QUÁN BIÊN THUỲ

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nguyenthanh »

Image

Viết về người lính VNCH bất hạnh

Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250,000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremberg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật... Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50,000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời Tử sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của kiếp lính Miền Nam.

Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố, kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội... cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Adams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.

Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.

Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddie lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’m so, so, so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐND, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).

Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng ‘rằng’ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọc, phá hoại những người đang liều mạng xả thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da sáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước cộng sản, trong đó có CSVN.

Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, giun đất, cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:

“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn”.

(thơ mường giang).

Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô nhi Tử sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày thê thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát, Trường Ðại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:

“... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...”

(Chinh Phụ Ngâm: Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

“... tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy

chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô”

(thơ Mường Giang)

Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
Mường Giang

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by khieulong »

Image

Người Pháo Thủ Thủy Quân Lục Chiến trong cuộc chiến 1972
Giang Văn Nhân
Hồi Ký Người Lính Tổng Trừ Bị

-Nam Giao đây 21, 4900 cho gần lại 50 thước.

-21 đây Nam Giao, nhận 5/5

Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng khung cảnh trong Cổ Thành, vị trí chốt cùng những cử động hiện rõ trên nền vàng nhạt phía sau lưng.

Sau trái đạn đầu tiên bắn xa mục tiêu Thiếu Úy Nguyễn Văn San lấy phương giác, điều chỉnh ngắn lại. Thảo quay sang Thiếu Úy Lý Hồng Phát, tiền sát viên

Pháo Đội E của TĐ2PB/TQLC

– Anh Phát, phương giác 4900, nhờ anh cho ngắn lại 50 thước.

Rầm, quả đạn nổ trên mục tiêu

– Nam Giao, tốt quá, cho tiếp tục.

Mục tiêu là chốt địch, cần bắn chính xác, tránh tản đạn vì thế TSV Phát gọi về đài tác xạ

– Yếu tố cũ, bắn tiêu hủy, khẩu đội 10 quả

Khói thuốc theo hai ngả trổ ra của hầm chử A toả rộng trong đêm tối, căn hầm này được đào sâu ngay chính giữa nhà, cột gỗ to làm đà và mấy tấm ván của bộ phản làm vách. Bề ngang rộng hơn một thước, dài gần hai thước và cao một thước rưởi. Hai cửa có ngách và bậc tam cấp để lên hoặc xuống. Hơn một nửa nhà bị sập, tuy nhiên phần còn lại của mái ngói vẫn còn che toàn bộ căn hầm và hai lối ra vào. Tường bằng gạch loang lổ, nhiều khoảng bị sụp đổ. Nhà ba gian, cột bằng gỗ tốt, hằn sâu vết đạn cùng các mảnh sắt bay tung ra từ bom và pháo binh. Thiếu Tá Trần Kim Đệ Tiểu Đoàn Phó TĐ3/TQLC, ám danh đàm thoại Đệ Đức, ngồi bệt trên mặt đất, mắt dán chặc vào tấm bản đồ không ảnh Cổ Thành Quảng Trị, bàn tay trái đang kẹp chặt điếu thuốc mà mấy đầu lóng tay bị ám khói màu vàng sẩm, bàn tay phải đang cầm ống liên hợp của máy PRC 25 áp chặt vào lỗ tai. Tiếng rít của đạn đạo 130 ly, 100 ly pháo binh CSBV bủa vây chung quanh, đạn nổ run nhẹ mặt đất, hất tung mọi thứ hợp cùng mảnh sắt khua trên tole, gạch tạo âm thanh rợn người.

Căn hầm chỉ có ba người nhưng chật chội với năm máy truyền tin để điều động và yểm trợ, cùng một điện thoại hữu tuyến liên lạc trực tiếp bằng bạch văn từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (cánh A) tới Tiểu Đoàn Phó (cánh B)

Để tránh sự thương vong tối đa, khi màn đêm buông xuống, từng toán nhỏ của đại đội trang bị nhẹ, chính yếu là lựu đạn bò lên thanh toán các chốt của địch. Nguyên Thảo theo dõi từng bước tiến và điều chỉnh tác xạ của các trung đội trưởng dọc bờ thành, nơi địch quan sát và dùng 82 không giật bắn trực xạ xuống đại đội. Loa khuếch đại âm thanh của máy PRC 25 vặn thật thấp, Thiếu Úy Nguyễn Hồng Phát tiền sát viên pháo binh của Pháo Đội E lắng nghe và liên lạc về đài tác xạ pháo đội mọi yếu tố điều chỉnh đến khi bắn hiệu quả.

Thị xã Quảng Trị hứng chịu đạn pháo của cả hai bên. những căn nhà đổ nát có tường gạch được địch cài chốt, bờ thành cao là nơi quan sát rõ ràng mọi sự tiến quân vào ban ngày, điều chỉnh pháo binh yểm trợ các chốt và tiêu diệt quân ta. Vì thế trong tình huống này, người lính TQLC trở nên thành thạo trong việc bứng kiềng chốt của CSBV khi màn đêm buông xuống, ánh sáng loé lên mỗi khi địch tác xạ, giúp ta xác định vị trí chốt để sau đó từng người bò lên ném lựu đạn. Pháo binh TQLC bắn tê liệt các tổ hoả lực yểm trợ chốt của CSBV, địch dần dần bị đẩy vào bên trong cổ thành, vùng kiểm soát của đại đội mở rộng ra sát đường Duy Tân.

Từ lúc hoán đổi vị trí của Đại Úy Bùi Phúc Lộc TĐ8/TQLC (ngày 27 tháng 8 ) chỉ vài lần không quân oanh tạc bên trong cổ thành, nhưng sau đó, các đơn vị TQLC giành giật từng tấc đất, khoảng cách tới tường thành càng thu ngắn lại, vì an toàn nên mục tiêu oanh tạc của không quân là bên ngoài hướng Tây cổ thành (bờ sông Thạch Hản), khu vực toà hành chánh Quảng Trị. Lúc này chỉ còn pháo binh là hoả lực yểm trợ sát cận duy nhất. Ban ngày tiền sát viên xin tác xạ tiêu hủy hay chuẩn định theo sự điều chỉnh của các trung đội trưởng vào các vị trí chốt, do kinh nghiệm nhìn trên địa thế, hoặc bị chúng bắn thiệt hại không thể tiến lên được trong đêm hôm qua. Bây giờ vai trò người trung đội trưởng (điều chỉnh tác xạ) và người tiền sát viên (chuyển đạt yếu tố về hỏa tập) phối họp chặt chẻ với nhau rất quan trọng, đã gây thiệt hại tối đa bên địch quân đồng thời giảm thiểu sự tổn thất cho đại đội tiến lên giành lại từng ô nhà đổ nát.

Mờ sáng ngày 14 tháng 9 năm 1972, trong vùng trách nhiệm của LĐ147 Trung Úy Nguyễn Ngọc Trà Đại Đội Phó/ĐĐ3 chỉ huy hai trung đội vượt hào nước chiếm được bờ thành, ngay lập tức Đệ Đức Thiếu Tá Trần Kim Đệ bước đi như chạy, một tay cầm chai rượu Hennessy, tay kia ông cầm ống liên hợp điều động đại đội Thảo thanh toán mục tiêu, ông cũng không quên cho lệnh tiền sát viên yêu cầu tác xạ ra bờ sông (khu vực trách nhiệm LĐ147) để tiêu diệt địch đang tháo chạy cũng như chặn viện binh nếu có. Thiếu Úy Phát theo chân tiểu đoàn phó leo lên thành. Đệ Đức khui chai Hennessy, rót rượu trên nắp rồi chuyền tay cho anh em binh sĩ. Hớp rượu mừng từ tay Đệ Đức làm lòng mọi người ấm lại, khí huyết rạo rực trong men chiến thắng, Thiếu Úy Phát nhìn mọi cảnh vật bên trong cổ thành, cảm giác sửng sờ giữa thực tế và bản đồ không ảnh trong tay. Là tiền sát viên được đối chứng sự khác biệt rõ ràng đó anh mới hiểu được hiệu quả của pháo binh (TQLC) trong cuộc chiến.

Anh em TĐ3/TQLC hùng dũng vừa tác xạ vừa tiến lên, địch chống cự yếu ớt, nhất là hướng nhà giam tiểu khu, các khẩu M79 bắn dọn đường phía trước, tiếng nổ thật khiếp đảm. Đứng trên tường thành toán tiền sát là nhân chứng của pháo binh trước hình ảnh chiến thắng lịch sử.

Binh chủng Pháo Binh tuyển chọn sĩ quan từ Trường Võ Bị Đà Lạt và Trường Bộ Binh Thủ Đức, nhưng từ khóa 19 VBĐL về sau chỉ còn sĩ quan Trừ Bị được đào tạo thành sĩ quan Pháo Binh. Trước năm 1961, Trường Pháo Binh tọa lạc tại Phú Lợi, tỉnh Bình Dương. Các Khóa 11 Thủ Đức trở về sau được huấn luyện tại Trường Pháo Binh Dục Mỹ.Trong thời gian thụ huấn tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, gần cuối giai đoạn 1 có cuộc khảo sát trắc nghiệm, căn cứ vào kết quả đó, những SVSQ có năng khiếu giỏi về toán (ban B) thường có ưu thế được Pháo Binh để mắt tới. Khi đã được chọn, họ sẽ trải qua 6 tháng tại Trường Pháo Binh Dục Mỹ, tại đây họ được huấn luyện và thực tập xin tác xạ, điều chỉnh đưa đạn nổ vào mục tiêu, các phương thức mà người tiền sát viên nhanh chóng xử dụng như Toạ Độ Cực, bắn Lồng Khung…, học căn bản cũng như thực tập T.O.T (Time On Target), họ được học kỷ về địa hình, truyền tin và hiểu biết về quân xa, lúc tốt nghiệp họ sẽ những sĩ quan có ám số chuyên nghiệp Pháo Binh và được phân phối theo nhu cầu của từng đơn vị. Trong thời gian binh chủng TQLC còn là Lữ Đoàn, chỉ có một Tiểu Đoàn Pháo Binh (TĐ/PB) với 3 pháo đội A, B và C. Pháo Đội B và Pháo Đội C được trang bị đại bác 105 ly nòng ngắn, hai pháo đội này thường xuyên yểm trợ cho Chiến Đoàn A (An Dương Vương), Chiến Đoàn B (Bắc Bình Vương) trong các cuộc hành quân tăng phái khắp 4 vùng chiến thuật. Pháo Đội A trang bị đại bác 75 ly sơn pháo chỉ dùng yểm trợ các cuộc hành quân ven đô (vòng ngoài thủ đô Sàigòn). Ba tân sĩ quan pháo binh (khóa 21TĐ) tình nguyện về TQLC, tiếp tục khóa học Quan Sát Viên Phi Cơ (ALO) kéo dài một tháng rưỡi, rồi được Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh phân phối về 3 pháo đội, Chuẩn Úy Lưu Văn Phúc về Pháo Đội A, Chuẩn Úy Cao Khắc Minh trình diện Pháo Đội B và Chuẩn Úy Nguyễn Thành theo Pháo Đội C. Sau này binh chủng TQLC được nâng cấp sư đoàn, có 3 tiểu đoàn pháo binh, trực tiếp yểm trợ cho 3 lữ đoàn, số lượng sĩ quan pháo binh của mỗi khóa tình nguyện về binh chủng TQLC nhiều hơn. Trước kia pháo đội tăng phái 3 toán tiền sát cho một tiểu đoàn, mỗi toán có 4 người gồm 1 sĩ quan tiền sát viên, 1 hiệu thính viên và 2 binh sĩ lo mọi việc cho tất cả, nhưng sau này vì nhu cầu chỉ còn 3 người mà thôi. Tiền sát viên khi có đủ kinh nghiệm, thời gian, cấp bậc và khả năng, sẽ trở thành Trung Đội Trưởng, rồi lần lượt tiến xa hơn như Pháo Đội Trưởng…

Khóa 13VBQG khi tốt nghiệp, các sĩ quan được chọn tiếp tục học về ngành pháo binh và được đưa sang Trường Fort Sill thuộc tiểu bang Oklahoma Hoa Kỳ ( TQLCVN có Trung Tá Đoàn Trọng Cảo và Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt). Nhiều sĩ quan pháo binh cũng được thụ huấn tại Trường Pháo Binh Fort Sill sau khi học Basic School của USMC như sĩ quan các tiểu đoàn tác chiến. ( Trần Văn Tỷ, Lưu Văn Phúc, Nguyễn Toàn, Hà Minh Công, Đỗ Quốc Dũng….). Riêng khóa học Pháo Binh Cao Cấp chỉ có Thiếu Tá Võ Đằng Phương, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Lạc.

Một kỷ niệm khó quên với tiền sát viên pháo binh vào những ngày cuối năm 1971, đại đội 2 hoạt động xa về hướng Tây căn cứ A2 và sát vùng Phi Quân Sự, khu vực tương đối trống trải, có những đám chồi, cây lấp xấp, thế đất thoai thoải lên xuống. Địch quân thỉnh thoảng bắn hỏa tiễn 240 ly từ hướng Bắc trong khu vực phi quân sự vào căn cứ, nhưng tất cả đều rớt bên ngoài, để lại hố có đường kính non hai sải tay. Đại đội cuốn lều di chuyển lúc mờ sáng, đội hình mở rộng lục soát từng mục tiêu (nhận trực tiếp từ SQHQHL mỗi tối). Trên đường đi Thảo lựa chọn vị trí qua đêm, rồi cho một trung đội hoạt động gần đó để giử an toàn. Cơm nước xong xuôi, lúc chập tối lần lượt các trung đội rút về điểm đóng quân đêm. Một buổi trưa, địch pháo kích vào vị trí dùng cơm của Thảo và Thiếu Úy Trần Văn Đức tiền sát viên Pháo Đội I, tiếng depart ngay trong vùng phi quân sự, đạn nổ xa phía trước mặt (từ vị trí súng đến chổ ngồi), Thảo và hai hiệu thính viên tạt xa bên trái và nhảy xuống mấy hố cạn, Thiếu Úy Đức và toán delo phóng vào các hố phía sau. Như đã tiềm ẩn nhập tâm từ lúc nào, không suy tính nghĩ ngợi, Thảo hét to lên.

– Nhảy trái phải, coi chừng ngắn dài.

Thiếu Úy Đức cùng hiệu thính viên và cận vụ A Cửu vọt người lên nhảy vào các hố xa bên phải. Trái thứ hai nổ về phía sau, rồi kế tiếp nổ đồn dập vào giữa (bẻ đôi lồng khung). Tiền sát viên Đức nhanh chóng dùng Toạ Độ Cực phản pháo, trong lúc di động anh phát giác bóng người trên điểm cao Le Mon, anh xin thêm tác xạ vào đó. Những lúc dùng Toạ Độ Cực (phương giác, khoảng cách từ tiền sát viên đến khẩu pháo địch), hoặc xin hỏa tập tiên liệu, quấy rối, người tiền sát viên luôn luôn để vị chỉ huy đơn vị tác chiến xác định toạ độ. Qua yếu tố điều chỉnh từ trung đội trưởng, người tiền sát viên gởi về đài tác xạ của pháo đội yểm trợ trực tiếp cho đến khi đạn nổ trên mục tiêu xin bắn hiệu quả. Do kết quả dựa vào thời gian, thông thường đơn vị tác chiến đánh giá khả năng tiền sát viên, tuy nhiên có những yếu tố ảnh hưởng do thời tiết, hướng và vận tốc thay đổi của gió, thế đất (mềm hoặc cứng) nơi đặt từng khẩu súng của pháo đội… người quân nhân tác chiến không am tường vì thế ước lượng giá trị tài năng người tiền sát viên hoàn toàn không chính xác.

Mọi yêu cầu từ tiền sát viên gởi về đài tác xạ qua sự kiểm soát của sĩ quan tác xạ, từ đây sẽ phối hợp với sĩ quan liên lạc điều không của Không Quân tại trung tâm hành quân lữ đoàn, khi sĩ quan này đồng ý vì không có phi cơ trong vùng được yểm trợ thì yếu tố bắn được chuyển đến khẩu pháo cho tới lúc bắn hiệu quả (trung đội hay pháo đội). Vai trò của người khẩu trưởng rất quan trọng, anh trách nhiệm bảo trì súng luôn luôn được hoàn hảo, huấn luyện nhân viên thuần thục, phối hợp các động tác nhịp nhàng cùng kiểm soát chính xác lượng thuốc bồi. Tốc độ nhanh lẹ bắn phủ đầu đã góp một phần cho chiến thắng trên khắp các mặt trận.
Giống như tất cả những khẩu trưởng khác của đơn vị pháo binh, Trung Sĩ Nhất Phạm Thành Nhân của Pháo Đội I thuộc TĐ3/PBTQLC tốt nghiệp khóa 3/68 Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại làng Đồng Đế, quân trường này chính yếu là đào tạo những cán bộ cho quân đội. Trường có tượng người lính màu trắng trong tư thế thao diễn nghỉ trên ngọn núi mà hoàng hôn hiện rõ trên nền trời kết hợp với đường cong uốn lượn của dãy núi như bóng dáng của người con gái, hình ảnh đó được truyền tụng với hai câu thơ

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh

Trong thời gian thụ huấn, có những bài khảo sát, trắc nghiệm theo khả năng để sắp xếp đơn vị ngành nghề, và khi mãn khóa anh được chỉ định về ngành Pháo Binh. Bốn tháng thụ huấn Trường Pháo Binh tại Dục Mỹ, anh được học chuyên môn về pháo binh, chính yếu là trung ương tác xạ và địa hình. Ngoài ra anh còn được huấn luyện giống như các khóa căn bản của sĩ quan pháo binh về tiền sát để có thể vì nhu cầu chiến trường tạm thời làm tiền sát viên trong tình huống bất khả kháng.
Image
tượng người lính đang thao diễn nghỉ

Đêm mãn khóa trọng thể với lễ phục uy nghi nơi Vũ Đình Trường, các ngọn đèn pha chiếu sáng thẳng vào tượng. Khóa sinh được lệnh quỳ xuống thì một tiếng nổ thật lớn, liền sau đó trên núi những trái lựu đạn khói đủ màu xanh tím vàng đỏ, tỏa ra từ dưới chân, tượng người lính lung linh mờ ảo trông thật uy nghi.

Sau thời gian phục vụ Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh trực thuộc Biệt Khu Thủ Đô, đầu năm 1970 anh tình nguyện về Sư Đoàn TQLC. Những yếu tố của tiền sát viên gởi về cho đài tác xạ, qua sự tính toán của sĩ quan tác xạ, hạ sĩ quan tác xạ và nhân viên, là người khẩu trưởng anh sẽ nhận được những yếu tố tác xạ như:

– Độ giạt, góc thăng bằng, số thuốc nạp qua máy truyền tin TA 312

Sau đó anh đọc cho người nhắm viên ghi độ giạt, người số 1 (giựt cò) góc thăng bằng, người làm thuốc nạp (thuốc bồi), ngoài ra còn có những nhân viên khẩu đội khác có nhiệm vụ nạp đạn vào nòng (khi có lệnh của khẩu trưởng), gắn đầu nổ vào đầu đạn, khui đạn…. Người khẩu trưởng có trách nhiệm phải kiểm soát lại các yếu tố thật kỷ càng, chính xác trước khi báo cáo lên đài tác xạ và chuẩn bị chờ lệnh để tác xạ. Khẩu trưởng phải huấn luyện tân binh mới bổ sung về khẩu đội, để họ trở thành một pháo thủ có thể làm bất cứ nhiệm vụ nào, tuy nhiên người nhắm viên (khẩu phó) và người số 1 (giựt cò) thì được chỉ dẫn kỷ càng, quan trọng hơn, với pháo binh luôn luôn nằm lòng “sai một ly, đi một dặm”, hậu quả sẽ không lường được khi gây thiệt hại cho chính quân bạn của mình. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy nhân viên của mình, khẩu trưởng còn có bổn phận rất nặng nề và quan trọng nữa là theo dõi thường xuyên tình trạng của khẩu đại bác, các loại đạn, để báo cáo lên sĩ quan tác xạ. Mỗi khi được yêu cầu bắn loại đầu nổ VT (vô tuyến màu lục), phải đích thân khẩu trưởng thực hiện, bởi vì loại đầu nổ này rất nhạy bén và nguy hiểm..

Đa số hạ sĩ quan pháo binh khi về đơn vị sẽ là các khẩu trưởng, các hạ sĩ quan xuất sắc được giao nhiệm vụ hạ sĩ quan tác xạ. Trong đài tác xạ, có một hạ sĩ quan thâm niên, thường là thượng sĩ sẽ là trưởng đài tác xạ và vài hạ sĩ quan cùng binh sĩ. Đài tác xạ được giám sát của sĩ quan tác xạ (sau này gọi là pháo đội phó). Tùy pháo đội trưởng, có pháo đội đặt 1 sĩ quan, có khả năng đặc biệt tính yếu tố chính xác, nhanh chóng…làm sĩ quan tác xạ, còn pháo đội phó sẽ chỉ huy trực tiếp các khẩu đội khi thi hành tác xạ.

Cứ 2 khẩu đội hợp thành 1 trung đội, có sĩ quan thâm niên hơn sĩ quan tiền sát viên làm trung đội trưởng, trung đội phó là những hạ sĩ quan thâm niên, có kinh nghiệm, đã từng là khẩu trưởng
Image
Vào lễ Phục Sinh (30 tháng 3 năm 1972) CSBV bất thần với 40 ngàn quân vượt sông Bến Hải gồm các đơn vị, sư đoàn thiện chiến của Điện Biên Phủ năm 1954, cùng vũ khí tối tân, chiến xa, đại bác của khối cộng sản bất thần tấn công vào 3 trung đoàn của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, toàn bộ Trung Đoàn 57/BB triệt thoái từ Gio Linh về Quảng Trị, đơn vị pháo binh của bộ binh bỏ lại súng trong căn cứ Đông Hà. Pháo Đội I (Đại Úy Phan Văn Kính PĐT) thuộc TĐ3PB/TQLC tại doanh trại Trung Đoàn 2 Bến Hải của Sư Đoàn 3 Bộ Binh yểm trợ trực tiếp cho TĐ3/TQLC và Thiết Đoàn 20CX trấn giữ Đông Hà, các pháo thủ bắn mãnh liệt vào khu vực Gio Linh, dọc trên quốc lộ 1 để sát hại bộ binh và thiết giáp CSBV đang tiến về thị xã.



Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1972, chiến xa CSBV chồm lên đầu cầu Đông Hà bên bờ Bắc sông Miếu Giang, TĐ3/TQLC dùng súng M72 bắn vào chiếc dẫn đầu, trong lúc đó các pháo thủ Pháo Đội I tác xạ mãnh liệt yểm trợ, Khẩu Trưởng Phạm Thành Nhân lần đầu tiên được lệnh bắn với thuốc nạp (bồi) 3 anh thấy rất rõ khi những trái đạn nổ tung với khói bụi bay mù trời. Chiếc đầu tiên bị bắn cháy làm đoàn chiến xa CSBV khựng lại, sau đó công binh dùng chất nổ phá sập cầu. Tại căn cứ Tân Lâm (Carroll) trong khi Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 56 kéo cờ trắng đầu hàng, các pháo thủ của Pháo Đội B (Đại Úy Nguyễn Văn Tâm PĐT) thuộc TĐ1PB/TQLC tăng phái vẫn chiến đấu, sau cùng được lệnh, một số thoát ra được, còn lại bị bắt làm tù binh khi quân CSBV tràn ngập vị trí. Đại bác 130 ly của CSBV tập trung pháo kích vào thị xã và vị trí Pháo Đôi I, cuối cùng pháo đội phải di chuyển về tiểu đoàn gốc tại căn cứ Ái Tử.

Bộ chỉ huy TĐ3PB/TQLC (Trung Tá Trần Thiện Hiệu TĐT) đang ở Ái Tử với LĐ258, có Pháo Đội J (Đại Úy Trần Văn Tỷ PĐT) yểm trợ trực tiếp cho TĐ6/TQLC. Ngày 8 tháng 4 năm 1975 TĐ3/TQLC bàn giao vùng trách nhiệm Đông Hà cho Liên Đoàn 5/BĐQ về thay thế tuyến phòng thủ của TĐ6/TQLC. Trung Tá Ngô Văn Định LĐT LĐ258/TQLC điều động TĐ6/TQLC đến hoán đổi căn cứ Phượng Hoàng (Pedro) cùng khu vực hoạt động của 1 tiểu đoàn BĐQ.

Ngày 9 tháng 4 một đơn vị chiến xa CSBV có bộ binh tùng thiết mục đích triệt hạ căn cứ Phượng Hoàng rồi tấn công vào căn cứ Ái Tử, các pháo thủ TĐ3PB/TQLC yểm trợ đắc lực, tác xạ vào giữa đội hình tiến quân của địch. Toàn bộ chiến xa CSBV nằm lại trên trận địa, bị cán mìn trong vòng rào căn cứ Phượng Hoàng, số còn lại bị TĐ6/TQLC, Không Quân oanh kích, pháo binh TQLC và chi đoàn M48/TĐ20CX.

Ngày 1 tháng 5 năm 1972, toàn bộ Sư Đoàn 3 Bộ Binh và các đơn vị tăng phái triệt thoái về hướng Nam, TĐ1PB/TQLC (Trung Tá Đoàn Trọng Cảo TĐT) di chuyển cả 3 pháo đội về phía Nam sông Mỹ Chánh, các pháo thủ TĐ1PB đã yểm trợ cho quân bạn lui quân, đồng thời cản bước tiến của địch quân trong lúc LĐ369/TQLC dàn quân thiết lập phòng tuyến Mỹ Chánh. Các pháo đội phải di chuyển liên tục vì bị địch pháo kích, dù vậy khi đến vị trí mới các pháo thủ nhanh chóng chuẩn bị các yếu tố để tác xạ.

Mờ sáng ngày 22 tháng 5 năm 1972, CSBV xử dụng thiết giáp PT76 và BTR50 có bộ binh tùng thiết chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh do TĐ105/ĐPQ trấn giữ , vượt sông Ô Lâu đánh vào một bộ phận của TĐ3/TQLC rồi tấn công vào LĐ369 tại Chính An. Hai pháo đội của TĐ3PB là Pháo Đội K (Đại Úy Vũ Quang Vinh PĐT) và Pháo Đội J (Đại Úy Trần Văn Tỷ PĐT) bố trí hai khu vực với lữ đoàn để yểm trợ cho TĐ105/ĐPQ, TĐ3/TQLC trên phía Đông phòng tuyến Mỹ Chánh. Thiết giáp PT76 CSBV hùng hổ tiến vào, các pháo thủ Pháo Đội K hạ nòng trực xạ dùng đạn khói lân tinh với thuốc bồi 7 bắn cháy chiếc thiết giáp dẫn đầu. Kế tiếp một chiếc khác bị hỏa tiễn TOW triệt hạ. Đơn vị phòng thủ của TĐ8/TQLC đua nhau dùng hỏa tiển M72 bắn vào đoàn thiết giáp. Phản lực cơ Phantom từ Đệ Thất Hạm Đội đến oanh kích triệt hạ toàn bộ đơn vị thiết giáp CSBV.

Sau khi triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế để bổ sung quân số và quân trang quân dụng, đầu tháng 6 năm 1972 TĐ2PB bắt đầu xuất hiện trên chiến trường Quảng Trị. Lúc bấy giờ Thiếu Tá Đặng Bá Đạt TĐT, Thiếu Tá Trương Công Thông TĐP với hai pháo đội, Pháo Đội D do Trung Úy Đào Văn Cam PĐT, Pháo Đội F do Đại Úy Trương Công Thuận PĐT, tiểu đoàn có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp các cánh quân thuộc LĐ 147, từng bước chiếm lại những phần đất đã mất từ bờ Bắc sông Mỹ Chánh đến Cửa Việt. Pháo Đội E của Đại Úy Lê Khắc Đông ở lại Phú Bài tiếp tục dưỡng quân và chỉnh đốn lại pháo đội vì bị nhiều tổn thất hơn trong lúc triệt thoái khỏi Mai Lộc



Ngày 11 tháng 7 năm 1972, TĐ1/TQLC đổ quân xuống Triệu Phong, và sau đó kiểm soát được khu vực này, khống chế con đường huyết mạch tiếp tế của CSBV từ hướng Cửa Việt qua Triệu Phong vào thị xã. TĐ2PB điều động Pháo Đội E do Trung Úy Cao Khắc Minh PĐT (thay thế Đại úy Đông) từ Phú Bài vào vùng hành quân.

Ngày 27 tháng 7 năm 1972, QĐ1 cho TQLC thay thế Nhảy Dù tái chiếm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành Đinh Công Tráng, mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1972 là phải chiếm lại trong thời hạn 90 ngày. Mờ sáng hôm đó, Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC điều động TĐ9/TQLC hoán đổi cho TĐ6/ND tại khu vực ngã ba Long Hưng, TĐ3/TQLC thay thế TĐ5/ND khu vực Trí Bưu. TĐ5/TQLC hoạt động phía Nam cổ thành, TĐ1PB/TQLC, Pháo Đội I của TĐ3PB/TQLC và 1 pháo đội 155 ly thuộc TĐ44PB yểm trợ trực tiếp. Trong lúc đó Trung Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng LĐ147 với 3 Tiểu Đoàn 1, 7 và 8 trách nhiệm bờ bắc sông Vĩnh Định từ khu vực chợ Sãi ra biển Đông, TĐ2PB/TQLC và 1 pháo đội 155 ly của TĐ44PB yểm trợ trực tiếp

Ngày 7 tháng 9 năm 1972 Liên Đoàn 1 Biệt Đông Quân thay thế khu vực trách nhiệm của LĐ147, Sư Đoàn TQLC dồn hết mọi nổ lực quyết tâm dứt điểm, cổ thành được chia làm đôi, phân nửa hướng Nam giao trách nhiệm LĐ258, và hướng Bắc giao cho LĐ147. Pháo Đội E đến chiếm đóng tại trường học cạnh bờ sông Vĩnh Định, Pháo Đội D rời Mỹ Thủy chiếm đóng vị trí cạnh nghĩa địa thôn Ngô Xá Đông, Pháo Đội F rời Gia Đẳng chiếm đóng vị trí cạnh kho đạn Hội Yên. Như vậy 3 pháo đội của TĐ2PB đóng thành vòng cung chử C rất thuận lợi cho việc yểm trợ tác xạ cho các TĐ 3, 7 và 8. Lúc này các tiền sát viên điều chỉnh cho đến khi hiệu quả, xin những tác xạ liên tục để cho quân bạn từng bước tiến lên. Ban đêm các TĐ/PB tác xạ quấy rối bên trong cổ thành và thỉnh thoảng tiền sát viên xin tác xạ soi sáng để quân bạn quan sát địa thế trước khi tiến quân. Phía bờ Bắc sông Thạch Hản do hải pháo, và pháo binh 175 ly quấy rối.

Mổi lần quan sát viên phi cơ cho những mục tiêu quan trọng bên trong cổ thành mà họ quan sát được, lập tức các TĐ/PB tác xạ TOT (time on target) lên những mục tiêu nằm trên phần đất trách nhiệm của tiểu đoàn (có sự chấp thuận của Lữ Đoàn và phải không có phi cơ trong vùng). Để thực hiện tác xạ đó, tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó hoặc sĩ quan hành quân huấn luyện các tiểu đoàn pháo binh, điều khiển tác xạ trên hệ thống liên lạc vô tuyến. Các pháo đội phải tính “thời đạo” của từng pháo đội và thi hành theo lệnh đếm thời gian trên hệ thống truyền tin, để đạn sẽ nổ trùm mục tiêu cùng một lúc. Khi TQLC tiến sát bờ thành, không còn xử dụng TOT nữa. Lúc bấy giờ hầu hết các tiền sát viên cạnh các cánh quân xử dụng tác xạ tiêu hủy để triệt hạ chốt và vị trí súng máy, đôi khi phải yêu cầu đầu nổ delay (đầu đạn có hai vị thế chạm nổ và delay) .

Vì xử dụng tác xạ TOT nhiều nên các TĐ/PB mỗi ngày tiêu thụ hơn 2000 quả đạn. Trong thời gian này, 2 tiểu đoàn pháo binh được lệnh xử dụng đạn dược thoải mái. Ban đêm quấy rối tối đa lên đầu địch trong thành. Khi TQLC đã lọt hẳn vào trong cổ thành, pháo binh chỉ còn thi hành những tác xạ tiêu hủy theo yêu cầu của tiền sát viên cùng tác xạ soi sáng. Thỉnh thoảng cũng tác xạ phản pháo bên kia bờ sông Thạch Hản.

Pháo Binh TQLC xử dụng loại 105ly Howitzer M1A1 tác xạ rất chính xác, với ưu thế đó các tiểu đoàn pháo binh đã yểm trợ đắc lực cho 2 lữ đoàn đang quần thảo với CSBV trong thị xã Quảng Trị. Chỉ thị của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC là xử dụng tối đa hỏa lực đại bác cơ hữu 105 ly nên trong trận Quảng Trị 1972, mỗi tháng TĐ1PB, TĐ2PB, các pháo đội của TĐ3PB tăng phái bắn trên 200 ngàn quả đạn. riêng nổ lực tái chiếm thị xã và Cổ Thành pháo binh xử dụng 320 ngàn quả đạn, các pháo thủ không còn thì giờ để ăn và chỉ thay nhau chợp mắt.

Sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972, lá quốc kỳ VNCH dựng trên Cửa Tây Cổ Thành Quảng Trị, cả Sư Đoàn TQLC reo vui, người dân Quảng Trị mừng mừng tủi tủi, toàn quốc hân hoan, người pháo thủ Pháo Binh TQLC vẫn tiếp tục nạp đạn, giựt cò, tác xạ truy đuổi tàn quân địch đang tháo chạy. Họ hãnh diện trong suốt cuộc chiến đã yểm trợ hiệu quả và giảm thiểu tối đa về nhân mạng cho những đồng đội, chiến hữu của mình cùng mũ beret xanh, cùng màu áo binh chủng.
Từng giọt mồ hôi lăn dài xuống những bờ môi đang hé nở nụ cười.

(Trong cuộc hành quân Cửa Việt, Pháo Đội I, Pháo Đội K của TĐ3PB và Pháo Đội A của TĐ1PB, một pháo đội 155 ly tăng phái đã bắn yểm trợ cho Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango hoàn thành nhiệm vụ trước giờ ngưng bắn. Bốn ngày sau khi Hiệp Định Ba Lê (27 tháng 1 năm 1973) có hiệu lực, CSBV đã vi phạm, tập trung quân tấn công giành đất cắm cờ. Để yểm trợ Lực Lượng Tango, các pháo thủ bắn không nghỉ tay, có ngày khẩu đội của Trung Sĩ Nhất Phạm Thành Nhân xử dụng một ngàn quả đạn)

Giang Văn Nhân
Hồi Ký Người Lính Tổng Trừ Bị
*Xin cám ơn sự đóng góp của NT Tuy Hòa, quý anh: Phúc Yên, Trần Văn Đức, Phạm Thành Nhân.

Image
Các pháo thủ trong Đại Hội Thủy Quân Lục Chiến

Image

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by khieulong »

Xin đươc giới thiệu đến các anh cùng họ kaki chúng ta Phạm Tiến Đức , Vũ Đức Thiệu, Nguyễn Ngọc Tuấn, Trần Chương Lương, Cao Thiện Lynh , Võ Khắc Trường, Chữ Lê, Nguyễn Tôn Duyên, Nguyễn Tiến Thịnh, Trần Văn Ba, Phạm Ngũ Yên , Sơn Quách, Phan Anh Dũng , Dinh Ngoc Tuyên, Tạ Văn Hiến....
Bạn tôi , bạn chúng ta anh Lưu Văn Phúc cựu hs Hồ Ngọc Cẩn , một cấp chỉ huy trong binh chủng TQLC ,
mà anh Vương Minh Thạnh
một người bạn thân của tôi cùng binh chủng pháo binh TQLC với anh đã mô tả :

" Đây là một người lính QLVNCH can trường , dũng cảm , không sợ hiểm nguy sẵn sàng chiến đấu và hy sinh
trong nhiệm vụ bảo vệ quê hương với tinh thần sáng ngời " Tổ quốc , Danh dự và Trách nhiệm " ,
đặc biệt anh luôn hết lòng với đồng đội , thuôc cấp , luôn coi họ là người thân như gia đình của mình ,
một đại gia đình mà sự sống chết cũng như chia sẻ buồn vui đều có nhau trong mọi hoàn cảnh ...dù khắc nghiệt
hay thảm khốc...
Image
Đại Uý Pháo Binh TQLC Lưu Văn Phúc
Chúa đảng Giặc Cờ Đen LVP
(danh hiệu truyền tin Phúc Yên).

Mũ Xanh Phúc Yên

Có lẽ trong binh chủng Mũ Xanh, ít có vị chỉ huy nào " gan trời " bằng ông. Khi thấy đúng là làm. Ngay cả biết rằng làm là trái lệnh thượng cấp. Cai lon đeo trên cổ, vất vả, máu xương mà có. Nhưng .....Ông sẵn sàng đối diện, ngay cả phải đi tù. Khi ông thấy rằng cần thiết để bảo vệ sinh mạng cho thuộc cấp của mình. Tháng 3-1975. Pháo đội lâm vào hoàn cảnh bị " bỏ rơi, bơ vơ giữa chiến trận ". Không người chỉ huy, trong một hoàn cảnh " ai lo thân nấy " Ông cùng pháo đội của mình, " kéo pháo 105 ly, chạy tới chạy lui ". Ai đã từng cầm súng thì hiểu. Cây súng M-16 kéo, đeo hay vác cả ngày cũng nhiều khi không biết nó dính trên người hay không, vì quá kiệt sức. Chứ đừng nói gì phải lôi thôi với mấy con Gà Cồ. Mà không phải 1 con, mà đến tận 6 con. Cấp chỉ huy chí tình với binh sĩ, đương đầu với địch đã đành, nay còn phải chờ ngày ra Tòa Án Mặt Trận, nếu cấp trên muốn. Đời lính như ông, tháng 3 năm ấy. Phải nói là " Ngàn năm vẫn nhớ ".

Là một pháo thủ TQLC. Ông đã đã từng làm rạng danh đơn vị nói riêng và quân lực VNCH nói chung. Khi ông tham dự khóa học Pháo Binh ở Hoa kỳ với nhiều quân nhân đến từ các quốc gia như : Đại Hàn, Libya, Venezuala, Iran, Irag, Turkey, Thailand, Indonesia và Việt Nam. Khi thực tập bắn súng đại bác 106 ly, Phúc Yên là người duy nhất bắn trúng mục tiêu. Các sĩ quan theo học của các nước đã kông kênh Phúc Yên lên người, chạy quanh rồi xoa đầu ông. Chuyện xoa đầu đã làm ông nổi giận, vì người Việt không thích,là phạm thượng, mà người ngoại quốc xem đây đây là chuyện khen thưởng, thán phục. Ông cũng là một cao thủ mê rượu và uống rượu. Khi đã xỉn, thì Lạng sơn có ở trước mặt cũng là chuyện nhỏ, chẳng có gì phải quan tâm.

Ta say, "gà cồ gáy" càng hay
Nhâm nhi vài giọt bắn sướng tay
Pháo đội xong chưa... chờ lệnh bắn
Hớp nữa rồi xem xác địch bay.

Đến Mỹ, phận đời may rủi. Ông thơ thẩn thế nào mà lại đắt "pháo đội" của mình đến xứ "đường xa ướt mưa". Đồng đội của ông ai cũng mê cái món Gà xé nhỏ, trộn rau răm của ông, nó ngon hết biết mỗi khi làm một hớp rượu Remy Martin. Đời ông dính liền với chữ Gà. Bây giờ là Gà đi bộ, còn ngày xưa thì ôm chặt mấy con "Gà Cồ".

Cũng may cho ông, Gà đi bộ người Việt mua dễ dàng. Chứ cái thời 1983 của tôi. Ăn Gà Mỹ nó "nhạt như nước Ốc". Thèm phải lặn lội từ Quận Cam lên tận Los Angeles mới có. Vì vậy, mỗi chuyến đi mua cả chục con, mang về ăn đến nỗi, khi cất tiếng hát, nó vang thật xa như Gà gáy canh 5. Bây giờ, người Việt ở bang nào cũng có Gà đi bộ. Đến giờ phút này, gà Mỹ vẫn bị kỳ thị với nhóm người Việt một thời chinh chiến.

Theo thời gian, Phúc Yên, chân đã yếu, tay đã mỏi, tuổi già rồi ai cũng thế. Nhưng tấm lòng đơn vị vẫn y như thuở nào, ông vẫn thổn thức khi những binh sĩ dưới quyền chưa đặt chân đến bến bờ tự do, ông vẫn điểm danh từng người khi trí nhớ còn cho phép. Là người từng đầu sóng ngọn gió, tuy rằng giờ đây "pháo đội của riêng ông " đã an toàn. Con cháu thành đạt, nhưng ông vẫn thương cho những người lính trận. Những chiến binh đã mất đi một phần thân thể. Ông tự nguyện đóng góp từ số tiền già nhỏ nhoi của mình. Không còn ai ra lệnh cho ông. Trái Tim của ông nó ra lệnh cho ông như thế.

Lính trận Mũ Xanh

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by VuPhong »

Câu chuyện người lính VNCH

Bùi Văn Phú

Image
South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After, Phó Giáo Sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn.
(Ảnh: Bùi Văn Phú)

Image
Phó GS Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn (phải) trong buổi giới thiệu tác phẩm ở Đại học U.C. Davis, California, 10/2016, cùng tác phẩm Black April của George J. Veith và Nationalist in the Viet Nam Wars của Nguyễn Công Luận.
(Ảnh: Bùi Văn Phú)
Người lính Việt Nam Cộng hòa đã chiến đấu như thế nào trong 20 năm bảo vệ miền Nam? Và sau ngày 30/4/1975, khi miền Nam đầu hàng miền Bắc thì số phận của họ và gia đình ra sao?

Câu trả lời có thể tìm thấy trong tác phẩm “South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After” của Phó Giáo Sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, Đại học Monash, Úc [Nxb Praeger 2016, 289 trang].

Đây là câu chuyện của khoảng 40 cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa qua sử ký truyền khẩu (oral history) mà tác giả đã ghi lại, biên soạn rồi tổng hợp và phân tích. Nhiều câu chuyện không chỉ được nghe kể mà đã được viết bằng tiếng Việt và dịch ra Anh ngữ. Tác giả cũng sử dụng nhiều tài liệu từ những đặc san tiếng Việt của các quân binh chủng.

Đó là những câu chuyện về đời lính, về lý tưởng phục vụ tổ quốc, về tình đồng đội, về hệ lụy phủ xuống cuộc đời những người lính miền Nam sau ngày 30/4/1975 và về tương lai của họ nơi đất Úc.

Tất cả từng là những chiến binh, người lớn tuổi nhất sinh năm 1917 đã tham dự ba cuộc chiến và trẻ nhất sinh năm 1955 mới vào quân ngũ đôi năm.

Họ phục vụ trong nhiều binh chủng từ Thủy quân Lục chiến, Nhảy dù, Biệt Động quân, Không quân, Hải quân, Quân y cho đến Thiết giáp, Tiếp vận, Địa Phương quân, Nữ Quân nhân. Họ không phải là những lãnh đạo hay chỉ huy cao cấp của mà là những sĩ quan cấp úy, cấp tá. Họ là phi công trực thăng, là tiểu đoàn trưởng, y sĩ tiền tuyến hay cao nhất là chỉ huy trưởng của Đại học Chiến tranh Chính trị.

Câu chuyện đã khơi nguồn cho tác giả tìm hiểu về người lính miền Nam là từ Trung úy Phạm Văn Chương, tốt nghiệp cử nhân luật, nhập ngũ năm 1969. Sau thời gian thụ huấn tại quân trường, ông giữ chức vụ sĩ quan hành chánh, tài chánh cho Tiểu đoàn 7 Biệt Động quân.
Image
Cựu Trung úy Phạm Văn Chương trên bìa sách viết về người lính VNCH của Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn.
(Ảnh: Bùi Văn Phú)
Sau tháng Tư 1975 ông bị bắt đi học tập cải tạo cho đến năm 1979 thì được thả về. Sống không hộ khẩu, bị coi như công dân hạng hai trong một đất nước đã hòa bình, thống nhất, năm 1983 ông vượt biển cùng với một người con trai.

Cuộc đời binh nghiệp của Trung úy Chương, và những chiến sĩ khác, được nhắc đến với mục đích bổ sung cho khoảng trống trong các nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam mà đến nay còn thiếu vắng tiếng nói từ những người lính Việt Nam Cộng hòa.

Còn có hàng nghìn, có thể nói hàng chục nghìn, câu chuyện như của Trung úy Chương mà đến nay chưa được ghi lại nhiều bằng Anh ngữ, hay ngoại ngữ, dù trong mảng thông tin Việt ngữ ở hải ngoại đã có rất nhiều câu chuyện như thế được viết lại trên báo, trong các tạp chí, đặc san.

Câu chuyện của khoảng 40 cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa qua sử ký truyền khẩu (oral history) mà tác giả đã ghi lại, biên soạn rồi tổng hợp và phân tích.
Viết về người lính Việt Nam Cộng hòa đến nay mới có một vài tác phẩm Anh ngữ như “Black April” của George J. Veith, “Nationalist in the Viet Nam Wars” của Nguyễn Công Luận.

Tiếng Việt có “Tháng Ba gãy súng” của Cao Xuân Huy, “Cơn uất Hạ Lào” của Bùi Đức Lạc, “Nhớ về người lính năm xưa” của Đoàn Phương Hải.

Trong thời chiến, làm trai phải đáp lời sông núi. Đó là câu chuyện của Nguyễn Viết Huy, được sinh ra trong một căn cứ quân sự vì có bố là sĩ quan phục vụ đất nước từ ngày Quân đội Quốc gia được khai sinh. Anh của Huy là lính Nhảy dù còn Huy là sĩ quan Địa Phương quân. Khi chiến tranh chấm dứt thì bố, dù đã giải ngũ với cấp bậc thiếu tá, vẫn phải đi học tập cải tạo cùng với con.

Với sứ mệnh bảo vệ tổ quốc, người lính Việt Nam Cộng hòa thường xuyên đối diện với cái chết. Thiếu úy Văn Tấn Thanh tham gia mặt trận Quảng Trị mùa hè 1972 và đã chứng kiến cảnh đồng đội cùng đơn vị Thủy quân Lục chiến chết vì đạn pháo trên Đại lộ Kinh hoàng.

Trung úy Phạm Văn Chương nhớ mãi cảnh đưa xác người bạn thân cùng đơn vị tử trận từ chiến trường về cho vợ và con thơ của bạn, trên một chuyến bay có cả trăm quan tài lính. Đó là một trải nghiệm rất đau buồn trong đời ông.

Qua chuyện kể của những sĩ quan, hầu hết là cấp úy, cho thấy đa số có học lực tú tài. Nhiều người đang đại học luật hay đại học khoa học thì tổng tấn công Mậu Thân 1968 hay Mùa hè Đỏ lửa 1972 xảy đến nên phải xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao.

Nguyễn Văn Luyện sinh năm 1952, cựu học sinh Pétrus Ký. Năm 1972 đang học luật năm thứ hai thì bị động viên vào Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức cùng với một người anh. Sau khóa huấn luyện người anh được biệt phái về dạy học còn Luyện gia nhập binh chủng Thiết giáp. Gia đình Luyện có bốn anh em là lính tác chiến.

Về đơn vị một thời gian, trong một lần đụng độ với địch quân, Luyện trúng đạn AK-47 làm thủng ruột, được đưa về Tổng y viện Cộng hòa điều trị trong nhiều tháng. Qua Luyện là hình ảnh và sinh hoạt trong một bệnh viện quân đội lớn nhất của miền Nam, nơi có tình đồng đội quí trọng nhau, có sự chăm sóc tận tình của những bác sĩ, y tá dành cho thương binh chiến trường.

Dù đang còn điều trị vết thương, sau tháng Tư 1975 Luyện cũng bị bắt đi học tập cải tạo 5 năm.

Một thương phế binh tên Lúa đang được điều trị cũng bị đuổi ra khỏi tổng y viện. Gia đình Lúa sau đó phải đi kinh tế mới, ở đó thiếu thuốc men nên người con gái 7 tuổi của ông đã chết sau một cơn sốt. Ít năm sau về lại thành phố, không có tiền mua thuốc nên đứa con trai cũng qua đời khi mới 9 tuổi sau một cơn bệnh.
Image
Phó GS Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn (phải) trong buổi giới thiệu tác phẩm ở Đại học U.C. Davis, California, 10/2016, cùng tác phẩm Black April của George J. Veith và Nationalist in the Viet Nam Wars của Nguyễn Công Luận. (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Hình ảnh y sĩ tiền tuyến cũng được ghi lại trong sách. Bác sĩ quân y Trần Xuân Dũng, sinh năm 1938, cựu học sinh Chu Văn An và Đại học Y khoa. Năm 1965 ông gia nhập quân đội và giữ chức y sĩ của Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến là một đơn vị tác chiến thường xuyên đối đầu với địch trên chiến trường.

Phục vụ đồng đội cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến có bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiến ở mặt trận Gò Dầu Hạ.

Nhiều người lính Việt Nam Cộng hòa đã chu toàn nhiệm vụ cho đến khi buộc phải chết. Tiếp tục chiến đấu và không tuân lệnh đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh là tiểu đoàn trưởng Trần Đình Tú của Tiểu đoàn 38 Biệt Động quân. Dù có lệnh đầu hàng, ông đã cùng một số binh lính chiến đấu với bộ đội cộng sản ở quận Củ Chi cho đến khi hết đạn, để rồi bị bắt và bị xử tử cùng với nhiều đồng đội.

Khi được thả cho về với gia đình họ vẫn bị coi là “ngụy”, bị quản chế, không được quyền công dân, bị đuổi đi kinh tế mới, con cái không được vào đại học chỉ vì lý lịch.
Hành động anh dũng của những người lính Biệt Động quân đã được một người cùng binh chủng là Nguyễn Hữu An, là bạn thân của Trần Đình Tú từ nhỏ, tìm hiểu và viết lại.

Tập sách còn chuyện kể của nhiều binh sĩ thuộc các quân chủng, đơn vị khác. Vũ Văn Bảo là phi công trực thăng đưa quân và tiếp liệu vào các vùng chiến trận. Hải quân có Trần Văn Giáo, Trương Công Hải là những sĩ quan. Nữ quân nhân có Thanh, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, có Thúy.

Sau tháng Tư 1975 những người lính này đã phải trải qua nhiều tháng năm trong các trại học tập cải tạo từ nam ra bắc, ít thì vài tháng, nhiều thì cả chục năm. Ở những nơi đó họ phải lao động cực nhọc và đã thấy cảnh tù nhân qua đời.

Khi được thả cho về với gia đình họ vẫn bị coi là “ngụy”, bị quản chế, không được quyền công dân, bị đuổi đi kinh tế mới, con cái không được vào đại học chỉ vì lý lịch.

Con đường còn lại cho tương lai của chính họ và gia đình là vượt biên. Trong số thuyền nhân vượt biển nhiều người mất tích hoặc chết vì đói khát. Họ may mắn sống còn và được nước Úc nhận cho định cư.

Ở miền đất mới họ làm lại cuộc đời, hội nhập vào đời sống như hơn 230 nghìn người Việt đã định cư ở Úc trong hơn 40 năm qua.

Với chính sách dành cho những chiến binh đồng minh từng chiến đấu bên cạnh binh sĩ Úc nên có những cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa, trên 60 tuổi và đã định cư ở Úc trên 10 năm, được cứu xét cho hưởng quyền lợi cựu chiến binh Úc.

Năm 1994 có Trương Công Hải, sau có Nguyễn Việt Long và nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa khác đã được chính phủ Úc chấp thuận cho qui chế cựu chiến binh, sau khi hoàn tất thủ tục giấy tờ cùng với hai người làm chứng xác nhận về thời gian phục vụ trong quân ngũ.

Mỗi năm đến ngày ANZAC, nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa đã cùng với cựu chiến binh Úc tham gia diễn hành. Nhiều nơi trên đất Úc đã có tượng đài chiến sĩ Úc-Việt.

“South Vietnamese Soldiers” không chỉ cho người đọc nhìn thấy cuộc đời của những người lính đã phục vụ tổ quốc, và những hệ lụy, mà còn đem đến những kiến thức về lịch sử thành hình của quốc gia và của các đơn vị, các binh chủng Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Tác phẩm đã phản ánh tiếng nói và ước mơ của những người lính Việt Nam Cộng hòa, là những người “Việt tị nạn ở nước ngoài sau chiến tranh đã đem theo với họ những khát vọng của miền Nam là trở thành một quốc gia tự do dân chủ”, như tác giả ghi lại ở những trang cuối sách.

[Vì trong sách tên của người Việt không có dấu, người viết bài cố gắng bỏ dấu theo hiểu biết và có thể không đúng với tên thật ngoài đời. Mong được thứ lỗi nếu có sai sót

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by bichphuong »

Trận cuối
Tặng Võ Hoàng
Tưởng Năng Tiến
28 tháng 8, 2023

Image
Hình do tác giả gửi

“Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu… nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu.”

Câu cuối (“nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu”) Sáu Mù ca thêm lần nữa, và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn:
-Bản này mày ca tới hơn bản Xuân Này Con Không Về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại …

-Sao vậy?
– Mày đui mà, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng “có thấy gì đâu.” Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà…
-Ờ…!
Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã bao nhiêu năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :
– Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản “đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm” mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp “một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn” hoài coi nó kỳ thấy mẹ !
– Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày.
– Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt.
-Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng…
-Thôi tao nhớ rồi… Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: “Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa… ”
– Nó đó…
– Mà không được đâu…
– Sao vậy?
– Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ?
– Ờ.
Lần này Sáu Mù “ờ” mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện ‘trách nhiệm” của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại “nhiệm vụ” và “ý nghiã” này nọ.

Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng… Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng.
Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: “Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ.”

Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài:
– Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản Lòng Mẹ, Con Thuyền Không Bến …

-Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại.

-… Thì… người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó chớ sao. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu!
Thiệt ra cái kêu bằng “chiến tranh tâm lý” này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi.
Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi.
May mắn gặp được anh Hai. Anh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh “vớt” hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi.
Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục.

Từ anh Hai mới có chuyện chiến tranh tâm lý: “Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa.

Chung cuộc, tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt…”
Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa.

Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què tập nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: Cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn.
Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự:
– Người ta chán nghe hát tới hát lui “Sài Gòn ơi, anh xin hứa, rằng anh trở về” rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào?
– Nhưng mà – Sáu Mù nhỏ nhẹ – bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao?
Anh Hai can thiệp:
– Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ.
Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi:
– Chiều nay tụi mày tính “hành quân” ở đâu đây?
– Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi.
– Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à.
– Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi.
-Ðược – anh Hai tán thành – “kế hoạch hành quân” vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi Giã Từ Vũ Khí nha, mấy cha. Cái gì mà “trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi!” Nghe rầu quá hà. Sạch sao được?
Sáu Mù bắt liền:

– …“Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây… “
– Thôi mà Sáu – Bảy Què dấm dẳng – sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ?
Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ :
– Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: “Rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu..” nghe thấy đã.
Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn:
– Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha.

Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối.
Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhẹ làm cho mọi người chú ý.
Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản Trên Ðầu Súng:

“Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình
Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng
Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng
Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm
Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn
Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát…”


Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng những từ ngữ “nô lệ” hay “cùm gông”… thì quả thực là hơi lạ tai và cũng đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản Cờ Bay:

“Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu
Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu
Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương
Từng ngóng đợi quân ta tiến về
Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu
Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng
Hồi sinh rồi này mẹ này em
Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời
Ði lên. Ði lên trên hoang tàn ta xây dựng ngày mai”


Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đàn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần ‘nhảy dù cố gắng” để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy.

Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản Trên Bốn Vùng Chiến Thuật:
“Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi..” Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức – cách đây đã bao năm – mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu.

Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: Y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là “tạ từ trong đêm!”

Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn “giã từ ánh sáng” kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng dã của y nữa.

Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: Người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: Bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân.
Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má trơ xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn… thấy rõ!

Em bé bán chuối chiên cẩn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đặt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què.

Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh – dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu – chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh.
Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản Hội Nghị Diên Hồng:
“Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển… Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?”
– Quyết Chiến!
Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lại ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống. Lác đác chỉ có người lên.
Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi “chiều” theo mọi người hát đi hát lại bản Hội Nghị Diên Hồng đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây:

“Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc
Hai vai gầy run rẩy nát tâm can
Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng
Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân
Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng
Súng đạn cầy tan nát luống quê hương…
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa
Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây…”


Xe đến trạm cuối – Tân Cảng.

Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít… thuốc rê!

Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói “cảm ơn” nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ… .

Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi :
– Làm cái gì vậy ?
– Về đồn rồi biết…
Bảy Què hốt hoảng:

– Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa.
Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ “CIA” liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó!

…Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng – Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình “thua” rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng?

Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ.

Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. “Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!” Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy.

Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: “Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã bao năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt mà…”

(1984)

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Thiếu tá John Duffy, Và Bài thơ The Commander's Burial
(Colonel Nguyen Dinh Bao)

20 Tháng Bảy 20226:45 SA(Xem: 1821)
Nguyễn Minh Thanh
Vào thứ Ba, ngày 5 tháng 7 năm 2022, một buổi lễ đặc biệt cử hành ở White House, Tổng thống Joe Biden truy tặng Huy Chương Danh Dự (Medal of Honor) cao quý nhứt cho 4 cựu quân nhân Mỹ. Những người đã có công đặc biệt trong việc giúp chính phủ và quân lực Việt Nam Cộng Hoà chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.

Trong 4 cựu quân nhân có cựu Thiếu tá John Duffy. Ông là sĩ quan cố vấn cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù (Song Kiếm Trấn Ải) của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (Khoá 14, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Đà Lạt) đang trách nhiệm bảo vệ Căn cứ hoả lực Charlie, tỉnh Kontum năm 1972.
Image
Nguyễn Đình Bảo - Đoàn Phương Hải
Trung tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh ngày 12 tháng 4 năm 1972 trên đỉnh Charlie. Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn Phó lên thay.

Tiếp theo, trong trận đánh ngày 14 và 15 tháng Tư năm 1972, Thiếu Tá John Duffy đã bị thương, nhưng ông từ chối ưu tiên tản thương. Ông quyết ở lại chiến đấu với lính Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hoà cho đến cùng.

Cuối cùng vị trí quân Dù bị tràn ngập. Dưới sự chỉ huy cuả Thiếu Tá Lê Văn Mễ và sự hướng dẫn cuả Duffy, phần lính Dù còn lại đến một điểm để di tản bằng trực thăng. Song, cũng vô cùng khó khăn và đẫm máu. Tuy nhiên cuộc di tản cũng đã hoàn tất...!!
Image
Sau 29 năm phục vụ trong quân đội, Duffy tiếp tục có thành công khác. Đó là với tư cách là một nhà văn và nhà thơ, ông xuất bản 6 cuốn sách và được đề cử tranh giải Pulitzer.

Tổng Thống Biden nói:

“Cảm ơn Thiếu tá Duffy vì tất cả những gì ông đã làm để truyền cảm hứng cho những người khác.”

Dưới đây là bài thơ " The Commander's Burial " (Colonel Nguyen Dinh Bao) cuả ông viết về sự chôn cất vội vàng thi hài vị Tiểu Đoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, trước khi rời bỏ Charlie...!!

The Commander's Burial
(Colonel Nguyen Dinh Bao)


We wrap him in a poncho,
Even his dismembered legs.
He knew that he was dying,
And he spoke his last words.

"Tell my wife I loved her true.
Tell my children to remember me.
Tell my paratroopers to never surrender.
You, my officers, one final salute."

He lays in a shallow grave alone;
No bugles, no farewell rifle salute,
Only a few shovels of red earth.
His grave is marked with his helmet.

He fought bravely until the end.
He fought against heavy odds.
He has fought his last battle.
With his glory, we leave him.

John J. Duffy


***

- Bài cảm dịch cuả NMT:

Chôn Vội Vị Chỉ Huy
(Đại Tá Nguyễn Đình Bảo)


Thân Anh đặt vào ponsô
Mấy khúc chân gãy xếp vô gọn gàng
Biết mình sự chết dần đang
Tức thì căn dặn chứa chan mấy lời...

Rằng: " - Anh yêu em nhất đời
- Các con cưng quí ghi thời của cha
- Lính dù hàng giặc tránh xa
- Quan dù: chào biệt của ta lần này "

Pônsô... huyệt cạn sơ sài
Không kèn, không súng u hoài vây quanh
Đất đỏ dăm xẻng lấp nhanh
Cô đơn nón sắt: - dấu dành nhớ chung

Cảm phục,
Anh can đảm đánh đến cùng
Tiểu Đoàn kịch chiến trùng trùng bầy ong
Anh vào trận cuối... thong dong...
Chào Anh vĩnh biệt... huân công ngậm ngùi...!!


Nguyễn Minh Thanh cảm dịch

* Lời cuả Thiếu Tá John J. Duffy: Tôi không bỏ các anh, những chiến hữu đúng nghĩa nhất mà tôi chưa hề gặp trong cả đời chinh chiến. Tôi biết rõ, nếu tôi đi đợt đầu thì chắc khó hy vọng có máy bay trở lại bốc nốt các anh.

* Cảm Khái cuả người biên soạn:

Thiếu Tá John J. Duffy,

Thiếu Tá Duffy tuyệt vời, thật tuyệt vời...
Liều thân ở lại giúp bạn dưới trời cung đao
Pháo giặc:
nổ chụp, nổ chậm ào ào...
Giặc dữ gươm súng tràn vào tấn công
Quân Dù tả đục hữu xông
Sau cùng đã thoát ra vòng hiểm nguy
Trực thăng tiếp cứu tức thì
Cảm ơn Thiếu Tá Duffy
Cảm ơn Thiếu Tá duffy
Sả thân cứu giúp bạn đáng ghi anh hùng...!!

Bây giờ Cuộc Chiến cáo chung
Song le còn lắm trùng trùng khổ đau
Núi sông... xương trắng máu đào...
Khăn tang mây trắng... trời cao ngậm ngùi...!!


Nguyễn Minh Thanh
( GA, 13 - 7 - 2022 )

lequyen
Posts: 283
Joined: Sun May 22, 2011 6:22 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by lequyen »

Bên Sông Thạch Hãn –

Diệp Mỹ Linh

Để biết ơn Thương Binh V.N.C.H.

Image

… Diễn giả vừa dứt câu, tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói, hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt vẫn còn vương buồn, nhìn quanh hội trường, tiếp: “… Kính thưa quý vị, những người mà tôi đề cập chính là Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Quý vị đã xúc động mãnh liệt khi thấy hình ảnh những đoàn cựu sĩ quan Quân Lực V.N.C.H. bị cộng sản Việt Nam (csVN) bắt lao động khổ sai trong các trại cải tạo. Quý vị cũng đã phẫn nộ khi thấy những người tỵ nạn còn kẹt tại đảo bị bắt đưa lên máy bay, ép buộc trở về Việt-Nam. Vậy, quý vị nghĩ gì khi những người bị chiến tranh đoạt mất một phần cơ thể, nay đã trở thành những kẻ ăn xin ngay trên chính phần đất mà chính máu và một phần thịt xương của họ đã bồi đắp?

Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ nghĩ rằng chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi, khơi dậy làm chi nữa! Xin thưa, cứu đói Thương Binh V.N.C.H. trong lúc này không phải là khơi dậy những đau thương của cuộc chiến mà chính là quý vị đang xoa dịu nỗi đau/đang hàn gắn phần nào những tan tác/đang chia xẻ phần nào những tệ hại còn sót lại sau cuộc chiến.

Mỗi lần, sau khi chào Quốc Kỳ, hát Quốc Ca, quý vị dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những người đã bỏ mình vì nước, đã liều chết vì Tự Do – nhưng chưa bao giờ tôi nghe ban tổ chức nào ngõ lời cảm ơn Thương Binh VNCH cả!

Chính nhờ những người đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến, chúng ta mới được sống trọn tuổi thơ/được cắp sách đến trường/được sum vầy với Cha Mẹ và gia đình. Và ngày nay, với cơ thể lành lặn, chúng ta được sống đầy đủ dưới bầu trời Tự Do; còn những kẻ bất hạnh ấy đang khốn khổ và bị hất hủi bên quê nhà. Tại sao chúng ta nỡ để những người ơn của chúng ta phải đói rách và tủi buồn nơi cuối trời quên lãng?

Ngày xưa, Pháp đô hộ Việt-Nam, nhưng hình ảnh anh Thương Binh lại nên thơ như trong bài Ngày Trở Về của Phạm-Duy:

‘… Ngày trở về có anh thương binh
Chống nạn cày bừa,
Vì thương yêu anh nên ngày trở về
Có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ…’


Bây giờ, anh Thương Binh V.N.C.H. không thể ‘chống nạn cày bừa’, vì đất của Mẹ Anh đã bị csVN chiếm đoạt; anh Thương Binh phải lê lết tấm thân tàn trên hè phố/trong nhà lồng chợ/trước các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ để kiếm ăn! Miếng cơm của anh Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm cơm ngon’ mà là vũng cơm thừa! Anh Thương Binh đã ăn cơm thừa, uống nước vũng thì làm thế nào Anh có được ‘con trâu xanh’ để nó ‘hết long giúp đỡ’? Người Mẹ của anh Thương Binh cũng không ‘lần mò ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ!’; vì Mẹ của Anh đã chết tại một vùng kinh tế mới khô cằn nào đó!

Kính thưa quý vị, nếu ai đã từng chứng kiến thảm cảnh của Thương Binh V.N.C.H. khi các Anh bị Việt-cộng đuổi ra khỏi các quân y viện miền Nam, các Anh phải bò lê lết trên những con đường quanh bệnh viện; và sau đó những Thương Binh này phải lây lất xin ăn hoặc moi rác để kiếm miếng ăn, thì không ai là người không hướng tâm về những nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tương tàn ấy!

Trước tình cảnh nát lòng của tập thể Thương Binh V.N.C.H., chúng tôi tha thiết xin quý vị, những người may mắn còn lành lặn sau cuộc chiến và quý vị thuộc các ngành Nha Y Dược, Cục Quân Y, QL/V.N.C.H. – những người đã hơn một lần hàn gắn những tàn tích ghê rợn của chiến tranh trên cơ thể các Thương Binh này – hãy nghiêng xuống để tình thương lênh láng từ trái tim đầy rung cảm của quý vị, một lần nữa, nhểu từng giọt nồng, làm ấm lại những tâm hồn vỡ vụn đang bị dòng đời quên lãng!…”

Đến đây, dường như đang bị xúc động mạnh, diễn giả ngưng lại. Cả hội trường im lặng.

Từ hàng ghế thứ năm, như không nén được nỗi đau trong hồn lâu hơn nữa, Mạnh hơi khom người đứng lên, đi ra ngoài.

Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày đình chiến, 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân miền Nam và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng, dù sao, trong một thời gian, cũng giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía.

Lý do Mạnh nghĩ đến số thương vong của “phía bên kia” là vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi.

Mùi nhớ rõ, năm ấy, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại ông bà Ngoại và ông bà Nội không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Bố để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi Ông Bà mất không ai để tang, không ai nhan khói!

Từ ngày đó đến ngày hưu chiến cũng gần hai mươi năm, Mạnh không biết ông bà Nội/Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc đang có mặt trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch Hãn này.



Bây giờ sắp ngưng chiến, lòng Mạnh cũng tạm yên, bớt áy náy/đỡ bức rứt về đứa em không cùng chiến tuyến. Bất ngờ Mạnh nghe thiệu thính viên gọi nhỏ:

-Ông Thầy!

Mạnh quay lại. Hiệu thính viên lom khom đến gần:

-Đại bàng trên máy, ông Thầy.

Mạnh chụp ống liên hợp:

-Đại bàng, đây Metro!

-Giờ “nghỉ chơi” sắp điểm. Kiểm soát “con cái” của “toa” cẩn thận. Đề cao cảnh giác và tuyệt đối tuân hành lệnh “nghỉ chơi.”

-Nhận năm, Đại bàng.

Mạnh chuyển sang tầng số nội bộ và truyền lệnh đến từng tiểu đơn vị.

Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ:

-Ngưng bắn “dzồi”, anh em ơi!

Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau. Mạnh nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị csVN. Không gian quanh bờ sông trở lại tịch mịch, đầy căn thẳng và hồi hộp. Bỗng một giọng Bắc lại vang lên:

–Các anh Quốc Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i…Thích quá!

Vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác:

-Các anh Quốc Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.

Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị “Ngụy” đáp ứng, Bắc quân im lặng.

Sáng sớm hôm sau, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn:

-Đứng lại!

Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát tình hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy:

-Ngưng bắn dzồi! Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tý.


Người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười:

-Ôi Giời! Mấy hôm nay đói meo. Mỗi “nần” các anh ăn, mùi đồ hộp thơm “nừng”, tụi này thèm quá!

Thấy quả thật địch quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân.

Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười tở mở rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy Quân Lục Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng:

-Ôi Giời! Đồ đạc của các anh “hiện đại” quá! Cho sờ tý.

Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non.

Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập nhuần nhuyển, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa cho chúng ăn! Mạnh và nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín! Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn ri!

Vài tiếng súng rời rạc vang lên. Quay sang, thấy hiệu thính viên đã chết, Mạnh, một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên trái, một tay cố sức hất thân người của hiệu thính viên ra để Mạnh dùng máy truyền tin. Vừa khi ấy, một anh nón cối chạy ngang. Nghe tiếng máy truyền tin rè rè, rẹt rẹt, anh nón cối dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp trong tư thế liên lạc, anh nón cối biết “đối tượng” là cấp chỉ huy, vội hươi dao găm lên, sẵn sàng đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh ngẫng lên, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy anh nón cối cũng vừa thấy một vùng máu đỏ nhuộm thắm phần trên của túi áo; nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh. Anh nón cối đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra sau. Ngay lúc đó anh nón cối đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh!

Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của anh nón cối, bóp chặt. Anh nón cối bậm bờ môi thâm sì, ấn dao găm sâu xuống, sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn anh nón cối bằng ánh mắt ngỡ ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt!

Mạnh tỉnh lại khi chiếc trực thăng mang dấu hồng thập tự là đà, sắp đáp xuống…

* * *

Chiếc phản lực của hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tựa như tâm trạng của Mạnh dạo Mạnh vừa được phóng thích khỏi trại cải tạo Sơn Langoài Bắc, đáp xe lửa về Nam.



Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu dấy lên ngập cả hồn chàng. Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa đi trên bản đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn. Nhưng thử hỏi đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó; cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng thái bình thường!

Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng cách nay xa lắm.

Đêm đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị cho Mùi làm “cậu tú” vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố:

-Bố! Mai mốt con học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố!

-Bố mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?

-Thế Bố muốn sau này con làm gì?

-Làm bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu gì nghề danh giá, con.

-Nhưng con muốn đi lính cơ. Đi lính như Bố ai cũng thương; lính thấy thì phải chào.

-Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm.

Im lặng. Bất ngờ, xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng lao xao từ nhóm người đi buôn:

-Rồi! “Tụi nó” chận nữa rồi!

Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Bố chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi:

-Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa?

Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.

Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu nhốn nháo rời xe. Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng khô. Sau đó, mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền.



Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căn thẳng đến tột độ, bỗng một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp, Bố – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt cộng nhận ra ngay ai là lính. Việt cộng nhào đến, bắt ngay những người ấy đứng riêng ra.

Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Bố lủi thủi tuân lệnh Việt cộng thì “đồng chí chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm thường dân, lên án:

-Đồng bào thấy rõ, đây là những tên phản động, tay sai của ngoại bang, mang tâm “niếm” gót giày bọn “sen đầm” quốc tế, phản “nại” dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội trước nhân dân!

Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Thế thì liều! Bố hô lớn: “Biệt Động Quân! Sát!” Như nghe một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính VNCH vừa chồm tới, muốn lao thẳng vào toán Việt cộng thì, ngay khi ấy, khẩu đại liên – không ai biết Việt cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính VNCH không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người!

Mùi hét lên: “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Bố; nhưng một người đàn bàn kéo Mùi lại:

-Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?

Mùi hãi quá, nín thinh. Sau khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng và lẫn vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên xác của Bố và kêu khóc thảm thiết. Người đàn bà lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên. Thỉnh thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt!

Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăng xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn cộng với niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện.

Nhưng, sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẽ ra đi – vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng niềm tự tin trong chàng không còn nữa!

Khi xe lửa dừng tại ga Nha Trang, Mạnh cảm thấy lạc long và cô đơn như dạo nào chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng!

Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; bởi vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu Sinh Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít ỏi trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân thời VNCH! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ:


-Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?

-Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!

Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin:

-Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.

Một người ngồi trên Honda thấy hành động của Mạnh, vội hỏi:

-Mới được thả về hả? Muốn về đâu?”

Mạnh ngạc nhiên, đứng lên:

-Anh hỏi tôi, phải không?

-Chứ hỏi ai nữa, “cha”! “Cha” nhìn quanh đây xem ai giống “cha” không thì biết hà!

-Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật Giáo.

-Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, “cha nội”?

-Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.

-Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, “cha”.

Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền…

Dòng ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt chàng nhìn ra cửa sổ phi cơ. Phi cơ đang lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòm chân trời mà Mạnh thường thấy vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga Lăng.

Thời gian ở trại Ga Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ.

Đến Mỹ, Mạnh tìm được việc làm ở một body shop. Điều kiện làm việc trong hãng sửa xe này thật là kinh khủng! Nhưng, là một cựu sĩ quan đầy tự trọng, Mạnh chấp nhận hoàn cảnh, không xin chính phủ giúp đỡ.

Khi biết một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa, tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ một cách chính xác. Cũng vì lý do đó, khi bị Việt cộng giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia đình.


Sau khi người bạn giúp liên lạc được với bà Mẹ và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện tài chính giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn chết trận csVN xâm lấn Cao-Miên.

Không thể nào Mạnh mường tượng lại được con đường từ làng ra tỉnh lộ và từ tỉnh lộ về Hải-Phòng. Nhưng Mạnh lại nhớ rõ cảnh đàn bà con gái – theo chỉ thị của Việt-Minh, lúc đó Mùi không biết – đứng dọc hai bên đường, khóc lóc, kể lể, làm như thương yêu, tiếc nhớ đàn ông lắm, cứ níu kéo, năn nỉ đàn ông ở lại! Mùi run quá, sợ mấy bà ấy kéo Bố ở lại. Nhưng có lúc Mùi lại mong Bố bị kéo lại để Bố đừng đi, và như thế, Mùi sẽ được ở lại với Mẹ. Nhưng Bố mạnh dạng hất tay mấy bà ấy ra:

-Thôi! Đừng làm trò khỉ!

Bố và Mùi ra đi yên phần. Chỉ tội cho ông bà Nội, ông bà Ngoại, không chịu rời nơi chôn nhau/cắt rốn cho nên về sau bị csVN đấu tố đến chết, về tội điền chủ, cường hào, ác bá!

Suốt thời gian liên lạc được với Mạnh, Mẹ và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội, Ngọai. Mạnh cũng chưa dám cho Mẹ và Tuất biết Việt cộng đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết Bố – vì ngại thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây phiền toái cho Mẹ.

Đến khi Mạnh trở về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất, Mẹ mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe và Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy thương tâm của Bố.

Cái chết của Bố đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về bốn cái đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn, bất ngờ một anh công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo mời Mạnh sáng mai lên phường “làm việc”. Mạnh nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngạc nhiên, rồi dịu xuống, như thầm trách.

Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi.

Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu/vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của nòng súng/lựu đạn/dao găm và mã tấu của Tuất chết như thế nào, và động tác của mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!

Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu và trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái/vết đâm ở vùng bụng dưới và tiếng kêu rè rè/rột rột của máy truyền tin? Người Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt của “tên” sĩ quan “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh hưu chiến! Tuất nhớ dường như Tuất thấy bản tên của “hắn” là Nguyễn Văn Mạnh!


Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh ngủ không được. Tuất tăng tốc độ quạt máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng khi chiếc áo thun trắng vừa vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất hỏi:

– Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế?

Như suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa:

– Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú!

Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo:

– Người có ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!

Hai anh em cười thành tiếng. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như ngày nào anh em ở truồng tắm sông, quên giữ ý:

– Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi.

Tuất cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui:

– Đâu, đưa em xem nào!

Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng:

-Anh Mùi! (Biết Mùi đã đổi tên, nhưng Mẹ cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ, đúng không?

– Chuyện qua rồi, tìm hiểu làm chi nữa?

– Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi. Chịu không?

Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi:

– Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch Hãn hay không?

– Có! Chú hỏi để làm gì?

Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:

– Thôi, gần sang rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay.

* * *

Sau khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, Mẹ lặng người một lúc rồi thở dài:

– Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do Duyên và Nghiệp. Trường hợp của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ.

– Nhưng làm thế nào con có thể sống được với sự ray rức này, Mẹ?

– Ý con muốn như thế nào?

– Con muốn nói thật với anh Mùi để xin anh Mùi tha thứ cho con.

– Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ chỉ con và Mẹ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con!

– Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.

Nhờ những lá thư ngày trước Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Mẹ, Mẹ hiểu tâm trạng của Tuất. Mẹ đáp:

– Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mẹ nghĩ, con không cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch Hãn, vào hôm ngưng chiến!

– Vâng. Con hiểu.

* * *

Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền, Tuất tiếp:

– Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; trừ những người miền Nam tập kết, vì gia đình họ ở miền Nam, họ không sợ. Bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là cộng sản cả đâu.

– Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về.

Ngưng một chốc, Mạnh tiếp:

– Dù sao thì họ cũng là kẻ chiến thắng.

-Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một trận nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi!

– Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à?

– Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh.



Mạnh cười cười, liết chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ gì, Tuất nhìn vào chỗ bị xâm rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp:

– Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng/vào thân cây/vào trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống gì xâm bốn chữ định mệnh này!

Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất đã nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng.

Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt của Bố, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./.

ĐIỆP-MỸ-LINH

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Image

Chân dung Người Lính VNCH
Phạm Bá Hoa

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng bằng sông rạch Cửu Long, mời quý bạn lần theo dấu chân để đến, và nhận ra Chân Dung Những Người Lính ấy, sau khi có khái niệm về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang.

Có thể nhận định mà không sợ sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc “tổng công kích” của quân Cộng Sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa Hè 1972, thường gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa.” Chớ họ không thể hiểu được những chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội, của Bộ Binh, của Địa Phương Quân Nghĩa Quân, trong nội địa lãnh thổ, những chiến thắng của “Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu,” của “Lực Lượng Đặc Biệt,” của những “Toán Lôi Hổ,” của “Liên Đoàn Biệt Cách Dù,”… trong những cánh rừng già hoang dã dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui Cộng Sản từ miền Bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là “đường Trường Sơn,” xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.


Họ cũng không thể hiểu chiều sâu những trận chiến thầm lặng với sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là “biển cạn” Tháp Mười. Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của quân Cộng Sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.

Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến thuật đó của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, trong khi 500,000 quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của nó là “chiến tranh tổng thể” trên chiến trường Việt Nam chúng ta, bởi họ không thấu đáo nền văn hóa Việt Nam nên chưa hiểu được Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?”

“Họ,” là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do.

“Họ,” theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự.

“Họ,” tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự.

“Họ,” là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng hóa, là những nữ quân nhân. “Họ,” là những chuyên viên, những chiến binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh.

“Họ” có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường.

“Họ” phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân thương trìu mến là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa,” những người lính trong một hệ thống tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:

Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở.

Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt (Lôi Hổ, Biệt Hải), Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù.

Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống.

Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh.

Là Người Lính Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch.

Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào.

Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh.

Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân, đánh địch ngay trên bờ Nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp.

Đánh địch trên chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười, trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị.

Là Người Lính Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Truyền Tin, yểm trợ đồng đội trên khắp chiến trường.

Là Người Lính Tiếp Vận, Quân Trường, Chiến Tranh Chính Trị, Hành Chánh, Tham Mưu, yểm trợ đồng đội từ các hậu phương.

Người Lính đó đã miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau chiến trận. “Họ” đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! “Họ,” xứng danh là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.”

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hy sinh nhưng không được yên bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân Cộng Sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày. Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua trước tuổi. Là những người tù chính trị bị Cộng Sản lưu đày trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu tưới lên hoa màu, nhưng “Họ” chỉ được ăn những cọng rau do phân và nước tiểu của “họ” mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số “họ,” đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.

Đó, là “chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa,” mà người phương Tây chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch sử và văn hóa Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên lãnh thổ mỗi quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia, ngoài chữ “xâm lăng” ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động đó cả. Những ngôn từ mà Cộng Sản sử dụng để nói đến cuộc chiến này, đều là những dối trá đánh lừa dư luận quốc nội lẫn quốc tế, ngụy trang mục tiêu chiến lược của họ.

“Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa,” hình thành “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.” Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành.”

Vì vậy:

“Người Lính Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30 Tháng Tư năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ, nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt Nam.” (Phạm Bá Hoa)

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by bichphuong »

Image

Diễn Văn Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam[/align]


Diễn văn của Bác sĩ Hoàng Như Tùng (QYHD-6), Cựu Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, đọc trong lễ tưởng niệm tướng Nguyễn Khoa Nam tại Houston, Texas nhân ngày tang thương của đất nước.

*****

LỜI GIỚI THIỆU: Tôi, cựu Thiếu Tá Trần Văn Ngà, nguyên Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn IV và Trưởng Ban Phát Thanh Tiếng Nói Vùng IV Chiến Thuật, trên làn sóng đài Phát Thanh Ba Xuyên và Cần Thơ (1964 - 1970). Tôi nhận được bài Diễn văn của cựu Y Sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Cần Thơ từ một người bạn rất thân - cựu Trung tá Vương Văn Trổ, nguyên tỉnh Tỉnh Trưởng & Tiểu Khu Trưởng Kiên Giang. Bài diễn văn này đọc trong một buổi Lễ Tưởng Niệm vị Tướng anh hùng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết ngày 1.5.1975 tại văn phòng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV ở Tây Đô Cần Thơ. Nội dung bài diễn văn tưởng niệm Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một áng văn, tài liệu lịch sử được cô động lại qua mấy trang giấy ngắn ngủi mà diễn tả lại một cách chân thành sống động đầy đủ sự kiện một khúc quanh lịch sử của dân tộc đối với một vị Tướng Quân anh hùng vĩ nhân của đất nước và dân tộc Việt Nam, Nguyễn Khoa Nam.

Bài diễn văn tưởng niệm Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam của Y Sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng còn có thể nói là một tài liệu lịch sử hào hùng nhân bản của vị tướng quân kiệt hiệt anh dũng của dân tộc Việt Nam. Trước khi chọn cái chết liệt oanh, anh hùng tử khí hùng bất tử, Tướng Tư Lệnh Quân Khu IV còn đi thăm viếng lần cuối các thương bịnh binh còn nằm điều trị tại bệnh viện và Tướng quân còn có lòng nhân ái thăm cả kẻ thù VC bị thương đang điều trị như các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Bác sĩ Hoàng Như Tùng còn có viết vài nét chấm phá độc đáo so sánh giữa sự tuẫn tiết của hai vị anh hùng dân tộc: Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản không thể chận ngăn được quân xâm lược thực dân Pháp tại Miền Tây nên cụ Phan chọn cái chết anh hùng bất tử và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam cũng vậy, Tướng quân tuẫn tiết vì Tướng quân cũng không giữ được Miền Tây để cho quân cộng sản Bắc Việt xâm lược đô hộ Miền Tây và cả đất nước tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hoà từ 30.4.1975. Dưới đây, nguyên bài diễn văn Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam do Y Sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng đọc.

Kính thưa quý vị:

Tướng Nam bên nội thuộc gia tộc Nguyễn Khoa là một họ lớn từ đời Chúa Nguyễn Hoàng, thời nào cũng có người tài ba giúp nước. Bên ngoại là họ Nguyễn Phước, hệ vua Minh Mạng nhà Nguyễn.

Từ khi ra trường võ bị ông là sĩ quan tài ba trong chiến tranh, chức vụ cuối cùng là Tư lệnh Quân Khu IV kiêm Quân Đoàn IV quân lực VNCH.

Ông là quân nhân gương mẫu tài đức song toàn hiếm thấy của quân đội. Ông cũng là người có khiếu về hội họa, âm nhạc và là một Phật tử thuần thành, hiểu sâu về triết lý của thiền. Ông đã thừa hưởng những di truyền tốt đẹp cả bên nội lẫn bên ngoại. Một người bạn thân của ông đã mô tả ông là “con giòng cháu giống” như người Pháp nói “Bon sang ne sait pas mentir.” Khách quan hơn, xin mượn lời một phóng viên kiêm sử gia Pháp là Pierre Darcourt: “Điều đầu tiên làm cho ta chú ý đến ông là ông có vẻ mặt của một chiến sĩ cao quí.”

Còn riêng tôi, duyên nào lại gặp tướng Nam vào những giờ bi đát của lịch sử tại Quân Khu IV / Quân Đoàn IV?

Tôi vốn là người ở cùng làng với ông, làng Vỹ Dạ, nơi mà tộc Nguyễn Khoa nhiều người cư ngụ. Thuở nhỏ tôi học cùng trường với ông, trường Trung học Khải định Huế, sau ông 4 lớp. Bẵng đi thật lâu tôi mới gặp lại vào tháng 11-1974 khi ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh QK4/QĐ4 còn tôi thì đang phục vụ tại Quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. Tôi cảm thấy vui vì được làm việc với người đàn anh đồng hương. Tôi định đến dinh để kính chào thăm viếng nhưng chưa kịp thực hành ý định thì Ban Mê Thuột mất, Quân Đoàn II rút lui hỗn lọan, Quân Đoàn I vào tay quân cộng sản, chiến tranh lan đến Quân Đoàn III.

Tướng Nam rất phẫn uất. Ông đã trả lời nhà báo Pierre Darcourt: “Mọi người đang nổi giận, quân đội đang bị hạ nhục.”

Ngày 28-4-75, gặp tướng Pazzi trong đoàn ngọai giao Pháp tại Cần Thơ, tướng Nam nói “Ông làm chứng giùm tôi, Quân Đoàn IV chúng tôi không thua, chính trị Saigon đã trói tay chúng tôi, bắt buộc chúng tôi phải thua.”

Tình hình quân sự biến đổi quá nhanh, tôi hoang mang nên tìm đến gặp vị tư lệnh để xin ý kiến.

Câu đầu tiên ông hỏi tôi:

“ Quân Y có việc gì đó?”

Tôi đáp:

“Thưa thiếu tướng tình hình đất nước quá xấu. Lãnh thổ Quân Khu IV có kế hoạch gì không?”

Ông bình tĩnh trả lời:

“Đừng lo, mình vừa đi họp với phái bộ tòa đại sứ Pháp. Sẽ có giải pháp ngoại giao, miền Tây không mất đâu, còn đầy đủ quân số tác chiến.”

Tôi toan xin phép ra về, không hiểu sao ông lại hỏi:

“Nếu phải đánh nhau, Quân Y tính sao?”

Tôi đáp:

“Xin tuân lệnh.”

Ông nói tiếp:

“Quân Y cần gì?”

Tôi thưa:

“Nếu phải chiến đấu thì Quân Y Viện không có phương tiện phòng vệ để chống lại pháo 122 ly của địch. Xin thiếu tướng cho công binh xây gấp hầm nổi kiên cố để làm phòng mổ và một máy phát điện dự phòng.
Ông đáp:

“Tôi sẽ ra lệnh thi hành gấp. Có thể Bộ (Tổng - tôi thêm) Tham Mưu sẽ chuyển về Cần Thơ.
Hầm giải phẫu nổi xây gần xong thì mất nước.

Sáng ngày 30-4-75 trong lúc các đơn vị trưởng đang họp tại phòng hội Quân Đoàn IV để nghe Tư lệnh và Tư lệnh phó chỉ thị, thì tiếng loa phóng thanh loan tin tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng chờ bàn giao. Là một quân nhân, tướng Nam buồn bã thi hành lệnh thượng cấp. Đại tá Nguyễn Đình Vinh, tham mưu trưởng quân đoàn, nghiêm trang nói to:

“Binh nghiệp chúng ta chấm dứt từ giờ phút này, xin quí vị dành cho thiếu tướng tư lệnh và tư lệnh phó lời chào kính cuối cùng.”

“ Nghiêm!”

Rồi tan hàng, rã ngũ.

Phần tôi nhiệm vụ chưa hết, tôi trở về đơn vị tiếp tục phần hành chuyên môn vì thương binh vẫn còn nhập viện, lòng buồn vô hạn, ngày mai không còn tự do, cộng sản sẽ dành cho người thua trận những gì? Riêng với các tướng Hưng, tướng Nam và các tướng lãnh khác không di tản, họ sẽ ra sao? Suy nghĩ mông lung mà lệ chảy lúc nào không hay.

Suốt ngày 30-4 vẫn chưa thấy bóng dáng Việt cộng. Cần Thơ yên tĩnh một cách khác thường. 5 giờ 30 chiều quân y viện được tin tướng Nam sắp đến thăm thương bệnh binh. Ông vẫn mặc quân phục tác chiến, áo mũ vẫn còn thêu hai sao đen. Ông hỏi tôi:

“Anh còn ở lại?”
Tôi thưa:
“Dạ, giống như thiếu tướng vậy”.
Ông bảo:
“Anh đưa tôi đi thăm anh em thương binh”.
Hai chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng trĩu nặng. Nhà thương vắng hoe, bệnh nhân còn lại khoảng 200 người nằm rải rác khắp các trại, những người khác đã tự động về nhà. Ông thăm không sót một ai. Ngay cả trại dành cho thương binh cộng sản ông cũng vào đứng trầm ngâm, không nói một lời. Ôi nhân hậu làm sao!

Tiễn ông ra xe, tôi cầu mong chuyến về dinh bình an. Nếu gặp Việt cộng sự thể sẽ ra thế nào?

Đêm 30-4 không yên tĩnh như suốt ngày vừa qua. Quân nhân chưa rã ngũ mang súng bắn chỉ thiên loạn xạ, như để trút hết uất ức, căm thù. Người ta tưởng tướng Nam và tướng Hưng đánh úp VC.

Về khuya tiếng súng im. Đêm rơi vào im lặng, đêm dài tưởng chừng như bất tận. 11 giờ đêm tướng Hưng bắn vào tim quyên sinh tại nhà, vợ con có mặt. Phu nhân tướng Hưng báo tin ngay cho tướng Nam.

Vào khoảng 6 giờ sáng quân y viện Phan Thanh Giản được điện thoại từ dinh tư lệnh cho biết tướng Nam đã tuẫn tiết bằng súng lục Browning.

Tôi tuy đã dự đoán trước việc này nhưng vẫn bàng hoàng, đau thương trước cái chết của người anh hùng. Bằng xe hồng thập tự, chúng tôi rước xác thiếu tướng về để làm thủ tục khai tử, khâm liệm và an táng. Lần này đón thi thể của vị tướng tư lệnh là đủ mặt nhân viên quân y viện còn ở lại đơn vị. Ai nấy đều xúc động, rưng rưng nước mắt.

Bác sĩ trực Trần Quốc Đông (hiện ở Úc) làm tờ y chứng. Thủ tục khám nghiệm đã xong, quân y viện xúc tiến tang lễ. Kiểm điểm tư trang của người quá cố chỉ thấy:

-Một cuốn kinh Phật nhỏ đựng trong một túi nylon.

-Một khẩu súng lục hiệu Browning 7.2 mm

-Một thẻ bài kim khí cá nhân.

Ba món này đã được bỏ vào quan tài để làm vật lưu dấu phòng thất lạc thi hài người chết.

Toàn thành phố Cần Thơ xúc động vì hai tướng Hưng, Nam tuẫn tiết. Hội Hồng thập tự, do Bác sĩ Lê Văn Thuấn làm chủ tịch, biếu hai quan tài loại tốt nhất, dành cho tướng Nam và Bác sĩ Nguyễn Văn Tựu, y sĩ đại úy thuộc Quân Đoàn IV, bị VC sát hại đêm 30-4-75.

Thi thể tướng Nam được trang trọng đặt nằm trên một brancard có trải drap trắng. Ông nằm như ngủ, mặt hiền từ trắng xanh, tay chân còn mềm. Bên cạnh là thi hài của bác sĩ Tựu.

Bàn thờ hai vị được thiết lập đơn sơ nhưng trang nghiêm, có nhang thơm nến cháy. Toàn thể nhân viên quân y viện buồn bã nghiêng mình tiễn đưa vị anh hùng và người thầy thuốc chết vào giờ thứ 25 của cuộc chiến.

Nắp áo quan đóng lại. Anh em sĩ quan, trong đó có tôi, khiêng quan tài tướng Nam và Bác sĩ Tựu ra xe dân sự tiến về phía nghĩa trang quân đội Cần thơ. Hướng dẫn xe tang và chỉ huy lễ hạ huyệt do thiếu tá dược sĩ Mai Bá Vỵ sĩ quan CTCT thi hành. Một bán tiểu đội cơ hữu của quân y viện phụ trách việc đào huyệt. Rất may tang lễ được hoàn tất trước khi người của chế độ mới vào tiếp thu Bệnh viện.

Trước khi bước vào phần kết thúc tôi xin phép được sơ lược nêu lên vài điều đặc biệt trong cái chết của tướng Nam.

1) Thứ nhất, có một sự trùng hợp giữa tướng Nam và cụ Phan Thanh Giản, kinh lược sứ miền Tây nam phần năm 1867, cách đây 141 năm: hai vị cùng trấn nhậm miền Tây, hai vị cùng tuẫn tiết khi không bảo toàn được lãnh thổ, và lễ an táng tướng Nam được cử hành tại quân y viện mang tên Phan Thanh Giản.

Tuy nhiên cũng có một điểm khác biệt. Vì không giữ được 3 tỉnh miền tây, mặc dầu đã tự sát, cụ Phan đã bị vua Tự Đức và triều đình giận dữ và cho đục tên cụ trên bia tiến sĩ. Còn tướng Nam thì muốn đánh trả quân thù nhưng bị thượng cấp trói tay.

2) Tướng Nam tuy đã chết nhưng hùng khí vẫn còn làm quân địch lo sợ. Họ nghĩ là ông chưa chết, tử thi an táng không phải thật. Họ định quật mồ nhưng đã không làm được. Dân chúng Cần thơ tin là ông vào lập chiến khu ở trong bưng để chờ ngày phục quốc. Những ai có mặt ở Quân Khu 4 vào những ngày đó đều biết.

3) Chiều 30-4 ông đi thăm các chiến sĩ đang bị thương tật ở Bệnh viện Phan Thanh Giản, sáng hôm sau, 1 tháng 5, ông là một tử sĩ được chính Bệnh viện này rước về làm tang lễ. Chiều hôm trước ông đi thăm thương bệnh binh, sáng hôm sau anh linh ông đi thăm các tử sĩ tại nghĩa trang quân đội Cần Thơ, và ông an nghỉ nơi đây cùng với họ gần 10 năm, cho đến ngày cải táng.

4) Các tướng lãnh tuẫn tiết như tướng Phú, tướng Hai, tướng Vỹ, tướng Hưng có thân nhân lo về chung sự, trong niềm thương đau và không khí gia đình ấm cúng. Riêng tướng Nam, suốt đời binh nghiệp ông sống độc thân, lấy quân đội làm đại gia đình, lấy đơn vị làm tiểu gia đình. Và cuối cùng ông được quân đội và chiến hữu lo tròn tang lễ với lễ nghi quân cách, ấm cúng tình huynh đệ chi binh.

5) Việc cải táng phục tang cho ông mang nhiều chi tiết ý nghĩa. Tháng hai năm 1984 người em dâu tướng Nam, vợ của cựu thượng nghị sĩ Nguyễn Khoa Phước, bào đệ của ông, là giáo sư Kim Đính về Cần thơ bốc mộ và hỏa táng. Những gì quân y viện Phan Thanh Giản bỏ vào quan tài khi khâm liệm vẫn còn đủ: thẻ bài căn cước cá nhân, cuốn kinh Phật, khẩu súng Browning đã rỉ sét. Khi qua phà Cần thơ bà lặng lẽ khấn vái rồi thả xuống sông Hậu nửa số tro như là thủy táng cho ông để kỷ niệm vùng đất ngày trước ông trấn nhậm, nửa kia đem về thờ ở chùa Quảng Hương Già Lam, Saigon. Mỗi lần có dịp về Saigon tôi thường đến thắp nhang tưởng niệm.

Tướng Nam đã đi vào lịch sử bằng nhiều bút tích ghi lại biến cố 30-4-75, và không ít thi sĩ đã viết về Người, mà thơ là tiếng nói trung thực nhất của tâm hồn. Để kết thúc tôi xin mượn bài thơ sau đây của một quân y sĩ quân lực VNCH là Bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ viết truy điệu người anh hùng:

Một mai sau
Và mãi mãi muôn đời
Nguyễn Khoa Nam
Tên Người còn nhắc nhở
Người anh hùng vị quốc vong thân
Sinh vi tướng, tử vi thần
Một cái chết muôn ngàn lần sống
Một cái chết không đầu hàng giặc cộng
Để miền Nam kiêu hãnh ngẩng mặt lên
Cho Hương giang rửa sạch ưu phiền
Và Tiền giang triền miên thương tiếc.


Kính thưa liệt quí vị,

Đến đây là thật sự kết thúc. Trước khi dứt lời tôi thành thật xin lỗi là đã lạm dụng thì giờ quí báu của quí vị quá nhiều, vì những biến cố lịch sử chỉ xảy ra có một lần và nhân chứng cũng chỉ sống có một đời, chắc quí vị niệm tình tha thứ. Nay người thuyết trình là một quân nhân xấp xỉ 80 tuổi, trước khi đi xa có đôi lời tâm huyết bộc bạch sự thật được chứng kiến để tỏ lòng tôn kính, tri ân quý vị anh hùng liệt sĩ.
Và một lần nữa kính cám ơn ban tổ chức đã bỏ bao công sức và tâm huyết để thực hiện buổi lễ ý nghĩa hôm nay.

Hoàng Như Tùng,
Khóa 6 Quân Y Hiện Dịch (QYHD-6)
Nguyên Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ.

muoiot
Posts: 100
Joined: Sat Sep 19, 2009 6:52 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by muoiot »

Image
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng bằng sông rạch Cửu Long, mời quí bạn lần theo dấu chân để đến, và nhận ra Chân Dung Những Người Lính ấy, sau khi có khái niệm về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang. Có thể nhận định mà không sợ sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc “tổng công kích” của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa hè 1972, thường gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Chớ họ không thể hiểu được những chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội, của Bộ Binh, của Địa Phương Quân Nghĩa Quân, trong nội địa lãnh thổ, những chiến thắng của “lực lượng Dân Sự Chiến Đấu”, của “Lực Lượng Đặc Biệt”, của những “Toán Lôi Hổ”, của “Liên Đoàn Biệt Cách Dù”, ..v..v.. trong những cánh rừng già hoang dã dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui cộng sản từ miền bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là “đường Trường Sơn”, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.

Họ cũng không thể hiểu chiều sâu những trận chiến thầm lặng với sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là “biển cạn” Tháp Mười. Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của quân cộng sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.



Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến thuật đó của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, trong khi 500.000 quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của nó là “chiến tranh tổng thể” trên chiến trường Việt Nam chúng ta, bởi họ không thấu đáo nền văn hoá Việt Nam nên chưa hiểu được Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.
Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?”

“Họ”, là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do.

“Họ”, theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự.

“Họ”, tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự.

“Họ”, là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng hoá, là những nữ quân nhân. “Họ”, là những chuyên viên, những chiến binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh.

“Họ” có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường. Khi tổ quốc lâm nguy,

“Họ” phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân thương trìu mến là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, những người lính trong một hệ thống tổ chức chặt chẻ, kỷ luật nghiêm minh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:

Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở.

Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt (Lôi Hổ, Biệt Hải), Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù.

Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống.

Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh.

Là Người Lính Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch.

Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào.

Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh.

Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân, đánh địch ngay trên bờ nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp. Đánh địch trên chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười, trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị.

Là Người Lính Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Truyền Tin, yểm trợ Đồng Đội trên khắp chiến trường.

Là Người Lính Tiếp Vận, Quân Trường, Chiến Tranh Chính Trị, Hành Chánh, Tham Mưu, yểm trợ Đồng Đội từ các hậu phương.
Người Lính” đó đã miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau chiến trận. “Họ” đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! “Họ”, xứng danh là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”.
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hi sinh nhưng không được yên bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân cộng sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày. Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua trước tuổi. Là những người tù chính trị bị cộng sản lưu đày trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu tưới lên hoa màu, nhưng “Họ” chỉ được ăn những cọng rau do phân và nước tiểu của “Họ” mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số “Họ”, đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.
Đó, là “chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, mà người phương Tây chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch sử và văn hoá Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của cộng sản Việt Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên lãnh thổ mỗi quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia, ngoài chữ “xâm lăng” ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động đó cả. Những ngôn từ mà cộng sản sử dụng để nói đến cuộc chiến này, đều là những dối trá đánh lừa dư luận quốc nội lẫn quốc tế, ngụy trang mục tiêu chiến lược của họ.



“Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, hình thành “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”. Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành”.

Vì vậy:
“Người Lính Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ, nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt Nam”.


Phạm Bá Hoa

Post Reply