Hạ Lào, tưởng chừng như gấp 5, gấp 7 lần so với những Phi vụ ỡ vùng IV hay ở Miên, luôn luôn được ăn “G”, Black out và red out, là chuyện “cơm bữa”.

Ngày mới ra đây, Phi vụ đầu tiên chưa quen, có anh đã “cho chó ăn chè”, phần đông thì cũng rất mệt mỏi và…thần kinh giao động!

Nhưng khi “quen nước quen cái” rồi, thì bổn phận, trách nhiệm đã lấn áp tất cả, có khó khăn, gian nguy, mới nảy sanh lòng quyết thắng, khả năng và kinh nghiệm mới có cơ hội được thể hiện tròn nét,

Vâng, những ngày biệt phái từ vùng IV ra vùng I, để tham dự trận đánh lịch sử Hạ Lào đã qua rồi, nhưng nó vẫn còn mãi với những kỷ niệm vàng son, trong muôn vàn kỷ niệm nối kết của cuộc đời xông pha lửa đạn, mong có một đất
nước Việt Nam Hòa Bình Thịnh Trị, muôn người như một, sống chan hòa tình thương đồng loại.

Tưởng cũng nên đan cử ra đây, một vài kỷ niệm, mà chính nó đã tô thành những nét son chói đỏ trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, một niềm hãnh diện lớn lao cho Sư Đoàn IV KQ cũng như Phi Đoàn 116 vậy.

Đồi 31 là một cao điểm Quân Sự do Tiểu đoàn 39 Biệt động Quân trấn giữ. Trời hôm đó hơi xấu, trần mây thấp, mà áp lực địch có phần nặng hơn mọi ngày, Địch với súng cối, hỏa tiễn, bắn như mưa bão lên đồi, khói lửa và cát bụi
bốc cao mịt mù, đồng thời xe Tăng và Bộ Binh Bắc Việt kéo ào ạt lên đồi, như chốn không người, Đại úy Tôn Thất Tân (PĐ110) và Đại úy Nguyễn viết Trường (PĐ 116) đã cố gắng tập trung các Phi tuần Phản Lực của Hoa Kỳ, để dội những trận mưa bom xuống Địch, hòng
đập tan âm mưu dã man của chúng, hàng loạt MK82, BLU27, BLU32, rơi xuống như vũ bão, khiến Địch Quân khựng lại. Nhưng, rất sui, khi đó có một Phi cơ loại F4C bị trúng đạn phòng không, hai Phi Công Hoa Kỳ nhảy dù xuống đất, thế là theo lệnh của trên, tất cả
các Phi Công Mỹ được lệnh bỏ Đồi 31, để cấp cứu hai Phi Công bị nạn này,

Đại úy Tân và Đại úy Trường đành nghẹn ngào và uất hận khi chứng kiến Địch quân tràn ngập đồi 31!

Trước đó mấy ngày, Đại úy Nguyễn viết Trường đi bay với một trung uý Mỹ trên loại máy bay VO10, anh được biết có một Phi hành đoàn trực thăng Hoa Kỳ gồm 07 người, đã bị trúng đạn phòng không của địch, họ đã sống trong nỗi
kinh hoàng trong 02 ngày 03 đêm, mọi phương tiện cấp cứu của Hoa Kỳ đều thất bại, Phi cơ đến cứu không vào được mục tiêu vì hỏa lực Địch mạnh vô cùng.

Đại úy Nguyễn viết Trường ( PĐ 116) quan sát mục tiêu, khi biết có thể liên lạc trực tiếp với Phi hành đoàn bị nạn, anh đã cho biết với kinh nghiệm bao năm chiến đấu với Cộng Quân, anh có thể cứu được 07 người Mỹ này, và chỉ
cần thời gian là nửa ngày mà thôi!

Sau khi được sự chấp thuận của hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ, anh bắt đầu tiến hành những phương cách của riêng mình nghĩ ra,

Thoạt tiên, anh đề nghị cho oanh kích dữ dội một mục tiêu cách xa đó, với mục đích đánh lạc hướng suy nghĩ của Địch quân, trong lúc đó anh đề nghị cho “đổ” một toán Hắc Báo cách nơi toán lâm nạn khoảng 10 Km, rồi hướng dẫn
họ đến mục tiêu giải cứu 07 quân nhân Hoa Kỳ, để giữ an toàn cho đám Hắc Báo, anh đã cho thả bom theo hình chữ U xung quanh toán Hắc Báo,

Phi Tuần, F.A.C, và toán Hắc Báo đã được phối hợp một cách nhịp nhàng và hữu hiệu, dưới tài điều động của Đại uý Nguyễn viết Trường, kết quả toán Hắc Báo đã đến nơi chỉ định an toàn.

Khi toán Hắc Báo và Phi đoàn thọ nạn liên lạc được nhau, sẵn sàng thực hiện việc giải cứu, Đại uý Trường đề nghị cho thả bom theo hình chữ L và hướng dẫn trực thăng đến “bốc” toàn bộ mọi người về căn cứ Khe Sanh, theo hướng
do anh chỉ định.

Thời gian cấp cứu vỏn vẹn đúng nửa ngày, theo như tiên đoán của anh. Thật là một Phi vụ tuyệt vời,

Câu trả lời cho các báo chí ngoại quốc của Đại úy Trường là:

“ Bất cứ một người Việt Nam nào khi gặp trường hợp như anh, đều làm được như anh, có khi còn hay hơn anh nhiều”.

Kết quả, Đại úy Nguyễn Viết Trường được tuyên dương và gắn huy chương tại Bộ Tư lệnh Không Quân, là chiến sĩ xuất sắc, được đi du ngoạn Đài Loan, Hồng Kông, và được báo chí Việt Nam, và báo chí Mỹ đăng hình và phỏng vấn.

Trong một Phi vụ khác, Phi hành đoàn gồm Đại uý Hudges và Đại úy Mai trí Dũng (PĐ116) cùng bay trên OV10, số đuôi 789, cất cánh lúc 16 giờ 15 phút, tại căn cứ Ái Tử, đến vùng hành quân, hướng dẫn 02 Phi cơ A6 oanh kích tiếp
cận, cho một vị trí của Dù, tình hình rất nguy khốn, vì Địch quân vây hãm và tấn công dữ dội…

Lúc xuống bắn Rockets để đánh dấu mục tiêu, ở cao độ 5000 bộ, phi cơ trúng một loạt phòng không của Địch, động cơ ngưng hoạt động, khi kéo lên, cũng bị thêm một loạt cao xạ khác, làm nổ tung ổ đạn Minigun bên trái, nhưng cả
hai đồng quyết định cố gắng bay về Đà Nẵng đáp, vì có nhảy dù ra ở đây cũng chết vào tay quân thù, rất may mắn, đáp Đà Nẵng an toàn,

Phi hành đoàn quả là gan dạ và “hết xảy”!

Những Phi vụ nêu trên, cho thấy khả năng và lòng can đảm của những người Không Quân chúng tôi có thừa!

Nhưng cuộc chiến Việt Nam với nhửng ràng buộc vào Đồng Minh, đã ít nhiều ảnh hưởng đến tinh thần và lòng yêu nước của chúng tôi!

Đến nay, Lịch sử đã sang trang, những người đáng phải thắng lại thua, những người đáng phải thua lại thắng!

Đất nước Việt Nam còn nhiều trăn trở, lắm đau thương, cho đến nay mấy chục năm Trời đã trôi qua, nhưng những chứng nhân lịch sử vẫn ít nhiều còn tồn tại, họ đã, đang và sẽ nghĩ gì? Hành động gì? Chắc không ai trong chúng ta
không biết và không hiểu, hơn nữa có một điều khẳng định được:

Họ đã một thời vì lòng yêu nước, vì chính nghĩa Quốc Gia, đã cống hiến tuổi thanh Xuân cho Quê Hương đọa đầy này!

Thật đáng trân trọng lắm thay!

SA GIANG
(NGUYỄN VĂN ĐỨC PĐ116)

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by linhgia »

Chuyện Bây Giờ Mới Kể

Ngô Đình Châu
Lúc đó vào khoảng giữa năm 1973, sau khi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức, phần lớn chúng tôi được đưa về các đơn vị hành quân và chúng tôi đã trải qua những ngày tháng cực kỳ gian khổ, bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn kinh sợ vô cùng. Đồng thời đám lính tác chiến như chúng tôi coi như đã đặt một chân vào cửa tử, lúc nào trong đầu cũng ám ảnh một câu thần chú:”…trước sau gì cũng đến phiên mình…”

Vậy đó cho nên chúng tôi thường dặn lòng, xin dừng dính dáng gì đến chuyện lứa đôi làm chi cho nó khổ, cho dù vào cái thời mới lớn, ai ai cũng ao ước “chuyện chúng mình”. Thôi thì đời lính khổ quá, sống nay chết mai, chúng tôi không muốn như câu thơ “anh trở về dang dở đời em…” Cho đến nổi, đôi khi chúng tôi cũng nhận được tín hiệu “đèn xanh” nhấp nháy từ phía “bên kia” mà cũng đành giả lơ ngó đi chổ khác.

Sau khi tôi trình diện một đơn vị Trinh sát của một Trung đoàn Bộ Binh, tôi làm Sĩ quan “cà nhỏng” một thời gian khá lâu (đây là một từ khôi hài, ý nói chức vụ ngồi chơi xơi nước). Cho nên mỗi khi đơn vị nhận được lịnh cấp trên, đề cử các sĩ quan đi học các Khóa Huấn luyện Bổ túc, thì tôi được ưu tiên lựa chọn.

Vào đầu năm 1974, tôi được cử đi học Khóa Lãnh đạo Chỉ huy, kéo dài một tháng tại Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 9 ở Cái Vồn- Vĩnh Long. Khóa học tập trung khoảng 50 Sĩ quan, được đưa về từ các Trung đoàn. Khóa học này chỉ học chơi chơi, không có gì quan trọng.

Hôm đầu tiên đến giờ nghỉ trưa, chúng tôi kéo ra ngoài Trung tâm kiếm chổ ăn cơm cho thoải mái. Tôi chưa biết ăn cơm ở đâu, đi lang thang một hồi, tôi ghé vào một quán cà phê nằm trong một con hẻm nhỏ. Quán không có tên, chỉ là một ngôi nhà cũ kỹ, phía trước có kê mấy bộ bàn ghế thô sơ để bán cà phê nước ngọt. Lùi về phía sau một chút, sát cửa vào nhà trong có kê một cái bàn nhỏ, có cô bé ngồi chào khách và thu tiền.
Tôi ngồi uống cà phê rồi ngó bâng quơ, bỗng tôi chợt thấy có mấy tên cùng khóa học đang quây quần ngồi ăn cơm với nhau ở phòng khách phía trong nhà.

Tôi bèn bưng ly cà phê tới bàn cô bé cashier hỏi chuyện. Cô bé nhìn bảng tên trên ngực áo tôi, rồi rất tự nhiên và dạn dĩ, cô ấy bảo tôi:” Quán em có nấu cơm tháng cho mấy anh về đây học, nếu anh Châu cũng muốn ăn cơm ở đây thì đóng tiền cho Má em đi chợ nấu cơm cho anh ăn luôn thể” Tôi nghe thấy vui vui nên bằng lòng.

Ngồi chuyện vãn với cô bé một hồi, tôi được biết, quán này có 3 chị em cùng bán hàng, nên đám khách bèn đặt cho một cái tên là Quán Ba Cô, cho nó tiện. Ba chị em tuổi từ 17 đến 20, cô nào cũng xinh theo kiểu “hương đồng cỏ nội”, xinh nhất là cô út tên Xuân Hương đang học lớp 11. Sau khi cô đi học về thì ra ngồi quán với các chị, vừa học bài vừa thu tiền.

Thế là trưa chiều hai buổi, tôi có mặt tại quán. Lúc đó tôi thấy đám Sĩ quan về học như tôi, kéo đến quán đông nghịt, bu lấy ba cô, họ tán tỉnh rập rờn, trông bắt ớn. Bản thân tôi cũng không tốt lành gì, nhưng mà…. thôi đành lấy mắt ngó vậy.

Trong đám Sĩ quan kéo đến quán, chỉ toàn là lính Bộ binh, độc nhất chỉ có mình tôi là lính Trinh sát. Không biết có phải vì cái vẻ bên ngoài đặc biệt của tôi hay không? mà cả ba cô đều dành cho tôi cảm tình vượt trội hơn những người khác.

Mỗi khi tôi đến quán, các cô đều lộ ra vẻ vui mừng, không để tôi ngồi bên ngoài mà lôi tuột vào bên trong, để cùng tôi cười đùa rôm rả. Mỗi khi tôi nói chuyện khôi hài, các cô túm tụm vào nhau cười ngặt nghẽo. Bà Má già của các cô, trông tướng mạo quê mùa nhưng rất hiền lành chơn chất. Thấy tôi nói chuyện vui, bà thích lắm nên cũng bắt ghế ngồi nghe chuyện. Rồi bà hối các cô dọn cơm cho tôi ăn, pha nước cho tôi uống. Để tôi nhớ lại xem, tôi có buông lời tán tỉnh cô nào không ta? hình như là không, chắc vậy… tôi đã nói rồi mà.

Cuộc vui kéo dài cho đến một ngày kia, lúc đó vào dịp Tết. Trung tâm cho đám chúng tôi nghỉ tại chổ. Mỗi khi Tết đến, đám lính xa nhà như chúng tôi trong lòng buồn nôn ruột, nhớ nhà cồn cào nghe mà thắt ruột nát gan, buồn vô phương ! Những tên nhà gần thì dọt về gần hết. Những đứa ở xa tận Sài gòn như tôi thì kẹt cứng, vì con đường từ Vĩnh long về Sài gòn có rất nhiều Trạm Kiểm soát Quân sự, mang đồ lính thì không sao qua lọt.
Tôi tà tà đi ra quán với cái mặt buồn hiu, thấy vậy Bà Má và các cô xúm lại hỏi han. Tôi kể lể rồi nói nhờ các cô chạy mượn cho tôi bộ đồ dân sự để tôi mặc chuồn về nhà ăn Tết. Bà Má kêu lên:” Sao mà tội nghiệp thằng nhỏ này quá vậy trời!”, bà hối mấy cô chạy vào xóm mượn cho tôi bộ đồ.

Các cô đi một hồi rồi trở về nhà mặt mày bí xị, không ai dám cho tôi mượn hết. Không biết sao, các cô chụm đầu lại rù rì một hồi. Rồi một cô bảo tôi:” Anh Châu có dám mặc đồ của tụi em không vậy?” Tôi liều mạng ừ đại. Thế là, cô lớn cao ráo nhất cho tôi mượn cái quần, cô giữa cho tôi mượn cái áo, cô út lăng xăng kiếm cho tôi đôi dép.

Sau khi tôi thay đồ xong, các cô giương mắt nhìn tôi một hồi, cô này xù xì vào tai cô kia, rồi cả ba cô cười phá lên. Tôi không hiểu chuyện gì, cô giữa bảo tôi:” Thấy anh Châu mặc đồ tụi em…. trông thật là đẹp gái….” Tôi mắc cở bỏ đi một nước. Khi về tới nhà, má tôi thấy tôi bước vô với bộ dạng kỳ dị, bà muốn té ngửa. Thiệt hết biết!

Sau một tháng học tại Trung tâm, rồi cũng đến ngày chia tay. Trong buổi cơm cuối cùng tại Quán Ba Cô, Bà má già bắt cái ghế đẩu ngồi chăm chú ngó chúng tôi ăn cơm. Bỗng dưng tôi thấy bà chảy nước mắt ràn rụa, bà kéo cái khăn sọc rằn lên lau nước mắt, tôi thấy thương bà làm sao. Tôi nghĩ có lẽ bà má có quá nhiều tình cảm nên đã xúc động khi giã từ đám lính chúng tôi chăng?

Tôi trở về đơn vị được một tháng, bỗng một hôm tôi nhận được lá thư của cô út Xuân Hương của quán Ba Cô. Tôi hồi hộp mở thơ ra xem, sau khi đọc xong tôi kinh hãi đến rụng rời, té ra là thế!. Giống như một lá thơ tuyệt mạng, không phải dành cho ai khác mà là dành cho tôi.

Cho mãi đến tận bây giờ, sau hơn 40 năm dài đằng đẵng, tôi vẫn còn nhớ rành rành lời cô viết:” Anh Châu thân mến, anh còn nhớ bửa ăn cuối cùng các anh đã ăn ở nhà em không? Chắc anh còn nhớ má em đã chảy nước mắt, anh có biết sao má em khóc không? Má em khóc vì quá thương anh Châu đó. Má em nói, có biết bao sĩ quan về đây học, sau một thời gian các anh trở lại đơn vị, má kêu tụi em chạy đi hỏi thăm tin tức mấy anh, thì được biết toàn bộ các anh lớp chết lớp bị thương hết ráo, ít có ai lành lặn mà trở về nhà. Má em còn nói tiếp, mấy anh đó chỉ là lính tiểu đoàn, lính bộ binh, chứ chưa có ai là lính Trinh sát như anh Châu, và má em cũng biết lính Trinh sát còn hung hiểm hơn lính bộ binh gấp bội phần. Má em thương anh quá, má nói không biết có còn cơ hội gặp lại anh nữa không? Cho nên má em khóc là vì lẽ đó. Má em dặn, khi nào đơn vị của anh Châu đóng quân chổ nào lâu lâu, thì anh biên thư gửi về quán báo cho em biết, để em dẫn má em đi thăm anh….”

Tôi đọc xong lá thơ mà trong người bần thần đến mấy ngày, một nỗi xúc động tràn ngập trong lòng tôi. Tôi đã nhận được từ bà má già quê Cái Vồn, một tấm lòng nhân hậu lớn lao không sao tưởng tượng nổi.

Từ đó tôi trôi đi biền biệt, hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà chưa có lần nào trở lại Cái Vồn. Nhưng tôi biết chắc một điều, bà má già và cái quán Ba Cô ngộ nghĩnh đó sẽ mãi mãi nằm trong một trang ký ức đẹp đẽ nhất của đời tôi.

Rồi ngày tháng dần trôi. Sau khi các huynh trưởng của tôi rơi rụng lần lần, tôi cũng ngoi dần lên chức Trung đội trưởng Trinh sát, sau khi làm phó hay cà nhõng một thời gian khá dài. Có lẽ con đường hoạn lộ của tôi trong tử vi không được sáng sủa cho lắm.

Tới một ngày kia, tôi không nhớ lúc nào. Bộ Chỉ Huy Mặt trận Mộc Hóa thuộc Tỉnh Kiến Tường, tung Trung đội Trinh Sát do tôi chỉ huy, luồn rừng tràm đi thăm dò lực lượng địch quân. Đây là chiêu thức “trói dê bắt cọp” hay là “chốt thí qua sông” cũng được, để nhằm đến một mục tiêu chiến thuật nào đó, mà một sĩ quan cò ke lục chốt như tôi không cần biết. Tội nghiệp, trong chiến tranh mạng người lính như chúng tôi chỉ là cỏ rác.

Nhiệm vụ Trung đội tôi rất hiểm nghèo, cho nên Bộ Chỉ Huy ưu tiên hỏa lực pháo binh cho tôi. Khi tôi di chuyển đến đâu thì báo cáo điểm đứng về cho Trung Tâm Hành Quân, nơi đó các khẩu đội luôn hướng nòng về phía chúng tôi, để nếu xảy ra chạm địch, chỉ trong vòng vài phút, pháo binh phải can thiệp ngay lập tức. Nếu không, Trung đội tôi khoảng trên 20 người lính sẽ bị tàn sát trong nháy mắt.

Khi chiều tối xụp xuống, chúng tôi đụng trận. Phía bên kia xông lên chạy băng qua một cánh đồng khô cạn, họ vừa bắn xối xả vừa gào thét:” hàng sống, chống chết” Lúc đó mà tôi tin lời họ là không còn mạng để bây giờ kể lại câu chuyện này.

Chúng tôi bị dồn vào đường cùng, phía sau lưng là con sông, đạn lại nổ rền vang tứ phía. Nếu muốn bỏ chạy cũng không biết chạy đi hướng nào. Tôi vừa bắn vừa trầm giọng gầm lên:” Anh em ơi! trước sau gì cũng chết. Không sợ! Chúng ta chơi cho tới cùng.” Lính tôi phấn khởi ồ lên hưởng ứng ” Sông Mã gầm lên khúc độc hành” khi người lính không còn sợ chết nữa, họ sẽ chiến đấu vô cùng dũng mãnh.

Cũng may, ông Trời còn ngó xuống thương tình, không biết sao tại vị trí phòng thủ của chúng tôi, có một bờ đất dầy khoảng 2 thước, và cao ngang tầm ngực, đã che chắn cho chúng tôi. Có lẽ trước kia đây là bờ thành của một cái đồn nay đã bỏ hoang.
Tựa vào bờ đất, chúng tôi bắn trả quyết liệt, bởi vì biết chắc một điều, hoặc là bắn lại họ, hoặc là bị họ bắn chết hết. Tôi vừa “tả xung hữu đột”, vừa gọi máy truyền tin về Trung tâm Hành quân. Nhờ các tọa độ tác xạ tiên liệu tôi đã báo trước. Cho nên chỉ sau vài phút, đạn đại bác chạm nổ rền trời. Trong khi đại liên phòng không 12 ly8 của phía bên kia, từ một hướng khác, nhả đạn liên tục về phía chúng tôi, nghe rất kinh hồn táng đởm, đạn nổ trắng trời như đèn nê on.

Lạy Trời ! Sau một hồi tấn công, nhắm không nuốt nổi bọn tôi. Phía bên kia ngừng lại và rút quân. Tôi thở hắt ra rồi ngồi bệt xuống đất, mệt muốn té xỉu, trong người tôi không còn một chút hơi sức nào, hồn vía tưởng chừng thảng thốt bay lên cao. Tôi quá sức kinh sợ.

Người lính đệ tử đưa cho tôi một bao gạo sấy còn nguyên chưa nấu gì cả, anh ta bảo tôi nhai cho đở đói. Tôi vốc một nắm cho vào miệng, nhai rào rạo như nhai sỏi đá. Mấy người lính của tôi, kẻ chết người bị thương nằm la liệt. Tôi nhìn họ, lòng buồn muốn khóc.

Bỗng tôi một tiếng rên yếu ớt từ đâu đó vọng đến chỗ tôi ngồi. Tôi lấy làm lạ, hỏi mấy người lính chung quanh có nghe thấy không? Họ nói có nghe rõ lắm, như vậy là có người lính phía bên kia đã bị thương và đồng bọn đã bỏ anh ta lại, và bây giờ đang nằm chờ chết trước mặt chúng tôi không xa lắm.
Tôi nghĩ, lúc hai bên bắn nhau chí tử, thằng nào xui tận mạng bị trúng đạn ngã ra chết, thì thôi! ráng chịu, chứ chẳng có oán thù gì nhau (đó là do tôi nghĩ vậy, còn phía bên kia nghĩ sao, tôi không biết). Nay người lính bên kia bị thương đau đớn, nằm ngoài kia kêu rên thảm thiết, mình mà không cứu thì cảm thấy “kỳ kỳ” ở trong lòng.

Tôi bảo hai người lính của tôi bò ra, kéo người lính bên kia vào cứu chữa. Họ bò đi một lát thì tôi nghe có tiếng lựu đạn nổ. Tôi điếng người không biết chuyện gì đã xảy ra. Hai người lính quay vào và nói với tôi:”… tụi em bò tới gần thằng đó, nó bèn rút lựu đạn quăng về phía tụi em, cũng may nó quăng trật, nếu không thì tụi em chết banh xác rồi…” Thấy vậy mấy người lính bèn bàn với tôi:”… tụi mình có lòng cứu nó, mà nó đối xử với mình như vậy, thôi cứ bỏ mặc cho nó chết đi Thiếu úy…”

Ừ! thì thôi vậy, bỏ mặc cho nó chết. Nhưng đâu phải bỏ dễ dàng như thế. Tiếng rên la lần này lại như ma tru quỉ hờn, nghe còn thê lương hơn trước nữa. Tôi chịu không nổi, nếu cứ để mặc cho hắn chết, chuyện dễ thôi, nhưng tôi biết nó “ám” trong lòng tôi đến vô cùng.

Lần này, chính tôi cùng hai đệ tử thân tín bò ra cứu hắn. Khi bò ra tới bên ngoài, tôi la lên:” Nè, nè ! cái ông Việt Cộng kia ơi, tụi tôi bò ra cứu ông đây, nếu ông còn quăng lựu đạn một lần nữa, thì tụi tôi sẽ bỏ mặc cho ông nằm chết, chứ đâu còn ai dám cứu ông nữa.”

Người lính bên kia nghe xiêu lòng, hắn đã nằm im cho thầy trò chúng tôi hì hục kéo hắn vào bên trong tuyến phòng thủ. Hắn bị thương khắp người, nặng nhất là ở cẳng chân nên không chạy theo đồng đội của hắn được, nên đành nằm lại chờ chết. Chúng tôi xúm lại băng bó vết thương cầm máu cho anh ta. Tôi bảo đệ tử chui xuống hố cá nhân nấu một ca nước sôi pha sữa cho anh ta uống. Uống xong ca sữa anh ta gục xuống ngủ thiếp đi, trông cũng tội nghiệp.

Sáng hôm sau, cấp trên cho xe Thiết giáp vào đón những người bị thương và tử trận về căn cứ, đồng thời chở cả anh ta theo nữa. Trước khi đi anh ta nhìn tôi chằm chằm nhưng im lặng không nói một lời nào. Có lẽ anh ta cảm thấy rất lạ lùng, không sao hiểu nổi.

Thời gian sau, Quân đội Miền Nam bại trận, đám Sĩ quan chúng tôi nhục nhã ê chề kéo nhau vào Trại Tù có tên là Trại Cải Tạo. Có một hôm, sau một ngày làm việc cực nhọc, chúng tôi kéo nhau về Trại. Sau khi tắm rửa cơm nước xong, chúng tôi ngồi quây quần bên gô nước chùm bao để nói chuyện đời. Tôi đã kể lại câu chuyện trên cho đám bạn nghe. Nghe xong có người hỏi:”Nếu bây giờ cho ông sống trở lại những ngày tháng cũ, ông có làm như vậy nữa không ?”. Tôi đã trả lời ngay lập tức:”Tôi không thể nào làm khác đi được, tôi vẫn hành xử y như cũ, bởi vì tôi là người Miền Nam…”

Ngô Đình Châu
band4 3G McKeno

User avatar
nangchieu
Posts: 2061
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Ngồi Lại Trên Cầu

Trong toàn cõi miền Nam Việt Nam, qua trên một phần tư thế kỷ chiến tranh lửa đạn ngút ngàn, đa số chiếc cầu bắc ngang một dòng sông, dù nhỏ lớn đều có một tiểu sử đau thương, đẫm máu bởi những trận đánh trên cầu, thậm chí còn bị phi cơ không tập.

Cầu Mây Tức nằm giữa ranh giới giữa hai tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, giữa huyện Vũng Liêm và Càng Long. Theo ngôn ngữ người Miên: ‘’Mây’’ là đục, ‘’Tức’’ là nước, cầu Mây Tức là Cầu Nước Đục.

Năm 1973, cầu nầy bị đặc công Cộng Sản đánh sập. Sáng sớm hôm sau Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, đến thị sát đập một cây can và bẻ một bông mai trên ve áo của trung úy Thạch S. quăng xuống dòng sông.

Đầu năm 1975, đại đội đặc công VC tràn ngập cầu nhưng thối lui vì trận mưa lựu đạn của chốt phòng thủ, để lại trên cầu nhiều xác chết trong đó có tên đại đội trưởng trên tay còn nắm chặt khẩu K.54, trước đó năm phút còn thét lớn ‘’đầu sống, chống chết’’. Chỉ huy trận nầy là thiếu úy trẻ đẹp trai, mang kính cận thường được bè bạn gọi đùa là ‘’Trịnh Công Sơn’’.

Sau sáu năm tù “cải tạo”, tôi trở về bán cặp loa nhạc làm vốn, đi mua mía ép đường. Trước khi cùng gia đình sang Mỹ theo diện HO độ hai tháng, tôi mua căn nhà gạch chữ đinh mặt dựng, rộng, đẹp, khang trang của một cán bộ hồi hưu, giá nhà tương đối rẻ vì không chịu nổi sự đai nghiến của hai bà vợ, một già một trẻ. Căn nhà nằm sát cầu và dòng sông Mây Tức, nửa trên lộ, nửa dưới sông tiện bề cho vựa buôn bán vật liệu xây cất. Tôi ủy quyền cho vợ chồng người em trai thứ Bảy ở và trông coi ngôi nhà.

Nhiều năm qua đi, tôi từ Mỹ trở về thăm lại chốn xưa. Thức dậy khi trời còn sớm tinh mơ, tôi pha cà phê, ngồi trên sa lông trong hàng ba lót gạch bông, nhìn ngắm chiếc cầu trong màn sương sớm lờ mờ.

Kỷ niệm tháng ngày áo trận, giày saut, lại trở về. Tôi nhớ đêm đêm căng mắt nhìn và bắn vào đám lục bình mà đặc công thường hay ngụy trang để gài mìn phá cầu.

Rời quân trường Bộ Binh, rời Vũ Đình Trường,
thấy đài Trung Nghĩa như thuyền vỡ đôi,
mưa nào nhỏ xuống mặn môi,
nhìn Tăng Nhơn Phú ngỡ đồi hoa sim.

Tôi gác bên nầy bãi Tự Tin, trông sang đồi Hăm Chín, cây Mẹ Bồng Con muôn đời vẫn hướng mắt về đâu? Thủy ơi! Thủy ơi! Chúng mình còn thương được bao lâu?

Giã từ quân trường, tôi ra mặt trận. Tôi được chỉ định làm Trung Đội Trưởng, phụ trách hai trung đội đóng ở cầu Mây Tức và đồn Đập Ấu. Ban chỉ huy đại đội đóng ở cầu Mỹ Huê chịu trách nhiệm bảo vệ quận Càng Long.

Cầu ngày đó bằng sắt, lót ván. Đà cầu gác trên các cây thông tròn, làm bằng trụ đèn có tẩm dầu, đang chéo hình chữ X. Mỗi lần nước ròng chảy xiết, cầu rung và đong đưa như răng mấy cụ già mừng ngày khánh thọ.

Thiếu úy Khang, vị sĩ quan tiền nhiệm, đạp phải mìn tử thương trong buổi sáng mở đường an ninh trục lộ từ cầu đến đồn Đập Ấu.

Địch ngày đêm tấn công, bắn sẻ, thả mìn mong đánh sập cầu, cắt đứt giao thông, cô lập tỉnh Vĩnh Bình.

Thông trục lộ là một việc làm đầy gian nan của Chi Khu Càng Long. Sáng sáng các nơi báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Khi biết các cầu an toàn ai cũng thở phào nhẹ nhỏm. Đào đường đắp mô của địch xảy ra như cơm bữa. Riết rồi Chi Khu đốn dừa cưa khúc để sẵn, khi đơn vị báo về đường bị đào, tức tốc dừa được chở đến, độn và lấp đất lên cho đoàn xe đi qua, sau khi bị dồn đọng hằng mấy trăm thước.

Sáng ra không thấy xe hai bánh hoặc bạn hàng gánh gồng gà vịt, trái cây… đi ngang là lực lượng đồn trú biết chắc khúc đường trên kia bị đắp mô.

Đơn vị thường ngày đi ban mô, phá mìn. Những lần phản phục kích, máu thấm trên những thửa ruộng bị quần nhầu nát, khi lúa còn xanh con gái, mới ngậm đồng đồng. Bên nầy có người hy sinh phủ cờ vàng ba sọc đỏ lên quan tài, mang về quê chôn cất trong nước mắt mưa tuôn của gia đình, vợ con. Bên kia xác được kéo lên bờ đường, áo đen, quần xà lỏn, khăn rằn quấn cổ, bàn chân hà ăn loang lổ ngón to bè như quả chuối ngự, vì cả đời có được mang giày dép!

Dân tộc tôi không cần “mặt trận” nào giải phóng. Chúng tôi chỉ cần con cá lóc nướng trui vài xị rượu đế trong vắt như mắt mèo và bài ca vọng cổ ‘’Tình Anh Bán Chiếu’’, sau những buổi gặt lúa vần công cho nhau, và suốt năm bồ lúa vẫn nằm khoanh tròn giữa nhà cho cuộc sống ấm no. Và tôi một thanh nhiên mới lớn đâu phải giã từ sách vở, bỏ thành phố vẫy tay giã biệt ‘’Con đường tình ta đi’’ để lao vào cuộc chiến đẫm máu anh em. Đêm đêm, chúng tôi ôm súng xiết cò, dưới ánh sáng hỏa châu, “giết ngày không đủ tranh thủ giết nhau cả ban đêm’’, đạn lên nòng và máu chảy thành sông. Nhân danh bất cứ điều gì để gây chiến tranh đều đáng nguyền rủa.

Tết Mậu Thân áp lực địch thật nặng nề. Tôi ra lệnh tu sửa lại hệ thống phòng thủ khẩn cấp, trữ dừa làm đà, đắp đất dầy làm mái che, gài thêm lựu đạn, mìn claymore, đạn dược phân phối đến từng hố cá nhân, đêm ngày ăn ngủ và chiến đấu tại chỗ. Đắp thêm bao cát trong ụ súng cối và lô cốt đặt khẩu đại liên, làm mấy lớp ngựa sắt và nhiều vòng kẽm gai bít kín trục lộ trước bảy giờ tối, đề phòng địch xung phong chính diện. Lính gác rọi đèn pin suốt đêm cả những khi mưa tầm tã. Bắn xuống những dề rau mát, lục bình, bụi dừa nước trôi ngang vì đặc công có thể gài mìn hoặc bám vào đấy để tấn công bằng bộc phá.

Mặt trời lên, cổng rào mở, xe cộ, người đi kẻ lại quang gánh trên vai, vui cười trò chuyện. Họ đâu biết rằng mấy người lính đứng bên kia thành cầu, môi bập bập mấy điếu thuốc giồng, mắt thâm quầng, đỏ hoe vì thiếu ngủ hằng đêm ôm súng giữ cầu.

Lạ một điều, từ lúc đơn vị về đóng ở đây, cứ vào buổi chiều một thiếu nữ tóc dài biếng chải, đôi mắt mệt mỏi thẫn thờ, thường đi ngang và đứng lại trên cầu, mắt thăm thẳm nhìn xuống dòng nước, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ thành lời. Cô đứng bất động, tay trì lên thành cầu thật lâu và sau đó từng bước nhỏ, nhẹ nhàng đi về phía bên kia và khuất mình sau con dốc.

Theo mấy chú lính nói lại, cô ta tên là Thụy Trâm, đang học lớp 12 trên tỉnh, là người tình của thiếu úy Khang. Thụy Trâm bỏ học như người mất trí sau cái chết không toàn thây của thiếu úy Khang.

Ngoài những trận đánh đẫm máu, giờ đây cầu Mây Tức lại cõng trên lưng một chuyện tình thương đau thời chinh chiến.

Mỗi lần đi ngang qua cầu, Thụy Trâm đều được mấy chú lính chào bằng câu:

– Người đẹp ăn cơm chưa?

Thụy Trâm không cười.

– Tui không còn là người đẹp đâu.

Cho đến một hôm, đang đứng quan sát và nghiên cứu, tôi thầm nghĩ nếu tôi là đặc công hoặc đơn vị tác chiến của địch, tôi sẽ bố trí các thành phần tác chiến như thế nào để tấn công đồn. Tôi, phải nhìn từ mắt của địch, để thấy thấy sự phòng thủ sơ hở của mình. Thụy Trâm đến sau lưng tôi hỏi:

– Ông là chuẩn úy Anh chỉ huy ở đây phải không?

– Vâng! Sao cô biết tên tôi?

Thụy Trâm nhìn xa xôi và hỏi:

– Ông biết hát không?

Tôi hỏi tò mò:

– Không, nhưng điều đó có gì đáng nói đâu?

Thụy Trâm nhè nhẹ bước đi và lắc đầu:

– Không biết hát mà còn bày đặt để râu.

Tôi thấy hơi tự ái và bị ‘’sốc’’. Thụy Trâm đã đi xuống bên kia cầu, tôi nghe một chút buồn phiền.

Hai tuần sau tôi được gia đình Thụy Trâm mời đi dự giỗ. Đến bàn thờ đốt nhang cho ông bà, cạnh bàn thờ chánh, một chiếc bàn thấp hơn có bình bông tươi và bát nhang cùng hình thiếu úy Khang đẹp trai, mắt cương nghị nhìn tôi.

Mẹ Thụy Trâm cho biết:

– Con Trâm thờ thằng Khang đó! Ngày hai buổi cúng cơm và nó chỉ ngồi ăn cơm với thằng Khang thôi! Không ngồi cùng mâm với gia đình nữa. Đồng thời mấy tuần nay bệnh Thụy Trâm trở nặng, đêm không ngủ và ngồi gục trên bàn thờ thằng Khang. Nó thức dậy giữa đêm khuya mở cửa đi lên cầu, nhứt là những đêm trăng sáng. Tôi phải thức canh cửa không khéo mấy chú lính gác tưởng VC bắn chết thì tôi làm sao. Mong chuẩn úy thông cảm, báo cho mấy chú lính biết và tôi đang thu xếp chở nó lên nhà thương Biên Hòa điều trị. Gia đình tôi đội ơn chuẩn úy.

Mấy đêm sau, tôi đang nhận công điện ngày mai gom đại đội đi hành quân thì trung sĩ trưởng ca gác báo cho tôi biết cô Thụy Trâm đang đòi mở rào cho cô ta lên cầu ngồi vì đêm nay trăng sáng.

Tôi đứng trong nầy rào, Thụy Trâm lễ phép:

– Xin chuẩn úy vui lòng mở cửa rào cho tôi lên ngồi trên cầu, trăng sáng tôi nhớ anh Khang quá!

Tôi mũi lòng, mở rào. Lên đến giữa cầu, Thụy Trâm đứng lại và chỉ xuống chân mình:

– Nơi nầy mỗi mùa trăng sáng tôi nôn nóng từ trên tỉnh về, tối đến Khang ôm đàn và hát cho tôi nghe. Ôi! Nếu bây giờ Khang sống lại, so phím và hát cho tôi nghe bản ‘’Bên Cầu Biên Giới’’ của Phạm Duy, tôi sẽ chết theo Khang ngay.

Bước lên lề, tựa tay vào thành cầu, trong gió mát, con nước mười sáu tràn bờ, trăng sáng vằng vặc trên đỉnh đầu, tôi lắng nghe giọng mềm, nhỏ và xa vắng của Thụy Trâm:

Dừng đây soi bóng bên dòng nước lũ
Cầu cao nghiêng dốc bên dòng sông sâu
Tuổi xanh như lá rụng cuối trời
Một vùng thương đau chốn làng cũ quê xưa

Thụy Trâm chỉ hát bốn câu thì dừng, đứng yên và lặng thinh như pho tượng, nước mắt tuôn thành dòng, lấp lánh trên má trong đêm trăng lồng lộng soi rõ từng cơn sóng nhấp nhô đôi bờ.

Tôn trọng nỗi đau thương của Thụy Trâm, tôi lặng lẽ bỏ vào lô cốt cũng là phòng ngủ của ‘’Tư Lệnh’’ cầu Mây Tức. Đó là chiếc ghế bố xếp, áo giáp kê làm gối và trên đầu chiếc radio Ấp Chiến Lược đang phát thanh chương trình Dạ Lan,

“Tiếng nói của người em gái hậu phương, gửi đến các anh chiến sĩ can trường trên khắp các nẻo đường đất nước.” ngọt ngào như mật rót vào tai! Yêu lính bằng lời mà.

Trời sáng tỏ. trung sĩ trưởng ca gác vào báo cáo tình hình trong đêm vô sự, duy chỉ có cô Trâm vẫn còn nằm ngủ bên thành cầu. Thật tội nghiệp! Tóc tay buông xõa, rã rời, gương mặt nằm nghiêng xanh xao! Một cánh hoa rũ tàn. Đêm vừa qua, quân số giữ cầu tăng thêm một, nhưng bất khiển dụng.

Chuyện ấy tái diễn mấy lần, sau cùng tôi làm mặt quạu với Thụy Trâm:

– Mỗi tháng cô chỉ được lên cầu ngủ một lần vào đêm rằm với điều kiện mùng mền chiếu gối đầy đủ. Nếu cãi lời tôi, cô sẽ không bao giờ được bước lên cầu nầy nữa dù đêm hay ngày.

Trâm cúi đầu rơm rớm nước mắt:

– Chuẩn úy ra lệnh sao! Trâm xin nghe vậy.

Tôi quay bước bỏ đi, nghe lòng mình chùng xuống. Thật đáng thương cho người con gái, khi phải đón người yêu từ mặt trận về mà thân xác nằm trong ‘’hòm gỗ cài hoa’’!

Bên kia đường hướng về đồn Đập Ấu là một nhà máy xay lúa nhỏ đã ngưng hoạt động, mấy chục căn nhà lá tả tơi nằm khít vào nhau hai bên ven đường. Đêm đến, khi dân tay xách, nách mang tản cư xuống quận lỵ ngủ, dãy nhà vô chủ thắp đèn bão trước hiên, đong đưa theo gió từng cơn, tăng thêm vẻ buồn thiu cho khu phố! Gió chiều rờn rợn nước sông, người chỉ huy cũng nghe se sắt nhưng tuyệt đối giữ kín trong lòng.

Có một việc nếu xảy ra đúng như dự tính của đặc công Cộng Sản thì cái lon ‘’quai chảo’’ trên ve áo tôi sẽ bay xuống dòng sông và có thể tôi bị truy tố ra toà án về tội: Tắc trách để cầu sập giữa ban ngày. Đơn vị giữ cầu phối hợp với Trung Đội Đồn Đập Ấu đi mở đường rà mìn và ban mô giữa khúc đường xã Phú Tiên. Du kích bắn sẻ rồi rút, thu một quả mìn bằng đạn pháo binh 105 ly lép, một cuộn dây điện. Mô được ban, lộ thông, xe cộ và người an toàn qua lại.

Tôi và trung đội giữ cầu trở về, cất vũ khí nhào xuống sông tắm giặt. Mấy chú lính đùa giỡn, cười đùa tát nước vào nhau, hồn nhiên như trẻ nít. Bỗng Hạ Sĩ Sơn phóng mình bơi thật nhanh sang bờ bên kia, chụp và cắn lìa sợi dây điện đang quơ lên mặt nước, Sơn la lớn:

– Trái mìn lớn quá, chuẩn úy ơi!

Chúng tôi phụ lực lôi nó vào bờ. Đó là một thùng phuy đầy chất nổ, bao quanh bằng bập dừa, trọng lượng đủ nổi và trôi lềnh bềnh dưới mặt nước.

Mấy loạt đạn bắn vào cầu và chúng tôi đáp lễ bằng mấy tràn đại liên thật giòn. Nếu không nhờ sự nhanh nhẹn phán đoán của Hạ Sĩ Sơn, chỉ cần năm phút sau thùng phuy chất nổ được kích hỏa, cây cầu sẽ sập nằm dưới mặt nước và tôi biết trả lời sao với cấp chỉ huy để cho cầu sập giữa ban ngày! Đôi khi ‘’hay không bằng hên’’. Trước áp lực ngày càng gia tăng, yếu điểm cầu Mây Tức được bổ sung mười tân binh, thêm vọng gác và đêm bung xa hai điểm tiền đồn.

Trời tối đen như mực, đồng hồ dạ quang chỉ hai giờ sáng, tôi đi rảo một vòng yếu điểm dặn dò lính gác quan sát cẩn thận, rồi vào cố gắng ngủ một ít để năm giờ sáng cả đại đội tham dự hành quân cùng Trung Đoàn 14, Sư Đoàn 9 Bộ Binh.

Đoàng! Đoàng! Đoàng! Một loạt đạn xé màn đêm bên kia con dốc. Đơn vị báo động! Tất cả ra hố cá nhân chiến đấu. Tôi phóng nhanh về phía súng nổ. Người âm thoại viên mang máy chạy theo sau, ống liên hợp phát ra tiếng khè khè như tiếng thở của loài mãng xà. Người lính gác cho tôi biết địch cắt hàng rào bò vào. Tôi cho lịnh súng cối bắn trái sáng. Xác một phụ nữ áo bà ba tím, máu đẫm ướt ngực trái, nằm bất động. Đến gần ai cũng muốn khóc, Thụy Trâm nằm bất động trong vòng rào. Y tá mang lên cầu băng bó nhưng Thụy Trâm đã tắt thở, đạn xuyên qua tim. Trong túi áo hình thiếu úy Khang đang tươi cười bên Thụy Trâm. Cả hai đều tựa lưng vào thành cầu.

Trách nhiệm trước cái chết của Thụy Trâm là thượng sĩ thường vụ và có cả tôi, không thông báo cho số tân binh mới bổ sung, về hội chứng Thụy Trâm.

Xã Mỹ Cẩm lo quan tài, tôi quyên góp tất cả quân nhân đại đội, cộng thêm tiền xã hội thuộc khối Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Khu, rồi mang vòng hoa và tiền phúng điếu đến tạ lỗi và chia buồn cùng tang quyến. Gia đình đón tôi bằng nước mắt và tôi cũng khóc.

Lúc đốt nhang trước linh cửu Thụy Trâm, tôi thấy ánh mắt thiếu úy Khang nhìn tôi trách móc và lạnh lùng.

Cái chết của Thụy Trâm gây xúc động mạnh đối với người dân trong quận, làm rơi nước mắt nhiều người trong đó đa phần là bạn học của Thụy Trâm, đến tiễn đưa người bạn gái vắn số, sống chết với tình, lần cuối cùng.

Một tuần sau, chìm vào giấc ngủ thật sâu tôi thấy thiếu úy Khang tay cầm đàn, tay dắt Thụy Trâm áo tím, tóc dài. Cả hai tươi cười đứng trên đầu ghế bố, ngỏ lời cám ơn tôi cùng đơn vị đã đưa Thụy Trâm xuống gặp Khang. Hai người rất hạnh phúc bên nhau, những đêm trăng sáng vẫn về ngồi đàn hát trên cầu.

Tôi giật mình tỉnh giấc, lưng và trán ướt đẫm mồ hôi, hơi hớm Thiếu Úy Khang và Thụy Trâm vẫn còn phảng phất trong lô cốt. Qua lỗ châu mai, tôi nhìn lên thành cầu nhưng chẳng thấy ai.

Nắng lụa lấp lánh trên rặng dừa nước bên kia sông, có tiếng bìm bịp kêu, trời cũng vừa rựng sáng. Tôi đưa tách lên môi, hớp một ngụm. Cà phê đã nguội ngắt tự bao giờ.

Tường Lam

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Thiếu Tướng Trương Quang Ân: 3 lần Đậu THỦ KHOA


Image
Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân:
Hiện Tượng Độc Nhất



Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp
thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952.

Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn
(mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong
mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt.

Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do
tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng san cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ)

Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù
tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có
danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá
đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ
bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953)
Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi.

Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và
giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam
hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh…

Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối
với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm
sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận.

Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn
viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học,
trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu.

Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt
Nam tài năng xuất sắc nầy.

Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha
Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới
phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam,
29 tháng 11, năm 1954.

Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo
phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân
đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát
cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị.


Thanh phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi
loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba.


Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26
tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn
1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người
Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế
chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng
toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối.

Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương
liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập
lại thêm lần thứ hai.

Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan
Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối
với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu.

Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân độị
Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính
hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn.

Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc
son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng
của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương.

Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù
cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ
đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những
địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị
quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia
để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng.

Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện
việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế
ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8
Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn.

Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung,
Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7

Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các
tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong
những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ.

Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút
của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống
trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ,
chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp:

- Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi!

Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường
hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính.

Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh,
người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn.

Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của
một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn:

- Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe!

- Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa
ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá ...

- Đại úy Hợp vội vã trả lời.

- Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố .

- Thiếu tá Ân hỏi gấp ,

- Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau!

- Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc!

Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa
về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu.

- Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở.

- Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài
xế, không quên hỏi thêm:

- Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa?

Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời:

- Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân
tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ
đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi!

Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc.

Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa
Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông
vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa
học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân
lực Mỹ.

Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng
Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng:

- Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã!

Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu:

- Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì
đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu!

Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười:

- Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn
lắm!

Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn
bền chặt tồn tại.

Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng,
tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định.

Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu
tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh,
Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định:

- Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép,
nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được!

Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa
đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần:

- Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai.

Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia
Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ
đô vào thời điểm 1966-1967):

- Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn!

Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp),
hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh
mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở.

***

Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi
trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không
quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh
mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người
lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách.

- Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?!

Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán.

Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo
tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng:

- Vào hàng! Vào hàng! Phắc!

Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát:

- Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích:

- Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa
đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh!

Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định.

Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc
khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù.

Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột
với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại
đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã.

Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ
tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành
phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng.

Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất
bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành
bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã.

Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài
chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại.

Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại
924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống.

Nhưng mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ
thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang
Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại.

Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện.
Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt
30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ – Tướng Quân.

Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng
cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập.



Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia
đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ .

Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú
ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét
những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan:

- Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai
cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa.

Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước
đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!”

Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt
đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc.

Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại
gia binh đồng la lớn kinh hoàng:

- Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!!

Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời.

Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc.

Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa
của phu nhân.

Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân.

Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ

(Sinh Tồn chuyển)

User avatar
mexanh
Posts: 480
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by mexanh »

Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng Hòa

Image


Image

Image

Image

Image

Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà trước ngày tan vỡ 30-4-1975 có một ngôi trường rất đặc biệt là Trường Thiếu Sinh Quân. Nếu Miền Nam Tự Do từng có Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt chuyên cung cấp Sĩ Quan Hiện Dịch trọn đời theo binh nghiệp; hay trường Bộ Binh Thủ Đức đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị; hoặc Quân Trường Đồng Đế (Nha Trang) thường huấn luyện Hạ Sĩ Quan cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà — thì có thể nói chỉ duy nhất mái nhà Thiếu Sinh Quân là nơi xuất thân đủ Sĩ Quan lẫn Hạ Sĩ Quan, cả Hiện Dịch lẫn Trừ Bị.


Ngược dòng lịch sử, thời Hoàng Đế Minh Mạng năm 1899 đã chấp thuận cho Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer thành lập 2 nhóm Thiếu Sinh Quân (TSQ) đầu tiên, mỗi nhóm 10 người. Từ đó, Thiếu Sinh Quân phát triển nhanh.

Về sau, ngoài Bắc có các nhóm TSQ tại Hà Nội, Móng Cái, Việt Trì… Miền Trung có Trường Thiếu Sinh Quân Huế (đặt tại thành Mang Cá, sau dời vào Thành Nội). Trong Nam có nhiều trường TSQ tại Vũng Tàu, thành Ô Ma (Tổng Nha Cảnh Sát), Thị Xã Đà Lạt, và đặc biệt tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho… Đây chính là nơi tiếp nhận các nhóm TSQ miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Định Geneva 1954.

Đến tháng 6-1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra sắc lịnh sát nhập tất cả các trường TSQ lẻ tẻ trên toàn quốc, chuyển về Vũng Tàu, nâng lên thành “Quân Trường” tầm vóc Quốc Gia. Ngôi trường mới mang tên “Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam” cho đến ngày Miền Nam Việt Nam bị bọn cộng sản bắc việt xâm lược và cưỡng chiếm.

Cơ sở Vũng Tàu vốn là một doanh trại của quân đội Pháp xây cất để lại, còn gọi là thành Pháo Thủ. Trường gồm ba dãy nhà ba tầng, rộng lớn, khang trang, nằm sát chân Núi Lớn Vũng Tàu, chánh diện là Quốc Lộ 15, nối liền Vũng Tàu với Bà Rịa, Sài Gòn.

Thời điểm năm 1956, lúc chuyển về Vũng Tàu, được nâng lên bậc “Quân Trường”, trường có chừng 1,350 Thiếu Sinh Quân. Về sau, trung bình mỗi năm thu nhận khoảng 350 tân TSQ. Thiếu Sinh Quân thường là con của giới quân nhân, không phân biệt sĩ quan, hạ sĩ quan, hay binh sĩ, cũng không nhất thiết là cô nhi tử sĩ. (Sài Gòn trong tôi - Thanh Dũng)

Về học vấn, đơn cử niên khóa 1959-1960, người TSQ phải theo 4 chương trình giáo dục, bao gồm: chương trình văn hóa của Bộ Giáo Dục; chương trình quân sự; chương trình huấn luyện thể thao, điền kinh; và chương trình chính trị, luyện tinh thần dành riêng cho TSQ.

Ngoài ra, người TSQ còn được học các ngành riêng như quân cụ, quân nhu, truyền tin, công binh, hành chánh, tài chánh v.v… Đến năm 18 tuổi, TSQ vào quân đội với cấp bậc Hạ Sĩ Nhất. Những TSQ đỗ bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp có thể được gửi lên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

Qua thời gian 20 năm, trường TSQ trải qua các đời Chỉ Huy Trưởng: Thiếu Tá Phan Như Hiên, Thiếu Tá Nguyễn Văn Bích, Thiếu Tá Nguyễn Lũy, Đại Tá Huỳnh Văn Tư, Trung Tá Nguyễn Văn Kiên, Ðại Tá Nguyễn Văn Ưng, Đại Tá Hồ Nhật Quang, và Trung Tá Ngô Văn Dzoanh. Quân nhân gốc TSQ nổi tiếng không thích ngồi văn phòng, chỉ muốn xông pha trận mạc, nên con số thiệt hại vì chiến cuộc rất cao.

Theo ước tính của Tổng Hội Cựu TSQ tại Hoa Kỳ, trường Thiếu Sinh Quân đã đào tạo và cung cấp cho quân đội khoảng 6,000 quân nhân, thì đến 4,500 đã vị quốc vong thân trên chiến trường hoặc thiệt mạng trong các trại tù khổ sai của bọn cộng sản thời hậu chiến. (Sài Gòn trong tôi - Thanh Dũng)

Thời VNCH, có hằng trăm quân nhân xuất thân Thiếu Sinh Quân từng nắm giữ nhiều chức vụ cao như Tư Lệnh Sư Đoàn, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn, Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Hạm Trưởng, Đại Đội Trưởng, v.v… Trong số này có những tên tuổi đặc biệt đã đi vào quân sử: Thống Tướng Lê Văn Tỵ, vị Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà; Tướng Nguyễn Văn Vận, một trong những tướng lãnh đầu tiên của QLVNCH; Tướng Nguyễn Hữu Có từng là Tổng Trưởng Quốc Phòng…

Cũng gốc TSQ có Tướng Lý Tòng Bá là thủ khoa Khoá 6 Võ Bị. Năm 1972, ông nắm quyền Tư Lịnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, người hùng của mặt trận Kontum, đã chận đứng 3 sư đoàn cộng phỉ Bắc Việt (sđ 320, sđ 10, và sđ 2). Còn phải kể thêm cựu TSQ Lâm Ngọc Chiêu (Lôi Hổ) và cựu TSQ Lai Đình Hợi (Biệt Kích Dù 81) — là hai sĩ quan gan dạ bậc nhất trên chiến trường những năm hậu Mậu Thân 1968, chuyên dấn thân vào những phi vụ đặc biệt, thả và đón biệt kích xâm nhập mật khu Bắc Việt dọc đường mòn hcm hay vùng tam biên, vùng Hạ Lào, v.v…

Nhiều quân nhân từng theo học trường TSQ Việt Nam cũng ghi lại tên mình trong những giờ phút chung cuộc của Miền Nam Tự Do ngày 30-4-1975. Giữa lúc hầu hết các đơn vị VNCH đều đã buông súng, những người TSQ vẫn ngoan cường kháng cự: tại ngay chính trường TSQ Vũng Tàu, tại Tỉnh lỵ Chương Thiện, và trên sông Vàm Cỏ Tây

Vào lúc Thị Xã Vũng Tàu hoàn toàn bỏ ngỏ, bọn Bắc quân đã xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu, còn một cứ điểm duy nhất chống cự suốt đêm 29 và gần trọn ngày 30-4. Tại trường TSQ, hằng trăm tay súng tuổi thiếu niên đã tự lập phòng tuyến quyết tử thủ với bọn giặc cướp xâm lược từ phương bắc. Đối phương điên cuồng tung hai tiểu đoàn xung kích vào trận.

Các Thiếu Sinh Quân đã được huấn luyện bài bản, có hỏa lực, có đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng, đã kháng cự mãnh liệt. Họ tác chiến ngay trong sân trường, đột kích, đánh bọc hậu, thoắt ẩn thoắt hiện, hạ sát 6 tên cộng phỉ xâm lược và làm nhiều tên khác thương tích.

Đến chiều 30-4-1975, khi đạn dược đã cạn và kho lương thực đã cháy, họ đành thương thuyết với bọn địch quân bao vây, nhận lấy một giờ ngưng bắn. Các TSQ tí hon vẫn bình tĩnh thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài người hy sinh, rồi đường hoàng làm lễ hạ Quốc Kỳ, hát Quốc Ca của quê hương Việt Nam Tự Do một lần cuối cùng. (Sài Gòn trong tôi - Thanh Dũng)

Hai tuần trước đó, ngày 16-4-1975, tại ngã ba sông Vàm Cỏ Tây, địa phận tỉnh Long An. Đại Tá Đặng Phương Thành gốc Thiếu Sinh Quân, tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Quốc Gia, lúc đó chỉ huy Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đơn vị của ông đã phối hợp với Giang Đoàn Đặc Nhiệm 99 dưới quyền Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang với gần 100 giang đỉnh.

Lực lượng thủy bộ hợp cùng nhau nghênh chiến với “Công Trường 5” của bọn Bắc quân, làm vỡ kế hoạch vượt sông Vàm Cỏ của bọn chúng và gấy thiệt hại nặng cho bọn chúng. Về sau, cũng với khí chất quật cường đó, cựu TSQ Đặng Phương Thành đã chết mất xác trong ngục tù CS.

Sau khi các đàn em TSQ tử thủ ngôi trường mẹ Vũng Tàu không lâu, tại Tỉnh Lỵ Chương Thiện ở Vùng Bốn Chiến Thuật, Đại Tá Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn đã tử chiến với Bắc quân vào “tiếp thu”. ĐT Cẩn thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân, xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Đệ Nhất Quân Khu ở Gia Định thời đầu 1950, về sau học Khóa 2 Sĩ Quan Đặc Biệt Quân Trường Đồng Đế. Ông từng chỉ Huy Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh vào giải vây An Lộc năm 1972. (Sài Gòn trong tôi - Thanh Dũng)

Từ 1973, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện, nổi tiếng được lính mến, dân thương. Thời điểm 30-4-1975, mặc dù Dinh Độc Lập đã kêu gọi buông súng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng một số chiến hữu gốc TSQ đã quần thảo với giặc đến viên đạn cuối cùng, triệt hạ hằng chục tên bắc quân xâm lược. Ít nhất có 4 anh hùng gốc TSQ bị bọn giặc cướp cộng phỉ hành quyết tại chỗ. Riêng Đại Tá Cẩn chịu nhục hình, khổ sai giam cầm, đến sáng ngày 14-8-1975 bị xử tử tại sân banh Cần Thơ.

Cũng vì sự can đảm gan lì này, các quân nhân gốc TSQ trong chiến cuộc VN thường được cấp chỉ huy tin dùng. Một cá tánh rất đẹp khác của người TSQ VNCH là rất kỷ luật, đoàn kết, đùm bọc nhau, có thứ bậc trên dưới rõ ràng. Điểm mạnh này càng rõ ràng hơn khi lưu vong ra hải ngoại, với lắm cảnh xáo trộn trong đời sống người Việt, kể cả các tôn giáo.

Riêng Thiếu Sinh Quân vẫn trung trinh, người đi trước vẫn có uy, vẫn được đàn em kính nể. Ngày nay, tập thể cựu TSQ vẫn liên lạc chặt chẽ. Họ có một Tổng Hội Cựu Thiếu Sinh Quân Việt Nam trên toàn thế giới, mỗi hai năm họp đại hội một lần. Và tại các địa phương có vài chục hội cựu TSQ khác.

Qua một cuộc bể dâu, ngôi trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu ngày nay trở thành trụ sở của một hãng dầu khí. Báo chí sách vở quốc nội hoàn toàn không nhắc đến, nhưng câu chuyện những người Thiếu Sinh Quân can trường cần thiết phải được ghi lại cho những thế hệ mai sau được biết; như trận chiến quả cảm mà bi thương, hùng tráng mà tuyệt vọng của hằng trăm tay súng thiếu niên hơn 40 năm trước, kết thúc trong tư thế ôm nhau mà khóc trước sự chứng kiến của nhiều người dân Vũng Tàu — khóc thảm thiết, khóc tức tưởi, khóc cho thân phận nhỏ bé giữa cơn cuồng phong của lịch sử.

(Sài Gòn trong tôi - Thanh Dũng)

nhuvan
Posts: 343
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

DỰNG MỘT NGỌN CỜ
(Phan Nhật Nam)
Số báo trước vì tình hình chiến trận đang tiếp diễn, không thể viết rõ ràng các chi tiết về diễn tiến của cuộc hành quân. Hôm nay 27-7, Lữ đoàn 2 Dù đã bàn giao khu vực trách nhiệm lại cho quân bạn. Chiến dịch tái chiếm Quảng Trị coi như chấm dứt. Chấm dứt riêng đối với Lữ đoàn 2 Dù, đơn vị Chỉ huy tổng quát cuộc hành quân. Chiếm Quảng Trị cũng không hẳn là kết quả của một đại đội, một Tiểu đoàn, cũng không hẳn riêng của Lữ đoàn 2. Chiến dịch đã được phối hợp giữa Nhảy Dù ở phía Tây quốc lộ và TQLC ở phía Đông kéo dài ra đến biển. Lữ đoàn 2 cũng cần phải có một đơn vị hậu tập giữ đường về, lập một hàng cản trở ở cực Nam con đường chiến thuật 556B, từ thôn Đà đứng men theo vùng cận sơn qua vùng Động Ông Đô, Anne, Barbara qua đồi 142 để đổ ra Phong Điền. Lữ đoàn 3 Dù giữ phần nầy…

Chiến dịch bắt đầu từ lúc 07 giờ tối ngày 28-6 lúc những người lính Tiểu đoàn 7 Dù bắt đầu vượt sông Mỹ Chánh để bôn tập trong đêm đánh vào những mục tiêu Nam sông Ô Khê để làm đầu cầu cho cuộc trực thăng vận ngày mai của Tiểu đoàn 9, 11 Dù và chấm dứt lúc 12g45 phút ngày 25-7-72 khi Tố Quyên, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Dù châm cái píp nhìn Nguyền Tấn Sĩ , Đại Đội trưởng 51 tìm một chỗ để cắm ngọn cờ vàng trong Tiểu Khu Quảng Trị… Trong thời gian đằng đẵng mịt mùng lửa đạn đó, Lữ đoàn 2 Dù đã dùng các Tiểu đoàn 3, 5, 6, 7, 9, 11 Dù thay phiên nhau “nhồi” cho hết 32 mục tiêu mà mục tiêu chót là Cổ Thành hay Tiểu khu Quảng Trị.. Chiến trường quá rộng và chi tiết lại tràn ngập chỉ có thể một ủy ban quân sử mới có thể viết lại đầy đủ diễn tiến của 27 ngày chiến trận, công việc cũng đòi hỏi một thời gian dài để chuẩn bị.. Người viết chỉ với cố gắng cá nhân, ghi lại nét chính yếu trong một thời gian cấp thời để làm thành một cái khung tổng quát trên đó các Tiểu đoàn Dù đã chiến đấu với hào hùng bốc lửa, những tiểu đoàn thân yêu, những đơn vị cũ, thực thể kỳ diệu mà người viết đã sống chung qua một đoạn đời dài, rất dài….

Chiến dịch bắt đầu

Đáng lẽ ngày N là 28 tháng 6, nhưng vì các Tiểu đoàn 7, 9, 11 vừa rút ở vùng cận sơn bên phải Phong Điền ra đều đụng trận như Tiểu đoàn 7 Dù của Khôi Nguyên vừa chuẩn bị khăn gói đế “zulu” thì đụng, bốn bề, ba mặt của núi Cánh Dơi cộng quân đổ ra vây kín.

– Nó không muốn cho mình ra Sông Lô. – Khôi Nguyên nói cùng Lô (Tiểu đoàn phó).

– Không can chi, tôi dứt tụi nó được.

Lô nói là Lô làm, vùng núi chập chùng cao độ không làm Lô nao núng. Suốt đêm 26 rạng 27, Lô nói máy không ngừng, lính đánh lựu đạn hết cỡ gần nhất. Ngày đến, không biết bao nhiêu xác nhưng 36 súng AK bỏ trên trận địa thì số tổn thất phải hơn 100 xác giặc… Lô vất cái nón sắt : “Để tao ra thì chết, ai mượn tụi mày níu tao…” Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 9 của Sư đoàn 308 biến khỏi trận địa sau cú kéo tay của Lô không nở chia ly.

Đụng lớn nên Tiểu đoàn 7 được nghỉ một ngày: nghỉ nghĩa là kéo được ra đường, căng chiếc võng ngủ trong những ngôi nhà tan nát của quận Phong Điền, được rờ tay lên mặt nhựa con đường số 1 nhìn về hướng Bắc đỏ lửa, Quảng Trị ở cuối tầm nhìn luôn ầm vang tiếng động.

– Mốt mình đánh Quảng Trị.

– Đánh thì đánh sợ gì. Kontum, Chupao mình còn phá chốt được huống gì ở đây.

Lô và Khôi Nguyên chia nhau hộp bia đầu tiên khi rời những vùng đất nắng cháy – Tiểu đoàn đã ở trong đó hai tháng.

7 giờ tối ngày 28-8, Tiểu đoàn 7 xếp một hàng dọc bò từng người một qua cầu sắt vượt sông Mỹ Chánh, chiến địch tái chiếm Quảng Trị khai diễn. Phải qua hết sông trong 4 giờ, chiếm liền vùng Lương Điền, Tân Trường, Trường Vinh lần đến Nam sông Ô Khê, bám được cái cầu Ngắn thì trời sáng. Một đêm dài đã qua, Tiểu đoàn 7 Dù đến đúng mục tiêu, giữ mặt Nam cho bãi đáp ngày mai của Tiểu đoàn 11 và 9 Nhẩy Dù.

6g30 sáng ngày 29 tháng 7, Tiểu đoàn 9 xuống bãi trước. Tàu thả lộn bộ Chỉ huy Tiểu đoàn cùng Trung đội súng cối xuống vùng cát trắng còn mờ trong màn sương. Thối quá! Hơi người chết ào theo cơn gió xông vào lỗ mũi người lính Tiểu đoàn 9. Trời chưa tỏ hẳn nhưng lác đác trên đồng trống những sọ người trắng rõ, lính vấp phải càu nhàu thứ đá tang thương. Trung sĩ Hùng mang máy cho ông Phú – Cửu Long –Tiểu đoàn trưởng TĐ9, nhặt chiến lợi phẩm đầu tiên: Một đôi giày Map Mỹ…tốt thật, xuất quân thì nhà cháy, còn được mỗi bộ áo quần và 60 đồng bạc, ra Quảng Trị vớ được đôi giày là được an ủi lớn.

8 giờ 30 Tiểu đoàn 11 xuống bãi tiếp. 7 Dù tiến lên bên trái 11 ; 3 Tiểu đoàn hướng vào một hướng tiến chính, hướng Bắc – Quảng Trị, thành phố mờ nhạt ở xa trong hơi nắng có mùi người chết.

Ngày 4 tháng 7, coi như hoàn tất giai đoạn 1, Tiểu đoàn 3 Dù chiếm xong quận Hải Lăng để đặt Bộ chỉ Huy Lữ đoàn, 7 đến An Thái cách ngã ba Long Hưng 600 thước, 9 vào sát sông Thạch Hãn vùng Phước Môn, Tân Lê và 11, Tiểu đoàn đàn em. Tiểu đoàn sinh sau đẻ muộn vừa hồi sinh sau trận Charlie, rửa mặt lại bằng trận đồi Trần văn Lý ngày 22 tháng 6 với 22 Tăng bị đốt cháy trong đó có một T 50; chỉ huy viên Thượng úy Nguyễn Viết Thương bị xử tử hình sau khi nướng cháy 24 chiến xa mà không giết được Ngụy Dù nào (lời của viên Trung Tá Thiết đoàn trưởng thiết đoàn 81 khi kết tội Thương). Làm sao Thương thắng trận được, y đã gặp Mê-linh Mễ và Thành “râu” cặp uyên ương kiếm của Tiểu đoàn 9 Dù trước khi Mễ còn là đại đội trưởng 91 và Thành 92.. Thương hay bất kỳ một anh Thượng úy ngày nào của Bắc quân cũng không đánh được Mê Linh, Thành Thái, chưa kể thêm con “cua đinh” Nguyễn văn Thức với Chi đoàn I/11 Chiến xa, con cua đinh húc văng mạng vì “xe của tôi không có số de” .

Giai đoạn 1 chấm dứt với thành phần cao nhất là Tiểu đoàn 7, điều nầy không lạ vì Sông Lô là người ở đây, người của vùng nghèo không có một chữ lót để đặt tên, Nguyễn Lô, Trần Toán, Khan Niên, Khan Thởn. Dân Quảng Trị cực đến nỗi không có một chữ “văn” nghe cho êm tai… Đất cơ khổ.

Trông giòng Thạch Hãn

Ngày 6 tháng 7 mở đầu cho giai đoạn 2, giai đoạn “rờ” Quảng Trị. Tiểu đoàn 7 dùng 2 đại đội 71,74 nhất quyết “vồ” Quảng Trị. Lô theo 74. Khôi 71. Tiểu đoàn trưởng và Tiểu đoàn phó đều ở “tuyến đầu khói lửa”, hết rồi giai đoạn vàng son của thời “Tiểu đoàn trưởng Nhẩy Dù tắm nước nóng, uống rượu vang, chỉ huy điều động chỉ cần nói qua ban 3 hay Tiểu đoàn phó” . Bây giờ ông phó, ông Trưởng đến ở sau lưng khinh binh tối đa là 3 người, tối thiểu là ngang hàng. Một đại đội trong chiến tranh quy ước không là cái gì hết; chiến trường biến đổi tính chất mau lẹ, không ngừng nghỉ. Đánh vào An Thái thì dùng vận động chiến, lên ở đây thì chỉ còn tác chiến trong thành phố với cá nhân chiến đấu khai triển tối đa… Vì thế nên mới xẩy ra những chuyện khôi hài của đêm 6 rạng 7 khi Tiểu đoàn chiếm xong Đại Nại và đại đội 74 vượt quá ngã ba Long Hưng 600 thước ; đóng quân vì trời tối, thường vụ Đại đội kêu thương binh Bắc Việt dậy đi gác – Ta và địch trộn lẫn với nhau như gạo và đỗ. Ai ở đâu ngủ đó và gắng thức để giữ mạng sống. Đêm 6 rạng 7, Tiểu đoàn 7 chập chờn trong giấc ngủ nôn nóng…Mai là ngày 7 tháng 6, Tiểu đoàn mình số 7…Sao toàn 7 không à, 7 là số tốt, mình là người đầu tiên vào “thành phố” Quảng Trị. Mai dậy xem “nó” như thế nào?

– Thành phố gì đâu? Toàn là nhà đổ và đường bị cày nát, thành phố hơn được nhà quê là đường nhựa và đèn điện, đây chẳng còn gì hết cả…

Chẳng còn gì cả thật. An Lộc cũng đổ nát nhưng An Lộc chỉ là một thị trấn miền rừng, thị trấn nhỏ gồm một dãy phố chìm khuất giữa lòng rừng xanh. Trái lại, Quảng Trị là một thành phố đúng nghĩa, dù nhỏ bé tàn tạ, nhưng thành phố nầy có sức sống, lịch sử và vóc dáng riêng. Thành phố Quảng Trị đã bị xoá tan chỉ còn đống gạch ngói hoang tàn. Thừa thắng “xông ngang”, vì “lên” không được. Ngang lại có lợi hơn, che được phía Bắc cho “thằng” 11. Đại đội 74 từ Long Hưng quẹo ra trái đánh dần ra bờ Thạch Hãn. Trung úy Phi của Đại đội 74 dẫn quân đánh dần vào từng nhà một. Long Hưng – bờ sông chỉ khoảng 400 thước nhưng cũng phải tốn mất 3 ngày…3 ngày đi được 400 thước dày đặc “chốt” là quá giỏi, trái phải, trước sau không được che, di chuyển giữa một “thung lũng” cao ốc tối thiểu cũng do một khẩu đại liên kèm theo hai B40 hoặc một 57ly không giật…Nhưng 9 giờ sáng ngày 6, Phi cũng thấy được giòng sông cạn đáy chảy lờ đờ về hướng Bắc… Bờ sông dốc quá không xuống rửa tay được. Bên kia sông và đầu đường Gia Long những loạt đạn đan kín trời bay đến, Phi lẩm bẩm câu nói trước khi rút lui. Rửa được cái tay ở giòng sông này mà chết thì ngu quá.

Tung quân hoạt động chung quanh Long Hưng, Tiểu đoàn 7 Dù còn mở một con đường cho thằng 2 Trinh Sát của Út Bạch Lan vào Thành nội… Làm được như thế là khá rồi, Khôi Nguyên an ủi Lô sau khi đã thử băng đồng Mai Lĩnh đánh vào Trí Bưu nhưng không được. Cánh đồng mênh mông không hành lang che dấu, bên trái là Mai Lĩnh cứ điểm cứng, Lô có bằng thép cũng không qua khỏi cánh đồng… Nóng thì thua, Khôi Nguyên hạ hỏa cho Lô khi thằng cha nầy buồn vì không băng đồng được.

Khi Hùng móm về nhà

Phía trái của 7 là 11, sau khi đã dọn sạch vùng La Vang, Mễ thấy trước mắt 3 “khách sạn” khốn nạn, Maxim, Majestic, Moderne… Làm sao đánh ? Nhờ mấy đứa con của Hổ Xám đánh thử lên bằng đặc công, hai đêm 7, 8 đại đội xung kích cũng chỉ “ kéo giường kéo chiếu” được chút thì phải de. Tụi khốn nạn nằm chặt phòng ngủ, không đường thối lui, nên tử thủ. Anh Trung úy Đại Đội trưởng xung kích rề rề phê bình. Sáng ngày 9, Mễ dùng “thằng Quảng Trị” đánh ga xe lửa, mục tiêu chót của Tìểu đoàn.

Mầy đến ga, tiễn em đi được thì tao sau nầy mở sâm banh. Mễ dặn Hùng “móm” một lần chót trước khi “thằng Quảng Trị” kéo quân đi. Móm và Trinh ĐĐT 112 lên ga tiễn em. Em thứ dữ, em răng đen mã tấu, em đeo corset bằng đạn AK, em xách ví lựu đạn… “em” là đứa cháu cuối cùng của Bác : Sư đoàn 325 Tổng trừ bị Quân đội Nhân dân !

Hùng gan dạ nhưng cũng rất cẩn thận, đợi đêm men theo đường rầy xe lửa để đến ga tiễn “em” . Nhưng chẳng em nào muốn đi, em đòi ở lại, em bám đầy đường như hàu bám vào ghè đá. Hùng và Trinh cứ thay phiên nhau “tiếp”. Đoạn đường xe lửa dài không quá 500 trăm thước cặp Hùng–Trinh phải “ bò” mất 5 ngày, đúng ra là 5 đêm Hùng dẫn đầu vừa đánh vừa chỉ chỏ… Cái ngã ba xa xa đó là đường Trần Hưng Đạo, đường đó đi vô chợ Quảng Trị, chỗ đó có cái nhà thương… chắc giờ nầy thành nhà ghét rồi, tụi nó thế nào cũng tử thủ chỗ đó… Mẹ cha hắn, có đau lậu đâu mà nằm nhà thương kỹ rứa!!

Hùng chưởi một câu thật buồn cười sau khi suốt ngày 11 cứ tìm cách vào “lấy thuốc đỏ”, nhưng không được… Từ hăng hái vui vẻ của những ngày đầu trên đường về nhà, bỗng nhiên Hùng đổi tánh, la mắng lính như tát nước vào mặt… “Muốn chết phải khôog? Tại sao mi không đào hầm. Tao đánh cho mi chết, hơn để Việt Cộng bắn vỡ sọ mi…!!”

Hùng nói những câu không bao giờ nói, Hùng đổi tánh một cách đáng ngại và thất thường…Điềm đi khuất. Chiến tranh thường có những sự kiện lạ như thế, người biết mình sắp chết và đổi tánh, biết mình sắp chết nên trối trăn. Hùng gọi máy nói chuyện với Liệu (y sĩ Tiểu đoàn) :

– Lấy được khẩu K 54 nào thì tôi cho ông.. Liệu ơi, sao moa nhớ mẹ moa quá, hôm ở Charlie về có được mấy ngày phép lại không đi thăm bà… Hết cuộc hành quân nầy moa xin Mê Linh vài ngày để đi Đà Nẵng… Còn 300 thước nữa là moa thấy cái nhà ở lúc nhỏ… Vì thế cứ nhớ bà già !!.

Thảm thương chưa, con chim kêu tiếng bi ai trước khi chết, con người linh thiêng hơn biết tìm chốn quê hương để đi về… Ngày 14-7 Hùng chết, chết cách sân ga 100 thước nơi thuở xưa Hùng đã nhiều lần đứng nhìn con tàu nám đen từ miền Nam đến mơ ước chuyến đi xa. Hùng đã đi xa, đi quá xa đến cuối trời miền Nam, Hùng đã đến hang sâu, núi thẳm của miền Trung và bây giờ Hùng đã trở về. Người tuổi trẻ đi hết đoạn đường khổ nạn của quê hương yêu quí, trở về chết tại nhà xưa.

Hùng chết Trinh nỗi điên dẫn đại đội đánh ngay vào nhà ga…7 giờ sáng ngày 15 Trinh đứng giữa sân ga vắng lạnh… Chẳng có gì cả. Mục tiêu ác liệt của 5 chiến trận là đây, giá mạng sống bằng hữu binh lính là đây, cái sân ga đổ nát bốc bụi mù dưới gió Lào hừng hực thổi.

– Xong rồi, tôi đến ga tiễn em rồi… Em đi rồi. – Trinh báo cáo với Tiểu đoàn đã chiếm xong mục tiêu.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù cũng vừa hết nhiệm vụ chỉ còn cái “củ khoai” ngã ba Lê Huấn và Quốc lộ 1. Thủng thẳng cũng được, Mễ nói với Thành bằng giọng nói ướt nhẹp. Mất Hùng “móm”, Mễ đau như mất một cánh tay– Một cánh tay nghĩa đen.. Rồi tiếp theo cái chết của Hébert, “Người bạn của lính Nhảy Dù” danh xưng của “ông già làm báo”, lính TĐ 11 đặt cho Hébert, 48 tuổi, 20 năm trong nghề theo Nhảy Dù từ KonTum vô An Lộc đến Quảng Trị. Không phải chỉ là lương tâm của một phóng viên, Hébert ở với lính Nhảy Dù như một người muốn chia chung khổ nạn.. Au diable le reste! Câu viết chưa ráo mực trên chiếc nón sắt của anh Trung sĩ Olesh đối diện với câu thơ “ngẫu cảm” của lính Dù “Quảng Trị buồn xơ xác bóng người đi” Mảnh đạn 130 ly chém đứt phần sọ, người phóng viên già ngã xuống mồm chưa dứt câu nói “Ce n’est rien mon docteur…” Ổng “đốc” là Liệu vừa chui kịp vào hầm

Trong vùng Cận Sơn

Trên nguyên tắc Tiểu đoàn 9 coi như trở lại với ông già – Lữ đoàn I Nhảy Dù – nhưng vùng trách nhiệm vẫn không xê xích một mảnh kể từ ngày đầu tiên nhận vùng. Nhiệm vụ cửa chàng là ở trong núi. Sư Tử ở núi là đúng. Ông Phú “Râu” hay Phú Cửu Long rất bằng lòng với những đứa con của mình. Moa phải rửa mặt cho Tiểu Đoàn mới được… Có gì cũng là Tiểu đoàn Nhảy Dù, bết hay không là do mình… “Cửu Long” Phú nói với tôi như vậy.

– Đây nầy một đêm nó hạ 15 xe tăng thì còn muốn gì nữa? Moa biết Đại đội Trưởng yếu, Thiếu úy con nít mới có hai năm quân vụ thì kinh nghiệm chiến trường ở đâu… Nhưng mình cứ theo dõi om nó từng điểm một, đặt nó ở cái thế đánh được thì nó đánh phải thắng.

Chiều xuống Cửu Long đi một đường Oral với các đại đội trưởng, bắt đầu từ anh yếu nhất…

– Gài lựu đạn, phục kích tự động chưa ?

– Dạ rồi.

– Đã xin yếu tố tiên liệu pháo binh cho cái thông thủy ở phía tây chưa ?

– Dạ rồi.

– Nếu tối nay có đánh giữa tôi và anh thì anh xử trí làm sao ?

– Dạ tôi cố tử thủ, nếu không được thì tôi men về phía Tây nơi ông Đường Tam Tạng (Sĩ quan ban ba, đại úy độc nhất của Tiểu đoàn thay Tiểu đoàn phó Nhỏ và coi Đại Đội tác chiến).

Nghe thấy thì buồn cười. Có Tiểu đoàn trưởng nào lại đi quay“vấn đáp” với Đại đội trưởng như vậy nhưng kẹt một điều: đại đội trưởng thực thụ rách áo hết chỉ còn trần xì dầu Thiếu úy. Thiếu úy cỡ Thiếu úy Thắng chưa biết “ấy” như thế nào!! Nhưng dù với giàn đại đội trưởng mỏng manh như thế, Tiểu đoàn vẫn gồng hết cỡ để giữ vững vùng trách nhiệm. Giữ thật chắc đến nỗi mỗi lần muốn đánh, lính cụ Hồ phải huy động tối thiểu chín vị trí súng cối 82 ly. Chỉ một giờ từ 17 đến 18 giờ chiều 9/7 Bắc quân đã rưới vô Tiểu đoàn 2000 quả đạn trước khi xua tăng leo đồi đánh “Cửu Long”, Đ…m hôm nay cho Cửu Long của tụi mầy về Nam! Lính ông Hồ đã nhất quyết vậy…

Nhưng dù bị pháo gần hai mươi vị trí, Cửu Long vẫn tìm cách chỉ định mục tiêu để phi cơ tiêu hủy.

– Bây giờ tôi bắn đạn lửa lên để anh biết vị trí tôi, xong tôi cho khoảng cách và hướng súng của tụi nó để anh dọn giùm.

– OK ! bạn ở đâu mà có phương pháp chỉ định mục tiêu hay quá vậy. – Dân tàu bay khen nức nở…

– Dân Hạ Lào mà bạn, không hay không sống được…

Tiểu đoàn 9 dùng hết mánh lới nhà nghề, áp dụng cả chục nguyên tắc tác chiến, những nguyên tắc của sách vở cùng nguyên tắc do “vợ con” dạy. Không học không sống được để về cùng. Ví dụ như châm ngôn đánh Tăng : “Không chắc không bắn. Chưa trúng chưa bắt, bắn trúng bắn bồi” . Phải áp dụng từng điểm một, trật một điểm là đi… đoong. Ví như đêm 6 tháng 7, 15 chiếc lên 5 phía, cứ 3 chiếc một xếp hàng ngang ùa vào… luống cuống chậm chạp một giây là tăng nó cán như con mực.

Khóa hết pháo vùng Tân Lê, Phước Môn thôn Đá Đứng, giữ cạnh sườn cho 11 và 7 Dù một lớp áo giáp “dầy cui” che hết vùng Nam Quảng Trị. Tiểu đoàn 9 Dù lấy lai phong độ sau một thời gian khật khưởng… Đất này hạp với 9 Dù, dân Quảng Trị hồi Mậu Thân đã giọt ngắn giọt dài khi đưa “en” vô Huế. Ba yếu tố, thiên, địa, người, có đủ, thắng trận là chuyện thường. Chuyện phải xẩy đến,

Đoạn đường cuối cùng

Quảng Trị coi như xong. Long Phụng, Lữ đoàn trưởng có thể phủi tay, hút con mèo, đánh bữa cơm rau đay cà ghém trong bình yên, nếu không còn “bàn cờ”, hay cái mâm, hay củ khoai hay cái… khốn nạn nằm sờ sờ trước mặt – Cổ thành, bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Trị. 500 thước mỗi bề dài, hai lớp gạch nung ép một khối đất dầy 5 thước, phía trong lại có thêm một hệ thống hào sâu… Ông Nguyễn Ánh hại “xếp” quá nặng… làm thế nào ? với ai và bằng gì ? B52 không được phép đánh, pháo binh không có hiệu quả… Long Phụng lại thấy ngày đi quá mau, gần đến ngày giao “nhà” lại, giao lại mà chưa dọn sạch thì coi không được, không thế nào được, chỉ còn một ngày nữa thôi… Quyết định, khẩu lệnh từ Trung tướng Đống đến Long Phụng chuyển liền cho Minh Hiếu (Tiểu đoàn 5) và 18 Đỉnh (Tiểu đoàn 6). Chỉ có một ngày thôi, một lần chót cho đời, phải dọn cho sạch, chấp nhận thiệt hại… lệnh được ngụy hóa cẩn mật trước khi Long Phụng cầm ống liên hợp chuyển bản văn cho Minh Hiếu và 18 Đỉnh – hai Trung tá thực thụ, chuẩn bị thành “anh Sáu” với một tương lai sáng như đôi “xì kít”.

Từ An Lộc trở về, Đỉnh người cứ phừng phùng như say rượu. Ông số một, Tướng Minh, Tướng Hậu đều hứa “thay lon cho em” . Nhưng một tháng hơn rồi, cứ đợi dài cổ, đợi và ngồi chơi xơi nước tà tà…Tiểu đoàn thuộc quyền Lữ đoàn. Từ ngày vào vùng chỉ cứ việc nằm dài và chịu pháo. Làm thế nào hơn được ? Trừ bị cho Lữ đoàn 3 đại đội trưởng sáng nhất thì một chết, hai bị thương ; giữ vị trí pháo binh thì bị pháo là cái vốn. Đỉnh ra vào phiền phiền dọc “phố” Hải Lăng. Tiên sư không có được chút thơm thơm để thở… đi đâu ngửi mùi chết đó. Đỉnh dẫn bộ tham mưu đi kiếm sách “Ăng Lê” để học cho đỡ dốt. Thôi thế thì tôi… thế thế thôi. Đỉnh áp dụng đạo “vô vi” trong những ngày nằm Hải Lăng nghe trên 7, 11 Dù cứ “mở sâm banh” liên tiếp.

Hiếu lại bực hơn nữa. Tiểu đoàn hàng đầu, Tiểu đoàn trưởng thâm niên nhất mà 3 tháng An Lộc không đánh được một trận cho đáng tiền, cứ “tử thủ” Cao Sơn (rừng cao su), Xa Cam đến độ trắng nhợt người ; ra đến Trị Thiên thì cũng chỉ việc nằm co chịu pháo. Không lẽ mình là nam châm hay sao mà cứ “hút” pháo thế nầy! Ngày 8/7 vừa đến La vang Thượng đã mười mấy con bị thương vì “cái khốn nạn”.

Nhưng 2 Tiểu đoàn không còn cơ hội để “sốt ruột”. Long Phụng đã hạ lệnh “Khôi Nguyên” (TĐ7) de lui một chút, Minh Hiếu (TĐ5) 18 Đỉnh (TĐ6) vào vùng và thanh toán cho xong trước ngày 26, cái “bàn cờ khốn nạn”, Tiểu đoàn 5 và 6 Dù nhập trận.

Từ Hảỉ Lăng, Đỉnh thúc thằng 1 (ĐĐ61) dẫn đầu dọc Quốc lộ 1 men theo củ khoai (chốt ngã tư của đại đội 114/TĐ11) đến ngã tư Quang Trung Duy Tân “bắt tay” Út Bạch Lan (Đại Đội 2 Trinh Sát) để bàn giao sổ sách, xong “oẳn tù tì” xem coi có thằng em nào muốn đi dọn nhà dọc đường Quang Trung.

– Tôi, Trung Tá cho tôi đi – Trung úy Tạo (đại đội trưởng 61) xung phong miễn phải bắt thăm.

Đỉnh hiểu ý„ ưng thuận ngay. Tạo thuộc khóa 9 Thủ Đức, Trung úy từ 1964, xuất thân Tiểu đoàn 6. Tạo cũng là Tạo “ đen” tay vô địch quyền Anh hạng lông của những năm 57, 58 ở Đà Nẳng. Tạo bị ra khỏi binh chủng vì cái máu thảo khấu Nhảy Dù của những năm 59, 60 là “kỷ luật thép” . Tạo đi khỏi binh chủng và tuyệt tích giang hồ… 1972 trở lại cấp bậc 10 năm trước. Và giờ đây Tạo phục hận, Tạo đã “rửa mặt” một lần ở An Lộc khi xung phong bằng lựu đạn chưa đủ, bây giờ Đại đội trưởng Tạo muốn chứng tỏ cho đời – ta không thường. Lon Trung úy mười năm đại nạn trời đã định, Tạo muốn cải số trời rửa sạch ngày tháng quân lao, phục hồi lại Tạo “đen” của mười năm trước. Nhưng đúng có một đinh mệnh, định mệnh khốn kiếp và khắc nghiệt. Tạo không thể tránh khỏi được, và cuối góc đường Quang Trung – Phan Đình Phùng, Tạo cùng hai Trung đội trưởng Mạnh, Trị chết ngay ở tuyến đầu, chết cùng khinh binh xung kích, chết trong thành phố lạ giữa một đống gạch ngói tan vỡ, chết trên đường đi xây dựng lại đời.

Đỉnh và Tùng (Tiểu đoàn phó) bỏ vị trí chỉ huy, tung bốn đại đội tác chiến ra khắp bốn hướng. Tránh được pháo và dọn thật sạch.. Tức rồi, thằng Út Bạch Lan một mình làm được không lẽ mình bi “quây” sao ? Muốn thế thì cho thế, thế nào cũng được, Đỉnh “Tapi” Bắc quân cạn láng qua mỗi căn nhà, mỗi thước đất. Mậu Thân, Đỉnh đã cùng Tiểu đoàn 9 đánh “sập tiệm” một Trung đoàn 812 tại thành phố này…

Tiểu đoàn 5 cùng Liên đội Biệt cách nhảy dù bước xa hơn đến Tri Bưu – Khu Công giáo thép, nơi người dân không nhượng bộ “lính ông Hồ”. Mậu Thân, Đại đội 94 của Thừa đã sống sót được là nhờ những người dân chỉ một lòng tin ở Chúa của thôn xóm này… Tiểu đoàn 5 vào được Tri Bưu tựa người vào bức thành đá tảng nầy tấn công ngược hướng Lê văn Duyệt, Duy Tân… Mỗi ngày thêm mỗi nhà – Tiêu chuẩn tác chiến của Tiểu đoàn.

Đánh thành

Hai mũi kìm siết chặt từ từ, chậm nhưng chắc, lính của 5 và 6 có thể thấy được từng viên gạch đen mốc của bức tường cổ. Thấy nhưng rờ và leo lên được là một chuyện khó – Chuyện rất khó, rất khó nhưng phải làm cho kỳ được.

6 giờ sáng ngày 25 tháng 7. Chí “bệu” sĩ quan ban 3 của TĐ 5 nói với Trọng Nhi (ban 3 Lữ đoàn) :

– Xong rồi, bây giờ mầy cho tao đi.

– Chút nữa thôi, trời còn mờ sáng, chưa có đủ nắng làm sao thấy đường được, hàng họ đầy đủ rồi chỉ còn chờ chút nắng thôi.

Chờ chút nắng, tối hôm qua trời lại mưa lất phất, hơi ẩm lạnh của đêm mưa chưa tan hẳn, lớp hơi nước bốc nhẹ trong không gian, lung linh trên phiến lá mít, đậm nhạt trên bức tường xám. Gió thổi từng cơn mang một vẻ ẩm ướt là lạ. Mùa nầy là mùa gió Lào, gió thổi từng chập ngắn, gió ào hơi lửa vào mặt, xoáy con “trốt” cát chạy lừng lững trên đồng cháy…

Sáng nay mặt trời chĩu nặng bất thường đè lên thành phố… Khói bốc mờ trời. Tố Quyên ngồi đợi giờ xuất quân phì phà tẩu thuốc ngồi “luận” vặt… Nhưng thật ra sau bề ngoài lừng lững lạnh lùng đó, Tố Quyên đang thiết kế, đang “đo” bề dày, độ cứng của bức tường, đang ngửi mùi hỏa tập tiên liệu cận phòng do 130 từ Đông Hà bắn xuống. Tố Quyên cũng đang nghĩ đến cái lầu nước, tháp canh bé con của Bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Trị mà giờ nầy là những “chốt” cứng với đại liên 50, 12 ly 7, yểm trợ thêm 75 ly không giật…

– Một rồi – Chí “bệu” báo cáo về Lữ đoàn khi phi tuần A37 đầu tiên chúi xuống…

Bom đánh ngay bờ thành bốc lên ngọn lửa vàng rực trộn khói đen tạt đến nơi đoàn quân đang chờ đợi… Nóng quá! nóng quá, như ai hơ lửa ngay mặt…

– Có vậy mới tốt! Tiếp đi Chí. – Quyền ngưng rung đùi, nhấc ống píp, nói với Chí câu độc nhất.

Khi Chí đếm được chữ thứ 7 thì Quyền bắt đầu xua quân vào chân thành. Hai đại đội 51, 54 bay qua mặt đường Lê văo Duyệt, Duy Tân, hai mũi giáp công bám bờ tường, theo gạch vụn leo lên… Người lính đầu tiên của ĐB 51 vừa nhú cái nón sắt lên khỏi mặt tường phải hụp đầu xuống lại. Đạn 12 ly7, 50 ly và mảnh 75 ly rơi như vãi gạo trên mặt thành.

– Bám mà lên từng thằng một, lợi dụng những nơi thành vỡ, lên được nằm xuống, đứng là chết. Nằm dựng “cột cờ” càng dễ…

Quyền khôi hài đen một phùa trước khi cất píp vào túi, chơi trò đánh đu với tử thần –Thành ngữ chính xác và sống động diễn tả đúng được một hoàn cảnh. Khi Chí nhìn được một hàng nón sắt và áo rằn ri bò lụp chụp trên mặt thành đổ nát thì đồng hồ chỉ đúng 10g15, Cổ thành Quảng Trị in dấu chân người Quốc Gia lần đầu sau ba tháng nằm trong tay giặc. Tại sao đối phương gọi ta là “Ngụy” ta lại không có quyền phản lại đòn mạnh hơn ? Chí “bệu” từ từ báo cáo, thằng cha nầy khi nào cũng rình rang như thân thể.

– Báo với Trọng Nhi là Tố Quyên, mớn được bờ thành rồi.

– Đưa nói chuyện Tố Quyên, Long Phụng vào máy gọi Tố Quyên.

– Bây giờ anh cần gì nữa không ? Phải dọn sạch tụi giặc cỏ, lên được đó là tốt nhưng phải diệt ổ trong mới đủ.

– Trình Long Phựug, trong nầy Tiểu khu toàn là nhà của Tây lúc xưa, pháo không có hiệu quả, xin cho bom, Napalm lại càng tốt, tụi tôi chưa đứng thẳng được.

– Có cho anh.

11g50 ba phi tuần phản lực đi một đường sát mái nhà – bom Napalm, chuỗi bom chụp một vòm lửa lên những tòa nhà Tiểu khu cách bờ thành không quá 50 thước. Hay quá, chệch một chút là mình bị “rô ti” chứ không phải tụi nó. Toán quân của hai Đại đội 51 và 54 cùng chung ý nghĩ khi nhìn những trái bom rơi từ từ vào mục tiêu. Sao cứ tưởng như chúng vào mặt mình! Chiến trường lặng tiếng súng trong 40 phút để thực hiện cuộc hỏa thiêu thành xưa.

Về phía Tiểu đoàn 6, Tùng chỉ huy hai đại đội 61 và 64 cùng ập vào chân bờ thành đá, góc đường Duy Tân và con đường hẻm sau đuờng Quang Trung. Vào, ra, vào rồi lại bị dội ngược… Lính Tiểu đoàn 6 đánh say sưa, lính mới, lính chưa biết sợ, lính của vụ “ào mội cái” qua Xa Trạch, An Lộc. Lính căng phồng trong hào hùng của đơn vị mang tâm trạng phục hận.

– Phải chấp nhận thiệt hại, bên Tố Quyên đã xong rồi, anh không làm được hay sao? – Long Phụng “Khích Tướng” Đỉnh.

Đỉnh chớp chớp đôi mắt có những hàng mi cong. Ba quân đang trông vào ta, Tố Quyên là đàn em mình! (Đỉnh khóa 15, Quyền khóa 16).

Đỉnh xin một đứa con của Mê Linh lên trám chỗ, đem thêm thằng 62 là hết Darvon lên tuyến đầu… Darvon là thứ thuốc an thần mạnh hơn APC. APC là tiếng lóng để gọi M113, Darvon là M48… Tinh thần hài hước của quân ta cũng tới nơi, tới chốn. Những chiếc M48 của Thiết đoàn 20 châu hết tất cả mọi nòng súng vào một góc thành bắt đầu nhã đạn. Cứ một chỗ đó mà thôi, quí vị “đục” hộ tôi cái lỗ, phía mình không có bom, chỉ trông vào quí vị… Chi đoàn trưởng chiến xa cũng không mong đợi gì hơn. Lần lui binh bất đắc dĩ của ngày đầu và cuối tháng 4 còn biểu hiệu đó, phải phục thù, chi đoàn chiến xa hung nhất miền Trung mà không đực nỗi cái thành cho nón Đỏ vào sao… Bắn ! 8 nòng súng cùng một yếu tố làm auto vào bức tường đen cứng lặng.

Lửa bom, đạn 105, đạn đại bác chiến xa cùng mở một lượt, khu Cổ thành không dứt tiếng động, lớp thành cứng rung rinh, mặt đất ầm ì như cơn địa chấn đang vào độ mạnh nhất. Hai gọng kìm siết từng nấc nhỏ, từng nấc chắc, từng nấc cứng. Những chiếc nón sắt xấn qua mỗi nấc một, đá vỡ, đất tan và bụi đầy… Bờ thành, bờ hào, sân gạch, căn nhà đầu tiên của Tiểu khu Quảng Trị hay của nội thành… Cắm liền một cây cờ, tìm chỗ dễ đễ móc đại lên, đừng đứng phất phất như thằng Tiểu Đoàn 6, nó bắn chết. Sĩ, đại đội trưởng 51 thúc người lính dựng ngọn cờ. Tố Quyên thấy được màu vàng tươi lẫn trong bụi mù, liên lạc máy với Minh Hiếu :

– Xong rồi, có thể cho thằng con của Liên đội Hổ Xám lên giúp một tay dọn cho sạch, nghề chính của tụi nó mà…

Biệt cách Dù bỏ ba lô tại tuyến xuất phát một hàng một, từng người, từng người lăn qua lỗ hổng của bức tường tan vỡ.

12g40, chỉ còn lại một vài tiếng súng rời rạc hoặc lựu đạn nổ bục bục từ những miệng hầm kín cửa… Giặc không chạy nỗi, không thể chạy lên biến thành những anh hùng chết, họ đã chết từ lâu, từ khi cái còng bóp vào cổ chân vang tiểng “tách” khô khan, bên cạnh khẩu đại liên 50 im lìm đen đúa, vật sẽ cùng họ đi hết những ngày chót của cuộc đời…

Mặt trận Quảng Tri của Lữ đoàn 2 Dù chấm dứt, những người hoàn tất trang chiến sử rực rỡ mang một dãy số liên tục. Từ khóa 14 đến 20 trường Võ Bị có một ngắt khoảng: Không có tham dự của khóa 17, riêng khóa 18 trong đó có tôi chỉ là kẻ nghe và thấy, một khách bàng quan – Xin niên trưởng và đàn em cho góp mặt chút nhỏ. Tố Quyên –Bùi Quyền, cựu Liên đoàn trưởng– chắc không nỡ từ chối như huấn luyện viên thể chất của mười năm trước xuống tay mở phúc cho chúng tôi “được” đi bộ miễn chạy từ vòng PRI về đến trường sau bài học đâm lưỡi lê… Lưỡi lê, vũ khí đánh cận chiến hào hùng không được dùng đến trong trận đánh ngày hôm nay – Đây là thời đại lựu đạn – Lựu đạn, vũ khí kinh khiếp còn hơn quả bom….

Phan Nhật Nam

User avatar
saohom
Posts: 2215
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by saohom »

MƯỜI TIỂU ĐOÀN BĐQ
THANH TOÁN XONG CHU PAO
KHÚC XƯƠNG KHÓ NUỐT

(Sao Bắc Đẩu)

Image
Chúng tôi ngồi bên bờ đường 14, con đường đã chôn xác hàng ngàn chiến sĩ VN, hàng ngàn lính BV. Hai chai rượu Martell của những thân hữu, những nhà phát hành sách báo VN, bị “ bẻ cổ ” rồi được chuyền từ tay này sang tay khác. Hai chai rượu này tôi tự ý trích ra trong số một thùng 12 chai được gởi đến Kontum, tặng những chiến sĩ tử thủ. Tôi nghĩ đã làm đúng ý những người bạn ở Saigon : đem 1 phút ấm lòng đến cho những người ngoài chiến tuyến dù họ đang ở Chu Pao hay ở Kontum.

40 người lính ngồi thành một vòng tròn, đường kính khoảng 15 thước. Chai rượu được rót vào cái nắp đậy, mỗi người một nắp. Câu chuyện cởi mở, thoải mải. Mọi người đều có cảm giác đã làm xong nhiệm vụ, xứng đáng thụ hưởng những phút nghỉ ngơi.

Ngoài đường, những chiếc xe hàng, xe đò ì ạch vượt quãng đường xấu, xấu vì bom đạn tàn phá, xấu vì trời đang mùa mưa. Những hành khách ngồi trên xe vẫy chúng tôi tíu tít, miệng la lớn: “cám ơn, cám ơn lắm”. Có người ném vào giữa “tiệc rượu” của chúng tôi một gói thuốc. Những người đầu tiên tái xử dụng đường 14 đều vui ra mặt, thương lính ra mặt. Những chiếc thiết giáp cháy đen, những quân xa lật chổng bánh rải rác hai bên đường đã là những chứng tích hùng biện nói lên với họ cái giá trị mà các đơn vị anh hùng đã phải trả để mở lại cho họ đường trở về tìm lại mái nhà ấm, tìm thửa vườn, khoảng sân mà hai tháng trước họ đã phải bỏ tất cả lại để chỉ chạy lấy thân.

Anh Thiếu úy Tám, Đại Đội trưởng Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 62 BĐQ khẽ nói :

– Có triệu bạc thưởng nào lớn hơn những phút này! Nhìn đồng bào trở về Kontum, mình thấy kết quả những việc làm của mình, những hy sinh của mình như được cụ thể hóa.

Đại tá Đương, chỉ huy trưởng BĐQ Quân Khu II gật gù :

– Chu Pao quả là một khúc xương khó nuốt, hai tháng trước, đọc Diều Hâu, các anh nêu lên tính chất quan trọng của Chu Pao mình cũng chỉ biết vậy. Bây giờ mới thấy thấm thía đúng : không giữ Chu Pao không giữ Kontum được.

Sương mù và những trận đánh lựu đạn

Thiếu Tá Đồng Đăng Khoa, Tiểu Đoàn trưởng 71 BĐQ lắc đầu, rùng mình khi nhắc lại hình ảnh hãi hùng của những trận cận chiến :

– Chúng tôi thanh toán mục tiêu bằng lựu đạn. Đánh từng hầm, từng hầm một. Không có cách nào khác hơn để làm im tiếng súng của những đám xạ thủ đã bị xiềng chân vào hầm.

– Sao các anh không chụp hình ? Tổng Cục CTCT đang treo giải thưởng cho những người chụp hình lính BV bị xiềng chân.

Anh Jean, một HSQ lai Pháp 75 phần trăm lắc đầu :

– Nội việc chặt chân cái xác chết ra để kéo súng xuống núi cũng đã khó khăn lắm rồi. Địch quân phối trí hầm của chúng thành hình chữ V, hầm này yểm trợ cho hầm kia. Tử thần hẹn gặp chúng tôi ở khắp 4 phía và bất cứ lúc nào. Thì giờ đâu chúng tôi nghĩ đến chuyện chụp hình nữa ?

Tôi nhìn lên những đỉnh Chu Pao, Chu Thoi ngán ngẩm :

– Leo được lên đó và leo dưới hỏa lực của địch quân thật không phải là chuyện đi dạo.

Đại Úy Lê Thiên Phong, Tiểu Đoàn trưởng 62 BĐQ gật đầu xác nhận :

– Cam go lắm anh ạ. Nhưng cũng may lúc này có sương mù buổi sáng. Sương dày đặc đến mức cách nhau khoảng 10 thước là không nhìn thấy gì nữa rồi. Anh có để ý tất cả xe đang chạy ngoài đường đều mở đèn không ? Cũng nhờ sương mù mà chúng tôi bò lên đánh được những vị trí súng của địch.

Tôi nghĩ đến những buổi thuyết trình mà tôi được nghe tại một vài bộ chỉ huy lớn : yếu tố thường được người ta nhắc nhở đến là B52, là bom CBU, là tia sáng laser v.v… nhưng rồi rốt cuộc, bên những chiến cụ tối tân đó, lòng can đảm và tài thiện chiến của người lính BB vẫn là yếu tố quyết định.

Tôi hỏi :

– Giá trị tác chiến của quân lính BV thế nào ?

Đại úy Phan Thới Bình, người anh hùng của những trận Lệ Khánh, Chu Pao lắc đầu.

– Đại khái cũng thường thôi. Điều này tưởng cũng dễ hiểu: lính BV đã đánh trận nào chưa mà thiện chiến. Trong khi đó thì lính mình đánh năm này sang năm khác. Tôi nghĩ nếu không bị cầm chân trong những vị trí cố định, bất lợi, quân đội mình đã giải quyết xong trận Tổng tấn công này từ lâu rồi.

Đại Úy Bình là trong những sĩ quan thăng cấp nhanh nhất trong quân đội. Từ Thiếu úy, anh lên Đại úy chỉ trong vòng 24 tháng và tất cả những cấp bực này anh đều thăng đặc cách tại mặt trận.

Anh tiếp :

– Núi non trùng điệp như thế kia, nếu lính BV chỉ khá thôi chứ đừng nói giỏi thì những đơn vị BĐQ chúng tôi cũng không lên được rồi.

Tôi đã chứng kiến những lần đánh Chu Pao trước và đã có lần tôi tường thuật lại những trận đánh đó. Hàng trung đoàn BB có chiến xa yểm trợ, từ phi tuần này đến phi tuần khác tiếp tục đánh và cả B.52 nữa, nhưng cuối cùng mọi người đành nhìn nhận rằng Chu Pao quả là khúc xương khó nuốt.

Đại Tá Đương chỉ cho tôi thấy một vết mẻ trên phiến đá lớn gần đấy rồi nói:

– Bom B52 mà chỉ làm “trầy” sơ sịa hòn đá như vậy thì mong gì dùng bom trục chúng nó ra khỏi hầm được. Chúng tôi đánh bằng lựu đạn đánh từng hầm một.

Anh Thiếu úy Sơn, tiền sát viên Pháo binh cho thêm một chi tiết:

– Hầm hố ở đây, địch quân đều đào theo kiểu hầm Triều Tiên. Bom hay đại bác có đánh trúng ngay trên hầm mới có kết quả. Đánh bên cạnh thì kể như huề.

Một người sĩ quan anh hùng trong quân đội BV

Trong lúc anh Sơn đang loay hoay vẽ bằng dao găm kiểu hầm Triều Tiên trên mặt đất cho tôi xem thì anh Thiếu úy Tám vẻ mặt trầm tư bảo tôi:

– Khi nãy Đại úy Bình nói rằng giá trị chiến đấu của lính BV rất tầm thường. Tôi hoàn toàn đồng ý. Có thể nói rằng họ nhát nữa. Nếu không bị khống chế chặt chẽ, bị xiềng chân v.v.. chắc họ đã bỏ chạy từ lâu. Tuy nhiên theo tôi thấy thì đó chỉ là nhận xét chung. Trong cái quân đội tầm thường đó, cũng vẫn có người khá.

Đại úy Bình cười chúm chím (khá có duyên).

– Chắc mày muốn nói trường hợp của anh Thiếu úy Phạm văn Đôi ?

Tám gật đầu. Anh tiếp tục nói với tôi, người độc nhất không biết những chuyện mà quanh “bàn tiệc ” này ai cũng biết rất rõ :

– Anh Đôi là một Thiếu úy trẻ, tốt nghiệp trường Võ Bị Lục Quân Hà Nội năm 1968. Anh ta chỉ huy một trung đội trấn giữ ngọn đồi trọc mà anh thấy cao chót vót kia cà (vừa nói Tám vừa chỉ cho tôi thấy ngọn đồi). Sương mù ôm kín ngọn núi nên lúc chúng tôi bò lên đến tận nơi, đánh rồi, lựu đạn nổ rồi anh mới bắt đầu tìm cách kháng cự. Dĩ nhiên là đối với những người lính BĐQ quen tốc chiến để giải quyết chớp nhoáng chiến trường thì cái phút hạ phong đầu tiên của đơn vị BV đã đặt họ vào tình trạng không gỡ được nữa. Trên mỗi miệng hầm đều đã có một người lính Biệt Động. Tất cả lựu đạn nổ gần như cùng một lượt. Sau loạt tiếng nổ này, sức chiến đấu của Trung đội BV chỉ còn bằng một phần mười so với giá trị tác chiến của chính đơn vị họ, một phút trước. Những tiếng rên siết cả những tiếng van lơn nữa nổi lên khắp nơi, nhưng theo lệnh tôi, Đại đội 2/62 BĐQ vẫn núp kín vào những ghềnh đá. Kinh nghiệm chiến trường làm chúng tôi hiểu rằng dù có đánh tàn nhẫn cách nào, đánh bất ngờ cách nào, chúng tôi cũng không thể tiêu diệt 100 phần trăm quân số địch ngay trong đòn đầu. Thế nào cũng có những chú bận đau bụng, bận xuống suối múc nước v.v… và nhờ vậy mà sống sót. Người sống sót trong trận đánh lựu đạn này lại chính là Thiếu úy Đôi, Trung đội trưởng. Trong lúc sơ ý, chúng tôi không thấy hầm của anh, đào hơi xa những hầm khác.

Chúng tôi núp khoảng chừng 1 phút thì nghe tiếng đại liên “quạt” ào ào trên đầu. Nhưng, như anh thấy quanh anh đó, trọng những ghềnh đá này, bom đạn không giết người. Điều đó là sự thật đối với những người lính Bắc Việt cũng như đối với chúng tôi. Ngồi an toàn dưới một tảng đá lớn, tôi lấy tất cả thì giờ cần thiết để quan sát hầm đại liên của địch và những lối di chuyển có thể đưa chúng tôi đến miệng hầm. Một phút sau, chúng tôi đã đứng trên đầu anh Đôi (dĩ nhiên khi đó chúng tôi không biết người xạ thủ đại liên phía dưới là 1 sĩ quan BV) Chúng tôi chờ 1 quãng ngừng của tràng đạn để lên tiếng gọi anh đầu hàng. Binh sĩ đã hành động như thường lệ cho địch quân một giới hạn thời gian và bảo cho bọ biết trước là sau khoảng thờỉ gian đó nếu họ không ném vũ khí ra, đưa cao tay lên đầu và bước ra khỏi hầm, lựu đạn sẽ ném xuống.

Chúng tôi chờ đợi. Một người lính ĐĐQ đếm những giây chót trong cuộc sống của anh SQ Bắc Việt.

– … Bẩy, tám, chín…

Miệng đếm, tay người lính mũ nâu đã cầm sẵn một quả lựu đạn rút chốt nhưng anh chưa kịp xử dụng thì một tiếng nổ rung chuyển đã vang lên. Căn hầm dưới chân chúng tôi bốc khói mù mịt. Trên miệng hầm một anh lính BĐQ khác bị miểng văng trúng bị thương nhẹ.

Tôi nhìn kỹ vào hầm quan sát. Nhất định sau một tiếng nổ như vậy bên trong hầm kín không thể còn một sinh vật nào nữa cả. Tuy vậy, khi tiến vào hầm, chúng tôi vẫn dè dặt. Trước mắt tôi, anh quân nhân BV với quân hàm Thiếu úy trên cổ áo nằm sóng soài, ngực vỡ ra vì bị phá bởi sức nổ của quả lựu đạn mà chính anh đã xử dụng : anh tự tử để không bị bắt.

Nghe xong câu chuyện khá dài tôi nhắp một nắp Martell, kết luận.

– Ít nhất, đó cũng là một người có liêm sỉ.

Đại úy Phong :

– Và là một thi sĩ nữa. Trong túi anh, ngoài những tài liệu quân sự, chúng tôi còn tìm thấy một tấm ảnh chụp chung với một người đàn bà (có lẽ là vợ anh). Mặt sau có 2 câu thơ :

Ngày nào trái đất còn quay
Trái tim còn đập, tình nầy còn yêu.

Sau khi Đại úy Phong đọc xong 2 câu thơ nói lên tâm sự của một người lính xa vợ, tôi chợt nghe không khí quanh “bàn tiệc” như nặng hơn. Chai rượu cạn cũng được chuyền tay với nhịp độ mau hơn. Mọi người đều như muốn quên thật nhanh việc mà chính mắt họ đã chứng kiến 48 giờ trước.

Tôi hiểu. Những người lính mũ nâu, mũ đỏ, mũ xanh v.v… là những người lính có giá trị chiến đấu cao nhất của quân đội VN. Họ có thể lăn vào thanh toán khẩu đại liên đang khạc đạn ngăn cản bước tiến của họ. Họ có thể, họ đã và hiện nay họ vẫn còn đang chịu đựng hàng trăm ngày dài chiến đấu gian khổ, thiếu thốn, nguy hiểm, cam go mà không hề hé răng than phiền nửa lời. Nhưng họ cần một điều: đối tượng trước mặt họ phải là một khuôn mặt độc ác gian manh, ghê tởm v.v … chứ đừng là một người lính cũng biết yêu, biết nhớ vợ như họ.

Nhìn 40 khuôn mặt đen sạm vì mưa nắng cao nguyên bỗng nhiên tôi không còn thấy cái góc anh hùng gan lì của họ nữa. Tôi thử hình dung những người đàn bà sau lưng họ, những đứa trẻ quấn quít bên chân họ. Cái việc vận dụng trí tưởng tượng này không đòi hỏi tôi phải cố gắng một chút nào cả. Tôi biết họ quá nhiều, tôi biết những trại gia binh bẩn thỉu, không ngân khoản bảo trì, tôi biết những đám tang lạnh lẽo, những vành khăn sô đơn côi. Qua tất cả những cái biết đó, đang thấm thía hiểu phút khó chịu của những thiên thần mũ nâu trước cái chết của một người lính địch.

Tôi nhớ lại một câu nói của người lính già tên tuổi : Thống tướng Mac Arthur. Nguyên văn câu nói như thế nào, tôi không lập lại thật đúng.

Tôi chỉ xin viết đại ý của vị danh tướng này:

– Trọn đời sống trong quân ngũ vậy mà vẫn có một việc tôi không tài nào hiểu được : Đó là sức chịu đựng của người lính Bộ Binh. Anh ta di chuyển, mang theo trên lưng tất cả tài sản: Nhà bếp, nhà thương, phòng ngủ, tâm tư v.v… Anh tiến lên mặt trận hay từ mặt trận trở về thì mỗi ngày 24 giờ, giờ nào cũng có thể là giờ hẹn gặp của anh với tử thần. Nếu anh chưa gẫy gập xuống, quả là một phép lạ.

Người lính BB mà Thống tướng Mac Arthur mô tả là người lính BB Hoa Kỳ. Trên lưng người lính VN còn biết bao nhiêu gánh nặng nữa : Sự bất tài của những cấp chỉ huy, thăng thưởng thuyên chuyển qua ngã mua quan bán tước, sự trống vắng của đơn vì nạn lính kiểng, lính ma, sự thiếu thốn một hậu phương thật tình thương yêu, cảm thông với tiền tuyến.

Với tất cả những sức nặng đó trên lưng người lính VN vẫn đang làm được cái công việc mà 2 tháng trước đây không ai tin rằng họ làm nổi: đập vụn thành từng manh mún nhỏ đạo quân viễn chinh BV được trang bị mạnh hơn họ, được chiến đấu trong những điều kiện lợi hơn họ.

Trước sự chịu đựng anh hùng đó, người ta chỉ còn một việc để làm: Ngả nón bái phục.

Sao Bắc Đẩu

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by khieulong »

Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Bùi Đức Tính

Image
Tháng bảy. Mùa hạ. Cali đầy nắng ấm!
Vancouver, Canada, cũng có Little Saigon.

Little Saigon ở Nam Cali có khác hơn, có nhiều thứ về Sài Gòn mình, có khách sạn mang tên Little Saigon, và Little Saigon ở Cali rất… Sài Gòn!

Nắng hạ Cali năm nay hơn cả nắng ấm. Nắng gay gắt, hừng hực hơi nóng của sa mạc. Sáng sớm, cái nóng đã oi nồng trong không khí, trong hơi thở. Mới 5 giờ sáng, bên ngoài phòng trọ đã có tiếng ồn ào. Tiếng xe rời khách sạn, tiếng người ta rôm rả chào gọi nhau ngoài sân, tiếng bạn bè rù rì tâm tình với nhau, khi ngồi hút thuốc lá, trên các băng ghế dọc hành lang… Quanh đây, nghe người ta nói với nhau bằng tiếng Việt, hầu như hoàn toàn nói tiếng Việt Nam, nghe rất là Việt Nam; lắm lúc, cứ tưởng như mình đang ở Việt Nam và… rất nhớ Việt Nam!

Cali, Little Saigon, dễ làm khách ly hương từ nơi phương xa về đây, thêm xao xuyến, nhớ về nơi mình đã phải ra đi. Nhớ thương ray rứt và ước mơ một ngày về. Mơ ước dài hơn 40 năm nay: Mơ một ngày về thăm lại Sài Gòn, thăm lại quê hương sạch bóng cộng thù.

Cho dù người ta có lịch sự giữ ý tứ đến mấy, những âm thanh thân thuộc ấy, cũng dễ dàng đánh thức người lạ chỗ và lạ giường, làm trăn trở giấc ngủ vốn ngắn ngủi, khi tuổi về già. Trăn trở gợi dậy nỗi nôn nao chờ sáng, để được gặp lại bạn bè. Bạn bè mình đây, những chàng trai trẻ cùng trang lứa; từ thời còn hồn nhiên, chân bước thênh thang trong tuổi học trò, thời “Học Sinh” của Huy Cận:

“Họ sống bình yên, bước lặng thinh.
Không nghe hoa bướm gọi bên mình.
Hừng hờ đi giữa hương yêu mến
Chân bước chưa khi rộn ái tình.

Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,
Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ!
Một hôm trận gió tình yêu lại
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.”

Vậy đó, biết bao tuổi trẻ đã lớn trước khi “tuổi hai mươi đến”.

Họ lớn thật nhanh!

Họ lớn, khi đoàn quân xa chạy lên đồi Tăng Nhơn Phú, đưa họ cùng bạn bè vào bên trong Cổng Số Một, của trường Bộ Binh Thủ Đức. Họ vụt lớn, trong tiếng hô đón chào đầy tình huynh đệ của Huynh Trưởng: “Chào mừng Đàn Em!”

Đoạn đường chiến binh đầu đời, trên chiếc quân xa đưa vào quân trường, thật êm đềm, lướt qua phố phường bình yên, thanh thản; nhưng qua đi nhanh chóng quá. Mới đấy, trong phút chốc, tất cả an vui, hồn nhiên của tuổi trẻ đã tan biến; còn lại là ngỡ ngàng, ngơ ngác. Từ Sài Gòn lên Thủ Đức, chỉ một đoạn đường ngắn hơn mười cây số; bây giờ sao cách xa quá. Trên đây, trên đồi Tăng Nhơn Phú, thơ mộng chỉ còn trong mộng mơ. Một thời tuổi trẻ “sống bình yên, bước lặng thinh” bên áo tiểu thư, trong phố phường với những chiều nên thơ…. Tất cả, giờ chỉ còn là những ngậm ngùi, xa vời. Tất cả, đã xa cách bên ngoài cổng quân trường.

Cái gì đó trong không gian, vô hình nhưng hiện hữu, làm ngàn con tim của tuổi trẻ đứng nghiêm đây mà sao lao chao, rung động. Đàn Em thừa hiểu:

Hết rồi, thời của chàng tuổi trẻ với những hứa hẹn, hẹn hò!

Hết rồi, tuổi học trò với thơ mộng, mộng mơ!

Bóng mát và hàng bã đậu bên Vũ Đình Trường, trông giống như những cây bã đậu trên con đường học trò; nơi tuổi mới lớn lãng mạn khắc tên, với yêu thương và hứa hẹn. Thế nhưng, tuổi trẻ không còn thời gian và tâm trí, để bồi hồi ngắm nhìn hàng cây tình tứ, để “đứng ngẩn trông vời áo thư”. Thời khắc này, tuổi trẻ chỉ còn biết đứng ngẩn ngơ, nhìn các Huynh Trưởng của mình mà hồi hộp chờ lịnh.

– Thao diễn… Nghỉ!

– Nghiêm!

– Đàn Em… CHUẨN BỊ?

– …. sẵn… sàng!

Tuổi học trò, học chữ đầy cả trang sách. Thế nhưng, chỉ có hai chữ “sẵn sàng” quen thuộc, từng nghe, từng nói; vậy mà Đàn Em bỡ ngỡ, lập bập, rời rạc, đứa nói trước, đứa hô sau. Càng lúc, Đàn Em càng thấy mình vụng về, từ bước đi, cách đứng; ngỡ ngàng tập nghe và ngơ ngác tập nói, sao cho vừa ý Huynh Trưởng.

Huynh Trưởng chỉ huy thất vọng:

– Huynh Trưởng chưa nghe!

Như nhận được lịnh, toán Huynh Trưởng hướng dẫn, đang đứng ngoài hàng, ào ạt ùa vào, thi nhau rầy rà, nạt nộ rối rít. Mấy câu ngắn, nghe tương tự như nhau, nghe vang dậy khắp Vũ Đình Trường:

– Đàn em còn yếu đuối quá!

– Yếu đuối quá, mấy “ÔNG”!

– Hô lớn lên coi, mấy “ÔNG”!…”

– …!

“ÔNG”!… “ÔNG”!… “ÔNG”!… “ÔNG”!…

Đàn Em nghe quanh mình ồn ào, căng thẳng, kinh khiếp. Khi thì mình bị gọi là “Đàn Em”, khi thì được gọi thành “Ông”! Thế nhưng, chữ “ÔNG” của Huynh Trưởng, thật sự, không hề làm cho các “ÔNG” tuổi trẻ trong hàng, thấy tự hào hãnh diện vì mình được gọi là “ÔNG”! Trái lại, nó làm cho lớp da mặt thư sinh của tuổi trẻ thêm đỏ hồng, xấu hổ.

Thật vậy. Đàn Em thất vọng với chính mình!

Đàn Em đứng yên nhận trách nhiệm.

Tiếng la rầy của Huynh Trưởng, mỗi người một câu, dồn dập, ồn ào, ào ạt rồi im bặt. Vũ Đình Trường lặng im.

– “Hô LỚN lên!”

Huynh Trưởng căn dặn, rồi nghiêm nghị nhìn khắp Đàn Em:

– Đàn Em… CHUẨN BỊ?

– Sẵn sàng!

Tiếng đáp “Sẵn sàng!” của đàn em gọn gàng, rõ ràng hơn. Đàn em mỉm cười, khi nghe được tiếng hô của mình có đồng loạt với bạn bè. Thế nhưng, niềm vui và tự hào mới chợt nhúm nhóm đã bị tắt lịm nhanh chóng. Tiếng Huynh Trưởng chậm mà lạnh lùng:

– Huynh. Trưởng. CHƯA. NGHE!… HÔ LẠI!

Đàn Em im lặng, nhìn nhận ra rằng: mình chưa thật sự sẵn sàng!

Đàn Em đứng yên chờ đợi, như những thân cây bã đậu trên Vũ Đình Trường.

Vũ Đình Trường lại im lặng, chờ đợi.

Vũ Đình Trường ngột ngạt.

– Thao diễn… Nghỉ!

– NGHIÊM!

Tiếng hô “Nghiêm!” từ xa, mà nghe như Huynh Trưởng đang đứng bên cạnh Đàn Em, như “đường kiếm thép oai hùng đưa”!

– Đàn Em… CHUẨN BỊ?

– SẴN SÀNG!

Vũ Đình Trường bất chợt bừng bừng vang dậy tiếng hô “SẴN SÀNG!”

Đấy!

Thế đấy!

Chữ “SẴN SÀNG” thật cao cả của người lính!

Tuổi trẻ đã học được bài học vỡ lòng, hiểu được ý nghĩa của hai chữ “sẵn sàng” và thật sự sẵn sàng.

Đàn Em sẵn sàng theo bước Huynh Trưởng.

Một. Hai. Ba. Bốn…

Rập. Rập. Rập. Rập….

Đàn em chạy theo nhịp đếm của Huynh Trưởng. Một vòng rồi lại nối tiếp thêm một vòng. Thêm mỗi một vòng, Vũ Đình Trường rộng lớn thêm, mênh mông hơn, và… thấy mờ mịt hơn. Chân rã rời. Chạy hoài, vẫn còn nghe Huynh Trưởng đếm nhịp. Tuổi trẻ thở dồn dập, áo quần xốc xếch. Tuổi trẻ lếch thếch, thê thảm, ráng sức chạy theo các Đàn Anh. Không mấy chốc, tuổi trẻ lao chao, lần lượt nghiêng ngả, nằm dài trên lớp sỏi của Vũ Đình Trường hay tơi tả bên những chiếc lá bã đậu rơi rụng dưới hàng cây….

Vũ Đình Trường bụi tung mịt mù. Tiếng chân, tiếng đếm nhịp, tiếng thúc dục của Huynh Trưởng vẫn còn vang dậy…

Một… Một… Một. Hai. Ba. Bốn….

Rập. Rập. Rập. Rập….

Tuổi trẻ yếu đuối, té ngả, nhưng quyết không ngã lòng!

Đàn em đã sẵn sàng nhận Trách Nhiệm!

Đoạn đường chiến binh chỉ mới là khởi đầu!

Màu học trò, không mấy chốc được nắng Vũ Đình Trường nung cháy đỏ, rồi sạm đen. Tuổi trẻ không còn tâm trí để mơ làm học trò, sống bình yên, bước lặng thinh để nghe hoa bướm gọi bên mình. Họ tập làm quen với tiếng còi rối rít, thúc dục gọi vào hàng, với tiếng đối đáp dõng dạc, sắc gọn, với bước chân dài hiên ngang theo nhịp. Áo tiểu thư, bấy giờ, chỉ còn được “đứng ngẩn trông vời” trong Khu Tiếp Tân, vào ngày Chủ Nhật, khi không được về phép cuối tuần.

Vậy đó, bỗng nhiên mà họ lớn!

Chiến trường khốc liệt không mấy chốc đã vùi chôn biết bao tuổi trẻ can trường. Và rồi, dòng đời nghiệt ngã lại dần dà cuốn đưa bạn bè mình xa cách, sớm về nơi an nghỉ sau cùng.

Thời gian qua mau. Thấm thoát, đã gần 50 năm, sau ngày Mãn Khóa!

Những người may mắn còn sống sót và tìm được nhau, cùng trở về đây, để thăm chào nhau. Có nhiều người vì hoàn cảnh riêng tư, đã không về hội ngộ như mong ước của chính mình và bạn bè.

Hôm nay, ngày Hội Ngộ!

Sáng sớm, bạn bè từ xa về, ở cùng khách sạn, hay khác khách sạn, hoặc ở đâu đó trong thành phố; không hẹn hò, đều lần lượt gặp nhau ở quán ăn, trong khu phố gần bên. Bên ly cà phê sáng, khói thuốc, tiếng cười, gọi nhau “mày-tao” sang sảng, như thời còn trai trẻ. Câu chuyện xưa và nay, chen nhau không dứt, tiếp nối mãi, cho đến khi phải đi đến nhà hàng để tham dự tiệc Hội Ngộ. Được gặp lại nhau, niềm vui còn được gặp lại, xúc động chan hoà. Mừng được thăm chào những đàn anh còn sức khoẻ, trở về cùng chung vui Hội Ngộ với đàn em. Mừng được nhìn thấy nụ cười thân tình rạng rỡ của bạn bè. Mái tóc bạc màu vẫn bạc màu.

Có trở về đây hội ngộ mới càng thấy tình đồng môn, tình chiến hữu vô cùng đậm đà và thật cao quý. Về đây, để thấy thật ấm lòng khi chứng kiến các thế hệ con cháu: với tuổi trẻ, vẫn nhiệt tình tham dự ngày Hội Ngộ của những người đã không còn trẻ tuổi.

Vâng, mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây!

Hãy còn đó niềm tin nơi thế hệ trẻ!

Một!

Hai!

Ba!

Bốn!

Một. Hai. Ba. Bốn!

“Cất tiếng lên nào hòa thành bài ca vui tươi.
Nắng sớm chan hòa gieo hương khắp bốn phương trời.
Người người cùng đón gió mới.
Nụ cười đẹp tươi trên môi.
“Cư-An Tư-Nguy” muôn đời còn ghi….”

Hội trường bất chợt bừng bừng sống dậy với Thủ Đức Hành Khúc. Tiếng hát cất vang, như một thời thao trường đổ mồ hôi. Như ngày nào trên đồi Tăng Nhơn Phú, Vũ Đình Trường đã từng rập rập rùng, rung chuyển với những bước chân của tuổi trẻ. Đàn anh trong tuổi 70, 80 rời chỗ ngồi, bước lên, sát vai cùng đàn em, cất cao giọng hát đầy hào hùng. Nhịp quân hành dồn dập, thôi thúc nhiệt huyết của một thời tuổi trẻ.

“…Theo tiếng quân hành trầm hùng đoàn quân vui ca.
Nắng sớm chan hoà gieo hương khắp trên muôn nhà.
Nào “Đồi Mười Tám” tiến tới.
Kìa “Mẹ Bồng Con” chơi vơi.
“Hai Lăm”, “Ba Mươi” lưu dấu ngàn đời.”
“Ta đoàn trai Việt hồn dâng non sông.
Gió sương không sờn lòng trai Tiên-Long.
Cất tiếng hát vang khắp trời.
Với chí lớn ta xây đời.
Hẹn ngày mai quê hương thắm tươi
…”

Đàn Em có “yếu đuối” thật, nhưng nhận hiểu Trách Nhiệm, biết theo gót chân của Huynh Trưởng để trưởng thành và hãnh diện quỳ xuống, nhận “Alpha” trên vai áo, từ Huynh Trưởng.

Và rồi, tuổi trẻ đã đứng dậy, hiên ngang trong quân phục Đại Lễ.

Đàn Em được rời Trường Mẹ.

Đàn Em đã sẵn sàng!

Tuổi trẻ đã thật sự trở thành người lính!

Người lính mang giữ lời thề: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.

Người lính già giặn hơn, già đi thật nhanh trong khói lửa, qua chiến trận.

Người lính già trở thành gan lì hơn, chai đá hơn, trong các trại giam gọi là “cải tạo” của cộng sản.

Đoạn đường chiến binh bất tận!

Tuổi trẻ biết xót xa mất mát bên thi thể không vẹn toàn. Và tuổi trẻ đã biết đến cái đớn đau thật tột cùng, khi mất cả quê hương!

Ngay sau khi cưởng chiếm trọn vẹn Việt Nam, những kẻ xưng danh là “giải phóng” đã nhẫn tâm xua đuổi tất cả thương binh của quân đội miền Nam, bất kể tình trạng thương tích, đều phải rời khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, ngay trong ngày. Tàn nhẫn nhất là đối với các người lính miền Nam bị thương trầm trọng. Lắm người, vết thương còn máu chảy rỉ ra ngoài, cũng phải chịu đau đớn, lê lết ra cổng bệnh viện, mặc cho bông băng, quét bê bết trên đất bùn dơ bẩn…

Những cảnh tượng thê thảm, xúc động lương tâm nhân loại. Thế nhưng, quá bình thường, đối với đội quân đã từng theo lịnh đảng, thi hành các cuộc đấu tố và hành quyết dã man, như “Cải cách ruộng đất”, Thảm sát Tết Mậu Thân…. Những kẻ đã từng tự hào hát bài quốc ca với lời thề man rợ: “thề phanh thây, uống máu quân thù”, đã thuộc nằm lòng lời thơ khát máu của Tố Hữu:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”

Người sống, sống lây lất không yên thân. Người đã chết, chết cũng không yên phận. Bia mộ của các quân nhân thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắn phá, hủy hoại. Di tích mộ phần và nghĩa trang quân đội ở miền Nam, bị xóa bỏ bằng các cách man trá, hèn hạ. Ngày nay, Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa phải mang các thứ tên gọi khác, như nghĩa trang nhân dân Bình An, hay nghĩa trang Bình An, nghĩa địa Bình An…

Với bạo lực, quân cộng sản đã chiếm được đất nước và khủng bố kềm kẹp nhân dân. Thế nhưng, chế độ bạo tàn sẽ không bao giờ chiếm giữ được lòng người. Tình cảm của người dân và lịch sử vẫn muôn đời ghi ơn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: đã vì nước hy sinh.

Tuổi trẻ hãnh diện được làm Đàn Em của những bậc Huynh Trưởng anh dũng, can trường trong chiến trận, và đã nêu cao gương bất khuất, đã tuẫn-tiết khi miền Nam bị quân cộng sản cưỡng chiếm, như Thiếu-tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư-lệnh Quân-đoàn IV và Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng, Tư-lệnh phó Quân-đoàn IV.

Và cho dù chế độ cộng sản có san bằng đồi Tăng Nhơn Phú, sẽ vẫn còn vang vọng tiếng hô “Sẵn Sàng!”, của các thế hệ Đàn Em. Tiếp nối Khóa 5 Vì Dân của Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, đã có Đoàn Hậu Duệ Vì Dân.

Vũ Đình Trường!

User avatar
nangchieu
Posts: 2061
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Image

Đôi Mắt Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, và ranh giới giữa sống – chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc tránh hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cữu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh

Post Reply