QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by ThienThu »

Image

Câu chuyện cảm động của một người lính VNCH sau 1975

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.


Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.

Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.

" Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng"


Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.

Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.

Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

"Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu"


Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. "
"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."


Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa."
Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.

Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.


Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.

Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.

Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.

Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện...


Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.

Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh

User avatar
CarteNoire
Posts: 361
Joined: Mon Sep 21, 2009 11:58 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by CarteNoire »

Chuyến bay cuối cùng

Thà chết, không hàng giặc – Bảo Ðịnh – dòng sông cũ

Tình hình trong phi trường Đà Nẵng càng lúc càng tồi tệ, từ vùng núi phía tây, quân cộng sản Bắc Việt đã nã pháo 130 ly vào phi đạo khiến các chuyến bay vận tải chuyển người về Nam phải ngưng lại. Hành khách chen lấn đổ xô lên những chuyến bay C-130 đến nỗi trưởng phi cơ phải ra lệnh vừa đóng nắp bửng vừa di chuyển ra phi đạo. Có những người bị bị kẹt trong buồng bánh phi cơ về tới Sài Gòn mới biết .

Trong tình thế đó, phi công chính của chiếc trực thăng vận tải Chinook CH-47A đã quyết định cất cánh rời phi trường Đà Nẵng với hơn 60 hành khách gồm hầu hết là thân nhân gia đình quân nhân tạm lánh nạn qua phi trường Non Nước bên vịnh Tiên Sa sát biển còn ổn định dưới sự trấn đóng của quân phòng ngự TQLC. Phi hành đoàn gồm phi công chính Đại úy Phạm-Văn-Kiến, phi công phụ Trung úy Nguyễn-Đình-Hương, hoa tiêu Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và hai xạ thủ đại liên. Tờ mờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hành Quân cùa Sư Đoàn TQLC bắt đầu xuống tàu Hải quân HQ .402 vừa ủi dọn bãi đón quân tại Non Nước.
Image Tình thế lại dao động khi Thiết Giáp nghe tin TQLC rút quân đã ùn ùn từ trong Đà Nẵng chạy ra hướng biển. Lo sợ quân lính TQLC đồn trú cưỡng bức chiếc trực thăng vận tải vốn đã đầy người. Đại úy Kiến quyết định rời Non Nước, dự tính bay về phi trường Phù Cát. Thời tiết xấu với mây mù xuống thấp và gió lớn. VớI trọng tải quá mức. phi cơ không thể nhấc lên cao khỏi tầng mây thấp, không định rõ tầm quan sát, phi công phải nhờ người hạ sĩ quan xạ thủ ra dấu bên trái là biển và bên phải là cát đề tiếp tục bay dọc theo bờ biển về Nam.

Sau hơn một giờ bay, khi nhìn xuống chỉ thấy ruộng muối mênh mông, sợ lạc hướng Đại úy Kiến đã kéo lệch con tàu về hướng đất liền và bắt buộc phải bay rà thấp cách mặt đất chỉ vài trăm bộ Anh, khi bay ngang Sa Huỳnh, quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, quân du kích vc đổ ra chĩa súng trường bắn lên như pháo tết, đạn AK gây tử thương cho 4,5 người, khiến hành khách bấn loạn. Phi công phụ Trung úy Nguyễn Đình Hương bị trúng đạn, máu loang đỏ bộ quần áo phi hành màu xanh xám, Đại úy Kiến thấy nguy cơ trước mắt nhưng vẫn lên tiếng trấn an Hương khi vị sĩ quan này dự định tự sát vì không muốn trở thành gánh nặng cho đồng đội

“ Đừng làm vậy, để tao lái một mình được rồi. “

Đại úy Kiến kéo cần lái nhấc đầu chiếc Chinook lên cao dướI làn mưa đạn của Việt Cộng dướI đất bắn lên. Chiếc Chinook từ từ cất lên cao. 1000 bộ, 2000 bộ. Bỗng chiếc tàu như con ngựa bất kham, khựng lạI rồI chúi xuống, kim đồng hồ áp suất sụt xuống, động cơ nổ lụp bụp. Đại úy Kiến cố kìm cần điều khiển, tai họa chụp xuống ngay trước mắt. Dù tay bị thương nhưng Trung úy Hương lấy lại bình tĩnh phụ kéo cần lái cho phi cơ từ từ đáp xuống, như một phép lạ, chiếc trực thăng bị trúng đạn lỗ chỗ chỉ hơi chao đảo rồI hạ cánh ép buộc xuống bờ biển, một nửa thân tàu ngập nườc, một nửa nằm chênh vênh trên bãi cát. Mọi ngườI ùn ùn chạy thoát ra ngoài, thất kinh hồn vía. Tiếng súng VC lại vang lên từ hướng Sa Huỳnh, Phổ Châu, mạnh ai nấy chạy thoát thân về hướng Nam. Người cha ruột của Đại úy Kiến vốn di tản từ Huế vô Đà Nẵng đã chạy theo con trên chuyến tàu, lo sợ hốI thúc lôi tay con chạy theo đám đông. Trong khi ầy Đại úy Nguyễn Anh Dũng đã chạy lên tháo dây nịt an toàn ghế phi công phụ rồI bồng ẵm Trung úy Hương lên bờ cát. Trung úy Hương máu đã đẫm ướt bộ đồ bay, tay cầm súng ru-lô hét lớn:

“ Tao đã bị thương nặng, thà chết không để bọn việt cộng bắt.”

Nói rồi Hương quay mũi súng qua hướng người yêu đã theo chân từ Đà Nẵng nói :

“ Mình cùng chết không để cho tụi vc bắt nghe em .”

Viên đạn ru-lô xuyên qua ngực phải ngườI con gái, khiến nàng ngã xuống ngất lịm, nhưng nàng đã sống sót nhờ viên đạn đi lệch lên vai phải. Hương đưa súng qua tay Dũng nói lớn :

“Mày bắn tao, tao theo Đạo Chúa không tự tử được!”

Trong cơn chấn động, trước viễn ảnh quân cộng sản đang tràn tới, Dũng bình tĩnh cầm khẩu ru-lô P.38 nổ ngay vào màng tang của Hương rồi quay mũi súng vào đầu mình bóp cò. Súng không nổ, vẫn ở tư thế quỳ hai chân, Dũng bình tĩnh mở trục đạn xoay một nấc rồI đưa súng lên bắn vào màng tang. Anh ngã xuống bên cạnh xác đồng đội trước những cặp mắt kinh hoàng nể sợ của những người chứng kiến .

Sau đó bọn VC cũng đã gom bắt những ngườI sống sót giải về làng. Xác hai người phi công trực thăng Chinook Phi Đoàn 247 được đồng bào chôn cất tử tế ngay sát bờ biển làng Phổ Châu, quận Đức Phổ. Quảng Nam vào giờ Ngọ ngày 29 tháng 3 năm 1975 . Những ngày sau đó bắt đầu những trang sử khốc liệt bi hùng, những ngày đen tốI của miền Nam Việt Nam Tự Do .

Mãi tớI năm 2003, sau khi đến định cư tại Hoa Kỳ, Đại úy Kiến gửi một lá thơ ngắn nhờ đọc trên đài phát thanh Little Saigon về hai ngườI Sĩ Quan Anh Hùng Bất Khuất đã vùi thây tại Sa Huỳnh. Gia đình của Đại úy Nguyễn Anh Dũng và Trung úy Nguyễn Đình Hương đã bắt liên lạc với tin tức chính xác về địa điểm chôn cất và nhờ anh ruột của Tr./u. Hương còn ở Việt Nam và người thân của Đ/u Dũng tìm đến tận nơi làng quê hẻo lánh này để hốt cốt đem về Nam an táng.

Khi được tin, dân làng đã đổ xô tới và lên tiếng xin cho hai vị “Thần Làng” được để nguyên tại đây. Theo lời dân làng thì hai phi công tự tử này rất linh thiêng và được dân làng dựng miếu thờ. Nhưng do nguyện vọng của gia quyến bên Mỹ hài cốt của hai người phi công Anh Hùng đã được đưa về Nam an táng.

Trong cuộc chiến chống Cộng Sản ở miền Nam Việt Nam, hàng ngàn anh linh hào kiệt của QLVNCH đã ngã xuống cho an nguy của dân tộc, cho sự bình an của hậu phương đến nay vẫn còn là những chiến sĩ vô danh, trong ấy có phi công Đại úy Nguyễn-Anh-Dũng và phi công Trung úy Nguyễn-Đình-Hương của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa .


Trần Ngọc Toàn

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Tự truyện của một phi công

(Trường Sơn LÊ XUÂN NHỊ)

Trước khi vào truyện:


Bài này tôi viết vào ngày Quân lực năm 1989, cách đây 23 năm, lúc tôi mới tập tểnh cầm bút, đăng trên Tập San Ngàn Sao của anh em Không Quân Houston. Xin cám ơn Hắc Ưng 01, tức Trung Tá Nguyễn Tiến Thành, (còn được anh em âu yếm gọi là Thành... dâm - thời buổi này, ai nói mình dâm là một lời khen quý giá vô cùng) một phi đoàn trưởng F-5, một nhà thơ, một... con người đầy tình cảm đã cho tôi lại bài này sau nhiều năm thất lạc. Nếu ai chưa đọc, xin đọc. Nếu ai đã đọc rồi, đọc lại cũng chẳng sao. Điều quan trọng ở đây, tâm hồn tôi ngày đó như thế nào thì bây giờ cũng như thế thôi...


Ai biết đời đổi thay, sẽ không bao giờ thay đổi

Ai tưởng rằng đời không thay đổi, người đó thế nào cũng đổi thay...


Sau mười mấy năm di tản, tôi đã được đọc hơn chục câu chuyện viết về cuộc đời binh nghiệp của nhiều người. Chuyện nào cũng hay, cũng có nhiều kỹ niệm, nhiều hào hùng. Riêng tôi, nhớ lại quãng đời binh nghiệp dang dở của mình, dù có chủ quan đến đâu, tôi cũng thấy hơi... mắc cỡ. Kể từ ngày vòng tay giã từ bố mẹ đi đăng lính cho đến ngày leo lên tàu bay... “chạy thấy mẹ”, đời lính tôi chẳng có đoạn nào hào hùng đáng để viết ra đây cho độc giả thưởng thức. Lý do đơn giản vì tôi là phi công lái tàu bay L-19. Nếu là phi công khu trục hay trực thăng, có lẽ tôi cũng đã có nhiều kỹ niệm ghê gớm hơn đáng được kể lại cho thiên hạ nghe như lúc cắm tàu bay xuống giữa rừng phòng không để thả những trái bom xuống đầu địch, hoặc lái trực thăng xông pha lửa đạn đến để thả quân, bốc thương binh ở những vùng địa đầu giới tuyến vân vân. Tàu bay L-19 của tôi, thân hình ẻo lả chậm chạp, thường bị người ta gọi là Tàu Bay Bà Già, được dùng để thám thính và đánh trái khói chỉ điểm mục tiêu. Thám thính hay quan sát thì bay cao bay thấp gì cũng được, chẳng ai cần để ý. Mới ra trường vì “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên tôi còn hăng lắm, trận thám sát nào cũng bay thấp gần ngọn cây. Nhưng già hơn một chút nữa thì cái bu-gi của tôi nó cứ từ từ teo lại như bị mắc phải một chứng bịnh quái ác, và cao độ quan sát càng ngày tăng theo tỉ lệ nghịch của... con chim để tránh bớt phòng không. Gần đến ngày mất nước thì nó cao lắm, tôi không nhớ là mấy ngàn bộ. Tôi không thể tự dối lòng mình và dối thiên hạ để bảo rằng ngày xưa tôi là một chiến sĩ oai hùng lắm, anh dũng lắm. Đời tôi đã hèn một lần ngày 30 tháng 4, tôi chẳng thể hèn thêm nữa. Nói láo, đối với tôi là một hành động hèn nhát. Tôi nhớ đã đọc được ở đâu đó rằng một trong những đức tính quan trọng nhất của người Võ sĩ đạo Nhật Bản là không bao giờ nói dối. Vì vậy, tôi đành thành thực mà viết rằng suốt mấy năm mặc áo nhà binh ăn cơm chính phủ, những đoạn đáng nhớ nhất về cuộc đời binh nghiệp của tôi có thể viết ra đây cho độc giả thưởng thức là mấy lần ... đi ở tù.


Đời lính ngắn ngủi của tôi, kính thưa quí vị, tôi bị ở tù trước sau là 4 lần. Tôi nói ngắn ngủi bởi vì tôi đi lính năm 69, đến năm 75 thì quân đội tan hàng, tính ra là gần được 6 năm. 6 năm lính mà ở tù 4 lần, và mỗi lần một hai ngày là quá ít, nhưng đối với một thằng nhớ dai như tôi, mỗi lần như thế là một kỷ niệm. 4 lần ở tù, bây giờ ngồi nghĩ lại sau mười mấy năm, tôi chả thấy oan ức chút nào. Tôi công nhận lần ủ tờ nào cũng là do lỗi mình mà ra cả, rất đáng bị nhốt để duy trì kỷ luật quân đội và tốp bớt cái tính du côn hung hản của thằng thiếu úy trẻ. Đôi khi, tôi cảm thấy kỷ luật của quân đội đối với tôi như vậy còn là nhẹ hìu, nhẹ lắm.

Nhưng trong 4 lần ở tù này, chỉ có một lần cuối cùng là tôi leo lên xe quân cảnh mà lòng sung sướng hãnh diện đến độ có thể nói như ông Gandhi của Ấn Độ. “Đi vào tù mà vui tươi sung sướng như chú rể đi vào nơi động phòng ngày đám cưới.” Trước khi kể đến lần đi tù kỳ lạ này, tôi xin bắt đầu từ những lần ở tù đầu tiên...

Từ thuở nhỏ, tôi vốn là một thằng... chẳng giống ai. Lúc còn đi học ở tiểu học, lên đến trung học, tôi luôn luôn gây rắc rối cho thầy giáo, cho cha mẹ. Ở trường, thay vì phải lo dùi mài kinh sử để đáp đền ơn dưỡng dục của song thân, tôi chỉ thích nghiên cứu tổ chức lập đảng để đi oánh nhau. Về nhà, đã chẳng giúp gì được công việc gia đình, tôi lại ăn hiếp các em, thỉnh thoảng còn “đỡ nhẹ” một ít tiền của mẹ để tiêu hoang. Quá khứ gian ác như vậy, vào lính, chả trách gì chỉ một thời gian ngắn là tôi phải ôm mền chiếu đi ngồi tù.


Tôi được nếm mùi tù lần đầu tiên liền chỉ sau khi khoác áo nhà binh mấy tháng ở trường bộ binh Thủ Đức. Một tối nọ trung đội tôi có nhiệm vụ đi gác tuyến. Phiên gác của tôi được anh em cắt là 3 giờ sáng. Đem mùng mền khăn gói theo trung đội ra tuyến, căng lều võng xong lúc ấy mới có 9 giờ đêm. Không có chuyện gì làm, thay vì đắp chăn nằm ngủ lấy sức như những người anh em ngoan ngoản khác, tôi và vài thằng bạn trời đánh rủ nhau phú lỉnh ra khu gia binh ăn hột vịt lộn. Hột vịt lộn, muốn thưởng thức cho đúng điệu thì phải có ba thứ đi kèm: thứ nhất muối tiêu, thứ nhì rau răm và chót hết là... la de. Cái món sau cùng này nó đã hại tôi bởi khi đứng dậy đi về, trời đã quá nửa đêm, bước chân tôi xiêu vẹo lạng quạng, đi nghiêng ngã như... một thằng say rượu. Nói đúng hơn, tôi đã “xỉn mẹ nó rồi”. Mò mẫm mãi chúng tôi mới về đến nơi cắm trại. Vào tới lều thì tôi chẳng còn biết trời trăng gì nữa, nằm lăn quay ra đánh một giấc.


2 giờ rưỡi sáng tôi bị một người khóa sinh đánh thức giậy để đổi gác. Gác gỏng gì nữa vì tôi lúc ấy chỉ còn là một khúc gỗ, có đem thẩy tôi vào lửa tôi cũng cóc cần, làm sao tôi thức dậy được? Anh khóa sinh này sau 10 phút không kêu tôi được, lại lui cui thế nào để lãnh phải một bốt đờ sô của tôi té lăn cù, bèn tức mình đi báo cho trung đội trưởng. Trung đội trưởng khôn hơn, biết tính tôi nên chẳng thèm gọi nữa, liền đi thông báo sĩ quan cán bộ trực. Ông trung úy Ba (tôi nhớ rõ tên), có lẽ bị mất giấc ngủ vì một chuyện không đâu, hầm hầm xách cây Carbine M-2 chạy ra tuyến kiếm tôi. Sau 2 tiếng kêu không có kết quả, người sĩ quan cán bộ không thèm phí thì giờ, ông ta nhờ... báng súng Carbine kêu dùm. Bị dộng mấy cái đau điếng, tôi lòm còm bò dậy. Trung úy Ba xài xể tôi một thôi rồi bắt tôi ôm súng ra tuyến gác. Để trừng phạt, ông bắt tôi phải gác thế cho cho tất cả những người khác tới sáng.


Tôi ôm cây M-16 ra phòng tuyến, quên cả hỏi mật khẩu và mấy thứ lẩm cẩm khác của người lính gác giặc. Đứng được khoảng 15 phút thì tôi không còn chịu nổi nữa, cơn buồn ngủ kéo tới, tôi rớt một cái rầm xuống đám cỏ. Ôi, đất ơi là đất, sao mà êm ái và dịu dàng thế này, tôi nhắm mắt nằm ngủ thẳng cẳng.

Không biết tôi ngủ được bao nhiêu lâu thì trung úy Ba lại đi thanh tra. Lần này ông cho người dắt tôi thẳng về đồn quân cảnh. Lúc tỉnh dậy, đầu óc choáng váng, tôi nhìn thấy vừng Thái Dương đã ló dạng qua khung cửa sổ có mấy song sắt của nhà tù. Sáng hôm đó là ngày chủ nhật, ngày thăm viếng. Không biết hên hay xui cho tôi, ngàn năm một thuở, ngày ấy tôi có người đến thăm. Nhà tôi ở rất xa, mãi trên cùng cao nguyên đất đỏ, xuân thu nhị kỳ mới có người đến kiếm, nay thằng em kế của tôi lên thăm ông anh quý thì hóa ra ông ấy đang ủ tờ. Thật là chán đời. Hai anh em gặp nhau trong một tiếng đồng hồ ngắn ngủi. Tôi dặn nó về đừng có nói là lên thăm gặp tôi đang ủ tờ, sợ cha mẹ phiền. Nó cười cười, dạy khôn tôi: “Anh là cùi mà cớ sợ hủi. Đi lính mà không ở tù lính thì làm sao đáng gọi là lính?” Tôi ầm ừ và cũng đành dùng câu nói của thằng em quý để tự an ủi lòng mình.


Chiều hôm ấy tôi được thả ra nhưng đã tiêu hết ngày chủ nhật quý giá của quân trường.

Lần ủ tờ thứ hai, khoảng 2 năm sau, lúc ấy tôi đã đeo lon thiếu úy tàu bay, vừa tốt nghiệp xong khóa hoa tiêu và đang được huấn luyện hành quân ở phi đoàn. Đó là những ngày nhàn nhã. Mục đích của thời gian huấn luyện này là tập cho phi công trẻ có dịp làm quen với chiếc phi cơ L-19 càng nhiều càng tốt nên chúng tôi nhận được lệnh của phi đoàn trưởng phải bay ít nhất 6 giờ mỗi ngày. Gì chớ bay bổng và nhậu nhẹt là 2 chuyện tôi thích nhất trong cõi đời. Ngày nào tôi cũng vào phi đoàn, ký sổ phi lệnh rồi xách một chiếc L-19 cất cánh lang thang một mình trong không gian bát ngát. Khỏi cần nói chắc quí vị cũng có thể tưởng tượng được một thằng trời đánh như tôi sẽ làm gì trên trời một mình với món đồ chơi mắc tiền là chiếc phi cơ? Tôi nhào, tôi lộn, tôi bay nghiêng bay ngã, tôi hành hạ chiếc L-19 đáng thương như đứa bé con tinh nghịch đùa giỡn với món đồ chơi cũ. Đùa chán chê, tôi xách tàu ra ngoài biển đi phá đám mấy ông thuyền chài. Thấy được một chiếc ghe nào lạc lỏng một mình là tôi cắt ga biểu diễn màn bay sát mặt nước, nhắm thẳng vào chiếc ghe lao tới như các Kamikaze Nhật trong xi nê. Khi nào người ngồi trên ghe chưa chịu... nhảy xuống biển là tôi chưa thoả mãn, quay tàu lại làm vòng khác thấp hơn, thấp hơn nữa. Tôi không nhớ đã thoát chết bao nhiêu lần và đã làm không biết bao nhiêu người thuyền chài vô tội sợ hú hồn, phải nhảy tùm xuống biển.

Những hôm khác, tôi xách tàu đi xa hơn. Có khi còn lên Khánh Dương, bay dọc theo mấy dòng suối để tìm con gái Thượng tắm. Tôi ở Ban Mê Thuột nên biết đàn bà thiểu số thường tắm truồng. Tôi chả bao giờ tìm thấy ai tắm nhưng cũng xém chết mấy lần vì tàu gần đụng núi.

Đấy, tôi gian ác như vậy nhưng vẫn chưa bị vào tù vì không ai biết chuyện tôi làm cả. Nhưng thiên bất dung gian, một ngày nọ, vào khoảng giữa trưa, tôi xách nón bay ra quay máy một chiếc L-19 để bay tập. Tôi nhớ rõ hôm ấy là ngày thứ sáu và lại vào giấc trưa nên phi trường vắng vẻ vô cùng. Phi đoàn cũng vắng tanh. Tuy ở phi đoàn chưa lâu lắm nhưng tôi biết chiều thứ sáu “Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm” được. Thử máy xong, tôi đem tàu ra so hàng ở taxiway rồi xin đài kiểm soát ra phi đạo cất cánh.

Đài kiểm soát vừa “Clear for take off” là chiếc L-19... già đã bị tôi tống ga cái rào. Con tàu như nhảy giựt người lên, lóc cóc chở ông thiếu úy cô hồn ra so hàng cuối phi đạo mau như bị ma đuổi. Tôi tống hết ga. Con tàu gầm lên, nhào tới trước. Cái giây phút thú vị nhất của bất cứ người phi công nào là lúc điều khiển con tàu chạy mau trên mặt đất trước khi cất cánh. Sự khác biệt giữa người và chim, giữa mặt đất tù túng giới hạn và không gian bao la bát ngát , giữa nguy hiểm và an toàn, giữa sống và chết là những giây đồng hồ ngắn ngủi này đây.

Tàu tăng tốc độ, phi cơ “ăn no gió” chuyền áp lực vào cần lái làm tay tôi bắt đầu cảm thấy nặng. Khỏi cần nhìn tốc kế tôi cũng biết là chỉ cần kéo nhẹ cần lái là tàu sẽ rời mặt đất từ từ bay bổng lên không. Đó là kiểu cất cánh bình thường. Nhưng đời tôi, ít khi nào tôi làm chuyện gì bình thường và giống thiên hạ. Thay vì kéo tàu lên, tôi lại hơi đè cần lái xuống cho tàu nhỏng đít chạy thằng trên phi đạo. Cất cánh như vậy coi nó mới giống Skyraider, nó mới hùng, mới đúng điệu “Pilot de Guerre.” (Tôi thường bảo bạn bè rằng, nếu là mây, anh sẽ là loài mây trắng, nếu là người, anh sẽ chết cho quê hương, nếu là phi công, anh chỉ nên lái Skyraider...) Tôi cứ ráng giữ như vậy cho đến lúc không thể nào đè phi cơ trên mặt đất nữa, mới hơi nới cần lái cho tàu bay lên.

Lần đó, tàu vừa hỏng mặt đất là tôi có một ý tưởng mới lạ. (Suốt đời tôi khốn nạn vì những ý tưởng mới lạ của mình). Bay bổng ngon lành như tôi, tại sao không làm một cái Chandel (đọc là Xăng Đeo) ở cuối phi đạo? Xin dành một vài hàng để tôi cắt nghĩa cái Chandel cho các quí vị không phải là dân bay hiểu.


Làm Chandel tức là làm một cái quẹo ngược 180 độ lên cao về phía sau. Tác diễn này giúp cho các phi công khi gặp phải chướng ngại vật phía trước có thể quẹo ngược ra sau một cách chính xác để khỏi mất hướng và vừa lấy thêm được cao độ. Muốn làm Chandel, người ta mới đầu chúi mũi phi cơ để lấy thêm tốc độ rồi vừa nghiêng vừa quẹo và vừa kéo tàu lên một lượt. Tay và chân phải hòa hợp và ăn khớp với nhau như biểu diễn một điệu nhảy đầm. Cái Chandel tuyệt hảo đặt con tàu đúng 180 độ ở cuối đường, không hơn không kém. Điểm quan trọng cần nói thêm, Chandel là một tác diễn chỉ được làm ở một độ cao tương đối, làm ở sát mặt đất lúc vừa cất cánh là một điều tối kỵ vị rất nguy hiểm và vi phạm luật an phi nặng nề.

Lúc ấy tôi nào có biết gì là nguy hiểm, cứ cho đó là một ý kiến hay. Nhưng trước khi liều mạng như vậy, vốn gian ác nên tôi tính toán cẩn thận. Tôi phải chắc chắn là không có ai ở phi đoàn giờ này thì mới an toàn. Thế là tôi tà tà cho tàu bay lên, quẹo phải hơn ngắn một chút và để ý nhìn xuống phía phi đoàn. Good. Bãi đậu xe của phi đoàn vắng tanh. Phi đoàn tôi lúc ấy có 3 người tôi ngán nhất là phi đoàn trưởng, phi đoàn phó và trưởng phòng hành quân, ông nào cũng có một chiếc xe. Tôi mừng thầm, thế này chắc là các đàn anh đã về nhà ngủ rồi hay không chừng đang chở vợ con đi tắm biển cũng nên. Riêng thiếu tá Bững trưởng phòng hành quân thì chắc đang đụng trận phé lớn ở một chỗ nào đó. Tôi ngán nhất là ông thần này, phi công gì mà mặt mày coi hung dữ chi lạ, còn ngầu hơn cả tôi, dòm cứ như là phi công Nhật. Cho chắc ăn hơn, tôi nhìn xuống bãi đậu xe của Không Đoàn. Chiếc xe díp xanh của đại tá Lạc không đoàn trưởng cũng thấy mất tiêu. Tôi mỉm cười khoái chí. Vậy là nhô con có thể múa rối được rồi.

Tôi làm vòng phi đạo xin tập đáp “Chạm Bánh cất cánh” (touch and go). Trưa thứ sáu, phi trường Nha Trang vắng khách nên các ông đài kiểm soát xem ra cũng có vẻ dễ dãi, chả bù với những lúc bận rộn, mấy ông hối nhặng cả lên. Vừa đáp xuống là tôi tống hết ga để chuẩn bị cất cánh lại. Phi cơ hổng khỏi mặt đất, tốc độ lên rất cao, có thể đến 140 Knots (quá giới hạn của L-19) là tôi trổ tài. Tôi nghiêng cánh, vừa quẹo trái vừa đạp bàn đạp trái và kéo cần lái lên. Con tàu bốc cao như một cái hỏa tiễn, người tôi bị lực G đè xuống. G càng lớn thì tôi càng cảm thấy đê mê khoái tỉ, tưởng tượng như mình đang kéo một chiếc Skyraider bay lên. Thật không thể có cái Chandel nào đẹp hơn cái Chandel vừa rồi của tôi trên thế giới này. Chao ơi, sao mà nó sướng, sao mà nó đã, sao mà nó thú, không bút mực nào tả cho hết được. Bay như thế mới gọi là bay, mới là hào hùng, mới là xứng đáng là “Ôi phi công ... danh tiếng muôn đời...”

Quẹo xong tôi theo mửng cữ soạn lại, tiếp tục vào đáp và làm thêm mấy cái Chandel nữa. Tôi cảm thấy lúc ấy tôi không còn là một người phi công mới ra trường với số giờ bay chưa tới 3 trăm, mà là một anh hùng của KQVN. Giá có thằng Việt Cộng nào ngu dốt đi lạc vào phi trường thì tôi sẽ ủi cho nó xịt khói ra quần cho chúng nó biết tay người phi công trẻ này. Tôi cảm thấy phục tôi quá chừng.

Ở vòng đáp thứ bảy, đang biểu diễn ngon lành thì tự nhiên có tiếng gọi của đài kiểm soát phi trường trong nón bay:

- Mustang Alpha đây Nha Trang đài.

- Nha Trang, Mustang Alpha nghe năm.

- Có điện thoại từ phi đoàn gọi bạn về đáp gấp và vào trình diện phi đoàn trưởng. Mustang Alpha nghe rõ không bạn?

Tôi như muốn té xỉu trong tàu bay. Thế này là tàn một đời phi công vô kỷ luật. Phi Đoàn Trưởng ôi, tôi còn lạ gì? Ông ta là một hung thần xuất thân khóa 17 Đà lạt. Bình thường gặp ông ta không có tội lỗi gì mà đã thấy ngán, bây giờ giữa trưa vắng vẻ như thế này không lý ông ấy gội tôi về trình diện để kể chuyện đời xưa? Liếc mắt thật nhanh về phía phi đoàn, tôi mới biết là cuộc đời gian ác của tôi sắp sửa bế mạc thật. Rõ ràng là chiếc xe díp đen của ông ấy đang nằm “chình ình” ngay trước cửa phi đoàn. Lúc ấy tôi mới hiểu rõ cái chữ “teo bu gi” mà thiên hạ thường dùng để chỉ những phút giây con người sợ vãi đái ra quần nó như thế nào. Thê thảm lắm.

Đang còn chới với thì đài kiểm soát phang tiếp cho một chưởng:

- Mustan Alpha nhận rõ không bạn?

Tôi... mếu máo:

- Mustang Alpha nhận năm bạn.

Con đường từ phi đạo về đến bãi đậu phi cơ sao mà ngắn quá, tôi cứ mong cho nó dài ra, đừng bao giờ hết để tôi khỏi gặp phi đoàn trưởng tôi. Nhưng rồi cái giây phút kinh khủng ấy đã sắp phải đến. Tôi cặp nón bay lủi thủi bước vào phi đoàn ủ rủ như con chuột ướt, như một đứa con hoang trở về nhà cũ để nhận lãnh hình phạt sau khi đã phung phí hết tiền của. Tôi ngạc nhiên khi thấy phi đoàn lúc ấy đã có mặt đầy đủ văn võ bá quan. Ông thiếu tá phi đoàn trưởng đang chờ tôi trong văn phòng phía sau. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi nhìn thấy ai cũng nhìn tôi bằng một cặp mắt thương hại. Chắc họ đã đoán được cơn thịnh nộ sắp sửa dành cho tôi.

Sĩ quan trực ngày hôm đó là thiếu úy Hầu Văn Thùy Dương. Nó là một thằng tôi luôn luôn cho là cù lần cả quỷnh nhưng hôm nay tôi thấy thèm được cù lần như nó quá. Nó nhìn tôi rồi bấm máy interphone báo cáo:

- Trình thiếu tá, thiếu úy Nhị vừa vào. (Ông Tám lúc ấy còn mang lon thiếu tá).

- Anh gọi nó vào đây.

Tôi sửa sang quân phục, vuốt lại tóc tai. Thằng Dương bụm miệng kề tai tôi nói nhỏ:


- Số mày xui quá, thường thường giờ này ổng đâu có vô phi đoàn làm gì. Ổng để quên cái gì đó rồi chạy vào lấy là gặp ngay. Làm sao mà giấu được, tụi tao cũng chạy ra xem. Mày làm náo động cả phi trường Nha Trang. Ai bảo ngu ráng chịu. ĐM mày chuẩn bị 2 lỗ tai để nghe “mô ran” đi. Nhiều lắm là 2 tiếng và ít nhất là 1 tiếng. Xong phần “mô ran” là phần đi ủ tờ.

Nói xong nó lắc đầu nhìn tôi cười mỉm nửa như thương hại, nửa như thán phục. Tôi không nói gì. Tôi ngu thật, đúng như lời thằng Dương nói. Trong trạng huống này, tôi cảm thấy tôi ngu hơn cả con kiến.

Bước qua chỗ Lý Bững, ông trưởng phòng hành quân còn chơi nhẹ một câu:

- Bộ hết chỗ biểu diễn rồi hay sao mà về Nha Trang biểu diễn mày, làm như ở đây không có tàu bay chắc? Người thì nhỏ một chút mà sao bay bổng dữ dằn quá chừng...

Ông Tám là một con người cẩn thận. Mặc dù tội lỗi của tôi đã rành rành như vậy nhưng ông còn muốn xác nhận lại xem thử tôi vô tình hay cố ý mà “bay bổng kiểu gì kỳ quặc” vậy? Tôi thú nhận là tôi đã làm Chandel ở cuối đầu phi đạo.

Thế là cơn thịnh nộ của ông thiếu tá giáng xuống. Suốt gần 1 tiếng đồng hồ, ông phi đoàn trưởng trẻ tuổi khi la hét, khi nhỏ nhẹ, lúc khác đập tay thình thình xuống mặt bàn để cắt nghĩa cho tôi hiểu về bổn phận và trách nhiệm của một phi công trong thời chiến. Tôi không hiểu cái vụ Chandel của tôi vừa rồi nó có liên hệ gì về quốc hội Hoa Kỳ và tiền viện trợ như thế nào và đôi khi tôi cũng nghe được 2 tiếng này. Thỉnh thoảng tôi lại còn nghe được danh từ “phản quốc” và “phá hoại” mới chết chứ. Vì đã chuẩn bị... hai lỗ tai trước khi vào đây cho nên tôi không lấy gì làm khó chịu lắm. Thằng nào đi lính một thời gian rồi cũng học được cái nước tịnh khẩu này. Cứ để cho đàn anh chửi rủa cho hả cơn tức, tới một lúc nào đó đàn anh sẽ mỏi miệng rồi sẽ tốp lại. Sau đó mình sẽ đứng lên chào cái cốp rồi bước ra...

Nhưng tôi bỗng tỉnh hẳn người và cảm thấy quặn đau trong lòng như ai đâm vào đó một con dao khi ông phi đoàn trưởng chê cái Chandel của tôi:

- Anh nói anh làm Chandel hả? Chandel cái con khỉ gì. Tôi chưa thấy cái Chandel nào sai nguyên tắc, vụng về và xấu xí như cái Chandel của anh. Đó là “Xăng đan” của ba tàu Chợ Lớn chứ “Xăng đeo” gì.


Than ôi, nếu biết tôi bay dở như vậy thì thì tôi đâu thèm biểu diễn làm gì để ra nông nổi này. Tôi không buồn bao nhiêu vì sắp đi ủ tờ nhưng tôi đau đớn vì khả năng bay bổng của mình bị đánh giá tệ quá. Trong giây phút buồn phiền thất vọng, tôi chợt bi quan nghĩ rằng hay trời sinh mình ra chỉ để lái tới xe ... GMC là hết cỡ, sao lại lái tàu bay để chuốc lấy họa?

Tôi không nhớ mình ngồi đó thêm bao lâu nữa nhưng khi leo lên xe Quân Cảnh đi về Cải Hối Thất thì trời chiều đã bớt nắng. Tối đó, thay vì ăn chơi nhậu nhẹt với bạn bè, tôi phải nằm trong tù nhìn mấy con muỗi làm ... Chandel trong mùng tôi. Xem chừng bọn muỗi đói này làm Chandel hay hơn thiếu úy Nhị trưa này nhiều vì đã mấy lần tôi đưa tay định vỗ thì chúng đã lượn một vòng tuyệt đẹp, bay ngược ra sau rồi biến mất. Vồ hụt muỗi mấy lần, tôi phát cáu chửi thề: “Tiên sư chúng mày, học ở đâu mà làm Chandel đẹp quá thể, ông mà bắt được thì ông nghiền nát chúng mày ra cho tan đời muỗi...” Có thể nói, mỗi một con muỗi là một Fighter Pilot chính hiệu. Tuy tức tối nhưng tôi phục chúng nó.

Tôi đốt thuốc lá liên miên và tuy nằm trong một chỗ gọi là Cải Hối Thất, tôi chẳng thấy muốn hối cải chút nào hết. Chẳng những không biết hối cải, tôi còn tự rút ưu khuyết điểm để lần sau, nếu tôi có hành động gian ác nữa thì không ai có thể bắt được. Tôi lại nghĩ về cái Chandel ... quê mùa và bực tức sự ngu dốt của mình. Đúng là có mắt như mù.


Ông Tám chỉ cho tôi nằm xả hơi đến sáng thứ hai thì gởi sĩ quan trực xách xe đến đón tôi về. “Ở tù ra” tôi đâm khôn, làm gì cũng ngó trước tính sau, nhất định không để sơ xẩy như lần đầu nữa.

Rồi tôi cũng được tha cho đi bay hành quân. Trước khi đi biệt phái lần đầu tiên, tôi được phi đoàn trưởng gọi vào trình diện. Một lần nữa, tôi chuẩn bị hai cái lỗ tai để nghe “mô-ran” nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy ông Tám tỏ ra thân mật với tôi. Tôi còn được mời hút thuốc lá 3 con 5 mới là ly kỳ. Ông phi đoàn trưởng tâm sự với tôi một câu mà tôi không thể nào quên được:

- Tôi biết anh là một con người ba gai nhưng anh có tâm hồn và tài năng. Tôi sẽ huấn luyện để anh trở thành một cán bộ nồng cốt của phi đoàn. Phần anh, anh phải cố gắng, đừng cậy mình có tài mà bê bối. Anh phải luôn luôn ghi nhớ mình là một sĩ quan của QLVNCH, phải giữ gìn tư cách và tác phong.

Kể từ ngay đi lính đến giờ đó là gần 3 năm, tôi luôn luôn bị nghe chửi, đây là lần đầu tiên tôi được khen là “có tâm hồn và tài năng” nên rất lấy làm sung sướng. Sẵn trớn, tôi muốn hỏi xem cái Chandel tôi làm ngày nào có quả thực là xấu xí và quê mùa không nhưng tôi tốp lại kịp thời. Không nên nham nhở với phi đoàn trưởng quá, để rồi từ từ hỏi sau cũng được...

Rồi tôi nhận phi vụ lệnh xách tàu đi biệt phái ở một chiến trường hung hản nhất của vùng II chiến thuật lúc đó: Chiến trường Tam Biên Pleiku-Kontum. Giặc vừa mở một loạt tấn công khắp các nơi để mở màn cho một trong những mùa hè tang tóc và kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam mà nhà văn Phan Nhật Nam gọi là “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Tôi còn nhớ trong bay từ Nha Trang đến Pleiku lần đầu tiên ấy, leo lên 8 ngàn 500 bộ, trên tôi là mây, dưới chân tôi là đồi núi trùng trùng điệp điệp. Phong cảnh hùng vĩ và tươi đẹp của quê hương lúc trời rạng đông làm cho lòng tôi dâng lên một cảm xúc bồi hồi khó tả. Trong một thoáng, tôi cảm thấy mình không còn là một phi công vô kỷ luật nữa mà trở nên trầm lặng như một nhà hiền triết. Sau bao nhiêu tháng ngày học tập, đây là lúc tôi có thể thi thố tài năng để đền ơn cho tổ quốc. Tôi lại cảm thấy tôi mang nợ với đất nước này nhiều quá. Lúc nhỏ, tôi mang nợ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Lớn lên tôi mang nợ công ơn giáo dục của thầy. Vào lính hơn 2 năm qua, tôi chỉ cắp sách và nón đi học để trở thành một phi công. Giữa lúc mà những người cùng tuổi tôi phải nằm gai nếm mật, vượt rừng lội suối, đem máu đào ra gìn giữ từng con đường từng tấc đất của quê hương thì tôi suốt ngày hết bay lên rồi lại bay xuống. Tôi tự nguyện với lòng mình là sẽ sử dụng hết khả năng mình để làm việc đền ơn cho tổ quốc.

Bạn có bao giờ đưa cho một đứa con nít một cây súng thiệt rồi bảo nó đi săn với bạn chưa? Khổ sở lắm, vì đứa con nít đó luôn luôn hăng tiết vịt, gặp cái gì cũng muốn bắn phá, rồi hết chòng ghẹo người này lại đến phá phách người khác. Thằng con nít còn đỡ hơn là tôi, một phi công trẻ với món đồ chơi mắc tiền là chiếc phi cơ. Chỉ vài ngày sau thôi là điện thoại gọi tới tấp về phi đoàn để báo cáo và than phiền về những hành vi vô kỷ luật của tôi trên trời. Lúc ấy ở chiến trường, tôi nào co biết sợ là gì? Vùng phòng không đan kín trời ai cũng né thì tôi lại lù lù dẫn xác vô bằng một cao độ mà AK bắn chắc cũng rớt. Tôi nghĩ bọn xạ thủ Việt Cộng phải bắn dở lắm vì tôi chẳng hề bị gì cả. Chẳng phải là tôi gan dạ hay ngon lành gì, chẳng qua chỉ vì chưa biết nên chưa sợ đó thôi. Đâu đã hết, nhiều lúc tôi còn đi lạc vào vùng có tác xạ pháo binh đang TOT (Pháo tập trung bắn từ nhiều nơi đến một chỗ, một lần) của hàng trăm khẩu vừa Tây vừa Ta. Tôi nào có biết. Đến khi nhìn thấy hàng trăm đóa hoa đất tự dưng nở tung tóe ngay dưới chân mình thì mới giật nẩy mình lên, hốt hoảng ... chạy lấy người. Ai đi bay với tôi cũng đều than phiền.

Một buổi sáng, đích thân ông phi đoàn trưởng xách chiếc U-17 lên Pleiku đi điều tra tình hình. Khi chiếc tàu của ông vừa đáp thì một cơn mưa pháo của giặc cũng ào ào rớt xuống làm cho ông Tám càng giận thêm. Chỉ vì thằng thiếu úy mất dạy mà ông phải khổ sở như thế này. Gặp tôi, ông phùng mang trợn mắt xài xể và hăm dọa một lúc rồi đi một vòng thăm nơi ăn chốn ở của anh em, hỏi han dặn dò rồi ra về.

Tôi có bớt đi chút ít nhưng sau đó thì vẫn chứng nào tật ấy.

Một ngày nọ, tôi chở một ông đại úy bộ binh của phòng 2 tiểu khu Pleiku đi thám sát. Vừa quay máy tàu xong, đang tà tà di chuyển phi cơ thì phi trường bị pháo kích. Tôi nghe đài kiểm soát la ùm trong tần số, thông báo phi trường đóng cửa, tất cả các phi vụ bị tạm thời đình chỉ, yêu cấu tất cả các phi cơ đang di chuyển trở về bến đậu. Dĩ nhiên tất cả các phi cơ khác đều quay lui về ụ, chỉ còn mình tôi tiếp tục lang thang trên đường taxiway, coi lệnh lạc của đài kiểm soát chẳng ra gì, coi pháo giặc cũng chẳng ra gì luôn. Chẳng phải vì tôi ngon lành gì nhưng nghe bị pháo mà nhìn quanh tôi chẳng thấy trái pháo nào rớt cả nên cứ giả vờ như mình không biết. Quả đúng là “chưa có thằng nào ngu hơn thằng này.” Tôi không muốn trở về bến đậu vì trời Pleiku vào khoảng 2 giờ trưa, mùa hè nóng bức vô cùng. Hơi nóng từ trên cao đổ xuống, từ mặt đất bốc lên, làm cả 2 người ngồi trong phi cơ như ngồi trong lò bánh mì. Nghĩ đến cái cảnh phải trở về bến đậu rồi cà kê với mớ đồ nghề lỉnh kỉnh, tháo dù, cất dù, tôi đâm ra làm biếng. Tôi chỉ muốn cất cánh mau rồi leo lên chừng 5, 6 ngàn bộ cho nó được mát mẻ một chút. Ông sĩ quan bộ binh phòng 2 đi bay với tôi thì dĩ nhiên không có ý kiến gì rồi.


Đến cuối đường bay, tôi bấm máy gọi xin ra phi đạo cất cánh. Mấy ông đài kiểm soát nãy giờ tưởng tôi bị hư vô tuyến, bây giờ mới bật ngữa. Mấy cha la hoảng lên như bị ai bóp dái:

- Mustang 12, đài kiểm soát gọi bạn nãy giờ không được. Phi trường đóng cửa, đài kiểm soát yêu cầu bạn trở về bến đậu gấp.

- Bạn cho tôi ra cất cánh... đại cái đi bạn. May ra tôi còn tìm thấy pháo chúng nó để phản pháo.

- Negative! Đài kiểm soát thông báo một lần nữa, yêu cầu Mustang 12 trở về bến đậu gấp.

Ngay lúc đó, hình như tôi nhìn thấy được một cụm khói đen bốc lên ở đâu đó trong phi trường, dấu hiệu pháo bắt đầu rớt. Nguy cấp rồi, khỏi thèm cãi vã với mấy cha đài kiểm soát này làm chi, tôi bèn tự động tống ga nhào ra phi đạo rồi đẩy cần ga lút cán. Chiếc L-19 chồm tới trước, chỉ vài trăm thước là hỏng bánh ngay. Tôi kéo tàu lên, quẹo gắt ra khỏi phi trường, trong tai vẫn còn nghe mấy ông đài kiểm soát lải nhải. Tôi cười hì hì, nói thầm với mình: “Mẹ, biết rồi, khổ lắm, nói mãi...”


Hành động điên rồ của tôi, nếu ở một hoàn cảnh khác thì có thể đã bị treo cánh bay vĩnh viễn, nhưng ở một vùng địa đầu giới tuyến, giữa lúc cường độ chiến trường như vậy, tội của tôi được coi là nhẹ. Tuy nhẹ nhưng điện thoại cũng gọi tới tấp về biệt đội và phi đoàn. Hết ông an phi sư đoàn rồi đến ông an phi không đoàn thay phiên nhau mắng vốn về tôi. Tôi nghĩ đến cảnh ông trung tá Tám lại một phen nữa phải vểnh tai ra nghe thiên hạ xài xể vì có thằng thiếu úy du côn mà không biết dạy. Chiếu đó về biệt đội, ông biệt đội trưởng, đại úy Huy gọi tôi ra một góc, mặt mày hầm hầm:

- ĐM sao mà tôi chán cái ông quan con này quá, lại có chuyện rồi. Ông Tám mới gọi ra, xỉ vả tao tưng bừng...

- Em biết rồi, chuyện cất cánh hồi chiều chứ gì?

- Tụi an phi nó bảo ông cất cánh không có lệnh đài kiểm soát, làm bộ hư vô tuyến, đủ thứ...

Tôi đáp tỉnh queo:

- Trời đất, vô tuyến của em hư thật, lúc nghe được lúc không. Đến chừng nghe đài kiểm soát bảo đóng cửa phi trường thì pháo nó rớt gần quá, em hoảng hồn cất cánh luôn. Teo quá, chỉ sợ chết...

Nói xong tôi còn làm bộ dậm chân dậm cẳng như là mình vô tội mà bị oan ức lắm. Đại úy Huy không biết phải nói gì, đành than thở:


- Cái phi đoàn này ngày ông chưa về thì nó yên thế mà bây giờ ngày nào cũng có chuyện. Thôi chuẩn bị mồm mép đi để lúc đổi biệt đội về trình diện ông Tám. Mấy ngày còn lại, ông bay với tôi. Cấm không được lạng quạng, nghe rõ không ông thần?

Tôi gật đầu sốt sắng. Lúc quay trở vào, tôi còn nghe đại úy Huy lẩm bẩm đằng sau lưng: “Đù mẹ sao mà tôi chán ông quan con này quá, lúc nào cũng sinh chuyện được.”

Đến ngày đổi biệt đội, tôi vừa đáp xuống phi trường Nha Trang thì đã thấy chiếc xe díp của phi đoàn trưởng đậu sẵn. Người tài xế mời tôi lên xe rồi chở thằng về phi đoàn. Tôi vào trình diện ông Tám.

Tôi có thể lừa được nhiều người nhưng ít khi nào lừa được phi đoàn trưởng của tôi. Làm một cánh chim đầu đàn mà không biết mấy cái mưu chước vặt của đàn em thì làm sao trị được những thằng phi công vô kỷ luật cỡ như tôi. Chỉ vài câu hỏi hóc búa thôi là cái tội nói láo của tôi bị lòi ra ngay. Thế là một lần nữa hết đời tên gian ác.

Chiều hôm đó, sau 15 ngày biệt phái, thay vì được về nhà ăn nhậu như những người khác thì tôi lại lóc cóc leo lên xe Quân Cảnh trực chỉ Cải Hối Thất. Sao mà tôi ghét những chiếc xe díp nhà binh như thế này. Người ta thường ngồi lên đó lái đi phom phom coi rất oai phong lẫm liệt còn tôi thì chỉ ngồi lên để đi trình diện xếp lớn hay đi tù. Ngồi trên xe, tức quá mà chẳng biết làm gì, tôi đành lôi mấy thằng đài kiểm soát Pleiku ra mà nguyền rủa. Tiên sư chúng nó, đúng là chuyện bé mà xé ra to để tôi phải đi tù...


Có lẽ chỉ muốn dằn mặt ông thiếu úy du côn một chút thôi nên sáng sớm ngày hôm sau tôi được thả ra. Lần này tôi được ông Tám cho một đại úy lái xe díp (lại xe díp) đi đón tôi và tôi được tặng một tờ giấy phép 5 ngày với nhiều lời nhắn gởi...

Sau đó, bẵng đi một thời gian đến mấy năm, tôi không còn nhớ cái hình dáng của Cải Hối Thất nó tròn hay méo như thế nào nữa. Chẳng phải vì tôi trở nên tốt lành gì nhưng càng lớn thì tôi càng khôn ra, làm gì cũng cẩn thận, ngó trước dòm sau chứ không ào ào như những ngày xưa...

Tôi trưởng thành dần theo cuộc chiến cho đến lần xảy ra vụ ở tù lần thứ tư....

Khoảng đầu năm 1974, giặc bỗng tấn công và tràn ngập đồn Bu Prăng. Cái đồn địa phương quân này có một vị thế chiến lược quan trọng vì nó nằm giữa con lộ duy nhất nối liền Quảng Đức và Ban Mê Thuột.

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Quận lỵ Quảng Đức, vốn đã từ lâu “sống âm thầm cô độc” giữa những khu rừng già trùng trùng điệp điệp nên chịu số phận hẩm hiu: Chỉ là miền đất lạnh lẽo dành cho những kẻ bị lưu đày. Bộ binh ở đây toàn là những kẻ ngang tàng và hào sảng như thiếu tá Trương Minh Dũng, tham mưu trưởng tiểu khu Quảng Đức. Thiếu tá Dũng, “người anh em” của phi đoàn 114, xuất thân khóa 1 hay khóa 2 Thủ Đức, vừa ra trường là gia nhập binh chủng nhảy dù, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ trước khi được tổng thống Diệm đưa qua địa phương quân để vừa làm cán bộ vừa nâng cao khả năng chiến đấu của những đơn vị này. Gần mấy chục năm máu lửa và sương gió trên khắp nẻo quê hương cũng chỉ được nhà nước nhớ ơn bằng cặp lon thiếu tá khiêm nhường trên cổ áo. Phi đoàn tôi từ nhỏ tới lớn ai mà không biết hoặc không quen thiếu tá Dũng với cái điếu cày thuốc lào luôn luôn có trên tay. Cái điếu cày bằng nhôm màu bạc này là vật bất ly thân của thiếu tá Dũng dù trên chiến trận, trong tàu bay L-19, nơi phòng họp hành quân với tư lệnh quân đoàn, hoặc ở các phòng trà nhảy đầm danh tiếng của thủ đô Sàigòn những lần về phép. Cái con người ngang tàng lạ lùng này của quân lực còn là một nhà thơ nỗi tiếng với những bài như “Nỗi buồn của Hạ”, “Xuân Cao Nguyên”, “Bỏ phố lên rừng...” Riêng bài Bỏ Phố lên rừng lúc ấy đã được Châu Kỳ phổ nhạc, nghe rất hay.


Về phía không quân thì đi biệt phái Quảng Đức cũng coi như khăn gói đi tu 15 ngày. Cả thành phố chỉ có được một khu chợ chính nằm trên con đường dài không quá 100 thước, khách bộ hành, vừa đi vừa nghỉ, cũng chỉ cần 5 phút là về chỗ cũ.

Nhỏ vậy, nghèo vậy, hiền lành như vậy, nhưng Quảng Đức với tôi có nhiều kỷ niệm vô cùng. Ai cũng sợ đi Quảng Đức, chỉ có mình tôi, đại úy Hưởng, đại úy Nhơn là cóc cần vì chúng tôi đã có “bùa”. Chiều chiều, chúng tôi hay rủ rê anh em xách tàu bay qua Lâm Đồng nhậu nhẹt với thiếu tá Dũng hay lên Đà Lạt hay qua Ban Mê Thuột chơi. Quảng Đức là một quận ly hiền lành, dường như giặc cũng chê cái thành phố này cho đến hôm nay.

Lấy xong Bu Prăng, con cháu giặc Hồ còn chơi bạo, tính kéo luôn quân về vây hãm Quảng Đức. Thế là chúng tôi có nhiều việc làm.

Chiến dịch tái chiếm Bu Prăng, vào lúc căng thẳng nhất, đã có đến 6 phi hành đoàn L-19 túc trực ngày đêm để làm việc với 1 liên đoàn Biệt Động Quân, 1 trung đoàn của sư đoàn 23 bộ binh và chiến đoàn III xung kích LLĐB. Rất từ từ nhưng quân ta cũng chặt đứt được khúc đuôi của giặc, giải tỏa áp lực cho Quảng Đức đồng thời tiến gần trở lại Bu Prăng.

Tôi bay lên biệt phái cho Quảng Đức một thời gian thì một buổi trưa, vừa về đáp sau một phi vụ, tôi đang nằm ngủ trong căn nhà của biệt đội. Sáng đó, tôi bay sớm và bay lâu nên về nhà thì mệt nhoài. Tôi cũng không còn nhớ lúc ấy những phi hành đoàn khác đã bỏ đi đâu mà chỉ còn có mình tôi ở lại biệt đội. Tôi nghĩ họ chở nhau đi ăn cơm.


Đang nằm thiu thiu thì bỗng có một chiếc xe díp nhà binh phóng như bay rồi thắng kít ngay trước cửa biệt đội. Bụi đỏ tung mù trời phủ mờ chiếc xe díp và hình ảnh mấy ông mặc áo rằn ri không rõ lon lá đang phóng xuống chạy như bay vào. Biệt đội Quảng Đức chúng tôi trú ngụ trong một căn nhà xây xi-măng. Từ đầu tới đuôi căn nhà, chúng tôi kê đúng 12 cái giường bố sắp thẳng băng sát cạnh nhau như trong một cái bệnh viện. Giữa nhà là một chiếc bàn con và cái điện thoại để liên lạc với trung tâm hành quân tiểu khu và sĩ quan liên lạc không quân. Chiếc bàn con này coi vậy mà làm được nhiều việc. Nó vừa là nơi họp hành quân, nơi ăn uống, nơi đánh bài và dĩ nhiên, cũng là bàn rượu khi rỗi rảnh. Giường tôi nằm khá xa phía trong.


“Mẹ, lại có chuyện rồi, thế là mất tiêu buổi ngủ trưa,” tôi vừa cằn nhằn vừa trở mình nhìn ra, chỉ hy vọng mấy ông mặc đồ rằn ri đổi hướng khác, không bước vào đây.

Nhưng họ không đổi hướng, cứ xăm xăm đi vào. Chẳng biết mấy ông muốn gì đây mà bộ tịch coi ghê quá. Tôi liền dựng người trở dậy, thọc vội cái áo bay vào người, kéo xong phẹc mơ tuya thì mấy ông rằn ri cũng vừa tới trước mặt. Thì ra toàn là những sĩ quan của Sở Liên lạc Nha Kỹ Thuật, phù hiệu đỏ chói của Tổng Tham Mưu bên tay trái và huy hiệu chiếc dù có con cọp hay con beo gì đó trước ngực. Theo trí nhớ của tôi thì có 1 ông trung úy và 2 ông đại úy, mặt mày ai nấy coi có vẻ nghiêm trọng vô cùng.

Tôi chưa kịp đưa tay chào mấy ông sĩ quan lớn lon hơn tôi theo đúng lễ nghi quân cách, chưa kịp nói gì thì một ông đại úy hỏi:

-.... Em là phi hành đoàn duy nhất ở đây?

Theo thói quen học được từ những ngày còn ở trường bộ binh Thủ Đức, tôi cung tay chào mấy quan Lôi Hổ:

- Dạ đúng đại úy, không biết mấy ông kia đi đâu hết rồi. Đại úy cần gặp ai?

Nghe như thế thì khuôn mặt mấy người sĩ quan Nha Kỹ Thuật thoáng lên vẻ thất vọng. Tôi kéo mấy cái ghế sắt:

- Mời đại úy và quí vị ngồi chơi, tôi xin phép đi xỏ đôi giày.

Họ cám ơn tôi rồi cùng nhau xầm xì to nhỏ gì đó. Tôi bình thản ngồi xuống giường mang giày vớ. Mặc áo nhà binh lâu, tôi đã quá quen với những bất ngờ, những bấc trắc của cuộc chiến nên đã học được cái tính phớt tỉnh Ăng Lê. Chuyện gì xảy ra, tin tức gì cũng chẳng làm cho tôi bận tâm. Thêm vào đó, hồi đó tôi đang trở chứng, muốn tìm hiểu và đang đọc các loại sách nói về Kinh Dịch, về luật Âm Dương của tạo hóa nên trở nên là đà, mặt mày lúc nào cũng đăm chiêu tư lự và chán đời như ông Trang Tử ngày xưa.


Mang giày xong, tôi ra kéo ghế ngồi giữa mấy ông sĩ quan Nha Kỹ Thuật, châm lửa một điếu thuốc:

- Nếu đại úy muốn kiếm ông biệt đội trưởng, đại úy có thể dùng điện thoại đây gọi về cho trung tâm hành quân tiểu khu. Mấy ông “Alo” (sĩ quan liên lạc không quân) chắc biết ổng ở đâu.

Một ông đại úy lên tiếng sau một vài giây ngần ngừ:


- Chúng tôi có một việc cần anh giúp đỡ, nếu anh giúp được chúng tôi cám ơn anh vô cùng.

Lời nói khẩn thiết và chậm rãi của vị sĩ quan Nha Kỹ Thuật làm cho tôi ngạc nhiên. Một thằng thiếu úy không quân hạng bét như tôi thì giúp gì được mấy ông rằn ri thứ dữ này ? Nhưng cứ nhìn điệu bộ và cách ăn nói thì mấy ông này giữa trưa lái xe tới đây không phải để đùa dai với tôi. Trong một giây phút, tôi cảm thấy khoái chí vì mình tự nhiên được trở nên một nhân vật quan trọng.

Tôi nhíu mày:

- Đại úy cần gì, xin đại úy cứ cho biết...


Người sĩ quan Nha Kỹ Thuật nhìn thật sâu vào mắt tôi, nói chậm rãi và bằng tất cả những sự thống thiết của một con người:


- Một toán Lôi Hổ của tôi thả xuống lần trước đã bị Việt Cộng phát hiện, bị bao vây và tấn công mấy ngày. Tụi nó đã chạy thoát được nhưng đang bị phân tán mỗi người một nơi và lạc trong rừng. Tôi muốn nhờ... thiếu úy, muốn nhờ... em giúp tôi bay lên để gom chúng nó về một LZ an toàn.

Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tưởng gì chứ đi bay kiếm Lôi Hổ bị lạc và chọn bãi đáp thì quá thường đối với tôi. Tôi chịu nhất là cái tài chiếu kiếng của mấy ông này. Nhiều khi tôi bay rất cao, giữa rừng già thăm thẳm mênh mông mà mấy ông chỉ cần chiếu một phát là tôi nhìn thấy ngay. Chà bù với mấy ông bộ binh, nhiều khi chiếu cả ngày cũng chẳng thấy đâu. Nhưng một phi vụ đơn giản như thế thì tại sao lại khổ sở vào đây để kiếm tôi?

Tôi nói ngay:


- Có gì đâu đại úy, đại úy cứ việc gọi về trung tâm hành quân, request một phi vụ là tôi cất cánh liền.


Ông đại úy lắc đầu:

- Nếu xin được thì tôi đâu có đến đây kiếm anh.

Thì ra vậy. Số là, không quân chúng tôi khi được biệt phái đi bay yểm trợ cho các đơn vị bạn, mỗi ngày trung tâm liên lạc hành quân đều thông báo cho bộ tư lệnh chiến trường biết có bao nhiêu tàu khả dụng, bao nhiêu phi vụ có thể cất cánh được. Số phi vụ này được tư lệnh chiến trường, tùy theo mức độ cần thiết và nhu cầu, chia ra cho các đơn vị tham chiến. Khi 1 đơn vị cần phi cơ yểm trợ, họ chỉ việc gọi cho trung tâm liên lạc hành quân. Nơi này, tùy theo số lượng phi vụ đã được cấp phát trước, sẽ cho chúng tôi cất cánh để làm việc với họ. Tôi không tò mò hỏi thêm nhưng biết chắc có lẽ đơn vị Lôi Hổ này đã xài hết những phi vụ của mình, hoặc vì tình trạng thiếu thốn máy bay, không xin được 1 phi vụ nào cả, đành phải đau xót nhìn những đứa con của mình bị rượt đuổi giữa rừng già.

Đối với chúng tôi, ngoài những phi vụ huấn luyện hay bay thử phi cơ, cất cánh không có phi vụ lệnh đàng hoàng là sẽ bị ở tù hoặc đưa ra tòa án quân sự. Thân bại danh liệt là cái chắc. Thật ra, trong suốt cuộc đời bay bổng, chúng tôi cũng đã nhiều lần cất cánh lậu để đi ăn nhậu hay chở bạn bè đi chơi nhưng chúng tôi đều luôn luôn có phép ngầm của trung tâm liên lạc hành quân. Nhiều khi, những người hành khách mà chúng tôi chở đi chẳng ai khác hơn là ông sĩ quan trưởng phòng liên lạc hành quân dù đi chơi hoặc bạn bè của ông ta. Nhưng đó là chuyện thời bình, khi không có việc gì để làm. Điềm quan trọng là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng tôi không bao giờ dám cất cánh lậu mà trung tâm liên lạc hành quân không biết. Hôm nay, giữa lúc khói lửa ngút trời như thế này, không ai dám nghỉ đến việc xách tàu đi đâu.

Tôi đã tính lắc đầu. Chuyện của thiên hạ thì mắc mớ gì tới mình mà bày đặt. Hơn nữa, cái tiếng tăm của tôi trong phi đoàn lúc ấy đã quá nổi. Không phải nổi nhờ những cái hay mà toàn là những chuyện bê bối và “gian ác.”

Tết vừa rồi, ngày mùng 3, tôi bay mấy trăm dặm đường về Ban Mê Thuột để chúc Tết và nói chuyện đầu năm với thân phụ. Sau một ly trà nóng, ông đã bảo tôi bằng một giọng buồn buồn và mệt mõi rằng: “Con đã lớn tuổi, phải sửa lại tính tình để lo cho tương lai, không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm.” Cái chết của thằng em ruột tôi, trung sĩ Lê Xuân Bích tại trận Tân Cảnh năm 1972 đã đem tang tóc vào nhà tôi và làm cho ông buồn bã vô cùng. Tôi nhớ, khi em tôi vừa ra trường Đồng Đế, về sư đoàn 23 bộ binh, nhiều người đã bảo ông sao không chạy chọt cho nó được một chỗ ấm thân. Thân phụ nghiêm mặt trả lời: “Nếu ai cũng lo chạy chọt như mình thì chính phủ lấy người đâu mà đánh giặc. Hơn nữa, nhà nghèo quá, tiền ăn còn không có thì lấy tiền đâu ra mà chạy chọt.” Thật là một lời nói đau buồn nhưng không phải không có lý. Hình như cái chết của thằng con trai đã ám ảnh ông. Thân phụ không còn như xưa nữa. Nghĩ đến thân phụ tuổi đã cao, lại khổ cực cả một đời vì con cái nên tôi có thành tâm hối cải, tính tu thân để trở thành một “cán bộ nồng cốt của phi đoàn” như lời dạy dỗ của phi đoàn trưởng. Nhưng số tôi làm như không có... căn tu cho nên lâu lâu cứ bị dây dưa vào những chuyện đâu đâu.


Tôi suy nghĩ sâu hơn nữa. Nhìn những vị sĩ quan của Nha Kỹ Thuật ngồi trước mặt, lòng tôi bỗng tự dưng dâng lên một niềm kính phục kỳ lạ. Giữa lúc có nhiều ông sĩ quan cao cấp đem bán cả gạo, cả súng đạn cho giặc thì những con người Việt Nam này, những sĩ quan trẻ tuổi này, mặt mày lo âu, mắt ai nấy ngầu đỏ vì thiếu ngủ đang ngồi chờ sự quyết định của tôi. Nếu tôi đồng ý, các vị sẽ cứu được những người lính của mình, những người tuy không phải bà con ruột thịt nhưng tình chiến hữu còn khắng khít còn cao hơn máu mủ ruột thịt. Nếu tôi từ chối, chẳng ai làm gì tôi cả và tôi sẽ không bị lôi thôi rắc rối với phi đoàn hay pháp luật. Nhưng nếu làm vậy, tôi biết những người lính Lôi Hổ anh dũng kia có thể bị giặc bắt hay tàn sát và lương tâm tôi, cái lương tâm của một sĩ quan QLVNCH, dù mang một cấp bậc rất nhỏ là thiếu úy sẽ dằn vặt sâu xé tôi suốt đời.

Tôi lại nghĩ đến những lần cất cánh trái phép để đi chơi bời, đi ăn nhậu. Xăng chính phủ, tàu bay chính phủ, tôi sử dụng trái phép như thế chẳng khác gì tôi phạm tội tham nhũng, ăn cắp của công. Tôi chửi bới người khác tham nhũng, còn tôi, ai sẽ chửi bới tôi? Lớn ăn theo lớn, nhỏ phá theo nhỏ, còn gì là cái gia tài của quốc gia?

Ông đại úy Nha Kỹ Thuật mời tôi điếu thuốc. Ông cười... cầu tài. Tôi thấy nụ cười của người đàn anh trong quân đội sao vừa buồn mà lại vừa oai dũng, vừa chịu đựng, lại vừa quyết liệt. Ông nói, giọng như người anh khuyên bảo đứa em trai:

- Thiếu úy cứ tính đi. Anh em chúng tôi không muốn làm cho thiếu úy kẹt. Nhưng nếu giúp được chúng tôi, chúng tôi sẽ cám ơn vô cùng...


Vì trách nhiệm, vì tình chiến hữu sắc son, vì muốn cứu mấy người lính của ông ta, một vị đại úy oai hùng của Nha Kỹ Thuật đã mời thuốc lá và cười cầu tài với một chú thiếu úy oắt con như tôi. Tôi bỗng thấy trái tim mình như rướm máu, lòng dạ xót xa bồi hồi. Tự nhiên, tôi thấy thương quân đội tôi, dân tộc tôi vô cùng. Ngày nào quân đội tôi còn những sĩ quan như thế này, ngày đó chúng tôi và những người đàn em của ông ta còn có lý do và để hãnh diện chiến đấu. Quân đội tôi, cái quân đội nghèo nàn bắt đầu không phải từ con số không mà từ con số trừ to lớn bởi vì đã bị bóp méo coi thường ngay từ những giây phút đầu tiên. Bọn CS đã lòe được thiên hạ để mang cái võ “Quân đội Nhân dân” bên ngoài. Chúng tôi, những chiến sĩ của nhân dân thật sự thì lại mang tiếng là lính hậu thân của quân đội thuộc địa. Hàng bao nhiêu năm qua, bạn cũng như thù, đã đem quân đội tôi ra mà nhục mạ, bêu xấu, hành hạ đủ điều.


Tôi không phủ nhận quân đội tôi đã có những thằng tướng hèn, tướng phản bội, tướng nối giáo cho giặc. Nhưng, trên cõi đời này, có cái gì là tuyệt đối? Những bê bối, những xấu xa, quân đội nào chả có đâu phải chỉ riêng mình quân đội tôi.

Chính những người sĩ quan của một binh chủng hung hãn nhất quân lực ngồi trước mặt tôi ngày hôm nay làm cho tôi nghẹn ngào mà hãnh diện, vui mà buồn. Tôi nhớ đến cái chết của thằng em tôi tại chiến trường Tân Cảnh ngập máu năm nào. Mỗi lần nghĩ về em, lòng tôi như bị ai đâm lút cán một lưỡi dao. Tôi lại nhớ đến lời nói của thân phụ: “Không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm.” Trách nhiệm của tôi, một sĩ quan xuất thân trường bộ binh Thủ Đức, một phi công của QLVNCH trong hoàn cảnh này là gì? Là bằng mọi cách, phải cứu cho bằng được những chiến sĩ Lôi Hổ can trường kia. Tôi cũng đã suy nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra cho tôi. Đi tù, “cát xê ga lông”, ra tòa án quân sự vân vân. Và cũng có thể, sẽ chẳng có gì xảy ra cho tôi hết. “Không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm” câu nói của thân phụ lại trở về ám ảnh lấy tôi.

Tôi gật đầu, mặt đanh lại với câu nói quyết định:


- Được, tôi sẽ cất cánh mà khỏi cần phi vụ lệnh. Đại úy cho người đi bay với tôi.

3 khuôn mặt đang buồn thảm bỗng trở nên sáng ngời như những vì sao. Vị đại úy đứng dậy, đưa hai tay ra nắm lấy vai tôi, giọng hớn hở như đứa con nít được quà:

- Em... em bay cho tụi tôi thật à? Thế thì quý hóa quá, hay quá, tốt quá. Thế mới là huynh đệ chi binh chứ. Mà cất cánh... bất ngờ như vậy có sao không? Có kẹt gì cho em không?


Đã lỡ giúp, tôi đành giúp cho trọn

- Không sao đâu đại úy, cùng lắm thì bị phi đoàn trưởng xài xể chút thôi.


Tôi đứng dậy ra đầu giường để chuẩn bị dụng cụ phi hành. Khi thấy tôi lôi cây AK-47 từ trong góc giường ra, một người hỏi:

- Anh thích xài AK ư?


Tôi hãnh diện khoe:

- Dạ, quà của trung tá Xuân, tham mưu trưởng quân đoàn cho đấy.

Tôi vốn là một thằng ngược đời. Thằng Hiệp, bạn thân nhất có lần bảo tôi: “Con người mày nó kỳ lạ làm sao ấy. Mày luôn luôn phải có tí gì khác người thì ăn cơm mới thấy ngon. Thiên hạ đeo súng ở thắt lưng thì mày đeo ở nách, đeo lon ở vai thì mày đeo ở cổ, xài M-16 thì mày lại thủ AK coi cứ như một thằng du kích Việt Cộng. Anh em khoái đánh bài thì mày tối ngày cứ ôm mấy cuốn sách mà đọc, thích nói chuyện chơi bời thì mày lại giảng Kinh Dịch, bàn chuyện tử vi tướng số hoang đường và triết lý lẩm cẩm. Không biết chừng nào mày mới khá được như chúng tao.”

Tôi phóng lên chiếc xe díp của Nha Kỹ Thuật. Ông đại úy lái xe, tôi leo ra phía sau ngồi nhưng ông ta nhất định không chịu, bắt tôi ngồi ghế trước với ông. Từ chối không được, tôi đành phải ngồi ở ghế trước. Ông đại úy và ông trung úy kia ngồi sau. Ông đại úy ngồi sau khom tới trước, đưa cho tôi coi tấm bản đồ với những khoanh màu xanh màu đỏ đủ thứ và bắt đầu briefing. Đã bay vùng này mấy năm nên tôi chẳng lạ gì, nhìn qua là tôi nhớ liền. Sau vài phút đồng hồ, tôi đưa một ngón tay lên trời ra dấu nhận và hiểu.


Xe phóng thẳng lên phi trường Quảng Đức là một quả đồi nhỏ. Tôi lên tàu quay máy, chở ông đại úy bay tới vùng làm việc.


Chừng 2 tiếng đồng hồ sau tôi đem tàu về đáp. Cả tôi và vị sĩ quan Nha Kỹ Thuật hả hê sung sướng vì phi vụ coi như thành công mỹ mãn. Ông ta đã kiếm được hết mấy đứa con đi lạc và gom họ hướng về một LZ an toàn. Ngày mai sẽ có một hợp đoàn trực thăng lên bốc họ về.


Di chuyển tàu về tới bến đậu, tôi loáng thoáng trông thấy mấy cái áo bay nhấp nhô ở đàng xa. Một dấu hiệu không tốt. “ĐM lại có chuyện rồi”, tôi lẩm bẩm. Biết thế nhưng giờ phút này không phải là giờ phút để hối hận. Muốn ra sao thì ra, tôi cóc cần.


Tắt máy xong, tôi tháo mũ bay, chụp cây AK và leo xuống tàu, bình thản, tự tín. Chiếc xe díp của Nha Kỹ Thuật ào tới như một cơn lốc. Vị đại úy Nha Kỹ Thuật nọ bước xuống, thân mật đưa tay cầm lấy nón bay của tôi:

- Để tôi đưa em về, mình ghé qua tiệm cơm kiếm chút gì bỏ bụng. Cám ơn em rất nhiều. Tối nay anh em chúng tôi ngủ yên giấc được rồi.

Khuôn mặt ông ta rạng rỡ dưới ánh nắng vàng của chiều cao nguyên Quảng Đức. Tôi đứng yên, hất đầu về phía có nhóm người đang mặc áo bay:

- Cám ơn đại úy nhưng chắc tôi phải cất cánh phi vụ kế tiếp, hình như anh em đang chờ.

Chiến trường đang ở hồi khốc liệt, chẳng ai có thì giờ cà kê lẩm cẩm, chúng tôi vội vã chia tay nhau. Mỗi người trong bọn họ siết chặt tay tôi, nói những lời cám ơn chân tình. Đáp xuống từ một độ cao cho nên hai lỗ tai tôi còn hơi bị ù, nghe được tiếng còn tiếng mất. Tôi không nghe được hết nhưng tôi nhìn thấy hết trong ánh mắt của họ vẻ trìu mến, biết ơn và cảm phục. Trước khi leo lên xe díp, vị đại úy nọ bảo tôi:

- Tôi hy vọng không có gì rắc rối cho em. Tôi có nói chuyện với ông biệt đội trưởng của em, ổng bảo đối với ổng không có gì trở ngại. Nhưng nếu có gì, cứ gọi cho tôi, tôi sẽ nhờ chiến đoàn can thiệp. Thôi cám ơn em lần nữa nhé. Ráng giữ thân mình, anh em báo cáo Việt Cộng có đem hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 về đây từ hồi đầu chiến dịch đó.

Tôi vẫy tay chào. Chiếc xe lăn bánh đi, nhưng được vài vòng bỗng ngừng lại và de lui đến trước mặt tôi. Ông đại úy hớn hở:

- Vội quá nên quên, tôi có mấy cây AK còn mới tinh, ngày mai tôi sẽ ghé qua biệt đội tặng em một cây làm kỷ niệm.

Tôi mỉm cười cám ơn ông đại úy. Thật ra thì lúc ấy tôi đã chán AK rồi, nặng bỏ mẹ, đang tính bán cây AK đang cầm để mua chai rượu. Tôi nghĩ giá ngài đại úy tặng tôi một chai rượu thì tốt hơn nhưng không dám nói ra. Chiếc xe díp lại lăn bánh. Lần này chiếc xe mất hút giữa đám bụi mù.


Tôi tà tà lê từng bước một đến chỗ bãi đổ xăng của biệt đội. Đại úy Nhơn đã “ghia ghiếc” (một danh từ chỉ phi công đã trang bị phi hành đầy đủ) xong, đang chờ đợi tôi.

Biết thân phận mình, tôi liền biểu diễn một nụ cười cầu tài để “do thám tình hình.” Đại úy Nhơn cười theo, rất thông cảm, rất chân thật. Như thế là quá tốt. Xếp “địa phương” mà thông cảm được như thế thì tôi đỡ được một gánh nặng. Đại úy Nhơn cũng chẳng hỏi tôi đi bay đâu mới về. Đúng hơn, cả hai chẳng nói gì nhiều với nhau. Ông đại úy chỉ bảo cất cánh lẹ lên để còn bàn giao với chiếc L-19 đang làm việc trên vùng.

Suốt phi vụ, ngài đại úy chẳng nói gì về chuyện cất cánh vừa rồi. Tôi cũng lờ luôn. Trước khi về đáp, ngài đại úy chỉ đề cập vấn đề của tôi hơi vắn tắt:

- Chuyện đi bay của chú anh coi như không biết. Anh đồng ý chuyện chú làm. Chỉ sợ kẹt là kẹt phi đoàn thôi. Chú biết tính ông Tám mà, ổng biết được thì thế nào cũng có chuyện.

Và phi đoàn trưởng của tôi đã biết được chuyện này ngay cả trước khi tôi về đáp với đại úy Nhơn. Biết bằng cách nào tôi không biết và cũng chẳng cần tìm hiểu. Xã hội nào, thời đại nào, tập thể nào cũng luôn luôn có những con ký sinh trùng thối tha sống bám vào máu mủ của đồng loại bằng cách báo cáo vặt để kiếm tí điểm, tí ân huệ dư thừa. Cách hay nhất để sống là đừng thèm để ý hay biết đến bọn này. Biết chỉ làm cho mình bực mình.

Ngày hôm đó, tôi bay tổng cộng hơn 10 tiếng đồng hồ nên về đến biệt đội là phóng lên giường ngủ như chết, quên cả ăn uống.


Sáng hôm sau, lệnh từ Nha Trang gọi về: “Không cho thiếu úy Nhị đi đâu hết. Bảo hắn chuẩn bị hành lý có tàu lên chở về phi đoàn.” Đại úy Nhơn đích thân nhận chỉ thị này sau khi bị xài xể thậm tệ trong điện thoại. Lúc ấy trời còn tối mịt, tôi đang nằm trên giường thưởng thức điếu thuốc Capstan đầu tiên trong ngày. Tôi chỉ nghe ngài đại úy đáp những câu vắn tắt như: “Tôi không biết trung tá,” và “Làm sao tôi biết được trung tá?”


Chừng đó thôi cũng giúp tôi hiểu được cái số phận của mình. Gác điện thoại cái cụp, đại úy Nhơn nổi máu giang hồ, đứng giữa phòng chửi đổng cho tất cả biệt đội nghe:

- ĐM thằng c... hèn hạ khốn nạn nào báo cáo thì phải báo cáo cho đúng. Chuyện thằng Nhị nó làm thì tao biết c... gì, sao lại lôi cả tao vào? ĐM tao mà biết được thằng c... chó má đó thì tao vặn cổ.

Đã biết tính tình của đại úy Nhơn, chẳng có thằng c... nào dám mở miệng. Tiếng quát tháo của ông đại úy phi công lúc trời chưa sáng như vang dội cả núi rừng Quảng Đức. Tôi hút xong điếu thuốc, nằm im nhìn lên khoảng tối âm u trên trần nhà. Âm u như đất nước tôi, dân tộc tôi. Một lần nữa, tôi lại làm phiền đại úy Nhơn. Ông đại úy này và tôi có nhiều kỷ niệm lạ lùng tôi sẽ đề cập tới trong một lúc khác.


Chửi bới một lúc xong, ngài đại úy đến bên giường tôi, kêu ra ngoài nói chuyện.

Mặt trời vùng cao nguyên hôm ấy dậy khá trễ, gần 6 giờ mà vẫn chưa chịu ló mặt ra. Tôi và đại úy Nhơn đứng hút thuốc ngoài biệt đội, trong bóng tối gần tàn của rạng đông, trên một ngọn đồi, nhìn xéo xéo xuống thung lũng mờ mờ phía trước. Gió cao nguyên thổi lồng lộng, hơi lành lạnh làm tăng thêm giá trị của hơi thuốc lá buổi sáng sớm. Giòng sông Đắp La dưới chân đồi, tuy không nhìn thấy nhưng tiếng nước chảy xiết bao trùm cả không gian. Trong một thoáng, tôi cảm thấy yêu cái cuộc đời “tang bồng hồ thỉ” của người phi công. Nay đây mai đó trên khắp nẻo quê hương, tôi thấy mình càng ngày càng gắn bó hơn với cái nơi chốn mà người ta gọi là “Tổ quốc.”

Khuôn mặt đại úy Nhơn có dấu buồn phiền mệt mõi khi đầu điếu thuốc được rít lên:

- Ông Tám kêu em về. U-17 cất cánh rồi, sắp sửa đáp bây giờ.

Tôi trả lời tỉnh bơ:

- Tù là cùng chứ gì.

- Còn phải nói, tù là cái chắc rồi thằng em. Nhưng tù cái không đáng tù mới là đáng nói.

Tôi chẳng thấy buồn phiền gì cả, lính mà:

- Em quen rồi anh Nhơn. Ông đại úy Tới coi tướng em nói số mày không đeo nổi cái long trung úy. Thiếu úy là “Danh phận tột đỉnh” rồi.

Đại úy Nhơn bỗng bật cười:


- Mày chưa bị xuống Chuẩn úy là may. Nhiều khi tao tự hỏi tại sao quân đội lại để cho một thằng ba gai như mày đeo lon thiếu úy, những thằng ngổ nghịch như tao đeo lon đại úy.

Cả hai chúng tôi cùng cười. Tiếng cười như che lấp cả núi rừng chung quanh. Khi chúng tôi quay vào, vừng thái dương vừa từ từ ló dạng. Cả không gian, cả bầu trời bừng lên một sức sống mãnh liệt. Rạng đông ở quê hương mình đẹp đẽ và hùng dũng làm sao!

Sáng hôm đó, tôi về lại Nha Trang. Trước khi đi, tôi cũng không gọi điện thoại cho mấy ông Lôi Hổ để từ giã. Tôi biết họ rất tốt nhưng sẽ chẳng giúp gì được cho tôi. Mỗi quân chủng đều có một đường lối làm việc riêng. Hơn nữa, hôm qua trước khi cất cánh tôi đã suy nghĩ kỹ và sẵn sàng chấp nhận tất cả những gì sẽ xảy đến cho mình...

Khi leo lên tàu giã từ Quảng Đức, tôi vẫy tay chào đại úy Nhơn và chẳng hề cảm thấy hối hận chút nào mà trái lại, còn cảm thấy hãnh diện nữa. Tôi đã sống như một người có trách nhiệm như thân phụ tôi đã dạy.

Vào trình diện ông Tám, tôi tỉnh bơ đưa tay lên chào mà không hề thấy sợ sệt hay mặc cảm gì cả. Ông mời tôi ngồi, nói chuyện với tôi bằng một giọng nhỏ nhẹ làm tôi hơi ngạc nhiên. Ông hỏi tôi chuyện gì xảy ra. Tôi kể lại mọi chuyện rồi kết luận:

- Thưa thầy, (tục lệ của phi đoàn quan sát gọi người dạy bay mình là thầy), chính tôi đề nghị bay giúp họ. Họ không có ép hay năn nỉ gì cả. Tôi thấy cần bay phi vụ đó nên tôi bay. Đơn giản như thế thôi. Bây giờ thì tôi chấp nhận mọi hình phạt của thầy.

Tôi nhìn thằng vào mặt ông Tám mà nói như thế. Lần đầu tiên, tôi thấy ông có vẻ hơi bối rối. Nhưng ông nắm được thế thượng phong ngay:

- Chuyện anh làm có thể... đúng. Nhưng anh nghĩ coi, quân đội sẽ như thế nào nếu ai muốn làm gì thì làm. Phi công muốn cất cánh thì cất cánh, lính thiết giáp muốn lái xe tăng đi đâu thì lái vân vân. Nếu ai cũng như thế thì làm sao có thể điều hành và chỉ huy một tập thể to lớn như quân đội được...

Lại bài mo-ran cũ rích mà lúc ấy tôi chẳng còn muốn nghe nữa. Dĩ nhiên là ông ta nói đúng, nhưng bây giờ tôi không muốn ngồi đây để nghe giảng hay cãi lý với ông ta. Mẹ, trước sau gì cũng đi tù, tôi muốn đi tù càng sớm càng tốt. Tôi cảm thấy mệt mõi. Sau hàng trăm phi vụ hành quân ở Quảng Đức gần tháng qua, tôi muốn nghỉ ngơi, muốn ngủ một giấc thật dài dù là ở Cải hối Thất hay ở đâu. Ít nhất, ở trong tù Nha Trang, tôi không sợ bị ăn đạn pháo kích của giặc. Tự nhiên, tôi đâm liều:

- Trước sau gì tôi cũng đi tù, thầy cho tôi đi sớm chừng nào tốt chừng đó. Tôi mệt mõi quá rồi, không có thì giờ ngồi đây để nghe giảng...

Trung tá Tám như khựng lại sau câu nói liều lỉnh của tôi. Phi đoàn tôi chưa có ai nói chuyện với xếp lớn kiểu này. Nhưng con người có sức chịu đựng của nó.

Suy nghĩ một lúc, ông nói:

- Được, tôi sẽ cho anh đi tù...

Câu tiếp theo sau làm cho tôi giật nẩy mình:


- Tôi đã nói anh là một người có tâm hồn và tài năng. Tôi đã không lầm.

Tôi chưa biết nói gì thì ông tiếp:

- Nói thật với anh rằng hôm qua nếu tôi là anh, thì tôi cũng làm như anh mà thôi. Anh xứng đáng là một phi công tài giỏi của Không Quân. Nhưng, với cương vị là phi đoàn trưởng của anh, tôi phải phạt anh. Phạt nhưng rất phục.

“Phục cái kiểu... mẹ gì lại bắt tôi đi nhốt,” tôi nói với lòng mình như thế và đứng lên đi ra, chẳng muốn nói gì thêm nữa.

Ra khỏi phi đoàn, tôi leo lên chiếc xe díp của Quân Cảnh đã đợi sẵn bên ngoài. Ngồi trên xe trực chỉ Cải Hối Thất sư đoàn II Không Quân, tôi lẩm bẩm: “Mẹ, lại những chiếc xe díp...”

Sáng hôm sau, tôi được thả ra kèm một sự vụ lệnh đi phép 5 ngày...

Đó là lần thứ tư và cũng là lần ủ tờ cuối cùng của tôi. Nhưng như đã nói, lần này, khác hơn những lần trước, tôi lừng lửng bước vào Cái Hối Thất, đầu ngẩng lên cao, lòng cảm thấy sung sướng, không hề hối hận, không chút gì buồn phiền...

Đó là một lần rất ít trong cuộc đời binh nghiệp khiêm nhường ngắn ngủi của tôi, tôi cảm thấy đã làm một việc gì thật sự cho quê hương đất nước. Nếu phải bắt đầu làm lại từ đầu, tôi cũng sẽ không ngần ngại làm y như cũ.

Ngày hôm sau, tôi cũng quên không gọi lên biệt đội xem có ai tặng tôi cây AK không. Và tôi cũng chẳng bao giờ có dịp gặp lại vị đại úy Nha Kỹ Thuật tận tâm nọ...

Mười mấy năm sau trên đất khách, tôi hy vọng người đại úy ngày nọ của Nha Kỹ Thuật, nếu trời còn thương để cho đại úy không tự sát ngày 30 tháng 4, hay đã không bị kẻ thù giết chết trong các trại tù, và vượt biên được sang thế giới tự do này, nếu đọc được bài này, không hiểu đại úy còn có nhớ đến một buổi trưa ngút ngàn khói lửa ngày nào tại quận lỵ Quảng Đức quê mình? Tôi chẳng dám đòi cây AK đại úy đã hứa đâu, chỉ muốn tỏ một chút lòng ngưỡng mộ đối với đại úy, với anh em Nha Kỹ Thuật. Nếu đại úy đọc được những hàng chữ này, thì dù có cách trở xa xôi, dù tâm hồn đã héo hon tàn tạ sau mười mấy năm đau thương tủi nhục, xin hãy cùng tôi cất lên tiếng cười cho một chút quá khứ đáng hãnh diện. Chúng ta là những người trai sinh nhằm thời loạn, đành phải mặc áo nhà binh để bảo vệ non sông tổ quốc. Tôi biết đại úy cũng như tôi, chúng ta nào có thích gì cái trò chơi lửa đạn, mê gì cái bông mai vàng trên cổ áo với số lương tháng không bằng một ngày làm việc của anh tài xế taxi. Ngày xưa, trong cơn binh lửa, chúng ta là những kẻ bị thiệt thòi nhiều nhất. Ngày hôm nay, tàn cuộc binh đao, chúng ta lại là những kẻ bị trả thù tàn nhẫn nhất, bị hành hạ và lăng nhục nặng nề nhất. Hàng trăm thứ tội đều được đổ lên đầu chúng ta, gọi chúng ta bằng những danh bỉ ổi hèn hạ nhất như “nợ máu với nhân dân.” Nợ gì khi chúng ta đã bỏ hết tuổi thanh xuân quý giá đi nằm gai nếm mật, băng rừng lội suối, ngủ bờ ngủ bụi ngày này qua tháng nọ để gìn giữ cho xóm làng được yên vui, cho trẻ thơ được rộn rả tiếng cười, cho buổi họp chợ ban mai được yên lành trong nắng sớm, cho mái chùa cong cong còn được gióng lên những hồi chuông tín mộ, cho ngôi giáo đường thành phố còn nhịp nhàng vang lên những bản thánh ca nghe dịu dàng thanh thoát như những tiếng hát của thiên thần?

Nợ gì đây? Đồng bào miền Nam mình chắc cũng đã thừa biết ai nợ ai rồi...

Nếu còn có thể khóc được sau tiếng cười vừa rồi, thưa đại úy, xin hãy khóc lên không phải cho chúng ta nhưng cho hơn một triệu anh em đồng đội của chúng ta đã anh dũng ngã gục dưới cờ, chết thay cho cả dân tộc. Chính những sự hy sinh cao cả này của đồng đội mà chúng ta không thể để mất niềm tin. Chúng ta không được để những cái chết cao cả đó trở thành vô nghĩa. Chúng ta sẽ không bao giờ xao lãng cái sứ mạng mà tổ quốc và dân tộc Việt Nam đã long trọng giao phó: Ngày xưa là giữ gìn và bảo vệ non sông tổ quốc và bây giờ là quang phục lại quê hương. Theo Kinh Dịch, trong đại họa là cái mầm của đại phúc, trong tận cùng thống khổ là bắt đầu của thời đại an vui sung sướng. Chúng ta phải vững niềm tin. Chúng ta đều đã thật sự trưởng thành trong nước mắt, trong tủi nhục, trong đau thương thống khổ cùng với quê hương và dân tộc mình. Càng bị sĩ nhục, càng bị hành hạ, càng bị khinh bỉ, chúng ta càng trở thành những chiến sĩ, những cán bộ tài giỏi cần thiết cho công việc quang phục quê hương sau này...

Kính thưa quí vị,

Tôi vừa kể lại cuộc đời binh nghiệp khiêm nhường của mình, rất chân thành, không giấu diếm những hèn mọn, không khoe khoang quá đáng những cái hay. Tôi có đủ can đảm của một người lính để chấp nhận mình là kẻ thua trận, xứng đáng bị lăng nhục, bị chê trách, bị chửi bới. Tôi không có gì nói để biện mình cho tôi cả. Bây giờ, mỗi lần nhìn thấy chim bay trên trời, lòng tôi cảm thấy đau xót và tiếc nuối vô cùng vô tận. Không phải tôi tiếc nuối những giây phút lồng lộng giữa trời xanh bát ngát vì bên Mỹ này, chỉ cần bỏ ra 25 đô la một giờ là tôi sẽ mướn được một chiếc phi cơ còn đẹp hơn chiếc L-19 của tôi ngày xưa nhiều, tha hồ và vung vít, tha hồ mà nhào lộn. Cũng không phải tôi tiếc nuối vì đã mất đi cái mác “Thiếu úy phi công” trong bộ đồ bay màu xanh da trời với cái khăn quàng màu trắng nơi cổ và cây Colt lủng lẳng bên hông. Tôi đau xót và tiếc nuối thật tình, lòng tôi héo hon phiền muộn vì biết mình đã phần nào chịu trách nhiệm trong việc làm mất đi cái vòm trời vô giá của tổ quốc mến yêu. Cho cái thuở xa xưa, dù đã được giáo dục đầy đủ, được quân đội cưng chiều ưu đãi, tôi đã ít khi nào biết hết lòng tận trung báo quốc. Cho cái tuổi trẻ yêu dấu đã âm thầm vĩnh biệt tôi ra đi mãi mãi không bao giờ trở lại. Và, thật sâu trong đáy trái tim rướm máu của một người phi công lưu lạc, tôi đau đớn tiếc thương cho những chiến sĩ của một quân đội kiêu hùng đã nằm xuống, chấp nhận chết thay cho cả dân tộc, trong đó có tôi.

Mỗi năm, vào độ Xuân về, khi cầm nén hương đứng trước bàn thờ tổ quốc, nhìn lá cờ vàng 3 sọc đỏ uy nghiêm giữa hương khói ngút ngàn, hai hàng lệ của tôi cứ tuôn tràn ra mãi không sao cầm được. Tôi thấy hình bóng của một triệu người anh em đồng đội tôi, trong đó có em ruột tôi, có vợ chồng chú Bốn tôi chập chờn ẩn hiện sau lá cờ đó. Và năm nào cũng thế, tôi đều thề với trời đất rằng sẽ dùng hết quãng đời còn lại của mình để phụng sự tổ quốc. Tôi biết bây giờ mình đã già, thêm nợ thê nhi chồng chất, ắt khó mà cầm súng được. Nhưng tôi còn ngòi bút, còn lá phiếu để đi bầu, còn nhiều... tài vặt, và quan trọng hơn cả, tôi còn một ý chí sắt đá trong lòng mình.


Người ta bảo là chúng ta đã thua giặc không phải trên chiến trường ở Việt Nam mà tại Hoa Thịnh Đốn, vậy thì, với một triệu người Việt Nam di tản ở đây, tại sao chúng ta sẽ không thắng được chúng cũng ngay tại Hoa Thịnh Đốn này?

Để kết luận, tôi xin viết lại một đoạn trong bài diễn văn của Thủ tướng Winston Churchill đọc trước quốc hội Anh ngày 4 tháng 6 năm 1940, sau cuộc rút lui thảm bại và ô chục của quân đội Anh tại bờ biền Dunkirk. Trong những ngày lịch sử tăm tối đó, thật tăm tối và tràn đầy tủi nhục như chúng ta bây giờ, con sư tử lừng danh của Anh Quốc đã rống lên thảm thiết với hàng nước mắt chảy dài trên má như sau:

“We shall go on to the end. We shall fight on the seas and oceans... We shall defend our country, whatever the cost may be. We shall fight on the beaches, we shall fight on the landing ground, whe shall fight in the fields and in the streets, we shall fight in the hills; we shall not surrender. We shall never surrender...”

Hôm nay, trong những ngày tăm tối u buồn của quê hương Việt Nam, hỡi những người Việt Nam lưu lạc, xin hãy cùng tôi nói với lòng mình như thế và xin hãy giữ vững niềm tin...

Trường Sơn Lê Xuân Nhị Thân mến tặng các chiến sĩ Lôi Hổ của Chiến Đoàn III Xung Kích Nha Kỹ Thuật, để cùng nhau tưởng nhớ đến một buổi chiều Tây Nguyên rực nắng quê mình...


Trường Sơn Lê Xuân Nhị

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Nhìn lại một góc của chiến trường xưa…

Image
Lam Hà .

Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ Viên Tưởng Ngô Quang Truởng.

Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH.


Ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu cuả tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng -Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.

Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Trà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.

Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng đã đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).

Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã chiến đấu như thế nào.

Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)

Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã bị phớt lờ.

Chúng tôi, những người đã tận tình phục vụ quê hương xứ sở, quên cả thân mình, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đã làm hết khả năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn lòng khi bị đánh giá sai sự thật.

Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì có nhiều người đã ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu trăm cay nghìn đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.

Trong lúc đó những ngưòi bạn cũ cũng như quân thù đã tìm cách bôi nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản bội đồng minh.

Ba câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng xin được nói lên để mọi người cùng biết:

1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đã theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.


2. Tương quan lực lượng đôi bên.

2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:

Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm :

– Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,

– Một Trung đoàn chiến xa,

– Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.

Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.

– Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ An Hòa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà Nẵng.

Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.

Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế (giáo sư trường Phan chu Trinh và là một người cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo như lòng chảo Điện Biên Phủ.

Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như:

– Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?

Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên vì QĐ II đã mất trước rồi.


2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:

– Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (vì Lữ Đoàn 147 xem như đã xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).

– Không Quân thì tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu.

– Pháo binh còn vài khẩu.

– Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.

– Sư Đoàn Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.

Quân thất trận đi tìm gia đình, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. Bình thường Đà Nẵng chỉ có khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh Cộng Sản..

Đến đây thì Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đã thấy được quân số tham chiến đôi bên.

Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:

– Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.

– Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc Chí.

Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền thì tan tác vì không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lãnh công tác đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được.

Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong hổn loạn để lo đi tìm gia đình nên không còn kiểm soát được.

Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ Đoàn đã chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.

Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã mất.

Tình hình phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém gì Huế.
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của Việt cộng.

Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.

Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.

Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia đình. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư Lệnh còn làm việc còn tất cả phòng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.

Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Hòa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị Việt cộng chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn TQLC mà thôi.

Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy chúng ta tử thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và việc gì sẽ xãy ra.?

Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.

Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3:

Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn phòng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra trấn ải địa đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi Việt cộng ồ ạt tràn qua vùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta. Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?

Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng cuả họ gồm:

– Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ

– Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.

– Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,

– Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.

Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản 1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.

Hoả lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị Việt cộng rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy không thì anh ta trả lời rằng không phải vậy – Chúng tôi ít sợ các anh vì các anh bắn ít hơn nhiều, còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui Việt cộng mấy tháng trời.

Đám quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống gì một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3?

Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, thì Sư Đòan / TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đã bị hi sinh ngăn chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.

Tổng Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút, thì rút được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.

Lữ Đoàn I Dù còn lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến. Sư Đoàn /TQLC cũng vậy;

Phải làm sao rút được về Sài Gòn.

Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng 3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.

Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá Hoa trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo toàn lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đã bị làm con chốt thí.

Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung Hoa ồ ạt tấn công thì quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui . Sư Đoàn nầy đã chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng.

Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn gíúp đỡ, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đã phải tứ bề thọ địch.

Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn ( Sư Đoàn 3) đã chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngã. Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đã nằm xuồng, hoặc đang quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà!


Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:

Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không nhớ tên.

Tôi đi lòng vòng để tìm một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không tìm được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu thì những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.

Tôi gặp Thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T Trưởng, và ông la to:

“Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”

Ông hỏi: “Mầy có đi thì lên đi với tao.”

“Không,” tôi trả lời

“Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”

“không, tao không có.”

“Mầy có đi không?” Ông lại hỏi

“Không, tôi còn phải lo cho Tr/T Trưởng” tôi trả lời.

Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.

https://bienxua.files.wordpress.com/202 ... .png?w=580

Tôi trở lại tìm TR/T Trưởng thì thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đã nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên thì Th/T Phương kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba chúng tôi dìu ông lội ra tàu.

Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị chìm lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu thì lên được tàu.

Sau khi lên đến nơi thì TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài vì một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần vì quá mệt.

Theo Trung Uý Bình, Hạm Phó LST 404, thì Tr/T Trưởng đã nói trong lúc mê sảng:
“Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm gì?”

“Làm như vậy thì làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”

Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng thì chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu “phải tái chiếm ĐN”.

“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”

Tr/T Trưởng nói một mình và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và TQLC xuôi Nam.

Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh, mỗi bữa hai người chia nhau nửa muỗng cơm và nửa muỗng nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến thì nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái tiếp tế.

Về đến Saì Gòn thì Tr/T Trưởng đã kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đã khóc khi tôi đứng bên giường bệnh cuả ông, và ông đã than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi với Hòa mới vào được tới đây.”

Còn nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuận tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến “Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế” là không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ hôi hột vì sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, thì không thể nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống Thiệu thì có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng minh điều này.

Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng còn gì cả. TT. Thiệu đã ra đi, Đại Tướng Viên đã ra đi, vị tướng tài ba và đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của lòng tôi kính mến cũng đã ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đã ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần theo năm tháng… Nếu có còn chăng là đôi dòng lịch sử vậy xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ngòi bút vì bất cứ lý do nào.

“Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.” Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả mình thì xin nêu rõ xuất xứ (foot notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cứ.

Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã làm buồn lòng những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng tôi đã từ bỏ tất cả kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình cho tổ quốc, cho quân đội và cho lý tưởng.

Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến đã bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài Gòn trong lúc còn 100,000 quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.

Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn còn sống sót sau biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đã thấy, đã nghe và đã chịu đựng những điều đã xảy ra vì vậy tôi phải nói cho những người không còn nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.

Lam Hà

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by VuPhong »

Image

Hãy Vinh Danh Người Lính Việt Nam Cộng Hoà
Nguyễn thị Thảo An

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu.

Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam .

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau , Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.



Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.

Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.

Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.

Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.

Nguyễn thị Thảo An

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nguyenthanh »

Dư âm bài hát ngày xưa (giữa trời đất bao la)

Phạm Tín An Ninh

Định cư ở Nauy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới bảy ngàn cây số, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.

Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống đầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa Bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Hamburg, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa tulip, với những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.


Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng đến Pháp. Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân.

Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Địa Trung Hải, gần thành phố Cannes, nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố ” lệnh hành quân”. Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế.

Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ “tuyến xuất phát”, tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đường tắt này. Bởi chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người. Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt, vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt Nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô-lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chặp, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mơí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh “đóng quân tại vị trí” vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi. Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu :

– Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không ?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu :

– Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.

– Các anh ở tỉnh nào tới ?

– Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.

Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính. Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe.

Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng mười phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chặp sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon.

Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng.

Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

– Các anh là người Việt nam ? anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.

– Nhưng làm sao anh biết được vì ở Bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn, người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

– Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt Nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam, chúng tôi có cảm giác như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam toả ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia. Khi đọc đến tên người mẹ: JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER – tôi bỗng giật mình. Cái tên này tôi thấy quen quen. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? – Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài Gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được toà đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài Gòn, Đà Lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.


Vừa gốc nhà quê, tiền bạc thiếu thốn, tôi ngại, nên chỉ thỉnh thoảng mới nhận lời tháp tùng ông anh. Đi chơi với nhóm được một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài Gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi, và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc lọai nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, bất chợt nhớ đến nàng, tôi mở xách tay ra tìm tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi “À toi, avec tout mon coeur.” Phía dưới cô cũng chỉ ký là Sylvie Vartan, cái tên mà bọn tôi đặt để thường gọi đùa với cô.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình : Đúng là lãng mạn như Tây.

Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng ba mươi cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buông súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người Thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do tổng thống Ngô đình Diệm sáng lập vừa để thu hút di dân sau 1954, vừa là một trọng điểm chiến lược.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vả và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học, và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì. Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi, thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. “Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh”. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội “solo” xuống núi biệt phái cho Tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên quốc lộ 20, từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt, vừa bị VC giựt sập hai đêm trước.

Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yểm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại.

Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối họp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. “Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sàigon lên”. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra

– À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ?

Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát: cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :

– Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie

– Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia. -Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền -. Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chỗ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế:

– Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.

Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt, như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối.

Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bữa cơm chiều với ông. Bữa cơm đầy đủ hương vị tây, mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bữa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà.

Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng, nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng: muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bãi cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông

– Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối

– Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

– Lúc học Littérature Francaise, anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động.

Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết.

Nàng cất tiếng khe khẽ hát bài thơ Les Feuilles Mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu :

Mais la vie sépare ceux qui s’aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et “le vent” efface sur la “plaine”
Les pas des amants désunis.

Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt.

Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ laị mẹ và hai chị em nàng.“Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ?” mấy lần nàng hỏi tôi như thế.

Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây.

Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân tiểu khu Lâm Đồng gặp ông tiểu khu trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của Tiểu Khu biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông tiểu khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó.

Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cởi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya. Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thuởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác.


Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng.

Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine De Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt.: “Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Rồi có lúc nào đó và ở một nơi nào đó, mình sẽ gặp lại nhau. Hôn anh.”

Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẫn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng.

Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la.

Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống.

Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng.

Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng : Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silencieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sài Gòn. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đội tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải toả mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ : Jacqueline, màu vàng. Mấy chú lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giả vờ : tại vì tao ái mộ bà vợ của tổng thống Kennedy.

******

Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bữa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l’entendrai. !

( Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe
Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây!)

phạmtínanninh
(Mùa hè 1988)

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

‘Hổ Xám’ Phạm Châu Tài và những giờ phút cuối ở Bộ Tổng Tham Mưu
Lâm Hoài Thạch/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Trong trận Mậu Thân, địch quân bị Quân Lực VNCH đánh bật ra khỏi thành phố Huế sau 28 ngày chiếm đóng. Đầu năm 1969, Trung Úy Phạm Châu Tài đảm trách chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và tiêu diệt, bắt sống một số tù binh Cộng Sản đang đóng tại Khe Sanh. Một thời gian sau, ông được thắng cấp đại úy.

Lúc đó, Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt có hai đơn vị thiện chiến nhất và lưu động, đó là Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Trung Tâm Hành Quân Delta.

Trong cuộc hành quân cuối cùng của Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ, Đại Đội 3 của 81 Biệt Cách Nhảy Dù do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy được lệnh nhảy qua Hạ Lào, nơi con sông Tchépone, bên Lào, cách biên giới Lào-Việt 5 cây số.


Trận cuối của Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ

Phi Đoàn 219 của Hoa Kỳ từ căn cứ Mai Lộc, Quảng Trị, bốc Đại Đội 3 của 81 Biệt Cách Dù cùng với bốn quân nhân Mỹ thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ nhảy xuống điểm thứ nhất đột ngột diệt một khẩu phòng không của địch. Khẩu đội phòng không của địch quân bị tiêu diệt, Đại Đội 3 lấy được một khẩu phòng không và nhiều thùng đạn, lính của “Hổ Xám” hai người hy sinh.
Image
Phạm Châu Tài thời học sinh. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Trong số bốn quân nhân Mỹ có Thượng Sĩ Voix đã từng tham chiến trận Triều Tiên, nên có nhiều kinh nghiệm chiến trường, ông chỉ huy ba quân nhân Mỹ. Nhiệm vụ của toán quân nhân Mỹ này là gọi máy bay của Không Kỵ Hoa Kỳ yểm trợ cho Đại Đội 3 đang tham chiến. Hai xác của chiến sĩ Đại Đội 3 đã hy sinh và chiến lợi phẩm được Thượng Sĩ Voix gọi trực trăng đến mang về hậu cứ của Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù.

Sau đó, Đại Đội 3 của “Hổ Xám” tiếp tục sang ngọn đồi thứ hai để đánh một khẩu đội phòng không của địch nữa. Đang chuyển quân thì Thượng Sĩ Voix cho biết tin từ phi cơ thám sát của Mỹ là có khoảng 100 quân Cộng Sản từ phía Nam tiến đến đơn vị của “Hổ Xám.” Thượng Sĩ Voix cho biết là sẽ có phi cơ từ hạm đội Hoa Kỳ ngoài biển bay vào để đánh đoàn quân của Cộng Sản đang tiến quân đến đơn vị của Đại Đội 3 đang hành quân, chỉ chờ lệnh của “Hổ Xám” có đánh hay không? Phạm Châu Tài đồng ý, thì khoảng 10 phút sau, hai chiếc phản lực F5 bay vào mục tiêu dội bom tại điểm của địch đang di chuyển. Tiếp đó, thêm bốn chiếc phản lực nữa cũng đến dội bom vào đoàn quân này. Địch quân bị tiêu diệt hoàn toàn. Khi quân của Đại Đội 3 xuống lục soát thì không lấy được chiến lợi phẩm nào cả vì súng và người đã bị cháy rụi.


Sau đó, Đại Đội 3 mới tiến về mục tiêu hai trên đồi có khẩu phòng không thứ hai. Khi đến nửa chân đồi thì “Hổ Xám” lệnh cho Thiếu Úy Đặng Đình Hoàng mang một trung đội lên đỉnh đồi kiểm soát. Đến mục tiêu, Thiếu Úy Hoàng mới trình “Hổ Xám” là mục tiêu an toàn vì Cộng Quân đã bỏ chạy hết, quân ta lấy được một khẩu phòng không và nhiều thùng đạn. Phạm Châu Tài lệnh cho đơn vị nghỉ mệt, vì đã đánh từ sáng sớm cho đến hơn 12 giờ trưa.

Đang nghỉ mệt, từ phía Đông, một chiếc trực thăng “nòng nọc” quan sát của Mỹ bay đến điểm của “Hổ Xám” vừa chiếm khẩu phòng không thứ hai của địch, chiếc trực thăng này bắn hai trái khói màu trắng xuống điểm của Đại Đội 3.
Image
Đại Tá Lê Đức Đạt, tư lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, gắn huy chương cho ba Đại Úy Đào Minh Hùng (giữa), Nguyễn Sơn (phải) và Phạm Châu Tài (trái). (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Linh tính cho biết, “Hổ Xám” liền nhảy xuống hố. Hai phút sau, hai chiếc Cobra trực thăng Mỹ xuất hiện bắn đại liên và đạn rocket vào nơi đơn vị của “Hổ Xám,” một quả đạn nổ ra trên 1,000 cái đinh. Lính của “Hổ Xám” hơn 20 người bị trúng đinh. “Hổ Xám” liền tung ra hai trái khói màu vàng để cho trực thăng của Mỹ biết là đã bắn lầm vào quân ta, vì khói vàng là quân của VNCH. Khói trắng là địch.

Trực thăng thám sát của Mỹ đã hiểu lầm tưởng là quân của “Hổ Xám” là Cộng Sản vì họ phát hiện có khẩu phòng không của địch để lại. Mừng chiến thắng chưa hết, thì sự kiện đau lòng đã đến, Thiếu Úy Hoàng, Thượng Sĩ Voix và một lính truyền tin của “Hổ Xám” tử trận.


Quân của “Hổ Xám” vẫn tiếp tục đi đến mục tiêu thứ ba, nhưng khoảng chừng nửa tiếng sau thì có chiếc trực thăng của tiểu đoàn trưởng bay trên không và cho “Hổ Xám” biết là, lệnh của Trung Tá Huấn, chỉ huy trưởng hành quân Delta, bảo Đại Đội 3 chuẩn bị triệt xuất (rút quân). Gần một tiếng sau thì 16 chiếc trực thăng xuống bốc “Hổ Xám” và Đại Đội 3 về hậu cứ.

Trận chiến này cũng là trận cuối cùng của Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Hoa Kỳ tại chiến trường miền Nam. Từ năm 1969 cho đến khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán vào Tháng Tám, 1970, “Hổ Xám” đã tham dự 10 cuộc hành quân Delta, từ cuộc hành quân Delta 41 đến cuộc hành quân cuối cùng là Delta 51, và ông cũng được thăng cấp đại úy trước đó.

Sau đó, các chiến sĩ “Dân Sự Chiến Đấu” của Lực Lượng Đặc Biệt được đưa về những đơn vị của Biệt Động Quân Biên Phòng. Một số chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt được đưa về nhiều binh chủng khác như Nha Kỹ Thuật, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến… Riêng Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù hợp lại trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, trực thuộc Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, và đã tham chiến nhiều mặt trận tại bốn vùng chiến thuật.
Image
Đại Úy Phạm Châu Tài (giữa) chuẩn bị vào mật khu An Lão. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Cuối năm 1971, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được di chuyển về Kon Tum. Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Đại Tá Lê Đức Đạt là tư lệnh đang hành quân ở Tân Cảnh. Phía Tây Tân Cảnh là vùng dãy Trường Sơn rất dài từ bên Lào xuyên qua Việt Nam, có những cứ điểm Alpha, Delta, Charlie.

Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhảy vào đồi Charlie chỉ hai đại đội gồm Đại Đội 3, “Hổ Xám” đại đội trưởng, Đại Đội 4 do Đại Úy Đào Minh Hùng làm đại đội trưởng. Hai đại đội này vào khu vực này để quan sát con đường từ dãy Trường Sơn xuống đến Kon Tum. Họ khám phá ra một căn cứ do Trung Đoàn Công Binh của Bắc Việt thành lập cho địch quân vào làm hậu cứ hành quân để xâm nhập vào Kon Tum.


Sau đó, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 mới yêu cầu Đại Tá Phạm Văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù ra lệnh cho “Hổ Xám” hướng dẫn công binh VNCH tiêu hủy căn cứ của địch quân đóng dưới đồi Charlie. Và cũng ngọn đồi này, sau này Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tử trận tại đây.

Trận chiến An Lộc bùng nổ vào Tháng Ba, 1972. Cộng Quân đưa Sư Đoàn Công Trường 7 cắt đứt Quốc Lộ 13, chạy dài từ Lai Khê, An Lộc, đến Lộc Ninh để đánh tỉnh lỵ Bình Long. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang đóng quân tại phía Tây của biên giới Việt-Miên được lệnh về Tây Ninh đóng quân ở Trảng Lớn. Trong lúc này, Cộng Quân đã bao vây An Lộc.

Ngày 13 Tháng Tư, 1972, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù nhảy vào An Lộc. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh vào Lai Khê để chờ vào An Lộc. Binh Chủng Nhảy Dù gồm ba tiểu đoàn 5, 6 và 8 đang bao vây An Lộc và tạo một khoảng trống cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù nhảy vào vòng chiến.

Ngày 16 Tháng Tư, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù với quân số tổng cộng 916, và chỉ có 550 quân tiến vào An Lộc.

Đặt chân vào An Lộc ngày 17 Tháng Tư và đã bắt tay với Tướng Lê Văn Hưng. Đến 9 giờ tối, 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh đột ngột ban đêm bằng lựu đạn và lưỡi lê vào địch quân đang bao vây An Lộc. Bị đánh bất ngờ, Cộng Quân bị tiêu diệt nặng, số còn lại từ An Lộc chạy về hướng Bắc. Lúc đó, trên đồi Đồng Long địch quân mới pháo kích xuống, vì không đủ quân của các đơn vị bạn vào án ngữ những điểm của 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh xong nên bị địch phản công. Sau đó quân của “Hổ Xám” mới rút về chi khu Chợ Mới của Bình Long, có hai khẩu Pháo Binh 105 ly của Sư Đoàn 5 bắn trực xạ vào các chiến xa của địch đang tiến vào Bình Long.
Image
Cựu Thiếu Tá Phạm Châu Tài tại Hoa Kỳ. (Hình: Phạm Châu Tài cung cấp)

Đi tù và vượt biển

Ngày 29 Tháng Năm, 1972, “Hổ Xám” được đặc cách lên thiếu tá tại chiến trường An Lộc. Ngày 10 Tháng Sáu, 1972, “Hổ Xám” đụng với địch quân thêm một trận lớn nữa, thì Cộng Quân bị đẩy lui. Ngày 12 Tháng Sáu, 1972, 81 Biệt Cách Nhảy Dù cấm cờ vàng trên ngọn đồi Đồng Long. Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố chiến thắng An Lộc. Ngày 24 Tháng Sáu, 1972, Liên Đoàn Biệt Kích 81 rời khỏi An Lộc.

Chỉ hai ngày sau, Bộ Tổng Tham Mưu mới ra lệnh Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù ra tham chiến mặt trận Quảng Trị. “Hổ Xám” phải chỉ huy bốn đại đội để tham chiến trận Quảng Trị dưới quyền đều động của Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù để đánh chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đóng quân tại trại An Dương Dương, vượt sông Mỹ Chánh qua Đại Lộ Kinh Hoàng đạp trên xác người, đi chung với Tiểu Đoàn 5 và 11 Nhảy Dù đánh Cộng Quân đang chiếm cổ thành rất nhiều trận. Sau đó, Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến vào thế Liên 2 Nhảy Dù, tham chiến trận đánh tiếp tục tại cổ thành Quảng Trị.


Tháng Mười, 1972, “Hổ Xám” được lệnh về Sài Gòn để học ba tháng khóa Bộ Binh Cao Cấp. Mãn khóa, Phạm Châu Tài về làm phụ tá của liên đoàn trưởng đóng quân tại Tây Ninh và tham chiến nhiều trận ở Trảng Bàng, Bình Dương, Lái Thiêu, Trị Tâm, Phước Long.

Sau đó, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù có Chiến Đoàn 1 và 2 đóng quân ở Biên Hòa, và Chiến Đoàn 3 đóng quân ở Tây Ninh.

“Hổ Xám” được lệnh đưa Chiến Đoàn 3 về trấn thủ Bộ Tổng Tham Mưu vì nơi này không còn quân trừ bị để bảo vệ.

Chiến Đoàn 3 về đến Sài Gòn vào chiều 26 Tháng Tư, 1975. Ông vào trình diện Bộ Tổng Tham Mưu thì vẫn còn rất nhiều sĩ quan đang ở đây, Đại Tướng Cao Văn Viên, tham mưu trưởng, vẫn còn đang làm việc.

“Hổ Xám” lệnh cho 1,000 quân của ông tung ra bên ngoài vòng đai của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ngày 28 Tháng Tư, 1975. Đại Tướng Cao Văn Viên đã rời khỏi Bộ Tổng Tham Mưu. Nghe tin, “Hổ Xám” mới vào Bộ Tổng Tham Mưu thì ông thấy mọi người như là đàn ong vỡ tổ, xe cộ chạy tán loạn. Lúc đó, ông mới gọi về Đại Tá Phan Văn Huấn là chỉ huy trưởng của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang đóng quân ở Biên Hòa để báo cáo tình hình tại Bộ Tổng Tham Mưu. Lệnh Đại Tá Huấn cho Chiến Đoàn 3 của 81 Biệt Cách Nhảy Dù trấn thủ Bộ Tổng Tham Mưu.
Image
“Hổ Xám” Phạm Châu Tài tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Tối 29 Tháng Tư, Đại Tá Trần Văn Thăng, cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, được lệnh điều về thay thế cho Đại Tá Tòng. Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Tướng Lý Bá Hỷ cùng với nhiều sĩ quan nữa cũng còn ở trong Bộ Tổng Tham Mưu.

Trung Tướng Nguyễn Hữu Có cho biết bây giờ ông ta là quyền Tổng Tham Mưu Phó, có phụ tá là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Tướng Có vỗ vai Thiếu Tá Tài nói: “Em ráng giữ Bộ Tổng Tham Mưu đêm nay nữa thôi. Ngày mai không còn đánh nhau nữa, vì mình có giải pháp.”


Đến sáng hôm sau, tức là ngày 30 Tháng Tư, bắt đầu 6 giờ sáng thì Cộng Sản pháo dữ dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Sau đó, quân Cộng Sản Bắc Việt từ Củ Chi theo Quốc Lộ 1 tiến vào Sài Gòn. Khoảng hơn 9 giờ sáng thì bộ đội Cộng Sản đụng độ với đơn vị 81 Biệt Cách Nhảy Dù tại Ngã Ba Bà Quẹo, Ngã Tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả,…

Thiếu Tá Tài kể: “Khi gặp Việt Cộng tiến vào thành phố thì chúng tôi nổ súng liền, vì chúng tôi đang chờ chúng nó đến. Lúc đó hai chiếc xe tăng của Cộng Quân đi trước tại Ngã Tư Bảy Hiền thì bị chúng tôi khai hỏa và đã bị quân Biệt Cách Dù đánh gục, và đoàn xe đưa quân Cộng Sản bằng những chiếc Molotova, GMC đã bị chúng tôi cũng đánh gục gần 10 chiếc.”

“Trong lúc này, từ Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho quân đội VNCH ngừng bắn, thì chúng tôi ngưng bắn. Nhưng quân Cộng Sản lại tiếp tục vô nữa, gặp chúng nó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu, tổng cộng có sáu chiếc xe tăng T 54 của chúng bị chúng tôi đánh gục. Tôi thấy tình hình này không được ổn vì lệnh của cấp trên cứ bảo mình phải ngưng nổ súng mà quân Cộng Sản vẫn tràn vào, nên tôi mới vào Bộ Tổng Tham Mưu đến phòng chỉ huy của Đại Tướng Cao Văn Viên,” ông kể.

“Lúc đó, không có một vị tướng nào còn ở đây nữa. Tại phòng làm việc của Tư Lệnh Tổng Tham Mưu thì có rất nhiều điện thoại để tư lệnh làm việc và cũng có để tên của từng đơn vị trên mỗi điện thoại. Tôi mới dùng điện thoại màu đỏ để gọi về Phủ Tổng Thống, cũng may là tôi vẫn còn liên lạc được với họ. Tôi nghe bên đường dây của Phủ Tổng Thống lên tiếng: ‘Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tôi nghe. Ai ở đầu dây đó,’ thì tôi mới trả lời tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy trưởng Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông ta hỏi tiếp: ‘Có gì không?’ Tôi mới nói: ‘Tôi muốn nói chuyện với một giới chức cao cấp nhất của Quân Lực VNCH là tổng thống,’ bởi vì tại Bộ Tổng Tham Mưu các tướng lãnh đã chạy hết rồi,” ông kể tiếp.

Sau đó Tướng Dương Văn Minh nói với “Hổ Xám” rằng: “Các em chuẩn bị bàn giao đi.”

Đó là lời nói cuối cùng của Tướng Dương Văn Minh nói với “Hổ Xám.” Vài tiếng sau, Đại Tướng Dương Văn Minh trên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng giặc.

Sau mặt trận cuối cùng để bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu. Thiếu Tá Phạm Châu Tài bị Cộng Sản cầm tù 10 năm tại Bắc Việt. Sau khi ra tù thì ông đi vượt biên bằng đường biển liền chớ không phải chờ được định cư tại Hoa Kỳ bằng chương trình H.O. (Lâm Hoài Thạch)

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by bichphuong »

Image

Đại Đội 3-Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (LLĐB)
Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan)

Đầu Xuân vẫn tay súng
Giầy nhà binh bết bùn
Nhìn én lượn không trung
Ngày Xuân ngàn mai nở
Thôn xóm pháo đì đùng
Chiếc xe Jeep láng coóng của Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt chở chúng tôi, ba tân Thiếu Uý khoá 22 Võ Bị Đà Lạt vừa đậu lại bên trước bậc tam cấp của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 91Biệt Cách Dù (BCH 91 BCND) thì đã có vị Sĩ Quan của đơn vị đứng chờ sẵn đón chúng tôi với tay bắt, mặt mừng thân thiện và tự giới thiệu:

– Tôi là Đại Úy Nguyễn Quang Vinh Tiểu Đoàn Phó, khóa 14 Đà Lạt, các Anh vào đây, Thiếu Tá đang chờ…!!!

Chúng tôi bước vào văn phòng làm việc của vị Tiểu Đoàn Trưởng, văn phòng rất đơn sơ, phía sau bàn làm việc là cây cờ của Binh Chủng LLĐBVN và hiệu kỳ TĐ91BCND, với năm ba ghế sắt kê sát hai bên tường. Ba chúng tôi đồng loạt chào tay và đứng thẳng người, cằm gập ba ngấn đúng quân cách… Ông đứng lên, tay xếp lại hồ sơ quân bạ của chúng tôi đang có sẵn trước mặt, đi vòng qua bàn làm việc nghiêm nghị chào lại chúng tôi và nói:

– Thôi, bỏ tay xuống đi, ngồi xuống đây… ngồi xuống. Các anh Khóa 22 hả? Tên tôi là Lê Như Tú, Khóa 11Đà Lạt, còn đây là anh Vinh, Khóa 14 Đà Lạt. Chúng Tôi rất vui mừng khi nhận công điện của Bộ Tư Lệnh báo cho biết các anh sẽ được bổ nhiệm về đơn vị nầy, mặc dù đích thân tôi đã xin trước 6 người nhưng chỉ được có 3…! Thôi như vậy cũng mừng lắm rồi…!!! Hôm nay là ngày 22 Tết, đơn vị đang nghỉ dưỡng quân và tôi được biết chắc chắn là chúng ta sẽ được ăn Tết ở hậu cứ…Vì lệnh ngưng bắn sẽ có hiệu lực từ 12:00 giờ trưa ngày 30 Tết cho đến 12:00 trưa ngày mùng 3 Tết. Ông vẫn ngồi bên cạnh chúng tôi trên cái ghế sắt cũ kỹ rỉ sét, Ông nửa như tâm sự, nửa như trình bày một số vấn đề liên quan tới đơn vị, rồi dẫn chúng tôi qua các phòng bên cạnh giới thiệu các Ban của Bộ CHTĐ, đi một vòng doanh trại chỉ dẫn… đây là ĐĐ3, ĐĐ4, ĐĐ5, và ĐĐ6 đang thành lập, còn ĐĐ1, ĐĐ2 thì ở bên trại Nguyễn Văn Tân (trại Đằng Vân cũ) cùng với TTHLHQDelta….

Kết thúc hai chiếc xe jeep của ĐĐ1 và ĐĐ2 đưa 2 tân Thiếu Úy: Đặng Thiện Chẩn và Huỳnh KimTiễn về đơn vị, còn tôi được chỉ định theo Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu trình diện Trung Úy Trần Hoạt Thành (ĐĐT-ĐĐ3) ở doanh trại nằm sát bên cạnh Bộ CHTĐ đối diện cuối phi đạo phi trường Nha-Trang. Giữa tôi và anh Nguyễn Đăng Lâu (K/21 ĐL) chẳng xa lạ gì, khi còn ở trong trường Võ Bị Đà Lạt, anh là SVSQ Cán Bộ Ban 5 của LĐ và cũng là Trưởng Ban Phát Thanh của trường. Tôi cảm thấy hân hoan vui thích vì mới vừa ra trường, được về đơn vị có nhiều đàn anh “Niên Trưởng” chăm lo rồi…! Vì hơn ai hết, chúng tôi hiểu và biết thế nào là tình đồng môn xuất thân từ một trường mẹ (VBĐL). Sau khi trình diện TR/U Thành (Khoá 11TĐ), anh Lâu dẫn tôi xuống doanh trại, giới thiệu các Sĩ Quan Trung Đội Trưởng,… Thiếu Úy Dương Thiên Ngô, La Lưu Ý, Nguyễn Anh Phong, Nguyễn Khóat Hải, Đinh Văn Tiến Hùng, Đặng Văn Nam,… rồi tới các Hạ Sĩ Quan mà anh Lâu kề tai nói nhỏ với tôi: “… đây là mấy ông thần nước mặn bán trời không mời thiên lôi…” Ba Bứng, Thạch Sương, Thạch Ri, Kim Sua, Kim Chơi,… Buổi chiều cùng ngày, Thượng Sĩ Mười (thường vụ) mời tôi ra nhà trại gia binh nằm phía sau BCH, ăn bữa cơm tối với những đồng đội tác chiến đầu tiên trong đời binh nghiệp của tôi… với những “Ông Thần” vừa kể trên “chơi” hết 2 chai Black and White và mấy dĩa lòng heo chấm mắm tôm…!!! Tôi quắc cần câu, gần như “bất tri hà sự”, Ba Bứng, Thạch Sương cõng tôi về doanh trại nửa đêm về sáng. Ngày hôm sau, anh Lâu hỏi:

– Hôm qua có vui với tụi nó không

– Dạ vui…!!! Nhưng suýt bỏ mạng…!

– Anh bị tụi nó thử lửa đó, nhập gia tùy tục, nhưng phải nhớ nhập giang phải tùy khúc, vì vậy cái ĐĐ nầy mang tiếng là “Quậy” nhất của TĐ và cũng mang tên là ĐĐ bị đày đó. Sáng nay Tr/U Thành và Tôi được báo cáo đầy đủ bữa tiệc lòng heo đêm hôm qua, tụi tôi vui lắm cứ cười ha hả và yên tâm với cái phong cách “giang hồ hảo hán” của anh có thể khắc phục tụi nó dễ dàng…Vì trước đây có nhiều SQ chịu không nổi phải xin thuyên chuyển đi nơi khác vì bị chê là cù lần, hách dịch mà lại nhát như thỏ, thượng đội hạ đạp…!!! À… thì ra là thế! … vô tình tôi đã có một “anh dũng bội tửu “ được mấy “ông thần” lãng tử biên thuỳ khoái tỷ so cựa đàn anh “Sĩ Quan Sữa” đêm hôm qua có vẻ “ngầu” chơi được…và “tương kính như tân” nên hai “Ông” Hạ Sĩ Nhất tình nguyện đưa lưng cõng “Quan” về trại…!!!

Theo lệnh ngưng bắn, đơn vị được xả trại đón giao thừa Tết Mậu Thân. Anh Lâu rủ tôi về nhà anh ăn bữa cơm cuối năm với gia đình, Ông Bà Cụ thân sinh và cô em gái, hình như có mặt của Đinh Văn Tiến Hùng, sau bữa cơm, anh cho tôi mượn chiếc xe Vespa của anh rong chơi thành phố… Tôi chẳng có thân nhân, chẳng có bạn bè thân thích, về lại doanh trại thì chỉ loe ngoe chục binh sĩ độc thân đấu láo, tôi ghé cư xá Tổng Hành Dinh tán gẫu với mấy cô Nữ Trợ Tá Xã Hội của BTL, hầu hết họ đã được đi phép vể gia đình ăn Tết vui Xuân, chỉ có Trung Sĩ Ngô Túy Lan còn ở lại đơn vị, cô yêu cầu tôi chở ra Chợ Đầm mua ít hoa quả về đón giao thừa, chợ chiều ba mươi Tết vắng tanh, nhưng lùng sục một lúc cũng kiếm được một bó hoa mẫu đơn và trái dưa hấu, vài hộp mứt cho có lệ. Hai tâm hồn cô đơn “xa quê hương nhớ Mẹ hiền”, đốt vài nén nhang, ngồi trước mái hiên chờ tiếng pháo giao thừa trong tĩnh lặng không lời…! Tôi từ giã, định trở về trại, Cô nói:

– Thiếu Úy, nghĩ ở đây đi, nằm trên giường của chị Bé Tư nè (Bé Tư là Trưởng Phòng Xã Hội-BTL), ngày mai tôi nhờ Thiếu Úy chở đi Tháp Bà xin xâm…?
Tôi ngần ngừ không trả lời, vẫn ngồi yên trên cái ghế thấp trước hiên nhà, chợt nghĩ:”…năm nay dân Nha Trang ăn Tết lớn”…!!! mãi tới 2 giờ sáng mà tiếng pháo vẫn còn đì đùng khắp nơi…!!! Ở đây tôi và Lan cảm cảnh “Xuân Nầy Con Không Về” …! Chạnh tình Lan kéo chiếc ghế xích lại gần nhè nhẹ ngã đầu vào vai Tôi, ánh mắt đen huyền nhìn lên bầu trời khuya lơ lửng ánh sáng hỏa châu chiếu rọi và rồi tiếng động cơ L19 bay lượn vòng vòng thả trái sáng với tiếng loa phóng thanh từ trên không vọng xuống:


“Tất cả các quân nhân đồn trú thuộc Quân Trấn Nha Trang, bằng mọi phương tiện phải trình diện đơn vị ngay tức khắc, và cũng ngay lúc này lệnh giới nghiêm được ban hành toàn Thị Xã Nha Trang đến khi có lệnh mới “…

– Thiếu Úy chuyện gì vậy…?. Túy Lan hỏi Tôi.

– Tôi không biết…! Lệnh phải trở về trình diện ngay tức khắc, và cũng là lệnh giới nghiêm…Mình chờ chút nữa xem sao?

Loa phóng thanh từ chiếc L19 bay lượn quanh, vẫn lập đi lập lại nhiều lần cảnh giác… Nhưng tiếng pháo từ tứ phương đông tây nam bắc vẫn tiếp tục nổ đì đùng vang dội xen lẫn với tiếng súng Ak của VC nổ từng tràng… Thôi, như vậy là có biến rồi, từ cư xá này đến BTL chỉ khoảng chừng 500 mét…? Tôi bất chấp lệnh giới nghiêm nói với Túy Lan:

– Tôi phải đi ngay.

– Thiếu Úy chờ một chút?

Cô vội vả thay quần áo nhà binh, nhẩy lên sau chiếc Vespa, tôi nổ máy phóng vội về BTL.

Việt Cộng đã tấn công toàn thể Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa.Tình hình an ninh của Thị Xã đang đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp, ngay cả Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Tư Lệnh LLĐB, kiêm Quân Trấn Trưởng cũng chưa biết chắc chắn những gì đang xảy ra trong đêm Giao Thừa loạn lạc nầy, Ông chỉ biết VC đang bất thần tấn công Nha Trang…?! Tôi phải đợi đến 5 giờ sáng, một xe GMC đưa khoảng vài chục binh sĩ về lại TĐ91BCND, Thượng Sĩ Mười, thường vụ ĐĐ vừa nhảy xuống xe, chạy vội tới đôn đốc binh sĩ chuẩn bị tác chiến và đưa cho tôi cái áo giáp, khẩu súng Colt45 và cây Carbin M2 bá xếp với giọng nói không còn bình tỉnh như thường ngày và hốt hoảng:

– Thiếu Tá Tú TĐT, Trung Úy Tùng ĐĐT/ĐĐ4 đã tử trận, Trung Úy Thành ĐĐT của mình bị thương nặng, đã được đưa vào bệnh viện Nguyễn Huệ, Trung Úy Lâu vừa rời khỏi đây chừng nửaa giờ…! Thiếu Úy lên xe cùng với mấy anh em, đường Duy Tân còn an ninh, không nguy hiểm lắm, cứ chạy thẳng đến Dinh Tỉnh Trưởng Khánh Hòa thì gặp Trung Úy Lâu ở đó… Nhớ lời tôi dặn, tìm Ba Bứng, Thạch Sương, Kim Chơi và ở bên cạnh tụi nó…Thiếu Uý đừng nổi máu anh hùng rơm mà bỏ mạng…!


Tôi bàng hoàng và cảm động muốn rơi nước mắt! Suy nghĩ vừa mới tốt nghiệp Võ Bị với hành trang lý tưởng nào là: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm, Cư An – Tư Nguy, Tự Thắng để Chỉ Huy… mà hiện tại bây giờ đang đứng trước hoàn cảnh bất chợt phải “ba quân trong tay ta” xông lên tử chiến với quân thù “sinh Bắc tử Nam” với nhiều huyền thoại từ những “nhà” phóng viên, báo chí truyền thông Âu-Mỹ phản chiến, thân Cộng rêu rao thổi phồng chúng như đoàn quân thiện chiến nhất hành tinh nầy vậy …! Biết thế, nhưng tôi vẫn có nhiều bất an và hình như tôi đang quên đi hết những gì được thụ huấn trong quân trường…?! …hiện trạng tôi chỉ có vâng lời người Thượng Sĩ già lớn tuổi hơn mình, đã trải qua bao nhiêu năm chiến đấu trên khắp mặt trận, dầy dặn kinh nghiệm chiến trường … Bất chợt tôi choàng tay ôm TS Mười xiết thật chặc thân tình rồi lên xe, nhìn đồng hồ đang 6:30 giờ sáng ngày mùng một Tết, tôi dẫn quân lên đường và sau cùng cũng tìm đến được Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn, gặp anh Trung Uý Lâu ở phía sau bên cạnh bờ tường của Dinh Tỉnh Trưởng Nha Trang. Anh bảo tôi:

– Anh lách qua bên phải gặp Trung Đội 1 và 2 bên đó… hãy cẩn thận, chết và bị thương nhiều lắm rồi…! Bảo thằng HSN Bảo đưa cái máy PRC25 cho anh… Anh mang nó vào lưng và liên lạc trực tiếp với Tôi.

Tôi lom khom chạy sau bờ tường gặp ngay cái nhóm mắc dịch “lòng heo và Black and White” đang nốc rượu đế từ cái bi đông chuyền tay, Kim Chơi nhoài người đạp tôi một cái ngã nhào xuống đất, bên trái là hai chiếc thiết vận xa đang hụ máy sắp sửa ủi hàng rào tấn công vào Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận 5. Kim Chơi cười cười, Kim Sua nói:

– Cha nội, lúc này là phải bò, phải trườn, cứ tưởng đang đi dạo phố thì đi đời nhà ma đó cha nội…!!!

Hai chiếc thiết vận xa vượt hàng rào bắn phá…Òanh, Òanh,Òanh… rồi một chiếc bị lãnh một trái B40, cài số de, ủi sập bờ tường, cán lên cả BCH/TĐ, làm cho Đại Úy Nguyễn QuangVinh TĐP bị giập xương sống, phải tản thương khẩn cấp…! Trung Uý Lâu lòm còm bò lê, bò lết hồn phi phách tán… Oành, Oành, Oành… Tôi cảm thấy tay trái tê buốt, nhìn qua thấy máu tuôn xối xã cả cánh tay trái. Ba Bứng nóng mặt hét to: “ĐM chơi luôn “ hai tay ôm cây đại liên 30 không có càng nhào lên, “cái Bang” trại gia binh cùng nhào lên theo…. Ôi…! Nó tuyệt vời làm sao, như đang xem phim đổ bộ bờ biển Normandi: Tám chàng lính Miên, lính Nùng, lính Thượng… lom khom chạy nước rút bám được vào chân tường phía trước của Bộ Chỉ Huy TV5, Kim Chơi vói tay quăng trái lựu đạn lọt qua lỗ hổng của khung cửa sổ, trái thứ hai, trái thứ ba… Thạch Sương ngồi xuống làm điểm tựa để cho Kim Chơi nhảy đứng thẳng lên vai, Thạch Sương đứng dậy để cho Kim Chơi mượn đà nhẩy qua cửa sổ vào phòng, cứ thế 8 cảm tử quân yên hùng lao vào chiến trận cứ như “điếc không sợ súng “ xem “mạng sống nhẹ tựa lông gà” khinh địch như n’est ce pas dưới quyền chỉ huy của Trung Sĩ Nhất Nguyễn VănThành, trong chớp nhoáng 8 “ông thần bán trời” đã xâm nhập vào “hang ổ” VC như chỗ không người, tuyệt vời hơn phim ảnh Hollywood đang trình chiếu toán Navy Seal hay Delta Force của Mỹ đang thi hành công tác đặc nhiệm…!!! Trung Sĩ Nhất Tiên (y tá) đang băng bó vết thương ở cánh tay trái của tôi, thì Tr/U Lâu cũng vừa đang “bò” tới dưới hoả lực của cây thượng liên VC đang bắn nổ dòn dã trên những cửa sỗ lầu hai. Anh ra lệnh:

– Trung Sĩ Tiên, đưa Thiếu Úy Út ra phía sau và tản thương ngay.
Hai năm trong trường VBĐL, chúng tôi chỉ thực tập tác chiến trên chiến trận giả, bắn súng thật với đạn giả, chạm địch-bạn cũng giả… Nay mới về đơn vị chỉ vỏn vẹn có 5 ngày (thâm niên) chưa có chức vụ gì dù là Tiểu Đội Trưởng, ngơ… ngơ… ngáo… ngáo như Mán về thành, loay hoay không biết phải làm gì…trong khi những tay súng thiện chiến lỳ lợm cự phách, già dặn, tinh ranh trận mạc “đánh như chơi” như game of death, giỡn mặt với tử thần chung quanh mình “oánh giặc” như đang diễn tuồng xiếc…!!! Không cần đợi lệnh, những “Kinh Kha Việt” tân thời gan dạ thành thạo xông vào màng lưới đạn pháo bắn như rãi… thái độ ung dung hỗ trợ nhau, vai sát vai lìền lạc tấn bước bám từng góc nhà, bờ tường len lỏi thanh toán xoá sổ từng tổ, từng chốt … không một tiếng hô xung phong và cũng không cần phải chờ hiệu lệnh chỉ huy, họ biết tự giải quyết những tình huống sinh tử cho chính bản thân và nếu chẳng may ngã xuống tại trận tiền ví như thua một cây “phé”, lỡ một nhịp đời chịu đựng cơn đau xé trời xanh, hồn bay bổng theo tiếng súng như cợt đùa với nhân gian phùng thời khói lửa chiến chinh. Nhưng sau chiến trận nghiệt ngã vợ con, thân nhân của Tử Sĩ là cả một trời thực tế đau thương…!!!. Vâng, chính Họ là những Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thuộc Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù đã cùng tôi chén thù, chén tạc “nhậu” tới bến với “ông già chống gậy” Black and White chỉ mới vài ngày qua ở trại gia binh.

Thị Xã Nha Trang và các vùng lân cận đã được giải toả hoàn toàn trong khoảng thời gian hai ngày. Tôi nằm ở Bệnh Xá THD/LLĐB theo dõi tin tức hằng ngày và biết ở các Tỉnh, Thành khắp nơi cũng tình trạng tương tự như thế … và đặc biệt đến khó hiểu là toàn bộ lực lượng Quân Đội Mỹ trong những ngày đầu Chiến Trận Mậu Thân 1968 có lệnh án binh bất động không can thiệp, không chạm súng với VC, như đã có thoả uớc bí mật, nếu không nói là đã âm mưu, đồng loã hổ trợ ngầm cho VC lợi dụng tình trạng hưu chiến để tấn kích Quân Dân miền Nam ngõ hầu chiếm đoạt và tận diệt thể chế Tự Do Việt Nam Cộng Hoà…?! Tôi được xuất viện, trở về trình diện ĐĐ, Tr/U Lâu giờ là Quyền ĐĐT/ĐĐ3, Đại Úy Wòong A Si ĐĐT/ĐĐ4, Đại Úy Khánh Cao Bồi là Quyền TĐT.

Trong phòng thuyết trình hành quân, Tr/U Lâu ban lệnh:

– Bây giờ là 9 giờ, chúng ta chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa để ra phi trường, chuẩn bị 3 ngày ăn (Ration C), đi đâu và làm gì sẽ có lệnh sau, Th/u Út giữ chức vụ Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng kể từ giờ phút này… Thôi các Anh về lo cho Trung Đội đi.

Vì Quân Đội Mỹ chưa có lệnh tham chiến, cho nên chúng Tôi nhẩy bằng CH34 của Phi Đoàn 215 Không Quân Việt Nam đảm trách chuyển quân thả chúng tôi thâm nhập Mật Khu Đồng Bò nằm phía Bắc thành phố Nha Trang chừng chục cây số, xa nữa là khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn… Chúng tôi bố trí hành quân thần tốc tảo thanh truy lùng cán binh Vc từng khu vực mãi cho tới 3 ngày đêm chỉ chạm súng lẻ tẻ vô sự như đi cấm trại, chẳng có gì đáng kể… Nhưng tôi có dịp chỉ huy, tiếp xúc làm thân quen, biết thêm được Binh Lính của đơn vị và những biệt tài sở trường của mấy “ông thần” Black and White như: Kim Sua xử dụng súng cối bằng đầu gối, Ba Bứng, Thạch Sương xử dụng đại liên 30 không cần càng, Y Khương hai tay xử dụng Garant M1, phóng lựu một cách chính xác như thẩy lỗ (thời điểm này TĐ91BCND chưa được trang bị súng tự động M60, AR15, M16, M79)..!!!

Cuối tháng 2-1968, Trung Úy Huỳnh Văn Thanh thay thế Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu, Thiếu Tá Trần Phương Quế làm Tiểu Đoàn Trưởng. Trung Tâm Hành Quân Delta, TĐ 91BCND (chỉ có 3 ĐĐ1, ĐĐ3, ĐĐ5) được một phi đoàn trực thăng 281 không số, không cờ, không huy hiệu của Quân Đội Hoa Kỳ không vận ra Phú Bài, Huế, tham dự Hành Quân Delta 35, trong tình trạng thành phố Huế đang dần dần phục hồi sau hoang tàn đổ nát và Thành Nội, Kỳ Đài còn ghim đầy dấu đạn…Cuộc hành quân dã chiến tại Huế đã ổn định xong, 3 ĐĐ được phi đoàn 281 trực thăng vận, bốc thẳng vào ngay thung lũng Ashau, Alưới thả xuống hành quân tảo thanh truy kích địch tiếp tục… Tính ra kể từ ngày ra trường cho đến hôm nay, đây mới đúng nghĩa là cuộc hành quân của TĐ91BCND/LLĐB. Ngồi trên trực thăng UH1B, truớc sau đội hình bay là một hàng dài trực thăng nối tiếp nhau với tiếng động cơ và cánh quạt phành phạch xé gió lao vào vùng hành quân, tôi nôn nao thầm đếm không biết bao nhiêu chiếc nữa, bên hông trái phải là 4 chiếc Cobra Gunship trang bị hoả lực kinh hoàng oai dũng, uy vũ như thiên thần hung tợn bay lượn tới lượn lui mở đường, hộ tống bảo vệ đội hình và sẵn sàng phóng tối đa lưới đạn, hoả tiễn vào mục tiêu đối đầu… Bỗng dưng tôi nhớ đến bài hát Biệt Kinh Kỳ “giữa đoàn hùng binh có Tôi đi hàng đầu, trở về thủ đô nắm tay ta mừng vui…” và niềm kiêu hãnh vô hình đang dâng trào lên lồng ngực, tôi vỗ vai thân thiện Ba Bứng đang ôm chặt khẩu đại liên 30 không càng.Trực thăng đổ quân trên bãi đáp là một địa điểm hình yên ngựa thoai thoải, Gunship bay lượn quanh vùng để hỗ trợ, binh lính ĐĐ3 túa ra thành thạo tự sắp xếp đội hình tác chiến, từng bước, từng bước dọ dẫm tiến lên ngọn đồi trước mặt, ĐĐ1và ĐĐ5 được đổ xuống khoảng 15 phút sau đó. Vì là Trung Đội Trưởng súng nặng nên tôi đi bên cạnh Tr/U ĐĐT HVThanh, ba trung đội kia, một trung quân, một tả quân, một hữu quân… Bỗng Ầm…Ầm…Ầm, Oành…Oành…Oành… cây lá cành gẫy đổ ngã ập xuống trên đầu chúng tôi như cơn bão táp với sức cuồng phong bốc lửa…!!! Trung Úy Thanh ngã quỵ với đôi mắt trợn trừng, Y Tá Tiên nhào tới đỡ anh nằm xuống, lính quýnh mở hộp cứu thương, một viên đạn AK đã vào xé lồng ngực của anh Thanh, Kim Sua vất khẩu súng cối 60 ly nhào tới ôm tôi, cả hai ngã lăn cù trên mặt đất cùng lúc tôi nghe một tiếng nổ long trời trước mặt, tôi bị bứng văng xa, ngực trái của tôi ướt đẩm máu thấm ra ngoài cả áo giáp, Y Tá Tiên bò tới sờ ngực tôi, mắt tôi lờ đờ, anh bỗng òa khóc, tôi thiếp đi dần… dần không còn biết gì nữa…!

Thời gian qua đi không biết bao lâu…? Khi tỉnh dậy, tôi đang nằm ở Bệnh Viện 3 Dã Chiến của Hoa Kỳ Phú Bài, Huế, bác sĩ Mỹ chăm sóc cứu chữa và cho biết: Tôi lãnh trọn một trái Beta vào ngực, nhưng may nhờ cái áo giáp nên miểng không xuyên phá vào sâu được, bác sĩ đã gắp ra hết chỉ còn một mãnh nhỏ ở ngay bên ngực trái không nên mổ vì sẽ chạm hệ thống thần kinh nguy hiểm, vài ngày sau đó tôi được chuyển về bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng. Nhập viện, “bố khỉ” lại “hội ngộ” bạn Thiếu Úy Nguyễn Hiền nằm bên cạnh với cái chân trái treo tòn teng trên giá cuối giường…!!!

Vài ngày sau đó, phái đoàn Phòng Xã Hội BTL/LLĐB đến thăm, có Trung Sĩ Túy Lan tâm tình đêm giao thừa vừa qua đi trong phái đoàn uỷ lạo thương binh và “ngộ” cố nhân nên Cô ở lại bệnh viện hai ngày trực tiếp chăm sóc cho tôi và kể:

– Thiếu Úy biết không, khi nghe tin ĐĐT/ĐĐ3 và Thiếu Út tử trận, TĐ thiệt hại nặng, Túy Lan điếng người, gọi điện thoại lung tung, mấy ngày sau mới biết tin chính xác. Trung Úy Thanh được đưa ra Đệ Thất Hạm Đội, mổ khẩn cấp để gắp lấy viên đạn AK (vì vậy sau này mới có tên là Thanh AK) tình trạng khả quan, còn Thiếu Úy được đưa về Đà Nặng, tổn thất của ĐĐ rất nặng với 12 chết, 27 bị thương nặng nhẹ, may là TĐ được bốc ra ngay, nếu không thì chẳng có người nào được trở về…!

Một tuần sau tôi xuất viện, được nghĩ phép 29 ngày chờ tái khám. Khi trở về đơn vị thì tân ĐĐT là Trung Úy Ngô Tùng Lam (Khóa 11TĐ), TĐ91BCD được cải danh TĐ81BCD, mấy “ông thần” Black and White được bình an vô sự, chỉ có Hạ Sĩ Nhất Mang Đen còn nằm nhà thương vì câu nói bông đùa thường nhật của anh: “… cắt cổ không bằng đổ rượu “ bây giờ thì anh bị đổ ruột…!

Cuối tháng 4 năm 1968, lệnh hành quân về Sài Gòn vì Việt Cộng tấn công đợt hai, chiếm vùng Cây Quéo, Cây Thị (Bình Hòa- Gia-Định), Trung Đoàn chủ lực miền Quyết Thắng của VC đã xâm nhập vào đây và bám trụ rất chặt trong từng nhà dân chúng… Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù quần thảo với chúng nó cũng đã nhừ tử rồi, nhưng chưa bứng chúng được là vì lệnh trên không cho phi pháo yểm trợ vào khu dân cư đông đảo…! Giải pháp và quyết định tối hậu sau cùng là chỉ có lực lượng Delta81BCD với sở trường “vạc ăn đêm, mèo bắt chuột” là trừ khử con cháu “bác và đảng” giặc từ miền bắc vô đây, bàn tay vấy máu dân lành… và chỉ có Delta 81BCD đột kích từng căn nhà trong đêm mới có thể “móc” ra được loại quỉ vô thường VC ra khỏi hầm hố đào bới, bám trụ trong nhà phố cư dân… vì địch ở trong thế bối thủy sinh tử chiến: hoặc chết hết hoặc đầu hàng mà thôi …! Quả thật, các cấp chỉ huy đã có quyết định hành quân chính xác khi xử dụng Delta81BCD trong mặt trận này. Như qui luật bất thành văn: “Biệt Kích Dù Anh Hùng Vô Danh” nên “mèo bắt chuột” thì chẳng có gì kể lể chiến công. Nhưng sau khi đã bứng và tống khứ, đưa tiễn linh hồn cán binh VC ra khỏi vùng chiếm đóng, để trả lại sự bình yên cho dân chúng sau những ngày tháng tang tóc và nỗi chết luôn chực chờ …

Người chiến sĩ Delta 81BCD đã được Quân-Dân miền Nam biết đến và hâm mộ, thương yêu những “Kinh Kha Thời Đại”, với những chiến công sát cộng Bảo Quốc – An Dân từ Tết Mậu Thân Đợt I và Đợt II qua hệ thống truyền thông, truyền hình, báo chí,… Đi với tôi có phóng viên Dương Phục của Trung Tâm Điện Ảnh Quân Đội làm phóng sự, tháp tùng bên cạnh tôi là Ba Bứng với cây đại liên M60 mới toanh, Kim sua ôm khẩu phóng lựu M79 cáo cạnh vừa mới xử dụng một ngày trước đó, Trung Sĩ Nhất Nguyễn VănThành, Trung Đội Phó của Tôi. Tôi nhớ lại mới mấy ngày đêm vừa qua khi tôi chỉ huy dẫn toán các toán Delta xâm nhập vào từng căn nhà vào lúc nửa đêm về sáng, ĐĐ2 và ĐĐ3 theo sự hướng dẫn làm mũi dùi chính chiếm mục tiêu: Kim Sua xử dụng súng phóng lựu M79 bắn chính xác rót vào mục tiêu như “thẩy lỗ” Bụp…Bụp…Bụp… vừa bắn vừa nói lầm bầm: “nè…cho mày ngụp xuống hầm…rồi …trúng, tapi… cho mầy banh sàrong coi chơi…”. Địch banh xác pháo…!!! Kim Sua xử dụng cây M79 hiệu quả còn hơn súng cối 60 ly…!!! Ba Bứng vừa bắn đại liên M60 nổ dòn vừa chửi thề: “Đ…m… cho mày như con thằn lằn rớt xuống đất… dzô…dzô…dzô con…cho mầy chết nè…nè…”!!! Cho đến khi tàn “cuộc chơi” nhìn thấy những cán binh VC bị bắt với thân thể ốm đói sau nhiều ngàytử thủ chân mang dép râu chiếc còn chiếc mất, mũ tai bèo tơi tả, mặt mày tái mét thiếu ăn, mất ngủ, ngơ ngáo, nằm bẹp xuống sàn nhà … Chẳng cần bắt trói, tôi bàn giao chúng lại cho toán sau, lại tiếp tục đột kích sang từng căn nhà khác cạnh kề và lại tiếng súng nổ, tiếng lựu đạn nổ và thây người cán binh ngã xuống, chẳng thèm thu nhặt chiến lợi phẩm súng ống, chúng tôi lại tấn kích tiếp tục sang từng căn phố, cho đến khi tất cả 167 cán binh thuộc Trung Đoàn Quyết Thắng may mắn sống xót, tháo chạy về hướng cầu Băng Ky và đầu hàng với cánh quân TQLC ở ngã năm Bình Hòa, Gia Định. Tôi được thăng cấp Trung Úy tại mặt trận và làm Đại Đội Phó từ đó. Tiếp đến Đại Đội lại được điều động qua cầu Nhị Thiên Đường, bến Phạm Thế Hiển, nơi đây xảy ra nhiều chuyện nửa khóc nửa cười: Ba Bứng say rượu vác đại liên bắn chỉ thiên, rượt Đại Úy ĐĐT Ngô Tùng Lam chạy bán sống bán chết vì bị phạt cạo đầu nhốt chuồng cọp ba ngàyvới cái tội nói chuyện với ĐĐT mày tao, Thạch Sương, Mang Đen hai tay với hai quả lựu đạn mở chốt tìm ĐĐT nói chuyện phải trái vì tội vô kỷ luật, Thiếu Úy La Lưu Ý với mối tình ba ngày với cô học sinh lớp đệ tam trường trung học Cần Giuộc, kết quả là cô tự vận chết, La-LưuÝ ăn năn, cạo đầu ăn chay xin xá tội…!


ĐĐ3/81BCND của tôi đó…!!! Chỉ có bốn tháng kể từ ngày ra trường trải qua với bốn cuộc hành quân, bốn vị ĐĐT, một bị cưa chân, một bị lãnh viên AK vào ngực trái, ba vị Tiểu Đoàn Trưởng, tôi bị thương hai lần…. Một điều lạ là cái “Băng lòng heo luộc Black and White” Thượng- Miên- Nùng thuộc Đại Đội 3 TĐ81BCD bình an vô sự, không hề hấn gì. Chắc có lẽ cũng vì thế mà đúng một năm sau, vào tháng 5 – 1969, tôi được bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 5 chỉ mới có 23 tuổi đời, một “ĐĐT Sữa” của Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù đơn vị ưu tú và thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà lưu danh trong dòng Chiến Sử sánh vai với tất cả Quân Binh Chủng Miền Nam Việt Nam trong suốt 21 năm Cuộc Chiến Quốc-Cộng và hiện tại ở đây quê người bình yên đến buồn an lạc… Tôi vẫn luôn hoài niệm chiến trường xưa khi mà “Thiên Địa phong trần, du du bỉ phương” hà thời …Ôi, …nhớ sao là nhớ những binh sĩ và “Giàn” Hạ Sĩ Quan “Thần kinh Quỉ khiếp, banh sàrong coi chơi” Thượng-Miên-Nùng và những ngày xưa thân ái “Huynh Đệ Chi Binh”…Và:

Bằng Hữu ơi, mai ta về rừng lá
Chốn phiêu bồng cây cỏ cũng rong chơi
Giã từ người đêm sau cơn nguyệt hạ
Thả thơ thuyền cho trôi dạt mù khơi.

Mai đi thật xa ta đi thật xa…
Chuyến tàu đêm có đỗ bến quê nhà
Anh Em tứ tán trôi vô định
Nước mắt hay sương đêm đã nhạt nhoà.

(TGD)

Trương Văn Út (MũĐỏ ÚtBạchLan)
Houston Ngày 20 tháng 8 năm 2012

User avatar
nangchieu
Posts: 2060
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Image
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng bằng sông rạch Cửu Long, mời quí bạn lần theo dấu chân để đến, và nhận ra Chân Dung Những Người Lính ấy, sau khi có khái niệm về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang. Có thể nhận định mà không sợ sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc “tổng công kích” của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa hè 1972, thường gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Chớ họ không thể hiểu được những chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội, của Bộ Binh, của Địa Phương Quân Nghĩa Quân, trong nội địa lãnh thổ, những chiến thắng của “lực lượng Dân Sự Chiến Đấu”, của “Lực Lượng Đặc Biệt”, của những “Toán Lôi Hổ”, của “Liên Đoàn Biệt Cách Dù”, ..v..v.. trong những cánh rừng già hoang dã dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui cộng sản từ miền bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là “đường Trường Sơn”, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.

Họ cũng không thể hiểu chiều sâu những trận chiến thầm lặng với sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó. Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là “biển cạn” Tháp Mười. Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của quân cộng sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.

Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến thuật đó của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, trong khi 500.000 quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của nó là “chiến tranh tổng thể” trên chiến trường Việt Nam chúng ta, bởi họ không thấu đáo nền văn hoá Việt Nam nên chưa hiểu được Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.
Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?”

“Họ”, là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do.

“Họ”, theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự.

“Họ”, tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự.

“Họ”, là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng hoá, là những nữ quân nhân. “Họ”, là những chuyên viên, những chiến binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh.

“Họ” có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường. Khi tổ quốc lâm nguy,

“Họ” phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân thương trìu mến là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, những người lính trong một hệ thống tổ chức chặt chẻ, kỷ luật nghiêm minh là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:

Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở.

Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt (Lôi Hổ, Biệt Hải), Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù.

Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống.

Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh.

Là Người Lính Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch.

Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào.

Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh.

Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân, đánh địch ngay trên bờ nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp. Đánh địch trên chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười, trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị.

Là Người Lính Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Truyền Tin, yểm trợ Đồng Đội trên khắp chiến trường.

Là Người Lính Tiếp Vận, Quân Trường, Chiến Tranh Chính Trị, Hành Chánh, Tham Mưu, yểm trợ Đồng Đội từ các hậu phương.
Người Lính” đó đã miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau chiến trận. “Họ” đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! “Họ”, xứng danh là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”.

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hi sinh nhưng không được yên bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân cộng sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày. Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua trước tuổi. Là những người tù chính trị bị cộng sản lưu đày trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu tưới lên hoa màu, nhưng “Họ” chỉ được ăn những cọng rau do phân và nước tiểu của “Họ” mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số “Họ”, đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.

Đó, là “chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, mà người phương Tây chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch sử và văn hoá Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của cộng sản Việt Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên lãnh thổ mỗi quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia, ngoài chữ “xâm lăng” ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động đó cả. Những ngôn từ mà cộng sản sử dụng để nói đến cuộc chiến này, đều là những dối trá đánh lừa dư luận quốc nội lẫn quốc tế, ngụy trang mục tiêu chiến lược của họ.

“Chân Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, hình thành “Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”. Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành”.

Vì vậy:
“Người Lính Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ, nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt Nam”.
———————-
Phạm Bá Hoa

Post Reply