QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 15 Tháng Đầu Tiên Trôi Qua


Sự tranh đấu để sinh tồn trong trại cải tạo giúp tôi ngày một thích ứng với những khó khăn. Tôi cũng đã quen với cảnh nghèo từ lúc còn bé thơ, nhưng cuộc sống trong hoàn cảnh quá hạn hẹp của trại cải tạo thật quá khó khăn cho tôi. Tôi không biết những người khác đã quen sống trong sự tiện nghi sẽ làm sao để thích ứng được với cuộc sống này. Trại Long Thành giam giữ hầu hết những người có cấp bậc cao trong chính quyền Nam Việt Nam. Sự thay đổi giữa hai thái cực của nếp sống diễn ra một cách quá đột ngột. Vài người nguyên là những bộ trưởng, thứ trưởng chưa hề lao động chân tay, nay lại phải tự đi khiêng nước xài và làm mọi việc như những người khác. Điều này đã tạo nên một cảnh tượng rất khôi hài.

VC không cho chúng tôi kể lại những việc làm trong quá khứ. Chúng bảo rằng chúng muốn chúng tôi bình đẳng, nhưng tôi biết rằng chúng sợ chúng tôi sẽ hình thành một tổ chức trong trại rất nguy hiểm cho chúng, và chúng cũng muốn tạo sự đối nghịch giữa chúng tôi với nhau để chúng dể quản lý. Khi viết bản tự khai, nhiều người vẫn còn dùng những chử như “ông” để nói đến những người lảnh đạo cũ của họ; VC buộc phải viết lại và dùng những từ như hắn, nó, để thay vào. Khi nói về chính quyền và quân đội Nam Việt Nam, chúng tôi phải gọi bằng “ngụy quyền” và “ngụy quân” thay vì quân lực hay chính phủ VNCH. Tôi cũng đã phải viết lại bản tự khai vì lý do này.

Khi nói chuyện với các cán bộ, chúng tôi phải làm đúng quy định là đứng cách xa ba bước và cầm mũ nón trên tay. Chúng tôi phải gọi các binh lính và sĩ quan VC làm trong trại là “cán bộ” và tự xưng là tôi. Khi đi ngang qua các cán bộ, chúng tôi phải chào chúng bằng cách giở mũ và cúi đầu. Mọi việc có nghĩa là chúng tôi phải kính trọng chúng và phải tập vâng lời chúng. Cách tốt nhất là tránh tiếp xúc với VC càng nhiều càng tốt. VC cũng không cho phép chúng tôi tự nhận là tù nhân và nói rằng chúng tôi vào trại là để cải tạo chứ không phải để ở tù! Chúng tôi phải tự nhận mình là trại viên.

Mỗi tối, chúng tôi phải họp đội để sinh hoạt trước khi ngủ. Đội trưởng báo cáo những việc xảy ra trong tổ, đội, và trong khối, cũng như truyền đạt lại những chỉ thị của cán bộ. Sau đó mỗi trại viên phải phê bình và tự phê bình. Điều này quá xa lạ đối với chúng tôi lúc đầu vì chúng tôi chưa hề có việc phê bình và tự phê. Nhưng cán bộ bảo chúng tôi phải làm việc này một cách nghiêm túc. Chúng tôi phải cố gắng để tìm ra những lỗi lầm của chính mình và của người khác để kể ra trong những buổi họp này, và do một lý do nào đó, chúng tôi thường cố tìm những điều không mấy quan trọng để phê bình nhau và bỏ qua những điều có vẻ nghiêm trọng. Đôi khi, tôi đã phải tự cho rằng mình vẫn còn nhớ nhà, nhớ vợ con, chưa đủ an tâm để cải tạo. Vài người thì phê bình rằng bạn mình đã ngủ gục trong lớp học tập hay trong buổi thảo luận, hoặc có người thì giả bịnh để khỏi lên lớp hay khỏi làm những việc khác.

Mọi điều nhỏ nhặt đã bắt đầu trở thành đề tài để phê bình. Dần dần mọi người đều trở thành con rùa núp kín trong cái mai, rất khó tìm ra được lỗi lầm của nhau. Những buổi họp phê bình thường trở thành tự phê với những lỗi nhỏ như nhớ nhà, không chú ý lúc học tập, nói chuyện trong lớp học, không thuộc bài hát, vân vân, và rồi những người khác đứng lên phê bình những lỗi lầm này để người tự phê có dịp hứa khắc phục và làm tốt hơn. Bất kỳ khi nào bị phê bình, trại viên đều phải nhận lỗi và hứa sẽ sửa chửa; nếu không thì sẽ có những buổi họp khác cho đến khi nào người trại viên ấy nhận lỗi mới thôi. Đó là cách thực hiện phê và tự phê của Cộng Sản. Mọi điều đều phải viết ra bản báo cáo để trình lên cán bộ. Tôi được biết rằng “phê và tự phê” đã từ lâu là phương cách của những người Cộng Sản để kiểm tra nhau, điều này không chỉ xảy ra ở trong trại mà là ở khắp mọi cơ quan đơn vị của Cộng Sản.

Sau vài ngày sống chung với nhau, chúng tôi biết rằng có vài phần tử do thám trà trộn vào trong khối 3 của chúng tôi. Thí dụ như Phòng, Bá, Lâm, là những người mà không ai biết xuất xứ. Mặc dù chúng bảo rằng chúng đã làm việc cho Cơ Quan Tình Báo, nhưng chúng chẳng biết gì về cơ quan tình báo và không ai trong chúng tôi biết được chúng. Chúng tôi phải bảo nhau đừng nên nói chuyện nhiều với những người này vì chúng tôi nghi ngờ rằng chúng là VC trà trộn vào để lấy tin tức từ chúng tôi. Nhưng trong cuộc sống chung đụng thì làm thế nào tránh khỏi sự bất cẩn. Cán bộ đều biết hầu hết những gì chúng tôi nói hoặc làm. Điều này khiến mọi người nghi ngờ lẫn nhau, và vài người lại bị nghi ngờ là đã làm “ăn ten” cho cán bộ, tức là đã báo cáo lên cán bộ mọi điều, mặc dù không biết có đúng như vậy hay không.

Từ việc “phê và tự phê” cho đến việc nghi ngờ làm “ăn ten”, mọi người trong trại bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau. Trại viên càng lúc càng trở nên ích kỷ và co rút lại trong cái vỏ của mình. Mọi người đều sống riêng rẽ trong cuộc sống chung. Không ai còn dám phơi bày tâm tư mình ra cho người khác; ai cũng dường như sợ rằng điều mình nói ra sẽ tới tai cán bộ như một thành ngữ Việt Nam rằng “tai vách mạch vừng”. VC đã không cần phải chia rẽ trại viên với nhau, nhưng chính trại viên đã tự chia rẽ nhau. Bằng cách bóp dạ dày trại viên, VC đã thành công trong việc khiến trại viên không còn nghĩ đến điều gì ngoài cái ăn, và bằng phương pháp tạo nên mối nghi ngờ lẫn nhau, họ đã thành công trong việc chia rẽ trại viên để dễ điều hành trại. Họ không cần phải có hàng rào vây quanh trại, không cần phải khóa trại viên trong buồng giam mà chính trại viên đã tự giam mình với cái hy vọng mỏng manh là sẽ được cải tạo và sẽ được trả tự do sau một tháng.

Dĩ nhiên tôi cũng là người bị điều lừa dối ấy dẩn dắt. Tôi cũng đang sống trong cái hy vọng mong manh là sẽ được về để gặp vợ con tôi sau một tháng cải tạo, nhưng trong thâm tâm tôi thì tôi lại không tin điều đó là thật. Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sẽ bị đưa đi đến một nơi khác, như đến đường mòn Hồ Chí Minh hay rừng rậm ở miền Trung để làm đường hay làm đường rầy cho việc tái thiết Việt Nam sau chiến tranh. Cái giá phải trả có thể là chính sinh mạng chúng tôi, nhưng ít ra tôi còn có cơ hội để phục vụ dân tộc mình.

Cuộc sống của tôi đã không còn là của tôi nữa. Đáng lý ra tôi đã phải chết đi cùng với nước Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30 tháng 4, nhưng tôi đã không đủ can đảm để kết liễu đời mình. Tôi đã ném cây súng xuống dòng sông Thanh Đa và tự nộp mình vào trại cải tạo. Những gì tôi đang mong chờ trong trại giờ đây cũng giống như một phép lạ. Chúng tôi không còn ai giúp đở mình. Chính quyền của chúng tôi đã không còn nữa. Những người đồng minh của chúng tôi đã rút lui. Có hàng rào quanh trại hay không cũng là vô nghĩa bởi chúng tôi không biết đi đâu bây giờ. Cả nước giờ đây đang nằm trong tay của VC. Phía bắc là Trung Cộng, phía tây là Kampuchia và Lào cũng là Cộng Sản, và phía đông là Thái Bình Dương. Chúng tôi đi đâu được đây nếu chúng tôi ra khỏi trại?

Tôi nghĩ chỉ có phép lạ mới cứu được chúng tôi mà thôi! Nếu VC không dùng thủ đoạn lừa bịp thì chúng tôi cũng sẽ đi vào trại mà thôi vì chúng tôi chẳng có con đường nào khác để đi. Nhưng với thủ đoạn ấy, chúng đã giữ được chúng tôi trong trại mà không ai có một ý định đào thoát nào cả; chúng tôi đều đang có một hy vọng mong manh rằng mình sẽ được thả ra sau một tháng. Cái hàng rào mỏng manh quanh trại không phải là thứ để ngăn được chúng tôi mà chính thủ đoạn dối trá của VC là điều đã giữ được chúng tôi ở trong trại cải tạo lúc đầu. Chúng tôi chưa từng quen thuộc với kiểu dối trá có hệ thống này. Quả là một thủ đoạn thành công!

Điệp, người bạn nằm gần tôi trong phòng giam, viết trong một bài thơ cho vợ anh ta, có một câu mà tôi vẫn nhớ: “Anh sẽ về một tháng hoặc một năm!” và tôi nghĩ rằng đó cũng là ý nghĩ chung nhất của mọi người trong tháng đầu tiên cải tạo. Mặc dù không ai tin vào một tháng cải tạo nhưng ai cũng nghĩ nếu dài lắm là một năm mà thôi chứ không ai dám nghĩ nó lại quá dài như chúng tôi đã phải trải qua.

Chúng tôi cũng không được biết điều gì đang xãy ra trong cái xã hội mới ở bên ngoài ngoại trừ một vài tờ nhật báo như “Sài Gòn Giải Phóng”, “Nhân Dân”, hay “Quân Đội Nhân Dân”, mà những tờ báo này thì chỉ loan những tin tức về những sự thành công của VC về mặt kinh tế và chính trị. Bên cạnh đó, những tin đồn lại loan truyền khắp trong trại. Có người cho biết Dương Văn Minh đã được đi sang Pháp sau khi giao miền Nam cho VC. Ngô Khắc Tĩnh, cựu tổng trưởng giáo dục đã bị bắt tại Vũng Tàu khi toan trốn chạy. Phó tổng thống Trần Văn Hương thì bị quản thúc tại gia vì quá yếu. Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4, đã tự sát khi VC tiến vào bản doanh. Nhân dân miền Nam đã được tổ chức thành những tổ tam tam chế để kiểm soát lẩn nhau. Tôi không biết những tin đồn ấy đúng hay không, nhưng tôi nghĩ mọi tin đồn này đều nhằm mục đích báo cho chúng tôi biết rằng chúng tôi chỉ có con đường duy nhất là ở trong trại cải tạo mà thôi vì chúng tôi không có chỗ dung thân nếu đào thoát khỏi trại. Nếu những tin đồn ấy là đúng thì điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi một khi chúng tôi trốn ra khỏi trại? Bị bắt lại có nghĩa là chết mà thôi. Tôi nghĩ chắc chẳng ai còn dám đánh cuộc với số mệnh mình một lần nửa.

Tiếp theo bài học thứ hai và bản tự khai, những bài học sau này chỉ còn là hình thức. Vài trại viên đã trốn không lên lớp, trong đó có tôi. Thay vào đó tôi chỉ lo săn sóc mấy luống khoai lang của tôi mà thôi. Nắng mùa hè của miền nhiệt đới đã đốt cháy da tôi, và tôi cảm thấy da mình hình như dầy hơn xưa. Tôi không còn ngại mưa nắng nữa. Chỉ trong hai tuần lễ, dáng vẻ thư sinh của tôi đã biến mất nhường chổ cho dáng dấp của người nông dân. Nhưng trên tất cả các thứ đó thì sự bận rộn này đã khiến tôi không còn nghĩ nhiều đến gia đình tôi nữa.

Thuốc lá và những thứ cần thiết cho đời sống càng lúc càng cạn dần. Vài trại viên có tiền đã nhờ những người nấu bếp mua dùm họ thuốc hút và kem đánh răng. Điều này tới tai cán bộ, và ban giám thị trại đã có một buổi họp để loan báo rằng họ sẽ tổ chức một cái tiệm chạp phô gọi là “căn tin” do những nhà thầu người Hoa để bán những thứ cần thiết cho trại viên. Căn tin nằm gần bên nhà bếp và bán nhiều thứ như thuốc lá, kem đánh răng, thực phẫm khô, và cả cà phê uống vào buổi sáng. Những trại viên có tiền có thể mua mọi thứ hoặc nhờ mua dùm những thứ mà họ muốn. Việc mở căn tin đã làm những trại viên bi quan trở nên chán nản hơn bao giờ hết, nhất là đã vào tuần lễ thứ tư khi mọi người đang mong cho chấm dứt một tháng cải tạo. Vài trại viên lạc quan thì lại cho rằng đó là cơ hội để họ tiêu tiền trước khi về nhà; họ mua mọi thứ và sống như là họ đang sống ở nhà họ! Cuộc sống trong trại lại trở thành hai thái cực giữa những người có tiền và những người không có tiền.

Tôi không còn tiền vì tôi đã đưa lại cho vợ tôi khi cô ấy rời trường Chu Văn An, do đó điều mà tôi phải làm là “khắc phục khó khăn”. Cái khó nhất đối với tôi là thuốc lá vì tôi thường hút quá nhiều. Cách duy nhất để có thuốc lá hút là đổi chác những cái mà tôi đang trồng cho những người có tiền. Để tiết kiệm tiền, tôi mua thuốc rê và giấy quấn thuốc để hút. Điều này đã nhắc nhở tôi nhớ đến bà ngoại tôi lúc còn ở nhà, bà tôi vẫn thường hay quấn thuốc rê để hút mỗi khi nằm trên ghế bố may vá phụ mẹ tôi trong tiệm may. Bà ngoại tôi là người gần gũi với tôi nhất từ khi tôi còn bé; bà đã gần 70 tuổi vào lúc này. Tuổi thơ của tôi luôn luôn hiện ra một cách rõ ràng mỗi khi tôi nhớ đến bà. Tôi nhớ đến cái bàn thờ trong nhà mẹ tôi nó được thừa hưởng từ ông cố tôi, một người thuộc giòng dõi chúa Trịnh. Cái lư nhang chạm hình tre và chim mà tôi vẫn thường chùi bóng mỗi lần Tết đến. Hai cái tô lớn viền bạc đặt trên hai cái đài gỗ với hai chiếc muỗng bạc được kể là của chúa Trịnh dùng để súc miệng. Những bộ chén dĩa bằng sứ có đóng dấu Trịnh Phủ phía dưới đáy. Ông ngoại tôi tên Trịnh Văn Giàu, người từng là Đốc Học Nam Kỳ. Cậu Hai, anh cả của mẹ tôi từng là Thượng Thư của triều đình Huế. Với một gia phả như vậy, thế mà bà ngoại tôi lại phải sống trong cảnh nghèo túng từ khi ông tôi qua đời bởi vì bà chỉ là tỳ thiếp của ông tôi. Bà đã giữ gìn những bảo vật ấy của gia đình như một kỷ niệm và thường kể lại chuyện ngày xưa cho chúng tôi nghe mỗi lần đám giỗ ông tôi.

Tuần lễ thứ tư đã gần hết và mười bài học tập cũng đã hoàn tất. Nhưng chúng tôi không ai nghe nói gì về sự chấm dứt của chương trình cải tạo. Trại viên trong trại chia ra làm ba nhóm người tùy theo quan điểm về việc cải tạo. Những người lạc quan thì chờ đợi cho hết tháng để họ được về sống với gia đình trong xã hội mới. Họ xài hết tiền để mua sắm mọi thứ ở căn tin và sống như thể họ không ở trong trại cải tạo. Những người bi quan thì buồn phiền; họ sống như những cái bóng và không nói chuyện với ai ngoại trừ những cái lắc đầu chán nản và những tiếng thở dài. Những người chấp nhận số phận thì chuẩn bị sống thời gian dài trong trại. Họ tiết kiệm và thu nhặt mọi thứ và luôn chuẩn bị tư thế cho một cuộc di chuyển. Những suy nghĩ về ngày về chỉ là một phép lạ. Tôi thuộc nhóm người này! Mặc dù tôi cũng mong cho hết một tháng, tôi lại không nghĩ là tôi sẽ được thả ra. Tôi chỉ muốn xem coi điều gì sẽ xảy ra sau đó. Tôi không dám nói rằng, đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì mà Cộng Sản làm, nhưng trong thâm tâm tôi thì tôi luôn luôn nghĩ điều đó là đúng. Điều hy vọng duy nhất của tôi là sẽ có một lúc nào đó có một sự thay đổi và tôi sẽ được ra về để gặp con tôi và được sống trong gia đình tôi cho đến cuối cuộc đời như một người dân bình thường. Đó có lẽ chỉ là một giấc mơ mà thôi!

Ngày 14 tháng 7, ngày quốc khánh của Pháp, và cũng là ngày mà mọi người trong trại cải tạo Long Thành đang chờ đợi. Một tháng cải tạo, điều đó có đúng như vậy không? Không ai có thể biết điều gì sẽ xảy ra sau một tháng ngoài việc chờ đợi điều gì đó xảy ra. Hy vọng và chán nản trộn lẫn với nhau tạo nên một cảnh tượng kỳ lạ trong trại viên. Mọi người đều hy vọng nghe được điều gì đó từ ban giám thị trại, nhưng lại sợ phải nghe tin xấu. Chỉ còn một ngày nữa là chấm dứt một tháng cải tạo thế mà không có gì thay đổi. Hàng can chờ đợi lấy nước ngắn hơn mọi ngày. Trại viên đã không tự đứng để đợi lãnh nước nữa kể từ khi học bài học đầu tiên. Họ đặt thùng theo hàng, cử người trực đổ nước vào thùng và xách về sau khi xong. Những sinh hoạt trong trại hầu như ngừng lại hẳn nhường chỗ cho những nhóm trại viên ngồi với nhau để hút thuốc, uống trà và bàn tán.

Tôi đi đào một ít khoai lang để nấu chè đêm nay để ăn mừng sự chấm dứt của một tháng cải tạo. Ông Đỗ Kiến Nâu, cậu của Banh, người đã từng là trưởng ty cảnh sát quận 3, Banh, bạn tôi, cùng tôi sẽ ăn với nhau tối nay. Những củ khoai lang của tôi cũng còn rất nhỏ, khoảng ngón chân cái, và tôi đã phải đào cả 2 luống mới đủ một nồi chè. Tôi làm hai luống mới để thay thế hai luống khoai đã đào và dùng dây khoai để trồng cho hai luống ấy. Tôi cũng không hiểu tôi đã làm gì đây bởi vì hôm nay là ngày cuối cùng trong trại cải tạo! Tôi vừa làm một việc theo thói quen, hay tôi không tin đó là ngày cuối cùng. Tôi không chắc chắn điều gì hết nữa rồi. Tôi nghĩ tôi đã trở thành một người hoài nghi. Chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một, như lời của cán bộ đã giải thích, nhưng tôi vẫn không tin vào lời nói ấy! Làm thế nào để có thể tiến bộ được trong cải tạo? Tôi tự cảm thấy buồn cười cho mình qua những ý nghĩ này. Khi mang một ít khoai lang cho chị vợ tôi ở nhà nữ, tôi nghe được dự định của họ về chương trình tổ chức lễ phóng thích vào ngày mai. Tôi hỏi chị Lan, chị vợ tôi, về tin này, nhưng chị ấy cho biết đó chỉ là tin đồn không căn cứ vì ngày mai là ngày cuối cùng của một tháng như mọi người đang chờ đợi.

Kể từ khi Nghĩa, chồng của cô Đẹp (thư ký của sếp tôi), đã dời đi qua trại Thủ Đức, có nhiều tin đồn về những sự liên hệ giữa Đẹp với Tư Điệp, cán bộ phụ trách khối 3 và nhà nữ. Trại viên thường tin vào những tin đồn phát xuất từ nữ trại viên và cho rằng những tin tức ấy phát xuất từ Tư Điệp. Tôi không biết chắc gì về sự liên hệ giữa Đẹp và Tư Điệp, nhưng tôi nghĩ rằng một người đàn ông từ rừng sâu ra ngoài thì rất dể dàng yêu một người đàn bà đẹp như Đẹp!

Có khoảng một trăm nữ trại viên trong nhà nữ. Ngoài một số nữ sĩ quan quân đội và cảnh sát từ đại úy trở lên, số còn lại hầu hết là cán bộ tình báo trung cấp của cơ quan. Bà đại tá Hương, chỉ huy trưởng nữ quân nhân, và bà thiếu tá Thủy, trưởng toán Thiên Nga của Cảnh sát, đã được chuyển qua trại Thủ Đức. Sự liên hệ nam nữ trong trại càng lúc càng trầm trọng. Mặc dù tôi cần phải giúp đở chị vợ tôi, tôi cũng phải cố gắng giới hạn việc đi sang khu nhà nữ vì tôi không muốn bị những tin đồn. Hầu hết những nữ trại viên trong ấy đã từng làm trong cơ quan đều biết vợ tôi, do đó tôi không muốn vợ tôi nghĩ sai về những sự liên hệ của tôi.

Đêm ấy, hầu như mọi người đều không thể ngủ sớm như thường ngày. Từng nhóm ba hay bốn trại viên ngồi với nhau trong sân giữa các nhà bên những chiếc bàn nhỏ để ăn tối và đối thoại với nhau. Ông Nâu, nguyên trung tá cảnh sát, Banh, bạn tôi và tôi cùng ngồi quanh chiếc bàn nhỏ do tôi đóng lấy đặt giữa sân giữa khối 3 và khối 4. Chúng tôi nấu chè bằng chiếc lò làm bằng thùng nhôm. Chúng tôi không tin rằng chúng tôi sẽ được thả ra, nhưng chúng tôi lại mong ở một phép lạ nào đó. Kể từ khi vào trại, Banh dùng hầu hết thời giờ để học đánh cờ tướng. Hắn ta đã trở nên ồn ào hơn, nhưng đêm nay, hắn ta lại im lặng một cách khác thường. Cậu của Banh, ông Nâu, là một người hút thuốc nối đầu; ông ta xin tôi cái píp mà tôi tự chế, mở điếu thuốc ra rồi nhồi thuốc vụn vào điếu để tiết kiệm thuốc. Sau này, ông Nâu bị dời ra trại Hà Tây và chết ở đấy. Banh và ông cậu mang theo vào trại một ít tiền, và đôi khi họ cũng đã giúp tôi trong những lúc ngặt nghèo. Để đổi lại, tôi trồng rau để ăn thêm vì chúng tôi cũng thường ăn cơm chung. Chúng tôi ngồi im lặng cho đến nửa đêm để suy nghĩ về những gì có thể xảy ra vào ngày mai. Có thể nào có điều gì đó hay không, hay chúng tôi chỉ mong chờ một điều vô vọng? Một tháng cải tạo đã trôi qua, không chỉ có chúng tôi mà cả gia đình chúng tôi cũng đang chờ đợi cho ngày này. Không ai ngủ được yên giấc đêm ấy mà chỉ mong cho trời sáng. Mỗi lần giật mình tỉnh giấc, tôi nghe tiếng thở dài đâu đó trong phòng giam.

Mọi người đều thức dậy sớm vào sáng ngày 15 tháng 7 mặc dù không có lịch trình lên lớp hay thảo luận. Không có một cán bộ nào đến các phòng giam. Vài người đi lang thang trên con đường tiến về phía hội trường, nhưng hội trường thì trống rỗng! Tôi nghĩ rằng nếu có một buổi lễ thì ít ra cũng phải có sự trang hoàng. Vài người còn cho rằng buổi lễ ấy sẽ tổ chức một nơi khác thay vì tổ chức trong trại, và nếu có điều đó xảy ra thì chúng tôi sẽ được di chuyển đến một nơi nào đó ở Sài Gòn. Tôi nghĩ đó chỉ là một sự lạc quan tếu. Nhưng trong thâm tâm thì tôi cũng mong điều đó sẽ xảy ra như một phép lạ. Tôi không thể chờ đợi mà không làm gì cả, do đó tôi đi tưới những luống rau và luống khoai. Tôi không muốn quá ưu tư và đặt quá nhiều hy vọng để rồi không có gì cả, và tôi luôn tự nhủ rằng mọi việc đều đã được an bài! Điều buồn cười là những trại viên trẻ lại là những người tin vào số mệnh. Ngược lại những trại viên lớn tuổi thì lại luôn luôn chờ đợi một cách sốt ruột về việc phóng thích.
Chương 16 Cuộc Sống Tiếp Nối Trong Trại


Một ngày chờ đợi đã trôi qua trong nỗi tuyệt vọng. Mọi người đều trở về một cách chán nản với cuộc sống hàng ngày trong trại. Một dãy thùng chờ lấy nước lại được xếp dài trên con đường chính như thường lệ. Bửa ăn sáng với cháo và muối, trưa chiều với chén cơm cùng miếng canh bí đỏ với vài hạt đậu phọng lại tiếp tục như mọi ngày. Nhưng không còn một trại viên nào ngồi ở ngoài sân giống như đêm hôm trước. Hoặc là mọi người đều mệt mỏi về sự chờ đợi hay họ đã buồn ngủ vì thức quá khuya đêm qua, mọi trại viên đều đi ngủ sớm hơn mọi khi.

Bảy Sói, một cán bộ tên Bảy với chiếc đầu hói phụ trách khối 3 vào phòng giam vào sáng sớm và yêu cầu trại viên sau khi ăn sáng xong thì chuẩn bị để lên hội trường. Mọi người lại trở nên sống động và vui vẻ với những hy vọng. Vài người bỏ cả việc ăn sáng và xếp hàng sớm hơn người khác dường như họ muốn được về nhà ngay tức khắc vậy! Khung cảnh không còn vẻ im lặng như những lúc sửa soạn lên lớp để học 10 bài học tập nữa; trại viên chuyện trò om sòm trên con đường đi lên hội trường.

Không có sự trang hoàng nào trong hội trường. Khi trại viên đến nơi, vài cán bộ khiêng vào hội trường một cái bàn và vài chiếc ghế, và rồi Hai Côn, giám thị trưởng đến để nói chuyện với trại viên. Trong lời phát biểu, Hai Côn lập lại điều mà chúng tôi đã nghe nhiều lần rằng:

“Chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một: đánh những kẻ chạy đi chứ không đánh những người ở lại! Và chúng tôi phải đạt cho được tiến bộ trong việc học tập cải tạo để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước.”

Tôi tự hỏi làm sao họ có thể đánh được những người đã chạy đi! Về việc chấm dứt một tháng cải tạo, Hai Côn nói rằng họ không nhận được chỉ thị nào của “trung ương” về việc này. Việc trở về với xã hội của trại viên là tùy thuộc vào mức độ tiến bộ của mỗi người chứ không phải là vấn đề thời gian vì chúng tôi phải làm thế nào để thích ứng được với xã hội mới. Trước khi chấm dứt lời phát biểu, Hai Côn cho biết là để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, ban giám thị trại cho phép trại viên được viết thư cho gia đình để báo cho gia đình biết rằng chúng tôi sống tốt trong trại và đang có nhiều tiến bộ trong học tập cải tạo, và đồng thời khuyên nhủ gia đình thực thi đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Chúng tôi không được cho biết địa điểm của trại mà chỉ được dùng bí số là 15NV cho địa chỉ nơi gửi.

Những điều đã xãy ra khiến mọi trại viên trở nên chán nản hơn bao giờ hết. Đặc biệt những trại viên “lạc quan” đột nhiên hiểu rằng họ cần phải hiểu VC nhiều hơn những gì mà họ nghe VC nói. Riêng đối với những người đã không tin rằng sẽ được về trong một tháng thì dù sao đây cũng là cơ hội để họ có thể biết tin tức gia đình. Được viết thơ về nhà còn hơn là chẳng có gì mặc dù họ cũng thừa hiểu rằng họ sẽ không được viết hết mọi điều họ muốn. Thơ chắc chắn là sẽ được cán bộ kiểm duyệt kỹ lưỡng, nhưng ít ra thì chúng tôi cũng có dịp để liên lạc được với gia đình. Điều mà tôi muốn được biết nhiều nhất là con tôi là trai hay gái, và sức khỏe của vợ tôi ra sao sau khi sanh nở. Mẹ và bà ngoại cũng là những người mà tôi muốn hỏi đến.

Chỉ có hai trang giấy để viết như quy định, làm thế nào để viết hết cho mọi người trong gia đình? Trước hết, tôi nghĩ tôi phải dùng từ rất là khôn khéo để cho biết về tình trạng của tôi trong trại. Tôi sẽ viết rằng mọi việc đều tốt đẹp, tôi được nuôi ăn uống đầy đủ và tôi có trồng thêm vài luống khoai lang để dặm thêm vào phần ăn hàng ngày nữa! Sức khỏe tôi cũng tốt, do đó tôi có tặng cho bạn bè một số thuốc khi họ bị bệnh. Dĩ nhiên, điều tôi muốn biết là con tôi là trai hay gái. Sau khi hỏi thăm về mẹ tôi cùng bà ngoại, tôi còn phải viết một ít điều theo quy định của trại để khuyến khích gia đình tuân hành đường lối chính sách của chính quyền địa phương để giúp tôi trong trại, từ đó tôi có thể được ra về sớm hơn. Điều này đã làm mất hết nửa trang giấy! Những suy nghĩ về bức thư khiến tôi không còn để ý gì đến hoàn cảnh chung quanh trên đường từ hội trường về đến phòng. Tuy nhiên tôi vẫn nhận ra rằng một sự im lặng bao trùm lấy bầu không khí chung quanh chứ không ồn ào như buổi sáng sớm khi đi lên hội trường.

Mọi người đang suy nghĩ về số phận của mình và về cái thủ đoạn mà VC đã dùng. Trong thông cáo về việc cải tạo, chúng chỉ nói rằng chúng tôi phải mang theo thức ăn và quần áo chăn màn cho một tháng chứ không hề đả động đến thời gian cải tạo là một tháng! Chúng tôi không thể bảo rằng chúng đã dối gạt, mà chính chúng tôi là những người không hiểu rõ ràng cái thông cáo ấy! “Anh sẽ về một tháng hoặc một năm!” (…hay bao nhiêu năm nữa?) Tôi nghĩ đến câu thơ trong bài thơ của Điệp mà rùng mình lo sợ. Bao lâu nữa tôi sẽ về? Tôi tự hỏi. Đời tôi thì coi như đã chấm dứt kể từ ngày 30 tháng tư, nhưng gia đình tôi sẽ ra sao đây? Tôi không muốn họ chờ đợi tôi trong tuyệt vọng. Không có gì tồi tệ hơn là sinh ly!

Viết thư là điều chính yếu cho trại viên trong những ngày kế tiếp. Vài người viết đi viết lại bức thư mà cũng hình như chưa vừa ý với nó. Mọi người giờ đây dường như là đã phải chấp nhận số phận của mình như một điều dĩ nhiên. Lắc đầu và nhún vai là câu trả lời cho ngày về. Không còn ai bỏ thời giờ ra để ngồi uống trà, cà phê, hút thuốc và tán gẩu. Có thêm vài trại viên trồng khoai lang trên khu đất còn lại trong trại. Nước trong những hố đào gần nhà tắm bắt đầu khan hiếm hơn trước do đó tôi phải tưới rau và để những luống khoai cho nó mọc theo ý nó. Tuy nhiên tháng bảy ở Việt Nam thì trời nhiều mưa nên cũng không đến nỗi nào.

Hai cán bộ phụ trách khối 3 là Bảy Sói và Tư Điệp đến lấy thơ hàng ngày, nhưng cả tuần sau vẩn còn vài trại viên chưa viết xong thư. Họ không còn vội vã như trước đây nữa! Thời gian không còn là vấn đề quan trọng đối với họ nữa. Tôi đã cố gắng gửi thư sớm với hy vọng sẽ sớm nhận thư hồi âm, nhưng đôi khi tôi vẫn thấy tiếc vì tôi nghĩ tôi vẫn còn thiếu điều gì đó.

Bên cạnh việc viết thư cho gia đình, cuộc sống trong trại vẫn diễn tiến như lệ thường: trại viên thức dậy buổi sáng theo tiếng kẻng báo thức, tập thể dục mười động tác du nhập từ miền Bắc do vài trại viên hướng dẫn, ăn sáng với cháo và muối, ăn trưa và chiều với chén cơm và ít canh bí đỏ nấu với đậu phọng, họp tổ đội buổi tối trước khi đi ngủ. Nhưng có một điều thay đổi là sau buổi họp ở hội trường thì chúng tôi phải thay phiên nhau xuống bếp để nấu nướng thay cho nhà thầu. Ban giám thị trại đã cho biết rằng số tiền mà chúng tôi đóng khi đi trình diện đã hết, do đó kể từ ngày 15 tháng bảy chúng tôi phải làm mọi việc trong trại và “Chính Phủ và Nhân Dân” sẽ phải nuôi chúng tôi. Sau buổi họp khoảng mười ngày, chúng tôi nhận được tám trăm đồng mỗi tháng được báo là của “Nhà Nước” cung cấp cho mỗi trại viên để mua sắm những thứ cần thiết như kem đánh răng, sà phòng, giấy vệ sinh, hay những thứ cần thiết khác cho phụ nữ. Mọi việc xảy ra có nghĩa là chúng tôi phải chuẩn bị cho sự cải tạo dài hạn, nhưng mà bao lâu thì vẫn là một câu hỏi không có lời giải đáp. Chúng tôi phải đạt được tiến bộ trong cải tạo để được tha về với xã hội. Thế nào là tiến bộ? Mười bài học tập đã qua; làm thế nào để đạt được tiến bộ trong khi chúng tôi chỉ ở trong trại mà không làm gì cả?

Để xử dụng thời gian trống trong trại, trại viên bắt đầu làm những việc như chơi cờ tướng, viết những thực đơn tưởng tượng, vẽ, chạm trên gỗ hay vỏ dừa, vân vân. Anh bạn tôi tên Nguyện thì lại dùng hầu hết thời giờ để đi đào Hà Thủ Ô, một loại rễ của dây leo. Anh ta xắt lát hà thủ ô, phơi khô, sao lên rồi nấu nước uống. Vài người cho rằng rễ Hà Thủ Ô là một loại thuốc làm cho tóc đen hơn. Tôi không biết điều đó đúng không, nhưng tôi thấy da Nguyện càng lúc càng đen trong khi tóc anh ấy thì càng ngày càng bạc nhiều ra mặc dù anh ấy mới ba mươi tuổi vào lúc đó!

Khi tôi không chăm sóc rau và khoai trên cánh đồng, tôi dùng thời giờ rảnh để học khắc gỗ, chạm bằng nhôm, và khắc sọ dừa để làm những “đồ mỹ nghệ”. Cái búa để chạm thì làm bằng một bù lon bẻ cong lại; đục thì là một cọng thép lấy trong dây điện đập dẹp và mài bén 1 đầu. Mọi vật đều được thu lượm quanh trại và được tôi chế tạo lấy. Miếng nhôm được cắt thành những sợi nhỏ khoảng hai ly rồi mài trên nền xi măng. Tôi vẽ hình lên những miếng gỗ được cắt bằng cái cưa nhỏ tự chế, mài nhẳn lên nền xi măng, rồi đục theo đường vẽ. Dùng cái búa nhỏ, tôi nhét những sợi nhôm vào những đường kẻ sau đó giũa phẳng bằng một cái giũa làm bằng dây kẽm gai.

Để làm những đồ mỹ nghệ bằng gáo dừa, tôi dùng cái cưa tự chế cắt gáo dừa thành cái kẹp hình con cá vàng, mài lên nền nhà và đánh bóng bằng lá mít. Sau đó tôi chạm vây cá, đầu và đuôi cá bằng cái đục nhỏ. Sản phẩm làm ra trông cũng giống như những cái kẹp tóc bằng đồi mồi. Tôi cũng không biết tôi làm những cái đó để làm gì, nhưng tôi cảm thấy thích thú với công việc này. Tôi đặt những “tác phẩm” ấy bên đầu chổ nằm rồi nghĩ đến ngày trở về để trao tặng vợ tôi. Tôi đã từng vẽ nên những đồ tôi làm thường đẹp hơn nhiều người và cũng vì tôi đã tốn nhiều thời gian cho chúng nữa. Bức tranh tứ quý gồm bốn hình Mai, Lan, Cúc, Trúc được cẩn băng nhôm trên gỗ nâu. Bức tranh mẹ bồng con là bức tranh cẩn nhôm hình người đầu tiên trong trại vì không ai có thể cẩn nhôm khuôn mặt người. Tôi đã nghĩ đến vợ con tôi khi làm bức tranh này, đó là tấm mà tôi thích nhất.

Hai tuần sau khi gữi thư, chúng tôi nhận được bức thư đầu tiên của gia đình. Hôm đó là ngày thứ bảy, Bảy Sói và Tư Điệp đến khu của khối 3 để trao thư. Chúng tôi nghe thấy từ trước lúc hai cán bộ ấy trao thư cho nhà nữ. Trại viên gọi nhau và nhờ các đội trưởng đi nhận thư, nhưng Bảy Sói và Tư Điệp chỉ muốn giao riêng cho từng người.
Bức thư tôi nhận được từ vợ tôi, mẹ tôi và bà ngoại tôi. Trong thư còn có tấm ảnh vợ tôi đang bế con trai tôi khoảng một tháng tuổi. Vợ tôi viết rằng con trai tôi thường khóc đêm khiến cô ta mệt lắm. Mọi người trong nhà thương cháu lắm vì đó là đứa cháu đầu tiên trong gia đình. Lúc sanh thì nó cân nặng khoảng ba kilô, không lớn lắm nhưng cũng đủ để vợ tôi khó khăn khi sanh nở. Vợ tôi còn bảo rằng cô ta mong tôi học tập tốt để được về phụ nuôi con. Mẹ và bà ngoại tôi cũng viết vài hàng trong thư cho biết hai người sức khỏe vẫn tốt và tiệm may cũng vẫn hoạt động như thường lệ. Vì cha tôi là một “liệt sĩ” do đó mẹ tôi đã trở thành tổ trưởng tổ dân phố. Vài “đồng chí” của cha tôi cũng có đến thăm và hy vọng rằng tôi sẽ được về sớm vì tôi là con trong một gia đình “có công với cách mạng!” Họ chúc tôi có sức khỏe và thành công trong việc cải tạo để sớm trở về nhà. Cách viết trong thư cũng giống như những gì mà Hai Côn đã nói lúc ở hội trường. Tôi nghĩ không phải chỉ có tôi đang cải tạo mà cả gia đình tôi cũng đang bị cải tạo bởi VC. Những danh từ rất xa lạ với ngôn ngữ Việt Nam trước đây được viết trong thư của gia đình tôi chỉ sau hai hay ba tháng là một bằng cớ hiển nhiên chứng minh sự thay đổi của xã hội bên ngoài.

Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bức thư cho đến lúc gần như thuộc lòng từng chữ một. Tấm ảnh vợ tôi đang ẵm con tôi đã được tôi đóng trong một cái khung làm bằng mảnh gỗ nâu đục lỗ và lồng vào một miếng mi-ca. Miếng mi-ca này tôi nhặt được khi làm luống khoai; tôi phải dùng lá mít đánh bóng cho hết những vết trầy rồi dùng kem đánh răng chà cho trong lại. Chỉ cái khung ấy mà tôi đã phải bỏ ra hàng tuần lễ để hoàn tất. Nhưng đó là cái mà tôi yêu thích nhất và nó đã đi theo tôi suốt gần 17 năm trong các trại cải tạo.

Chương 17 Lệnh Tha Đầu Tiên


Cuộc sống trong trại lại nối tiếp như thường lệ mấy ngày sau khi nhận được bức thư đầu tiên của gia đình. Ngoại trừ vài trại viên muốn cải thiện thêm cho phần ăn nên phải trồng rau hay khoai lang, số còn lại chưa phải làm gì cả. Vẫn có cái căn tin nằm trong khu nhà bếp do những nhà thầu người Hoa để bán đồ vật và thực phẩm cho trại viên có tiền. Với 800 đồng hàng tháng, tôi chỉ có thể mua được một cây kem đánh răng nhỏ, một ít thuốc rê, và 500 gram đường.

Khoảng tháng tám, VC buộc mọi người dân trong nước phải đổi tiền lần đầu tiên. Họ dùng đồng tiền mới với trị giá là 500 đồng bạc miền Nam hay 400 đồng miền Bắc đổi lấy một đồng mới này, và họ chỉ cho phép mỗi người dân đổi được mười ngàn tiền cũ mà thôi, số còn lại phải gửi vào ngân hàng nhà nước. Điều buồn cười xảy ra trong trại là có những trại viên mang vào trại quá nhiều tiền, họ phải nhờ những trại viên bạn bè khác đổi dùm. Tôi cũng nghe nhiều điều xảy ra ngoài xã hội. Nhiều người dân miền Nam giàu có đã phải nhờ những người bà con miền Bắc vào đổi dùm tiền, sau đó họ lại không nhận được số tiền đổi ra! Tôi không biết điều này có xảy ra trong trại hay không bởi vì nếu có đi nữa thì chắc không ai dám nói ra. Kể từ đó, thay vì 800 đồng, chúng tôi chỉ được một đồng sáu chục xu mỗi tháng. Lúc đầu còn mua được phần như trước, nhưng sau đó thì chỉ có thể mua được một cây kem đánh răng mà thôi. Kinh tế Việt Nam bị suy sụp quá nhanh sau lần đổi tiền!

Ban Giám Thị của trại bảo chúng tôi phải chuẩn bị cho ngày lễ Quốc Khánh đầu tiên ở miền Nam, ngày 2 tháng 9, 1975 (họ gọi là ngày Lễ Độc Lập). Chúng tôi phải làm báo tường, tập ca hát trong ban đồng ca, và phải trang hoàng cho ngày ấy.

Tôi đã viết một đoản văn để đăng báo tường lấy tên là “Điếu thuốc rê”. Nội dung đoản văn tôi muốn nói đến một chiều hướng đi xuống của cuộc sống của nhân dân miền Nam sau cái ngày giải phóng của VC. Nhưng tôi lại cố dấu nó trong cách viết để cán bộ và ban giám thị trại không thể nhận ra.


Điếu thuốc rê.

Hắn ta ngắm nhìn những luống khoai lang thẳng tắp được thực hiện bằng chính công sức lao động của mình.

Hắn đặt chiếc cuốc xuống đất và ngồi lên cán cuốc. Tay trái hắn giơ lên lau những giọt mồ hôi trên trán, còn tay phải thì thọc vào túi áo để lôi ra một chiếc hộp nhỏ. Mở nắp hộp ra, hắn lôi ra một cuộn giấy quyến, xé một mảnh nhỏ, rồi để nằm trên bàn tay trái giữa 4 ngón tay. Ngón tay cái kẹp lấy miếng giấy quyến. Tay phải hắn nhúm lấy một miếng nhỏ thuốc rê từ chiếc hộp, rải ra trên miếng giấy quyến, và dùng ngón tay cái để giử cho thuốc nằm xuống mặt của miếng giấy quyến. Tiếp theo, hắn dùng cả hai bàn tay cẩn thận cuộn thuốc vào trong miếng giấy quyến để biến thành một điếu thuốc, nhưng điều khác biệt là nó có một đấu lớn và một đầu nhỏ. Cuối cùng thì hắn dùng nước bọt để dán điếu thuốc ấy lại.

Điếu thuốc rê trên môi hắn đã gợi hắn nhớ lại những điếu thuốc Winston, hay Lucky mà hắn thường hút không lâu trước đây. Chỉ một vài tháng thôi mà dường như bao nhiêu năm đã trôi qua. Hắn không thể ngờ rằng giờ này hắn có thể làm được những luống khoai như thế này, và hắn cũng không thể ngờ rằng hắn có thể cuộn được một cách thiện nghệ một điếu thuốc rê như thế này!

Hắn nghĩ tất cả đều đã thay đổi.

Trong ngày lên hội trường để nghe tuyên bố về việc chuẩn bị lễ Độc Lập, một sự kiện mà tôi không thể quên là vài trại viên đã được Ban Giám thị kêu lên để hát. Nhiều người đã hát những bản nhạc cách mạng mà chúng tôi đã phải học trong trại, nhưng chị vợ tôi, Lan, lại hát một bản nhạc dân ca tên là Lý Chim Quyên. Bài ca đã làm nhiều người phải rơi lệ vì những câu như:

“Chim ơi chim xa rừng, là chim thương núi nhớ non. Người cách xa con người, ơi đâu còn có gì buồn hơn.”

Tôi cũng phải tham gia vào một ban đồng ca để tập hát bản nhạc tên là “Việt Nam mến yêu”, một bản nhạc tiền chiến thường được nghe trước đây ở miền Nam. Ban đồng ca do Bửu Uy, nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, làm ca đoàn trưởng. Chúng tôi đã chọn bài ấy cũng vì nó có vẽ trung dung, không đến nỗi cực đoan như những bài mà chúng tôi đã phải học trong trại. Bên cạnh đó thì Điệp và tôi lại được các trại viên khác cử ra để trang trí cho tờ báo tường của khối 3 vì chúng tôi cũng đã từng làm trang trí cho vài tập san sinh viên khi chúng tôi còn làm trong cơ quan, do đó tôi cũng hơi bận rộn.

Mọi người đều hy vọng sẽ có những điều gì đó xảy ra trong ngày quốc khánh của VC, ít nhất sẽ có sự phóng thích một số trại viên nào đó, và tôi nghĩ người nào cũng mong rằng mình sẽ có tên trong danh sách phóng thích ấy. Những tin đồn lại được loan truyền ra. Thơ của gia đình giờ đây lại được trở thành những điều để trại viên hy vọng. Trong khi gia đình nói rằng họ mong chúng tôi sẽ cải tạo tiến bộ để được tha ra trong ngày quốc khánh thì trại viên lại suy diễn rằng gia đình họ đã biết sẽ có cuộc phóng thích trong ngày ấy mà không thể viết rõ ràng trong thư. Vài người khác lại còn nói rằng gia đình họ có thân nhân làm trong bộ Nội Vụ của VC cho biết tất cả trại viên trong trại cải tạo sẽ được thả ra vào ngày Quốc Khánh vì VC muốn dùng ngày ấy để chứng tỏ chính sách khoan hồng của họ, và chúng tôi sẽ được đưa về Sài Gòn để dự buổi lễ phóng thích, một phần của buổi lể Quốc Khánh.

Trại viên lại sống trong hy vọng và chờ đợi. Không khí trong trại lại sống động và nhộn nhịp hẳn lên, không còn cái vẻ im lìm như mọi khi kể từ khi ban giám thị tuyên bố chuẩn bị cho ngày lễ độc lập. Vài trại viên có năng khiếu lại còn vẽ cả hình của Hồ Chí Minh để trang hoàng trong ngày ấy. Mặc dù không còn những buổi thảo luận như lúc học mười bài học tập, nhưng các cán bộ lại thường xuyên đến từng phòng để quan sát chúng tôi làm báo tường, tập ca hát, vẽ, hay làm trang trí.

Vài ngày trước ngày 2 tháng 9, 1975, cán bộ lại đến phòng rất sớm khi chúng tôi vừa mới thức dậy để gọi chuẩn bị lên hội trường. Mọi người lại trở nên sống động hẳn lên khi biết rằng hội trường đã được trang hoàng xong bởi những khẩu hiệu và bàn ghế che phủ bởi khăn bàn. Không có tập thể dục sáng hôm ấy, và vài trại viên bỏ cả phần ăn sáng mặc dù đã được chia phần rồi. Hy vọng có lẽ đã thành sự thật! Hầu như mọi người đều chọn những bộ quần áo đẹp nhất để mặc vào và sắp hàng chờ đợi. Những tiếng cười, những khuôn mặt vui tươi, và sự ồn ào náo nhiệt đã trở lại sau một thời gian dài im lặng! Hai tháng rưỡi kể từ ngày vào trại, đây là ngày vui vẻ nhất của trại viên. Vài người lại ngâm nga mấy câu hát của Vũ Thành An: “Ngày vui đã tới, chúng ta xây lại đời ta.”

Hội trường đầy những lá cờ của Mặt Trận Giải phóng và những băng khẩu hiệu đỏ chói. Bức ảnh lớn của Hồ Chí Minh treo như thường lệ trên tường phía cuối với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do” ở phía dưới. Một khẩu hiệu đặc biệt được chăng trên bức tường hông rất dễ nhìn khi bước vào hội trường: “Chào mừng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước”.

Tiếng vỗ tay của trại viên vang vội cả hội trường khi Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ tiến vào. Hai Côn, trại trưởng đọc một bài diễn văn khai mạc rất dài. Hắn ta nói những điều mà chúng tôi vẫn nghe trong mười bài học tập về sự thất bại của Đế Quốc Mỹ và của chủ nghĩa Đế Quốc, về chiến thắng của Cách Mạng Việt Nam và của chủ nghĩa Xã Hội. Để kết luận, hắn ta dùng câu nói của Hồ Chí Minh rằng: “Hà Nội, Hải Phòng, và những thành phố khác có thể bị phá hoại, nhưng thắng xong giặc Mỹ, chúng ta sẽ xây dựng lại mười lần đẹp hơn.” Hắn ta hy vọng rằng chúng tôi, những người được hưởng sự khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, sẽ góp phần xây dựng đất nước khi được trở về xã hội, và rồi hắn ta giới thiệu đồng chí Bào trại phó, sẽ đọc danh sách phóng thích.

Tất cả trại viên đều phấn khởi khi thấy “đồng chí Bào” với chiếc cặp da trên tay tiến đến chiếc máy vi âm. Hắn ta trân trọng rút ra một tờ giấy, đặt lên bục và nói:

“Để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, nhân danh Ban Giám Thị trại, hôm nay tôi xin loan báo danh sách phóng thích cho những trại viên đã thực hiện tiến bộ trong cải tạo và được về với xã hội để góp phần vào việc xây dựng lại đất nước. Khi được trở về xã hội, tất cả các anh phải thực hiện chính sách của chính quyền địa phương”.

Danh sách mà “đồng chí Bào” đọc chỉ gồm khoảng 20 tên, và rồi hắn ta trở về chổ ngồi mà không nói thêm lời nào nữa hết. Sau đó chúng tôi khám phá ra rằng những người được về trong danh sách phần lớn là những chuyên viên cần thiết và những người có công đã làm cho cách mạng trước đây. Mọi người trong hội trường chờ đợi trong im lặng. Sự chán nản và những tiếng thở dài thất vọng bao trùm cả hội trường.

Sau một phút, Hai Côn trở lại máy vi âm và nói rằng đối với những người còn ở lại để tiếp tục cải tạo, Đảng và Nhà Nước cho phép sẽ được nhận quà của gia đình hàng ba tháng một lần. Chúng tôi sẽ được phép viết thư về nhà để cho biết ngày giờ và địa điểm đến gửi quà cũng như những thứ cần thiết của chúng tôi. Và rồi Hai Côn tuyên bố bế mạc buổi lễ. Những tiếng vổ tay lác đác để tiễn chào Ban Giám thị và các cán bộ. Những sự kích thích khi trại viên đi lên hội trường đã nhường chổ cho sự chán nản khi chúng tôi trở về phòng.

Những ngày kế tiếp, chúng tôi không còn chuẩn bị gì cho ngày lễ Độc Lập; thay vào đó thì chúng tôi chỉ viết thư cho gia đình. Các cán bộ cũng không nhắc nhở gì đến việc này, và ngày lễ Độc Lập ấy trôi qua một cách lặng lẽ mà không có một nghi thức nào hết ngoài việc chúng tôi có thêm phần ăn tươi (một miếng thịt khoảng 3 ngón tay trong bữa ăn trưa và chiều).

Nhận quà của gia đình, quả là thê thảm! Chúng tôi sẽ ở trong trại bao lâu nữa đây? Mỗi 3 tháng một lần và rồi bao nhiêu lần nhận quà của gia đình nữa? Và rồi gia đình chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu để mà lo cho chúng tôi trong hoàn cảnh này? Trong lần đổi tiền vừa qua, hầu hết nhân dân miền Nam đã càng lúc càng nghèo hơn. Chính sách của Cộng Sản là tạo nên sự bình đẳng trong dân chúng, không phải là sự bình đẳng trong giàu sang mà là bình đẳng trong sự nghèo túng.

Tôi nghĩ đến gia đình tôi và không biết sẽ xin gì trong thư. Vợ tôi đang làm gì với đứa con mới chào đời? Mẹ tôi ra sao? Bà cũng vẫn ngồi bên bàn máy may hay đang làm gì? Mẹ tôi đã nuôi tôi lúc còn bé, giờ đây lại phải phụ với vợ tôi để nuôi tôi tiếp tục cuộc sống trong trại cải tạo! Cuộc đời bà chỉ là một sự hy sinh cho các con. Tôi không muốn mình là một gánh nặng cho gia đình. Nhưng tôi làm gì được đây trong hoàn cảnh khó khăn này? Tôi cố chọn những thứ thật rẻ và thật cần thiết để xin như muối mè, mắm ruốc, thuốc rê, hột giống rau muống, và thuốc cảm lạnh. Tôi cũng không quên hỏi về những tấm ảnh mới của con tôi. Tôi đã viết đi viết lại bức thư cho đến hạn cuối cùng mới chịu gửi đi và chờ đợi gói quà đầu tiên.

Một tuần sau, chiếc xe thùng chở đầy quà tiến vào trại vào buổi sáng sớm. Mọi người đều chờ đợi một cách nôn nao. Các đội trưởng đến hội trường để lấy danh sách những người có quà và cho phép trại viên tuần tự đi lấy quà. Những gói quà đã được mở ra để kiểm tra trước khi phát cho trại viên. Năm kí lô mỗi gói quà không thể nào gói hết được những món cần thiết, nhưng ít ra nó cũng gói ghém được tình thương của gia đình dành cho trại viên. Tôi run rẩy mở từng món để thưởng thức trọn vẹn tình cảm của mình. Có mười tấm hình của vợ con tôi. Bức thư thì còn được kiểm duyệt trước khi trao về cho tôi. Tôi mang hình đi khoe với chị vợ tôi và các bạn trong phòng. Con tôi đã lật qua được và không còn khóc đêm nữa. Em gái tôi cho biết rằng những tấm hình này là do đồng chí Ba Son, bạn của em tôi chụp dùm. Tôi không biết đồng chí ấy là ai, nhưng tôi cảm thấy không thích thú chút nào khi có người lạ trong gia đình mình. Nhưng mà trong hoàn cảnh mới của đất nước thì điều gì xảy ra khác hơn được đây? Giai đoạn của chúng tôi đã qua rồi. Bây giờ là giai đoạn của các “đồng chí!” Gia đình tôi cũng không thể nào ngoại lệ được. Tôi buồn rầu mà nghĩ rằng: “Đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.” Tôi nhớ lại câu nói ấy của Nguyễn Văn Thiệu rồi tự lắc đầu chán nản.

Mọi vui vẻ rồi cũng trôi qua, những lo buồn rồi cũng phải nhạt dần. Chúng tôi cũng phải trở về với cuộc sống hàng ngày trong trại. Ban Giám thị trại lại ra lệnh lao động tập thể trong toàn trại thay vì lao động cá thể, do đó đất đai lại được thu về cho trại. Tôi không còn giữ được những luống rau và khoai của riêng mình nữa. Mỗi sáng chúng tôi phải đi lao động trên những cánh đồng của trại ngoài những trại viên tới phiên trực để dọn dẹp vệ sinh hay lấy nước cho các trại viên khác. Cuốc xẻng cũng là của chung. Chúng tôi đã học tập về lao động tập thể trong mười bài học tập, và lúc này là lúc mà chúng tôi có cơ hội để thực hành những điều ấy. Đó là lời giải thích của Ban Giám thị trại.

Đất đai trong trại là loại đất sét pha trộn với đá sỏi ở trên đỉnh đồi nên rất cứng khi gặp nắng. Chúng tôi phải dùng cuốc chim để đào xới lên trước khi làm những luống thẳng tắp bằng cách chăng dây làm chuẩn. Đó là một thứ lao động rất nặng, nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn trẻ và vẫn còn sức lực. Những trại viên lớn tuổi thì không làm luống; họ cắt hom khoai lang và trồng lên những luống mà chúng tôi làm sẳn. Sau khoảng 1 tháng, quang cảnh trại thay đổi hẳn. Không còn đất trống; những luống khoai thẳng tắp song song với nhau trông như những đùn cát trong bãi sa mạc. Điều thay đổi nhiều nhất là mọi người trong trại trở thành nâu đen dưới ánh nắng mùa hè của miền nhiệt đới. Chúng tôi phải lao động mỗi sáng từ bảy giờ tới trưa. Tôi nghĩ đó là buổi đầu để chúng tôi tập làm quen với lao động chân tay. Ngoài ra cũng không đủ đất để hai ngàn trại viên trong trại canh tác. Chúng tôi vẫn còn được thời gian vào buổi chiều để làm những việc riêng. Tôi không còn đất để trồng rau được nữa, do đó tôi dùng hầu hết thời gian rảnh để vẽ hình vợ con tôi hay làm những sản phẩm mỹ nghệ khác.

Không phải trại viên nào cũng có quà gia đình, và năm kí lô không thể nào đủ cho ba tháng, do đó trại viên trở nên thiếu năng lượng sau một thời gian ngắn lao động nặng nhọc. Mặc dù lúc đó thì cơm cũng không đến nỗi ít lắm, nhưng thức ăn chỉ có canh với 1 ít bí đỏ và vài hạt đậu phọng thì không thể nào đủ cho cuộc sống. Vài người đã bị phù thũng và ghẻ ngứa. Những con cào cào, dế, và bọ cây đã trở thành những con tôm bay. Chuột, ếch nhái, rắn, và cắc kè đã trở thành những thứ thịt cao cấp. Rau dại càng lúc càng hiếm. Mọi cái gì không độc đều là những món ăn bằng cách này hay cách khác; chúng tôi đùa rằng cái gì nhúc nhích được là ăn được, con gì cũng ăn được ngoại trừ con bù lon!

Cái lon guigoz bằng nhôm là vật gần gũi với trại viên nhất. Chúng tôi gắn vào đấy cái quay cầm cho dễ mang đi khắp nơi. Vào buổi sáng khi đi lao động, nó là vật đựng nước uống, nó trở thành đồ để đựng những thứ cải thiện được trên hiện trường lao động, và trở thành cái nồi nấu khi trở về phòng. Khi chúng tôi ngồi trong hàng hay khi lên hội trường thì nó trở thành cái ghế. Thật là một vật có lợi cho chúng tôi! Tôi có thể nói đó là thứ hữu dụng nhất cho trại viên trong trại cải tạo, và chúng tôi gọi nó bằng cái tên là “gô”. Hũ chao sau khi ăn hết được làm thành điếu bát để hút thuốc lào hay làm đèn dầu. Chai nước tương thì được cắt miệng để làm ly uống nước. Không có cái gì bỏ phí hết!

Cuộc sống trong trại thì ngày này qua ngày khác đều diễn ra giống nhau: đi lao động, ăn uống, đợi nhận thư hay nhận quà, họp tổ đội trước khi đi ngủ, và làm mọi thứ linh tinh cho cuộc sống hàng ngày. Mọi ngày đều rất dài như là người xưa thường nói “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.”

Khoảng ba tháng sau thì một số nữ trại viên được thả về trong đó có cả chị vợ tôi, Lan; chị ấy bỏ lại đồ đạc cho tôi. Tôi cảm thấy mừng cho chị ấy, và cho cả vợ tôi nữa vì qua chị ấy vợ tôi có thể biết được sự thật về cuộc sống của tôi trong trại. Đó là nhóm cuối cùng được thả tại trại Long Thành ngoài vài trại viên thả ra lẻ tẻ do sự cần thiết của VC.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 18 Tết Ở Trại Long Thành


Lễ Tết đầu tiên ở trại cải tạo Long Thành đã được chuẩn bị chu đáo trước hàng tháng. Tết là một ngày lễ quan trọng nhất đối với người Việt vì đó là những ngày để gia đình có dịp gặp gỡ nhau, để nhớ lại ông bà tổ tiên, và cũng để ăn mừng thành công của mùa màng. Trong những ngày gần Tết, chúng tôi lại nghe tin đồn về việc VC sẽ bỏ cái Tết truyền thống Việt Nam để dùng Tết Dương Lịch thay vào hoặc dùng ngày Độc Lập của chúng để ăn Tết! Chúng tôi bảo nhau rằng đó là một ý kiến tồi tệ nhất vì họ không thể cấm được dân chúng tự ăn Tết lấy. Nhưng rồi Ban Giám Thị trại đã cho chúng tôi sửa soạn cái Tết đầu tiên trong trại như là một hành động để đánh tan dư luận ấy.

Mỗi khối có những nhóm khác nhau để lo chuẩn bị Tết gồm các tiết mục như ca nhạc, kịch, múa lân, làm báo tường, và trang trí. Bên cạnh đó thì có một nhóm để làm chung cho toàn trại như làm bánh chưng và bánh tét. Bánh chưng để tượng trưng cho đất mẹ, và bánh tét thì để nhắc nhở công trạng của vua Quang Trung đã đại phá quân Thanh nhân ngày Tết.- Làm cây nêu như một tượng trưng cho việc bảo vệ gia đình người Việt, và tổ chức những trò chơi chung như bóng chuyền, đá banh, nhảy bao bố, và bóng bàn.

Ngoài việc lo trang trí cho khối 3, tôi còn phải phụ làm cây nêu cho toàn trại. Cây nêu là một cây tre cao để treo những thứ tượng trưng như cái khánh, bánh pháo (giả), và câu liễng đỏ viết chử Tàu. Hai trại viên khác cùng với tôi được cán bộ dẫn đi lấy cây tre để làm cây nêu. Hôm đó là ngày 23 Tết, ngày đưa tiễn ông Táo, vị thần giữ nhà về chầu Thượng Đế. Gia đình người Việt thường tổ chức cúng tiễn ông Táo bằng những phẩm vật. Chúng tôi đến nhà của một người dân ở gần trại để xin họ một cây tre trong lúc họ đang cúng vái. Họ đã hỏi chúng tôi về cuộc sống trong trại, cho chúng tôi một ít đồ cúng và còn bảo rằng họ chỉ cho chúng tôi thôi chứ không cho cán bộ đâu!


Tôi rất lấy làm ngạc nhiên về cách nói này vì tôi nghĩ những người dân vùng này thường giúp đở VC trong chiến tranh. Khi thấy tên cán bộ ra ngoài, một bà cụ bảo chúng tôi rằng trong chiến tranh gia đình bà đã nuôi dấu VC, nhưng bây giờ thì chính họ lại bị bóc lột tận xương tủy. Trong chế độ cũ, họ không phải đóng thuế nông nghiệp, nhưng dưới cái gọi là chính quyền cách mạng, họ phải đóng góp hầu như tất cả những gì mà họ làm được cho cái thuế nông nghiệp ấy. Dân chúng càng lúc càng nghèo trong khi VC thì càng ngày càng giàu có.

Tám tháng ở trong trại và mười tháng kể từ ngày “giải phóng”, đó là lần đầu tiên tôi nghe những lời bày tỏ sự bất bình của người dân trong xã hội mới. Những người dân này lại là những người đã từng giúp đở VC trong chiến tranh. Tôi không dám tham gia vào cuộc nói chuyện mà chỉ lắng nghe và gật đầu.

Chúng tôi định sẽ treo đèn lồng trong trại và trong các phòng. Vài khẩu hiệu với những câu như: Chúc mừng Năm Mới hay Mừng Tết Bính Thìn, 1976 được treo ở cổng chính của trại và ở mỗi khối. Chúng tôi cắt những bông giấy màu vàng và màu hồng dán trên các cây trong trại để tượng trưng cho hoa mai và hoa đào. Hoa mai để tượng trưng cho Tết ở miền Nam, và hoa đào để tượng trưng cho Tết miền Bắc.

Trong những ngày Tết, các gia đình người Việt thường có những món tượng trưng như dưa hấu, pháo đỏ, bánh chưng và hoa mai, hoa đào. Chúng tôi cũng có hầu hết những thứ đó, nhưng có điều chỉ là những thứ giả mà thôi! Lần đầu tiên ăn Tết trong trại, chúng tôi đón mừng Tết một cách buồn bã thay vì vui tươi mặc dù chúng tôi đã chuẩn bị tất cả một cách chu đáo.

Vài ngày trước Tết, thời tiết hơi se lạnh và màu trời vàng vọt. Gió nhẹ thổi qua ngọn đồi Long Thành khiến tôi nhớ vô cùng cái Tết ở nhà cách đó khoảng 50 cây số. Ai đang chùi bộ lư trong nhà mà tôi vẫn thường chùi hàng năm? Tôi vẫn nhớ giọng nói oang oang của bà ngoại tôi đang hướng dẩn em gái tôi làm bánh mứt, những thứ đặc biệt vào mấy ngày Tết; đôi khi tôi cũng giúp bà để quậy nồi bánh đậu xanh. Còn đâu hơi thơm quen thuộc và ấm áp của hương trầm bao phủ khắp nhà đêm giao thừa. Mẹ tôi vẫn thường làm việc trong tiệm may của bà cho đến nửa đêm giao thừa, và có lúc tôi cũng phải phụ bà để hoàn tất công việc bởi vì những người thợ may thường đã về nhà họ để ăn Tết. Tôi không hề quên được cách xếp đặt bàn thờ để đón ông bà. Mọi thứ dường như hiện ra rất rõ trong tôi trong những ngày Tết đầu tiên xa nhà này.

Không có gì có thể thay thế được cái Tết trong gia đình! VC bảo rằng chúng tôi cần phải làm quen với cuộc sống cộng đồng. Chúng tôi phải làm sao đây nếu chúng tôi không muốn sống cộng đồng? Mọi người chuẩn bị cho ngày Tết mà không ai có vẻ hứng thú một chút nào.

Đêm giao thừa, ban giám thị và các cán bộ đến từng phòng giam chúc Tết cho chúng tôi. Chúng tôi phải thức để đón họ cho đến quá nửa đêm. Họ chúc rằng chúng tôi sẽ đạt được tiến bộ trong cải tạo ngỏ hầu sớm về với gia đình, nhưng không một ai còn tin tưởng vào những lời nói của họ nữa. Trong ngày đầu năm, chúng tôi cũng chúc mừng nhau như một thói quen, nhưng tôi biết đó chỉ là phép xã giao mà thôi!

Những trò chơi đã chuẩn bị rất kỷ lưởng, nhưng chỉ có vài trại viên ghi tên tham dự. Chúng tôi không thể nào lập được hai đội banh để chơi bóng tròn mà chỉ có chơi bóng chuyền giữa ba khối 1, 3 và 4. Điều ngộ nghĩnh mà tôi vẫn nhớ là trong lần thi đấu nhảy bao bố thì hai người đạt giải nhất lại là hai người có một chân: đó là Nhàn, nguyên là cộng tác viên của tôi, và ông Đại Tá Phấn, nguyên đô trưởng Sài Gòn.

Mọi người vẫn hy vọng một cách mơ hồ về việc tha ra khỏi trại vào ngày Tết, nhưng rồi 3 ngày Tết đã trôi qua trong lặng lẽ. Sau Tết vài ngày thì những chiếc xe chở đầy gạch xi măng đem vào trại. Chúng tôi tự hỏi họ đang định làm gì đây? Tôi thì nghĩ VC đang chuẩn bị để xây tường để củng cố trại. Chúng tôi lại phải đem gạch chất thành đống dọc theo hai bên con đường chính, và rồi sau đó thì những bức tường lại được xây lên dọc theo 2 bên đường, bao quanh trại, và ngăn cách các nhà với nhau. Không gian của chúng tôi càng lúc càng hẹp lại dần

Chương 19 Thăm Nuôi Lần Đầu

Ngày 19 tháng 8 năm 1976, để mừng sinh nhật của Hồ Chí Minh, chúng tôi không đi lao động mà đi lên hội trường. VC gọi đó là để chào mừng ba ngày lễ lớn gồm có ngày 19 tháng 8 sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày Nam Bộ Kháng Chiến 23 tháng 8 và ngày lễ Quốc Khánh 2 tháng 9. Tôi chẳng muốn lên hội trường để nghe những bài diễn văn của chúng, nhưng chẳng có đường nào để tránh. Thêm nữa, chúng tôi không phải đi lao động và còn có ăn tươi, ít ra cũng có một ít thịt.

Cờ xí và biểu ngữ treo đầy trong hội trường trước đó mấy ngày. Kể từ khi Việt Nam thống nhất, chúng tôi không còn nhìn thấy lá cờ ba màu của cái gọi là Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ở đâu nữa mà chỉ còn thấy lá cờ máu của Bắc Việt. Thêm một lần nữa, người dân miền Nam đã bị lợi dụng lòng yêu nước để VC biến cả nước thành một nước Cộng Sản. Tôi tự hỏi không biết ai là Ngụy đây?

Trang trí trong hội trường luôn luôn như cũ với tấm hình Hồ treo giữa bức tường cuối, gần bên cái bục nơi các cán bộ ngồi, câu khẩu hiệu “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do” phía dưới. Lần này thì chúng tôi ngồi trên những hàng băng ghế chứ không ngồi dưới đất nữa. Kể từ khi bắt đầu lao động, trại viên trong khối 2 làm trong hội trường để đan rổ rá, làm chổi, và vài sản phẫm bằng tre. Vì họ đa số lớn tuổi nên được phân công làm những việc nhẹ hơn. Thêm vào đó thì cũng không đủ đất cho gần hai ngàn trại viên lao động. Những trại viên trong khối 2 đã thu nhặt gỗ ở những căn lều cũ cho nạn nhân chiến cuộc để làm những hàng ghế băng trong hội trường. Những cây gỗ mười phân vuông đã được chôn xuống nền đất của hội trường để làm chân ghế và đóng thành những thanh ngang để làm mặt ghế. Những hàng băng ghế này ngồi cũng chẳng thoải mái chút nào, nhưng dù sao thì chúng tôi cũng không phải ngồi xuống đất nữa.

Cái bục cũng đã được làm cố định ở cuối hội trường và đặt sẳn bàn ghế cho cán bộ mỗi lần có hội họp.

Rất nhiều cán bộ vào hội trường sáng hôm ấy. Sau khi đứng lên ngồi xuống mấy lần để chào đón ban giám thị như thường lệ, Thùy, giám thị trưởng giới thiệu nhà văn Hoài Thanh người sẽ thuyết trình về đề tài thơ của Hồ Chí Minh. Thùy nói rằng Hoài Thanh là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, nhưng không ai trong chúng tôi biết về ông ta.

Hoài Thanh khoảng trên năm mươi, hơi mập và lùn với khuôn mặt vuông và hai gò má bầu. Ông ta mặc áo bỏ vào trong quần chứ không bỏ ngoài như những cán bộ cao cấp khác, và ông ta lại thắt cà vạt nữa! Một điều khác đã làm chúng tôi ngạc nhiên là khi ông ta ngồi vào chổ thì một cán bộ lại đem đến một chai bia thay vì ly nước như thường lệ!

Tôi cũng không nhớ nhiều về những điều mà Hoài Thanh đã nói trong buổi diễn thuyết về thơ của Hồ vì thơ của Hồ rất tầm thường, có thể nói là giống như thi ca hò vè của Việt Nam, có khi còn dở hơn, với những bài thơ lục bát, ngoài một tập thơ bằng chử Hán tên là “Ngục Trung Nhật Ký” mà chúng tôi nghĩ là không phải của hắn ta. Điều duy nhất tôi nhớ về Hoài Thanh là lời mở đầu của ông ta với một câu rất bạo là: “Thơ của Hồ Chủ tịch sở dĩ hay vì đó là thơ của Hồ Chủ tịch!” Tôi không biết sao ông ta lại dám nói như vậy trong một bài diễn thuyết cho chúng tôi nghe? Một sự nhạo báng Hồ là một trọng tội trong quốc gia của VC! Nhưng tôi nghĩ chắc là các cán bộ cũng không hiểu ẩn ý của lời ông ta nói vì khi thấy chúng tôi vỗ tay thì họ cũng vỗ tay theo.

Khoảng giữa trưa, sau khi Hoài Thanh rời hội trường, trại phó Bào lên nói vài điều về ba ngày lễ lớn. Để kết luận, ông ta nói rằng để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, trại cho phép chúng tôi có cơ hội để thăm gặp gia đình trong hai ngày 1 và 2 tháng 9.

Mười bốn tháng kể từ lúc vào trại, có lẽ đây là lúc mà tôi thấy kích động nhất.

Sau khi đã nghe chính sách của Đảng và Nhà Nước về ba năm tập trung cải tạo, tôi không còn tin tưởng được nữa. Đầu tiên thì chúng bảo rằng chúng tôi phải mang theo thức ăn cùng quần áo chăn màn cho một tháng, và bây giờ thì ba năm tập trung cải tạo và sẽ được tha ra khỏi trại khi đạt được tiến bộ. Chúng lại chơi chữ một lần nữa! Thế nào là tiến bộ? Không ai có thể giải thích được hay biết được điều này. Tôi nghĩ rằng điều đó có nghĩa là chúng có thể giử chúng tôi mãi mãi hay có thể thả chúng tôi bất cứ khi nào nếu chúng muốn.

Con đường trở về với gia đình của tôi đã bị tắt nghẽn! Cuộc sống còn lại của tôi, ngay cả nếu ở ngoài xã hội thì cũng chỉ là một sự vô vọng mà thôi. Sống trong trại cải tạo thì cũng giống như một cuộc sống không có linh hồn. Ngày này qua ngày khác, tôi sinh hoạt như một cái bóng: làm việc, ăn, ngủ với tiếng kẻng giống như một người máy hoặc như con chó Pavlov. Tâm tư tôi không còn hiện hữu trong tôi nữa. Đôi khi tôi vừa làm việc mà lại vừa nghĩ tới gia đình tôi, ngay cả trong giấc ngủ. Họ chính là cứu cánh của cuộc đời tôi. Được gặp gia đình, đó quả là sự kích thích vô cùng đối với tôi, và với những người khác nữa! Viết thư và hai tuần lể chờ đợi, quả là lâu.

Tôi cũng không biết viết gì trong thư cho gia đình khi mà bức thư ấy sẽ bị các cán bộ kiểm duyệt cẩn thận. Họ không muốn chúng tôi suy nghĩ nhiều về gia đình để mà an tâm cải tạo và tin tưởng tuyệt đối vào chính sách của Đảng và Nhà Nước. Thật là một điều rất buồn cười khi bảo chúng tôi phải yên tâm để ở tù và tin tưởng vào những lời nói dối của chúng! Nhưng chúng tôi cũng phải nói như vậy như một con vẹt. Ở trong trại cải tạo, chúng tôi không những chỉ bị cưỡng bức lao động mà còn bị cưỡng bức suy tư nữa. Trong bức thư cho gia đình gửi qua cán bộ, tôi chỉ viết để báo tin cho gia đình tôi về việc thăm nuôi cùng ngày giờ và địa điểm, hỏi thăm về bà ngoại tôi, mẹ tôi, về vợ con tôi cùng mọi người trong gia đình. Tôi lén viết một bức thư khác cho vợ tôi và dấu trong cái quai của cái giỏ xách dự định sẽ mang ra cho gia đình tôi hôm thăm nuôi mặc dù tôi cũng biết trước là họ sẽ khám xét rất kỹ. Tôi muốn cho vợ tôi biết rằng ngày trở về của tôi chắc là còn lâu lắm; mà vợ tôi hãy còn trẻ. Tôi muốn cô ta hãy quên tôi đi mà làm lại cuộc đời khác, nhưng rồi tôi lại không đủ can đảm để viết điều ấy. Tôi chỉ viết để khuyến khích vợ tôi hãy sống trong một xã hội mới không có tôi. Tôi yêu cô ấy nhưng lại không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời. Tôi chỉ muốn được gặp con trai tôi và nghĩ rằng vợ tôi sẽ tự nuôi con được cho dù cô ấy có rời tôi đi nữa.

Trong những ngày này, chúng tôi lại bận rộn di chuyển trong trại vì có một số trại viên mới đến. Họ là những thành phần được gọi là nạn nhân của chế độ cũ, gái điếm và gái bán bar và được đưa vào trại để được “phục hồi nhân phẩm”, một danh từ mới để thay thế cho việc bỏ tù! Những trại viên mới này được ở trong ba nhà ở khối 1. Chúng tôi phải dồn lại và khối 3 chỉ còn ở trong hai nhà thay vì ba như trước; những cái sạp gỗ của chúng tôi phải được đặt sát vào nhau.

Ngày 1 tháng 9, ngày đầu tiên trong lịch trình thăm nuôi, tất cả chúng tôi rất kích thích. Mọi người đều chọn những bộ quần áo đẹp nhất để chuẩn bị. Sau hơn 14 tháng lao động trong trại, bộ đồ đẹp nhất của tôi là cái quần đã sờn gối và cái áo đã sờn cổ! Khoảng chín giờ sáng, vài người đã được gọi ra để thăm gặp gia đình. Họ mang theo những cái giỏ xách trống, xếp vào hàng để được khám xét, và rồi đi ra. Tôi cũng chờ đợi trong sự nôn nao. Tôi không biết là gia đình mình sẽ lên thăm hôm nay hay ngày mai. Bức thư viết riêng cho vợ tôi cũng đã dấu kỹ trong tay xách của cái giỏ. Tôi nhìn cách khám xét của họ mà cảm thấy hơi an lòng.

Khoảng trưa, Điệp và tôi được gọi cùng lúc; tôi nghĩ chắc hai gia đình đã đi chung vì hai nhà ở gần nhau. Đã bắt đầu đông trại viên được thăm nuôi vào thời gian ấy, do đó việc khám xét dễ dàng hơn. Bà ngoại tôi, mẹ tôi cùng vợ con tôi đến thăm. Tôi nhìn thấy mọi người khi đi đến gần nhà thăm nuôi, đặc biệt là vợ tôi đang ẵm con trong tay. Con tôi trông rất nhỏ nhắn, hoặc là đã quá lâu tôi không nhìn thấy một đứa bé, tôi không biết rõ. Vợ tôi thì trông gầy hơn trước dù rằng cô ấy vốn cũng đã gầy rồi. Tôi cảm thấy tội nghiệp vợ tôi vì đã chịu quá nhiều đau khổ. Ba năm hạnh phúc không đáng để cô ấy phải trải qua những đau khổ này.

Mười lăm phút không thể đủ để chúng tôi nói với nhau những điều muốn nói, và thêm vào đó còn có cán bộ quan sát nữa. Họ luôn muốn chúng tôi nói dối về tình trạng của chúng tôi. Những cuộc đối thoại của chúng tôi toàn là những lời nói dối, nhưng chúng tôi lại hiểu nhau qua những lời nói dối ấy. Tôi thử bế con tôi, nhưng nó lại khóc đòi mẹ. Bà ngoại tôi thì trông rõ ràng là già và gầy hơn, nhưng giọng bà vẫn oang oang. Đó là lần cuối cùng tôi gặp bà, và cái hôn giã từ tôi vẫn nhớ mãi. Mẹ tôi không nói lời nào. Tôi nắm tay mẹ tôi và nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ tôi. Mẹ tôi đã chịu đựng quá nhiều đau khổ kể từ khi ba tôi rời gia đình đi vào mật khu và chết trong ấy. Cả cuộc đời mẹ tôi đã hiến cho con cái. Tôi không biết nói gì với mẹ tôi mà chỉ nhìn bà.

Tôi nói nhỏ với vợ tôi về bức thư trong cái quai của túi xách, và vợ tôi cũng cho tôi biết cô ta có viết cho tôi bức thư để trong hộp mắm ruốc. Dấu thư trong hộp mắm ruốc, một món đồ vừa nhầy nhụa lại hôi nữa, quả là một sáng kiến! Tôi nhìn thấy vợ tôi khóc khi tôi hôn nàng lúc từ giã. Mười lăm phút thăm gặp đã trôi qua. Mọi người đứng lên một cách uể oải như muốn kéo dài thêm giây phút giã từ! Các cán bộ phải bảo trại viên xếp hàng nhanh lên để vào trại nhường chổ cho nhóm khác; đó có lẽ là phương cách duy nhất để chấm dứt thời gian thăm nuôi. Tôi xách hai túi quà chậm chạp đi xếp hàng. Vợ tôi quay đi chổ khác để giấu những giọt nước mắt. Sự nao nức lúc chờ đợi đã nhường chỗ cho sự buồn bã lúc chia tay. Trại viên bước vào trại mà còn quay mặt lại cho đến khi đã đi qua khỏi cổng trại, cánh cổng ngăn cách hai nhà tù: nhà tù của các trại viên trong trại cải tạo và nhà tù cho dân chúng trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

Có quá nhiều trại viên thăm nuôi cho nên việc khám xét càng lúc càng dễ dàng hơn. Không có đủ cán bộ, họ cho phép vài trại viên đội trưởng phụ làm việc này. Tôi xếp mọi vật riêng rẽ ra từng cái một trên sàn của hội trường. Cán bộ chỉ đứng quan sát trong khi một trại viên của khối 1 xét đồ đạc tôi bằng cách cầm lên rồi đặt xuống từng món một chứ không hề mở ra. Tôi lo cho bức thư của vợ tôi, nhưng mọi việc diễn ra êm xuôi.

Bức thư mười trang giấy mà vợ tôi đã viết cả tuần trước khi đến thăm tôi. Vợ tôi bảo rằng cô ta sẽ không có thời gian và cơ hội để nói với tôi những điều mà cô ấy đã trải qua từ lúc rời trường Chu Văn An về với gia đình. Điều ấy đã từng xảy ra thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình ở Việt Nam! Sự xung đột giữa gia đình chồng với người vợ luôn là đề tài chính trong nhiều gia đình. Người Việt Nam thường sống với nhau cả 3 thế hệ dưới một mái nhà, do đó sự đối kháng này khó có thể tránh được, đặc biệt là khi người vợ, một người lạ, sống một mình trong gia đình bên chồng. Cái gọi là mẹ chồng và em chồng là những điều đã xảy ra tự ngàn xưa, tiếp tục đến bây giờ, và không biết còn xảy ra bao lâu nữa? Tôi đã biết điều này từ ngày đầu tiên chúng tôi sống chung, và tôi cũng đã cố gắng để có mái nhà riêng. Nhưng khi vợ tôi trở về lại với gia đình thì mọi cái lại trở lại như cũ, có thể còn xấu hơn vì không còn tôi ở nhà nữa. Điều khó khăn cho vợ tôi là trong xã hội mới này, vì là nhân viên của chế độ cũ, vợ tôi không thể tìm được việc làm nào cho cuộc sống mà phải chia xẻ cảnh nghèo với gia đình tôi. Thêm vào đó, theo một thói tục cũ của Việt Nam, người đàn bà khi đã có chồng thì phải ở chung với gia đình bên chồng một khi người chồng xa nhà, vợ tôi không thể nào làm khác hơn.

Về tình trạng của gia đình tôi, vợ tôi không nói gì rõ ràng mà chỉ viết rằng cô ấy đã phải thường xuyên đi xếp hàng để mua gạo và mọi vật dụng trong gia đình, nhưng ít ra thì cô ấy cũng mua được vài món. Con tôi thì cũng đủ sữa trộn với nước cháo, và mặc dù bà ngoại tôi rất ghiền cà phê sữa, bà cũng phải nhường sữa cho cháu. Không những trong trại chúng tôi học cách nói dối mà cả bên ngoài mọi người đều làm chuyện ấy. Chúng tôi nói dối nhau và lại hiểu nhau qua lời nói dối ấy.

Đất nước thì tả tơi; dân chúng trong nước thì nghèo nàn, nhưng mọi người phải nói rằng đất nước ta giàu đẹp; khó khăn chỉ là tạm thời! (Tạm thời đến bao giờ, hay là mãi mãi?) Tôi biết về tình trạng của gia đình mình nên đã không xin gì cả. Tôi không muốn làm gánh nặng cho họ. Những gói quà của gia đình giúp tôi rất nhiều trong trại, nhưng lại là mối lo cho gia đình tôi vì họ phải chia xẻ cho tôi phần đã quá ít oi của họ. Tôi không thể nào hiểu nổi một quốc gia mà người dân lại phải xếp hàng để mua mọi thứ cần thiết cho đời sống của họ. Đó chính là một minh chứng hùng hồn cho câu nói “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì mà Cộng Sản làm”.

Đêm ấy, tôi không thể nào ngủ được mà cứ nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những gì sẽ viết trả lời cho thư vợ tôi. Tôi có thể viết gì bây giờ trong cảnh này ngoài việc trấn an cô ta với tình yêu của tôi? Tôi cũng không biết được tình yêu của mình sẽ là sự an ủi hay là nỗi tuyệt vọng cho vợ tôi. Mới có 25 tuổi, cô ấy đã phải đè nén bao nhiêu ham muốn để sống một mình nuôi con và chờ đợi cho một mối tình viễn vông và vô vọng, quả là một hoàn cảnh ngang trái! Trong thư của vợ tôi, cô ấy viết rằng cô ấy rất hạnh phúc khi có được tình yêu của tôi dành cho cô ấy, một mối tình mà không dễ gì ai cũng có được. Cô ấy có ý muốn đợi tôi ba năm như chính sách của Đảng và Nhà Nước quy định cho các trại viên trong trại cải tạo, nhưng điều gì đây nếu đó không phải là ba năm. Cô ấy không biết cô ấy sẽ ra sao đây nếu mà chúng tôi chỉ còn gặp được nhau khi tóc đã bạc!

Tôi trả lời thư của vợ tôi thế nào đây khi mà chính tôi cũng không tin điều mà VC đã nói? Đời tôi thì hình như đã hết rồi, còn vợ tôi thì thế nào? Tôi không muốn ích kỷ, nhưng tôi phải nói gì đây? Tôi vẫn nhớ câu nói : “mất đất nước vào tay Cộng Sản là mất tất cả”. Nhưng mà tôi biết rằng vợ tôi sẽ không bỏ tôi được đến khi cô ấy không còn hy vọng gì, hoặc là khi tôi đã chết. Đôi lúc tôi cũng có nghĩ đến cái chết như một sự giải thoát khỏi mọi đau khổ cho chính tôi và cho vợ tôi nữa. Tôi nghĩ đến mọi điều nhưng rồi chỉ viết ra những diễn biến trong tâm tư tôi khi tôi được gặp vợ con và gia đình mình. Nhìn cảnh tượng vợ tôi ôm con, tôi biết rằng cô ấy đang hạnh phúc vì đứa con chính là những gì mà cô ấy đã mong ước.

Ngày 2 tháng 9, ngày lễ Độc Lập của VC, nhưng cũng không có tổ chức lễ lộc gì vì họ bận rộn cho ngày thăm nuôi cuối cùng của trại viên. Tôi không còn chờ đợi ai đến thăm nữa mà chỉ ngồi tại chỗ đọc đi đọc lại bức thư và suy nghĩ về vợ con tôi. Khoảng trưa, Điệp lại được gọi ra để nhận thêm quà. Anh ta cho tôi biết rằng tôi có một gói nhỏ kèm theo. Vợ tôi gửi thêm cho tôi một ít mì khô và quan trọng hơn là bức thư mà tôi nghĩ là cô ấy dấu bên trong. Tôi lục kỹ và tìm ra bức thư nằm giữa cuộn mì khô. Vợ tôi viết về những diễn biến trong tâm tư của cô ấy khi gặp tôi rằng cô ấy đã run rẩy và đổ mồ hôi giống như là bị bịnh khi thấy tôi đi từ trong trại ra. Vợ tôi bảo là cô ấy nghĩ tôi đến từ địa ngục, và nghĩ rằng cô ấy chắc không thể nào gặp lại tôi được. Trên đường về nhà, những người đi cùng còn bảo rằng ai mà hôn vợ sẽ bị phạt khi trở vào trại và hỏi tôi có bị phạt không(?) Cô ấy muốn sẽ vượt qua mọi khó khăn để đợi tôi.

Tôi yêu cô ấy nhiều, nhưng tôi không muốn để cô ấy thất vọng. Tôi không biết làm sao để cho cô ấy biết điều ấy. Mặt khác, cô ấy đang sống trong hy vọng và hạnh phúc với đứa con. Tôi không thể tiêu diệt giấc mơ của vợ tôi. Người ta bảo rằng: sống là hy vọng; cô ấy đang sống, do đó tôi không thể giết chết sự sống của cô ấy. Trong thư, tôi đã viết rằng tôi sẽ yêu cô ấy mãi cho dù cô ấy có sống trong một cuộc sống khác không có tôi đi nữa! Tôi không muốn cô ấy bỏ phí cuộc đời để đợi tôi, nhưng thật tình thì trong thâm tâm tôi vẫn mong một ngày trở về với cô ấy. Dù không tin vào thời gian ba năm cải tạo như VC đã nói, nhưng tôi vẫn hy vọng điều đó là đúng. Hai mặt trái ngược luôn luôn xung đột trong lòng tôi khiến tôi không đi tới một quyết định nào được nữa.

Thời gian thăm gặp đã hết, trong lúc chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau thì có vài chiếc xe đò trống đi vào trại đậu ở gần cổng chính. Điều gì xảy ra đây? Kể từ khi những người được gọi là nạn nhân của chế độ cũ đến trại chúng tôi cũng chờ đợi cho sự việc xảy ra. Nhưng chúng tôi không mong nó xảy ra quá cận lúc chúng tôi vừa thăm nuôi. Đồ đạc chúng tôi quá cồng kềnh. Chúng tôi phải gói gọn chúng lại mặc dù chưa ai nói điều gì hết.

Mười giờ tối hôm ấy, Tư Điệp và Bảy Sói, hai cán bộ phụ trách khối 3 đến gọi chúng tôi sửa soạn để di chuyển. Chỉ vài người đang nấu ở nhà bếp là còn ở lại để nấu nướng vài ngày chờ bàn giao lại cho những trại viên mới. Chúng tôi hầu hết đã chuẩn bị và chờ đợi, nhưng chưa biết chắc mình sẽ đi đâu. Một nhóm đã đi sang trại Thủ Đức vài ngày trước khi những nạn nhân của chế độ cũ đến. Chúng tôi chắc cũng vậy thôi. Vợ tôi cũng đã nói cho biết rằng Linh, anh rể của vợ tôi đã đi khỏi trại Thủ Đức đến một trại nào đó ở miền Bắc, do đó có lẽ chúng tôi sẽ thay thế các trại viên ở trại Thủ Đức. Vài ngày trước khi thăm gặp gia đình, ban giám thị đã chiếu cho chúng tôi xem phim có tựa đề “Chuyện Chúng Mình” nói về đời sống của một trại viên trong một trại ở miền Bắc, và tôi nghĩ đó chính là chuẩn bị tinh thần chúng tôi cho cuộc di chuyển này. Tôi đã sẵn sàng, không còn lo lắng gì cả vì ít ra tôi đã gặp được gia đình tôi. Nếu điều gì đó xảy đến cho tôi, tôi sẽ chấp nhận nó như một điều dĩ nhiên.

Khoảng nửa đêm, chúng tôi rời khỏi trại Long Thành sau một năm hai tháng mười tám ngày ở trại này.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Phần 3

Chương 20
Trại Cải Tạo Thủ Đức

Cảm tưởng đầu tiên khi đến trại Thủ Đức là chúng tôi thật sự ở tù! Trại là trung tâm cải huấn nữ can phạm của thời Việt Nam Cộng Hòa. Nó đã được xây dựng từ thời thực dân Pháp, tôi không biết rõ lắm, nhưng quả thật là rất kiên cố. Gần mười lăm tháng ở trại Long Thành, chúng tôi chưa hề bị nhốt trong phòng giam, nhưng khi vừa đến trại Thủ Đức, điều đầu tiên mà họ làm là khóa trái cửa phòng lại ngay sau khi chúng tôi đi vào.

Trại nằm trong thị xã Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 15 cấy số. Một vòng rào làm bằng tường xi măng bao quanh trại với kẽm gai bên trên. Hai bên của cánh cổng chính bằng sắt là hai vọng gác. Ở mỗi góc tường có một chòi canh. Một cái sân rộng phía sau cổng chính dẫn đến một bức tường ngăn cách sân với khu trại giam bên trong; chỉ có một cánh cổng nhỏ ở bức tường ấy. Vài kiến trúc ở phía góc sân được dùng làm văn phòng cho cán bộ và cho ban giám thị. Qua bức tường ấy, chúng tôi đã phải đi giữa một con hẻm hẹp khoảng một mét rưỡi có hai bức tường ở hai bên trông giống như giao thông hào.

Đầu tiên, tôi được dẫn vào một phòng giam ở khu B. Có hai cái bục xây bằng xi măng cao khoảng một thước ở sát hai bên tường. Phần giữa hai bục ấy là lối đi dẫn đến một cái nhà cầu ở cuối phòng. Những bức tường xây quanh cái sân nhỏ phía trước phòng giam, do đó chúng tôi chỉ thấy được những người cùng buồng giam chứ không thể nhìn thấy được những người ở khác buồng. Bốn mươi người được nhốt trong một phòng giam có một nhà cầu với hai lỗ cầu được thông bằng nước và một vòi tắm. Ít ra thì nó cũng sạch sẻ hơn cái cầu xí ở Long Thành.

Vài ngày sau, họ di chuyển tôi đến nhà giam số 4 trong khu A cùng với các bạn khác; chúng tôi chuẩn bị để di chuyển! Hình bát giác của nhà giam số 4 khiến nó trông giống như ngôi nhà thờ. Vài người nói rằng nó cũng đã từng là nhà nguyện cho các nữ tu đạo Công giáo, và trại Thủ Đức này cũng từng là nhà dòng.

Nhà giam số 4 giam được khoảng bốn trăm người. Chúng tôi ngủ trên những cái bục xi măng cao hơn lối đi khoảng một thước. Một cái nhà vệ sinh lớn nằm phía bên phải của phòng giam có bốn lỗ cầu, hai vòi tắm và một bồn rửa mặt. Có rất nhiều khung cửa sổ chung quanh với những song sắt và một cánh cửa duy nhất đi ra một cái sân rộng ở gần cổng đi ra sân trước của trại. Ba buồng giam khác nằm đối diện với phòng giam số 4 cũng thuộc khu A, do đó chúng tôi có thể trông thấy các bạn tù khác ở những phòng giam kia. Tất cả chúng tôi trong khu A là được chuẩn bị để di chuyển. Trại Thủ Đức chỉ là trạm trung chuyển, do đó chúng tôi không phải làm gì cả ngoại trừ người nào muốn tình nguyện đi bửa củi cho nhà bếp.

Mỗi sáng, một cán bộ đến buồng giam để mở cửa; ông ta đứng ở cửa, và chúng tôi phải ngồi tại chổ đếm số theo thứ tự từ số 1 đến số cuối cùng. Chúng tôi chỉ có nửa giờ để ra ngoài sân phơi nắng hay tập thể dục rồi lại phải vào lại buồng giam để nghe đọc báo cho đến giờ cơm trưa. Buổi chiều, chúng tôi thay phiên nhau để tắm giặt. Sau khi ăn chiều, cán bộ lại đến để kiểm tra trước khi đóng cửa buồng giam; đôi khi chúng tôi phải đứng xếp hàng ở trong sân để điểm vào phòng, nhưng thường thì cũng ngồi đếm số trong phòng giống như buổi sáng.

Khi chúng tôi đến trại Thủ Đức, đã có hai nhóm trại viên di chuyển khỏi trại để đi đến trại nào đó ở miền Bắc Việt Nam. Đó là hai nhóm từ trại Long Thành: nhóm thứ nhất đã rời trại Long Thành sau mấy tuần đầu và nhóm nữa thì mới vừa rời trại Long Thành cách đó không lâu. Tôi nghe nói họ được chuyển đi trại Nam Hà ở miền Bắc.

Lần này là đến phiên chúng tôi.

Thời gian ở trại Thủ Đức là lúc mà chúng tôi khỏe nhất trong các trại cải tạo. Ngoài việc không phải làm gì, chúng tôi còn được ăn uống tương đối đầy đủ hàng bữa với cơm và canh cà chua hay bí xanh cùng một ít thịt. Chúng tôi bảo nhau rằng họ bồi dưởng chúng tôi để sẵn sàng đi lao động khổ sai! Đó là câu nói đùa nhưng cũng không xa với thật tế.

Khoảng mười ngày sau, vài nhóm trại viên khác đến lấp đầy các phòng giam ở trại Thủ Đức, và số còn lại ở trại Long Thành cũng được đưa qua đây luôn. Các cán bộ đến phòng giam số 4 để đọc danh sách các trại viên chuẩn bị để di chuyển, ai không có tên thì được dời sang phòng giam khác. Tôi thuộc nhóm di chuyển.

Chúng tôi không làm gì nữa kể từ hôm ấy, chỉ túm tụm nhau bàn tán về cái trại sắp tới.

Hai hôm sau, một cán bộ đến phòng giam số 4 và gọi Tuân cùng tôi đi hỏi cung, và rồi hai chúng tôi được dời sang một phòng giam khác để số còn lại chuyển đi vào đêm hôm ấy. Họ được di chuyển đến trại Lào Kai và Quảng Ninh ở miền Bắc Việt Nam
Chương 21 Tôi Ở Lại Đề Điều Tra

Thật ra thì không có gì đặc biệt để kể về trại Thủ Đức vì đó chỉ là một trạm trung chuyển!

Khi Tuân và tôi ở lại để bị hỏi cung thì họ chuyển chúng tôi đến khu B của trại.

Ngoại trừ khu A có bốn phòng giam có chung cái sân rộng, các nhà khác trong trại đều được ngăn cách nhau bởi những bức tường, do đó trại viên trong các nhà giam khác nhau không thể trông thấy nhau được ngoại trừ lúc đi lãnh cơm ở nhà bếp. Nhưng luôn luôn có một cán bộ hay một thi đua đi kèm.

Có nhiều loại trại viên được giam ở trại Thủ Đức như: tội phạm hình sự, những người trong cái mà VC gọi là “những tổ chức phản động”, những người đã đứng lên chống lại Cộng Sản sau ngày 30 tháng tư năm 1975, những người tổ chức vượt biên hay vượt biên bị bắt lại, những nhà triệu phú bị bắt khi VC đánh tư sản mại bản trong chiến dịch “cải tạo kinh tế tư bản”, và những nhân viên của chế độ cũ. Họ giam mỗi loại trong mỗi khu khác nhau. Khu A là để dành cho những trại viên tạm thời chờ đợi để di chuyển. Khu B giam những nhân viên chế độ cũ và các nhà triệu phú. Khu C giam giữ tội phạm hình sự, các người trong những tổ chức chống đối và thuyền nhân.
Không như ở trại Long Thành, tôi không thể biết được có bao nhiêu trại viên trong trại Thủ Đức vì họ được đưa đến và chuyển đi liên tục và vì chúng tôi không trông thấy nhau.

Cái gọi là khu B thì chỉ có một dãy nhà với hai buồng giam và cái sân phía trước bao quanh bởi các bức tường. Khi được đưa đến đây, đã có khoảng một trăm trại viên khác ở đó trước rồi. Họ đã được chuyển đến từ trại Long Thành và chưa được chuyển đi ra miền Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự hiện diện của vài người như các ông Cang, nguyên đặc ủy trưởng của cơ quan tình báo, Trang trưởng ban A8, Lương trưởng ban A10, Việp và Nhụ chánh nhất tòa thượng thẫm Sài Gòn. Trong phòng giam số 1, hầu hết các trại viên là nhân viên củ của chính quyền Nam Việt Nam và vài triệu phú như dược sĩ La Thành Nghệ, ông vua kẽm gai Hoàng Kim Qui. Phòng giam số 2 gồm các trại viên từng làm trong lực lượng cảnh sát và cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa.

Chúng tôi không phải làm gì suốt thời gian ở khu B, và do một lý do gì đó mà tôi không rõ, ban giám thị trại lại dường như rất dễ dàng đối với chúng tôi hơn lúc nào hết. Họ không đóng cửa phòng giam cho đến sáu giờ chiều mỗi ngày và cho phép chúng tôi được đi lại trong sân, nấu nướng và tập thể dục.

Cuộc hỏi cung đã được diễn ra gần hai tháng. Đầu tiên tôi phải đi làm việc hàng ngày rồi về phòng viết đi viết lại bản khai báo những điều mà họ hỏi. Sau đó, thỉnh thoảng họ mới kêu tôi lên một lần, và rồi họ không còn gặp tôi nữa vì có lẽ đã xong.

Điều họ muốn hỏi tôi là tất cả những gì mà tôi biết được có liên quan đến “lực lượng thứ ba”, những người mà tôi đã theo dõi từ năm 1970 đến 1972 trước khi tôi làm việc cho ban A17. Vài người trong nhóm này đang làm việc cho VC như bà Ngô Bá Thành, hiện đang làm dân biểu trong quốc hội của VC. Họ cũng đã là những người đã từng làm xáo trộn hậu phương để giúp cho VC có thêm cơ hội để thôn tính miền Nam Việt Nam. Tôi chẳng ưa bọn này vì họ là những người đứng cửa giữa để hưởng lợi của cả hai phía.

Tôi nghĩ rằng những điều mà tôi biết về Lực Lượng Thứ Ba là quá ít ỏi bởi vì lúc ấy tôi chỉ theo dõi họ dưới tư cách là ký giả cho tờ nhật báo “The Saigon Post”. Những gì tôi nhìn thấy về họ chỉ là diện bên ngoài! Bà Ngô Bá Thành là người đã tốt nghiệp Luật khoa ở Đại Học Sorbonne, Pháp; chồng bà ta là Ông Ngô Bá Thành, một bác sĩ thú y làm giáo sư cho trường Đại Học Nông Lâm Súc Sài Gòn. Luật sư Trần Ngọc Liễng thì đã từng làm bộ trưởng quốc phòng thời Đệ nhất Cộng Hòa. Đại tướng Dương Văn Minh, chủ tịch của Hội đồng tướng lãnh của Quân Lực Nam Việt Nam, người đã lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Tất cả bọn này đã từng giữ những chức vụ cao ở Nam Việt Nam trước đây. Họ chống đối với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hay do một lý do nào khác mà tôi không biết, đã liên kết với những tăng lữ Phật Giáo Ấn Quang để hình thành cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba”; một lực lượng mệnh danh là đứng giữa nhưng chỉ chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chứ không hề chống lại VC.

Mọi điều tôi viết cho VC là điều mà họ đã biết rồi vì họ cũng có nhiều người trà trộn trong “Lực Lượng Thứ Ba”. Lực Lượng thứ Ba, những kẻ đã giúp VC thôn tính miền Nam Việt Nam gần đây; tôi không hiểu tại sao VC lại hỏi tôi về họ. Họ đã nghi ngờ điều gì đó chăng, hay VC muốn có bằng cớ để lật đám này xuống. VC thì luôn luôn làm như vậy với những ai không phải là Cộng Sản. Tôi nghĩ thật là ngu khi họ muốn chiếm một địa vị nào đó trong guồng máy của Cộng Sản mà không gia nhập Đảng Cộng Sản. Ngay cả dù cho họ có muốn gia nhập đảng Cộng Sản đi nữa thì họ cũng chỉ giữ được những chức vụ nhỏ thôi chứ làm sao mà leo lên được những chức vụ cao như lúc họ ở trong chính quyền miền Nam Việt Nam trước đây? VC chỉ xử dụng những người này tạm thời mà thôi để lấy lòng dân chúng; bây giờ đây có lẽ là lúc mà VC muốn loại trừ những người này ra khỏi tổ chức.

Thêm hai đợt di chuyển nữa xảy ra vào thời gian này, nhưng Tuân và tôi vẫn còn ở lại trại Thủ Đức để điều tra. Hai tháng sau, chúng tôi chuyển đến khu D, bỏ trống khu B cho những trại viên được chuyển đến và chuyển đi.
Chương 22 Khu D Trại Cải Tạo Thủ Đức

Hai tháng sau đó, chúng tôi được dời qua khu D của trại. Đã có thêm hai lần di chuyển ra Bắc nữa xảy ra, nhưng không ai trong nhóm chúng tôi bị chuyển đi. Chúng tôi gồm khoảng một trăm trại viên hầu hết đến từ trại Long Thành. Họ chia chúng tôi thành hai đội: đội 1 gồm những người đã từng làm trong chính quyền Nam Việt Nam cũ và đội 2 gồm những người từng làm trong Lực lượng Cảnh Sát và Cơ quan Tình báo trung ương của Nam Việt Nam. Ngoài ra còn vài người là những người bị bắt trong khi VC đánh tư sản mại bản như dược sĩ La Thành Nghệ, và ông vua kẽm gai Hoàng Kim Quy.

Khu D của trại Thủ Đức nằm ở cuối trại trong một khoảng đất rộng khoảng một mẫu được bao bọc bởi bốn bức tường. Một bên tường là khu C, một bên là khu B, và hai phía kia là khu đất trống ngăn cách trại với khu dân chúng chung quanh. Có hai vọng gác nằm ở hai góc tường nối khu D với các khu B và C. Hai cánh cửa rộng khoảng một thước, một mở ra khu đất trống bên ngoài trại còn một thì dẫn vào khu C và đi vào nhà bếp.

Có hai dãy nhà song song nhau và song song với bức tường ngăn cách với khu B: dãy nhà giữa là dành cho các trại viên làm ở nhà bếp và ban thi đua, cái còn lại nằm gần bức tường là phòng giam của chúng tôi. Cả hai đều là nhà gạch với mái ngói và nền gạch bông. Cấu trúc trông rất mới, có lẽ chúng vừa được sửa lại để làm phòng giam.
Hai đội chúng tôi được ở trong hai phòng thuộc căn nhà thứ 2 bao quanh bởi hàng rào kẽm gai với một cái sân chung tráng xi măng ở phía trước. Tôi ở trong phòng giam thứ hai. Đó là một căn phòng rộng khoảng tám thước dài khoảng mười lăm thước, có một gian ở đầu phòng dùng làm nhà vệ sinh. Khi chúng tôi dọn vào, căn phòng trông có vẻ rất mới. Nó trông giống như một nhà kho vừa mới tân trang lại để làm phòng giam. Sơn và nền còn rất mới. Không có gì trong phòng, do đó chúng tôi phải lót chiếu cói lên sàn nhà để làm chổ ở. Ba dãy chiếu được cách ra bởi một khoảng trống làm lối đi.

Để giăng mùng, chúng tôi phải cột hai hàng dây kẽm vào hai đầu tường dọc theo lối đi. Đồ đạc của chúng tôi thì phải chất xuống chỗ nằm. Căn phòng trông giống như chổ tạm trú.

Tôi trải tấm pon-sô phía dưới chiếc chiếu cói để ngăn độ ẩm của nền gạch như tôi vẫn thường làm, và đặt cái ba lô vào phía sát tường. Chỗ nằm của tôi sát bên ngưỡng cửa, do đó tôi có thể nhìn thấy được bên ngoài phòng giam dù có đóng cửa đi nửa. Cánh cửa phòng giam làm bằng loại cửa song sắt kéo.

Cán bộ cử Uyển làm đội trưởng đội 2. Họ chia đội thành ba tổ và bảo Đôn, Tuân và tôi làm tổ trưởng. Điều khó khăn cho tôi là trong tổ của tôi đa số là những sếp củ của tôi. Nhưng ở trại Thủ Đức, chúng tôi chưa phải làm lao động nhiều; sự thành lập tổ đội chỉ có mục đích điều hành sinh hoạt hàng ngày mà thôi.

Ban giám thị trại không đóng cửa phòng giam vào ban ngày và cho phép chúng tôi được đi bách bộ trong vòng rào ngăn cách khu nhà. Chúng tôi phải ngồi khoảng hai giờ mỗi ngày để nghe đọc những tờ nhật báo như “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân”, “Sài Gòn Giải Phóng”, và đôi khi tờ tập san “Tuổi Trẻ”. Những tin tức trong những nhật báo hoặc tập san này hầu hết là những tin về những thành công của VC trong các lãnh vực kinh tế và chính trị.

Cửa phòng giam được đóng lại lúc sáu giờ chiều; chúng tôi phải họp tổ đội sau khi ăn cơm tối. Đội trưởng phổ biến những chỉ thị của cán bộ. Thời gian sau, họ cho chúng tôi một TV để trong phòng, và chúng tôi được xem TV thay vào những buổi họp.

Cũng nhờ dịp này mà chúng tôi có dịp xem những ca sĩ mặc áo bà ba với quần đen, quấn khăn rằn quanh cổ. Hầu hết những bài ca này chúng tôi đã được học ở trại Long Thành, nhưng những ca sĩ lại hát ở một nhịp điệu nhanh hơn và với một giọng cao hơn, chúng tôi không thể bắt chước được điều này. Những tin tức trong TV thì cũng chỉ là những tin về sự thành công của VC trên các lãnh vực nông nghiệp, kinh tế, và chính trị. Không có điều nào về hiện tình trong nước và quốc tế ngoài những thành công của các nước xã hội chủ nghĩa và sự thất bại của các nước tư bản. Các phim để giải trí thì thường là những phim Liên Xô với những chủ đề nêu bật những ưu điểm của chủ nghĩa Cộng Sản và những mặt xấu của chủ nghĩa Tư Bản và Phong Kiến.

Tình trạng ăn không ngồi rồi ở trại Thủ Đức khiến ngày càng trở nên dài hơn! Chúng tôi phải tìm những gì đó để làm như chơi cờ tướng, viết những thực đơn tưởng tượng, nấu nướng, hoặc tụ tập nhau uống trà và tán dóc. Tôi dùng hầu hết thời gian của mình để tập vẽ chân dung. Đôi khi tôi phải tình nguyện đi chẻ củi nhà bếp để có được thêm phần cơm cháy.

Cuối năm 1976, cán bộ bảo chúng tôi phải canh tác khu đất khoảng một mẫu ở bên ngoài vòng rào trại. Chúng tôi trồng bí đỏ, cải xanh, và rau muống. Mảnh đất cũng quá nhỏ đối với một trăm trại viên nên chúng tôi cũng chỉ làm vào buổi sáng mà thôi.

Tết năm 1977, chúng tôi được phép găp gia đình. Mẹ tôi cùng vợ con tôi lên thăm tôi trong hai mươi phút như quy định của trại. Trại chỉ cách nhà khoảng mười lăm cây số. Gia đình tôi bảo rằng họ thích như thế vì rất gần nhà, và họ mong sẽ gặp tôi thường xuyên hơn trong thời gian sắp tới. Vợ tôi vẫn còn ở nhà nuôi con và phụ mẹ tôi để làm việc nhà. Con tôi thì cũng vẫn không cho tôi bế nó. Còn mẹ tôi thì cũng vẫn im lặng như mọi khi. Bà đã vượt qua quá nhiều đau khổ để có thể thốt nên lời. Tết năm ấy, chúng tôi có nhiều thứ để ăn Tết, nhưng không ai có thể thưởng thức được vì ai cũng suy nghĩ về gia đình mình ở cách không xa nơi đó là bao. Càng gần nhà thì lại càng nhớ nhà nhiều hơn.

Vào khoảng tháng ba năm 1977, nhiều đứa trẻ được đưa đến ở đầy trong khu B của trại. Chúng là những đứa trẻ khó dạy của các gia đình được đưa vào để “học tập cải tạo”, và những đứa trẻ bụi đời bị bắt trong những chiến dịch “làm sạch thành phố” của VC. VC gọi chúng là tàn dư của “Mỹ Ngụy”. Sau đó thì gạch được chở vào đầy trong trại. Chúng tôi lại phải di chuyển số gạch ấy chất thành đống dọc theo khu C và D. Họ đang chuẩn bị để xây dựng thêm, nhưng tôi không chứng kiến được vì sau đó không lâu tôi đã phải chuyển đi trại Tân Lập

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Phần 4

Chương 23
Cuộc Hành Trình Đi Vào Địa Ngục

Ngày thứ Bảy 16 tháng 4 năm 1977, chúng tôi không đi lao động như thường lệ! Tên cán bộ vào phòng giam rất sớm báo tất cả trại viên mang đồ đạc ra sân trước để khám xét định kỳ. Ở trại Thủ Đức này, thường chỉ có khám xét khi sắp có sự di chuyển, do đó chúng tôi luôn phải chuẩn bị tư thế để ra đi. Chúng tôi phải mang tất cả đồ vật cá nhân ra sân, đặt riêng rẽ từng cái một và chờ đợi cán bộ hoặc “Ban Thi Đua” đến khám. Theo quy định của trại, chúng tôi không được phép giữ mọi vật bén nhọn vì lý do an toàn, không được giữ lương khô, muối, hay tiêu ớt để đề phòng trốn trại. Nhưng họ có quyền tịch thâu bất kỳ cái gì mà họ muốn. Chúng tôi thường dấu những thứ “bất hợp pháp” ở những nơi kín đáo hoặc bỏ lại trong phòng để dùng lại sau này, và nếu chúng tôi có di chuyển thì để lại cho người khác vậy. Cán bộ và Ban Thi Đua cũng biết điều ấy nên họ khám rất chu đáo khắp nơi trong sân cũng như trong phòng giam. Tuy nhiên làm sao họ có thể tìm được hết mọi thứ mà chúng tôi đã cố tình dấu.

Tôi vừa bị một cơn cảm lạnh mấy ngày qua, một thứ bệnh thương hàn thì đúng hơn; tóc tôi rụng khá nhiều! Một trại viên bác sĩ tên Tôn Thất Hưng đã chữa bệnh cho tôi bằng châm cứu, bằng xông hơi lá bạch đàn hái trong trại, và bằng vài viên Tylenol. Vài người cho tôi biết Tôn Thất Hưng là bác sĩ “dõm” vì anh ta không nói được giọng Huế dù có dòng họ Tôn Thất, một giòng họ hoàng gia ở Huế, và anh ta lại trông quá trẻ so với số tuổi năm mươi theo giấy tờ. Anh ta có cho tôi xem giấy của anh ta là Bác sĩ Tôn Thất Hưng, tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Lyon, Pháp, và Văn Bằng Châm cứu tại Tokyo, Nhật Bản. Tôi không biết anh ta là Bác sĩ thật hay giả, nhưng trong hoàn cảnh ấy, tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác hơn là giao tính mạng mình cho anh ta. Tôi còn gặp lại Tôn Thất Hưng năm năm sau này khi tôi trở lại trại Thủ Đức; khi đó anh ta không làm Bác Sĩ nữa mà chỉ là một trại viên như mọi người khác. Anh ta được thả vào năm 1985 sau mười năm cải tạo chỉ vì tội xử dụng giấy tờ giả mạo theo như lúc đọc lệnh tha.

Sáng hôm ấy, tôi có cảm giác sẽ bị di chuyển vì tôi có nghe nói đã có một số trại viên ở nơi khác chuyển tới vào ngày hôm qua. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại có linh cảm này, nhưng kể từ khi bị giữ lại để điều tra sau khi bạn bè tôi bị đưa đi vào năm 1976, tôi luôn luôn chuẩn bị tư thế. Cái thông cáo về ba năm cải tạo vừa ban hành hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi; tôi trở thành nghi ngờ khi nghe thông báo của “Đảng và Nhà Nước” về chính sách đối với nhân viên của “Ngụy quân và ngụy quyền”. Họ bảo rằng chúng tôi phải đạt được “Tiến Bộ” trong thời hạn ba năm để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước! Tôi nghĩ rằng một lần nửa họ lại chơi chữ. Tôi không thể biết tôi sẽ ở trong trại bao lâu, và tôi có thể chịu đựng được bao lâu? Trong thâm tâm, tôi chỉ mong gia đình tôi quên được tôi, coi như tôi đã chết từ những ngày “giải phóng”. Một tháng, một năm, rồi thì ba năm, và rồi bao nhiêu năm nữa tôi phải ở trong trại? Tôi không muốn ở lại trại Thủ Đức vì nó quá gần nhà tôi. Tôi không thích tạo hy vọng cho gia đình tôi để rồi họ sẽ thất vọng khi nhận ra sự thật. Một sự di chuyển thật xa có lẽ là một giải pháp. Với ý nghĩ đó, tôi mang đồ đạc ra sân không một chút lo âu.

Hôm nay Đàn, một trại viên trong ban thi đua chỉ được phép đứng quan sát trong khi bốn cán bộ khám xét rất kỹ mọi vật của trại viên sau khi họ đã khám xét trại viên từ đầu đến chân! Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi bị lục soát cẩn thận như vậy. Tôi đoán linh cảm của tôi chắc là đúng. Sau khi khám xét xong, một cán bộ khác cầm giấy đi đến gọi tên từng trại viên. Ai có tên thì ở lại ngoài sân còn ai không có thì có thể đi vào phòng giam. Trong danh sách, có tên của một trại viên đang bệnh nặng không thể ra sân trước đó, tên cán bộ gọi một trại viên khác điền vào cho đủ số. Tôi thấy vài người bạn tôi như Tuân, Hạnh, Lộc, Trung, Vinh, Tâm, có trong số ra đi, nhưng vài người khác có chức vụ cao trong Cơ quan như Cang (cựu Đặc Uỷ Trưởng), Lương (Giám đốc A10), và Trang (Giám đốc A8) lại trở vào buồng giam.

Chúng tôi được đưa qua khu A của trại Thủ Đức, giam vào trong phòng giữa gần cửa khu. Từ đó, chúng tôi có thể nhìn thấy những trại viên mới chuyển đến, đa số họ tóc tai dài thòng, da rám nắng như những người từ rừng rậm mới ra. Hầu hết họ đều trẻ hơn chúng tôi. Tôi bỗng nghe một giọng ca lập đi lập lại một khúc ca buồn nảo nuột:

“Buổi sáng mùa đông, người lính trẻ trong tù, hai tay ôm song sắt, trông ngóng về phương xa. Người lính khe khẻ nói, mình ơi hởi mình ơi, vì anh không dám giết, nên anh làm tù nhân, vì anh không dám giết, nên anh đành xa em.”

Vinh, trước là nhân viên của tôi, la lên hỏi những người ấy từ đâu đến, và tôi nghe một giọng từ phòng bên vang lên: Tây Ninh! Tôi đoán có lẽ là họ đã ở những trại trong chiến khu D của Việt Cộng trước đây và giờ đây họ được đưa về để cùng chúng tôi di chuyển đến một nơi khác. Trại Thủ Đức chỉ là một trạm trung chuyển. Từ khi tôi bị giữ lại để điều tra, tôi luôn chuẩn bị tư thế để ra đi vì tôi không nghĩ rằng VC lại giữ chúng tôi ở một nơi quá gần Sài Gòn như vậy. Nhưng vấn đề là bao giờ thì đi, và đi đâu? Một hải đảo hay rừng Trường Sơn, hay Bắc Việt là những nơi mà tôi luôn nghĩ đến. Trong thâm tâm, tôi vẫn hy vọng đó sẽ là một nơi nào đó ở miền Nam , ít ra tôi vẫn còn ở trên “đất nước tôi”. Tôi chưa thể xem miền Bắc như là đất nước tôi được dù trong thật tế nó là một phần của Việt Nam . Những cái nón cối của người dân miền Bắc, những bộ đồng phục kaki màu vàng, xe đạp, dép râu, và những khuôn mặt đầy sát khí của người dân miền Bắc là những điều quá xa lạ đối với tôi! Trong chiến tranh, chúng tôi đối đầu với VC, nhưng chúng tôi không thù hận chúng; chúng tôi không giận dữ đối với chúng. Khi nói về những người lãnh đạo miền Bắc, chúng tôi vẫn dùng những từ ngữ nhã nhặn. Ngược lại, họ luôn căm thù chúng tôi dường như là họ chỉ muốn giết chúng tôi ngay nếu có thể. Họ đã được dạy căm thù từ khi đi học. Những hình ảnh của những đứa trẻ miền Bắc trong những bộ đồng phục với khăn quàng đỏ la hò những khẩu hiệu dử tợn luôn luôn ám ảnh trong đầu tôi. Con tôi sẽ như thế nào đây trong một thứ xã hội như thế? Ngay cả trong chiến tranh, tôi vẫn chỉ muốn một xã hội đàng hoàng, không phải một thứ xã hội sắt máu. Lời ca của bài hát do ai đó đang lập đi lập lại khiến tôi nghĩ đến xã hội tương lai (hay có thể là trong hiện tại). “Vì anh không dám giết, nên anh làm tù nhân!” Thật là một hoàn cảnh bi thảm.

Bửa ăn trưa và chiều được Cang và Trang, những sếp cũ của chúng tôi mang đến. Họ không dám nói chuyện với chúng tôi mà chỉ nhìn chúng tôi bằng một cái nhìn buồn bã. Trong trại, những trại viên được ở lại ít ra đã biết tình trạng sống của họ, còn những trại viên ra đi phải chấp nhận mọi điều xấu xảy ra cho họ ở nơi khác. Tôi nghĩ tôi phải chấp nhận mọi điều xảy đến cho tôi vì tôi đã đặt cuộc đời tôi trong tay kẻ thù. Điều tốt nhất là im lặng chịu đựng những bất hạnh xảy đến, ngay cả cái chết nếu cần thiết. Tôi nhớ đến lý thuyết của nhà Phật dạy rằng “sống gửi, thác về” để tự an ủi mình.

Khoảng nửa đêm, trong khi đang ngủ thì một cán bộ vào phòng giam gọi chúng tôi dậy chuẩn bị lên đường. Tôi đã sẵn sàng cho việc ấy, nhưng không nghĩ là nó đến quá nhanh như vậy. Tôi vội vàng bỏ quần áo, chăn màng vào balô. Một ít thức ăn còn lại lúc thăm nuôi hôm Tết như một hộp đường, một hộp bột gạo lứt, một ít thịt chà bông, tôi cố nhét chúng vào hai cái túi nhỏ của balô. Cái pon-sô được cột chặt vào bên cạnh ba-lô, cái bi-đông nước uống phía bên kia, và chiếc chiếu cói đặt lên trên, xong tôi gài chặt nắp ba-lô lại. Mọi vật chuẩn bị giống như lính chuẩn bị hành quân. Tôi thử ba-lô lên vai xong bỏ lại xuống sàn ngồi đợi. Mọi người trong phòng giam đã xong xuôi. Đèn ngoài sân đột nhiên bật sáng. Cán bộ đi lại và nói chuyện ồn ào. Tôi nghe tiếng xe phía bên ngoài tường rào ngăn cách trại giam với cổng chánh.

Khoảng hơn một giờ sau, một cán bộ cùng hai người vũ trang đi vào phòng giam kêu tên từng trại viên. Chúng tôi sắp hàng đi theo hai tên cán bộ vũ trang qua cánh cửa nhỏ đi ra ngoài sân trước. Vài chiếc “Molotova” đã đậu sẳn đó và chúng tôi được đưa lên sàn che kín của một chiếc xe sau khi đã bị còng hai người chung vào một bằng một loại còng thô sơ do những lò rèn ở địa phương làm ra. Loại còng này không có dây xích nên tay chúng tôi không thể cử động được dễ dàng. Đó cũng là lần đầu tiên tôi bị còng, tuy nhiên tôi chẳng nghĩ gì cả và cũng chẳng thấy xấu hổ nửa. Tôi chấp nhận điều này như một chuyện dĩ nhiên trong trại, và rồi có lẽ tôi còn sẽ phải chấp nhận bao nhiêu điều xấu hơn nửa. Hai tên cán bộ vũ trang ngồi ở hai bên sau của xe và mỗi xe chứa khoảng bốn mươi trại viên. Chúng tôi phải chờ cho đến khi đủ 410 trại viên lên xe. Xe rời khỏi trại Thủ Đức vào khoảng bốn giờ sáng ngày 17 tháng 4 năm 1977, tôi đã ở trại này đúng bảy tháng 12 ngày.

Mười chiếc Molotova cùng một chiếc xe nhỏ dẫn đường rời cổng trại vào sáng sớm, nhưng cũng đã có một vài xe đạp trên đường phố. Tôi thấy ai đó trong xe ném vật gì xuống đường, và sau này tôi mới biết họ đã gửi thư về nhà báo tin di chuyển. Tôi không biết thư có tới nhà không, nhưng tôi nghĩ đó quả là một hành động gan liều vì rất dễ bị trừng phạt nếu bị phát hiện.

Lần này, đoàn xe không che dấu lộ trình mà đi thẳng ra Tân Cảng trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hoà cách trại Thủ Đức khoảng mười lăm cây số.

Chúng tôi được tháo còng và leo lên chiếc tàu Sông Hương. Vài người cho biết đó là tàu Việt Nam Thương Tín, tàu đã từng đưa một số người di tản từ đảo Guam trở về Việt Nam trước đây. Bốn trăm mười người chúng tôi được đưa vào một hầm tàu đầy bụi than. Hầm tàu rộng khoảng 200 thước vuông cao khoảng bốn thước chỉ có một lỗ trống vuông mỗi cạnh khoảng sáu thước ở phía trên. Cạnh vách hầm ở phía giữa có một nhà xí làm bằng nan gỗ bọc chiếu cói. Bàn cầu là một cái bàn có khoét lỗ tròn trên mặt bàn và một cái sô đặt phía dưới. Chúng tôi phải trải chiếu trên sàn hầm bằng sắt để chiếm chổ riêng, tuy nhiên vì hầm tàu quá nhỏ so với số 410 người nên mỗi người chỉ vừa một chỗ để ngồi dựa trên đồ đạc. Tôi được lên tàu sớm nên giành được một chỗ khá cao ở góc hầm nơi để những bao than. Điều này giúp tôi rất nhiều vì sau một ngày lênh đênh trên biển, phân và nước tiểu từ nhà cầu lan ra lênh láng trên sàn. Trên bốn trăm người mà chỉ có một cái sô nhỏ không thể nào đủ để đựng những thứ tiêu hoá.

Thức ăn và nước uống được thòng xuống từ trên sàn tàu bằng một sợi dây qua cái lỗ. Họ cho chúng tôi ăn mì gói. Tôi đột nhiên nhớ đến những con gấu trong sở thú Sài Gòn mà trước đây thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem. Chúng tôi trông giống những con thú bị nhốt trong hầm và được những người nuôi thú cho ăn từ trên cao. Điều tệ hại hơn là có quá đông lũ chúng tôi trong một cái hầm nhỏ và dơ dáy; trong khi đó chỉ có vài con thú được nhốt trong một cái hầm được dọn dẹp sạch sẽ hơn. Tôi không thể ăn được gì trong những ngày này vì quá mệt và hôi hám! Mỗi khi quá đói, tôi cố nhấm nháp một ít mì gói khô và nhấp một ngụm nước để tránh việc đi tiêu tiểu tiện càng nhiều càng tốt. Tôi không muốn bước trên sàn tàu đầy những thứ bẩn thỉu!

Tàu rời cảng khi trời bắt đầu sáng. Tôi nghĩ chắc khoảng tám giờ. Tuân, bạn tôi và tôi cá nhau đoán nơi mà chúng tôi sẽ đến. Tôi đoán một nơi nào đó ở miền Bắc, còn Tuân thì bảo đảo Côn Lôn, nơi đã từng giam những trọng tội và tù chính trị của chính quyền Nam Việt Nam trước đây. Tôi không hiểu tại sao tôi lại đoán chúng tôi sẽ đi ra miền Bắc. Có lẽ tôi đã nghe nói đến những đợt đi ra Bắc trước đây. Tôi không biết chắc các bạn tôi đã bị đưa đi đâu, nhưng tôi biết họ đã bị di chuyển đến một nơi nào đó ở miền Bắc Việt Nam.

Từ khi Tuân và tôi bị giữ lại để điều tra, đã có thêm ba chuyến di chuyển ra Bắc nữa, vậy thì lần này tôi nghĩ chắc cũng không khác. Chúng tôi đợi tàu ra đến biển để nhìn hướng mặt trời. Vài người khác cũng nhập bọn với chúng tôi để suy đoán. Chúng tôi chưa thể biết tàu đã ra đến biển chưa, nhưng đến sau bửa ăn trưa đầu tiên khi mặt trời nghiêng về hướng tây, chúng tôi đoán có lẽ tàu đã ra biển và dựa vào hướng của mây bay cùng với hướng của bóng mặt trời chúng tôi biết tàu đang tiến theo hướng Bắc. Mọi người đều thất vọng. Chúng tôi trong thâm tâm đều hy vọng ít ra chúng tôi vẫn ở miền Nam cho dù ở bất cứ trại nào!

Bốn trăm mười trại viên trong đó có khoảng 50 người từ khu D trại Thủ Đức, những người từng làm trong chính quyền Nam Việt Nam, trong Lực lượng Cảnh Sát, Tình Báo, và khoảng năm mươi từ khu C, những người trong những tổ chức chống Cộng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 như “Lực Lượng Phục Quốc” của Đạo Công Giáo, những Giáo Phái Cao Đài, Hoà Hảo. Số còn lại đến từ Tây Ninh gồm những sĩ quan Cảnh Sát từ Trung Sĩ đến Trung Uý. Họ hầu hết trẻ hơn chúng tôi. Chúng tôi đang tiến về Bắc Việt, một vùng đất hoàn toàn xa lạ với chúng tôi dù rằng thật ra đó là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Chúng tôi đã từng nghe nhiều điều về miền Bắc, về sự đói nghèo của phần đất ấy, về cái gọi là “sắt máu” của Cộng Sản Bắc Việt. Lần này có lẽ chúng tôi có cơ hội để nhìn sự thật.

Xế chiều, tàu tròng trành như đang gặp bão. Vài người bị say sóng ói mữa khắp khoang hầm trộn lẫn với phân và nước tiểu tạo thành một mùi hôi thối khó chịu. Vài người dùng nước để rửa, nhưng càng làm cho khoang hầm dơ bẩn hơn lên. Những chổ gần cầu xí bị vây bẩn nên một số người phải dời sang những chổ cao hơn làm khoang hầm trở nên chật chội hơn. Không ai có thể ngủ được trong tình trạng đó.

Tôi ngồi bó gối nghĩ đến gia đình, vợ con tôi. Họ sẽ như thế nào khi biết tôi đang di chuyển đến một nơi vô định? Lần sau cùng gặp con tôi, nó không cho tôi bế! Tôi muốn mở ba-lô để lấy hình ra xem, nhưng không được vì quá chật chội, tôi đã phải nhường chổ cho bạn bè. Thêm vào đó, tôi không muốn làm việc ấy trước mặt mọi người. Ai cũng nghĩ đến gia đình trong hoàn cảnh ấy nhưng cũng phải che dấu đi bằng mọi cách.

Đột nhiên, một giọng hát từ đâu đó cất lên với bản nhạc “Ngày Anh Xa Vắng”. Mọi người im lặng lắng nghe. “Đợi chàng một hai năm, hay là cả đời xuân xanh, ngày nao đầu pha tuyết sương, vẫn mong tái ngộ một lần.” Bài ca được viết cho người vợ có chồng đi chinh chiến, nhưng trong hoàn cảnh ấy, lời ca lại thích hợp hơn lúc nào hết. Người đang ca là Hồ, trong nhóm trại viên từ Tây Ninh. Hồ không phải là ca sĩ; giọng anh lại không trau chuốt, nhưng rất buồn. Anh có diện mạo của một người đàn bà với dáng ẻo lả. Sau này chúng tôi thường gọi anh là “chị Hồ”, tuy nhiên trong cuộc sống chung, anh có nhiều nghị lực hơn mọi người tưởng.

Khi giọng ca của Hồ chấm dứt, nhiều người tham gia thay phiên nhau hát những bài “nhạc vàng” đã lâu bị cấm đoán trong trại. Vài người dùng muỗng gõ nhịp. Đám đông bắt đầu tụ tập quanh Hồ. Gần hai năm từ cái ngày “giải phóng”, tôi hứng khởi lắng nghe những bản nhạc quen thuộc của ngày xưa. Mọi người dường như quên đi hoàn cảnh bi thảm đang diễn ra! Không ai ca hay; cũng không có nhạc cụ nào đệm theo, nhưng những bản nhạc xưa dường như thấm sâu vào tâm tư mọi người. Gần gũi với “nhạc cách mạng” hầu như hàng ngày từ lúc vào trại, chúng tôi khát khao được nghe những dòng nhạc êm ái của “nhạc vàng” để xoa dịu tâm tư và cũng để gợi lại những kỷ niệm của ngày xưa. Không ai dám ca nhạc vàng trong trại vì chẳng ai muốn bị kỷ luật. Nhưng giờ đây trong hoàn cảnh bi thảm này, tôi nghĩ chẳng ai còn lo sợ đến “chánh sách” nữa.

Đám đông tiếp tục đến khoảng nửa khuya, nhưng rồi lơi dần. Bổng nhiên có một nhóm trại viên đánh nhau và la lối ở bên khu dành cho khu C trại Thủ Đức. Mọi người nhìn cảnh ấy, nhưng không ai muốn can thiệp vào. Một nhóm trẻ trong nhóm “Thanh niên Phục Quốc” đang đánh một trại viên mà chúng cho rằng đã làm “ăn-ten” ở khu C. Những người bị cho là “ăn-ten” là những trại viên đã báo cáo lên cán bộ những việc xảy ra trong trại viên. Có đôi khi một người bị nghi ngờ làm “ăn-ten” chỉ vì người ấy làm đội trưởng và không đủ khôn khéo để làm vừa lòng mọi người, nhưng cũng có khi vì người ấy muốn tiến bộ để sớm về với gia đình. Sống trong trại không đơn giản như ngoài xã hội vì phải đối phó với nhiều hạng người mà không thể tránh va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, còn phải tránh sao khỏi là mục tiêu đối với cán bộ nữa. Tôi đã chọn một thái độ “nín thở qua sông” từ lúc vào trại đầu tiên là trại Long Thành, nhưng đôi khi tôi không tin tôi có thể làm vừa lòng mọi người. Ca dao Việt Nam nói rằng: “Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê.” Sống trong trại cải tạo, tôi luôn cảnh giác với việc đổ cho trại viên khác là “ăn-ten”. Vài người vì ghét nhau thường hay nói xấu nhau, ai biết được? Tôi nghĩ rằng cách tốt nhất là im lặng quan sát một cách kỹ càng để tự bảo vệ lấy bản thân mình.

Một lúc sau, ba trại viên từ khu C là Long, Tri và Dũng đi về phía của khu D tìm Uyển và Đôn định “thanh toán”. Chúng cho rằng Uyển và Đôn là “ăn-ten” ở khu D trại Thủ Đức. Tôi không chắc điều này, tuy nhiên tôi nghĩ Uyển và Đôn đều là những người có học, Uyển tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa còn Đôn là Kiến Trúc Sư, tôi nghĩ họ không thể dể dàng làm “chó săn” cho Cộng Sản. Nhưng ai mà biết được? Tuân và tôi khuyên những người ấy đừng làm những điều thiếu suy nghĩ như vậy vì chúng tôi chưa biết chắc gì về Uyển và Đôn. Ngoài ra, điều gì sẽ xảy ra sau này vì chúng ta vẫn còn đang ở trong trại?

Sự lộn xộn này đã làm đứt đoạn những bản “nhạc vàng”; mọi người về chỗ riêng ngồi im lặng dựa vào những đống đồ đạc mà nhìn lên trời. Không ai có thể ngủ được trong hoàn cảnh ấy. Tôi nhắm mắt cố tập trung tư tưởng. Không lâu sau khi vào trại, tôi thử tập một vài điều mà tôi biết được về Yoga. Hàng đêm trước khi đi ngủ, tôi thường ngồi xếp bằng một lúc, hai tay đặt trên đùi, mắt nhắm lại, và tập trung tư tưởng cố không nghĩ đến gì cả. Tôi thường tập như vậy để tách mình ra khỏi những hoàn cảnh khó khăn. Đôi lúc trong lúc mơ màng, tôi cảm thấy mình nhẹ như lông, dường như có thể bay khỏi mặt đất; đôi lúc, tôi bị chìm vào giấc ngủ say mơ thấy mình đang ở trên một cánh đồng đầy hoa cỏ, mỗi bước đi như những cánh chim bay bổng, hoặc mơ giấc mơ của một cậu bé học trò đang cấp sách đến trường mà mỗi bước đi trên đường như có cánh dưới chân. Thức dậy, tôi thử phân tách những giấc mơ ấy, nhưng không thể được! Tôi nghĩ rằng đó chỉ là những ước mơ của tự do khi tôi đang bị giam hãm trong tù.

Sáng sớm hôm sau, một trận mưa nhỏ làm cho tình trạng hầm tàu trở nên bi thảm hơn. Trại viên dùng mọi vật có được để che thân và đồ đạc. Nước mưa trộn với phân và nước tiểu tạo thành những vũng nhầy nhụa trên sàn hầm rất khó tránh khi muốn di chuyển. Hầm tàu càng lúc càng bẩn thỉu! Trại viên phải ngồi co lại tại chỗ tránh di chuyển trừ trường hợp cần thiết. Thức ăn cùng với nước trong thùng được thòng xuống từ những cái giỏ tre, trại viên cử người nhận rồi chia cho nhau. Dù rằng chúng tôi quá đói và mệt, không ai có thể ăn hay ngủ được giữa mùi hôi thối ấy! Tôi không biết điều gì ghê gớm hơn đang chờ đợi ở trại miền Bắc, nhưng tôi vẫn mong tốt hơn là hãy ra khỏi nơi này để tránh được tình trạng quá tệ hại.

Khoảng sau khi phát phần ăn trưa, tàu ngừng lại. Vài trại viên trước là Hải Quân Việt Nam đoán rằng tàu cập bến nào đó ở miền Trung, có thể là Cam Ranh hay Đà Nẳng, bởi vì quá sớm để đến Bắc Việt. Tôi không biết có đúng vậy không, nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn mong chúng tôi sẽ được đưa đến một trại ở miền Trung để ít ra chúng tôi còn được ở trên phần đất nước của chúng tôi. Bắc Việt quá xa lạ với chúng tôi dù rằng thực tế thì đó cũng là phần lảnh thổ của Việt Nam. Trong niềm mong mỏi đó, chúng tôi đặt mọi thứ vào lại trong túi ba-lô chuẩn bị rời tàu. Ít ra thì chúng tôi không còn ở trong căn hầm bẩn thỉu này!

Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi, và đợi chờ cho đến trời tối. Trời vẫn còn mưa, nhưng cũng đã nhỏ dần. Chúng tôi không nhận được mì gói cho bữa ăn chiều như thường lệ mà chỉ được dưa hấu. Không có gì để cắt ra, chúng tôi đành phải đập dưa vào sàn tàu. Võ dưa ném vào những vũng lầy nhầy làm cho sàn hầm thêm kinh khủng. Nhưng không ai còn để ý nữa vì ai cũng nghĩ sẽ rời nơi này.

Khi trời đã tối hẳn, mái che hầm tàu mở rộng. Một chiếc thang được thòng xuống cho mọi người lần lượt leo lên boong. Vài hòn đảo nhỏ hiện ra mờ mờ từ đàng xa, đôi ba chiếc thuyền với những cánh buồm cuộn nhiều múi đặc trưng của miền Bắc khiến chúng tôi biết rằng chúng tôi đã đến cảng Hải Phòng. Không còn Nam Việt Nam, không còn miền Trung nữa, chúng tôi đã đến miền Bắc Việt Nam, đến trung tâm của Cộng Sản Việt Nam! Mọi người đều thất vọng.

Phía bên kia đầu tàu cũng có trại viên leo lên boong. Chúng tôi không biết còn có thêm một hầm tàu khác nữa. Chúng tôi đứng vào hai hàng, một cán bộ còng hai người đứng cạnh nhau trước khi chúng tôi lên bờ. Tay phải tôi còng chung vào tay trái của Nghiệp, bạn tôi, chúng tôi bước lên hai tấm ván bắt từ tàu lên bờ. Với cái còng không dây còng hai tay của hai người, một khi tay người này di chuyển, tay người kia cũng phải di chuyển cùng chiều để tránh bị tréo tay, do đó Nghiệp và tôi di chuyển rất khó khăn trên cầu. Tôi được nghe kể rằng trong lúc lên bờ, có hai người từ nhóm bên hầm kia bị rơi xuống biển mất tích mà không ai cứu. Vài người nghĩ rằng họ tự tử, nhưng tôi thì cho rằng một người trong họ bị trượt và kéo theo người kia; họ không thể gượng lại được vì cái còng và đồ đạc nặng nề trên vai.

Một hàng xe đò đang chờ sẵn trên bến. Nghiệp và tôi lên ngồi vào giữa chiếc xe đầu vì chúng tôi lên sớm. Lúc ấy vào khoảng 6 giờ chiều nhưng trời tối vì đang mưa lâm râm. Tháng tư ở miền Bắc trời vẫn lạnh vì mưa phùn gió bấc, đó là những gì mà tôi thường đọc trong sách nói về miền Bắc. Chỗ ngồi chúng tôi ở phía tài xế nên tôi ngồi phía cửa sổ xe có thể nhìn quang cảnh bên ngoài. Bến cảng nơi chúng tôi lên hoàn toàn hoang vắng. Cầu tàu đổ nát vì đã bị nhiều trận bom. Ánh sáng từ những chiếc thuyền buồm trên vịnh Hạ Long lấp loáng từ xa. Bóng của những hòn đảo nhỏ trông như những con quái vật khổng lồ vươn lên từ biển cả. Đó là một thắng cảnh của Việt Nam, nhưng làm sao chúng tôi có thể thưởng thức được trong hoàn cảnh thế này!

Một cán bộ phát mỗi người chúng tôi một ổ bánh mì cho chuyến đi trong khi chúng tôi chờ trên xe. Đoàn xe bắt đầu chuyển bánh vào khoảng nửa đêm. Tôi cho rằng Việt Cộng quen với việc hoạt động về đêm. Đó là lần thứ tư tôi bị di chuyển từ lúc vào trại. Lần đầu tiên từ trường Chu Văn An đến Long Thành, lần thứ hai từ Long Thành qua Thủ Đức, lần thứ ba từ Thủ Đức đi Tân Cảng, và đây là lần thứ tư: lần nào cũng bắt đầu vào nữa đêm, đó có lẽ là thói quen của chúng!

Thành phố Hải Phòng ở gần đó. Đoàn xe chạy qua nơi nào đó trong thành phố nổi tiếng này, thành phố lớn thứ nhì ở miền Bắc. Tôi nhìn thấy những căn nhà lá chen lẫn với nhà gạch. Vài ngôi nhà nửa gạch nửa lá; con đường đi rải rác những hố bom: dấu vết sự tàn phá của chiến tranh. Thành phố tối om vì thiếu ánh sáng; vẫn còn những cột đèn dầu của thời Pháp thuộc. Tôi thấy một quán café có ánh đèn néon. Tên cán bộ theo xe nhắc chúng tôi đóng cửa sổ xe để tránh dân chúng giận dữ ném đá vào chúng tôi, những kẻ thù của họ trong chiến tranh! Nhưng, tôi chẳng thấy dân chúng trên đường phố ngoài vài đứa trẻ con ngó một cách lơ đểnh vào đoàn xe. Vài chiếc xe đạp chở đầy phía sau đang chạy trên đường phố. Thành phố rất im lìm trong đêm vắng.

Đoàn xe ra khỏi thành phố sau vài phút; tôi đoán đó chắc chỉ là phần ven thành phố. Trời có trăng. Tôi cố nhìn ra đường để xem sinh hoạt của nhân dân miền Bắc, nhưng chẳng thấy gì. Cảm thấy mõi mệt và đói bụng sau hai ngày trên tàu, tôi ăn một ít bánh mì, uống một ngụm nước rồi chìm vào giấc ngủ.

Tôi giật mình thức dậy vào sáng sớm khi đoàn xe chạy trong một khu rừng. Có một vài người đẩy xe đạp thồ chất đầy củi bên lề đương. Đó là lần đầu tôi nhìn thấy cái gọi là “xe đạp thồ” của miền Bắc. Loại xe này chỉ có khung xe và hai bánh xe. Người ta dùng thanh gỗ dài cột vào ghi-đông để dễ lái; và họ cột những đồ nặng vào khung xe. Người ta không thể ngồi trên yên xe vì thật ra không có yên xe nào cả, họ phải đi bộ bên hông xe để lái bằng tay trái và giữ thăng bằng chiếc xe bằng tay mặt. Loại vận chuyển này đã nổi tiếng trong trận đánh Điện Biên Phủ để chuyển súng đạn cho chiến dịch. Những người đàn bà đi hai bên đường gánh hay đội những gánh củi to. Cái nghèo của miền Bắc hiện ra rất rõ nét ở những sinh hoạt này.

Vào sáng sớm, đoàn xe rẽ mặt vào một con đường mòn gồ ghề xuyên qua khu rừng bồ đề. Đến một cái suối, xe đầu tiên ngừng lại chờ đợi cả đoàn xe, rồi cả đoàn lần lượt chạy thẳng xuống suối! Dòng suối chảy xiết; chúng tôi lo sợ vì đang bị nhốt trong xe với chiếc còng trên tay. Tài xế dường như quen thuộc lối đi nên lái chầm chậm qua suối một cách dể dàng. Qua thêm ba suối như vậy nữa thì tới một con sông lớn. Tên cán bộ cho biết đó là nhánh của sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Tôi tự hỏi làm thế nào để qua được con sông lớn như thế này mà không có cái cầu nào cả. Đó không phải là con suối, và tôi nghĩ nó cũng không cạn như con suối! Tôi nhìn thấy một con đường dốc đi thẳng xuống bờ sông. Đoàn xe ngưng lại khoảng một giờ thì có một chiếc phà nhỏ từ bờ bên kia sông qua. Đấy là một chiếc ca-nô nhỏ kéo một chiếc mảng tre nhỏ. Nó chỉ có khả năng chở một chiếc xe mỗi lần! Xe tôi là chiếc xe đầu của đoàn xe nên được lên phà trước. Sông chảy siết vì mùa nước. Phà chạy ngược dòng kéo chiếc xe qua bờ bên kia, và rồi có vài người cột dây cáp vô phà quay ròng rọc kéo phà vào bờ sông. Chiếc phà qua lại bờ kia để kéo một xe khác. Mọi việc diễn ra như trong chuyện đời xưa! Phải mất năm tiếng đồng hồ mới xong đoàn xe.

Tay phải tôi bị sưng lên. Còng quá chật mặc dù cổ tay tôi nhỏ. Tôi cố xoa bóp nó bằng tay trái. Ngồi bên cạnh tôi Nghiệp không nói gì, dường như đang ngủ dù tôi biết rằng anh ta vẫn thức. Tôi hỏi tên cán bộ để đi tiểu rồi cùng Nghiệp đi ra một bụi cây bên đường. Tôi cảm thấy nhẹ hơn sau khi ấy. Dân chúng nhìn chúng tôi tò mò. Vài đứa trẻ con mặc quần đùi và áo vá đùm la lên: “Nguỵ, Nguỵ”, nhưng không thấy ai ném đá như chúng tôi đã được báo trước. Tôi muốn hỏi chúng vài câu nhưng không dám. Vài trại viên ném cho chúng ít bánh mì; chúng chụp lấy rồi ăn ngon lành. Vài đứa trẻ còn chạy đến gần xe để nhận dưa hấu. Các cán bộ phải xua chúng ra xa khỏi đoàn xe. Đoàn xe bắt đầu chạy lại khi bắt đầu chiều.

Rừng nối tiếp rừng, núi tiếp nối với núi, đoàn xe phải vượt qua nhiều con suối. Tôi ngồi gật gù mệt mỏi ở băng ghế và thức tỉnh khi trời bình minh. Đoàn xe lắc lư trên con đường đầy hố bom. Những đồi chè hiện ra hai bên đường trông giống như đường đi Đà Lạt ở Cao Nguyên miền Trung. Đây đó có những đoàn người mang gùi trên lưng đi hái chè, họ thoáng ẩn hiện giữa những hàng cây chè thẳng tắp. Vài người dân chạy xe đạp trên đường với chiếc cuốc cột trên sườn xe. Họ đang đi làm cho những nông trại tập thể! Chúng tôi đã được nghe nói về việc cải cách ruộng đất ở Bắc Việt từ năm 1955, không còn ai còn được làm chủ ruộng đất nữa; mọi cái đều là của chung. Trong mười bài học tập khi mới vào trại, chúng tôi đã được dạy rằng đất đai và công cụ sản suất là của mọi người dân trong xã hội. Việt Cộng bảo rằng đó là việc làm chủ tập thể. Nhân dân làm chủ tất cả, “nhưng không có gì cả!” Mức hưởng của mỗi người tuỳ công lao động mà người đó đóng góp. Chúng tôi thì đùa rằng “ai làm ít lảnh ít, làm nhiều lảnh nhiều, và ai không làm thì hưởng hết!”

Chúng tôi đang đi vào một thành phố nhỏ vào sáng sớm. Tôi nhìn thấy hàng chử “Uỷ Ban Nhân Dân Thị xã Phú Thọ” trên nền đỏ treo trước căn nhà gạch có cột cờ treo lá cờ đỏ ngôi sao vàng, cờ của Bắc Việt. Phú Thọ là một phần của tỉnh Vĩnh Phú (gồm 2 tỉnh cũ: Vĩnh Yên và Phú Thọ) ở miền Trung Du Bắc Bộ. Thị trấn quá nhỏ với vài căn nhà gạch, số còn lại hầu hết là nhà lá. Những cánh đồng khoai mì và đồi chè xác nhận rõ ràng đặc sản của vùng. Cây soan nằm thành hàng giữa những cánh đồng và dọc theo đường. Dân địa phương dùng cây soan để cất nhà lá vì chúng có nhựa đắng có thể tránh được mối mọt. Vào mùa đó, cây soan đang ra bông màu tím nhạt. Những ngọn đồi trồng cây cọ để lấy lá lợp nhà. Dân miền Nam dùng lá dừa nước còn dân miền bắc thì dùng lá cọ để lợp nhà. Hầu hết nhà cửa trong vùng thường có vách đất với một cái ao nhỏ phía trước nhà. Sau này tôi mới biết rằng dân chúng đào ao để lấy đất đắp nền nhà và trét vách còn ao thì để nuôi cá.

Qua khỏi Phú Thọ, đoàn xe rẽ mặt trên một con đường gồ ghề để vào một khu rừng. Những dãy núi thoáng hiện đàng xa. Vài người dân miền núi nhìn chúng tôi một cách tò mò khi đoàn xe đi qua. Họ là những người thuộc các sắc tộc Thái, H”Mông, Tày, tôi không biết rõ, lưng họ đều mang gùi và tay cầm rìu. Đồi núi bao bọc lấy thung lũng. Những cánh đồng lúa bậc thang trên lưng đồi trông từ xa giống như những con rắn đang bò ra khỏi hang. Nhà sàn với mái cong và cao là một đặc trưng của miền núi. Những đứa trẻ con bụng ỏng dơ dáy chơi đùa bên cạnh những con heo thả rong. Những con chó nằm lơ đểnh ở hiên nhà. Mọi vật tò mò nhìn chúng tôi khi đoàn xe đi qua. Ở nơi xa xôi này, xe hơi là cái gì rất bất thường đối với mọi người.

Khoảng trưa, đoàn xe đi qua một con suối rộng và chảy mạnh tên là “A-Mai” ở một cái bến nhỏ tên là “Bến Ngọc” rồi chạy trên một con đường đất sét rộng khoảng sáu thước. Hai bên đường có nhiều nhà lá hơn trước. Một khu nhà gạch vây quanh bởi một hàng rào tre và kẽm gai dầy có tấm bảng mang tên “Trường Phổ Thông Công Nông Nghiệp Số 1” nằm bên phải con đường. Trẻ con khoảng từ 10 đến 15 tuổi mặc quần đùi áo xanh bạc màu đang làm trên những cánh đồng quanh trường dưới sự trông chừng của những công an mặc quân phục. Tôi tự hỏi chúng là tù hay là học sinh của trường?

Đoàn xe cuối cùng ngừng lại trước cửa của trại: chúng tôi đang đến trại cải tạo Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú sau một ngày rưỡi đi xe từ cảng Hải Phòng. Lúc đó khoảng giữa trưa ngày 20 tháng 4 năm 1977.
Chương 24. Một Cái Nhìn Tổng Quát về Trại Tân Lập


Hai hàng “cán bộ” đang chờ đợi chúng tôi trước cổng trại khi chúng tôi đến nơi; họ hầu hết đều được vũ trang! Những bộ đồng phục vàng với những quân hàm mà chúng tôi chưa từng thấy trước đây ở các trại miền Nam. Chúng tôi được tháo còng và đưa vào trong trại. Một cái băng biểu ngử giăng ngang cổng trại đề: “Chào mừng các anh đến với nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa”.

Trại cải tạo Tân Lập nằm giữa một thung lũng bao quanh bởi rừng núi. Từ trại chúng tôi không thể nhìn thấy được đâu là chân trời. Con đường duy nhất dẫn đến trại là một con đường đất sét rộng khoảng bảy thước chạy từ Bến Ngọc, một cái bến mang tên của một ông cả trong vùng, người đã lập ra nó. Ai muốn đi đến trại từ Hà Nội thì phải đi xe lửa từ ga Ấm Thượng, rồi dùng một phương tiện duy nhất đến Bến Ngọc là chiếc đò dọc, một chiếc ghe nhỏ chèo bằng tay dọc theo nhánh của con sông Hồng, con sông lớn nhất miền Bắc. Từ Bến Ngọc đến trại thì chỉ có cách đi xe đạp hoặc đi bộ.

Có tất cả bảy phân trại thuộc trại cải tạo Tân Lập đặt tên là K, từ K1 đến K7. Phân trại mà chúng tôi được đưa đến là K5, cũng là bản doanh trung ương của bộ chỉ huy toàn trại. K1, K2 và K3 là ba phân trại lớn khác, các K khác nhỏ hơn. Từ Bến Ngọc vào thì K đầu tiên là K5; và K cuối cùng là K1 cách K5 khoảng mười lăm cây số về phía bắc. K3 cách K5 bởi một cái suối tên là A-Mai, đó là nguồn cung cấp nước cho toàn trại và cho nhân dân sống trong vùng. K2 nằm khoảng giửa K5 và K1, và K4 cách K5 khoảng mười cây số về phía tây. K6 và K7 là 2 trạm trung chuyển để nhận tiếp liệu cho toàn trại.

Con đường đất sét từ Bến Ngọc đến K5 xa khoảng mười lăm cây số đi qua một dốc cao tên là dốc Trinh. Cái dốc này khá cao và rất trơn trợt vào những ngày mưa. Con đường từ ngả rẽ vào trại K5 phải đi qua một cánh đồng có tên là cánh đồng Mua vì có nhiều cây Mua mọc ở đó. Mua là một loại cây họ với cây sim có hoa màu tím nhạt và trái màu xanh đen. Một chuồng bò nằm ở đầu khúc quanh ấy để làm cột mốc giữa đất của trại và những khu đồi và rừng cây gần đó. Khoảng cách từ khúc rẽ này đến trại khoảng tám trăm thước.

Kiến trúc của K5 trại cải tạo Tân Lập được chia ra làm hai phần: khu cơ quan và khu trại.

Khu cơ quan K5 cũng là bản doanh của trại. Nó gồm ba dãy nhà gạch để làm văn phòng nằm theo hình chữ U và bốn dãy nhà lá phía sau hai nhánh để làm nơi ở cho các cán bộ độc thân. Căn nhà gạch chính nằm ở đáy hình chử U của tổng thể là căn nhà khang trang nhất nằm trên nền cao. Đó là văn phòng của toàn trại và của trưởng K5. Hai căn nhà gạch kia là văn phòng của Ban giám thị và Hội Đồng cán bộ phụ trách K5. Bốn dãy nhà lá khác được xây dựng trong một khu riêng biệt dành cho các cán bộ có gia đình. Một nhà giữ trẻ dành cho con của các cán bộ nằm gần khu gia đình. Rải rác chung quanh khu trại là những nhà lá gọi là “nhà lô” được dùng làm địa điểm lao động cho trại viên và cũng là điểm canh gác trại vào ban đêm.

Khu trại giam là khu đất hình vuông mỗi cạnh khoảng năm trăm thước bao quanh bởi tường gạch cao khoảng ba thước với kẽm gai khoảng một thước rưỡi bên trên. Trừ mặt trước ra, hai bên tường rào là hào sâu đầy nước. Cổng chính là một cái nhà gạch hai tầng với hai trạm gác ở hai bên của cánh cổng rộng khoảng sáu thước. Tầng trên cổng gác là văn phòng của “cán bộ trực trại”. Có tất cả bốn khu trong trại giam tên là khu A, B, khu bệnh xá, và khu bếp cùng hội trường.

Đi vào trong trại, qua khỏi cánh cổng là một sân rộng khoảng một mẫu dùng làm khu quan sát và để làm khu tập họp trại viên đi lao động. Khu A ở phía góc phải gồm bốn dãy nhà gạch mái lợp lá cọ và bao quanh bởi một dãy phòng dùng làm phòng của “Ban thi đua”, phòng của “cán bộ quản giáo” và làm cái gọi là “phòng ăn” cho trại viên. Các nhà trong khu A được ngăn cách nhau bởi những bức tường gạch cao khoảng hai thước có gắn miểng chai bên trên. Mỗi bức tường có một cánh cửa nhỏ. Khu B ở phía cạnh trái của trại gồm hai dãy nhà không có rào quanh. Mỗi đầu nhà phía trái là một cái hồ xi măng hình chữ nhật cạnh mười và mười lăm thước sâu khoảng một thước rưỡi chứa nước để uống và để tắm rửa, nước này được bơm vào từ một máy bơm đặt ở gần suối. Mỗi nhà chia ra hai phòng giam mỗi phòng là sáu gian rộng năm thước, có hai gian làm kho chứa đồ ở hai đầu nhà và hai gian ở giữa làm nhà vệ sinh.

Phòng giam là căn phòng dài khoảng ba mươi thước rộng năm thước. Một cánh cửa gỗ ở cuối phòng có thể khóa bên ngoài bằng một thanh gỗ luồn qua những khoen sắt. Mười bốn khung cửa sổ có song sắt không có cánh cửa gồm sáu cái ở mỗi phía và hai cái ở một đầu, chúng được mở rộng quanh năm ngay cả trong mùa đông với mục đích dể kiểm soát bên trong.

Hai dãy sạp hai tầng được làm bằng khung sắt chử L lót ván để làm chổ ngủ cho trại viên. Ai ngủ phía trên thì phải leo lên bậc được làm bằng những thanh sắt ngắn hàn dính vào khung thẳng đứng. Kệ để đồ đạc cho trại viên được làm dọc theo tường phía trên cửa sổ ở tầng trên, còn trại viên nằm phía dưới thì để đồ đạc trong cái kệ ở trong nhà vệ sinh. Tầng dưới của sạp cao khỏi mặt nền khoảng sáu tấc, tầng trên khoảng hai thước, do đó người nằm tầng dưới không thể đứng thẳng người được trên sạp.
Lối đi rộng khoảng hai mét ở giửa hai dãy sạp dẫn vào nhà vệ sinh. Trần nhà làm bằng nan tre đan có đóng dây kẽm gai dấu bên trên. Chỉ có một bóng đèn nhỏ treo giữa phòng chiếu ánh sáng mờ về đêm, nhưng nó lại được thay bằng một ngọn đèn dầu sau khi điện cúp vào khoảng chín giờ tối. Ngọn đèn dầu này làm bằng một cái chai cắt ngang miệng với cái tim cắm thẳng vào dầu hôi.

Cái gọi là “nhà vệ sinh” cho trại viên trong phòng giam là một căn phòng rộng khoảng ba thước dài sáu thước với phía sau là nhà cầu và phía trước là kho chứa đồ. “Nhà cầu” là một lổ xí cao khoảng nửa thước với hai cái bàn ngồi hình bàn chân làm bằng xi măng ở hai bên một cái lổ nhỏ, phía dưới được đặt một cái thùng bằng gỗ. Phân tươi sẽ được lấy đi vào sáng hôm sau từ cái cửa nhỏ phía ngoài phòng giam và sẽ được làm phân bón được gọi là “phân bắc”! Đó là một loại nhà cầu phổ biến ở miền Bắc được gọi là “cầu ba ngăn”. Chổ chứa đồ đạc trại viên nằm bên dưới sạp nằm được đặt phía trước của nhà vệ sinh. Đó là một phòng nhỏ có ba cái kệ bốn ngăn đặt dọc theo tường. Cửa phòng vệ sinh không thể khép sát được, do đó căn phòng giam luôn luôn có mùi hôi thối.

Khu vực bệnh xá là một dãy nhà gạch dài khoảng ba mươi thước rộng sáu thước nằm trong một khu đất rào quanh bởi kẽm gai. Bên phải của cổng bệnh xá từ ngoài đi vào là một vườn trồng thuốc nam. Phía bên phải của bệnh xá là một cái ao nhỏ nuôi cá rô phi và một khu đất trồng rau muống, một loại rau thông dụng của người Việt, để “bồi dưởng” cho bệnh nhân. Phía mặt, gần khu A của trại là một hàng dậu cao bằng cây dâu tằm, một loại thuốc “an thần”. Không có bác sĩ hay y tá nào làm trong bệnh xá ngoài vài trại viên được ban giám thị tin tưởng cùng một cán bộ phụ trách, tất cả những người này đều không có một chút kiến thức gì về phòng bệnh và trị bệnh. Hầu hết thuốc men trong bệnh xá là những loại bột lá hay rể cây được vò viên nhỏ gọi là “thuốc dân tộc”.

Hội trường là kiến trúc lớn nhất trong trại rộng khoảng tám thước dài năm mươi thước trên một nền đất viền bằng gạch nằm thẳng đường nhìn ra cổng chánh của trại. Mái hội trường lợp bằng lá cọ và vách thì trét bằng đất trộn với rơm. Những khung cửa sổ làm bằng tre và một khung cổng chính ở đầu hội trường nằm song song với cổng chính của trại. Một cái bục có màn đỏ che ở một đầu hội trường chứng tỏ rằng hội trường này có mục đích để trình diễn văn nghệ, nhưng hội trường thì lại trống rỗng!

Khu vực nhà bếp nằm cạnh bên hội trường phía bên góc trái của trại gồm có hai dãy lều nằm thành hình chử L: Một dãy dùng làm nhà nấu nướng và một dãy ở cuối khu song song với hội trường làm nhà kho và nơi phát cơm cho trại viên. Khu nhà bếp được rào quanh bởi một vòng rào kẽm gai với một cánh cổng rộng phía trái để các người làm trong bếp ra vào và một cổng nhỏ phía phải dành cho trại viên đi vào lấy cơm hay nước uống. Nhà nấu bếp là một căn lều không có vách với sáu cái lò có những cái chảo to phía trên: ba cái để nấu thức ăn hay nước uống và ba cái để nấu cơm (hay đúng hơn là nấu khoai mì, bắp, hoặc bo bo). Một cái giếng duy nhất trong trại nằm gần nhà nấu được nhìn thấy rõ từ xa vì có một cái cần kéo nước dài làm đòn bẩy bằng tre cột một miếng sắt to ở một đầu còn đầu kia thì cột một sợi dây treo cái thùng để lấy nước. Vào mùa nắng, giếng rất sâu nhưng nước trong còn về mùa mưa thì nước lên tới miệng giếng nhưng rất đục. Nhưng chúng tôi cũng phải uống nước ấy mà thôi! Có một căn nhà lá nhỏ khác nằm trong khu bếp để nhốt trâu kéo xe cho nhà bếp, xe trâu là phương tiện di chuyển duy nhất của nhà bếp. Xe bò miền Nam khác với xe trâu của miền Bắc ở chổ xe bò miền Nam thì có bánh xe làm bằng gỗ niềng sắt còn xe trâu miền Bắc thì có bánh xe làm bằng vỏ xe hơi. Ngoài ra ở miền Bắc dùng trâu kéo xe chứ không dùng bò như miền Nam, do đó chúng tôi gọi nó là xe trâu.

Sau khi được tháo còng, chúng tôi xếp hàng đôi để đi vào trại. Họ không xét đồ đạc chúng tôi nữa, và chúng tôi được đưa thẳng vào khu A. Tôi thuộc đội đầu tiên, do đó vào phòng giam số 1 trong nhà đầu tiên ở khu này. Khi tôi vào đến thì đã nghe tiếng của Tuân gọi tới chỗ dành sẵn gần chỗ hắn nằm ở tầng trên trong góc phòng. Ở mỗi chỗ nằm có để sẵn một chiếc chiếu cói, một cái mùng vải, hai bộ đồng phục tù, và một cái nón cối bằng lá. Tuân, Hạnh, Lộc và tôi nằm gần nhau ở tầng sạp trên dành cho bốn trại viên, do đó chúng tôi dễ nói chuyện với nhau hơn vì không sợ bị người khác nghe thấy và báo cáo.

Việc đầu tiên tôi làm là đi tắm và giặt áo quần ở cái hồ ở phía đầu nhà. Tôi dùng cái gào bằng cao su cột bởi một sợi dây để kéo nước trong hồ lên. Sau khi tắm giặt xong, tôi cảm thấy hơi thoải mái hơn một chút bèn mặc thử bộ đồ tù vào. Chúng tôi nhìn nhau trông thật kỳ khôi! Cái kỳ cục nhất mà chúng tôi chưa từng thấy trong đời là cái nón cối bằng lá cọ. Chúng tôi bật cười với nhau khi nhìn nhau trong độ đồng phục tù này! Chúng tôi trông giống những người lao động trong những tấm hình chụp những công nhân ở Trung Cộng mà chúng tôi đã từng thấy trước đây. Màu xanh của bộ đồng phục gợi cho tôi nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu, một thi sĩ của miền Bắc: “Rồi một hôm nào cởi áo xanh, hết cùm, hết xích, hết roi canh”. Cái áo xanh mà Tố Hữu nói đến là chiếc áo tù của thời Pháp thuộc, và nó đã được nhà nước Bắc Việt bắt chước lại. Nhưng điều khác nhau là chúng tôi không phải là “tù nhân” mà là “trại viên” của trại cải tạo! Tù nhân thì có án, còn chúng tôi thì không. Chúng tôi phải thực hiện cho được tiến bộ để được trở về với xã hội! Quả thật là một điều khôi hài khi bị giam mà không có án phạt.

Khoảng hai giờ chiều, vài phạm nhân hình sự mang phần ăn vào nhà ăn, và rồi cán bộ vào báo chúng tôi đi ăn cơm! Đó là một bửa ăn thịnh soạn nhất mà chúng tôi nhận được kể từ ngày vào trại: một nồi cơm, một tô lớn thịt trâu, một tô canh, và một tô thịt heo cho sáu trại viên. Có cái gì đó lẫn trong cơm mà chúng tôi chưa nhận ra được. Vài người nghĩ là một loại đậu, nhưng sau này chúng tôi biết được đó là bo bo, một loại thức ăn gia súc của người Ấn Độ. Thịt trâu là loại thịt rất dai mà chúng tôi ăn lần đầu. Ở miền Nam, dân chúng ít khi nào ăn thịt trâu, nhưng đối với dân miền Bắc thì thịt trâu là loại thịt thông dụng. Chúng tôi không thể nào ăn hết phần ăn này nên chúng tôi quyết định mang phần còn lại vào để dùng tiếp. Lúc đó còn quá sớm cho bữa ăn chiều nhưng lại quá trễ đối với bửa ăn trưa, do đó vài người vẫn chờ đợi bửa ăn chiều như thường lệ với mong mõi là sẽ có thêm bữa ăn thịnh soạn như vậy nữa. Vài người còn không mang phần ăn thừa vào và lại nói rằng họ sẽ được ăn như thế hàng ngày. Quả thật là một sự lạc quan tếu! Nhưng rồi không có bửa ăn chiều nào nửa hết. Chúng tôi bị nhốt vào phòng giam vào khoảng 6 giờ chiều, và tôi thì ngủ ngay sau khi đó vì quá mệt.

Ngày hôm sau, chúng tôi phải lên hội trường để nghe ông giám thị trưởng, “đồng chí Thùy” nói chuyện. Ông ta là một người hơi ốm và xanh, cao khoảng một thước sáu mươi hai. Cái áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần vàng trông giống kiểu của một cán bộ cao cấp của VC. Bài nói chuyện của hắn ta rất trôi chảy như những diễn giả khác vì tất cả đều học cùng một bài! Thùy là sếp của toàn trại. Với cái nhìn đầu tiên, hắn trông rất dễ gây cảm tình, nhưng qua cách nói không hở răng, cười không hở môi, chúng tôi biết hắn ta là một người rất hiểm độc. Với giọng nói Nghệ Tỉnh, quê hương của Hồ, rất khó nghe, hắn ta dùng rất nhiều thơ của Hồ Chí Minh để thêm vào bài nói chuyện.

Nhưng tựu trung thì bài nói chuyện của Thùy là nói đến sự quan tâm của “Đảng và Nhà Nước” đối với việc cải tạo của những người có tội với nhân dân. Chúng tôi được đưa đến đây là để được gần với trung ương, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc cải tạo. Chúng tôi sẽ có điều kiện để lao động và học tập! Và rồi để kết luận, hắn lại bảo rằng ai tiến bộ trước sẽ được về trước. Chúng tôi đã nghe nói đi nói lại điều này ở mọi trại cải tạo rồi, chẳng có gì mới mẻ cả!

Chương 25 Cuộc Tuyệt Thực

Hai ngày đầu tiên ở trại Tân Lập là hai ngày nghỉ ngơi! Chúng tôi tụ tập nhau để hát nhạc vàng, ăn trưa và tối, tắm giặt và đi rong trong khu A. Chúng tôi không thể ra khỏi khu được vì họ đóng cửa, nhưng chúng tôi có thể đi qua các nhà trong khu để gặp nhau. Cơm nước thì được những phạm nhân hình sự làm trong nhà bếp mang đến nơi. Có vài phạm nhân hình sự làm trong Ban Thi Đua, nhưng họ chỉ đứng ngoài quan sát chúng tôi mà thôi.

Ngày chúa nhật 24 tháng 7 năm 1977, những sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi diễn tiến như thường lệ sau khi cửa phòng giam được hai cán bộ đến mở ra, một cán bộ vũ trang và cán bộ trực trại. Trong lúc tôi cùng Tuân, Hạnh và Lộc đang ngồi uống trà tại chổ nằm thì nghe tiếng ồn ào ở ngoài sân. Một nhóm trại viên la hò cổ võ cho việc đánh nhau. Vài thanh niên trong nhóm “Phục Quốc” đánh Thượng, một trại viên thuộc nhóm “tình báo”. Chúng bảo rằng Thượng có thái độ rất là hèn hạ khi nói chuyện với cán bộ trực trại mà lại khoanh tay lại. Kết quả của trận đánh ấy là tay của Thượng bị gãy! Tôi thì không thấy thái độ của Thượng sáng nay ra thế nào, và cũng không biết Thượng có phải là ăn ten hay không dù anh ấy đã ở cùng trại với tôi ngay từ lúc đầu. Thượng không phải là bạn thân của tôi, và anh ta chỉ là một trại viên bình thường như nhiều trại viên khác chọn thái độ “nín thở qua sông” để sống trong trại. Nếu quả thật anh ta có khoanh tay khi nói chuyện với cán bộ trực trại thì tôi nghĩ đó cũng chỉ là một thói quen khi thời tiết miền bắc đang lạnh mà thôi. Những thanh niên “Phục Quốc” là những người yêu nước, tôi không phủ nhận điều này, nhưng họ còn quá trẻ để hiểu biết mọi việc. Sự chống đối VC lại đổ lên đầu của Thượng, đó là một điều rất bất công.

Các cán bộ và ban thi đua vào mang Thượng đi bệnh xá và đóng cửa ở các bức tường ngăn cách các nhà với nhau trong khu A. Trại viên bắt đầu tập họp trong các phòng giam, và tôi nghe giọng đồng ca bản nhạc “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” vang lên từ nhà số 2, đó là bài ca tâm lý chiến thường được hát trong những dịp tranh đấu. Vài trại viên từ phòng 2 sang yêu cầu Uyển và Bình tham gia vào. Trong phòng 1 nơi tôi đang ở có khoảng một trăm trại viên chia làm hai đội: đội một và đội hai. Uyển, trại viên từ khu D của trại Thủ Đức làm đội trưởng đội 1 và Bình từ khu C của trại Thủ Đức là đội trưởng đội 2. Ngoại trừ những trại viên đang tắm giặt ở hồ nước, các trại viên còn lại trong phong đều tụ họp nhau và bắt đầu ca nhạc vàng và nhạc tranh đấu.

Khoảng mười giờ, bốn cán bộ vũ trang đi cùng cán bộ trực trại vào khu A để dẫn vài trại viên lên hội trường. Đó là những người đã đánh Thượng vào sáng nay như Tri, Long, Bình, Dũng, và vài người khác mà tôi không nhớ tên. Sau một lúc thì họ thả Long và Dũng về, số còn lại thì đưa đi K1 để biệt giam. Vài người sau này đã chết ở đó, số còn sống thì cũng rất tang thương.

Bửa ăn trưa được các phạm nhân hình sự mang đến phòng ăn như thường lệ, nhưng tôi nghe ai đó ra lệnh không được ăn. Tôi không biết ai đã ra lệnh này, và chẳng trại viên nào dám đi vào phòng ăn vì ai cũng sợ bị đánh như Thượng sáng này! Có lẽ đó là lần đầu tiên mà VC chứng kiến cảnh ấy trong trại. Những cán bộ vũ trang đi chung quanh khu A nhưng không vào trong. Cán bộ trực trại thì vào hỏi Uyển về tình hình đang diễn biến. Vài người lên tiếng yêu cầu thả những người bạn của họ trước khi họ ăn cơm. Cuộc tuyệt thực bắt đầu!

Bài ca “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” được lập đi lập lại nhiều lần và bắt nhịp bởi những tiếng vỗ tay tạo nên một nhịp điệu kích động. “Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người…Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!” Cái không khí quen thuộc này tôi đã từng nhìn thấy trong những buổi xuống đường của sinh viên được giật dây bởi VC trước kia nay lại đang diễn ra trong một trại cải tạo của VC. Quả là gậy ông đập lưng ông! Ngay cả những bài như “Dậy Mà Đi” hoặc “Tự Nguyện” của VC cũng đã trở thành một vũ khí tranh đấu chống lại chúng. “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại, ai nên khôn mà không khốn một lần”, hoặc “Nếu là người, tôi xin chết cho quê hương”. Những lời ca này lại trở thành đúng lúc hơn lúc nào hết.

Tuân, Hạnh, Lộc và tôi ngồi tại chỗ của chúng tôi để uống trà tham gia cuộc tuyệt thực! Bữa ăn chiều không được mang vào và phần ăn trưa thì vẫn nằm nguyên trong nhà ăn. Vào khoảng 6 giờ chiều, cán bộ trực trại và cán bộ vũ trang vào điểm buồng giam như thường lệ. Chúng tôi không đứng ngoài sân để điểm mà ngồi tại chỗ để đếm số thứ tự. Nhạc vàng và nhạc tranh đấu lại được cất lên cho đến nửa đêm mặc dù đèn điện đã tắt sớm hơn mọi ngày. Chúng tôi thay phiên nhau hát. Tôi không thuộc nhiều nhạc, do đó tôi đã ca một bản nhạc tiền chiến tên là “Ghen”. Đó chỉ là bản tình ca. Khoảng nửa đêm, chúng tôi chui vào mùng ngủ vì muỗi quá nhiều. Tôi chìm vào giấc ngủ mệt mỏi với cái dạ dày trống rỗng.

Cuộc tuyệt thực bắt đầu một cách ồn ào và rồi chấm dứt trong lặng lẽ.

Cộng Sản đã cô lập chúng tôi mà không cần cấm đoán những gì mà chúng tôi muốn làm trong vòng rào khu A. Không có một hậu thuẫn nào để làm chổ dựa, không có một tổ chức nào để hướng dẩn, cuộc tranh đấu trông giống như một ngọn lửa nhỏ, bạo phát bạo tàn! Họ chẳng cần đàn áp cuộc chống đối; nó tự tàn lụi lấy. Tôi đã biết trước như vậy và đang chờ đợi những hành động trả đũa của VC tiếp theo sau.

Sáng hôm sau, cán bộ đến để điểm buồng, trại viên ra khỏi phòng giam, nhưng có thêm vài cán bộ vũ trang đi kèm với cán bộ trực trại. Không ai nhắc nhở gì đến cuộc tuyệt thực hôm trước có tiếp tục hay không. Một ngày không ăn và một đêm thức khuya đã khiến mọi người đều đói và mệt. Khi bữa ăn trưa được mang vào nhà ăn, mọi người đều đặt đồ đựng chung quanh và trại viên trực chia phần cho mỗi người như thường lệ. Cuộc tuyệt thực đã chấm dứt một cách dễ dàng giống như khi nó bắt đầu! Vài người cũng còn tụ tập để hát nhạc vàng, nhưng không còn quy tụ được đông như trước đó. Sau một đêm, tôi nghĩ chắc ai cũng nhận ra được tình trạng nguy hiểm của mình ở trong trại khi không có được một sự hậu thuẫn nào. VC chưa làm gì cả, nhưng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra sau này đây. Tôi nghĩ chắc là họ không dễ dàng bỏ qua đâu. Có lẽ họ đã học được bài học diễn ra khi đưa những trại v

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 26. Lao Động Là Vinh Quang

Những ngày nhàn rỗi tiếp sau cuộc tuyệt thực trôi qua trong lặng lẽ. Tôi đi vòng quanh khu A để xem những bảng viết trên tường. Có 4 loại bảng được kẻ khắp nơi; đó là: bốn tiêu chuẩn cải tạo, ba mươi sáu điều nội quy của trại, hai mươi điều lệnh về nếp sống văn hóa mới, và mười chín điều về kỷ luật lao động.

Cái gọi là “Bốn Tiêu Chuẩn Cải Tạo” gồm bốn điều quy định mà mọi trại viên phải thực hiện để được coi là có tiến bộ. Điều quan trọng nhất là nhận tội và khai báo tội lỗi của người khác mà mình biết dù họ đã bị bắt vào trong trại hay vẫn còn ở ngoài xã hội. Tôi không thể nhớ từng chữ của bản văn, nhưng tựu chung nội dung như sau:

1. Thành thật thú hết tội lỗi còn dấu diếm hay chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của đồng bọn và bọn phản cách mạng mà mình biết được dù chúng đã bị bắt vào trong trại hay còn ở ngoài xã hội.

2. Tích cực học tập cải tạo; có trách nhiệm giúp đở các trại viên khác trong việc cải tạo.

3. Chấp hành nội quy của trại. Không được có lời nói phản tuyên truyền hoặc hành động phá hoại.

4. Tự nguyện tự giác lao động, tích cực học tập cải tạo. Đề xuất được những sáng kiến tốt trong việc quản lý và giáo dục phạm nhân, đẩy mạnh sản xuất của trại.

Nội quy của trại gồm 36 điều chia làm 4 phần: phần tổng quát, kỷ luật về học tập, về nếp sống, và về lao động.

Mười chín điều về “kỷ luật lao động” và hai mươi điều về cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” được phát triển một cách chi tiết từ bản nội quy.

Cái quan trọng nhất là bốn tiêu chuẩn cải tạo và nó được kẻ khắp mọi nơi trong trại. Các cán bộ cũng thường bảo rằng việc trở về xã hội của trại viên là tùy theo mức độ mà người ấy thực hiện được qua 4 tiêu chuẩn này. Điều đó đã khiến nhiều trại viên bị lẩn lộn giữa sự tiến bộ và sự tự trọng bởi vì nếu muốn làm theo những tiêu chuẩn ấy thì người trại viên phải làm những điều đi ngược lại quyền lợi của người khác. Quả là một chiến thuật nguy hiễm của VC để chia rẽ trại viên với nhau để điều hành trại! Trong hoàn cảnh ấy thì ai mà không muốn được ra khỏi trại? Trại viên không còn tin tưởng nhau, và điều này giúp Cộng Sản điều hành trại được dễ dàng hơn.

Vài ngày sau khi xảy ra vụ tuyệt thực, tình hình trong trại càng lúc càng lắng dịu hơn. Vào ngày thứ hai một tuần sau đó, một cán bộ vào phòng giam của chúng tôi gọi Uyển và Bình, hai đội trưởng trong phòng, cho mười trại viên đi với hắn để lấy “xe cải tiến” cho việc lao động vào hôm sau! Xe cải tiến là cái gì? Chúng tôi hỏi nhau.

Tôi theo nhóm để lấy xe cải tiến. Tên cán bộ giải thích rằng “xe cải tiến” là phương tiện để giải phóng đôi vai vì chúng ta dùng nó thay vì gánh nặng bằng vai. Thật là một cách giải thích kỳ khôi! Nhưng chúng tôi cũng không hiểu được cái từ “cải tiến” là thế nào. Cái gì đã cải tiến trong chiếc xe? Một cái máy gắn vào hay cái gì khác?

Chúng tôi, mười trại viên mặc bộ đồng phục tù với cái nón cối bằng lá cọ trông rất kỳ khôi đi theo tên cán bộ. Qua cổng trại, tên cán bộ bảo chúng tôi phải bỏ mũ nón ra; chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Không nói lời nào, nhưng trong thâm tâm chúng tôi cảm thấy tôi nghiệp cho cái thân của kẽ chiến bại.

Trời cuối tháng tư, thời tiết miền Bắc vẫn còn se lạnh. Chúng tôi đi trên con đường đất sét nhầy nhụa dọc theo bức tường gạch phía trước trại. Những hình vẽ một cách vụng về trên tường diễn tả các hoạt động của trại viên. Những bông hoa soan màu tím nhạt rụng đầy trên mặt đất, và những chồi non đang trồi ra khỏi cành cây trơ trụi. Dân chúng gọi đó là cây “sầu đông” vì đó là loại cây duy nhất ở miền Bắc bị rụng hết lá về mùa Đông.

Cái gọi là “xe cải tiến” là chiếc xe kéo có một cái thùng bằng gỗ dài khoảng một thước rưỡi rộng một thước và cao khoảng năm tấc với hai bánh xe bằng sắt bọc cao su gắn phía dưới. Hai càng xe bằng gỗ được gắn vào cái thùng ấy để kéo đi. Chúng tôi kéo năm cái xe trên con đường đất sét bên cạnh hàng rào trại nằm gần bên suối A-Mai đi từ bộ chỉ huy trại đến lò gạch.

Suối A-Mai lúc ấy đang cạn nước. Bờ suối chạy dài ra xa. A-Mai là con suối nhỏ chảy vào một nhánh của sông Hồng, do đó dòng suối cũng lên xuống theo sự lên xuống của dòng sông Hồng. Trong mùa mưa, nước sông Hồng lên rất cao, và đôi khi làm vỡ đê gây ngập lụt cho đồng bằng Bắc Việt. Tên cán bộ cho biết nước suối A-Mai từng lên tới tận con đường và chảy rất mạnh trong những ngày mưa lớn.

Phân trại K3 hiện ra ở phía xa xa bên kia bờ suối. Phương tiện duy nhất để đi từ K5 qua K3 là chiếc mảng tre do một phạm nhân lái. Một sợi dây cáp bằng thép nối liền hai cột xi măng ở hai bên bờ suối, và chiếc mảng được nối với sợi cáp bằng một cái ròng rọc. Người lái mảng chống sào để đưa chiếc mảng đi từ bờ này qua bờ kia. Có một con đường mòn từ con đường đất sét xuống tới bến mảng. Bên mặt của con đường đất sét, tôi nhìn thấy một vài cái nhà lá mà cán bộ cho biết đó là “nhà lô” cho những trại viên làm mộc. Cánh đồng phía sau trại hoàn toàn hoang vu với cỏ cao và bụi rậm.

Cách trại khoảng hơn một cây số, lò gạch vươn lên cao từ xa với tường bằng đất và mái lợp tôn rỉ. Khu đất quanh lò gạch bị đào bới trông giống như một thành phố cổ đang bị đào bới để tìm di tích. Một cái sân phẳng nằm bên cạnh dùng làm nơi đóng gạch.

Chúng tôi kéo xe vào trong một cái chòi bên cạnh lò gạch, nơi ở của cán bộ. Hắn ta nói với Uyển rằng ngày mai sẽ vào để dẩn đội đi lao động ngày đầu tiên và rồi hắn đưa chúng tôi về trại.

Đến gần suối chổ quẹo vào trại gần máy bơm nước, tên cán bộ bảo rằng để “bồi dưỡng” cho việc làm của chúng tôi, hắn cho phép chúng tôi được tắm giặt trong mười lăm phút. Chúng tôi chạy thẳng xuống suối, cởi quần áo và tắm giặt một cách vội vả. Lúc ấy đã gần trưa, nhưng cũng còn hơi lạnh. Chúng tôi phải mặc áo quần ướt đi về trại.

Không chỉ có chúng tôi, những người đi lãnh xe, mà tất cả mọi trại viên trong trại đều thắc mắc về chữ “cải tiến”. Khi nghe chúng tôi mô tả hình dạng của chiếc xe cải tiến, tất cả đều bật cười. Kể từ lúc ấy, hai từ “cải tiến” hay “cải thiện” đều trở thành một sự diễu cợt: xe cải tiến, thức ăn cải thiện, quần áo cải tiến, vân vân. Chúng tôi dùng từ “cải thiện linh tinh” để chỉ những người gặp cái gì thu nhặt cái đó, và nó đã trở nên một từ rất thông dụng trong trại cải tạo.

Trại viên sẵn sàng để đi lao động vào những ngày tiếp theo. Chúng tôi đã được cho biết rằng chúng tôi được “Đảng và Nhà Nước” đưa ra đây là để có điều kiện thuận tiện cho việc lao động cải tạo. Bằng cách này hay cách khác, chúng tôi phải làm việc và làm việc cực nhọc.

Một thành ngữ tốt để thay cho “lao động cưởng bức”: “Lao động là vinh quang!” Cái thành ngữ này đã trở nên quá quen thuộc đối với mọi người trong nước kể từ ngày Cộng Sản vào. Không chỉ chúng tôi trong trại mới biết mà mọi người dân đều biết rằng “lao động là vinh quang”. Những người Cộng Sản bảo rằng thông qua quá trình lao động, nhân loại đã được phát triển từ vượn người để biến thành con người, và cũng thông qua lao động dân chúng sẽ cung cấp tài sản cho xã hội. Sự phát triển của xã hội tùy thuộc vào sự lao động của nhân dân, do đó mọi người trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa phải lao động cho chính mình và cho xã hội.

Trong cải tạo, lao động là thước đo sự tiến bộ của mỗi trại viên, họ bảo rằng đó là việc cải tạo thông qua lao động. Tôi nghĩ mọi thứ giải thích đều nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải làm việc! Nhưng trong tình trạng ấy thì chúng tôi làm gì khác được ngoài việc phải làm những điều mà VC bảo chúng tôi làm? Chống lại lệnh chúng là chết sớm mà thôi. Cách duy nhất là phải chấp nhận hoàn cảnh để tìm cách sinh tồn. Mỗi khi tránh được việc lao động, chúng tôi thường đùa với nhau rằng “lao động là vinh quang, nhưng ở không là huy hoàng!”

Tiếng kẽng đánh thức chúng tôi dậy như thường lệ. Sau khi điểm số trại viên, cán bộ trực trại bảo chúng tôi cho người đi nhà bếp lảnh phần ăn sáng rồi chuẩn bị đi lao động. Đó là lần đầu chúng tôi lảnh phần ăn sáng ở trại Tân Lập, một muỗng canh (gọi là cái muôi) bo bo luộc rất khó nhai vì cái vỏ cứng của hạt bo bo. Ngoại trừ vài người thật sự bệnh và được bệnh xá cho phép nghỉ hay những người trực vệ sinh buồng, mọi người đều phải xếp hàng đi ra sân tập họp phía sau cổng trại. Đã có một hàng cọc với những bảng nhỏ đề tên đội cắm sẳn ở đó. Trại viên ngồi xổm thành hai hàng theo từng đội. Có cả hai đội của phạm nhân hình sự ngồi phía bên phải của bãi tập họp. Họ trông bẩn thỉu và ốm yếu với quần áo bạc màu và tả tơi. Nhìn họ rồi nghĩ lại mình, tôi bỗng rùng mình! Bộ đồ tù này có thể chịu đựng được bao lâu, và riêng tôi thì có thể chịu đựng được bao lâu trong hoàn cảnh này?

Một cán bộ mặc sắc phục với quân hàm thượng úy -ba sao với một gạch- tự giới thiệu là trại phó đặc trách K5 tên là Bảng sẽ có vài lời nhân buổi lao động đầu tiên của chúng tôi. Chẳng có gì mới! Chúng tôi, những tội phạm của Nhà Nước và Nhân dân phải cải tạo tội lỗi của chúng tôi. Đảng và Nhà Nước đưa chúng tôi đến trại này là để có điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo. Để được trở về với gia đình và xã hội, chúng tôi phải đạt được cái gọi là “tiến bộ”. Có ba điểm chính trong việc cải tạo để đạt được sự tiến bộ, đó là học tập, lao động và chấp hành nội quy của trại. Trong ba điều ấy thì lao động là điều quan trọng nhất. Chúng tôi phải cố gắng tối đa trong lao động vì lao động là thước đo mức độ tiến bộ của mỗi người! Giống như các cán bộ khác, Bảng lập lại những gì mà hắn đã được nhồi nhét vào đầu.

Bảng khoảng trung tuần bốn mươi, giọng nói Nam Định với chử “l” và “n” lẫn lộn với nhau chứng tỏ nguồn gốc bần nông của hắn, một giai cấp chính của VC. Tôi đã nghe nói rằng để được gia nhập Công An của Cộng Sản thì người nào cũng phải có ít nhất là ba đời thuộc giai cấp bần nông. Cộng Sản bảo rằng người trong giai cấp ấy không có gì phải mất ngoài cái quần đùi rách, khi chiến thắng thì họ sẽ được tất cả. Quả là một lý do vững chắc để gia nhập “Cách mạng”! Tiểu tư sản trí thức và tư sản là những giai cấp không trung thành với Đảng, chỉ có bần nông và công nhân là giai cấp trung thành nhất.

Nhiều cán bộ đi vào trại sau khi Bảng chấm dứt bài diễn văn. Họ là những “cán bộ quản giáo” hay còn gọi là “ban quản giáo” phụ trách các đội lao động.

Cán bộ trực trại gọi từng đội đi lao động. Đầu tiên là những đội hình sự và rồi đến phiên chúng tôi theo thứ tự từng đội từ 1 đến 8. Khi một đội được gọi đến, đội trưởng phải đứng lên và la lớn: “tất cả đứng dậy”, “bỏ mũ nón” và rồi “đứng nghiêm”. Khi đội đã đứng yên, đội trưởng quay lại đối diện với cán bộ trực trại và báo tổng số trại viên trong đội mình, số trại viên ốm bệnh, số ở trong trại với những lý do, và tổng số trại viên xuất trại đi lao động. Trại viên đi theo hàng đôi qua cổng trại với mũ nón cầm ngửa ra hai bên. Các trại viên phía bên phải cầm nón ở tay phải và bên trái cầm nón ở tay trái. Họ bảo rằng làm thế là để dễ quan sát coi có gì dấu trong nón hay không, nhưng tôi thì nghĩ họ muốn trại viên phải có thái độ phục tùng. Một hàng cán bộ vũ trang đợi chúng tôi bên ngoài trại. Cán bộ quản giáo đi cùng với trại viên còn hai cán bộ vũ trang -còn gọi là cán bộ bảo vệ- đi phía sau.

Trong những ngày đầu tiên này, chúng tôi được chia ra thành tám đội với những công việc làm như sau:

- Đội 1 và 2 gọi là đội gạch có nhiệm vụ làm gạch.

- Đội 3 gọi là đội rau xanh có nhiệm vụ trồng rau.

- Đội 4 gọi là đội xây dựng có nhiệm vụ sửa chữa nhà cho trại và cơ quan.

- Đội 5, 6, 7 và 8 gọi là các đội nông nghiệp có nhiệm vụ làm trên những cánh đồng quanh trại.

Ngoài các đội của chúng tôi còn có các tội nhân hình sự làm trong những đội như “đội chăn nuôi” chuyên nuôi heo, bò, gà vịt, đội “lâm sản” chuyên đi lấy củi, và đội “nhà bếp” chuyên nấu trong bếp. Một số phạm nhân hình sự khác thì làm trong những bộ phận lẻ gọi là “diện rộng”, đi lao động không có cán bộ đi kèm, và làm việc riêng cho các cán bộ hay cho cơ quan.

Chúng tôi im lặng bước đi trên con đường mà tôi đã đi ngày hôm qua để đến lò gạch. Chúng tôi thuộc đội 1, do đó đội chúng tôi là “đội gạch”. Có hai đội làm ở lò gạch là đội 1 chuẩn bị đất và đội 2 đóng gạch. Công việc của chúng tôi là đào đất, gánh nước từ suối lên đổ vào đất, quần trâu để nhào đất, và khiêng đất lên sân cho đội 2 đóng gạch.

Trong mùa nắng, đất sét trộn cát rất cứng. Để đào đất ấy, chúng tôi phải dùng cuốc và xà beng chứ không thể dùng xẻng. Đất được đào khu chung quanh và chuyển đến một cái hố nhỏ ở chính giữa bằng xe cải tiến. Việc nặng nhọc nhất là gánh nước từ suối lên, khoảng cách chừng năm trăm thước. Chúng tôi phải gánh đôi nước khoảng bốn mươi lít trên vai và đi trên một con đường gồ ghề. Cái lỗ để trộn đất sâu khoảng hai thước phía dưới mặt đất, chúng tôi phải làm những bậc thang để gánh nước xuống và khiêng đất lên cho đội 2. Vài trại viên đã đan những cái ky bằng tre cho hai người khiêng đất, đó là những thanh tre được đan vào nhau với hai đòn để cầm. Đội chúng tôi được chia làm ba tổ để thay phiên làm những việc như gánh nước, làm đất, và khiêng đất lên sân đóng. Thật là một công việc nặng nhọc nhất là dưới ánh nắng bởi vì nếu trời mưa thì không thể đóng gạch được.

Sau khi đất và nước đã đủ trong lỗ, hai trại viên dẫn hai con trâu vào để lùa chúng đi quanh lỗ đất ấy. Chân trâu đạp lên đất để trộn đất với nước cho đến khi đồng nhất. Nếu chỗ nào không được thì chúng tôi phải đạp cho đất được hoàn toàn. Họ gọi công việc này là “quầng trâu”.

Đống đất đã được nhào cho đồng nhất xong thì chúng tôi phải dùng cuốc xẻng để trộn lần cuối và đánh thành đống để chuẩn bị khiêng lên chổ đóng gạch. Công việc này được gọi là “lên quả”.

Khi vừa ra tới lò gạch thì tên cán bộ quản giáo bảo tôi chẻ lạt tre cho những người khác đan ky khiêng đất. Tôi không biết làm sao nên đã chẻ tre thành thanh thay vì thành sợi lạt. Tên cán bộ không nói gì với tôi mà bảo tôi đi làm đất thay vì chẻ lạt. Vào giờ trưa, hắn tập họp đội lại và đưa tôi ra làm một thí dụ điển hình về một người không hề biết lao động là gì mà trong chế độ cũ chỉ biết ăn bám vào công sức lao động của người khác! Tối hôm ấy trong phòng giam, chúng tôi phải họp để phê và tự phê, và rồi tôi lại được đưa ra để làm đề tài phê bình cho đến khi tôi phải nhận khuyết điểm. Cuối cùng thì tôi phải nói rằng tôi không hề biết gì về lao động tay chân bởi vì lúc nhỏ tôi chỉ đi học và khi lớn lên tôi chỉ làm việc trí óc chứ chưa hề làm việc tay chân. Tôi hứa sẽ cố gắng tích cực hơn trong thời gian tới để theo kịp những người khác. Kể từ hôm ấy trở đi, chúng tôi phải đi lao động từ sáng đến chiều và tối lại thì phải ngồi họp để kiểm điểm những việc làm trong ngày cho đến khi nghe tiếng kẽng đánh báo ngủ.

Đóng gạch cũng chẳng khỏe hơn làm đất. Chúng tôi phải ngồi xổm trên sân suốt ngày dưới ánh nắng. Đất mang lên sân được chất thành những đống nhỏ, người đóng gạch phải dùng cái khung bằng gỗ đè vào đống đất để lấy đất và đập xuống sân, kéo viên gạch sắp thành hàng và lấy cái khung ra để làm viên gạch khác. Điều này tưởng chừng như dễ dàng, nhưng dưới ánh nắng và suốt ngày phải ngồi xổm, bò từ nơi này đến nơi khác khiến mọi người đều bị đau lưng, đau hông, và đau vai. Thêm vào đó còn phải làm cho đủ tiêu chuẩn mà tiêu chuẩn ấy thì cứ tăng lên hàng ngày.

Giữa hai công việc đóng gạch và làm đất thì tôi chọn công việc sau mặc dù có nặng hơn nhưng tôi có thể di chuyển được chứ không phải ngồi xổm suốt ngày. Đội của chúng tôi và đội 2 thay phiên nhau làm hai việc này. May mắn cho tôi là tôi chỉ làm đội gạch khoảng một tháng thì được đổi sang đội làm mộc. Tôi không biết tôi có thể chịu đựng bao lâu nếu cứ ở đội làm gạch? Lao động quả thật là vinh quang, đặc biệt là lao động cưỡng bức! Trong trại, chúng tôi luôn luôn phải biết cái thành ngữ “tự nguyện và tự giác lao động”, nhưng nếu chúng tôi không tự nguyện thì họ buộc chúng tôi phải lao động hoặc là xử phạt chúng tôi bằng mọi cách!

Chương 27. Tôi Làm Thợ Mộc

Làm gạch quá nặng nề đối với tôi, và đi làm ngoài đồng thì những con đỉa bám đầy chân mỗi lần bước xuống nước khiến tôi rất kinh khiếp. Vì vậy khi trại cần ai biết làm thợ mộc để biên chế vào đội mộc, tôi tình nguyện ngay dù thật tình thì tôi chẳng biết gì ngay cả việc cầm cái cưa để cưa gỗ! Tôi cũng muốn nói ở đây là cái cưa ở Việt Nam là loại cưa khung với cái khung gỗ có hai tay cầm dài khoảng năm tấc nối liền nhau bởi một thanh gỗ nhỏ dài bằng cái lưởi cưa và được căng bằng một thanh gỗ khác ở giữa. Cái cưa này rất khó giữ cho thăng bằng nếu chưa quen tay.

Tôi được chuyển ngay sang đội mới thành lập, đó là đội 10 và Uyển vẫn làm đội trưởng đội này. Ngày đầu tiên đến “nhà lô” của đội, ngay phía sau vòng rào trại, để làm mộc, tôi được phân công để rọc gỗ thành những thanh gỗ khổ 4x10 phân. Tên cán bộ quản giáo bảo tôi đặt tấm bìa gỗ dày lên trên hai cái ghế ngựa và ngồi thẳng lên đó. Tôi phải giử lưỡi cưa bằng cả hai tay; tay mặt nắm vào một đầu ngay chỗ lưỡi cưa gắn vào khung còn tay trái thì giữ đầu kia của khung cưa. Sau đó cả hai tay phải đưa đều lên xuống và mắt thì nhắm thẳng theo đường mực để lái lưỡi cưa cắt theo đó. Điều này nghe cũng dễ, nhưng khi làm thì rất khó vì đó là lần đầu tiên trong đời tôi phải xẻ gỗ bằng cưa. Lưỡi cưa cứ đi lượn vòng như con rắn bò chứ không đi theo ý mình muốn, càng lái thì nó càng bị kẹt trong gỗ khiến tôi rất khó nhọc mới đưa lên xuống được. Chỉ một lúc sau mồ hôi đẫm ướt cả mình mẫy, và hai vai tôi ê ẩm như bị ai đánh.

Tôi ráng giử bình tỉnh và tự nhủ rằng dù sao thì còn hơn là phơi nắng và giẫm bùn suốt ngày ở chỗ làm gạch. Ở trong trại, tôi không thể tránh không làm việc được, do đó đành phải chấp nhận cái khá nhất trong số những cái xấu! Sau vài ngày, tôi có thể lái được lưỡi cưa theo ý mình và công việc cũng trở nên dễ dàng hơn một ít.

Thời gian sau đó, đội chúng tôi được phân công làm nhà để gia đình trại viên đến thăm nuôi. Nhà thăm nuôi này nằm ở ngả rẽ vào phân trại K5, đối diện với chuồng bò. Tôi lại cũng chẳng biết tí gì về kiến trúc, cho dù làm nhà gạch hay nhà lá. Nhưng trong đội có vài người ở trại Tây Ninh đã từng làm nhà, họ trở nên những “chuyên viên” hướng dẫn chúng tôi làm việc này.

Công việc đầu tiên của tôi là phải dùng rìu để đẽo cây gỗ thành cột nhà. Những cây này do các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản mang về. Trước hết tôi phải đẽo vuông cái cây rồi đẽo thành hình bát giác, sau đó dùng cái bào để bào tròn thành cột nhà. Họ gọi là “chuông tư”, “trầm tám”, rồi “lăng cạnh”! Để làm những xà nhà thì chỉ cần đẻo thành hình vuông rồi bào sơ cho có hình dáng.

Long và Tranh, những “chuyên viên” trong đội đặt cột và xà nhà trên mặt đất theo hình dạng của sườn nhà rồi vẽ những cái mộng và lỗ mộng cho chúng tôi đục, cưa và ráp lại thành hình.

Chúng tôi phải đào một cái ao phía sau để lấy đất đắp nền nhà. Sau ba tuần thì sườn nhà được dựng lên, và lúc đó là lúc chúng tôi phải làm mái, làm tường, và những công việc về mộc khác.

Để làm tường bằng đất, chúng tôi phải đục những lỗ vuông nhỏ cạnh 1x3 phân trên cột và xà nhà gọi là “lỗ bua” để nhét những thanh tre vào. Những thanh tre được nối tiếp nhau và cột dính lại thành hình dạng trông giống như mạng lưới. Trong lúc đó thì một toán phải đào đất, trộn rơm và nước vào rồi dùng chân trần mà đạp cho thành một chất nhầy nhầy. Chúng tôi dùng tay để trét thứ đất trộn rơm ấy vào vách để thành vách đất.

Mái nhà thì làm bằng ba lớp tre. Những cây tre để nguyên cây gọi là “đòn tay” được cột bằng dây lạt song song theo đường ngang từ cây kèo này qua cây kèo khác với khoảng cách khoảng một thước. Những cây nứa nhỏ được gọi là “rui” được cột vào đòn tay theo chiều dọc cách nhau khoảng năm tấc từ đòn tay trên cùng đến đòn tay cuối. Cuối cùng là những thanh tre chẻ khoảng ba phân cột vào rui theo chiều song song với đòn tay ở khoảng cách khoảng ba tấc được gọi là “mè”.

Để lợp mái, chúng tôi dùng lá cọ non dài khoảng một thước rưỡi đến hai thước. Chúng tôi xé hai tép nhỏ ở hai bên lá cọ, gắn nó vào mạng lưới của rui và mè theo chiều ngửa lên. Sau ba lớp lá, chúng tôi phải cột một thanh tre để giử lá ở vị trí vì vùng này thường hay có bão. Đỉnh của mái nhà là một hàng các cọc tre đâm xuyên qua và những cái lá cọ móc vào rồi đặt nằm chéo nhau.

Sườn nhà được nối với nhau bằng những mộng đuôi cá hay những cọc tre. Chỉ có cửa sổ và cửa cái là dùng đinh để đóng mà thôi! Cái nhà, hay nói đúng hơn là căn lều khoảng 8x10 thước, mà chúng tôi phải bỏ ra hai tháng trường để làm hoàn tất với công sức lao động cực nhọc của bốn mươi người chưa kể những phạm nhân hình sự cung cấp cây và lá. Nhưng điều mà tôi thu nhận được qua thời gian này là tôi bắt đầu có một ít kinh nghiệm về việc sử dụng cưa, đục, bào và rìu, tất cả sẽ có ích cho tôi trong thời gian sắp tới.

Sau khi hoàn thành “nhà thăm nuôi” cho trại viên, đội chúng tôi, đội 10 được đặt tên là “đội mộc và xây dựng tạm thời” với nhiệm vụ làm và sửa chữa nhà cửa làm bằng cây và tre trong trại và khu cơ quan. Trong thời gian không có công tác xây dựng thì chúng tôi được làm mộc ở nhà lô. Một đội khác được thành lập trong lúc đó là đội 2 chuyên làm mộc gia dụng như đóng đồ đạc bằng gỗ, xẻ gỗ cung cấp cho mộc và xây dựng.

Tôi suy nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để tránh các công việc nặng nhọc khác ở trong trại là làm sao học nghề làm mộc để được ở lại đội 10. Với một ít khéo léo và với khả năng về tính toán, tôi nhanh chóng bắt kịp nghề nghiệp này. Tôi có thể tính được mọi thứ trong căn nhà và không cần phải sắp cây gỗ xuống đất theo hình dạng cái khung nhà để vẽ mộng. Tôi chỉ cần cán bộ quản giáo cho biết về kích thước chung của căn nhà là có thể tính toán một cách chính xác bao nhiêu vật liệu để làm. Sáu tháng sau, tôi trở thành chuyên viên cho đội! Tôi lợi dụng việc ấy để có thể làm những điều mà tôi muốn làm theo ý mình.

Hàng ngày đến nhà lô, cán bộ quản giáo nói với đội trưởng Uyển về công việc phải làm, và rồi Uyển hỏi tôi cần bao nhiêu trại viên để làm công việc ấy. Tôi thường yêu cầu số người nhiều hơn là nhu cầu để mọi người đều được thoải mái hơn trong công việc. Khi làm nhà, tôi thường bảo những phạm nhân hình sự trong đội lâm sản chất những thứ cần thiết theo từng loại để chúng tôi khỏi phải di chuyển quá nhiều, điều đó có thể làm chúng tôi rất mệt nhất là với tình trạng thiếu dinh dưỡng ở trong trại. Mọi điều mà tôi tính toán đều với mục đích là làm thế nào để tránh cho chúng tôi mất sức. Chúng tôi phải tránh sự tiêu hao năng lượng cho chúng tôi trong hoàn cảnh này để còn có thể sống sót!

Luôn luôn có những điều ngộ nghĩnh xảy ra trong mọi tình huống, ngay cả trong những tình cảnh bi đát nhất. Ở trại Tân Lập thì hầu hết nhà cửa là nhà “tạm thời”, nghĩa là nhà làm bằng tre, gỗ và lá cọ. Chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, và đôi lúc chính điều này đã tạo nên một cảnh ngộ trái ngược. Các cán bộ và gia đình của họ cần nhà để ở, cần chòi để nuôi heo gà vân vân, và chúng tôi lại là những người làm ra những thứ mà họ cần. Nhà tốt hay xấu là tùy thuộc vào chúng tôi! Còn chúng tôi thì cần cái gì? Tất nhiên điều mà tù cải tạo nào cũng cần là thức ăn và công việc làm nhẹ nhàng! Tôi không bao giờ quên cơ hội để đòi hỏi những thứ cần thiết cho cuộc sống của chúng tôi như gà, thịt, trứng, khoai mì, và ngay cả rau. Họ khó có thể từ chối những điều yêu cầu ấy vì họ luôn muốn chúng tôi làm việc tốt cho họ. “Chúng tôi luôn muốn làm tốt mọi việc và làm nhanh cho các ông, nhưng như các ông thấy, chúng tôi không đủ sức. Nếu các ông có món gì đó để bồi dưỡng cho chúng tôi, món gì cũng được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm việc tốt hơn”. Đó là câu nói đầu môi của tôi mỗi lần tôi muốn hỏi xin thức ăn cho chúng tôi khi làm việc cho họ.

Có một lần chúng tôi làm một căn nhà bảy gian cho khu gia đình cơ quan, khi đặt cây đòn tay ở nóc nhà, tôi thấy vài người mang đồ đến cúng rồi tặng cho chúng tôi đồ cúng ấy. Tôi hỏi xem họ làm gì vậy thì họ cho biết cây đòn tay là một vật quan trọng nhất trong cái nhà, và theo sự tin tưởng của họ, họ yêu cầu chúng tôi trân trọng khi đặt đòn tay cho căn nhà để họ có may mắn khi sống trong nhà ấy. Chúng tôi thì chẳng cần điều gì ngoài phẩm vật của họ! Kể từ đó, chúng tôi đã biết được rằng cho dù là Cộng Sản, họ cũng rất mê tín.

Một lần khác khi làm cửa nhà cho họ, chúng tôi làm cửa trước và cửa sau thẳng đường từ trước ra sau. Họ đến yêu cầu tôi cho làm chéo qua một chút. Tôi biết đó cũng là một điều mê tín, do đó tôi bảo với họ rằng đó là ý kiến của “ban kế hoạch trại”. Một lát sau họ mang đến cho chúng tôi một bao bo bo và bảo tôi làm dùm họ điều mà họ muốn. Chúng tôi chia nhau phần bo bo rồi vừa sửa lại mà vừa cười với nhau!

Sự thiếu ăn và cái đói là điểm chính yếu trong trại cải tạo. Đội chúng tôi dù được làm những việc tương đối nhẹ nhàng hơn vài đội khác nhưng lại không có được những “bồi dưỡng” như những đội nông nghiệp, do đó tôi đã phải yêu cầu cán bộ quản giáo cho trồng cái gì đó để trại viên trong đội có thêm phần ăn. Ông ta cho phép Niệt, một trại viên trong đội làm việc ấy. Sau vài tháng, Niệt thay luôn người phạm nhân hình sự và trở thành trại viên “diện rộng” làm riêng cho cán bộ quản giáo. Niệt trồng cho đội giàn bầu và vài luống rau, ngoài ra anh ta còn có nhiệm vụ đi kiếm thêm thức ăn cho cán bộ quản giáo. Đôi lúc anh ta mang vào phòng cho riêng tôi một ít thức ăn mà anh ấy kiếm được. Trong cái địa ngục như trại Tân Lập, không có gì quan trọng hơn thức ăn, mọi loại thức ăn, bởi vì mọi người đều đói!

Đầu năm 1978, Uyển chuyển qua làm trong ban “Thi Đua”. Ban Giám Thị đưa Yêm từ K1 qua làm đội trưởng đội 10. Yêm chưa biết gì về mộc và xây dựng, nhưng vì là đội trưởng anh ta muốn nắm lấy trách nhiệm. Anh ta đưa tôi vào làm mộc ở nhà lô thay vì làm công việc xây dựng. Đó là thời gian mà tôi có dịp để học đóng đồ gia dụng. Công việc này tương đối nhẹ hơn làm xây dựng, nhưng phải ở tại nhà lô và không có thêm được thức ăn “bồi dưỡng”. Điều này rất quan trọng cho chúng tôi.

Trong trại, chúng tôi thường làm giường, tủ chạn, bàn ghế cho cán bộ và gia đình. Đôi khi họ còn bảo tôi làm dùm “hòm” (rương đựng quần áo làm bằng gỗ). Việc này thường là công việc làm riêng tư, không có trong kế hoạch của trại, do đó tôi lại có cơ hội để yêu cầu họ cung cấp cho tôi món này món nọ.

Sau vài tuần lễ, Yêm không thể nào làm được việc của đội, đặc biệt là khi làm căn nhà khá lớn, do đó cán bộ quản giáo và cán bộ kế hoạch của trại bảo tôi phải trở lại làm việc như là chuyên viên về xây dựng cho đội. Tôi làm công việc này vì tôi biết họ cần tôi trong công tác xây dựng, và đó cũng là cơ hội để tôi có thể tránh được công việc nặng nề và có cơ hội giúp các trại viên khác trong đội.

Cũng vì điều này đã khiến có lần tôi suýt bị nguy hiểm khi ban giám thị trại có ý định chơi trò chơi dân chủ trong trại bằng cách cho phép trại viên bầu ban thi đua và các đội trưởng. Tôi đã cảm thấy đó là một chiến thuật của VC để loại trừ những trại viên nào được các trại viên khác có cảm tình.

Trong đội tôi, dưới sự chủ trì của cán bộ quản giáo, các trại viên đã đề cử đội trưởng Yêm, đội phó Sinh, và tôi ra để được bầu vào chức vụ đội trưởng. Sau cuộc bầu cử, tôi lại là người được một trăm phần trăm phiếu bầu của các trại viên trong đội. Một buổi họp của Ban Giám Thị với Bích, một phạm nhân hình sự làm trưởng ban thi đua, đã đi đến kết luận là phải chuyển tất cả những người đã được các trại viên tín nhiệm đi đến phân trại khác, trong đó có tên tôi. Uyển, Yêm và vài người nữa được chuyển đi K1, nhưng họ giữ tôi lại vì lý do không có người thay thế để làm công việc xây dựng. Tôi ở lại đội 10 với nhiệm vụ củ là “chuyên viên về xây dựng”, và họ đưa Tống từ K1 sang làm đội trưởng đội 10.

Các trại viên đến đội 10 và đi khỏi đội, các trại viên được chuyển đến trại Tân Lập và rồi được thả ra khỏi trại; nhiều cán bộ quản giáo đến phụ trách đội 10 và chuyển đi đội khác. Tôi vẫn cứ ở đội ấy hầu hết thời gian từ đầu cho đến khi rời trại Tân Lập để đi về miền Nam. Long, Tranh, Tánh, và những trại viên trong nhóm 410 người trên chiếc tàu “Sông Hương” đã được thả ra khỏi trại từ đội 10. Vui, Nam, Giới, Tứ, và những trại viên khác được chuyển đến trại Tân Lập từ Lào Kai, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn vân vân là những trại viên cuối cùng của đội 10. Nhưng chỉ có tôi là ở đội ấy từ đầu đến cuối.

Cũng không phải tất cả mọi việc đều trôi chảy! Mặc dù chúng tôi thường làm trong nhà lô, “nắng không tới mặt, mưa chẳng tới đầu”, nhưng rồi cũng luôn luôn có những việc ngoại lệ. Trong mùa giông bão, và miền Bắc Việt Nam thì thường có giông bão, chúng tôi phải đi sửa mái nhà trong trại và khu cơ quan trong khi các đội khác thì được nghỉ. Mái nhà làm bằng lá cọ rất dể bị tung bay trong gió bão nên chúng tôi không bao giờ được nghỉ ngơi trong mùa này!

Thêm vào đó, chúng tôi làm việc nguy hiểm mà không có trang bị an toàn nào cả. Làm việc trên mái nhà, đặc biệt là vào mùa đông khi có mưa phùn và gió bấc, những sợi lạt tre rất bén dễ cắt đứt tay. Tôi đã té xuống đất một lần từ mái khi cột dây lạt và dây bị đứt làm mất thăng bằng. May mắn là tôi rơi trúng đống lá cọ nên chỉ mất một cái răng chứ không bị thương nặng. Nếu không có đống lá thì không biết tôi sẽ ra sao?

Một lần khác, ba trại viên trong đội cùng tôi phải đi cắt một cây sung ở bờ suối A-Mai về làm cột nhà. Hôm ấy trời mưa nhỏ chứ chưa phải là mưa to. Sung là một loại cây có nhiều nhựa rất khó cưa ngang bằng cái cưa cá mập. Cây lại nằm ở bờ suối ngay chỗ giáp với mặt nước. Chúng tôi không thể đứng dưới nước để cưa nên chúng tôi phải đóng cái ghế ngựa vào thân cây và ngồi trên ghế để cưa cây. Mực nước càng lúc càng dâng lên cao. Có lẽ là đang mưa to ở trên nguồn. Lúc đầu thì cây sung nằm gần bờ nhưng lần lần thấy bờ càng xa ra. Khi đã cắt xong thì chúng tôi không còn làm cách nào khác hơn là bám vào thân cây để nó trôi theo dòng nước đang chảy xiết. Một lần may mắn nữa là cây sung lại trôi tấp vào bờ; chúng tôi lôi nó lên bờ và đi về nhà lô với quần áo ướt và lạnh.

Năm năm ở trại Tân Lập quả là quá dài để quen dần với mọi thứ. Kể từ lúc bắt đầu chưa biết làm mộc là gì cho đến lúc có thể làm được hết mọi việc và thành một thứ chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng trong trại, tôi đã phải vượt qua biết bao nhiêu là khó khăn! Cán bộ và ban giám thị lần lần biết tôi. Đầu năm 1981, nhà lô đội 10 chuyển qua địa điểm mới, ở gần bộ chỉ huy trại và nằm cạnh vườn cam. Tôi có thể đi ra nhà lô một mình mà không cần phải có cán bộ đi theo trông chừng. Đôi khi ban giám thị trại còn cho phép tôi được đi một mình ra nhà dân để quan sát lấy ý về để làm nhà cho cơ quan. Tôi nghĩ tôi có thể nhân đó mà trốn trại được và họ chỉ có thể phát hiện khi điểm buồng vào buổi tối mà thôi. Nhưng như tôi đã nói từ trước, trại Tân Lập bao quanh bởi núi rừng và thật sự tôi không biết đi đâu khi trốn ra khỏi trại! Cũng đã có vài cuộc trốn trại nhưng chưa một ai đi được xa vì tất cả đều bị những người dân miền núi trong vùng bắt nộp về trại để nhận phần thưởng là một ít gạo và thực phẩm. Mọi cuộc trốn trại bị thất bại đều dẫn đến cái chết bằng cách này hay cách khác sau khi bị biệt giam một thời gian dài.

Một mẫu chuyện tình trong đời cải tạo: Khi nhà lô mới của đội 10 dời về khu vườn cam, nó cũng nằm gần nhà giữ trẻ cho gia đình cán bộ. Cô giáo nhà trẻ tên là Lan thường đến nhà lô để nhờ tôi làm dùm thước kẻ. Lúc đầu tôi không chú ý gì đến cô ta vì cô ta là “cán bộ”. Nhưng lâu dần điều ấy trở thành thường xuyên, và cô ta chỉ nhờ tôi làm dùm công việc này trong khi có nhiều trại viên khác làm trong nhà lô. Mỗi lần có dịp đến để sửa chữa trong nhà trẻ, học sinh của cô ta lại cho tôi biết rằng cô giáo đang “trang điểm” trước khi ra gặp tôi! Vài người bạn trong đội và ngay cán bộ quản giáo cũng biết điều này, nhưng họ chỉ cười với tôi mỗi khi thấy cô ấy đi tới nhà lô. Lan không đẹp nhưng có nụ cười hấp dẩn và thân hình cân đối, có lẽ vì cô ấy lao động từ bé. Sự quan hệ của chúng tôi dần dần trở nên gần hơn cho đến khi tôi chuyển về miền Nam đầu năm 1982. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không chuyển khỏi trại Tân Lập?

Không chỉ mình tôi mà một số trại viên khác cũng bắt đầu có những sự quan hệ với các cán bộ nữ. Bên cạnh đó thì sự quan hệ giữa trại viên, nhất là những người trong đội lâm sản với dân quanh vùng càng lúc càng nhiều hơn. Thật là một tình trạng đảo ngược! Tôi có thể nói rằng “chính sách của Đảng và Nhà Nước trước sau như một”, nhưng mà quan điểm của con người thì đã bắt đầu thay đổi!

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 28. Dưới Hai Tầng Áp Bức

Trại Tân Lập không phải là một trại mới xây như tên gọi của nó. Tân Lập là một mẫu mực của một trại cải tạo của Việt Cộng bởi vì nó đã được thành lập từ thời 1954 sau khi Cộng Sản thôn tính miền Bắc Việt Nam. Nó đã từng là trại giam giữ các nhân viên của thời Pháp. Trong phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” 1955 ở miền Bắc, nó lại được dùng để tập trung các văn thi sĩ có những tư tưởng chống Cộng. Tân Lập cũng đã từng là nơi để nhốt những địa chủ trong giai đoạn “Cải Cách Ruộng Đất” ở miền Bắc sau 1954. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các tù binh Mỹ cũng đã bị giam ở đó. Trước khi chúng tôi đến trại thì Tân Lập đã là trại cải tạo các thiếu nhi phạm pháp và các trẻ bụi đời. Với một lịch sử như vậy, Tân Lập là một trại cải tạo tổ chức rất hoàn hảo.

Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại Tân Lập gồm hai thành phần: Các đơn vị Công An VC quản lý trại và các trại viên.

Các sĩ quan công an VC được chia làm hai bộ phận, “Ban Giám Thị” và “Hội Đồng Cán Bộ”. Ban Giám Thị hay Ban Chỉ Huy trại gồm những Công An trông coi các việc điều hành chung trong trại như Trưởng trại, các trại phó đặc trách mỗi K, các trại phó trông coi các ban ngành như kế hoạch, giáo dục, chấp pháp, và an ninh. Hội đồng cán bộ bao gồm hai bộ phận chính, đó là các cán bộ quản giáo trông coi trại viên trong mỗi đội và các cán bộ vũ trang hay cán bộ “bảo vệ” có nhiệm vụ canh gác trại và quan sát trại viên lao động bên ngoài trại.

Trại viên trong trại được chia thành từng đội và tổ. Mỗi đội gồm khoảng từ ba mươi đến bốn mươi trại viên với một trại viên được sự tín nhiệm của ban giám thị hay cán bộ quản giáo làm đội trưởng. Đội được chia thành ba hay bốn tổ tùy theo công việc của từng đội. Mỗi tổ có khoảng mười trại viên và có một tổ trưởng trông coi công việc lao động do đội trưởng hay cán bộ quản giáo giao phó cho tổ ấy.

Một tổ chức đặc biệt của trại Tân Lập là cái gọi là “Ban Thi Đua” gồm có “Thường Trực Thi Đua” và “Hội Đồng Tự Quản” bao gồm các đội trưởng. Đó là những cái tai và mắt của Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ.

Khi chúng tôi vừa đến trại Tân Lập thì cái gọi là “Thường Trực Thi Đua” nằm trong tay của các tội nhân hình sự, với Bích, một tên “mắt lé răng hô”, và Khôi nắm giữ mọi sinh hoạt trong trại. Chúng rất có thế lực! Có lần tôi được gọi lên văn phòng của chúng để kẻ khẩu hiệu, tôi thấy có một cán bộ kế hoạch của trại vào để hỏi vài trại viên đi theo làm công việc gì đó. Bích đang nằm để một phạm nhân xoa bóp trong phòng riêng phía bên trong văn phòng của thường trực thi đua; hắn ta la lớn lên rằng “bảo ông ta đợi tôi, tôi đang bận!” Tôi không hiểu hắn ta là loại tù gì? Nếu là trại viên thì chắc đã bị phạt nặng lắm rồi!

Còn Khôi thì hàng mỗi buổi sáng ngồi ở bệnh xá để cho phép trại viên được nghỉ bệnh trong trại hay không. Các trại viên nào muốn khỏi đi lao động thì phải có cái gì đó đút lót cho hắn!

Trong khi trại viên chỉ có một chén nhỏ bo bo thì chúng có đầy dẫy thức ăn; trong khi trại viên bị nhốt trong phòng giam thì chúng có riêng phòng ngủ và có riêng những người phục dịch để giặt giũ và ủi áo quần! Chúng dường như là những ông vua ở trong trại. Không ai biết về tội trạng của chúng và án tù mà chúng bị xử. Tôi nghe vài phạm nhân hình sự bảo rằng Bích đã từng là một cán bộ kinh tài làm trong bộ tài chánh ở Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Hắn ta ăn cắp tiền của bộ và bị xử hai mươi năm. Khôi thì là một sĩ quan ở địa phương có tội giết vợ nên bị tù chung thân. Ban Giám Thị trại rất tin tưởng bọn chúng nên trao cho bọn chúng hết mọi quyền hành trong trại.

Vào năm 1978, vài trại viên trong nhóm “Chế độ cũ của miền Nam” gia nhập vào “Thường Trực Thi Đua”. Khôi được dời đi K1, nhưng Bích thì vẫn là trưởng ban thi đua cho đến khi được tha ra khỏi trại vào năm 1981.

Tôi không muốn phê bình hay kết án các hành động của Ban Thi Đua trong nhóm của các trại viên đến từ miền Nam. Tôi chỉ muốn kể lại ở đây những gì đã xảy ra ở trại Tân Lập. Đối với những ai đã ở trại Tân Lập thì tôi nghĩ họ đã biết quá nhiều về các Thường Trực Thi Đua này. Còn đối với những người khác thì tôi nghĩ chắc là khó có thể tin được những việc làm của họ là sự thật. Đôi khi chính tôi còn phải tự hỏi rằng những người ấy là công an của VC hay là tù cải tạo?

Uyển, Bình, Tú, Diêu vân vân là những “thường trực thi đua” được điều khiển bởi Bích và hành động cũng giống như Bích. Trại viên trong trại bị áp bức bởi hai bộ phận: Các Cán Bộ và các Thi Đua. Điều nguy hiểm của Cộng Sản là chúng dùng thủ đoạn “ném đá dấu tay”, dùng Thi Đua như một công cụ của chúng để điều hành trại. Các cán bộ thì luôn miệng nói rằng “đường lối và chính sách của Đảng và Nhà Nước” là không đánh đập hay hành hạ trại viên để trả thù, và nếu có những hành động xấu nào đó xảy ra thì đó là hành động của từng cá nhân chứ không phải là chính sách của Đảng và Nhà Nước. Những điều mà các Thi Đua làm đó là do ý của họ chứ không phải là do Ban Giám Thị và Hội Đồng Cán Bộ!

Nhiều trại viên đã không thù hận các VC mà lại thù hận những thi đua, và họ đã quên rằng chính các thi đua là những người thi hành những chỉ thị của Ban Giám Thị trại.

Các Thường Trực Thi Đua đứng bên ngoài phòng giam để quan sát, nghe lén, và phê bình các buổi họp của trại viên.

Các Thường Trực Thi Đua tổ chức riêng cho mình những hệ thống ăn-ten gồm những trại viên làm tai mắt cho chúng.

Các Thường Trực Thi Đua gọi những trại viên vi phạm nội quy của trại lên văn phòng và đánh đập các trại viên ấy.

Các Thường Trực Thi Đua bắt buộc các trại viên bị bệnh phải đi lao động.

Rất nhiều hành động của Thường Trực Thi Đua đã tạo nên những căm thù trong trại viên.

Cái chiến thuật này của Cộng Sản đã rất thành công trong trại cải tạo, đặc biệt là ở trại Tân Lập. Trại viên sợ hãi các thường trực thi đua như Bích, Uyển, Bình, Tú, Diêu, vân vân, hơn cả những cán bộ trong ban giám thị như Thùy, Bảng, hay Trung.

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 29. Quay Đầu Về Núi!


Mùa Đông năm 1977, đó là mùa Đông đầu tiên mà chúng tôi phải chịu ở miền Bắc Việt Nam. Thời tiết rất lạnh, nhất là đối với chúng tôi, những trại viên bị ốm đói, không đủ quần áo che thân, và ngủ không có chăn mền trong những phòng giam mà cửa sổ luôn luôn được mở rộng để dễ kiểm tra bên trong. Mưa phùn và gió bấc là những điều mà trước kia chúng tôi chỉ được đọc trong các tiểu thuyết viết về sự đau khổ của những người nghèo ở miền Bắc. Giờ đây chúng tôi phải sống với những thứ đó trong một tình trạng còn tồi tệ hơn cả những người nghèo, trong cái địa ngục của thế gian!

Lưu Đình Việp, nguyên chánh nhất của tòa thượng thẩm Sài Gòn đã bị bệnh tiểu đường. Ông ta làm trong đội “rau xanh”. Một hôm nọ ông ta bị con đỉa cắn vào chân; máu không cầm được mà lại không thể ở trong trại để nghỉ ngơi. Hàng ngày ông phải gánh những gánh gọi là “phân tươi” để tưới rau. Phân tươi còn gọi là “phân bắc” là phân lấy từ nhà cầu của trại viên trộn với nước suối. Vết thương của ông ta bị làm độc và không có thuốc men gì nên ông bị chết sau vài tuần lễ! Ông ta là người trại viên đầu tiên chết ở trại cải tạo Tân Lập.

Sau đó thì trại viên thay phiên nhau chết từng người một. Vài trại viên đã ngã ra chết khi đang hút thuốc lào; tay của họ còn nắm cái điếu. Vài người chết trong lúc lao động. Có người thì chết trong lúc đang ngủ.

Lúc ấy tôi đang làm trong đội 10, đội “mộc”. Tôi phải đóng quan tài gần như hàng ngày, và những tội nhân hình sự trong “đội lâm sản” thì mang người chết đi chôn.

Hôm ấy là một đêm mùa Đông vào tháng chạp năm 1977. Chúng tôi đang ngồi họp sau bửa ăn chiều trong phòng giam khi đã bị nhốt vào phòng thì nghe tiếng lanh canh mở khóa phòng giam làm gián đoạn buổi họp của chúng tôi. Cán bộ quản giáo của đội 10 vào và bảo Uyển, đội trưởng đội 10 cho năm người đi với ông ta. Lúc đó vào khoảng chín giờ tối. Hôm ấy là phiên trực của tôi do đó tôi đi cùng bốn trại viên khác trong đội để đến nhà lô của đội đóng một cái quan tài chôn một trại viên vừa chết cách đó khoảng một tiếng đồng hồ. Điều này rất là bất thường vì chúng tôi vẫn thường làm việc này trong giờ lao động mà thôi.

Đóng một cái quan tài! Nói thì dễ hơn làm vì chúng tôi không có sẵn gỗ ván theo kích thước. Chúng tôi phải cưa gỗ bằng cưa tay để có được theo đúng kích thước, phải bào cho nhẵn và rồi lại phải rong cạnh cho thẳng để có thể ghép vào nhau được. Tiếp theo đó thì chúng tôi đóng thành một cái quan tài hình hộp vuông dài hai thước với các cạnh năm và sáu tấc có sẵn cái nắp để đóng đinh vào. Chiếc quan tài làm xong vào khoảng nửa đêm; chúng tôi khiêng nó vào bệnh xá để đặt tử thi và đồ đạc của anh ta vào đó.

Với hai sợi dây cột vào hai đầu của quan tài, chúng tôi luồn một thanh đòn tre ngang qua cho dễ khiêng bằng vai. Một người trong chúng tôi bưng một cái mâm gồm một chén cơm, vài trái chuối, vài cây nhang, và hai cây đèn cầy. Một người khác thì cầm cây đuốc để soi đường vì lúc ấy trời rất tối. Một người nữa thì cầm mấy cái xẻng, và hai người còn lại thì khiêng quan tài. Cán bộ quản giáo đi phía trước còn hai cán bộ vũ trang thì đi phía sau, chúng tôi đi trên một con đường đất sét dốc ngược về phía K4 của trại. Cái nghĩa trang để chôn trại viên bị chết nằm trên đỉnh của một ngọn đồi trước dùng để trồng cây trà, nằm cách K5 khoảng mười cây số.

Dưới ánh đuốc lung linh, những ngôi mộ đất nhỏ nằm không theo thứ tự trông giống như những luống cày dở dang. Bạn bè của chúng tôi đang nằm đó! Nhưng ít ra thì thân xác và linh hồn của họ không còn bị hành hạ nữa, và gia đình họ cũng không còn phải chờ đợi họ một cách vô vọng nữa!

Thọ, một trại viên trong đội văn nghệ đã viết một bài ca có tựa đề là “Quay đầu về núi”.

“Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải đợi phải mong. Và rồi một ngày mai anh chết đi, thân xác anh quay đầu về núi, trong mộ phần không chút khói hương.... Xin em trồng giữa mộ anh một loài hoa nhỏ dại không tên.”

Cái huyệt hố đã được các phạm nhân hình sự đào sẵn. Chúng tôi đặt quan tài gần bên cạnh hố, đốt mấy cây nhang và hai cây đèn cầy, đặt cơm, muối, và mấy trái chuối lên mâm. Tôi khấn thầm cho anh ta được bình an nơi thiên đàng, và rồi chúng tôi thòng quan tài xuống dưới huyệt, lấp đất lại và trở về trại.

Trời đã bắt đầu hừng đông; chúng tôi được phát mỗi người một chén cơm và ít muối để bồi dưỡng cho việc làm này và được cho phép nghỉ trong trại hôm ấy, không phải đi lao động. Đó là lần đầu tiên tôi đi chôn một người bạn tù, tôi không nhớ được tên anh ta. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng vì sau đó chúng tôi phải thay phiên nhau đi hầu như hàng đêm!

Đầu tiên, chúng tôi đóng quan tài khi có người chết; sau đó chúng tôi đóng sẵn để chờ người chết. Trại viên chết quá nhiều, chết vì đói, vì bệnh không có thuốc, vì kiệt sức. Chúng tôi không còn gỗ để đóng quan tài nữa, do đó chúng tôi phải dùng một cái quan tài cho nhiều người chết. Chúng tôi đặt người chết và đồ đạc của họ quấn trong chiếc chiếu vào trong quan tài, mang đến mộ phần của họ, chôn tất cả xuống mộ và mang chiếc quan tài trống trở về cho người chết khác!

Đỉnh đồi sau đó đã đầy, chúng tôi phải dời qua một đỉnh đồi khác để lập một nghĩa trang mới. Trại Tân Lập nằm trong một thung lũng bao quanh bởi núi, do đó tất cả các người chết đều được quay đầu về núi cho dù có chôn họ theo hướng nào đi nữa!

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Chương 30. Đói!


Đó có lẽ là điều chính yếu trong tất cả các trại cải tạo, và ở trại Tân Lập thì đó lại là một vấn đề quan trọng giữa cái sống và cái chết. Rất khó có thể diễn tả được cái đói trong trại cải tạo bởi vì nó khác hơn mọi cái đói khác. Người ta đói vì không có gì ăn. Trại viên thì đói mặc dù vẫn có ăn ngày ba bữa!

Ngày đầu tiên đến trại Tân Lập, chúng tôi được một bữa ăn thịnh soạn gồm cơm, thịt trâu và thịt heo. Vài ngày sau thì chúng tôi vẫn có cơm độn với một ít bo bo với một ít canh bí đỏ. Nhưng rồi thì bo bo được lần lần thay cho gạo cho đến khi chúng tôi chỉ được chín mươi phần trăm bo bo với một chút cơm và đôi khi không có một tí cơm nào nữa hết.

Cao lương hay bo bo là một loại thực phẩm gia súc được viện trợ từ Ấn Độ. Hột bo bo lớn khoảng một phần tư hạt bắp với cái vỏ cứng và dầy hơn hạt bắp. Bo bo chưa xay vỏ rất khó nấu chín, và cái vỏ thì cũng rất khó lột ra ngay cả nấu thật lâu đi nữa!

Đầu tiên thì chúng tôi nhai bo bo giống như ăn cơm, nhưng rồi chúng tôi khám phá ra rằng bo bo bị tiêu hóa ra ngoài nguyên cả hột. Chúng tôi phải nhai kỷ hơn, nhưng mà cái vỏ cứng của nó khiến răng và hàm chúng tôi đau chịu không nỗi. Chúng tôi lại phải giã nó ra, và vài người còn nấu lại trước khi ăn nữa.

Cái đói đã tạo nên nhiều hành động rất là bi hài, đặc biệt là khi chia phần ăn. Khi đi lấy bo bo ở nhà bếp về cho đội thì phải có ít nhất là hai trại viên đi cùng. Một người để mang bo bo còn người kia thì đi theo để kiểm soát vì mọi người đều nghi rằng bo bo bị cắt bớt trên đường từ bếp về đến đội. Để chia phần ăn, các trại viên thường dùng thành ngữ “công bằng và chính xác!” Nhưng rồi ai cũng nghĩ rằng phần của mình ít hơn của người khác. Trại viên không tin tưởng vào những cái chén hay cái muôi (muỗng canh) nữa, do đó vài người đã chế ra những cái cân làm bằng thanh tre với một hòn đá cột ở một đầu và cái đĩa cột ở đầu kia để chia phần ăn. Cũng chưa đủ, có người còn đề nghị đếm số theo một thứ tự nào đó hay bắt số theo một quy ước nào đó rồi người đầu tiên lấy phần ăn cho dù đó không phải là cái chén của mình. Thật là một bi hài kịch! Một tục ngữ Việt Nam nói rằng: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Điều này trông rất rõ ràng trong trại cải tạo.

Bữa ăn của trại viên thường là một chén nhỏ bo bo hay một thứ gì đó xem như tương đương với cơm, và một chén canh rau. Bát canh rau này thường là nước muối có một vài cọng rau như lá xanh của bắp cải, lá của su hào, lá cải củ, hay rau muống, tùy theo từng mùa. Cái gọi là “những thứ tương đương với cơm” là những cái mà trại có như bo bo, khoai mì, khoai lang, bắp, và đôi khi bánh bột mì.

Khoai mì hay sắn là thường xuyên nhất vì đó là sản phẩm chính của tỉnh Vĩnh Phú. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên là “bạch sâm”! Điều tệ hại là chúng tôi ít khi được ăn khoai mì tươi mà thường là khoai mì khô: Sắn lát hay sắn duôi! Sắn lát (chúng tôi gọi là nút chai) hay sắn duôi (cắt thành sợi) được cắt từ nguyên củ khoai mì kể cả vỏ và tim, được phơi nắng (và phơi cả mưa), và được trữ lâu ngày trong nhà kho, do đó chúng thường rất dai và mốc. Sau khi được nấu lên, sắn lát chỉ chín ở lớp ngoài còn bên trong thì vẫn còn sống, còn sắn duôi thì biến thành một chất cháo nhầy nhụa.

Khoai mì, khoai lang, và bắp là những thứ nông sản mà dân địa phương thường nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Dân chúng trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa không nộp thuế bằng tiền, đặc biệt là thuế nông nghiệp; họ đóng bằng những nông phẩm của họ để thay vào đó. Sau vụ mùa, chúng tôi thường thấy những người dân địa phương sống vùng quanh trại gánh sắn duôi, sắn lát, khoai lang, và bắp vào trại để nộp thay vì nộp cho chính quyền địa phương.

Dân chúng trong vùng rất nghèo, họ là những người dân sơn cước như người Tày, Mường, H”Mông, hay những người dân sống trong xóm đạo (Công giáo) bị chuyển từ những thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định về đây sau năm 1954 để xây dựng “khu tinh tế mới”. Để thực hiện chính sách đàn áp tôn giáo đặc biệt là Công giáo, và để tịch thu tài sản của những người giàu có và những gia đình của những người làm cho chế độ cũ, Cộng Sản đã thiết lập những cái gọi là “khu kinh tế mới” ở những vùng xa xôi hẻo lánh và bắt những người dân này đến để khai phá. Vài địa danh như Bến Ngọc, A-Mai, và Dốc Trinh là tên của những người đầu tiên đến khu này. Ngọc là tên của một ông cả trong làng người đã lập ra cái bến, A-Mai là người chết đầu tiên trong dòng suối, và Trinh là tên một cô gái vẫn còn sống, người đã bị VC hiếp dâm và vẫn thường đi lang thang trên đầu dốc gần trại.

Dân chúng sống quanh trại rất nghèo đến nỗi không đủ áo quần để mặc; họ trao đổi mọi thứ có được để lấy cả mấy bộ đồ tù! Vài trại viên phải đưa áo quần trại cho các phạm nhân hình sự nhờ đổi dùm thức ăn mặc dù họ biết chắc rằng những phạm nhân hình sự này sẽ cắt xén rất nhiều của họ. Trong tình trạng đói kém thì có được một ít còn hơn là không có gì cả! Quần áo rách còn có thể vá lại được chứ cái đói thì không thể trị được. Một bộ áo quần đổi lấy một ký bo bo, ba kí lô sắn, hay nửa ký lô gạo, sau một thời gian ngắn những trại viên mới đến còn tả tơi hơn những phạm nhân hình sự.

Theo kỷ luật của trại, trại viên không được phép mua bán đổi chác bất cứ vật gì. Đôi khi các cán bộ lại đứng ra làm trung gian để kiếm lời; họ bảo rằng làm như thế thì đôi bên đều có lợi. Các phạm nhân hình sự trong đội lâm sản và ở diện rộng là những người thu lợi nhiều nhất trong dịch vụ này.

Nhiều sự vi phạm kỷ luật của trại bắt nguồn từ cái đói mà ra đã bị nâng lên như là những vi phạm do từ quan điểm của trại viên. Một trại viên chỉ nhặt quả bí đỏ để ăn vì quá đói đã bị xử phạt rất nặng vì đã phá hoại tài sản của trại, tài sản của Đảng và Nhà Nước, và tài sản của Xã Hội Chủ Nghĩa! Nhiều trại viên đã bị chết trong các nhà biệt giam chỉ vì vài cọng rau mà họ thu nhặt lúc làm lao động trên cánh đồng.

Đôi khi chúng tôi cũng được trại phát cho một ít đường, chỉ một ít khoảng độ một trăm gram cho mỗi trại viên. Những hạt đường ấy dường như thấm sâu vào từng tế bào vị giác trên đầu lưỡi của tôi. Vài trại viên còn ngồi đếm từng hạt đường mà anh ta bỏ vào miệng. Không chỉ đường mà thôi, muối cũng rất hiếm trong trại. Tôi vẫn luôn nhớ một lần vào năm 1978, chúng tôi đang đắp nền cho một căn nhà của khu gia đình cán bộ nằm trên một khoảng đất trồng khoai lang. Chúng tôi nhìn một cách thèm thuồng những củ khoai thu nhặt cho các cán bộ. Tôi cố hỏi xin cán bộ quản giáo các lá khoai lang để “bồi dưởng” cho đội. Chúng tôi không có muối để ăn với lá khoai lang luộc, và chúng tôi cũng không được phép mang bất cứ vật gì vào trại. Chúng tôi đành phải ăn những lá khoai nhạt phèo đó để lấp cho đầy cái dạ dày đang trống rỗng của chúng tôi vậy!

Chung quanh trại cũng không còn cái gì có thể thu nhặt để ăn được. Qua thời gian, rau dại đã không còn mọc được, cào cào, dế, ếch nhái, và ngay cả chuột cũng không thể sinh tồn được vì chúng đã bị tiêu diệt bởi nhiều thế hệ tù. Dòng suối A-Mai thì không có một con cá hay cả một con ốc! Dân chúng nghèo khổ trong vùng đã thu nhặt hết những thứ gì ăn được. Có lẽ cá, ốc, và thú vật trong vùng đều đã tuyệt chủng hết rồi!

Chúng tôi chỉ dựa vào tiêu chuẩn của trại là mười lăm kí lô của những thứ tương đương với gạo trong mỗi tháng cho mỗi trại viên.

Khoai mì, đặc biệt là sắn lát và sắn duôi không có một chút dinh dưỡng nào cả; nó chỉ giúp cái dạ dày cảm thấy đầy một chút mà thôi. Nhưng ngay cả chúng cũng không đủ để lấp được cái dạ dày vốn đã trống rỗng của chúng tôi nữa! Sau thời gian dài ăn khoai mì, thân hình chúng tôi trở nên còm cõi trong khi mặt thì trông to ra! Đầu tiên chúng tôi cảm thấy nằng nặng ở hai gò má, và rồi thì hai quai càm sưng lên. Chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên. Có phải chúng tôi mập ra không? Khuôn mặt chúng tôi trở nên to nhưng lại xanh xao! Chất độc của acid cyanhydric trong vỏ của khoai mì đã tích trử trong tuyến dưới hàm khiến chúng tôi giống như bị bệnh quay bị. Khi thức dậy mỗi buổi sáng, ghèn dán kín đôi mắt tôi; cổ họng tôi thì khô khốc! Căn phòng dường như quay cuồng quanh tôi khi tôi đặt chân lên mặt đất.

Khoai lang, gọi là “hoàng sâm” thì làm cho miệng tôi đắng nghét mỗi khi thức dậy, và nó khiến chúng tôi đói hơn là ăn khoai mì vì số lượng của nó quá ít! Bắp, bo bo, và bánh bột mì thì đỡ hơn một chút, nhưng lại không có thường xuyên như khoai mì. Bắp thì là loại cho gia súc ăn, không phải là loại bắp ngọt, được phơi khô rất cứng và nấu chưa được mềm ra. Bánh bột mì là loại bột do Liên Xô viện trợ được nhào và nặn rồi luộc thành những cái bánh tròn khoảng một tấc đường kính và dầy khoảng một phân.

Tôi đã cố gắng tập ăn ít ngay từ trại đầu tiên, nhưng cái phần ăn này cũng vẫn thiếu đối với tôi. Trong khi chia phần, tôi cố lảng tránh ra xa, nhưng rồi tôi vẫn còn quan sát từ đàng xa và đôi khi vẫn cảm giác là phần của mình ít hơn của người khác. Tôi tự ghét mình vì điều này, nhưng vẫn không thể tự kềm chế được mình.

Mỗi trại viên có cách ăn khác nhau. Có người thì ăn ngay sau khi chia phần; người khác thì để lại cho đến khi vào chổ ngủ mới ăn vì họ không muốn ngủ trong cơn đói! Có người thì ăn chậm chạp như không muốn bữa ăn chấm dứt; người khác thì ăn vội vã như quá đói và sợ phần ăn của mình bị mất đi. Vài người thì chia phần ăn ra làm những phần nhỏ và ăn mỗi lần một chút dường như họ có nhiều phần ăn vậy; người khác thì ăn ngay một lúc nhưng lại nhai rất kỹ như muốn phần ăn của mình được hấp thu một cách trọn vẹn.

Cái thói quen xấu của tôi là tôi thường hay đổ nước vào chén sau khi ăn xong rồi uống luôn phần nước ấy như muốn không bỏ sót cái gì trong chén sau khi ăn xong! Khi Uyển còn là đội trưởng của đội, tôi thường ngồi ăn chung với anh ta; chúng tôi vừa ăn vừa hút thuốc lào để kéo dài bữa ăn! Sau khi Uyển chuyển qua làm thi đua, tôi không mang phần ăn vào phòng như trước nữa mà ăn ngay sau khi được chia ra, xong rồi rửa chén bát và đặt chúng ngay trên bàn để đợi bửa ăn tiếp theo.

Đầu tiên thì chúng tôi có những phòng ăn gần cổng khu A, nhưng không ai ăn uống trong đó. Chúng chỉ được dùng để làm nơi đặt đồ lấy nước uống và để treo áo quần đi lao động. Vào năm 1980, sau khi những trại viên ở những trại khác được chuyển đến thì những phòng ăn ấy trở thành phòng dành cho các cán bộ quản giáo và ban thi đua. Chúng tôi dựng những chiếc lều tranh trong sân ở gần phòng giam với những chiếc bàn và kệ bằng tre để chứa đồ đạc của chúng tôi vì lúc đó chúng tôi quá đông.

Tôi không biết làm thế nào để mô tả được cái đói trong thời gian này. Nó có nghĩa là chúng tôi ăn mỗi ngày ba bữa mà vẫn đói, không thấy cái gì trong dạ dày cả. Khi những trại viên chuyển đến trại Tân Lập từ Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, vân vân, lúc miền Bắc bị Trung Cộng tấn công, họ trông thấy chúng tôi mà đâm ra sợ hãi! Mặc dù chúng tôi ra miền Bắc sau họ, nhưng chúng tôi trông gầy ốm và xanh xao hơn họ nhiều. Chúng tôi thường so sánh sự khác nhau của những trại cải tạo do Công An quản lý và do Bộ Đội quản lý qua sự ốm đói của các trại viên.

Cái đói và sự thiếu ăn đôi khi khiến vị giác chúng tôi trở nên sai lệch. Hầu hết trại viên trong tình trạng này đều biết rằng họ cảm thấy ngọt ngào ngay cả khi bỏ một hạt muối vào miệng. Khi được hỏi anh sẽ ước muốn điều gì khi được thả ra thì Chưởng, một trại viên trong đội tôi nói rằng anh ta chỉ muốn một rổ đầy khoai mì để ăn cho đã đời trong khi ngồi trên xe lửa về miền Nam. Nhưng rồi anh ta cũng không thực hiện được ước mơ của mình bởi vì anh ta đã chết sau đó mấy tháng! Chúng tôi thường đùa rằng nếu cho chúng tôi được chọn lựa giữa một bửa ăn ngon lành và một cô gái đẹp thì chúng tôi sẽ chọn bửa ăn. Một bửa ăn ngon có thể giúp chúng tôi sống sót được; ngoài ra chúng tôi làm gì được với một cô gái đẹp trong tình trạng của chúng tôi như thế?

Mỗi lần có được bửa ăn “tươi”, một chút thịt heo nấu với nước muối, mọi người trong chúng tôi đều muốn có được một ít mỡ thay vì thịt nạc. Sự thiếu dinh dưỡng đã tàn phá mọi thứ dự trử trong cơ thể khiến cho da chúng tôi trở nên mốc thếch và nhăn nheo. Da trâu cũng trở nên một loại thực phẩm cao cấp, ngay cả loại da đã bịt trống cũng đã bị đánh cắp để ăn. Khi đào khoai lang ngoài đồng, nhiều trại viên đã ăn sống khoai mà không lột vỏ cũng không rửa sạch. Vài bệnh trạng như kiết lỵ và tiêu chảy do sự ăn uống thiếu vệ sinh mà ra đã giết chết rất nhiều trại viên vốn yếu ớt sẵn rồi. Một trại viên làm ở lò rèn nướng một con cóc nhỏ rồi ăn cả con đã ngã ra chết ngay tại chổ vì gan cóc bị nhiểm độc.

Mỗi đêm, cái đói khiến tôi rất khó ngủ. Chiếc loa phóng thanh nhỏ treo ở cuối phòng lại vang lên lời ca của một ca sĩ nỗi tiếng của VC, Ái Vân, con gái của nữ nghệ sĩ nhân dân Ái Liên. “Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao, dù đạn bom man rợ thét gào, dù thân thể triền miên mang đầy thương tích....” Bài ca được quảng cáo là đã được đoạt huy chương vàng tại đại hội thanh niên toàn thế giới (chính xác là thế giới Cộng Sản) ở Đông Đức. Tôi rất bực mình nhưng không biết làm gì khác hơn là nhét lỗ tai lại và cố vỗ giấc ngủ. Tôi muốn la to lên rằng “cuộc đời này rất vô nghĩa, tình yêu cũng rất vô nghĩa khi mà cái dạ dày của tôi đang trống rỗng và tôi đang sống trong cái địa ngục của thế gian này!”

Dùng thực phẩm như là một con mồi và chiếc gậy là một thủ đoạn của VC. Chúng bảo rằng ai làm lao động tốt sẽ được ăn phần ăn đặc biệt và ai lười biếng thì bị ăn phần ít hơn. Chúng chia ra làm ba loại tiêu chuẩn ăn: 15 kí lô lương thực hàng tháng cho những trại viên bình thường, 18 kí lô cho những trại viên tiên tiến, và 13 kí lô cho những trại viên lười biếng. Điều này đôi khi cũng làm vài trại viên bị sa bẫy! Trong lúc đói ai mà không muốn có được nhiều hơn, do đó có người đã cố làm lao động để được xuất ăn đặc biệt. Họ đã quên rằng làm như thế thì họ sẽ mất rất nhiều năng lượng mà không thể bù đắp được bởi vài kí lô thực phẫm hàng tháng! Những người to xác và những người ăn xuất ăn đặc biệt lại là những người bị suy sụp sớm nhất.

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Trả lại tôi thời trai trẻ
Cánh Dù lộng gió
(Danlambao) - Họ tất cả những người từng là học sinh và không học sinh trong độ tuổi 18, từ đệ tứ (lớp 9), đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11), đệ nhất (lớp 12). Tất cả đều chuẩn bị sẵn sàng để lên đường nhập ngũ bất cứ lúc nào, nếu rớt tú tài 1 thì vào Hạ Sỹ Quan Đồng Đế, đậu tú tài 1 thì vào Sỹ Quan Thủ Đức, có tú tài 2 thì vào Võ Bị Đà Lạt hay chọn trường Hải Quân và Không Quân, Chiến Tranh Chính Trị v.v...

Kẻ trước người sau hành trang lên đường theo lệnh Động Viên và theo tiếng gọi của non sông.

Họ từ khắp nơi trên 4 vùng đất nước quy tụ lại 4 trung tâm tuyển mộ nhập ngũ để ra các quân trường tuỳ theo họ chọn đơn vị cho đời quân ngũ của họ.

Họ chịu thử thách đời trai tại các quân trường trên 4 vùng chiến thuật, có người 3 tháng quân trường, người 6 tháng, người 9 tháng và 4 năm với các trường Võ Bị.

Thời gian huấn luyện là thời gian họ phải trải qua mọi thử thách để trở lên một người lính thực thụ sau khi mãn khoá học.

Hồi hộp nhất là khi xong khoá học các đơn vị vào quân trường để nhận tân binh, họ chia tay nhau bịn rịn lần cuối trước khi rời khỏi quân trường ra đơn vị mới.

Lần hồi hộp nữa là lần trình diện đơn vị trưởng của đơn vị mới, hồi hộp vì không biết ông đơn vị trưởng của mình mặt mũi ra sao, khó hay dễ.

Khi đã được phân phối ra các tiểu đoàn, đại đội, trung đội xuống tới tiểu đội lúc đó họ mới yên thân để tập làm quen với cái đám ma cũ có khi lại bắt nạt ma mới như họ.

Ra chiến trường lần đầu bỡ ngỡ phải làm theo lời dặn của những người bên cạnh và học hỏi cũng như bắt chước mọi người đi trước khi lâm trận.

Có người vừa mới chân ướt chân ráo bước xuống máy bay tới trình diện đơn vị đã lãnh trọn quả pháo lại khiêng lên máy bay trở về hậu cứ đơn vị, chờ người nhà tới làm thủ tục ra nghĩa trang tử sỹ.

Có người đụng trận đầu đã để lại trận chiến 1 giò hay 2 giò, 1 tay hay 2 tay, 1 mắt hay 2 mắt.

Làm trai thời ly loạn là như thế đó, may mắn lắm thì bị thương nhẹ loại 2 thì còn tạm lành lặn một chút, còn không thì cuộc đời kể như chấm dứt đời trai với 2 tay hay 2 chân cụt hoặc đôi ngươi khép kín.

Chiến tranh đã qua đi nhưng tất cả đều nuối tiếc cái tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết và hứa hẹn, phải bỏ lại sau lưng người thân để lên đường nhập ngũ, bỏ lại người yêu với những lần hẹn hò tâm sự vơi đầy, nơi ghế đá công viên, bỏ lại phố xá với ánh đèn màu quyến rũ để gò bó trong bộ quân phục tay ôm em 16 (M16) lăn lộn khắp chiến trường trên 4 vùng chiến thuật.

Có tiếc nuối cũng không thể trở lại thời trai trẻ cái tuổi bẻ sừng trâu cũng gãy, cái tuổi chỉ biết nhìn đời bằng cặp mắt đầy hy vọng và mơ ước để rồi vỡ mộng khi những viên đạn AK, những miểng đạn pháo ghim vào cơ thể trở thành tàn phế.

Trả lại tôi tuổi trẻ cái tuổi sung sức đầy nhiệt huyết nay còn đâu, dòng máu nóng còn đang chảy trong tim đã phải ngã ngựa gãy súng vì thời cuộc thay đổi, phải cắn răng chịu đựng những tủi nhục khi bị bên cho là thắng cuộc phân biệt đối xử như kẻ thù, bạc đãi, mỉa mai mà phải cắn răng chịu đựng.

Ngày 05/12/2018
Cánh Dù lộng gió

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

TIỄN BẠN HẢI TRIỀU, NHÀ VĂN BẤT KHUẤT
Chu Tất Tiến
“Người lính già không bao giờ chết. Họ chỉ nhạt nhòa đi”. Mỗi khi nghe tin một chiến hữu ra đi, tôi vẫn cố níu lấy câu hát di hành của quân đội Anh quốc thuở xưa, để ngăn không cho những giọt lệ rơi xuống. Tuy nhiên, nếu có thể không khóc, thì trái tim tôi cũng đập yếu hơn thường lệ và vì thế, mà ngực tôi như có một tấm đá chặn ngang. Nhất là hôm nay, nghe tin chiến hữu Hải Triều, tức Nhà Văn Lê Khắc Anh Hào, đã thật sự rời xa cuộc chiến đấu đơn độc mà anh vẫn kiên nhẫn duy trì trong suốt mấy chục năm qua, sau khi bắt buộc phải rời nhiệm vụ của một người lính bảo vệ quốc gia, tim tôi trĩu nặng hơn, và cho dù cũng vẫn ngâm nga câu hát trên, những giọt nước mắt cũng vẫn lặng lẽ lăn xuống.

Những hình ảnh cùng chiến đấu năm nào bất chợt hiện lên ào ạt, dĩ nhiên không phải hình ảnh của chiến trường súng đạn, vì anh Hải Triều nhập ngũ trước tôi 2 khóa Thủ Đức, anh khóa 23, tôi 25. Hải Triều chiến đấu ngang dọc, anh hùng hơn tôi, và sự hiểu biết về quân đội, quân sử của anh cũng dầy hơn tôi gấp bội. Tôi mới được quen biết và trở thành chiến hữu của anh trên mặt trận văn chương hơn hai thập niên thôi. Trước đó, tôi vẫn thích đọc văn phong của anh, nhất là những tường thuật về các “trận đánh không tên” nhưng đầy anh hùng tính của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mà sau này, anh đã tổng hợp thành các tuyển tập, như một cuốn biên niên sử có giá trị cao, bởi được viết bởi chính những người lính đã tham gia các trận đánh đó.

Giọng văn của anh không mầu mè hoa lá mà có sức lôi cuốn lạ kỳ, có lẽ vì trong mọi giòng chữ, đều thể hiện lên tính cách “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” của một người lính chân thực, mà không có cái “tôi” như nhiều tác giả khác. Đặc biệt là giọng nói của anh, lúc nào cũng nồng nhiệt, lúc nào cũng đầy rạo rực của một người lính mới nhận một nhiệm vụ quan trọng: “Nhất định rồi! Tôi với anh phải làm như thế! Bất cứ giá nào!”, “Mình phải chiến đấu chứ! Không thể để cho lũ giặc Cộng nhởn nhơ ăn hiếp dân mình được!” Điều mà tôi thán phục anh nhất là, cho dù anh đang bận đủ việc, cho dù anh đang ở mãi bên Canada, mà nếu tôi có chương trình gì liên quan đến việc chiến đấu trong mặt trận văn hóa ở đây, hay ở quốc gia khác, anh không ngần ngại nhận lời ngay. Nếu thiếu phương tiện tài chánh, thì anh cũng cố xoay sở cho đủ để bay xuống miền Nam California này để gặp tôi và làm việc liên tục.

Như lần tôi ngỏ ý với anh là muốn ghi lại các cuộc phỏng vấn Dân Oan ở Việt Nam do tôi thực hiện trên đài Little Saigon Radio để chuyển thành sách, anh hăm hở nhận lời liền. Đây là một công việc vô cùng khó khăn, mà có thể nói, không một người nào làm nổi, trừ bạn tôi, Hải Triều! Nói thì đơn giản nhưng thực hiện không dễ: Mở Internet lên, lắng nghe một câu, rồi ngưng máy, để viết nguệch ngoạc bằng bút trên giấy, sau đó, bật máy lên, nghe tiếp một câu khác... Sau đó, viết lại bằng Microsoft word! Thật căng thẳng vì chính tôi, đã nhiều lần cố gắng làm nhưng chỉ được vài câu là phải đầu hàng, chịu không nổi! Vậy mà Hải Triều đã kiên nhẫn ghi lại giùm tôi 46 cuộc phỏng vấn, sau đó, “lay-out” lại thành 2 tuyển tập “TIẾNG NÓI BẤT KHUẤT TỪ VIỆT NAM!”. Công việc thứ 2 cũng không kém gay go là tìm hình ảnh và tiểu sử của từng nhân vật được phỏng vấn để cho những bài phỏng vấn có giá trị hơn. Cuối cùng, anh kèm theo vài bài thơ của anh, cũng như thêm vào những hình ảnh Dân Oan ở Việt Nam bị đánh đập, tấn công bởi lũ côn đồ quyền thế. Như thế là 2 Tuyển Tập đã ra đời, mỗi tập 1000 cuốn, hai anh em tổ chức giới thiệu sách, bán sách và dùng tất cả tiền thu được để góp vào việc trợ giúp Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi hoàn tất 2 tuyển tập bằng tiếng Việt rồi, chúng tôi không ngừng ở đó, tiếp tục giai đoạn 2 là dịch sang tiếng Anh để có thể truyền đạt đến thế giới cho họ biết rõ sự thực ác ôn của chế độ Cộng Sản, trấn áp dân lành một cách dã man. Những hình ảnh, tư liệu, tiểu sử của từng nhân vật được phỏng vấn sẽ là những chứng cớ lịch sử, không thể chối cãi. Và cũng với sự hợp tác của Hải Triều, chúng tôi cùng in bản tiếng Anh với tựa đề: “THE UNDAUNTED VOICE FOR HUMAN RIGHTS FOR VIETNAM”. Để sau đó, anh cùng tôi, lên đường sang Canada, theo lời mời của Hội Cựu Quân Nhân Calgary, giới thiệu các tuyển tập tiếng Việt đến cộng đồng Việt ở Calgary, Canada, và bản tiếng Anh được trao tận tay giới Dân Biểu Canada.

Với các tuyển tập này, một lần nữa, anh và tôi vinh hạnh được lời mời của Hội Cựu Quân Nhân Sydney, Úc Châu và Cộng Đồng Liên Bang Úc Châu, bay sang Sydney, Melbourne và Brisbane cũng để nói chuyện về vấn đề Nhân Quyền.

Tại Sydney và Melbourne, nhờ sự trợ giúp của Hội Cựu Quân Nhân, Cộng Đồng Liên Bang Úc Châu, và của Khối 8406, chúng tôi đã được mời vào Quốc Hội Tiểu Bang Sydney, Quốc Hội Tiểu Bang Melbourne, và Quốc Hội Liên Bang Úc Châu, gặp gỡ các Dân Biểu, Nghị Sĩ, Bộ Trưởng và đặc biệt là Cố Thủ Tướng Úc để trình bầy về tình trạng Nhân Quyền tại Việt Nam đang bị vi phạm trầm trọng. Khi gặp Bà Dân Biểu Liên Bang Úc Châu cũng đồng thời là Phụ tá Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền, cầm cuốn sách của chúng tôi trên tay, bà đã khóc vì không thể tưởng tượng được Dân oan Việt Nam bị tra tấn tàn tệ như thế.

Sau 2 chuyến đi chung với Hải Triều đến Canada và Úc, là chuyến đi mang cuốn sách “The Undaunted Voice For Human Rights in Vietnam” vào Quốc Hội Hoa Kỳ không có anh, vì lúc đó, anh đang ốm mệt. Với sự giúp đỡ của Tiến sĩ Nguyễn đình Thắng, tôi đã trao tận tay cuốn sách đến gần 20 vị Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu Liên bang, và cuối cùng, được mời lên phát biểu 3 phút trong phòng Khánh Tiết của Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong lúc phấn khích vì được nói trong Quốc Hội Mỹ, tôi đã chấm dứt phần phát biểu của tôi bằng 3 lần hô to: “Việt Nam Muôn Năm!”

Hôm nay, tuy ngày ấy đã xa rồi, nhưng hình ảnh của những lần cùng đi với Nhà Văn Hải Triều sang quốc gia khác để nói chuyện về Nhân Quyền với thế giới, những lần cùng ra ra mắt sách, những lần đi bán sách tại Hội Chợ Tết với anh, vẫn còn lồng lộng trong trái tim của người lính già như tôi. Thật sự, nếu không có anh, không có sự nhẫn nại, kiên trì chiến đấu cho một Việt Nam Tự do, tất cả những sự việc kể trên đều là giấc mơ không bao giờ hiện thực. Hải Triều, Lê Khắc Anh Hào là một mẫu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh dũng, trong chiến trận khói lửa hay trên mặt trận văn hóa, lúc nào cũng hiên ngang, lồng lộng. Anh là một Huynh Trưởng đáng kính của tôi. Trong những giọt nước mắt ngậm ngùi nhớ người chiến hữu, cầu mong anh vào nơi an nghỉ chỉ có thương yêu, không có hận thù, đàn áp, bất công, nơi Mẹ Việt Nam đón anh vào ngàn đời chung thủy.

Chu Tất Tiến.

Post Reply