QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Thơ Nguyễn Đức Mạnh, HNC 58-65

Post by linhgia »

Anh Thạch,

đã nhận và xem hình Tr/U Thạch ngày chàng 26 tuổi. Hình này đẹp trai lắm, cho tui liên tưởng đến "Thạch Bi" của Tiểu học Đa Kao (tức là Tiểu Học Đinh Tiên Hoàng) nhiều hơn. Như vậy, cùng với hình "chàng" son trẻ, gia đình đã xác minh chàng (Thạch Râu) cũng chính là Thạch Bi cùng theo học với lhtc tui thời lớp Nhất, dám cả mấy lớp Nhì và Ba lắm, có cô giáo Ngọc Hương (người Huế). Như vậy, cả hai đứa mình có học chung với Võ tá Hân (đang ở Singapore) là nhạc sĩ sáng tác kiêm ông thầy đờn vua Flamenco bây giờ. Ngoài ra trong lớp Nhất ấy còn có cả Vũ Tất Thắng, bạn của Vũ trung Hiền nữa ...

Còn tại sao gọi là Thạch Bi, thì khi nào gặp gỡ, khao tui một chầu nhậu bình dân (= quán nhậu tên Bình Dân ở góc Mac Fadden & Brookhust, nam Cali) tui sẽ cắt nghĩa cho nghe.

Gởi bạn hình chụp của lhtc - cũng 26 t - cuối 72 trong chiến dịch đánh chiếm Động Ông Đô (căn cứ Ann) để tái chiếm Quảng Trị Hình chụp tại một cứ điểm đóng quân, sau lưng là giòng sông Nhung nước xanh trong vắt, mà bờ thì rải đầy đá cuội tròn trắng phau phau. Đơn vị sau đó cứ thế Tây tiến, đến Động Ông Tiên (gần mật khu Ba Lòng của Đại Việt), cho đến ngày ký kết HĐ Paris 1973.

Nhân tiện, gởi luôn bài thơ "Ngày Mây Tháng Lá" tui viết cho chiến trận này ...

thân,
lhtc

Ngày mây tháng lá
những ngày như lá tháng như mây (HHT)

gửi APV và bè bạn Mũ đỏ để nhớ - lhtc



tháng Một đổ quân Ông Đô
sông Nhung một dòng xanh biếc
đá cuội trắng phau lâu khô
sương mù dạ buồn ra riết

chiều chiều ngó đỉnh mờ xa
lá xanh đếm đỏ con mắt
cành khô trơ gan tuế nguyệt
núi cũng đau xé thịt da

quân xuống chiếm đóng đỉnh cao
ở đây gần trời xa đất
thằng đi thằng ở thằng vào
đâu biết ai còn ai mất

theo nhau từng khe từng trũng
rượt nhau chân núi đàn khê
chợt nhớ câu thơ rất cũ
cổ nhân chinh chiến, (mấy) ai về ?

bông Dù nằm vương gãy cánh
cải trời thôi bay tung tăng
o Huế xôn xao bè bạn
có hay người bỏ đi nằm ?

vuốt mắt thằng bạn hôm qua,
chia tay mỗi người mỗi ngả
poncho hết che thân mưa
gói đời ngàn thu giấc ngủ

tháng Chạp địch vây tứ bề
ăn ở một vùng giam kín
trời mù trực thăng khôn vô
địch, ta quẩn quanh lũ kiến

gạo sấy nhá từng vụm nhỏ
càphê lược lại từng ngày
trà khô vấn thay thuốc điếu
khói xanh, um nỗi buồn hiu

tháng Giêng bắt tay bè bạn
xôn xao người lại gặp người
chiến địa nao nao thu dọn
nỗi chết giống nhau địch, ta

quân kéo về dưỡng ven thôn,
rượu say khóc ròng bằng hữu
điếu thuốc đốt nhang chiêu hồn
đón bạn về đây tống tửu

theo nhau trở lại phố thị
hồn nhiên nói nói cười cười
ba lô cất đáy nỗi chết
mai này giở ra mấy hồi

tháng hai, tháng tư, tháng năm
ngày qua không ai bóc lịch
đời lính mây bay trăm năm
một cõi đi về ai biết

hôm nay lòng chợt ngậm ngùi
giở câu thơ cũ chôn vùi ngày xanh
mây vẽ chó, khói xây thành
hỏi hồn bè bạn quẩn quanh cõi nào ?

Nguyễn Đức Mạnh
HNC 58-65

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Lữ Đoàn 147, Từ Một Cuộc Di Tản Chiến Thuật 1975
Tuesday, April 05, 2005 Mũ Xanh Phạm Văn Tiền


Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu TQLC, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía bắc vùng đất trách nhiệm của SÐ/TQLC vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niệm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi!

Ðầu tháng 3 năm 1975, CS Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuột sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác.

Trong khi đó tuyến phòng thủ phía Bắc do SÐ/TQLC đảm trách vẫn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 SÐ tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Ðông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng tái chiếm cổ thành Quảng Trị ngày 14-9-72, SÐ Nhảy Dù được điều động về mặt trận Ðức Dục, Quảng Nam. SÐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía tây thuộc dãy Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, động Ðông Ðô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ... Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ÐPQ tiểu khu Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tư lệnh SÐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dầu là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SÐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn công tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của tiểu đoàn 6 TQLC vào tháng 10-1972, cuộc hành quân thần tốc tiến chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đặc biệt Lữ Ðoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.

Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ TTM - QLVNCH đã quyết định điều động phần lớn các lực lượng TQLC về Nam gồm các LÐ258, 369 và 468 vừa mới được thành lập. Lữ đoàn 147 do Ðại tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các tiểu đoàn 3, 4, 5 TÐ2 pháo binh, 2 đại đội Viễn thám và TÐ 7/TQLC thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm Tango do Ðại tá Tư lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hổng to lớn trên là 2 Liên đoàn BÐQ với trang bị và quân số hao hụt. Ðây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngõ sau này ở mặt trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 8/3/75, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một Trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng tây quốc lộ 1, cây số 23. Ðơn vị này được chỉ huy bởi Trung úy Sàng ÐÐP/ÐÐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can trường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu tá Trần Ngọc Toàn tiểu đoàn trưởng TÐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, tiểu đoàn 121/ÐPQ Tiểu khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch, khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Ðiền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Mang Cá Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Ðà Nẵng và hậu trạm cũng được lệnh BTL/SÐ mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ÐÐ2/TÐ5/TQLC. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội nầy bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Ðại úy Trần Văn Loan ÐÐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này BCH Lữ đoàn. Ðại tá LÐT ra lệnh là phải bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại được vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, đại đội 4 của Ðại úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ bắc Quảng trị kéo về Huế thật hỗn độn, Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngõ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía nam cầu An Lỗ. TÐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển Ðông, phòng tuyến cao nhất phía bắc của miền Nam.

Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận được lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LÐ, Ðại tá Lương LÐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biển Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch... Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loạt pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu”... máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bay giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn nay trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nỗi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận.

Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm được đơn vị rút lui một cách trọn vẹn an toàn, hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30km. Thiếu tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Ðại úy Giang Văn Nhân, Ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiểu đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiễn TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném thẳng xuống dòng sông. Ðại đội 1 của Ðại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không sử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt xuôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng về quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Ðã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Ðến trường Trung học Hương Trà nằm sát lề Ðông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát trễ nải sau cùng. Ðiều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội nghĩa quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trưởng già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh... từ ngày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa CS bạo tàn. Vài cụ già chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao, liệu có còn đủ sức hay phải kiệt hơi ngã quỵ dọc đường.

Rời ngã ba An hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóe lên bầu trời u tối do những trái sáng được ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiểu đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới đến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên nầy cầu, chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc nầy. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuộc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu. Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng lẩn quẩn ấy! Vài cơn gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình cảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Ðạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Ðường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, quả thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.

Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp đại bàng Long Mỹ (Ðại tá LÐT, ông giao cho một xấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuận An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống:

- Nhậu đi Ðại Bàng đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.

- Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt.

Từ hướng quán cơm Âm Phủ một người đàn ông già trạc 60 tuổi, tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.

- Coi chừng Việt Cộng đó đại bàng.

Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này ngay cả toán lính đập phá kia - có điều tại sao trong hoàn cảnh như thế này mà ông ta vẫn là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Ðập Ðá một quãng nữa, bắt đầu tẻ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đắm trong màn đêm u tịch, đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên trong những khu vườn trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Ðến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.

- Phá hủy xe đi ông thầy.

- Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.

Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng.

- Ai ngu để cho lũ ác ôn sử dụng, mình không dùng, phá hư luôn... hì... hì...

Ðến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên nầy phá Tam Giang mênh mông, niềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài.

Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa đủ để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẫm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hứa hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo sấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng sớm hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bãi bốc để lên tàu. Ðó là khoảng 2 giờ ngày 25/31975. Cả lữ đoàn tập họp trên bãi cát trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Ðâu phải chỉ việc sắp hàng chờ đợi lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phá, địch đã trà trộn trong đoàn quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QÐ1), chiếc HQ801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn loạn kia, họ cũng cần được cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai còn nghĩ đến ai, chà đạp tranh giành nhau để mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngoe nguẩy. Như sức bật của cái lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M113 lội nước ủi tới đè lên, tiếng rên la gào thét. Một cơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng dập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ.

Ðịch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Ðịch đã bắt sống một số người lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.

Bãi bốc đã không có an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Ðể được an toàn hơn, Lữ đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng để đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo con sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dễ nhận ra nhất là Ðại úy Ân ÐÐT/ÐPQ Tiểu khu Quảng trị.

Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Ðông Hà, Quảng trị dọc đại lộ Kinh Hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dầu sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp cứu phía sau. Còn ở đây hoàn toàn rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên Lữ đoàn hơn 3 ngàn quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn khoảng 4km2, đang giơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác yểm trợ đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào, đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng. Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buông xuống. Lữ đoàn quyết định rải quân phòng thủ. Tiểu đoàn 4, 7 phụ trách mặt trận Tây. Tiểu đoàn 3 phía Nam, Tiểu đoàn 5 chúng tôi phía Bắc. Ðại úy Tô Thanh Chiêu, ÐÐT/ÐÐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TÐP/TÐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Ðiều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa, định mệnh! Tin từ BCH/LÐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LÐ, TÐ2PB, TÐ4, TÐ3, TÐ5, TÐ7... Ðúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càng sớm càng tốt để không làm vướng bận các lực lượng còn lại. Nhưng cả BCH/LÐ mà đi hết thì ai sẽ là người ở lại chỉ huy chúng tôi. Ðiều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.

Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cặp bến. Trăng vẫn lên cao, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.

Rạng sáng ngày 26/31975, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Ðông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Ðã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LÐ và các thương binh từ các đơn vị mang đến. Ðịch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Ðây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang ổ cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 + M41 đã nghiền nát vô số lính CS Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài. Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu tròng trành nhổ neo tách bến. Ðể bớt căng thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng chiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng đủ để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây”. Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Ðằng Phương TÐT/TÐ2/PB. Ðại úy Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút sử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.

- 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.

- Vâng! Nhận rõ 416!

207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TÐT/TÐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá Nguyễn Ðằng Tống LÐP/LÐ147.

Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Ðạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vặn máy sang tần số BTL/SÐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Ðà Nẵng. Người tiếp tôi là Ðại úy Ðan, tùy viên tư lệnh:

- Ðại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SÐ/TQLC.

- Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.

- Nhờ Ðại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.

- Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!

Mặt mày tối tăm, xây xẩm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát... self-service... có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai nấy lo, có thể là tan hàng!

Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chúng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phía bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, Tiểu đoàn 4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Ðinh Long Thành, tân tiểu đoàn trưởng của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất kể là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HSI Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẵn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép bộ TTM cấp hẳn hoi với lý do: “uy tín cấp chỉ huy”.

- Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài bao gạo sấy để phòng thân.

Nam do dự mếu máo:

- Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng òa lên khóc.

- Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.

Ðầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Ðại úy Ðan là ông anh nên “self-service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7, cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nước, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố huỵch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Ðiều này quá tráo trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn mặt lại nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ÐÐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu tá Cang và Thiếu tá Sử TÐT/TÐ3 Sói Biển, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đường máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.

Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít lối, vì nếu có trầy da tróc vảy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1, 2, 3, 4,... 1, 2, 3, 4... “đường trường xa con chó nó tha con mèo...” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng theo kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Ðứa con đầu của tiểu đoàn 3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đun tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc nầy, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật trời gia hộ “cùng tắc biến, biến tắc không”.

Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ ghe là một gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là bọn VC nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế’, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Ðây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ... vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi lại phải chạy trốn giặc Cộng, thằng chủ ghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ mười mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chỗ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!

Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đoạn đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây... bởi đâu? do đâu? vì đâu?”

***

Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đày của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy... 27/31975 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi...


Mũ Xanh Phạm Văn Tiền.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image MẸ VIỆT NAM ƠI Nhạc : Nguyễn Ánh 9
Thơ : Hoàng Phong Linh
Tiếng Hát : Việt Dũng & Nguyệt Ánh
Last edited by khieulong on Fri Apr 08, 2005 10:54 pm, edited 1 time in total.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Saigon niềm nhớ không tên
Nguyễn Ðình Toàn



Saigon ơi ! Ta mất người như người đã mất tên,
như giòng sông nước quẩn quanh buồn
như người đi cách xa mặt lòng
Ta hỏi thầm em có nhớ không?
Saigon ơi ! Ðến những ngày ôi hè phố xôn xao
trong niềm vui tiếng hỏi câu chào
sáng đời tươi thắm vạn sắc màu, nay còn gì đâu...
Ai đã xa nhớ hàng me già, thu công viên hoa vàng tượng đá
Thôi hết rồi mộng ước xa xôi, theo giòng đời trôi...

Saigon ơi ! Ðâu những ngày mưa mùa khoác áo đi
tay cầm tay nói nhỏ câu gì
Những quầy hoa quán nhạc đêm về,
còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly
Saigon ơi ! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau
Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu
mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu, còn gì đâu...

Saigon ơi ! Ta mất người như người đã mất tên
mất từng con phố đổi tên đường
khi hẹn nhau ta lạc lối tìm, ôi tình buồn như đã sống thêm
Saigon ơi ! Tôi mất người như người đã mất tôi
như trường xưa mất tuổi thiên thần
hy vọng xa hay mộng ước gần, đã lìa tan...

Trăng ơi trăng, có còn chăng là
Sao ơi sao, sao mờ lệ nhớ
Saigon ơi ! Ta mất người như người đã mất tên
như hàng cây lá đỗ trông tìm
Mặt trời trong cánh nhỏ chim hiền
Ðã ngậm sầu ngang môi lặng im
Saigon ơi ! Ta mất người như người đã mất tên....





[ram]http://www.fanexpress.net/rfts/mp3/tuli ... ngQuen.mp3[/ram]
Saigon niềm nhớ không tên .

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

.


Cho một thành phố mất tên
sáng tác: Phạm Ðình Chương
Thơ Hoàng Ngọc Ẩn
Khánh Ly trình bày



Em Sài Gòn đẹp nhất về đêm
Tiếng hoa rơi nhạt nắng mây chìm,
nét môi duyên nụ cười huyền hoặc,
nhạt nắng mây chìm phút chốc trần gian lãng quên

Ta thương em tàn hơi thở cuối,
ta nhớ em trọn kiếp lưu đày
Ngày ta đi bàng hoàng đau thương nhớ
giã từ nhau ngậm ngùi như trong bóng mây

Ðường cũ có còn in bóng, áo ai còn theo gió bay
Tiếng guốc còn vang phố vắng
hay đã tàn trong ngõ hẹp chiều nay
Ta nhớ từng cơn mưa bụi nhỏ

Ta chờ nhau từng cuối phố mưa sa
Từng cơn lạnh mưa giao mùa đến, mua sớm thu về en xót xa
Ôi đời đã vô tình không tiếc thương, ngõ xưa đã hụt lối thiên đường
Còn đấy hơi thở xanh sao mộng, em mất tên rồi ta vấn vương
Còn đấy hôi thở xanh xao mộng, em mất tên rồi, ta vấn vương



Xin right click để save xuống máy
Cho một thành phố mất tên

.

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Đêm Nhớ Trăng SàiGòn

Sáng Tác: Phạm Đinh Chương
Thơ: Du Tữ Lê
Trình Bày: Thái Thanh

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

30 năm nhìn lại cuộc chiến: Trả thù

Monday, March 28, 2005 Người Không Tên


Gần 30 năm mất nước chắc chắn không ai biết anh Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân NGUYỄN VĂN TẠO thuộc Tiểu Khu Hậu Nghĩa đã chết do Việt Cộng trả thù. Nhưng hôm nay nói đến sự kiện ấy, có ai còn tin là sự thật đã như thế không ? Cho dù tin hay không, tôi vẫn cố gắng ghi lại để tưởng nhớ vong linh người chiến sĩ nông thôn đã chết cho lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Chiều 30 tháng 4 năm 1975, một buổi chiều ảm đạm thê lương bao trùm khắp miền Nam yêu dấu. Vùng trời Hậu Nghĩa có mưa rơi lác đác tạo thêm cảnh buồn da diết. Quân cán chính tỉnh Hậu Nghĩa rã hàng, đường ai nấy thoát. Riêng anh Nguyễn Văn Tạo, Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân đồn trú tại đồn nằm ngay trên trục lộ giao liên của Việt Cộng thuộc tỉnh lộ số 8 giữa ấp Xóm Cũ và Giồng Giáng. Từ khi trung đội của anh Tạo chuyển về đồn trú ở đây, anh khóa chặt đoạn giao liên của VC. Trung đội của anh đã diệt khá nhiều cán bộ và du kích hạ tầng cơ sở của chúng thuộc hai ấp Xóm Cũ và Giồng Giáng. Do đó chúng căm thù, treo án tử hình anh. Chiều 30 tháng 4 năm 1975 anh cho anh em binh sĩ rã hàng, tự tìm cách thoát thân. Phần anh, anh quyết định ở lại đồn để tùy cơ ứng phó. Ngay thời điểm đó, bọn du kích địa phương ấp Xóm Cũ do Út Sẻ chỉ huy kéo đến bao vây đồn để bắt anh xử tội.

Một mình anh không thể chống cự nổi với hơn một trung đội địch, anh đành phải tháo chạy tìm cái sống trong cái chết dưới lằn đạn AK độc ác. Thoát ra được khỏi đồn, anh băng ngang qua ấp Xóm Cũ, đến Bào Heo rồi băng ngang qua đường mòn chạy vào ấp Thôi Môi. Anh đuối sức, nhìn lại phía sau, thấy bọn VC đuổi gần kịp, hơn nữa anh không thể tiếp tục chạy được nữa vì bọn du kích ấp Thôi Môi đã khóa chặt đường thoát. Do đó anh chạy thẳng vào nhà mẹ tôi ở đầu ấp Thôi Môi, cách ngã ba đường mòn khoảng 400m. Lúc đó mẹ và anh tôi đang làm ở bên ngoài, mẹ tôi quét lá, anh tôi đốn (chặt) tre. Thấy vậy, mẹ tôi và anh tôi bỏ lửng công việc, chạy nhanh vào nhà bảo anh Tạo chui vào cái bồ lúa nằm im (cái bồ lúa chỉ còn 1/3 lúa thôi). Mẹ tôi lấy hết mười tấm đệm phơi lúa đậy kín toàn thân anh lại. Nhanh như chớp, mẹ và anh tôi trở ra bên ngoài tiếp tục công việc như cũ. Chỉ cách vài giây đồng hồ thì bọn VC ào tới quát tháo gọi mẹ tôi và anh tôi vào trước sân nhà hạch hỏi: “Thằng ngụy chạy vào đây, nó chui trốn chỗ nào ? “Mẹ và anh tôi trả lời: “Không biết, không thấy vì hai mẹ con tôi đang làm ở bên ngoài !” Út Sẻ quát nạt: “Thím và thằng Năm giấu nó ở đâu, phải lôi cổ nó ra nộp cho Cách Mạng trừng trị nó. Nếu thím và thằng Năm ngoan cố che giấu nó trong nhà thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với Cách Mạng”. Mẹ và anh tôi vẫn cương quyêát lập lại câu trả lời lúc nãy: “Không biết ! Không thấy !”. Út Sẻ: “Mẹ con thím vẫn ngoan cố, nếu Cách Mạng bắt được nó ngay trong căn nhà của thím thì mẹ con thím tính sao với Cách Mạng ?”. Mẹ tôi nổi giận trả lời: “Tôi không biết, không thấy, mẹ con tôi là dân, Cách Mạng muốn xử thế nào là tùy ở Cách Mạng !”

Út Sẻ nghe mẹ tôi nói càng thêm sôi máu giết người, hắn quát tháo: “Mẹ con thím lừa dối Cách Mạng, Cách Mạng không thể tha thứ !” Vừa dứt lời, hắn ra lệnh cho bọn du kích xông vào trong nhà lục soát kỹ không chừa một hóc, kẹt nào. Bước tới bồ lúa, chúng bốc hết mười tấm đệm phơi lúa lên thì thấy anh Tạo. Sự việc diễn biến quá nhanh nên anh chưa kịp phản ứng thì chúng đã dí súng bắt sống, trói quặp lôi ra khỏi bồ lúa dẫn ra sân. Út Sẻ hỏi mẹ tôi : “Ai đây mà mẹ con thím cố tình lừa dối Cách Mạng. Tội của mẹ con thím ngang bằng tội của thằng ác ôn này”. Nói xong, Út Sẻ hạ lệnh cho bọn du kích lôi thếch anh Tạo hướng về cửa ngõ nhà mẹ tôi. Hai tay anh bị trói quặp lại sau lưng, miệng và hai mắt bị bịt kín. Không thể nào chống cự nổi với những báng AK nện tới tấp vào thân người anh. Đến đầu ngõ, chúng dừng lại, Út Sẻ phát loa thông báo cho dân ấp Thôi Môi biết rằng chúng vừa bắt sống được tên ngụy ác ôn, ngoan cố chống lại Cách Mạng, không chịu buông súng đầu hàng, Cách Mạng phải xử tử để làm gương. Tiếng loa vừa dứt thì một loạt AK nổ dòn. Những viên đạn ác nghiệt phát ra từ nòng súng của Út Sẻ đã kết liễu cuộc đời một chiến sĩ nông thôn oai dũng. Anh Tạo đã từ biệt Hậu Nghĩa thân yêu, đền xong nợ nước vào lúc 18 giờ 30 chiều 30-1975.

Anh Tạo nằm xuống trong âm thầm lặng lẽ. Đồng đội không ai hay biết. Dân chúng thờ ơ, lảng tránh vì sợ vạ lây, chỉ có mẹ và anh tôi tận mắt chứng kiến thảm kịch từ đầu đến cuối. Anh Tạo chết đi bỏ lại đàn con thơ dại với vợ hiền nghèo khổ, quanh năm đội nắng, phơi mưa làm mướn nuôi con ở ấp Giồng Ngang thuộc xã Hòa Khánh, Đức Hòa, Hậu Nghĩa.

Trả thù xong, có lẽ Út Sẻ đã quá hài lòng nên vội vã ra lệnh đồng bọn rút nhanh trở về ấp Xóm Cũ, không quay vào nhà để trừng trị mẹ và anh tôi như lời hắn đe dọa lúc nãy. Nhưng kể từ ngày giờ ấy đến mãi về sau nầy, mẹ và anh tôi bị cô lập hoàn toàn trong cuộc sống đến nỗi không mua được một giọt dầu lửa để thắp đèn, vì chúng ghép vào thành phần phản động. Nếu như việc trả thù không kéo theo những chuỗi dài éo le, uẩn khúc thì người sống, kẻ chết dần đà sẽ khuây nguôi theo năm tháng. Nghịch lý thay, trớ trêu thay, người chết thì hồn oan vất vưởng, hận oán thiên thu, vợ con vô vàn khổ ải. Còn kẻ giết người, độc ác vô nhân thì được hưởng những lợi lộc, giàu có vinh thân.

Sau ngày 30-4-1975, đứa con trai của Út Sẻ được chuyển về làm công an của quận 8 thành phố Sàigòn. Tên này tổ chức vượt biên đường biển để hốt vàng. Đến 1978 thì chuyện ấy bị đổ bể vì ăn chia không đều, nhưng riêng cá nhân hắn thì đã hốt được vàng ký. Nếu hắn không tìm cách thoát thân thì sẽ bị ở tù, do đó hắn trà trộn vượt biên cùng chuyến với những thuyền nhân dân sự khác. Chuyến đi đường biển thuận buồm xuôi gió. Sau đó hắn được nhận cho định cư ở một nước thứ ba, nước nào không ai được rõ vì hắn cố giấu kín, không cho ai biết hắn đang sống ở nước nào. Đến năm 1984 thì hắn bảo lãnh cha ruột là Út Sẻ. Thế là Út Sẻ ra đi theo diện đoàn tụ, thoải mái, ung dung tận hưởng những thứ mà ở các nước tự do chỉ dành cho những người bị tước đoạt quyền sống. Đúng là cha con Út Sẻ đã cướp đi của anh Tạo tất cả mọi thứ trên cõi đời nầy.

Gần 30 năm, tâm tư tôi không lúc nào được yên ổn bởi cảm thương trước cái chết oanh liệt của anh Tạo, người chiến sĩ nghĩa quân gan lì của Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Từ đó càng thêm oán hận Út Sẻ dã man, tàn bạo, kẻ ngậm máu phun người, tội đồ của dân tộc mà chúng đã và đang được tận hưởng mọi thứ ở một nước tự do dân chủ.

Xin cầu nguyện cho Chiến Sĩ Nghĩa Quân Kiên Cường bất Khuất Nguyễn Văn Tạo.


(Trích Đặc San Hậu Nghĩa)

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Tô Phạm Liệu: Người trở lại Charlie

Lật qua tờ Nhật báo Người Việt ngày 5 tháng Mười 1997, một tin cáo phó làm tôi giật mình chú ý đọc ngay:"...Tô Phạm Liệu (1941-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù...đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín1997..."

Vậy là anh Liệu đã từ giã cõi đời này!

Hình ảnh của Tô Phạm Liệu trở về từ dĩ vãng xa xưa.

Lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu đã lâu lắm rồi, đã hơn 27 gần 28 năm trước đây.

Ngày đó, vừa học xong lớp Y Khoa Năm Thứ Nhất ở trường Ðại học Y Khoa Sài Gòn, tôi đã có một số khá đông bạn bè cùng lớp rủ nhau nộp đơn, đi thi và đỗ vào trường Quân y.

Một ngày tháng Giêng 1970, ngày nhập ngũ, chúng tôi rủ nhau nao nức đi trình diện ở trường Quân Y. Một đám sinh viên Y Dược Nha đến và được tập trung ở cổng trường chỗ gần trạm kiểm soát ra vào. Chúng tôi là những tân sinh viên quân y. Người đầu tiên ra gặp chúng tôi là một sinh viên sĩ quan quân y. Anh mặc quân phục xanh bộ binh, đeo lon trung uý có hai bông mai vàng trên một nền nhung đỏ thẫm ở trên vai với dấu hiện con rắn vàng, của ngành quân y, và dấu hiệu một cánh dù màu xám, bằng nhảy dù, trên ngực áo. Thoáng gặp anh, chúng tôi cũng phải để ý ngay, vì anh là một người to lớn, vừa to vừa cao trông như là một "ông hộ pháp."

Không cười đón niềm nở chút nào cả, với giọng nói to, vang vang trong buổi chiều nắng gió, anh tự giới thiệu. Tôi nhớ đại khái rất ngắn và gọn. Anh cho biết tên là Tô Phạm Liệu, sinh viên sĩ quan quân y năm thứ sáu và anh được cấp trên đề cử làm Sinh Viên Sĩ Quan Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội Tân Sinh Viên.

Anh Liệu dẫn khoảng bốn năm chục người chúng tôi vào một sân rộng lớn của trường Quân Y, nơi có một cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ khá cao. Ðó là Vũ Ðình Trường của Trường Quân Y và ở đó đã có thêm sẵn hai sinh viên sĩ quan quân y khác đứng chờ sẵn từ lâu.Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ba ông đàn anh dẫn chúng tôi chạy vòng quanh sân cờ cho đến khi tất cả hết sức lực và có một người phải ngất xỉu.

Ðó là kinh nghiệm đầu tiên của đa số chúng tôi đối với quân đội. Ðó là lần đầu tiên hành xác để mở đầu cho Tám Tuần Lễ Huấn Nhục của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Sĩ Quan Quân Y. Ðối với những "thư sinh trói gà không chặt" mà còn "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm," chỉ biết việc sách đèn, đây quả là một thử thách khá lớn lao.

Và đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp Tô Phạm Liệu. Trong tám tuần lễ của "mồ hôi, nước mắt" chúng tôi đã được các đàn anh của các khóa trước "chỉ dạy"một cách rất tận tình bằng mọi cách. Chúng tôi được học qua căn bản quân sự, căn bản thao diễn. Và mọi người được thay nhau tập hít đất, tập thở, tậpchạy, tập cười... theo lệnh các huynh trưởng!

Các đàn anh chia ra từng toán ba người. Anh Tô Phạm Liệu đích thân làm trưởng một toán. Mỗi toán có nhiệm vụ hướng dẫn các tân sinh viên một ngày. Riêng anh Liệu hình như ngày nào cũng có mặt để quan sát các hoạt động, tiến triển trong việc huấn luyện các tân sinh viên Quân Y. Anh Tô Phạm Liệu rất tận tâm bỏ khá nhiều thì giờ vào việc dẫn dắt đàn em mới nhập ngũ. Những người nào mà có vẻ lười biếng công việc tập tành là khó qua khỏi mắt của đàn anh. Ai đau thật hay chỉ ốm giả anh cũng biết. Hình như anh biết rõ về bản chất, tính tình của từng người một. Anh là người gần gũi với chúng tôi nhất trong những ngày đầu tiên khi mới gia nhập quân ngũ.

Sinh hoạt với anh một thời gian ngắn, chúng tôi nhận thấy ngay ngoài "cái vỏ" lạnh lùng nghiêm nghị của anh còn có một bề trong khác hẳn với một tâm hồn đầy tình cảm và hiểu biết. Anh Liệu thường thấu hiểu gần như mọi chuyện xẩy ra trong đại đội tân sinh viên quân y và thường giải thích hay giải quyết, thường là bằng tình cảm, những vấn đề khó khăn hay khó nói nhất. Nhiệm vụchỉ huy hướng dẫn đôi khi làm anh có vẻ khó khăn và khô khan nhưng những lúc nói chuyện với anh Liệu trong kh irảnh rang đã làm chúng tôi thấy anh là một người rất nhiều tình cảm, rộng lượng và rất thương mến những anh em trong gia đình Y Dược Nha trong ngành Quân y. Một điều đặc biệt nhất là Tô Phạm Liệu nói chuyện rất hay, rất lôi cuốn người nghe, nhất là khi anh Ðứng trước hàng quân. Tôi được biết anh đã còn là một huynh trưởng trong ngành Hướng Ðạo Việt Nam. Sự việc anh giỏi về diễn thuyết hay chỉ huy là đã có kinh nghiệm từ lâu.

Nhiệm vụ khó khăn của anh là cho chúng tôi được có những khái niệm ban đầu về Quân Ðội rồi cũng thành công. Tất cả đám tân sinh viên Y Nha Dược đều qua khỏ itám tuần lễ huấn nhục gian lao. Chúng tôi được tổ chức lễ gắn alpha và trở thành những sinh viên Quân y hiện dịch thực thụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Ðêm hôm gắn alpha, anh có nói chuyện riêng khá cảm động với một vài người chúng tôi. Anh cho biết rất hà ilòng với kết quả và nhắn nhủ công chuyện tương lai.Tô Phạm Liệu có nói ngày nào đó chúng tôi sẽ hiểu rõ đàn anh hơn khi đứng ra hướng dẫn những đàn em sau này. Riêng tôi về sau này rất thông cảm anh vì chính bản thân tôi lại "được" cử ra làm nhiệm vụ của anh,dẫn dắt các tân sinh viên quân y, khi khóa sinh viên sĩ quan của chúng tôi trở thành khóa đàn anh lớn nhất trongtrường Quân Y.

Năm chúng tôi vào Quân Y cũng là năm khóa 16 Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y ra trường. Anh Tô Phạm Liệu chọn binh chủng Nhảy Dù và nhiệm sở đầu tiên là một tiểu đoàn Nhảy Dù. Tô Phạm Liệu đã chính thức trở thành y sĩ của một tiểu đoàn tác chiến của binh chủng nhảy dù.

Những ngày sau đó tôi rất ít gặp anh Liệu. Chúng tôiở lại hậu phương hoàn tất công chuyện học hành ở những trường Y Nha Dược. Anh Liệu và các anh khác tản mác trong những đơn vị của quân đội khắp bốn vùng chiến thuật. Và tôi chỉ gặp lại anh Liệu một hai lần gì đó trong một khoảng thời gian gần hai năm trời khi an hvề ghé thăm trường quân y trong những dịp nghỉ phép giữa những ngày ở mặt trận. Những ngày đó anh vẫn cao lớn và mặc quần áo rằn ri nhẩy dù trông rất oai hùng. Chúng tôi cũng chỉ có dịp nói chuyện chào hỏi chút ít và tôi chỉ biết là anh đã trải qua khá nhiều thử thách ngoài mặt trận nhưng không có nhiều chi tiết.

Và đến một ngày tháng, ở một nơi... của định mệnh.

Thời điểm là năm 1972, vào mùa Hè nắng cháy.

Ðịa điểm là Charlie, Cao Nguyên Nam Việt Nam.

Tôi được nghe đến, được biết đến, được hiểu... Tô Phạm Liệu nhiều hơn.

Bốn năm trước đó, năm 1968, năm bầu cử Tổng thống Mỹ là khi Bắc Việt cho tổng tấn công và thất bại trên các chiến địa Tết Mậu Thân nhưng phải nói họ đã có ảnh hưởng trong việc tuyên truyền chính trị. Hình ảnh chiến tranh Việt Nam tràn ngập trên đất Mỹ theo vào từng nhà riêng của dân Mỹ bằng máy vô tuyến truyền hình. Dân chúng Hoa Kỳ đã bắt đầu chán sợ cuộc sống chiến tranh đẫm máu và dai dẳng cách xa một nửa trái đất. Ðầu óc thực tế của họ đã đếm nhiều đến số tiền trang trải cho cuộc chiến. Hình ảnh quan tài những người Mỹ chết ở Việt Nam đem về Mỹ được chiếu rõ trên truyền hình làm nao núng cả quốc gia. Cá cphong trào phản chiến Mỹ hoạt động mạnh hơn. Ứng cử viên Tổng thống Mỹ đều biết rõ tầm quan trọng của việc cần phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Năm 1972, một lần nữa là năm bầu cử Tổng thống Mỹ.Do đó, một lần nữa, cũng là lúc Bắc Việt cần có tiếng vang vọng với bất cứ giá nào. Ðại tướng Bắc Việt Võ Nguyễn Giáp còn nghĩ là có thể chiếm đoạt miền Nam vào lúc này.

Cũng như Trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân năm 1968, Tướng Giáp đã lại "thí quân" và lần này quyết định tấn công với ba mặt trận lớn được bùng nổ vào mùa Hè 1972.

Thứ nhất: Mặt Trận Giới Tuyến tại vùng Phi Quân Sự. Việt Cộng đã bất chấp tất cả mọi ký kết của chính họ ở Hiệp định Genève 1954. Họ đã cho hai Sư đoàn 304 và 308 tăng phái bởi bốn Trung Ðoàn Ðặc Công với hơn 200 chiến xa của Trung đoàn 203 và 204 và thêm ba Trung đoàn Pháo Binh vượt khu Phi Quân Sự đánh chiếm Quảng Trị.

Thứ hai: Mặt Trận Biên Giới chiếm đánh Lộc Ninh, An Lộc do các Sư đoàn Cộng Sản 5, 7 và 9 cùng với hơn 200 xe thiết giáp. Trong khi Sư đoàn 1 Bắc Việt quấy rối vùng Ðồng bằng Cửu Long để cầm bớt quân đội Việt Nam lại vùng IV chiến thuật.

Thứ ba: Mặt trận Cao Nguyên thì có hai Sư đoàn 2 và 320v ới cùng một trung đoàn chiến xa đánh chiếm vùng Kontum, Pleiku. Trong khi Sư đoàn 3 Cộng Sản đánh vùng Bình Ðịnh.Tại Cao Nguyên, tướng Võ Nguyên Giáp mưu định cắt Miền Nam thành hai mảnh.

Thời điểm là Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.

Ðịa điểm là Charlie của Chiến Trường Cao Nguyên.

Trong quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam "Mùa Hè Ðỏ Lửa," Phan Nhật Nam đã viết trong đoạn đầu tiên "Charlie, tên nghe lạ quá":

"Quả tình nếu không có trận chiến mùa hè 1972, thì cũngchẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie hay Cải Cách hay"C" đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Poko và đường 14, Ðông Bắc là Tân Cảnh, với 12 cây số đường chim bay, Ðông Nam là Kontum thị trấn cực Bắc của Tây Nguyên... Charlie lọt giữa bị bao vây bởi căn cứ 5, căn cứ 6, ở phía Bắc, những mục tiêu quân sự nổi tiếng, những vị trí then chốt giữ cửa ngỏ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa hè,mùa "mưa rào," báo chí hằng ngày trong và ngoài nước phải nhắc tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi xuống miền núi non xương sườn cực Tây của quê hương Việt Nam..."

Năm nay, sau bao nhiêu lần thử thách từ mùa mưa của năm1971 qua đầu xuân của 1972, Bắc Quân vẫn không vượt qua hai cửa ngỏ. Căn cứ 5, Căn cứ 6... Cộng quân đổi hướng tiến lòn sâu xuống phía nam của hai căn cứ trên để tiếp tục sự nghiệp "giải phóng" với mục tiêu cốđịnh: Tân Cảnh, cắt đường 14..."

Lữ đoàn 2 Nhảy Dù được cử đến lập một vòng đai để giữ những yếu điểm trong vùng quanh Quốc Lộ 14 và Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù có nhiệm vụ đóng giữ Charlie. Tô Phạm Liệu, người y sĩ trưởng của Tiểu đoàn, một người sĩ quan Nhảy Dù, đã được thả đến Charlie cùng với Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, Tiểu đoàn Nhảy Dù mới nhất của Sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, vào ngày 2 tháng Tư.

Sau đó, tại Charlie, một trận đánh oai hùng và bi thương của người lính Nhảy Dù đã xẩy ra.

Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù là Trung tá Nguyễn Ðình Bảo tốt nghiệp khóa 14 Trường Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Trung tá Bảo cótính tình giản dị và là người chỉ huy rất giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Ông gia nhập Nhảy Dù ngay sau khi ra trường võ bị, dự nhiều trận chiến khốc liệt chiến thắng nhiều và đã bị thương hai lần ở mặt trận.

Tuy vậy, lần này Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bị bao vây bởi cả một Sư đoàn Bắc Việt, Sư đoàn 320 có mang danh là Sư đoàn Ðiện Biên và cũng được gọi là Sư đoàn Thép tăng phái thêm Trung đoàn 64 của Sư đoàn Sao Vàng CộngSản. Không phải đoán cũng thấy ngay là một chiến thuật thí quân lấy thịt đè người. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo bây giờ có lẽ giống như một con hổ trong lồng.

Ngày 11 tháng Tư là lúc Cộng Sản sửa soạn tấn công.Hàng trăm quả pháo rót vào Charlie kể cả đại pháo 130mm với đạn xuyên phá "delay." Ðây là loại đạn đặc biệt nguy hiểm, không nổ ngay khi chạm đất mà sẽ nổ sau khi đã xuống dưới mặt đất khoảng hơn một thước để tàn phá những hầm trú ẩn.

Ngày 12 tháng Tư, Cộng Quân tiến đánh. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù kể cả Bác sĩ Quân y Tô Phạm Liệu đã quần thảo với lính Cộng của Sư đoàn Ðiện Biên tranh thủ từng thước đất.

Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, nhiều sĩ quan và binh sĩ nhảy dù đã hy sinh tại mặt trận.

Ngày 15 tháng Tư 1972 Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã. Chính bản thân Tô Phạm Liệu cũng bị thương ở chân. Tô Phạm Liệu và Thiếu tá Tiểu đoàn phó đã dẫn một nhóm nhỏ còn lại và các thương binh rút khỏi Charlie. Và nhóm này cuối cùng được trực thăng "bốc" đi thoát. Một số khác chạy bộ băng rừng về.

Xác chết của nhiều quân nhân và của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo đã không đem được về và đã để lại ở Charlie.

Nhiều chiến sĩ nhảy dù đã anh dũng "ở lại" Charlie.

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sau này đã cảm hứng vì sự hy sinh của Trung tá Nguyễn Ðình Bảo và những chiến sĩ nhảydù khác tại mặt trận Charlie mà đã sáng tác "Người - Lại Charlie," một bản nhạc khá hay và cảm động:

"Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí.
Vâng chính anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng.
Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie.
Anh! Vâng, chính anh là loài chim quí.
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý, một lần dậy cánh bay, người để cho người nước mắt trên tay..."

Sự kiện Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Charlie khi bị hơn một Sư đoàn bộ đội Bắc Việt tấn công với đại pháo và chiến xa là chuyện dĩ nhiên phải xảy ra. Nhưng điều quan trọng hơn là sự hy sinh dũng cảm của nhữn gngười lính Việt Nam Cộng Hòa đã gây tổn thất nặng cho đối phương và ảnh hưởng đến tinh thần của Cán Binh Bắc Việt.

Tuy là ngay sau đó, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù phải bỏ cả TânCảnh về Kontum. Tuy là các Sư đoàn Bắc Việt kiểm soát được Quốc lộ 14. Tuy là họ đã bao vây thành phố Cao Nguyên Kontum. Tuy là họ dốc toàn lực đánh Kontum hai lần ngày 14 và 25 tháng Năm. Nhưng họ vẫn thất bại. Cuối cùng Cộng Sản Việt Nam vẫn không đạt được mục tiêuvào năm 1972 và phải rút lui tại mặt trận miền Cao Nguyên.

Mặt trận Biên Giới nổ lớn tại An Lộc - Bình Long. Bộ đội Cộng Sản hàng hàng lớp lớp biển người được yểm trợ bởi hàng trăm chiến xa tối tân và đại bác hỏa tiễn hùng hậu đã tràn ngập mặt trận. Nhưng họ đã phải đứng khựng lại ở quận An Lộc, cứ điểm quan trọng ngăn cản đường tiến của Bắc Quân đến Quốc lộ 13 để về "giải phóng" Sài Gòn. Trong khoảng 100 ngàygần 60 ngàn quả đại bác đã bắn vào độ một cây số vuông của quận lỵ nhỏ bé An Lộc. Năm lần Việt Cộng đã mở những cuộc tấn công. Cả năm lần Bắc Quân phải chùn bước. Người hùng Chuẩn tướng Lê Văn Hưng và các lực lượng phòng thủ với sự phụ lực của Ðại tá LêQuang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ với sự phụ lực của Ðại tá Lê Quang Lưỡng và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù cùng với sự yểm trợ hữu hiệu Của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã choBắc Việt một bài học cay đắng, họ cho tướng Võ Nguyên Giáp biết thế nào là "tử thủ." Ngày 8 tháng Sáu 1972 Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù tiến vào thành phố, đã "bắt tay" được với Tiểu đoàn Nhảy Dù "bạn," Tiểu đoàn 6 NhảyDù là đơn vị đã được trực thăng vận đến An Lộc mấy ngày trước.

An Lộc hoang tàn. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững.

An Lộc đẫm máu. An Lộc đầy lửa khói. Nhưng An Lộc vẫn còn.

Cuối cùng Bắc Quân phải rút lui.

Mặt trận Vùng Hỏa Tuyến. Ngay những ngày đầu tiên Việt Cộng đã tràn ngập Quảng Trị và Sư đoàn 3 Bộ BinhViệt Nam sau đó phải tan rã chạy về phía Nam. Dân chúngQuảng Trị ghét sợ cộng sản chạy theo quân. Hỗn loạn! Kinh hoàng! Máu đổ nhiều! Quân dân chạy giặc dưới làn đạn làm hàng ngàn người chết ở Ðại Lộ Kinh Hoàng. Bắc Quân tràn lan đánh chiếm khắp nơi.

Nhưng họ đã bị chận đứng ở sông Mỹ Chánh. Nơi đây ngày 2 tháng Năm, Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bắn hạ 17 chiến xa Bắc Việt. Cùng một lúc Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được cử ra giữ chức Tư LệnhQuân Ðoàn I. Thế cờ được lật ngược.

Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tan rã ở Tân Cảnh nhưng không biến mất mà đã phối trí lại. Và chỉ độ một tháng sau ngày tan rã ở Charlie, Tô Phạm Liệu và Tiểu đoàn 11 NhảyDù đã có mặt ở miền Hỏa Tuyến. Tháng Sáu 1972, Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư đoàn 1 Bộ Binh cùng với sự yểm trợ của Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Không Quân Hoa Kỳ đã mở chiến dịch tổng phản công.

Cuộc chiến đẫm máu kéo dài đến tháng Chín 1972 khi lá cờ vàng ba sọc đỏ được những người lính Thủy QuânLục Chiến dựng lại tại Cổ thành Quảng Trị và khi tàn quân Bắc Việt chạy ngược trở về bên phía Bắc dòng sông Thạch Hãn.

Giấc mơ chiếm đoạt miền Nam vào mùa Hè 1972 của tướng Võ Nguyên Giáp đúng là "chỉ là một giấc mơ thôi."

Có lẽ nhiều ngàn hay có thể đến hàng chục ngàn người đã "sinh Bắc" và được "tử Nam" trong mùa Hè này.

Y sĩ Ðại uý Tô Phạm Liệu đã được Sư đoàn Nhảy Dù trao tặng danh hiệu "Quân Nhân Xuất Sắc Nhất Của Sư Ðoàn Nhẩy Dù."

Tô Phạm Liệu, tên tuổi hào hùng của ngành Quân Y "con rắn" chúng tôi, cũng lừng danh trong những đơn vị Nhảy Dù "mũ đỏ" của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó.

Chiến dịch mùa Hè 1972 đã làm Bắc Việt tổn thấ tnặng. Phải một thời gian khá lâu họ mới hồi phục lại được sức mạnh. Những ngày tháng ngay sau đó họ đã không tạo thêm được tiếng vang gì đáng kể. Ngoại trừ một cố gắng khác, nhưng vẫn thất bại, ở Sa Huỳnh ở vùng Quảng Ngãi - Bình Ðịnh đầu năm 1973.

Nhưng năm 1973 cũng là năm của Hiệp định Paris ký kết bởi Henry Kissinger và Lê Ðức Thọ. Năm của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam. Hiệp định Paris đã đẩy Việt Nam Cộng Hòa vào con đường cùng. Hoa Kỳ dần dần rút khỏ iViệt Nam. Viện trợ quân sự Mỹ cho Quân đội Việt Nam cũng giảm dần theo. Ðạn dược, súng ống của Quân đội Việt Nam trở thành thiếu thốn. Xe tăng lỗi thời. Máybay cũng ít dần và cũ kỹ dần. Bắc Quân ngày càng nhiều khí giới tối tân. Nga Sô và Trung Cộng cùng các nước Cộng Sản trên thế giới vẫn tiếp tục ủng hộ tiếp tế Hà Nội một cách tích cực. Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu hầu như một mình với Cộng Sản Bắc Việt và cả một thế giới Cộng Sản đứng đằng sau. Ðó là kết quả của Việt Nam Hóa Chiến Tranh Việt Nam, chính sách của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon.

Hiệp định Hòa Bình Paris 1973 và giải Nobel được trao tặng cho Lê Ðức Thọ và Henry Kissinger chỉ là những trò hề. Bắc Quân tiếp tục xâm phạm những gì họ ký kết.Ðường mòn Hồ Chí Minh "đông người như đi chợ"chuyển quân và vũ khí thiết giáp vào miền Nam.

Tô Phạm Liệu tốt nghiệp Khóa 16 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch gia nhập Nhảy Dù năm 1970.

Khóa 21 Sĩ Quan Hiện Dịch Quân Y, khóa cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, khóa của chúng tôi ra đơn vị năm 1975.

Năm năm sau tình hình đã đổi khác hoàn toàn. Những tân Trung uý Y Nha Dược ra đơn vị đúng lúc ngày tàn củacuộc chiến. Tỉnh Phước Long đã rơi vào tay Cộng Sản tháng Hai 1975.

Chuyện gì đã xẩy ra đã xẩy ra. Chuyện mất miền Nam vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng Tư 1975 đã đến. Có điều chuyện xẩy ra hơi sớm, một cách rất ngạc nhiên, ngoài sự dự liệu của tất cả mọi người trong và ngoài cuộc. Lịch sử sẽ cho dần những câu trả lời. Nhưng làm sao có ai, có những lý do nào... mà có cho đủ được những câ utrả lời cho chuyện bỏ chạy một cách nhanh chóng như vậy?

Ða số chúng tôi Khóa 21 Quân Y chỉ đến đơn vị được một, hai tháng thì cuộc đời nhà binh cũng chấm dứt.

Ðể sửa soạn dư luận cho cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹnăm 1976, Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã bắt đầu Chiến Dịch Mùa Xuân năm 1975. Nhưng chính những người cầm đầu Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng không thể biết có kết quả nhanh và bất ngờ ngoài dự liệu như vậy.

Miền Nam Việt Nam sụp đổ dần như một căn nhà không có nền móng trong khoảng 55 ngày.

Ngày 10 tháng Ba 1975 Bắc Quân bắt đầu tiến đánh Ban Mê Thuột.

Ban Mê Thuột mất ngày 17 tháng Ba 1975.

Theo đó là Quảng Trị mất 20 tháng Ba.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Huế 23 tháng Ba.

Rồi Ðà Nẵng di tản ngày 29 tháng Ba...

Bắc Việt tiến chiếm dễ dàng dần dần từ Bắc xuống Nam. Bắc Quân vào nhiều thành phố bỏ trống như chỗ không người. Tình hình thật là hỗn loạn. Những câu chuyện cười ra nước mắt được kể lại. Như là một thành phố ở miền Trung được di tản đến cả ba, bốn ngày sau một đơn vị quân đội nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa quay lại cũng vẫn còn y nguyên vì Cộng Sản cũng không đến kịp vào để tiếp thu! Hoặc là có những thành phố được phát ngôn viên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã di tản nhưng sự thật dân quân vẫn còn nguyên tại chỗ! Hầu như tất cả mọi người đều không làm được gì cả.

Chúng tôi bất lực. Chúng tôi không làm được gì ngoài việc chỉ cố tránh né để mái nhà hay bức tường vỡ khỏi rơi vào người.

Ngày 20 tháng Tư 1975 tiền đồn cuối cùng ở Xuân Lộc bị phá vỡ. Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo và Sư đoàn 18 phải rút quân. Sài Gòn hầu như rối loạn hoàn toàn. Nhìn trước ngó sau chỉ thấy nhiều người tìm cách đi khỏi nước Việt Nam hơn là tìm cách chống trả giữ Sài Gòn.

Sài Gòn coi như đã mất. Thành phố như là một thành phố đang chết! Chỉ còn vấn đề thời gian. Một thời gian ngắn thôi.

Những ngày cuối của tôi ở thành phố Sài Gòn là như vậy. Ngày ngày nghe được những tin tức những nguời nào đã đi, những người nào sắp đi.

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Trung tướng Nguyễn VănThiệu từ chức. Trong diễn văn gửi đến các nước ôngThiệu đã không hết lời trách móc "đồng minh" Hoa Kỳ.Trung tướng Thiệu tuyên bố "...sẽ trở lại Quân Ðội khoác áo nhà binh cùng các anh em chiến đấu..." Vài ngày sau thì được tin "người" đang ở Ðài Loan!

Thiếu tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố đại khái là: "...nhất định ở lại Việt Nam ăn cà, tương, mắm...vì qua Mỹ ăn phó mát và uống sữa tươi sẽ đau bụng!"Vài ngày sau "người" cũng bay mất!

Tân Tổng tư lệnh Quân Ðội Trung tướng Vĩnh Lộc cho phát thanh một nhật lệnh đến toàn thể Quân Ðội ViệtNam Cộng Hòa hùng dũng kêu gọi "...mọi người hãy bỏ ý định chạy trốn như những đàn chuột nhắt..." Nhưng khi bài nói chuyện được phát thanh trên đài thì "người"đã ngồi ở trên một chiến hạm ngoài khơi trên đường ra ngoại quốc!

Mỗi ông "tuyên bố một câu xanh rờn."

Toàn là những lời câu nói "để đời"!

Ðông phương đã dạy làm tướng thì phải biết cách tự xử khi mất thành. Tây phương cũng có viết làm thuyền trưởng khi tầu chim thì phải ở lại chìm theo tầu. Tô ikhông hy vọng những "người trên đây làm được như những Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng PhạmVăn Phú, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn tướng TrầnVăn Hai, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ... là nhữngvị tướng đáng kính phục tự xử khi mất nước. Nhưng phải chi những "người đó cứ im lặng mà "đi" thì cũngchả có mấy ai cay đắng mỗi khi nghĩ đến chuyện những người ở lại hy sinh mạng sống hay nằm trong những trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam hằng bao năm trời.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, Tân Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.

Tôi may mắn thoát được lên chiến hạm Hải Quân Việt Nam HQ 1. Chỉ độ mười phút sau đó tầu rời bến BạchÐằng cùng cả những chiến hạm còn lại ở bến của Hạm đội Hải Quân Việt Nam sau khi binh sĩ Hải Quân chặt cầu vì không đủ chỗ cho hàng người đang đứng đợi lên tầu.

Thế là hết! Vĩnh biệt Sài Gòn! Vĩnh biệt Việt Nam!

Tầu Việt Nam đến Subic Bay ở Phi Luật Tân thì chúng tôi được chuyển ngay sang một tầu Hoa Kỳ rộng lớn hơn để đi đến đảo Guam.

Bước lên chiếc tầu Hoa Kỳ đầy người. Ðủ loại người. Dân sự có, quân sự có. Người nằm, kẻ đứng ngồi. Hỗn loạn. Tôi tìm đến một góc nhỏ để trán hné phiền phức. - đây tôi thấy một người khá to lớn nằm trên một chiếc võng mắc vào những cái cột của tầu. Lại gần nhận ra đó là Huynh trưởng Tô PhạmLiệu. Tôi không ngờ gặp nhau trong hoàn cảnh này.

Tôi buồn nhớ lại những ngày xưa người anh từ chiến trường về thăm trường Quân Y với binh phục nhảy dù oai hùng. Bây giờ Tô Phạm Liệu vẫn mặc binh phục nhảy dù Việt Nam, nhưng bẩn và nhầu nát. Anh Liệu không giống anh Liệu những ngày trước khi anh trở về từ những chiến thắng nữa. Tô Phạm Liệu nằm trên võng, anh vẫn tỉnh giấc nhưng mắt nhắm như để quên đi những hình ảnh nào đó. Anh Liệu hình như muốn ngủ triền miên. Nhưng làm sao mà ngủ được? Rồi sau đó Tô Phạm Liệucũng mở mắt ra. Anh kể lại những lúc cuối cùng.

Tô Phạm Liệu nói rất ít. Tôi cũng chả nói nhiều. Ðau khổ đã làm tê liệt con người.

Nhưng thật ra còn có gì khác để đáng nói đến nữa đâu?

Anh em nhìn nhau thẫn thờ! Bàng hoàng! Sững sờ! Giọt lệ nào đó hình như vòng quanh khóe mắt làm mờ mắt của cả hai chúng tôi!

Ngày hôm sau tôi trở lại chỗ cũ không thấy anh đâu cả.Chiếc võng cũng biến mất. Tôi để ý tìm mà không gặp.Tô Phạm Liệu chắc cũng chả muốn gặp lại ai nữa. Tôicũng không muốn tìm thấy người quen nào nữa.

Những ngày đầu tiên đến đất Mỹ là những lúc vậtlộn với cuộc đời mới cũng như các bạn bè khác trong giới Y khoa để tìm đường trở về nghề cũ. Và cũng như đa số bạn bè y khoa tôi cuối cùng cũng trở lại nghiệp Y.

Thỉnh thoảng tôi cũng được nghe đến anh Tô Phạm Liệu.Tôi được biết anh đã quay lại hành nghề ở một nhà thương điên (state hospital) nào đó ở Kansas. Tôi được biết anh uống rượu nhiều, rất nhiều. Tôi muốn nhưng chả bao giờ có dịp liên lạc.

Năm 1989 tôi đi dự cuộc họp Hội Y Sĩ Quốc Tế Việt Nam Tự Do ở một khách sạn lớn ở Little Saigon, California.Ðang đi vớ vẩn trong khách sạn thì có tiếng gọi tên. Tôi nhìn ra thấy Huynh trưởng Tô Phạm Liệu. Anh em gặp nhau mừng ứa nước mắt.

Anh dẫn tôi vào ngồi ở một quầy rượu. Anh uống rượu mạnh liên miên. Tô Phạm Liệu lần này nói chuyện nhiều hơn, nói khá nhiều. Có khi là người nói, có Khi là "rượu nói." Anh nhìn tôi và nói, và nhắc nhở đến Ðoàn Trung Bửu (Biệt Ðộng Quân, chết trên đường ra đơn vị 1975), Vũ Ðức Giang (Thủy Quân Lục Chiến, tự tử chết trong trại học tập 1976)... Ðó là những bạn cùng lớp Khóa 21 Quân Y của tôi, những đàn em của Ðại Ðội Tân Sinh Viên Quân Y 19 năm trước của anh, đã hy sinh trong những ngày vừa qua.

Anh Tô Phạm Liệu bây giờ ốm hơn trước. Anh Liệu cho biết là anh đang bị bệnh đái đường (diabetes mellitus).Nhưng anh vẫn uống rượu liên miên. Anh cho biết "có lẽ"đã bị chứng đau thần kinh vì đái đường(diabeticneuropathy). Tô Phạm Liệu bảo những cơn đau rất gần nhau và khá nặng. Nhưng anh vẫn không uống thuốc giảm đau.Tôi hiểu anh muốn có đau thể xác đó để cho mất cái đau tinh thần.

Tô Phạm Liệu nói là cảm thấy lẻ loi ở cái Ðại Hội Y Sĩ có nhiều những người "mặc quần mới áo đẹp" và"ăn to nói lớn," thích "nhảy đầm" và "xếp hàng để lên hát"... Trong cơn say anh nói là phải chi trước kia mườ imấy năm trước anh được "ở lại Charlie" với Trung tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì "sướng hơn nhiều."

Tô Phạm Liệu chỉ thích uống rượu và "không muốn làm gì nữa cả."

Tôi không uống được nhiều rượu nhưng cũng uống hai ba ly rượu để làm vừa lòng anh. Tôi chú ý nghe anh nói. Anh nói chuyện vẫn hay và hấp dẫn. Mười chín năm trước đó, khi anh đang huấn luyện tâ nsinh viên quân y, mỗi lần nghe anh nói chuyện tôi hầu như thấy anh nói đều có lý cả. Lúc này thì khác. Có nhiều chỗ tôi thấy anh nói đúng. Có nhiều lúc tôi nghĩ là anh nghĩ sai. Nhiều lúc là "rượu nói" chứ không phải anh nói nữa. Nhưng tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều.

Giữa tiệc rượu của hai anh em, sau 15 năm mới gặp gỡ, Tô Phạm Liệu làm tôi ngạc nhiên khi nói là muốn đọc thơ cho tôi nghe. Anh nói là anh chả có thích thơ và cũng chả nhớ bài thơ nào nhưng chỉ thích và nhớ một đoạn trong bài thơ "Nhớ Rừng" của Thế Lữ:

"...Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi dứng uống ánh trăng tan
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới..."

Tôi hiểu Tô Phạm Liệu nhiều hơn. Tôi vẫn kính trọng anh. Tôi vẫn thương mến anh như những ngày xưa, và cót hể là hơn những ngày xưa nữa.

Nhưng vẫn có những điểm tôi không đồng ý với anh Liệu.

Lần gặp gỡ đó là lần sau cùng tôi gặp người anh lớn của khóa tân sinh viên sĩ quan quân y ngày nào của chúng tôi.

Sau này tôi được biết anh đã dọn về ở tiểu bang Lousiana và làm việc ở một nhà thương nào đó.

Và đến bây giờ Huynh trưởng Tô Phạm Liệu đã vĩnh viễn ra đi.

Tờ cáo phó của tờ báo Người Việt trên tay tôi trở thành mờ nhạt:

"Vô cùng thương tiếc bạn chúng ta, Tô Phạm Liệu (1947-1997) Y Sĩ Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù... đã không còn với chúng ta kể từ ngày 29 tháng Chín năm 1997... Cầu Anh Linh bạn quên phiền hà, coi như trở lại Charlie..."

Tôi nhìn qua khung cửa sổ.

Xa xa trên bầu trời trong xanh, gần những đám mây trắng ở trên thật cao, hình như mờ ảo có một cánh dù nhỏ bé...

Anh trở lại tìm Nguyễn Ðình Bảo và những anh em nhảy dù khác, những đồng đội đã "ở lại Charlie."

Tô Phạm Liệu: Người Trở Lại Charlie.

Tháng Mười 1997, Santa Maria, California


Phạm Anh Dũng

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Đường đến Kỳ Sơn trại
BS Tôn Thất Sang
(VNN)

29 tháng 3-75, Danang mất, một tháng sau-30 tháng 4, Saigon mất!


Đó là cách nói thông thường và chua xót của người dân miền Nam khi vùng đất nước trù phú đã hoàn toàn lọt vào tay CS. Hai mươi chín năm trôi qua như một giấc mộng; nói theo cảm quan của người mang nghệ sĩ tính, nhưng sự thực không phải là những giấc mộng với những người đẹp (mơ hoa!) mà hầu như là những cơn ác mộng dàn vật hằng đêm, thậm chí khi ở quê hương tạm dung nầy thỉnh thoảng chúng ta vẫn còn ướt đẫm mồ hôi với những cơn mơ đầy ma quỷ rắn rết của loài quỷ đỏ mà mỗi khi giật mình tỉnh giấc mới cảm thấy an tâm!

Giờ đây chúng ta đang ở thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta thuộc trong số những người may mắn được sống trải dài qua hai thiên niên kỷ chuyển tiếp, đáng lẽ chúng ta quên hết quá khứ mới phải, nhưng vũ trụ là một vật thể chuyển động không ngừng nghỉ, ý thức nhớ về quá khứ cũng biến thiên theo từng thời điểm. Tuy nhiên có những sự việc gây dấu ấn kinh hoàng đã hằng lên vỏ não những vết hằn không thể nào phai nhạt được. Vì vậy với tập thể HO chúng ta, nói đến quá khứ, chúng ta thường nhớ lại những năm tháng tù ngục, lao động khổ sai miệt mài trong các trại giam. Đề tài tuy có vẻ nhàm chán, nhưng thật ra mỗi người có mỗi kỷ niệm khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau, mỗi cách nghĩ khác nhau, nên tựu trung đề tài vẫn hấp dẫn được người đọc và càng làm phong phú đến chua xót những hoạt cảnh khi đối diện với con người CS bằng xương bằng thịt.

Ngày 3 tháng 4, tôi trình diện ủy ban quân quản tại Tòa án thành phố Danang trên đường Bạch Đằng, bên hông sân Tennis của Câu Lạc Bộ Đoàn Kết. Vào khuôn viên tòa án, cái cảm giác thân quen không còn nữa mà chỉ có cái cảm giác lạ lùng đến tò mò khi đối diện với những khuân mặt tái xanh, mệt mỏi và lạnh lùng đến quái ác đang ngồi sau những chiếc bàn gỗ với chồng hồ sơ. Đứng sắp hàng chờ đến phiên, mọi người nhìn nhau, nói nhiều với nhau qua ánh mắt chán chường pha chút lo lắng. Chợt nhìn ra sân, tôi thấy Trung tá Võ Vàng dựng vội chiếc xe đạp, anh nhìn tôi cười, nhún vai rồi cũng đứng chung hàng chờ đợi. (Trung tá Võ Vàng sau nầy bị VC lập kế thủ tiêu ở trại I Kỳ Sơn trong khi anh đi lao động lấy tranh). Căn phòng xử án này tôi không lạ gì, vì trong thời gian qua, thỉnh thoảng tôi được giấy mời làm Phụ Thẩm Quân Nhân Tòa Án Quân Sự Mặt Trận cùng tham dự những phiên xử với Đại Tá Nguyễn Duy-- chánh thẩm-xử phạt những sĩ quan và quân nhân phạm pháp cần phải chế tài! Bây giờ tôi lại phải đến trình diện tại phòng xử án nầy với tư cách của một bị cáo với một tội danh mơ hồ là đã phục vụ cho một chế độ Tự Do! cái cảm giác nghịch lý đến tức cười!

Trình diện, bị hỏi đủ những thứ trên đời, làm lý lịch trích ngang, moi móc đến tận ba đời!, sau đó mọi người được tạm cho về ở nhà chờ đợi. Tôi là một quân y sĩ nên lại phải vào Tổng Y Viện Duy Tân trình diện tiếp. Thiếu Tá Y Sĩ trưởng khu ngoại thương, BS Phạm văn Lương, bàn giao Tổng Y Viện cho Ủy ban quân quản. (BS.L sau nầy cũng lên trại Kỳ Sơn và anh đã tự hủy mình bằng một liều chloroquine cực mạnh khi anh làm trưởng ban Y Tế tại bệnh xá tổng trại trung đoàn)!

Có nhiều bạn ở Tổng Y Viện vắng mặt, hoặc đã về với gia đình ở các tỉnh xa, hoặc đã "di tản chiến thuật", trốn vào Nam trong những ngày vừa qua... còn lại một số anh em Quân Y Sĩ chúng tôi vẫn kiên trì, tận tình chăm sóc cho các Anh em thương bệnh binh, nhất là các anh em ở khu ngoại thương. Phần nhiều là những chiến binh quả cảm, đã hy sinh một phần xương thịt mình cho quốc gia dân tộc, quyết giữ gìn mảnh đất Tự Do cho đất nước. Biết vùng đất tự do đã bị địch chiếm, với bài học Mậu Thân rướm máu đang còn âm ỷ, các anh em, mặc dù tàn phế, cũng nhất quyết rời bệnh viện với tấm thân tàn. Họ không thèm ở lại vì họ biết bệnh viện đã bị chiếm, những ngày sau, họ không biết số phận của những Quân Y Sĩ của bệnh viện sẽ đi về đâu, huống hồ là họ, những người đã trực tiếp cầm súng chống lại kẻ thù! Hơn nữa họ cũng không thể tin tưởng tay nghề của các "Y sĩ bộ đội", những ngưòi "hồng hơn chuyên", trình độ chuyên môn quá kém, một đôi khi chưa học xong bậc trung học hệ 10 năm! Chúng tôi săn sóc và yểm trợ thuốc men tối đa cho các anh em, cầm tay anh em mà rớm nước mắt. Có một đôi giường bệnh đã phủ tấm ra trắng lên thân xác các anh đã vĩnh viễn ra đi trong giờ thứ 25! Phía đầu giường là bát nhang nghi nhút khói cùng bát cơm trắng với quả trứng cô đơn của những đồng đội thắp vội vã cho các anh.. Những chiếc xe lăn ngập ngừng, xiêu vẹo đang chậm rãi xa lần cổng Tổng Y Viện trong nắng quái buổi chiều, thậm chí có những chiếc còn treo tòn ten những chai nước biển đang chuyền trên những tấm thân bệnh hoạn run rẩy, lăn bánh về một hướng vô định mịt mờ... Những chiếc bóng cô đơn đó có thể là những người con thiện chiến của những binh đoàn tinh nhuệ khét tiếng của vùng một hỏa tuyến: Sư Đoàn I bộ binh, những chiến sĩ Đại Đội Hắc Báo, Trung Đoàn 54, 56... những chiến sĩ thộc Liên Đoàn Địa Phương Quân, các đại đội biệt lập... Những chiến sĩ Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Công Binh Chiến Đấu, Thiết Kỵ v..v. Những chiếc xe lăn xa dần, xa dần trong trong nỗi ngậm ngùi tiếc thương của những quân y sĩ chúng tôi, những người cũng thất trận, hay nói một cách đúng hơn là đã bị đem con bỏ chợ, tuy nhiên chúng tôi còn có may mắn hơn các anh rất nhiều là còn một cơ thể lành lặn, còn có một mái ấm gia đình!!

Mấy ngày sau, ngày 5 tháng 4, buổi chiều khoảng 4 giờ, BS Phạm Văn Lương, Trần Hưng Toàn, Nguyễn Quang và tôi, từ TYV Duy Tân ra khu Chợ Mới gần đường lên phi trường Danang tìm mua một ít đồ ăn thì bị bắt vì lệnh thiết quân luật bất ngờ! Cùng bị bắt có Đại úy Tùng -Chi Đoàn Trưởng Thiết Quân Vận-, Nha Sĩ Trung Tá Phạm Văn Vịnh và rất đông mọi người... (Đại úy Tùng sau nầy cùng lên Kỳ Sơn với tôi. Anh cùng anh Cảnh--ở Lực Lượng Đặc Biệt, anh Thuyết--Quân Cảnh, và hai anh khác--tất cả 5 người--tổ chức trốn trại. Đi thoát được khoảng một tuần thì bị thượng cộng bắt lại, riêng anh Tùng, rất to con, chống cự đến cùng nên bị bắn chết tại chỗ!).

Tất cả mọi người bị bắt chiều hôm đó, đều bị chuyển đến tiểu đoàn 102 Công Binh Chiến Đấu ở Hội An (Tiểu Đoàn nầy là cứ điểm cuối cùng mà VC không chiếm được trong trận Mậu Thân vì sự chiến đấu mãnh liệt của anh em ở Tiểu Đoàn, nhờ vậy mà thành phố Hội An không bị thất thủ!), ở đó tôi bị nhốt vào phòng Y Tế của tiểu đoàn, trong phòng giấy tờ vương vãi khắp nơi, bàn ghế không có, phải trải giấy tờ ra mà nằm và lại một đều nghịch lý tức cười cho tôi nữa là các văn bản thanh tra về y tế còn đóng dấu và tên tôi ký rải rác khắp phòng! (tiểu đoàn 102 CB Chiến Đấu trực thuộc bộ chỉ huy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu mà tôi làm việc)

Ở Hội An một thời gian, chúng tôi bị chuyển vào tập trung tại quận Vĩnh Điện. Ở đó, chúng tôi phải đi săn nhặt lại những viên đạn đại bác 105 ly mà chuyển cho các xe bộ đội đến nhận, việc làm rất nguy hiểm nhưng bọn tôi cũng không màng!

Một thời gian sau, có thể nói hầu hết các quân y, nha và được sĩ ở tỉnh Quảng Nam Danang đều đủ mặt. Hồi đó Saigon chưa mất nên có một số anh em trong ngành bị chao đảo, theo đuôi, nhất là BS Lê ngọc D, BS Pham Văn L.. vì vậy sau nầy, khi VC đã chiếm toàn miền Nam, có một số quân y sĩ được cho về, khỏi phải tập trung ở trại Kỳ Sơn.

Ở thị trấn Vĩnh Điện, tên Trung Tá Thông, trưởng binh vận của VC tổ chức làm báo tường (bích báo) có một số anh em "lò đuôi chồn", hăng say cọng tác, có nhiều họa sĩ quân đội nổi tiếng cũng không khỏi sa vòng tục lụy nầy! Có một đoàn phóng viên ở những xứ CS như Đông Đức, Liên Sô, Tiệp Khắc v..v. đến thăm trại, và một số anh em đã hăm hở, "hồ hởi" đón rước!

Một thời gian sau, 30-4-75, Saigon, thủ đô của VNCH cũng thất thủ!
Ban giám đốc trại, vào khoảng gần cuối tháng 5-1975, thông báo với chúng tôi hãy sửa soạn "hành quân". Ngày hôm sau, khoảng mười chiếc xe hàng sang trọng, đến đón chúng tôi tại trại tập trung Vĩnh Điện, địa điểm nơi đến không được thông báo để giữ bí mật. Thấy đoàn xe đến đón, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì hành quân gì mà có vẻ nhàn rỗi và dân sự thế này! Chúng tôi lần lượt được gọi tên lên xe, có đồ đạc gì cứ chất lên thoải mái! Dân địa phương được trại mời đến xem, trầm trồ khen cách mạng sao mà khoan hồng độ lượng với ngụy quân và ngụy quyền đến thế, cho thuê xe chở khách rộng rãi, thoải mái như đi du lịch! Bọn tôi cũng bán tín bán nghi không biết đi đâu và vì sao gọi là hành quân? (Sau này mới biết, mậy cậu bộ đội méo mó nghề nghiệp, mỗi lần di chuyển đều gọi là hành quân!)

Đoàn xe chở chúng hướng về phía thị xã Tam Kỳ, sau một quãng đường khá xa thì quẹo vào con đường đất hướng lên vùng núi non hiểm trở. Đến đây, thình lình đoàn xe dừng hẳn lại, vệ binh sát khí đằng đằng quát bảo tất cả xuống xe, ai không tuân lịnh sẽ bắn tại chỗ!

Bọn tôi nhìn nhau ngạc nhiên, nhìn con đường xuyên sơn nhỏ hẹp lồi lõm, không biết đây là chỗ nào! Một anh bạn vọt miệng hỏi anh vệ binh đứng cạnh.

- Chúng tôi sẽ đi đến đâu đây anh?
- Câm cái miệng lại, không được hỏi linh tinh!
Chúng tôi nhìn nhau khúc khích cười:
- Mụ nội nó, cứ mở miệng ra là khẩn trương với linh tinh!
- Khẩn trương tập họp và đếm số nhanh lên, một vệ binh dõng dạc ra lệnh.
Chúng tôi vội vàng xuống xe và lấy hết đồ đạt lỉnh kỉnh. Có nhiều anh em đem theo cả những vỏ container chứa đạn 105 ly để chứa nước, những vỏ thùng đại liên, lò bếp, và đủ thứ trên đời, có nhiều người đem theo cả gánh đồ thăm nuôi cùng mùng mền chăn chiếu cồng kềnh trên vai rất khó nhọc..

Một anh bộ đội khoảng gần năm mươi nhưng dáng còn nhanh nhẹn, vai gánh đôi lồng gà, nói lớn:
- Cuộc hành quân còn xa, các anh xem đồ đạc gì nặng thì để lại, chúng ta cần khẩn trương bôn tập nhanh, các anh nghe chưa?
Chúng tôi lại tức cười nghĩ thầm di chuyển tù mà cứ ra lịnh nghe như sắp ra trận không bằng!
- Các anh trên đường đi phải giữ gìn trật tự, anh nào có ý đồ bỏ trốn, xử lý tại chỗ! Anh gánh đôi lồng gà ra lịnh.


Chúng tôi hết cười vì vấn đề xem ra nghiêm trọng. Các vệ binh tay cắp AK ngang hông trong tư thế chiến đấu, ra lệnh chúng tôi gồng gánh, sắp hàng một tiến bước. Nhìn đoàn xe đò đang tìm cách trở đầu về lại thị trấn, tôi bỗng cảm thấy bùi ngùi, ước chi mình là anh tài xế được tự do đi đó đi đây! Tôi chia xẻ ý tưởng đó với anh Ký đi cạnh tôi, anh phì cười nói thêm:
- Mụ nội nó tối nay lại được ngủ với vợ sướng tổ bà, còn tụi mình thì không biết bao giờ mới gặp lại vợ con!

Mấy người đi kế bên cũng thở dài thườn thượt chợt nghĩ đến thân phận mình!
Đoàn tù gồng gánh thất thểu như đoàn quân "bại trận" mệt nhọc lê bước trên con đường dài khúc khuỷu dưới ánh nắng oi bức. Đường càng xa càng phải lên dốc thoai thoải, gánh đồ trên vai càng ngày càng trở nên trĩu nặng, mệt muốn bở hơi tai! Vai áo tắm mồ hôi ướt sũng, miệng khát muốn cháy cỗ họng. Chai nước bới theo đã cạn mà đường "hành quân" không biết lúc nào mới tới! Tôi vọt miệng hỏi một vệ binh người thượng đi cạnh:

- Còn bao xa nữa mới tới anh?
- Quăng cái rựa là tới.
- Cha nầy nói xạo quá, tôi nói nhỏ với hai người bạn đi cạnh.
- Mụ nội nó nói thật đấy, anh Ký có vẻ từng trải nói với bọn tôi, anh tiếp:
- Mẹ nó, người miền núi, khi vác cái rựa trên vai đi đường xa, khi nào thấy mỏi vai quá không đi được nữa, quăng cái rựa xuống đất ngồi nghỉ, các anh đoán như vậy, khoảng đường là bao xa?

Bọn tôi ngẩn người ra tính toán chắc đoạn đường còn xa ít nhất cũng mười, mười lăm cây số không biết chừng, có khi còn hơn nữa! Chúng tôi tính ra xong thở dài ngao ngán!

Đoàn người bây giờ lặc lè đi như con rắn bị thương, chia cắt thành nhiều đoạn. Đồ đạc trên vai trở thành một cực hình vì vai đau và sức nặng càng ngày càng như đè đôi vai xuống. Hầu hết mọi người lần đầu tiên phải gánh gồng nặng nề nên không biết trở vai! Trên con đường quanh co đã vương vải nhiều đồ đạc mà trước dây anh em rất trân quí như container đựng nước, thùng đại liên, lò, có anh đành phải san sẻ cho người khác gánh thăm nuôi vì gánh không nổi! Có anh đành bỏ lại cuốn tự điển bên đường vì bây giờ nó là cục nợ đời nặng nề canh cánh bên hông!

Có nhiều nhóm vứt mẹ nó đồ đạc bên đường, nằm lăn ra nghỉ mệt, hoặc ngồi thở giốc và tìm đồ vứt bỏ thêm. Các quán cóc bên đường được chiếu cố tận tình. Đường, kẹo, trà, bánh và nhất là nước chè tàu dược anh em thu mua tối đa. Thấy mấy tay bộ đội mua rượu trắng uống tì tì, anh em cũng bắt chước mua trữ vài bidon uống lấy sức. Tôi và anh Ký cũng vào quán mua vài cái bánh tráng nhúng một ít nước và rượu trắng, quyệt đường lên rồi cuốn lại, ăn vài cái thấy khỏe và lên tinh thần hẳn! Thấy mọi người nghỉ mệt rỉ rả uống rượu một anh vọt miệng:

Xị thứ nhất khai thông trí hóa
Xị thứ hai đả phá cơn sầu
Xị thứ ba rượu dính đầy râu
Xị thứ tư đụng đâu đái đó
Xị thứ năm cho chó ăn chè
Xị thứ sáu như xe lội nước
Xị thứ bảy làm thước đo đường
Xị thứ tám đem đến nhà thương
Xị thứ chín thắp hương khấn vái!!
(xị thứ chín, mới thêm vào sau nầy)

Nghe xong bài "Kệ vịnh uống rượu" mọi người cười và tươi tỉnh ra, có người hỏi xị thứ sáu là ý nghĩa làm sao? Tôi cũng vọt miệng cười trả lời:
- Uống xong, mửa rồi thì công lực đã suy mà tiếp tục uống nữa thì cứ ì à ì ạch như xe đò lội nứơc lụt, không đâu vào đâu!
- Vậy chứ ý nghĩa xị thứ bảy?
- Uống tiếp tục thì đi một bước té một bước y như lục bộ đo đường vậy. Hai câu "kệ" sau cùng là kêu cấp cứu đem vào nhà thương; đã vào bệnh viện mà còn uống tiếp thì chỉ còn nước lên bàn thờ cho mọi người khấn vái mà thôi!

Bọn tôi vừa đi vừa nói chuyện đùa cho vơi bớt nỗi sầu, một chốc nặng quá lại phải dừng lại nghỉ chốc lác. Có nhiều anh kinh nghiệm nhắn mọi người khi nghỉ đừng ngồi bệt xuống đất vì khi đứng dậy sẽ rất khó. Thật vậy có nhiều anh khi đứng dậy phải nhờ người khác kéo và hai bắp chuối rất đau, có anh bị chuột rút la oai oái. Vì vậy sau này, mỗi lần nghỉ là bọn tôi cố đứng dựa vào vách núi thoai thoải để nghỉ lưng và khi đi tiếp khỏi phải có người kéo.

Chiều ở miền núi xuống rất nhanh, mọi người mệt bở hơi tai, nước uống mỗi lúc mỗi cạn, khí hậu oi bức, cả người như muốn bốc lửa. Anh bộ đội gánh lồng gà thúc mọi người lên đường, nhìn lại trong lồng có hai con gà choi choi chết từ bao giờ, anh tiếc rẻ liệng chúng bên đường, ra lệnh:

- Các anh khẩn trương lên đường, trời tối rồi phải giữ đội hình tiến bước, không được thừa cơ bỏ trốn sẽ bị xử lý! Các đồng chí khắc phục khó khăn, làm nhiệm vụ cho tốt.


Đoàn tù xiêu vẹo tiến về phía trước, trời nhá nhem, rồi sập tối rất nhanh. Sương và khí đá tỏa ra giăng mắc khắp nơi và đột nhiên khí lạnh ùa tới rất nhanh, có người cảm lạnh hắt hơi liên tiếp, vội vàng lục balô lấy thêm áo ấm mặc vào. Đoàn người chia ra nhiều toán, nhanh chậm tùy theo sức khỏe từng người. Tôi lạch bạch theo toán người gần chót, cứ bị vệ binh nạt nộ và thúc dục mãi. Trời đã khuya lắm rồi, chúng tôi chân nam đá chân xiêu đi trên con dường đất gồ ghề lồi lõm, mệt muốn chết. Trời lại đột nhiên chuyển mưa bay bay lạnh thấu xương, đưòng trơn như thoa mỡ. Nhìn đồng hồ đã hơn 1 giờ khuya, đang đi ngang qua khu rừng lau dày đặc hai bên đường, đột nhiên bọn tôi thấy toàn thể vệ binh đi kèm đồng loạt bật lưỡi lê dài, sáng loáng trên khẩu AK và nạt lớn:
- Các anh, tất cả rẽ trái khẩn trương lên!

Tôi giật mình nhìn mấy người bạn nói nhỏ "Bà nội nó, tại sao lại cho vào rừng lau rậm rạp nầy, thủ tiêu chăng?" Hình ảnh những hầm chôn tập thể ở Phú Thứ, khe Đá Mài, trường Trung Học Gia Hội v.v. trong vụ Tết Mậu Tân bất chợt hiện lên rõ mồn một trong ký ức tôi. Hai tay vệ binh nạt nộ xô chúng tôi vào rừng lau, tôi sắp té thì chợt nhìn thấy con đường mòn đầy lau lách, trơn trợt. Chúng tôi gắng gượng đi theo lối mòn, thỉnh thoảng lại vấp vào những gốc lau vừa mới bị phạt chéo góc còn những mũi nhọn sắt như dao làm chảy máu bàn chân dầm dề. Những bầy vắt đói máu người bám vào mọi chỗ trong thân thể mặc sức hút máu no nê. Chợt chúng tôi nghe tiếng suối reo trước mặt, trong cái tranh tối tranh sáng cũa những vì sao trên bầu trới đục ngầu, tôi thấy một giải nước long lanh của con suối chảy ngang. Hình ảnh con suối sinh động như một sức sống mãnh liệt làm chúng tôi như chợt tỉnh. Băng ngang con suối lạnh thấu xương, chúng tôi nghe tiếng người gọi nhau ơi ới từ phía xa xa trong lòng chợt vui vì biết được các bạn mình đã đến trước.

Trước mặt chúng tôi, dưới ánh sáng leo lét của những cây đèn dầu được thắp vội của các bộ đội, chúng tôi thấy các anh em đến trước đang đứng thành từng hàng trên một khoảng trống đầy cỏ dại, chung quanh là bóng tối âm u của các cây cổ thụ chằng chịt dây leo của khu rừng hoang sơ chưa khai phá. Thỉnh thoảng tiếng khỉ kêu vượn hú nghe văng vẳng đâu đây càng làm tăng vẻ thê lương ma quái. Trong tôi chợt nhớ câu chuyện đường rừng của Lan Khai "Xa xa, rõ thật xa, ngọn suối rì rào chảy..." nhưng ở đây sao không cảm thấy cái hoang sơ lãng mạng của rừng núi mà chỉ toàn cảm nhận sự đe dọa của hiểm nguy!
Sau màn gọi tên đếm số điểm danh là màn "biên chế" đội tổ.
- Báo cáo đồng chí thũ trưởng, quân số tù tàn binh 525 người, hiện diện đủ.

Anh chàng Bá (có lẽ là chính trị viên trại), miệng hô răng vẩu, môi thâm xì lại đội mũ cối nên hình tượng giống hệt như tấm bia tập bắn bằng giấy ở quân trường (nên sau nầy chúng tôi gọi anh chàng Bá là "Bá bia") báo cáo lớn với một người nhỏ con đứng xéo góc.

Chúng tôi nhìn lên thì mới hay anh trung niên gánh lồng gà thường đi bên cạnh chúng tôi là đại úy trưởng trại (anh tên Đải và có thể nói anh là một trong những cai tù dễ tính thời đó).
- Tốt, các anh là những tù tàn binh đã được đảng và nhà nước khoang hồng cho đi học tập cải tạo, cải tạo. Các anh phải giữ nội qui, nội qui, lao động tốt, để sớm được cứu xét, cứu xét mà về với gia đình, gia đình! Các anh tổ trưởng ở lại để nhận công tác ngày mai lao động, lao động!

Chúng tôi khúc khích cười vì trong câu nói anh luôn luôn nhấn mạnh và lập lại hai chữ cuối trong câu. Một anh nói nhỏ:
- Mẹ nó, mới đến chưa được nghỉ ngơi chút nào mà ngày mai lao động làm sao cho nổi đây?

Chúng tôi chia thành đội tổ xong và có vệ binh hướng dẫn về chỗ ngủ.. Chúng tôi giật mình khi bước vào chòi tranh mục nát, không giường không chiếu, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc, đột nhiên tôi vấp vào một lỗ nhỏ dưới chân suýt té, nhìn kỹ thì ra lỗ thông hơi của căn hầm lớn mà chúng tôi đang trải tạm những tấm chăn nằm lên trên. Hỏi anh em thì mới hay đây là vùng Kỳ Sơn, một trong những mật khu của VC trong những năm chiến tranh ác liệt mà trong năm 68, anh em Biệt Kích cũng có lần xâm nhập qua.

Không diễn tả được nỗi ngậm ngùi của những "khách không mời mà tới", trong cái giá lạnh của đêm trong rừng, trong nỗi chua xót của những quân nhân thiện chiến bị ép buộc phải buông vũ khí trong khi trận chiến đang ở thế bất phân thắng bại, chúng tôi khi không phải lâm cảnh làm người tù màn trời chiếu đất, bị đi đày trên rừng sâu nước độc, sơn lam chướng khí đầy dẫy ở chốn sơn cùng thủy tận--chốn Lương Sơn Bạc--tuy nhiên đều trớ trêu là chúng tôi không thể tập hợp lại để trừ gian diệt bạo, cứu khổn phò nguy như 108 hảo hán Lương Sơn, nhưng chúng tôi bị tập họp lại chỉ để làm những người tù khổ sai với những đòn thù đè nặng trên lưng qua những năm thắng triền miên trải dài trong các trại tập trung mà hậu quả là có quá nhiều anh em đã bỏ mình nơi chốn tù đày, có quá nhiều anh em đã mang lấy thương tích, bệnh tật trầm kha, chỉ còn tấm thân tàn phế khi trở về xã hội tạm dung. Đã có quá nhiều tan vỡ gia đình. Xã hội và dân tộc Việt Nam mến yêu đã mang nhiều bất hạnh, khổ đau dưới ách thống trị vô thần và khát máu của bọn CS gian manh!

Nằm ngửa, gối đầu trên hai bàn tay nhọc mệt, nhìn qua những lỗ hổng của mái tranh mục nát, tôi chợt thấy một vì sao tội nghiệp khi mờ khi tỏ qua những tầng mây mờ đục, tôi đột nhiên nghĩ tới nhà tôi đang bụng mang dạ chửa, giờ đây đang một mình đơn côi phải chống chọi lại với biết bao nghịch cảnh của thời cuộc, của cuộc đời đẩy đưa, với biết bao cạm bẫy dăng mắc như những áng mây đen giông tố đầy trời, xô vào dồn dập...

Trong vô cùng của đêm đen bất tận, tôi chợt thiếp đi...và trong mơ hồ, tôi thấy hầu như ngôi sao tội nghiệp kia đang tiếng dần đến với tôi, an ủi, khuyến khích tôi, vững vàng và sáng dần lên dưới bầu trời sương khói...

Tôn Thất Sang

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Huyền Sử Ca
Những Người Lính Chiến Không Quân


“Chưa bao giờ có một số ít như thế,”
“đã làm những chuyện phi-thường đến như thế,”
“để đem lại lợi ích cho một số đông đến như thế…)
W. Churchill
*****

Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Tháng Tư oan-nghiệt!)
(Truyện ngắn viết tặng: Các phi-công khu-trục của KLVNCH. Đại-Úy Thọ, phòng-thủ SĐ5KQ. Trung-sĩ Nghiệp. Trung-sĩ Thịnh. Trung-Tá Mạnh KT/TV.KQ.
Các phi-tuần khu-trục của: Đại-Úy Phúc - Trung-Úy Bá, Thiếu-Tá Ấn - Đại-úy Thụy, Thiếu-Tá Sơn - Trung-úy Vân.
Các phi-công, cơ-phi, xạ-thủ của Tinh-Long AC119K, và Thượng-Sĩ Chín (1).
Các phi-hành-đoàn Trực-Thăng võ-trang, và C&C.
Các cơ-trưởng, và phi-đạo A1 đã thi-hành phi-vụ tác-chiến cuối cùng của Không-Lực VNCH trên không-phận Thủ-Đô SàiGòn trong đêm 28 rạng ngày 29 tháng 4 năm 1975, trước khi có lệnh của tân Tổng-Thống và Thủ-Tướng là phải buông súng…
Xin gởi đến những hiền-phụ VN, và những nàng dâu KQ thủy-chung, một đời trọn nghĩa phu-thê. Đặc biệt gởi đến nữ dược-sỹ Hạnh-Thương, coi như món qùa nhỏ mừng ngày ra trường của cháu, và gởi đến thế-hệ đàn sau để nhớ lại cuộc sống bi-hùng của bố, mẹ, khi các cháu mới chào đời, trong hoàn-cảnh khắc-nghiệt của lịch-sử dân-tộc.
Thành kính nghiêng mình trước tên tuổi của: Thiếu-Tá Trương-Phùng khu-trục A1. PĐ/518. Trung-Úy Trần -Văn-Hiền, Trung-Úy Trang-Văn-Thành, Trung-sỹ nhất Phan-Quốc-Tuấn, cùng các hảo-hán cơ-phi xạ-thủ của phi-hành-đoàn Tinh-Long AC119K/PĐ. 821. Các anh…những người lính Không-Quân của KLVNCH, đã viết ‘dòng sử máu’ cuối cùng lên trang quân-sử bi-hùng triền-miên của dân-tộc qua ‘Huyền Sử Ca
Những Người Lính Chiến Không Quân'. Tổ-Quốc tri-ân các anh!)

*****

Phúc lắc cánh ra hiệu cho Bá, người phi-tuần-viên bay ở vị thế số 2 đổi qua đội hình chiến-đấu rồi bấm máy gọi:
- Phi-Long 42 đây một gọi.
- Hai nghe năm.
- Mình sẽ làm một cái “low pass” qua đồn quân-cảnh, số hai giữ vị-trí bên trên cánh phải.
- Phi-Long 42 hiểu, vị-trí bên trên cánh phải.
Phúc đẩy “cần hòa-khí”, đưa kim chỉ vòng quay lên 2600RPM, và để “tay ga” ở vị thế tiền oanh-kích, rồi nghiêng cánh 45 độ về bên trái, chúi mũi xuống…Hai chiếc khu-trục cơ nối đuôi nhau lao mình xuống sát mặt xa-lộ nhắm hướng đồn quân-cảnh lướt tới. Xe cộ hai bên đường giạt ra bờ cỏ. Mọi người hoảng-hốt nằm bẹp dí xuống mặt đường. Tiếng động-cơ của hai chiếc AD6 gầm rú như hai con mãnh hổ ở cao-độ thấp làm hai người lính quân-cảnh ngồi thụp xuống, hai tay vòng lên đầu chụp lấy chiếc nón sắt như sợ bị gió cuốn đi mất. Phúc bấm máy liên-lạc với đoàn xe qua tần-số FM:
- Mãng-Xà, Bạn cho họ biết là mình không có sự-vụ-lệnh nhưng có 1600 viên đại-bác 20 ly họ có chịu nhận không.
Cùng lúc đó, Phúc liên-lạc trên tần-số với Bá rồi kéo nhẹ cần lái. Hai chiếc khu-trục vút lên cao để lại 4 vệt khói trắng kéo dài bên cánh như những con rồng uốn khúc. Phúc lật ngửa phi-cơ cùng số hai làm một nửa “vòng roll số 8” tuyệt đẹp. Nhìn xuống bên dưới, anh thấy đoàn xe của Trung-Tá Mạnh đang nối đuôi nhau rời đồn quân-cảnh chạy về hướng Sài-Gòn. Có tiếng của người trưởng-xa trên tần-số:
- Phi-Long 42 đây Mãng-Xà gọi.
Phúc cười trên tần-số trả lời:
- Mãng-Xà, Phi-Long nghe bạn rất rõ. Mọi chuyện tiến-hành tốt đẹp chứ. Trung-Tá đừng lo, chúng tôi sẽ hộ-tống đoàn xe của Mãng-Xà về đến tận cổng “lăng Cha-Cả” , Tân-Sơn-Nhất. OK!
- Phi-Long 42, Mãng-Xà nhận rõ. Từ đây về Tân-Sơn-Nhất là phần đất nhà, chúng tôi không dám phiền đến các bạn nữa. Xin vô-cùng cảm-ơn Phi-Long, các bạn vừa biểu-diễn một đường bay tuyệt-mỹ. Ước gì được mời các “Hiệp-Sỹ Không-Gian” ly thạch chè Hiển-Khánh và tô phở gà Hiền-Vương…Chúng tôi sẽ xử-dụng lộ-trình về Tân-Sơn-Nhất qua ngả Đa-Kao.
Phúc cười trên tần-số:
- Cảm-ơn hảo-ý của Mãng-Xà. Xin các bạn ăn dùm chúng tôi mỗi người hai tô phở đặc-biệt. Xin chào và hẹn gặp lại…
Có tiếng bấm máy dồn-dập của người giữ máy bên dưới:
- Phi-long đây Mãng-Xà, xin bạn khoan rời tần-số, toàn thể anh em trong đoàn xin mời các bạn qúa bộ đến câu-lạc-bộ Huỳnh-Hữu-Bạc tối nay để chúng tôi được hân-hạnh diện-kiến và thù-tiếp.
Phúc cảm-động trước tấm chân-tình của những người Không-Quân Kỹ-Thuật, và từ một khoảng-cách vô-hình trên không…Phúc thấy như mình đang đứng cạnh những người bạn cùng quân-chủng, trao đổi với nhau niềm ưu-tư về đại-cuộc. Anh mỉm cười đáp lại:
- Ồ! Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Mãng-Xà đừng bận tâm, chúng tôi không dám hứa vì còn phải túc-trực bay đêm nay. Xin Mãng-Xà đừng đợi.
- Không được, đêm nay nhất định chúng tôi phải được hân-hạnh thù-tiếp các bạn theo đúng tinh-thần của người lính chiến Không-Quân.
- OK! Chúng tôi sẽ cố-gắng. Xin chúc Trung-Tá cùng các bạn Kỹ-Thuật một đêm thật vui…“Mission Accomplished!”.
Tiếng người trưởng-xa bên dưới còn với vọng theo:
- Xin cảm ơn các “Thần-Điêu Đại-Hiệp” một lần nữa…Nhớ đến nghe, chúng tôi sẽ đợi các bạn tới sáng đấy.
Phúc bấm máy cười vang rồi cùng số hai đổi qua tần-số Paris báo cáo phi-vụ đã hoàn tất, và đoàn xe đã về đến điạ-phận của thành-phố được an-toàn…

Phúc ra hiệu cho số hai vào hợp-đoàn cận-phi. Hai chiếc khu-trục nối đuôi nhau quần-thảo trên không-phận thủ-đô như để đuổi bắt những tia sáng cuối cùng của một ngày dài căng-thẳng, và mệt nhọc đang chìm dần sau đám mây đen tận cuối chân trời. Anh cho phi-tuần trực-chỉ hướng phi-trường Tân-Sơn-Nhất. Nắng chiều đã tắt…Bóng tối chập-choạng chụp xuống bao trùm cảnh-vật; thành-phố Sài-Gòn vừa lên đèn. Từ trên cao-độ, Phúc phóng tầm mắt nhìn về hướng Biên-Hoà…Phi-trường vẫn còn đang bốc cháy, chiếu hắt lên nền trời xám đen ánh lửa bập-bùng ma-quái, cùng với những cột khói nhấp-nhô như một bầy ngạ-quỷ đang nhẩy múa từ chốn địa-ngục của trần-gian…Trên xa-lộ, từng đoàn người và xe-cộ đủ loại, vẫn lũ-lượt đổ vào các ngả đường thành; bất giác anh để thoát ra một tiếng thở dài…

Trong suốt 20 năm qua, dọc theo với chiều dài của dòng lịch-sử dân-tộc. Các anh đã nối tiếp bước chân của những bậc đàn anh đi trước, lần lượt đứng lên dấn thân, hy-sinh tuổi trẻ của mình để bảo-vệ cho cái vùng đất được gọi là “tiền đồn chống cộng của thế-giới tự-do” này. Máu và thân xác của biết bao nhiêu người trai thế-hệ đã đổ xuống để tưới bón, vun-bồi cho mảnh quê-hương bất-hạnh thêm phần mầu-mỡ xanh tươi. Đã có bao nhiêu mảnh khăn tang được quấn vội lên đầu những người vợ trẻ, những đứa con thơ…dấu tích của những cuộc chia lìa mất mát…để đổi lấy cuộc sống an-bình, và tự-do cho người dân miền Nam…Bao nhiêu năm ở trong quân-đội, từng coi những chuyện “vào sinh ra tử” như chuyện đùa…Những người phi-công của quân-lực Việt Nam Cộng-Hòa như các anh, hàng ngày vẫn lạnh-lùng leo lên chiếc quan-tài bay, lao mình vào vùng trời lửa đạn, nhưng chưa lần nào anh phải đối đầu với một hoàn-cảnh pha trộn những tình-huống vừa cay đắng, vừa khôi-hài như lần này…

Từ ở nơi địa-đầu của giới-tuyến…Các anh, những người lính chiến thuộc các quân binh-chủng của quân-lực-Việt Nam Cộng-Hòa đã được lệnh phải rút về…rút mãi…rút mãi chẳng khác nào như những con ốc thu mình vào trong cái vỏ chật hẹp của chính mình, để mặc cho những cơn sóng chính-trị tàn-nhẫn, vô-tình vùi dập…Cho đến một lúc, các anh đã phải dừng lại tự hỏi là đất nước này rồi sẽ đi về đâu…Trong những ngày gần đây, Phúc nhìn thấy căn-cứ Không-Quân Tân-Sơn-Nhất trở nên nhộn-nhịp một cách khác thường…Thứ nhộn-nhịp pha trộn những hỗn-độn và lo-âu của những quân-nhân và gia-đình thuộc các Sư-Đoàn Không-Quân từ các vùng chiến-thuật đổ về…Hàng ngày báo chí đăng-tải và bình-luận tin-tức về những cuộc “di-tản chiến-thuật”, cùng những lệnh chuyển quân bất-thường trực-tiếp từ ‘Tổng-Thống-Phủ; càng làm cho tinh-thần quân-nhân các cấp giao-động thêm…Rồi Phan-Rang thất-thủ; Trung Tướng Nguyễn Vĩnh-Nghi, Tư-Lệnh chiến-trường cùng Chuẩn-Tướng Phạm-Ngọc-Sang, Tư-Lệnh SĐ6/ Không-Quân đã bị rơi vào tay địch trong lúc quân tàn lực tận…

Mấy ngày trước đây, mọi người đã được nghe chính Tổng-Thốnng, Thủ-Tướng và Đại-Tướng Tổng Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đội lên đài truyền-hình nói chuyện với dân-chúng…Rồi Tổng-Thống tuyên-bố từ chức và trao quyền lãnh-đạo đất nước lại cho vị Phó Tổng-Thống gìa nua, và sức khỏe đang xuy yếu. Anh không thể ngờ được là những người lãnh-đạo tối-thượng của đất nước lại có thể cam tâm quay lưng chối bỏ nhiệm-vụ của mình trong lúc Tổ-Quốc lâm nguy như vậy…Đâu rồi những vần thơ dậy lời hào-khí của người xưa: “Trống Tràng-Thành lung lay bóng nguyệt – Khói Cam-tuyền mờ mịt thức mây – Chín tầng gươm báu trao tay - Nửa đêm truyền hịch rạng ngày xuất chinh…” Đất nước này không thiếu cái dũng-cảm hào-hùng của những: Trần-Quốc-Toản, Phạm-Ngũ-Lão, Trần-Bình-Trọng, Nguyễn-Biểu, Nguyễn-Phi-Khanh, Nguyễn-Trãi, Lê-Lai, Hoàng-Diệu, Võ-Tánh, Bùi-Thị-Xuân, Nguyễn-Thái-Học, Phạm-Hồng-Thái, Phạm-Phú-Quốc, Nguyễn Đình-Bảo, Phạm Văn-Thặng, Nguyễn Khoa-Nam, Nguyễn văn-Hưng…Mà chỉ thiếu những người biết xử-dụng, và điều-hợp những cái hào-hùng dũng-cảm đó để lèo lái con thuyền quốc-gia dân-tộc qua cơn phong-ba bão-táp như Ngô-Quyền, Đinh-Bộ-Lĩnh, Lý-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo, Lê-Lợi, Quang-Trung Nguyễn-Huệ đã làm…Vó ngựa trường-chinh đời Lý còn để lại bao dấu tích kinh hồn bên kia miền địa-đầu quan-ải của Bắc phương…Lời thề tại hội-nghị Diên-Hồng còn âm-ỷ tận đáy con tim của giòng giống con Hồng cháu Lạc…Tiếng trống Hà-Hồi vẫn còn vang dội trong lòng của những người dân Việt, mỗi độ Xuân về tưng-bừng kỷ-niệm lễ hội Đống-Đa…Mà sao lá “cờ vàng ba sọc đỏ” đang ngạo-nghễ tung bay trên Cổ-Thành Quảng-Trị đã phải cuốn lại mang đi…

Hàng ngày, Phúc đã chứng-kiến cảnh từng đoàn xe “bus” của Hoa-Kỳ dẫn đầu bởi những chiếc xe “Jeep” mỡ đường của Quân-Cảnh hỗn-hợp Việt-Mỹ, chở đủ các hạng người từ bên ngoài căn-cứ vào “D.A.O” qua cổng phi-cảng dân-sự, để đưa những người được coi như là có liên-hệ với “đồng-minh Hoa-Kỳ” thoát ra khỏi Việt Nam…Anh cũng bắt gặp một số những khuôn mặt quen-thuộc ngồi trong xe… Nhưng đáp lại là những tia mắt ngỡ-ngàng lẩn tránh, và những cánh tay đưa lên không phải để vẫy chào đưa-tiễn mà là để che dấu…Anh không trách họ, mà chỉ lắc đầu mỉm cười chua chát…Các cư-xá trong căn-cứ không còn một chỗ trống. Người ta phải xử-dụng cả các hangar để làm nơi tạm trú…Bãi đậu chật cứng, chứa đủ loại phi-cơ…gây trở-ngại không ít cho việc di-chuyển.

Cả tuần nay, tinh-thần Phúc lúc nào cũng căng-thẳng. Một phần vì gia-đình, vợ anh mới sanh đứa con gái đầu lòng chưa đầy hai tháng. Một phần vì khi bay những phi-vụ bất-thường, anh cảm thấy như có một cái gì không ổn ở đàng sau…Như chiều nay, anh được phòng hành-quân-chiến-cuộc Sư-Đoàn 5 Không-Quân điều-động cất cánh khẩn-cấp. Lên trời mới nhận thêm chi-tiết từ Tướng Tư-Lệnh Sư-Đoàn 3 Không-Quân là hộ-tống đoàn xe của nhóm chuyên-viên vũ-khí vừa hoàn-thành nhiệm-vụ phá-hủy căn-cứ Không-Quân Biên-Hòa về Tân-Sơn-Nhất. Phi-vụ hộ-tống này không có phi-cơ quan-sát hướng-dẫn trên vùng như thường-lệ. Anh phải liên-lạc trực-tiếp với trưởng-xa là Trung-Tá Mạnh trên tần-số FM. Từ trên cao-độ của vòng chờ, anh thấy phi-trường Biên-Hòa đắm chìm trong biển lửa…Trong khi bên ngoài căn-cứ, dân chúng túa ra đường, gồng-gánh dắt dìu nhau, chạy ngược xuôi như một đàn kiến vỡ tổ, anh thấy tim mình đau nhói…Anh nghe thấy tiếng Bá nghẹn-ngào trên tần-số: “ Gia-đình tôi đang ở dưới đó…“ Anh cảm-thông được tâm-tình của người bạn đồng-ngũ qua câu nói, và trong một giây quyết-định, anh tạm nhường quyền dẫn phi-tuần cho người phi-công số hai của mình…Và hai chiếc khu-trục-cơ đã cùng gầm rú, bay lượn nhiều vòng ở cao-độ thật thấp dưới bầu trời ảm-đạm, như để gởi đến những người bên dưới một lời chào gĩa-biệt…Bám sát theo bên cánh chiếc phi-cơ của Bá, Phúc có cảm-tưởng như mình nghe được tiếng gào thét thê-lương của người phi-công khu-trục trẻ tuổi, đang bất-lực nhìn thảm-cảnh trước mắt chụp lên đầu những người thân của mình trong những giây phút cuối-cùng của một cuộc chiến sắp tàn…

Tình-huống chung quanh mình đã vậy, nay nghe Mãng-Xà, danh-hiệu người trưởng-xa của đoàn xe chở nhóm kỹ-thuật không-quân, vui mừng gọi trên máy là đã về đến “vùng đất nhà”, và gởi lời cám-ơn đến những “Hiệp-Sỹ Không-Gian”, anh thấy lòng mình se thắt…

Từ Biên-Hoà về Sài-Gòn có chỗ nào là vùng đất của địch đâu…Khoảng-cách chưa đầy 30 cây số theo đường chim bay này, anh và các bạn đã từng đi về nhiều lần, ngày cũng như đêm, kể từ lúc người bạn đời của anh còn là “Một Người Ái-Mộ Không-Quân”…Và cầu Bình-Triệu, cầu Bình-Lợi, xa-lộ Đại-Hàn, xa-lộ Biên-Hoà, quán “Con Gà Quay” Thủ-Đức, quán thịt rừng Tân-Vạn dường như vẫn còn vang-vọng đâu đây tiếng cười nói thâu đêm suốt sáng của đám bạn bè “tứ-hải giai huynh-đệ” thuộc đủ các quân binh-chủng, mà mỗi lần được về phép, là một lần gặp-gỡ để các anh “xả-láng cuộc đời” cho tình đồng-ngũ…Rồi những buổi sáng tinh sương, cúi rạp mình, phóng xe trên xa-lộ từ Sài-Gòn xuống Biên-Hoà để vào phi-đoàn cho kịp giờ cất cánh cho một phi-vụ bao vùng, yểm-trợ quân bạn ở một tiền-đồn hẻo-lánh ngoài biên-giới…Hoặc những buổi trưa hực lửa nắng hè, ngồi ép mình trong chiếc xe đò hiệu “traction” đời cũ, chỉ có 5 chỗ ngồi, mà người tài-xế đã đặt thêm một tấm ván gỗ ở giữa để làm ghế, cố nhét cho đủ 12 hành-khách, để xin bà con cô bác thông-cảm cho thêm tiền “xăng nhớt”, đang chạy với tốc lực 120 cây số một giờ mà anh vẫn còn thấy chậm, chỉ sợ không kịp về cho đúng giờ hẹn với người tình…Và những buổi chiều lộng gió, sau những lúc đùa bỡn với tử-thần ngoài mặt-trận, trở về thành-phố đón người yêu ra xa-lộ, ngồi trong chiếc quán vắng, cạnh một gốc dừa lả ngọn, tận hưởng những giây phút riêng tư qua làn không-khí mát rượi, trong lành, ngát thơm mùi hương đồng cỏ nội…Để đến đêm về, dừng lại ở một nơi nào đó có những ánh đèn mầu mờ-ảo, có điệu nhạc bổng trầm quấn-quýt bước chân…để ngây-ngất với những đụng chạm nồng-nàn trên làn môi mềm mật ngọt, và vòng tay êm-dịu của người yêu cùng dìu nhau trên lối mộng…Cuộc sống có vội-vã, có những hiểm-nguy bất-trắc, nhưng vẫn còn một quãng trống của thời-gian để lấp đầy những hẹn-hò, chờ đợi cho một cuộc tình vừa chớm nở…Rồi thì những tháng năm luân-chuyển đơn-vị phục-vụ các nơi, xuyên qua vùng trời mịt mù khói lửa của quê-hương…Tuy có xa cách, nhưng khoảng không-gian giữa Sài-Gòn và những miền đất đồn-trú, dù ở chỗ nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là cái gạch nối không dài lắm, cho anh thỉnh-thoảng có dịp tháp-tùng một chuyến bay của “Hàng-Không Việt Nam”, hay của các phi-hành-đoàn bạn…để bất-chợt trở về như một món qùa nhỏ tuyệt-vời, bất-ngờ mang đến cho người yêu trong những lần gặp-gỡ không hẹn trước…

Bây giờ thì đã hết. Chỉ một khoảng-cách ngắn-ngủi, mà anh thấy dài như chiều dài của một chiến-tuyến khốc-liệt…Nhìn xung-quanh, thấy bạn mà ngờ là quân thù…Cảnh-tượng đoàn xe của các chuyên-viên vũ-khí Không-Quân từ Biên-Hòa về Sài-Gòn bị đồn Quân-Cảnh gác xa-lộ chặn lại, vì không có sự-vụ-lệnh di-chuyển, để anh và Bá phải “biểu-dương lực-lượng”…Một cuộc biểu-dương bất cân-xứng…Phúc không trách những người lính quân-cảnh, vì họ cũng chỉ là những người lính thi-hành nhiệm-vụ qua lệnh của cấp trên, mà chính những người ra lệnh cho họ giờ đây cũng chẳng biết sẽ nhận được những lệnh gì nữa của cấp cao hơn…Rồi thì như có một cái gì thật mỉa-mai ập tới, mà trong một thoáng, anh cảm thấy uy-danh của người phi-công khu-trục bị chà đạp, lòng anh bỗng dưng chùng hẳn xuống như vừa lãnh trọn cú hút tàn-bạo của cơn lốc xoáy trên không…Anh và bạn-bè vẫn còn đang sẵn-sàng hy-sinh, chiến-đấu để bảo-vệ tài-sản và đất-đai của dân-chúng kia mà…Nghĩ đến đây Phúc mỉm cười chua chát, để thấy rằng chỗ vùng-vẫy của những “Hiệp-Sỹ Không-Gian” chỉ là khoảng trời cao rộng, ngút-ngàn mây với gió, chứ không phải ở dưới vùng đất bụi mù kia…

Phúc cho phi-cơ vào chỗ đậu theo sự hướng-dẫn của Thịnh, người trung-sỹ phi-đạo. Anh với tay tắt máy, tháo giây nịt an-toàn trên người, và cởi nón bay rồi leo ra khỏi phòng lái. Dưới ánh sáng chói lòa từ dàn đèn pha 1200 watts trên sân bay, bên chiếc xe xăng đậu cạnh phi-cơ, anh ký tên vào sổ kiểm-tra kỹ-thuật, trao đổi một vài câu với Thịnh…rồi chia tay cùng Bá, phóng xe về cư-xá. Dạ-Thảo đang ôm con đứng đợi nơi cửa. Vừa thấy chồng, nàng vui mừng nói nhanh theo hơi thở đứt quãng:
- Anh…Hồi nãy phi-trường bị thả bom, em sợ muốn chết, vừa lo cho con, vừa nghĩ đến anh không biết có sao không.
Phúc dựng xe rồi dìu vợ vào nhà cười nói với nàng:
- Chắc chắn là anh không sao rồi. Chỉ lo cho em và con thôi…
Rồi anh trầm giọng nói:
- Em ạ! Anh thấy tình-hình nguy-kịch lắm rồi, căn-cứ Không-Quân Biên-Hòa đã được phá-huỷ bằng chất nổ hồi chiều, bây giờ còn đang cháy. Dân chúng đổ dồn về thành-phố còn đang kẹt cứng ngoài xa-lộ. Quãng đường từ Biên-Hòa về Sài-Gòn qua ngả xa-lộ Đại-Hàn hoàn-toàn bỏ trống...Anh nghĩ đêm nay thế nào tụi nó cũng pháo vào Tân-Sơn-Nhất. Thôi để anh đưa em và con ra ngoài, về nhà ba má ở tạm rồi tính sau, chứ ở trong này nguy-hiểm lắm.
Thân hình Dạ-Thảo hơi run lên trong vòng tay cứng rắn của Phúc, nàng ôm chặt con vào ngực giọng thảng-thốt:
- Không, em sẽ ở đây với anh. Giờ phút này làm sao mà em xa anh được. Nếu có chuyện gì…thì cho em cùng chịu với anh.
Phúc chợt thấy lòng mình mềm lại qua câu nói tha-thiết, chân-thành của người bạn đời. Chàng cảm-động cúi xuống hôn nhanh lên đôi môi nồng ấm của vợ, rồi nhẹ đỡ bé Hạnh-Thương trên tay nàng nói:
- Thôi được để chút nữa tính. Cho anh bồng con một chút, ngồi trong máy bay trên trời mà nhớ con và em đến phát điên lên được.
Dạ-Thảo âu-yếm trao con cho Phúc rồi nhìn chồng mỉm cười nói:
- Có thật là nhớ em hay nhớ ai đó…
Rồi nàng dịu-dàng nói với Phúc:
- Anh bồng con một chút xong đặt con vào nôi cho nó ngủ, rồi đi rửa mặt, thay áo, để em sửa-soạn dọn cơm nghe…
Phúc xoa nhẹ ngón tay lên cặp má phúng-phính mịn-màng như cánh hồng nhung của bé Hạnh-Thương. Bồng con trên tay, anh như quên tất cả những muộn-phiền căng-thẳng của một ngày dài tưởng chừng như vô-tận… Nhìn cặp mắt nhắm nghiền thật vô-tư, và chiếc miệng chúm-chím nhỏ síu, thơm tho như một búp hoàng-lan vừa hé nụ, đang nhắp nhắp như còn thòm thèm dòng sữa mẹ của con, anh nựng:
- À…âu…u…u…Chó cưng của bố nè…Cái mặt đáng ghét này giống mẹ như đúc nè…Mau lớn rồi bố chở con đi chơi bằng máy bay khu-trục.
Nghe Phúc nựng con, Dạ-Thảo phì cười, nhắc chồng:
- Anh…Con vừa mới bú no, anh đừng lắc con nhiều qúa, coi chừng con nó bị ói sữa đó… Hồi trưa chị Thanh ghé chơi, có cho trái bầu và bó ngò gai. Em nấu món canh bầu với giò sống, và tôm để vỏ rang sả ớt với thịt. Những món ăn mà anh vẫn thích đó… À, lúc nẫy chú Đạt đến cho em biết phi-trường bị A-37 thả bom. Chú phải ghé phi-đoàn coi phi-lệnh rồi về đây ăn cơm với vợ chồng mình. Chắc chú ấy cũng sắp tới.
Nghe giọng nói ngọt-ngào, sang-cả, gói-ghém những tình-tự, săn-sóc trìu-mến của vợ, Phúc thật sự thấy mình đang ngụp lặn trong biển yêu-đương dưới mái ấm gia-đình nhỏ bé của mình…Dù rằng trong hoàn-cảnh hiện tại, anh linh-cảm thấy nó rất mỏng-manh. Phúc nhìn vợ và con, lòng giạt-dào thương-cảm…Kể từ ngày quen biết Dạ-Thảo cho đến khi thành vợ chồng rồi có con; qua mọi tình-huống, dù khó-khăn đến đâu, lúc nào anh cũng thấy nàng bình-tĩnh, can-đảm đối đầu với mọi chuyện một cách thật nhẹ-nhàng và uyển-chuyển…Nàng như một cái phao cho anh bám lấy trong những giây phút mệt mỏi giữa cơn sóng gió của dòng đời. Dạ-Thảo dịu-hiền, và mềm-mỏng như một cành trúc trước trận cuồng-phong, giông-bão…Anh đặt con vào chiếc nôi cạnh bàn ăn, vừa lúc đó thì Đạt bước vào nhà. Chưa kịp chào hỏi gì cả thì Đạt đã liến-thoắng nói:
- Sao, anh hai, hạ được mấy phi-cơ địch. Hồi chiều em vừa “taxi” vào ụ đậu thì nghe tiếng bom nổ, ngước nhìn lên em thấy mấy chiếc A-37 đang lượn trên trời rồi bay về hướng Bắc. Có một phi-tuần F5E bay lên truy-cản nhưng chắc là không kịp. Em nghĩ anh đang bao vùng, chắc gặp tụi nó.
Phúc cười nhìn người em vợ bay bên C7 nói:
- Tuy A1 chậm hơn A-37, nhưng nếu có cao-độ và ưu-thế thì vẫn hạ được nó như thường. Chú biết không, Hải-Quân Trung-Úy Cunningham bay AD6 mà hạ MIG của Việt-Cộng đấy nhé. Thật ra thì hồi chiều bọn anh đang làm vòng chờ ở phía núi Châu-Thới, anh có thấy một hợp-đoàn 4 chiếc A-37 đang bay về hướng Bắc ở cao-độ thấp. Lúc đó bọn anh chưa biết đó là phi-tuần đã dội bom Tân-Sơn-Nhất, khi nghe được Paris thông-báo trên “tần số gard”, thì đã qúa trễ, chứ nếu biết trước thì tụi nó cũng tiêu-tùng với bọn anh rồi.
Dạ-Thảo vừa bầy đồ ăn lên bàn vừa nói:
- Khiếp, lính tráng có khác. Chuyện quan-trọng như thế mà nghe mấy ông nói với nhau cứ như là chuyện đùa. Thôi chú vào rửa tay đi rồi còn ăn cơm chứ chị đói lắm rồi đó.
Đạt vừa bước vào nhà trong vừa cười nói:
- Lấy chồng lính, lại là dân tác-chiến, chị phải tập cho quen với những cá-tính đặc-biệt của họ chứ. Rồi như cao hứng, Đạt nhái lại mấy câu trong bài thơ “Mầu tím hoa sim” của Hữu-Loan: “Lấy chồng đời chiến binh - Mấy người đi trở lại - Mà lỡ khi mình…về muộn…thì…”
Nghe Đạt nghêu-ngao ngâm thơ, pha chút giễu-cợt, Dạ-Thảo cười ngắt lời em:
- Chú là dân đại-học Phú-Thọ mà cứ mở miệng là thơ với văn, đáng lẽ hồi đó chú phải học Văn-Khoa mới đúng.
Đạt bước ra cười nói:
- Học ban gì thì cũng vậy thôi. Thời buổi bây giờ là thời của những “đôi giầy bay bết bùn đất hành-quân…” (2) và những tà “áo tím điểm tô đời nữ-sinh…” (3) mà chị.
- Chú nói chuyện ngang cứ như cua. Đôi giầy bay của chú làm sao mà bết bùn đất hành-quân được.
Đạt cười nheo mắt nhìn Phúc nói:
- Hì…hì…Truyện này ly-kỳ lắm, khi nào rảnh để anh hai kể cho chị nghe tại sao.
Cả ba người cùng cười rồi ngồi vào bàn ăn...Bữa cơm gia-đình tuy đơn-sơ nhưng diễn ra thật thân-mật và ấm-cúng. Đạt vừa ăn vừa hít hà khen:
- Trời ơi…món canh bầu giò sống, đi với rau ngò gai thái nhỏ sợi, thêm chút tiêu hột, quyện với nhau tạo thành một hương-vị tuyệt-hảo. Anh hai, mai mốt giải-ngũ, mình chung nhau mở một quán ăn. Chị làm đầu bếp, em rửa chén, anh hai trông cháu…
Dạ-Thảo vừa xới cơm cho Phúc, vừa phì cười nhìn em nói:
- Chú tính vậy cũng gọn đấy. Chị đề-nghị chú lãnh thêm phần quảng-cáo cho quán ăn luôn thể…Thế còn ai đứng bán hàng đây…Ồ! Hay là mình để dành chân bán hàng cho “tà áo tím” của “Thím Đạt tương-lai”...
Đạt nhìn chị cười một cách vô-tư lự:
- Tính em bộp chộp, chả có cô nào để mắt, nên khó kiếm vợ. Chắc phải nhờ anh chị làm cố-vấn…
Cả ba người cùng cất tiếng cười ròn-rã như để tạm quên đi những hiểm-nguy bất-trắc đang rình-rập họ tại một khúc ngoặt nào đó trên quãng đường đời vô-định…Trong bữa ăn, Phúc kể lại chi-tiết phi-vụ hộ-tống đoàn xe của Không-Quân từ Biên-Hòa về Sài-Gòn cho mọi người nghe. Bằng một giọng nói trầm ấm, và lối kể chuyện hoạt-bát, lôi-cuốn của mình, Phúc như kéo mọi người vào trong câu truyện. Dạ-Thảo chống đũa, say-đắm nhìn chồng như quên cả ăn uống, thỉnh-thoảng lại chớp mắt biểu-lộ sự cảm-phục của nàng. Còn Đạt thì luôn miệng phụ-họa với anh rể:
- Anh hai, nghe anh kể mà em thấy tay chân mình ngứa ngáy, chỉ tiếc là chiếc C7 của em nó chậm như một con bò sữa…Nói nhỏ thôi đấy nha, ông Phi-Đoàn-Trưởng của em mà nghe được, ổng đổi em về “vùng 6 chiến-thuật” thì bể gáo hết…À, cho mọi người biết là em đã làm đơn xin hoán-chuyển qua F5. Đơn đã lên đến Tham-Mưu Phó Hành-Quân, khối Đặc-Trách Khu-Trục trên Bộ-Tư-Lệnh.
Phúc cười nhìn người em vợ vui tính rồi nói:
- Vậy thì anh chúc chú sớm đạt được ý-nguyện. Thật ra thì mỗi loại máy bay đều có những khả-năng và ưu-điểm riêng của nó, và loại nào cũng cần cho mình cả… Còn chiếc A1 của bọn anh thì cũng già lắm rồi, và đã được xếp vào loại phải đình-động. Anh nghe nói nó sẽ được thay thế bắng loại A-10 tối tân hơn.
Đạt liến-thoắng nói :
- Anh hai thấy…liệu A-10 có thể địch lại F5 không?
Phúc nhìn Đạt rồi âu-yếm quay qua Dạ-Thảo cười tủm-tỉm:
- Cái đó cũng còn tùy…người “lái phi-công” nữa chứ. Có phải vậy không em.
Dạ-Thảo tình-tứ liếc mắt nhìn chồng cười nói:
- Thôi ăn đi kẻo canh nguội hết rồi kìa…Cứ lo nói chuyện mãi. Còn chú Đạt khi nào bay F5 thì cho chị tháp-tùng theo thử xem sao. Chị được bay AD5 rồi đó nghe.
Cả ba cùng cất tiếng cười vang. Một bầu không-khí ấm cúng gia-đình đang quấn lấy đôi vợ chồng trẻ. Phúc nhắc đến cái hẹn của Trung-Tá Mạnh hồi chiều. Đạt đề-nghị:
- Tối nay em sẽ đưa chị và cháu qua cư-xá của phi-đoàn em ở, vì tụi em có đào một cái hầm trú-ẩn rất kiên-cố để tránh pháo-kích cho những phi-hành-đoàn ứng trực. Em đã sửa-soạn đầy-đủ mọi thứ cho chị và cháu bé rồi. Như vậy đêm nay anh có thể yên-trí trực tại biệt-đội, nếu có chuyện gì xẩy ra thì đã có em. Em có tấm thẻ đi trong giờ giới-nghiêm của “Phòng 7” Bộ TTM cấp. Anh có thể ghé qua chung vui với họ một chút để khỏi phụ lòng tri-kỷ…
Phúc âu-yếm nhìn Dạ-Thảo nói:
- Không được, giờ phút này ai còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện nhậu nhẹt; mà nếu phải có một bữa tiệc rượu thì chỉ có “tiệc rượu hợp-cẩm đêm tân-hôn” thôi, có phải vậy không em.
Dạ-Thảo ửng hồng đôi má, liếc mắt nhìn chồng nói:
- Anh thiệt tình…lúc nào cũng nói giỡn được.
Phúc hạ thấp giọng nói:
- Anh nói đùa đó thôi. Thật ra thì anh đang lo không biết tính sao, anh linh-cảm thấy dường như có một cái gì đó sẽ xẩy ra đêm nay. Anh không muốn rời em và con trong lúc này. Bây giờ có chú Đạt thì cũng đỡ lo…Chút nữa đưa em và con vào phi-đoàn của chú Đạt xong anh phải về phòng trực của biệt-đội để túc-trực bay đêm.
Dạ-Thảo ngước mắt ngập-ngừng hỏi em:
- Vào đó có tiện không em. Hay là…cứ để chị và cháu ở đây cũng được.
Đạt cười trấn-an chị:
- Chị đừng lo, trong phi-đoàn em đứa nào cũng hâm-mộ chương-trình “Đọc truyện ban đêm” của chị. Nhiều “ông con” còn mê “hoảng” giọng nói liêu-trai của bà chị xướng-ngôn-viên Dạ-Thảo. Nay gặp mặt thần-tượng, chắc tụi nó mừng hết lớn.
Dạ-Thảo mỉm cười nhìn chồng nói:
- Chắc họ sẽ thất-vọng mất, vì bây giờ chị chỉ còn biết đọc kinh cầu-nguyện cho những người thân thôi.
Đạt nheo mắt nhìn Phúc nói:
- Thế mới nát lòng người chiến-sỹ. Còn cảnh nào đẹp và bi-hùng hơn cảnh: “Em ngồi xõa tóc trong hầm tối, Đọc tiếng kinh cầu như đọc thơ.” (4) Phải không anh hai?
Phúc cười vỗ vai người em vợ lém lỉnh:
- Nhờ cậu tý, cậu bay C7 mà lại đòi “nghênh-cản” khu-trục. Thôi để anh tống ga dọt trước cho cậu đỡ tốn xăng, tốn đạn.
Dạ-Thảo sung-sướng nhìn chồng và em nói:
- Anh em các ông sao mà hợp nhau thế. Kẻ tung người hứng cứ như là chơi bóng chuyền vậy.
Đạt nhìn chị cười nói:
- Ơ, thế chị không biết à, thì cùng xuất-thân từ “lò huấn-nhục” Nha-Trang ra mà. Tuy khác khóa, khác nghành nhưng chung một mầu áo. Phải không anh hai.
Cả ba người cùng cất tiếng cười ròn-rã. Dạ-Thảo cảm thấy thương chồng và em hơn. Nàng vẫn thầm cảm-phục cái phong-độ của những người lính chiến Không-Quân dù là ở ngành nào. Nhiệm-vụ của họ có khó-khăn và nguy-hiểm, nhưng cuộc sống của họ thật bình-dị và cởi-mở, không hình-thức, câu-nệ. Đôi khi có pha trộn những nét dí-dỏm, khinh-bạc vào cuộc đời. Ngày xưa…kể từ ngày mới quen nhau, cho đến khi làm vợ Phúc, nàng đã dần dần khám phá ra những cá-tính khác biệt như những đường nét khó hiểu trong một bức tranh lập-thể của người phi-công khu-trục trẻ tuổi này…Mới tiếp-xúc thì tưởng như là một người rụt-rè nhút-nhát, nhưng lại rất sôi-nổi và lãng-mạn trong tình yêu…Lả-lướt và bay-bướm ngoài đời, nhưng cũng rất chung-tình, gắn-bó với gia-đình, và nhất là…rất hào-hùng, nghĩa-khí ngoài chiến trận. Những khi gần chàng, nàng thấy như được bao-bọc và che-chở. Cuộc sống lứa-đôi của nàng và Phúc, đôi khi cũng có những dỗi-hờn bóng gió, nhưng chỉ là một thoáng mây bay…Để rồi với những lo-âu, chờ đợi hàng ngày qua những phi-vụ hiểm-nghèo của người lính chiến Không-Quân, đã làm mềm lòng người vợ trẻ. Bởi vì: “Mỗi lần không-yểm cho quân bạn, Là một lần đi khó hẹn về…” (5) Cho nên, nó đã không chừa cho nàng một chỗ trống nào trong trái tim mình để chứa chất thêm những giận-hờn, trách móc…Dạ-Thảo nhìn em nói:
- Thôi để chị đi dọn dẹp rồi còn soạn vài thứ cần-thiết cho cháu.
Đạt cười nhìn chị nhanh-nhẩu nói:
- Để em rửa chén và thu dọn cho. Chị biết không, rửa chén, dọn dẹp nhà cửa và…đi bay là nghề của chàng mà. Chị cứ việc lo cho cháu.
Phúc sung-sướng nhìn cảnh đầm-ấm của gia-đình. Anh vẫn cầu mong ơn trên che trở sao cho nó không bị sứt mẻ, cho dù bất cứ trong hoàn-cảnh nào. Phúc hôn vợ và con rồi dặn:
- Có chuyện gì thì anh sẽ về đón em và con, đừng chạy đi đâu cả nghe không.
- Vâng, anh đừng lo, với lại còn có chú Đạt nữa mà.
Đạt cũng nói:
- Không sao đâu anh hai. Có gì em sẽ điện-thoại tới anh ngay.

Phúc từ giã vợ con và Đạt rồi lên xe chạy về biệt-đội. Khi đi ngang qua khu gia-binh anh thấy hàng quán ồn-ào, đèn đuốc sáng trưng. Người ta đang tụ-tập ăn uống để nghe ngóng, bàn-luận tình-hình trong sự lo-lắng và chờ đợi. Anh mỉm cười ngừng xe lại bên lề đường. Ngẩng mặt nhìn trời…rồi hít một hơi dài làn không-khí mát lạnh của đêm vào buồng phổi. Giờ này, trong muôn triệu những vì sao lấp-lánh trên vòm trời, anh chợt thấy một ngôi sao nhỏ ly-ty rụng xuống, quét một vệt sáng mỏng như sợi chỉ trên không, rồi biến mất vào với màn đêm vô cùng tận của vũ-trụ…Có tiếng gọi từ bên trong một quán ăn vọng ra:
- Ê! Phúc Cháy!
Phúc nhìn vào, anh thấy Phùng đang đứng dậy cầm ly rượu giơ tay vẫy:
- Vào đây làm một ly với anh em. Tao với thằng “Thọ Điên” vừa ghé biệt-đội nhưng không thấy mày, nên ra đây lai-rai chút đỉnh rồi trở lại. Tụi tao cũng mới tới được khoảng 10 phút. Tao có để xe lại biệt-đội để mày biết là có tao đến.
Phúc tắt máy, dựng xe bước vào. Anh thấy Thọ, “Người Hùng Phòng-Thủ” căn-cứ Tân-Sơn-Nhất hồi Tết Mậu-Thân cũng đang ở trong đó, đứng dậy cười nói oang-oang:
- Sao bạn, cơm nước gì chưa? Làm thêm một tô cháo vịt và ly “mã-huyết-tửu” để chút nữa lên trời cho ấm bụng. Cho bạn biết, thứ “mã-huyết-tửu” này còn hay hơn sức ngựa “Xích-Thố” của Lữ-Bố đời Tam Quốc bên Tầu, uống vào tha hồ “hí…và dí…Việt-Cộng”. Bảo-đảm là không biết mệt...
Phúc cười cám-ơn Thọ rồi quay qua nói với Phùng:
- Mới ăn cơm xong, nhậu gì nổi. Tưởng ông xuống Bình-Thủy sáng nay rồi chớ.
Phùng ngửa cổ uống cạn ly rượu, lấy tay áo chùi miệng rồi nói:
- Tao có vài chuyện quan-trọng cần phải làm nên xin ở lại ngày mai mới xuống. Thằng số hai của mày nhờ tao trực thế nó, để nó về lo cho vợ con di-tản theo chuyến bay 12 giờ đêm nay. Còn vợ con mày sao, chừng nào đi?
Phúc nhìn Phùng ngập-ngừng nói:
- Chắc là ở lại. Cô nàng không chịu đi một mình. Nếu có chuyện gì thì cùng đi một lượt.
Phùng vỗ vai Phúc nói:
- Tao phục bà xã mày đó. Vậy mới ngon. Vợ con tao cũng vậy, cứ nhất-định phải có tao mới chịu đi. Thôi tụi mình về biệt-đội tao có chuyện cần bàn với mày. Rồi quay qua Thọ, Phùng nói tiếp:
- Mày cứ tự-nhiên ở đây lai-rai…Nhưng từ từ thôi nghe ông bạn, coi chừng phóng ngựa lạc qua khu “Ngã Ba…bên kia” là phe ta mất một “tay nhậu giang-hồ” thứ thiệt đó. Tiền bạc tính xong xuôi cả rồi. Tao về trước trực bay với thằng Phúc.
Thọ híp mắt cười rổn-rảng nhìn người phi-công hào-hoa luôn luôn “xử đẹp” với anh em nói:
- Hà…hà…Không sao, mày đừng lo. Tao ở đây đợi mấy thằng bạn bên nhẩy-dù qua. Bọn nó cũng sắp tới. Tối nay tụi mày cứ ngủ kỹ…Đã có thằng “Thọ Điên” này phi “ngựa sắt” tuần-phòng ngoài vòng đai phòng-thủ…Trên không là vùng trời của tụi mày, dưới đất là lãnh-địa của dân phòng-thủ bọn tao mà. Hà…hà…
Phùng ngửa mặt cười vang, theo Phúc ra xe rồi leo lên yên sau ngồi ôm bụng Phúc. Phúc rồ máy phóng xe lao ra đường. Khi đi ngang qua khu nhà dành cho đại-diện ủy-ban liên-hợp của Việt-Cộng bên kia vòng rào kẽm gai, Phùng chồm lên nói vào tai Phúc:
- Đ. M. Mày biết không. Nếu có chuyện gì xẩy ra, tao sẽ để một qủa “500 pounds” vào đây cho mấy thằng “cà-chớn” này về chầu “ông cố ngoại Sít-Ta-Lin” của chúng nó luôn.
Phúc cười nói vọng ra sau:
- Đừng nóng ông. Chuyện đâu còn đó. Ba cái thằng cắc ké này đâu đáng kể. Tính sổ tụi nó lúc nào mà không được
Phùng hét vào tai Phúc:
- Nóng cái con c…Mỗi lần đi ngang đây là tao muốn phóng uế lên đầu tụi nó rồi. Đánh đấm kiểu gì mà lại nuôi báo-cô mấy thằng giặc ngay trong nhà mình. Thật là lãng nhách. Đêm nay lỡ mà bọn nó pháo-kích, tránh sao khỏi có bọn “đặc-công cà-chớn” này làm ăng-ten chỉ-điểm.
Phúc cười vang, rồ tay ga lạng xe vào sát hàng rào. Phùng ôm cứng eo ếch Phúc la lớn:
- Từ từ chứ chú em, mày quăng tao xuống đường mương bây giờ.
Cả hai cùng cất tiếng cười ròn rã như muốn phá thủng màn đêm huyền-bí bao phủ chung quanh họ…

Phúc còn đang nằm mơ-mơ màng-màng, chưa dỗ xong giấc ngủ, thì có những tiếng nổ chát-chúa liên-tục vang lên muốn long màng óc, làm anh bật dậy lăn mình xuống khỏi giường. Một tiếng rít như xé rách màn đêm tiếp theo bay ngang qua căn nhà của biệt-đội. Phúc vừa xỏ chân vào giầy vừa nghe tiếng Phùng hét lên trong bóng tối:
- Đ.M. Chúng nó pháo mình bằng hỏa-tiễn 122 ly.
Tiếng chuông điện-thoại reo inh-ỏi, cùng với tiếng còi báo-động hụ lên từng chập ở bên ngoài, như tiếng réo gọi của tử-thần. Phùng chụp tấm bản-đồ hành-quân, bấm đèn “pin” để soi cho Phúc ghi hiệu-lệnh cất cánh. Phúc nói vội vào tai Phùng:
- Mình lên trời làm việc với thằng Tinh-Long trên tần số UHF 233.8. OK!
Phùng gật đầu nói vội:
- OK! UHF 233.8.
Cả hai cùng phóng mình ra cửa leo lên chiếc xe “jeep” dân-sự của Phùng chạy ra bãi đậu phi-cơ. Thịnh cùng một người cơ-trưởng nữa từ chỗ ẩn nấp chạy vụt ra, leo lên phụ Phúc và Phùng cài khóa giây dù. Thịnh ghé vào tai Phúc hét lên:
- Tụi nó pháo từ nhiều hướng. Đại-Úy cẩn-thận.
Phúc gật đầu giơ ngón tay cái ra hiệu sẵn-sàng mở máy. Thịnh nhanh nhẹn tuột xuống bên hông phi-cơ, bật nút dàn “máy tiếp điện” đã được gắn vào thân tầu từ trước. Tiếng động-cơ nổ ròn. Phúc tắt đèn pha trên máy bay, bấm máy liên-lạc với Phùng để thử vô-tuyến. Hai chiếc khu-trục A1 nối đuôi nhau lầm-lỳ di-chuyển trong đêm tối như hai bóng ma khổng-lồ chạy trên “phi-đạo di-chuyển”. Từng loạt hoả-tiễn 122 ly vụt ngang qua đầu và những tiếng nổ chát-chúa dội lên khắp nơi. Phúc bấm máy liên-lạc với đài kiểm-soát xin cất cánh khẩn-cấp. Hai chiếc khu-trục so hàng đậu nơi đầu “phi-đạo cất cánh”. Một trái hỏa-tiễn rớt bên lề sân bay, gần hai chiếc phi-cơ trang bị đầy bom đạn…Ánh lửa nháng lên làm Phúc lóa mắt, rồi một tiếng nổ bật tung đất đá, phá vỡ bầu không-khí, làm chấn-động lồng ngực. Mồ hôi trên trán Phúc rịn ra, anh cảm thấy như có một luồng điện cao thế chạy luồn qua xương sống…Tiếng Phùng hét lên qua ống nghe của nón bay:
- Lên lẹ đi Phúc. Mình sẽ cất cánh hợp-đoàn. Tao theo mày bên cánh trái. Đ.M. Chắc tụi nó thấy mình.
Mặt Phúc đanh lại, anh mím môi tống ga. Chiếc phi-cơ chồm lên lao về phía trước…Với trên hai ngàn giờ bay, Phúc đã nhiều lần cất cánh khẩn-cấp ban đêm khi căn-cứ bị pháo-kích, nhưng chưa lần nào anh thấy đầu óc mình căng-thẳng như lần này. Trong một giây, anh thầm cầu-nguyện Chúa, Trời, Phật, Tổ-Tiên che chở cho anh và Phùng cất cánh được an-toàn…Và nếu anh phải lãnh một trái 122 ly của địch trên phi-đạo bây giờ, thì xin cho vợ con anh được bình-an, vô-sự…

Phúc kéo nhẹ cần lái, chiếc AD6 bốc mình lên khỏi mặt phi-đạo. Anh nâng cần gấp bánh lái, rồi lấy cao độ về bên phải. Phúc bấm máy liên-lạc với Phùng. Nhìn qua cánh trái trong đêm tối, Phúc thấy ánh đèn trên phi-cơ của Phùng nhấp nháy bám sát bên cánh. Anh mỉm cười tiếp-tục lên cao độ bình-phi, rồi gọi số hai chuyển qua tần số UHF liên-lạc với Tinh-Long.
- Tinh-Long đây Phi-Long gọi . Bạn nghe rõ không, trả lời.
- Tinh-Long nghe Phi-Long năm trên năm (5/5). Chúng tôi vừa theo dõi bạn cất cánh; mừng bạn đã lên trời được an-toàn. Hiện tại Tinh-Long đang ở hướng 11 giờ của bạn. Cao độ 2,000 bộ. Tụi nó đặt pháo từ hướng Phú-Lâm, Hốc-Môn, An-Nhơn và Gò-Vấp. Xin lưu-ý Phi-Long là có trực-thăng võ-trang ở trên vùng, cao-độ 1,000 bộ.
- Phi-Long thấy các bạn rồi. Chúng tôi đang ở cao-độ 3,000 bộ. Xin bạn cho một trái sáng. Chúng tôi sẽ vào vùng làm việc.
- Chúng tôi không có trái sáng. Khi nào bạn sẵn-sàng Tinh-Long sẽ vào vòng bắn, và Xạ-kích để xác-định mục-tiêu cho bạn.
Phúc nghĩ thầm: “Chết mẹ! Không có trái sáng làm sao đánh bom cho chính-xác. Khu-trục chứ đâu phải AC119. Một người bay phi-cụ, một người xác-định tọa-độ.” Tuy-nhiên anh tin vào kinh-nghiệm và khả-năng của mình cũng như của Phùng. Anh gọi số hai ra đội-hình chiến-đấu rồi liên-lạc với Tinh-Long để xác-định lại vị-trí:
- OK! Chúng tôi đợi bạn trên vòng chờ ở 3,000 bộ.
Nhiều ánh lửa ở dưới vút lên từ hướng 9 giờ bên cánh trái của Phúc. Anh la lớn trên tần-số:
- Tinh-Long chúng đang pháo đó bạn thấy không. Có phòng-không bắn lên.
- Chúng tôi thấy rồi. Tinh-Long sẽ vào vòng bắn trước.
Chiếc AC119K nghiêng cánh làm một vòng tròn 360 độ trên cao-độ 2,000 bộ. Đạn từ những khẩu đại-liên 6 nòng và đại-bác 20 ly trên thân tầu nhả xuống, gầm rú chẳng khác gì như một con rồng đang phun lửa, làm sáng rực cả một vùng dưới đất. Có tiếng Tinh-Long trên tần-số:
- Phi-Long bạn thấy không, có nhiều bóng người chạy ra từ bụi cây bên dưới.
Phúc bấm máy cười trả lời:
- Thấy rõ! Tinh-Long bắn tuyệt đẹp. Bạn vừa châm ngòi khai-mạc cho đêm hoa-đăng mùa Hạ…OK! Chúng tôi nhận ra mục-tiêu rồi. Bây giờ tới phiên Phi-Long vào “làm việc”. “Phi-Long hai” mình sẽ đánh từng trái một.
Tiếng Phùng chìm xuống:
- Nghe rõ. Đ.M. tụi này chắc là được “bác và đảng” cho “chích nước cà-cuống”. Chết đến đít mà vẫn còn cay-cú, liều mạng. Mày vào trước, tao sẽ bao sau. Cẩn thận nghe Phúc, đừng “hot” qúa để rơi vào “vertigo”.
Phúc mỉm cười cảm-động khi nghe thấy lời nhắn-nhủ gói-ghém những lo-âu chăm-sóc của Phùng. Anh ước-lượng khoảng-cách mục-tiêu, nghiêng cánh, ấn nhẹ cần lái cho phi-cơ chúi xuống, rồi bấm nút thả một trái bom bên cánh phải. Phúc liếc mắt qua bảng phi-cụ, kiểm-soát thật nhanh đường chân trời, và cao-độ-kế rồi kéo mũi phi-cơ lên để lấy cao-độ. Tiếng Tinh-Long trên tần-số:
- Rất đẹp. Bạn đánh đúng chỗ rồi đó.
Có tiếng của Phùng trên tần-số:
- Phi-Long 2 vào vùng.
Tiếp theo đó là những ánh lửa nháng lên từ bên dưới, và những tiếng nổ liên-hồi như xấm động. Tiếng Tinh-Long hét lên như muốn vỡ màng tang qua ống nghe trong nón bay:
- “Phi-Long hai” thả bom như để. Bạn đánh trúng chỗ tập-trung của địch rồi đó. Chúng tôi ghi nhận có nhiều tiếng nổ phụ bên dưới.
Tiếng Phùng cười gằn trên tần-số:
- Chỉ là chuyện nhỏ…Cám ơn bạn qúa khen.

Sau luồng đạn phủ đầu của Tinh-Long và hai trái bom của Phi-Long thả xuống mục-tiêu, tiếng pháo-kích im bặt. Địch quân bị rối loạn trước đòn trả đũa chính-xác và khủng-khiếp của những nguời lính chiến Không-Quân. Chiếc AC119K của Tinh-Long cùng phi-tuần khu-trục của Phúc và Phùng ngưng xạ-kích, làm vòng chờ trên cao-độ. Bầu trời tối đen. Một thứ bóng tối âm-u, ma-quái, đầy dẫy những cạm-bẫy, đang rình-rập những người chiến-sỹ Không-Quân qủa-cảm. Những chiếc phi-cơ trang bị đầy bom đạn, lầm-lỳ bay lượn như những con dơi khổng-lồ chao muỗi trên không. Xuyên qua màn đêm, Phúc thấy bên dưới nhấp-nháy ánh đèn khi mờ khi tỏ, phát ra từ những ngôi nhà rải-rác cạnh các khu vườn, thửa ruộng...Bất giác trong một giây, anh thầm nguyện-cầu sao cho bom đạn đừng rơi trúng vào nhà dân chúng. Có tiếng Tinh-Long trên tần-số:
- Nghe giọng quen quen xin hỏi Phi-Long là những ai đó.
Phúc bấm máy trả lời:
- “Papa-Charlie” số một, và “Tango-Papa” số hai.
Có tiếng Tinh-Long cười reo lên thân-mật:
- Thì ra là Đại-Úy “Phúc Cháy” và Thiếu-Tá Trương-Phùng hỗn-danh “Hiệp-Sỹ-Say”. Toàn những “cao-thủ võ-lâm” không. Phen này chắc tụi nó tới số. Trưa hôm qua đang nhậu với anh em, vừa “tới độ”, quay ra thấy Thiếu-Tá cùng Đại-Úy “Hai còi” và Đại-Úy Liêu đi đâu mất tiêu, chỉ còn Thiếu-Tá “Mai râu” ở lại “thủ thành”, làm thằng Chín tìm mấy ông qúa cỡ. Nó cũng bay trên này và đang lo cho mấy con “gà cồ” phía sau.
Tiếng Phùng nổi lên:
- Phải thằng “Tango-Charlie” đó không. Đ.M. mày không thả trái sáng làm “hiệp-sỹ-say” trở thành “hiệp-sỹ mù nghe gió kiếm”. Hôm qua lo nhậu, tao quên “thỉnh” mày lá bùa. Có nó giờ này cũng đỡ. Cho tao nói chuyện với thằng Chín chút coi.
Có tiếng cười ngất-ngưởng vang lên trên tần-số qua màn đêm:
- Hà…hà… Đúng năm! “Thành Căm-Bốt” đây. Có cả thằng “Hiền mái-hiên” nữa. “Niên-trưởng” khỏi cần bùa, chỉ cần thoọc-lét cho “thằng em nó” nhe răng cười là “đạn thù” khó lòng chạm tới “long thể”. Chút nữa về đáp, tụi này sẽ xuống kho vũ-khí, lấy đền ông hai trái “flares” sống làm đồ nhậu.
Có tiếng cười gằn của Hiền:
- Hừ…ừ…ừm…Khỏi cần “thoọc-lét”. Đ.M. Nhìn tụi nó “thoọc pháo bông” bên dưới cũng đủ thấy nhột “bàn tọa” rồi.
Có tiếng của Chín chen vào trên tần-số:
- “Charlie” đây Thiếu-Tá. Cám-ơn Thiếu-Tá về bữa nhậu hôm qua. Hai “ông thầy” em, cùng Thiếu-Tá và Đại-Úy bay như để… “Thằng em” nhìn xuống mà thấy lòng ngất-ngây…Chẳng khác nào: “Bắn cháy xe tăng như uống rượu, Mà tưởng…rằng ai rót chén mời…” (6) Hà…hà…Thấy đa…ảảả… hết sức.
Phùng bấm máy cười vang trên tần-số:
- Ơn nghĩa mẹ gì, Thấy bạn bè ngất-ngưởng là tao “dui” rồi. Đ.M…Mày thuổng mấy câu thơ này ở đâu vậy “Chín-Dơi.”
- Hà…hà…”Thằng em” mượn đỡ của một “Đại-Hiệp” bên “Biệt-Kích 81” trong trận giải-tỏa Bình-Long kỳ trước…

Những tiếng cười nói đùa giỡn với tử-thần của các hảo-hán AC119, và khu-trục vang lên, xuyên thủng qua màn đêm u-uất đang phủ trùm lên bầu trời thủ-đô…Giờ này, trong muôn ngàn hiểm-nguy, bất-trắc đang chờ đợi. Họ, những con người vốn có một cuộc sống thật “bình-thường” hàng ngày; đêm nay, đã vượt ra khỏi mảnh không-gian bốn chiều hiện-hữu, để bước vào một vùng không-gian vô-hình khác vừa hé mở giữa hai lằn ranh sinh-tử của cuộc đời; để biến thể, trở thành những con người “phi-thường”, bay truy-lùng pháo địch trong đêm tối…Tiếng cười đùa chưa dứt, thì một loạt hoả-tiễn bên dưới lại nháng lên từ nhiều phía, phóng tới-tấp về hướng phi-trường, cùng với những tia đạn tưới lên không-trung như một tấm lưới sắt rực lửa, bủa vây lấy thân tầu của những “Hiệp-Sỹ Không-Gian”…

Mặc dầu không có trái sáng, nhưng những phi-công dầy-dạn chiến-trường của KLVNCH đã thay phiên nhau phóng xuống đầu địch những tràng đạn và bom thật chính-xác…Trên cao-độ trong đêm tối, Phúc thấy địch-quân lúc-nhúc như những con chuột đồng từ những lùm cây, bờ đất theo ánh lửa của bom đạn chui ra…Từng trái bom, luồng đạn trút xuống…những xác người tung lên…Trực-thăng võ-trang bay bao vùng ở cao-độ thấp, nhả đạn vào những tấm bia thịt ngu-xuẩn, đang điên-cuồng như những con thiêu-thân lao mình vào ngọn lửa…Đạn phòng-không liên-tục tưới lên đan kín cả một mảnh trời…Mỗi một phút trôi qua, Phúc có cảm-tưởng như mình đang ngụp lặn trong một “vũng thời-gian” mênh-mông sâu thẳm…Từng xớ thịt trên người anh co cứng lại. Đầu óc như căng nứt ra, miệng khô chát...khi nhìn thấy những luồng đạn như những tia chớp vút qua trước mặt. Trời mờ mờ sáng…Thứ ánh sáng còn đục ngầu, ướt sũng sương đêm, nhưng cũng đủ giúp cho các phi-công trên cao nhìn địch rõ hơn. Những vật-cụ hóa-trang đã lộ hình làm mồi cho những tràng đại-liên, đại-bác và bom nổ…Không chịu nổi phi-pháo của Không-Quân, địch khựng lại và tháo lui. Mức-độ pháo-kích giảm dần rồi ngưng hẳn. Nhìn về hướng phi-trường, Phúc thấy có ánh lửa bập-bùng, và những cột khói bốc lên. Anh nghĩ đến vợ con mà thấy lòng cồn cào như lửa đốt…Phúc liên-lạc với Tinh-Long:
- Tinh-Long, Phi-Long đã thả hết bom, chỉ còn đại-bác 20 ly.
Vừa lúc đó có tiếng gọi dồn-dập của một phi-tuần khu-trục vang lên hòa lẫn cùng với tia sáng đầu tiên của vầng thái-dương vừa ló dạng khỏi đám mây ở cuối chân trời:
- Tinh-Long đây Phượng-Hoàng gọi, bạn nghe rõ không trả lời.
Có tiếng trả lời mừng rỡ của Tinh-Long:
- Tinh-Long nghe Phượng-Hoàng năm trên năm. Chúng tôi đang làm vòng chờ trên trục PhúLâm - TânSơnNhất - Phúlâm. Cao-độ 2,000 bộ. Xin bạn cho biết vị-trí.
Tiếng trả lời rổn-rảng của người phi-tuần-trưởng phi-tuần Phượng-Hoàng:
- Phượng-Hoàng gồm hai A1, trang bị 16 trái “250 pounds” cùng “hoả-tiễn công phá”, và “đại-bác 20 ly”. Cất cánh từ Bình-Thủy lên làm việc với bạn. Hiện tại chúng tôi đang bay ngang Bến-Lức. Cao độ 5,000 bộ.
Mọi người trên vùng nghe tiếng phi-tuần Phượng-Hoàng trên tần-số đều thấy lòng bừng dậy như đang nghe một khúc nhạc quân-hành của đoàn “không-kỵ” trổi lên…Các anh vừa trải qua những giờ phút căng-thẳng, dằng-dai trong đêm…Giờ có thêm một phi-tuần lên vùng, các anh thấy như được tiếp thêm nguồn sinh-lực…Phúc bấm máy gọi:
- Phượng-Hoàng, đây Phi-Long gọi. Chúng tôi đã thả hết bom. Đợi các bạn lên vùng rồi sẽ về đáp.
Có tiếng “Phượng-Hoàng hai”, hỏi trên tần-số:
- Phải “Phúc Cháy” đó không. Thụy đây. Có lệnh di-chuyển biệt-đội về Cần-Thơ hôm nay. Nếu còn đủ xăng, tụi mày có thể về đáp Bình-Thủy cho được an-toàn.
- “Negative.” Tụi tao phải đáp Tân-Sơn-Nhất trước.
- OK, hiểu. Mày về đáp Tân-Sơn-Nhất. Nhưng…phải cẩn-thận đó nha.
Phúc cảm-động trước lời nhắn-nhủ chân-tình của Thụy, người bạn thân đã cùng anh trải qua biết bao nhiêu hiểm-nguy trong những phi-vụ ngặt-nghèo trên vùng trời Tây-Nguyên của mùa Hè đỏ lửa ngày nào…Anh bấm máy nói lời cám-ơn Thụy rồi liên-lạc với Tinh-Long.
- Tinh-Long, Phi-Long về đáp. Đổ xăng và trang bị bom đạn xong tụi này sẽ lên tiếp với bạn.
- Đã có Phượng-Hoàng trên vùng, Phi-Long cứ việc về nghỉ dưỡng-sức. Mình sẽ gặp lại sau.
Có tiếng của Phùng nhắc-nhở:
- Tinh-Long và Phượng-Hoàng cẩn-thận…Tao còn nguyên chai “VSOP”, đợi tụi mày xuống uống mừng chiến-thắng.
Có tiếng cười ròn-rã của người phi-tuần-trưởng phi-tuần Phượng-Hoàng:
- Hà…hà …“Ấn Đen” đây. Chỉ cần nghe tiếng của “Hiệp-Sỹ-say” thôi, thì tuy: “rượu chưa rót, mà đã thấy lòng say ngất-ngưởng…” rồi. Hà…hà…Tụi mày cứ về đáp, ngủ cho lại sức. Có thêm một phi-tuần nữa của thằng “Sơn Đ…” và thằng Vân cũng vừa cất cánh…“Hiệp-Sỹ-Say”, nhớ để dành cho tao vài ly cognac “xúc miệng” để ăn sáng…
- Có ngay, tao còn nợ mày chai “Ông Già Chống Gậy”, và chai rượu “Đậu-Nành” lần trước. Kỳ này gặp, mình thanh-toán luôn.

Phúc cho phi-cơ xuống cao-độ, rời tần-số Paris, rồi lấy hướng về phi-trường. Phùng vào vị-trí cận-phi bên cánh trái, Phúc gọi đài kiểm-soát:
- Đài kiểm-soát Sài-Gòn đây Phi-Long gọi. Bạn nghe rõ không, trả lời.
- Phi-Long, Sài-Gòn nghe bạn năm trên năm.
- Phi-Long thi-hành phi-vụ xong, xin hạ cánh. Nhờ bạn “check” dùm coi mấy đám cháy ở vào chỗ nào được không.
- Sài-Gòn nghe rõ. Phi-Long hạ cánh phi-đạo 25, tầm nhìn xa 5 dậm, gió lặng…Hiện tại chúng tôi đang ở dưới hầm nên không “check” cho bạn được.
Tiếng Phùng giận-dữ hét lên trên tần-số:
- Đ.M. Bạn ở dưới hầm thì làm sao bạn điều-khiển cho phi-cơ cất cánh và hạ cánh.
Có tiếng ngập-ngừng của người “kiểm-thính-viên” của đài-kiểm-soát:
- …Chúng tôi có…sơ-đồ phi-trường ở dưới hầm.
Phúc phì cười rồi nói:
- Được rồi, chúng tôi đang vào vòng cận-tiến phi-đạo. Bạn ráng thức đừng ngủ gục và đừng cho phi-cơ nào cất cánh ngược chiều. OK…
Hai chiếc khu-trục A1 trên đường bay vào hướng phi-đạo. Nhìn sang bên cánh trái, Phúc thấy phi-cơ của Phùng còn hai trái bom. Anh ra dấu cho Phùng rồi gọi trên tần-số:
- “Phi-Long hai” còn hai trái bom bên cánh phải. Mình sẽ lên vùng lại để giải-tỏa.
Tiếng Phùng thúc-dục trên tần-số:
- Mày cứ về đáp, để tao lên vùng nhập bọn với phi-tuần của thằng “Ấn đen” được rồi. Không sao đâu, mày cứ việc về trước lo cho vợ con, tao sẽ về sau. Nhớ chờ tao ở biệt-đội. OK!
Nói xong Phùng ra dấu rời hợp-đoàn. Phúc mỉm cười lắc đầu nhìn chiếc AD5 của Phùng làm một vòng quẹo thật gắt, với 90 độ nghiêng, đưa bụng ngang đuờng chân trời để lộ hai trái bom còn dính trên cánh, lấy hướng bay về Phú-Lâm…

Trong số bạn đồng-ngũ, Phúc vẫn nể và coi Phùng như bậc đàn anh của mình…Bạn bè trong đơn-vị biết rất ít về gia-cảnh của Phùng; mọi người chỉ biết anh là một người rất mực hào-phóng...Là một phi-tuần-trưởng khu-trục dầy kinh-nghiệm, anh luôn-luôn xông-xáo gánh vác những công việc khó-khăn và nguy-hiểm…Những phi-công trẻ mới ra trường, về phi-đoàn bay xác-định hành-quân với Phùng, đều mến phục anh qua cung-cách ngang-tàng và phong-độ hào-sảng của một “người Không-Quân”. Trong nhiệm-vụ, ở trên trời, anh gắn-bó với các phi-tuần-viên qua những giây phút hiểm-nghèo; khi xuống đất, anh chia-sẻ với họ trách-nhiệm của người phi-công khu-trục, cùng những ưu-tư về thân-phận con người trong cuộc chiến…và ở ngoài đời, anh buông thả theo với nghĩa-tình giang-hồ bằng-hữu…Anh thường nói: “Đ.M. Tụi mày biết không, với từng này giờ bay, tao có thể xin đổi về ngồi ở một chỗ nào đó an-toàn hơn, để được gần-gũi với gia-đình, vợ con…Nhưng cuộc chiến này không cho phép tao làm chuyện đó. Mỗi lần đến gõ cửa nhà một đồng-đội vừa hy-sinh, để nhìn thấy những gương mặt kinh-hoàng, những giọt nước mắt đau khổ của người vợ trẻ, của bà mẹ gìa nua, tao thấy như chính tim mình bị lãnh một viên đạn của kẻ thù… Tao phải sát cánh cùng tụi mày…” Phúc lắc đầu xua đuổi những ý-nghĩ tiếp nối. Anh cho phi-cơ bay trên phi-đạo rồi làm một cú quẹo gắt vào vòng đáp…
Last edited by khieulong on Thu Apr 14, 2005 4:30 pm, edited 2 times in total.

Post Reply