QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by ThienThu »

Người lính, sống chiến đấu, chết linh thiêng
Phan Nhật Nam
Dẫn nhập

Sau ngày mãn khóa Trường Đà Lạt, 23 Tháng Mười Một, 1963, tôi qua tuổi hai mươi về trình diện Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù ở Biên Hòa, giữ chức Trung Đội Trưởng Đại Đội 72, chức vụ thấp nhất của hệ thống chỉ huy lục quân. Từ giờ phút mang chiếc sac marin đi giữa hai hàng lính nhảy dù vào văn phòng tiểu đoàn trưởng cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác…


Nay 56 năm sau, một ngày Tháng Chín, nhân qua kỳ sinh nhật 77 tuổi (9 Tháng Chín, 1943-2019, ngồi vô tình (nhưng không phải là “vô cớ” – Sẽ trình bày rõ “không phải là vô cớ” ở phần cuối bài viết) nhớ lại khoảng thời gian, quãng đời thăm thẳm trải qua với những biến cố chung của thảm kịch Việt Nam, của Miền Nam với cảm giác bàng hoàng, kinh ngạc, hãi sợ… đến mức nói ra lời: “Sống như vậy chết còn hơn nhẹ hơn…” Không dám nói lời ngoa ngôn, tự xưng tụng, vì đây chỉ là những vụ việc đã xảy ra, thường hằng qua thân phận Người Lính/ Người Lính Bình Thường đã Sống/ Chiến Đấu/ Chết Với Miền Nam/ Tổ Quốc Việt Nam/ VNCH – Ngay tại hôm nay. Xin chứng minh.
Image
Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù - Từ trái sang : Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Trung úy Nguyễn Phước Trọng, Đại úy Nguyễn Viết Thanh, Đại úy Đoàn Phương Hải, ?
Một


Ngày 11 Tháng Sáu, 1965, đụng trận Đồng Xoài (Quận Đôn Luân, Bình Dương), Đại Đội 72 chịu chung nghiệt cảnh của Tiểu Đoàn 7. Đơn vị rơi vào phục kích của Q762 (Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Trung Ương Cục Miền Nam, dưới quyền của Trần Văn Trà). Sau khi rút kinh nghiệm từ Trận Bình Giã, Phước Tuy, giao chiến với TĐ4/TQLC và Biệt Đông Quân (Tháng Mười Hai, 1964), phía cộng sản vùng Bình Dương, miền Đông Nam Bộ chuẩn bị trận địa Đồng Xoài từ đầu năm 1965.


Đơn vị cộng sản đánh Đồng Xoài đã thực tập trên sa bàn, xong tập điều động trên thực địa… Đến ngày 10, lực lượng Trung Đoàn 2 được tăng cường thêm một tiểu đoàn địa phương, tấn công chiếm đóng một phần Chi Khu Đôn Luân, tiếp tổ chức phục kích quân nhảy dù tăng viện. Thế nên, chỉ trong một giờ, Tiểu Đoàn 7 bị thiệt hại nặng với 14 sĩ quan, chết, bị thương, bị bắt. Từ tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, sĩ quan hành quân trở xuống đến cấp trung đội trưởng, trừ Đại Đội Trưởng ĐĐ74, (Đại Úy L.V. Phát). Đại Đội 72 chỉ còn khoảng 10 người! Bản thân là viên thiếu úy mang cấp bậc cao nhất còn lại với Chuẩn Úy Dương Văn Chánh.

Image
Tướng Tư Lệnh Trương quang Ân

Chánh là em của phu nhân Dương Thị Thanh, Người Bạn Đời Chiến Đấu với Tướng Quân Trương Quang Ân, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Tư Lệnh Trương quang Ân nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 từ 1960; tiếp Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 ND, Đại Tá Tỉnh Trưởng Gia Định, 1966 trước khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Nhị vị đồng hóa thân trong lửa vào Ngày 8 Tháng Chín, 1968 trên chiến địa Đức Lập; phu nhân Dương Thị Thanh cũng là một Nữ Quân Nhân Nhảy Dù.

Như một cách an ủi, nâng đỡ, được chỉ định giữ chức Quyền Đại Đội Trưởng Đại Đội 72. Đại đội trưởng thì cũng chỉ biết ngồi ôm mấy nhỏ con lính khóc tấm tức nơi văn phòng đại đội trống vơ trống vốc. Bà vợ viên Trung Sĩ Trung Đội Phó Tăng Màn Tài phải khuyên can. Thôi thiếu úy đừng khóc nữa bình tâm để mà lo cho mấy ông! Để tránh cái huông của TĐ7, Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn (chưa thành đơn vị Sư Đoàn) đặc cách cho Thiếu Úy Nam Xương (danh hiệu truyền tin chết tên cho đến hôm nay dẫu quá lâu không mặc áo lính) lên Trung Úy, chuyển về Tiểu Đoàn 9 tân lập ở Sài Gòn giữ chức Đại Đội Trưởng ĐĐ93/TĐ9.

Chuẩn Úy Chánh ở lại Đại Đội 72 với quân số mới bổ sung, đặt dưới quyền của Trung Úy Phạm Ngọc Bích từ Tiểu Đoàn 3 (Sài Gòn) chuyển về. Nguyên ĐĐ72 do Trung Úy Trần Quốc Lịch đưa về Biên Hòa khi Tiểu Đoàn 7 thành lập, 1960. Cũng do người ở Bộ Tư lệnh có quan niệm: Đại Đội 72 nguyên của tiểu Đoàn 3 (thì) đưa người chỉ huy của Tiểu Đoàn 3 về chỉ huy sẽ được phần tâm lý tin cậy.

Ngày 11 Tháng Mười Hai, 1965 (lại một ngày 11), toàn thể đại đội 81 người đồng tử nạn phi cơ trong chuyến bay từ Phú Bổn về Tuy Hòa. Năm 1974, 14 bao đựng xác được thu hồi, nhưng mãi đến năm 2012, tất cả mới được nhận dạng, xác định tính danh. Năm nay (2019) được phía Bộ Quốc Phòng Mỹ thông báo chính báo chính thức. Tôi đọc danh sách tử sĩ rơi máy bay năm 1965, nhớ lại cách ân cần của Trung Đội Phó Tăng Màn Tài (gốc người Nùng). “Mầy thiếu úy có ăn cơm không tao nấu cho.” hoặc lời thở than của hai Binh Nhất Phan Niên, Phan Thỏn (mang đạn đại liên). “Ôn ơi (Thiếu Úy Nam), ở ngoài mền (ở Quảng Trị), nghèo quá, tên không có chữ lót!!”

Tháng Chín, 2019, Nhân Đại Hội Nhảy Dù nơi vùng Nam Cali, tôi viết lại tình thế của người, việc thuộc Đại Đội 72/TĐ7ND của 54 năm trước; Viết xong đề ngày, tháng trước khi gởi đi: 4/9/19 – Đúng KHÔNG SAI MỘT SỐ – Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù – KBC 4919.

Linh Thiêng Người Lính không ngừng lại nơi yếu tố số hiệu 4919. Đại Đội 72/ Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù được tái hiện thực ở phần viết sau.


Hai


Những ngày Tháng Tư, Năm năm 1976, đám tù cấp đại úy ở Trại Long Giao, Long Khánh rơi vào tình trạng “chết trong cảnh sống” có thật trong sau đợt biên chế chuyển số lượng người thuộc thành phần “tiến bộ” đi những nơi nào không rõ. Thành phần đông đúc còn lại nhìn quanh quất đồng thấy ra… “Chết rồi, chỉ còn tụi mình, dân “ác ôn, mang nợ máu với nhân dân. Theo định giá tội danh nặng nhẹ của cộng sản: “Nhất rằn ri, nhì phi pháo!” Cả bọn ngưng đi lao động bên ngoài, ngày ngày ngồi thấp thỏm nhìn ra hàng rào chập chùng thêm nhiều lớp kẽm gai… Công việc duy nhất là đào giao thông hào ở những nơi khuất vắng. Giao thông hào sâu 3 thước, bề ngang chỉ vừa một thân người! Đám tù xì xào. Bọn nó bắt mình đào hầm chôn tập thể đây. Từ hầm hào, Nam Xương nhìn lên chỉ thấy một khoảng trời xanh với cảm giác rã rời. Không lẽ đời mình xong ở đây?! Với loại hầm nầy không cần phải bắn bỏ gây tiếng động, chỉ cần chốn sống, lấp đất là xong như ở Trường Gia Hội, Huế, Tết Mậu Thân 1968 chính bản thân đã chứng kiến.

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1976, từ đầu đêm lệnh khẩn cấp di chuyển với đoàn xe trùm bạt phủ kín đợi sẵn. Đám tù trại Long Giao thì thầm an ủi. Như vậy nó không bắn, chắc di chuyển mình đi chỗ khác?! Đi đâu với hai bánh lương khô như thế nầy. Không biết? Xe di chuyển về hướng Sài Gòn thấp thoáng ánh đèn nơi xa, người ngồi sau thùng xe, hé tấm bạt nhìn ra ngoài xì xào thông báo.. Xe tới bến Tân Cảng. Chắc nó đưa mình đi Côn Đảo… Cũng được an ủi, còn ở Miền Nam!!


Nam Xương bước xuống xe nhìn về hướng Sài Gòn. Đâu là Tân Định? Đâu là Phú Nhuận? Nhà mình nơi đâu, vợ con như thế nào từ Tháng Sáu năm ngoái, 1975?! Mới một năm mà sao đã ngàn dặm thăm thẳm xa cách. Sài Gòn, Bến Tân Cảng như một chốn không còn. Một nơi không phải của Miền Nam?! Đám tù chập choạng bước lên cầu thang xuống hầm tàu Sông Hương. Ngàn con người bước đi không tiếng động. Xác ma cũng chỉ có khối im lặng thắm đậm nầy… Ùm! Ùm!! Âm động của khối nặng rơi xuống nước.. Súng nổ giòn, đường đạn bay xuống mặt sông… Đám lính áp tải cao giọng… Khẩn trương! Khẩn trương… Thúc hối đám tù đang đợi trên sàn bến cảng chờ lên tàu.


Nam Xương tựa vào sàn cầu thang, nhìn xuống mặt đen chập choạng ánh sáng bên mạn tàu. Cũng không khó bước chân qua, và lao mình xuống! Anh vụt thấy ánh sáng của Sài Gòn rực rỡ, hùng tráng. Ngày bao hùng binh tiến lên… Đoàn quân uy nghi qua khán đài… Chào tay… Chào! Trung Úy Phan Nhật Nam đưa tay chào lẫm liệt qua vành nón Mũ Đỏ Nhảy Dù theo lệnh Đại Úy Liêu Quang Nghĩa! Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu, 1965 – 11 năm trước. Hôm nay, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu, 1976. Ngày bao hùng binh tiến lên! Người Tù Phan Nhật Nam vững vàng, thản nhiên bước lên cầu thang, vào hầm chở súc vật tàu Sông Hương với nhắc nhở tự thân: Mình lên Trung Úy Ngày Quân Lực -19 Tháng Sáu năm 1965 sau Trận Đồng Xoài.


Ba


Những ngày Tháng Chín, 2019 nơi vùng Nam Cali dày đặt những sự kiện… Danh Dự Người Lính VNCH bị những thành phần vô lại hạ nhục với tất cả hạ tiện, thô tục. Cay đắng hơn, không thiếu sự tiếp tay (vô tình và hữu ý) của những người từng mặc áo lính, được gọi là “chiến hữu” nay chỉ mặt, cáo buộc lẫn nhau chung một tội danh “cộng sản.” Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn vắng mặt toàn thể hệ thống Nhà Xuất Bản in sách, phổ biến văn hóa phẩm của các tác giả Miền Nam trước 1975. Các trung tâm sản xuất băng, dĩa CD, DVD chủ đề Nhạc Vàng đồng loạt đóng cửa; Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa hằng năm mất hẳn một nửa khí thế vì thành phần ca nhạc sĩ (chuyên hát miễn phí) của Trung Tâm ASIA, SBTN đã bị phân tán, không thể tập trung, tổ chức lại. Dọc Dường Bolsa, Thành Phố Garden Grove, Westminster, những quán ăn đi từ Sài Gòn sau 30 Tháng Tư, 1975 nay phần lớn đã đổi chủ. Chủ nhân và thành phần người làm mới có cung cách, ngôn ngữ “chiêu đãi, phục vụ “vô tư” của Hà Nội, Nha Trang, Đà Nẵng… nay đang dần “Trung Quốc lai”. Lòng nặng trĩu tâm lý, phản ứng của những ngày Tháng 3, 1975 khi đứng trên đèo Hải Vân, sáng 30 Tháng 4, 1975 đứng trước Hạ Viện Sài Gòn thấy ra lần… Thật Chết Với Quê Hương!


Nhưng linh thiêng kỳ diệu thay, báo chí Miền Nam Cali đồng phổ biến bản tin… “Hài cốt 81 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị lãng quên trong hơn nửa thế kỷ qua sẽ được vinh danh trong một buổi lễ tại Tượng Đài Việt Mỹ ở Westminster Ngày 26 Tháng Mười, 2019.”

Bản tin căn cứ từ bài viết trung hậu cao thượng của Jim Webb – Ông vốn là Sĩ Quan Thủy Quân Lục Chiến từng chiến đấu tại Nam Việt Nam; trở về Mỹ, được nghỉ hưu vì thương trận, ông trở thành Thượng Nghị Sĩ Đảng Dân Chủ, đại diện Tiểu Bang Virginia; từng giữ chức Bộ Trưởng Bộ Hải Quân; Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Phụ Trách Văn Phòng Trừ Bị… Nhưng dẫu phụ trách những chức vụ cao trong chính quyền cũng như quốc hội, Jim Webb do dấu tích không phải nhạt của chiến tranh Việt Nam, cũng do Phu Nhân Hồng Lê với tấm lòng thắm thiết đối với Việt Nam, với Miền Nam, Jim Webb đã viết nên lời cảm kích: “Tưởng Nhớ Những Người Lính Bị Bỏ Quên Của Miền Nam Việt Nam” (Remember South Vietnams Forgotten Soldiers).


Ông nhắc lại sự việc thương tâm bi tráng… “Chiếc vận tải cơ C-123 của quân đội Hoa Kỳ bị bắn rơi trong Chiến Tranh Việt Nam, mang theo những quân nhân đồng minh của chúng ta bị mất tích từ đó đến nay. Những hài cốt của họ không có quê hương. Biết vậy nên tôi phải hành động. Jim Webb nêu lên nguyên lý trung hậu từ William Gladstone, một thủ tướng Anh trong thế kỷ thứ 19: “Chỉ cho tôi xem cách thức một quốc gia hay một cộng đồng chăm sóc những người chết của họ. Tôi sẽ đo lường với sự chính xác mức độ cảm thông tế nhị của những con người sống trong cộng đồng đó, sự tôn trọng luật pháp của họ đối với đất nước, và sự trung thành của họ đối với những lý tưởng cao cả.” Jim Webb không nói lý thuyết xuông, ông thực hiện nên thành hành vi cao thượng: Qua nhiều năm vận động giới lập pháp, hành pháp Mỹ.., vào ngày Thứ Sáu, 13 Tháng Chín, 2019, một chiếc phi cơ của Không Quân Hoa Kỳ sẽ chuyên chở hài cốt trộn lẫn của 81 quân nhân nhảy dù thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ Hawaii, nơi mà họ đã được cất giữ trong cơ sở của quân đội trong hơn 33 năm qua đến California. Và vào Ngày 26 Tháng Mười, một buổi lễ tưởng niệm và vinh danh trang trọng theo nghi thức quân đội sẽ được tổ chức dành cho những Người Lính đã hy sinh tại Westminster, tại Little Saigon.


Kết từ

Hóa ra anh linh người lính đã vô cùng linh hiển…

Ngày 13 Tháng Chín năm 1972 tại mặt trận Quảng Trị qua rạng sáng sáng 14 Tháng Chín, từ những căn hầm chiến đấu người lính thấy rừng rực lá cờ Vàng Ba Sọc bay uy nghi trong gió sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Họ thấy cay cay trong mắt với cảm giác nôn nao thầm lắng. Cảm giác muốn khóc về một điều bi phẫn. Những khuôn mặt chai cứng, hư hao, loang lổ khói đạn, bụi đất đồng duỗi ra theo độ sáng của ngày với vẻ kiên cường kiêu hãnh xen lẫn đau đớn kìm giữ. Người Lính nhìn xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọn trong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu.

Nay, Ngày 13 Tháng Chín, 2019 Đồng Bào Tỵ Nạn Cộng Sản vùng Little Saigon tiếp nhận hài cốt của 81 Người Lính Nhảy Dù đã hy sinh để hôm nay có được Tự Do trên đất Mỹ.

Công việc mà Người Chiến Hữu Jim Webb đã thực hiện với một tấm lòng do suy nghĩ viết ra lời cao quý… Nếu Người Mỹ không chỉ chăm sóc cho những người chết của mình mà còn chăm sóc những người từng chiến đấu cùng với chúng ta. Những người lính vô danh VNCH xứng đáng được tưởng nhớ với danh dự và nhân phẩm. Buổi lễ sắp tới sẽ đi xa hơn việc tưởng nhớ sự hy sinh và hành trình dài năm thập niên của Người Lính VNCH đã hy sinh mạng sống khi còn trẻ tuổi cho lý tưởng tự do cho một quốc gia mà nay đã không còn. Cuộc hành trình buồn nhưng vĩ đại của những người lính bị lãng quên từ trận địa Việt Nam sẽ mang đến một kết cục cho nhiều người khác đã tự trả giá và tìm đường đến nước Mỹ để được sống Tự Do.


Thưa cùng Chiến Hữu Jim Webb về một điều rất Linh Thiêng mà ông không nói ra: 26 Tháng MƯỜI là QUỐC KHÁNH ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA, 26 THÁNG MƯỜI, 1955.

Phan Nhật Nam

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by muanuadem »

Ngu Như Lợn.
Lý lịch của Mạnh chuột đọc được trên tờ trích ngang:

- Họ và tên: Nguyễn Đức Mạnh

- Cấp chức sau cùng: Y Sĩ Đại Úy, Đại Đội Phó Quân Y

- Đơn vị sau cùng: Sư Đoàn Nhảy Dù

Mạnh chuột không loắt choắt như cái biệt danh “chuột” mà anh em cùng trại đã đặt, mà Mạnh chuột to lớn, vẻ to lớn của một võ sĩ hạng trung đã đấu nhiều trận trên võ đài. Không to lớn thì sức mấy mà đi được lính Nhảy Dù.

Mồm miệng Mạnh chuột cũng không chu ra như cái biệt danh lạ lùng, giống như những đồng nghiệp “lương y” đang làm cán bộ, mà phải công nhận một cách “lô gích” là Mạnh chuột đẹp trai. Không đẹp trai, sáng sủa sức mấy mà học giỏi. Bác sĩ mà. Đã là bác sĩ thì tự động phải đẹp trai. Không tin, cứ hỏi các cô thì biết. Cái khoản học giỏi, anh em trong trại không ai thắc mắc, vì ở đây, chỉ cần sức khỏe chứ không ai cần học thức. Nhưng… cán bộ đồng nghiệp thắc mắc.

Một hôm, không hiểu vì hay phát biểu linh tinh, hay vì cái vẻ ngoại hình làm ngứa mắt cán bộ đồng nghiệp trong ban y tế trại, Mạnh chuột bị gọi lên chất vấn để bổ túc thêm cho bản lý lịch.

“Anh học đến đâu?”

“Bác sĩ.”

“Chúng tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến đâu?”

“Bác sĩ y khoa.”

“Này, tôi không đùa đấy nhé. Anh là bác sĩ thì chúng tôi biết rồi, nhưng anh học đến lớp mấy?”

Mạnh chuột ngớ ra. Cán bộ y tế vừa để khoe và cũng vừa để giải thích thật cặn kẽ cho tên bác sĩ Ngụy ngu dốt này hiểu câu hỏi:

“Tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến lớp mấy. Như tôi cũng là bác sĩ, tôi vừa học bổ túc xong lớp sáu.”

Cái sức học của Mạnh chuột, vì vậy, vẫn còn là một nghi vấn.

Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu.

Riêng cái khoản con nhà giàu thì không biết, không ai biết ngoại trừ chính Mạnh chuột. Có lắm kẻ con nhà nghèo vẫn được thăm nuôi soành soạch, và cũng có lắm kẻ con nhà giàu, bỗng dưng trở thành “con bà phước”. Mạnh chuột thuộc loại con bà phước trong trại nên cũng khó mà nói Mạnh chuột là con nhà nghèo hay con nhà giàu. Từ ngày trình diện đến giờ, chuyển qua bao nhiêu trại, có bao giờ Mạnh chuột được thăm nuôi đâu.

Tóm lại. Đẹp trai thì đúng rồi. Học giỏi, còn đang nghi ngờ. Con nhà giàu, không ai biết. Nhưng, đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu chẳng để làm gì cả. Tất cả chẳng nói lên một tí cái gì cả, chẳng nhờ thế mà được thêm tí sắn, tí khoai nào cả. Nguyễn Đức Mạnh chỉ là một anh Y Sĩ Đại Úy Nhảy Dù bị phạt đang cong đít ra đào giếng. Hết.

Tóm lại, con người Mạnh “chuột” chẳng có gì đặc biệt cả.

***

Chỉ có một tí đặc biệt về cái biệt danh “chuột”.
Image
Quan Ba Tu Bíp Nhảy Dù Nguyễn Đức Mạnh.
Để “cải thiện linh tinh” cho cái bụng, để có một chút protéin cho cái thân hình vạm vỡ lúc nào cũng thiếu “chất tươi” này, Mạnh chuột chuyển khả năng từ một anh chuyên viên chữa người sang một anh chuyên viên chăn nuôi.

Một hôm Mạnh chuột vớ được một ổ chuột con, sau khi “sơi tái” vài con, Mạnh chuột đã “đầu tư” để lại một đực một cái. Mạnh chuột đào một cái hố, có rào ngăn cẩn thận, nuôi cặp chuột “bành tổ” này để làm “kinh tế”. Một thời gian không lâu, nhờ trời, bành tổ sinh “thái tổ”, thái tổ sinh “thái tông”, thái tông sinh thái…

Ôi thôi, không biết đến tam tứ ngũ lục đời con cháu họ hàng nhà chuột. Cái hố không đủ sức chứa, Mạnh chuột bèn phát triển nghề nghiệp, nới rộng thêm hố mới đủ chỗ chứa cho nguồn cung cấp chất thịt này. Bạn bè đồng trại, nếu ai không sợ “thịt” đều được hưởng nhờ. Mà thực ra thì cũng chẳng ai sợ. Từ đó, Mạnh chuột được anh em “thân thương” đặt cho chữ “chuột” đằng sau cái tên đẹp đẽ, rất đàn ông, Mạnh.

Nhưng, đôi lúc, soi mặt vào vũng nước, Mạnh chuột cũng có cảm giác là hai má hơi hóp lại, miệng hình như có dài ra, nhòn nhọn, môi trên như có vẻ lúc nào cũng đang giựt giựt.

Tuy vậy, Mạnh chuột vẫn thường hãnh diện khoe với bạn cùng trại về sự tiến bộ, thức thời của mình:

“Trước 75, người ta đầu tư chất xám thì tao đi học. Bây giờ, người ta không cần chất xám nữa, mà chỉ cần ‘chất tươi’. Tao chăn nuôi để đầu tư chất tươi.”

Ngoại trừ chuyện chăn nuôi, tiêu thụ và phân phối cho anh em cùng đội những con chuột còn đỏ hỏn để làm chất tươi, Mạnh chuột chẳng có gì đặc biệt. Mạnh chuột sống lẫn vào đám đông thầm lặng, đúng như lời cán bộ vẫn mắng là “nín thở qua sông”. Giản dị một điều, Mạnh chuột biết mình là thằng hay bốc đồng, ưa đốp chát, không chui vào đám thầm lặng này thì, một sớm một chiều, chẳng lẽ lại chuyển “võ nghiệp” vừa bị mất cùng miền Nam sang thành “khẩu nghiệp”.

Mạnh chuột đã có lần tạo được một cái cớ để giữ sự im lặng. Một “ông” công an cán bộ tuổi cũng khoảng trên dưới mười tám, đứng khoa chân múa tay dạy dỗ đám “trại viên”, “thằng” trẻ nhất cũng gần ba mươi, “thằng” già thì đâu đó năm, sáu mươi tuổi, về cách giáo dục, nuôi dạy con cái trong nhà. Mạnh chuột điên lên được, nhưng, cũng may, Mạnh chuột tự tìm ra được một lý do là chính mình cũng chưa vợ con, thì làm sao “gây” với “ông” cán bộ này được.

Vậy mà, cái khẩu nghiệp đâu có tha cho Mạnh chuột, đã gọi là “nghiệp” thì làm sao mà thoát. Đã mang lấy “nghiệp” vào thân mà.

Hôm bác Tôn Đức Thắng chết, cả nước để tang, ai oán, sầu não trùm lên mọi cảnh vật, lên mọi người, nhất là các cán bộ. Vậy mà Mạnh chuột lại dám cười. Sau một ngày lao động cật lực “dâng lên bác” để tỏ lòng thương tiếc, để “biến đau thương thành hành động”.

Mạnh chuột đã mặt mũi hớn hở cười cười đố bạn:

“Tao đố chúng mày biết tại sao Tôn Đức Thắng chết?”

“Thì tại già…”

“Thì tại bệnh…”

“Già gì, bệnh gì…”

Mạnh chuột đảo mắt nhìn quanh, điều chỉnh âm thanh chỉ vừa đủ cho đám bạn tù đứng quanh nghe, nhại giọng Nam:

“Thằng nào ‘đứt thắng’ mà ‘hổng chớt’.”

Không hiểu sao, dứt khoát là không có “ăng ten”. Lời đồn thằng này ăng ten, thằng kia ăng tên đều là láo khoét, đều là thất thiệt cả. Nhưng, không hiểu sao, ngay ngày hôm sau Mạnh chuột ta lết thẳng vào nhà biệt giam sau một trận “tự kiểm” toe người. Mặc dù Mạnh chuột nhất định không nhận tội giễu bác Tôn. Không lết sao được khi mà mặt mũi thì tím bầm, sưng húp lên, môi thì tưa máu tươi, người thì mềm như cọng bún.

Rõ ràng Mạnh chuột là một thằng không có học. Vì nếu có học, ai lại dại gì đi mua vui, chỉ được có mỗi một tiếng cười cho mấy thằng tù, để rồi được hưởng sự “khoan hồng” như thế này. Và cái sự “khoan hồng” này không biết còn kéo dài đến bao lâu.

Nhưng, chắc là không lâu, vì…

Mới qua đến ngày thứ ba, đang ngồi ngủ, dĩ nhiên là ngồi vì “nhà” biệt giam không đủ cao để Mạnh chuột đứng, và cũng không đủ dài để Mạnh chuột nằm. Đảng đã tha tội chết, và đảng chỉ tha tội chết thôi, chứ đảng không tha tội sống, đảng phải “chuyên chính” chứ. Biệt giam khơi khơi với cái tội dám mang bác Tôn ra mà cười như vậy là nhẹ lắm rồi.

Mạnh chuột đang ngồi ngủ, thì có tiếng lách cách mở ổ khóa. Giọng của “đảng” vang lên:

“Anh Nguyễn Đức Mạnh.”

Mạnh chuột thều thào qua đôi môi còn đang sưng tấy lên:

“Có.”

“Đi ra.”

“Chân tôi bị cùm, không đi ra được.”

Ánh đèn phin cực mạnh chiếu thẳng vào mặt làm chóa mắt; có những va chạm dưới chân, Mạnh chuột biết là có người mở khóa chốt cái cùm.

“Anh theo tôi lên khung.”

Chết mẹ rồi, tội này đâu phải là nhỏ. Thằng Trung Úy San bên Thủy Quân Lục Chiến chỉ vì cái tội đứng bên này hàng rào kẽm gai, khua chân múa tay cãi nhau với “đảng” ở bên kia hàng rào trước 75, vô tình bị nhận diện sau một buổi xem phim tài liệu để “học tập”. Chỉ vì cái tội đó thôi mà nó còn bị vứt xác ở bìa rừng, huống hồ… Vừa đi theo tên cán bộ, Mạnh chuột vừa hồi hộp. Nửa đêm nửa hôm khuya khoắt thế này mà gọi lên khung thì thế nào cũng có chuyện, hung chắc chắn là nhiều hơn kiết rồi.

Mạnh chuột giả vờ đau chân, mà không giả vờ cũng không được, chân bị cùm ba ngày làm thế nào mà không đau cho đươc. Mạnh chuột đi khập khiễng để kéo dài thời gian, theo dõi những hành động của tên cán bộ. Hung hay kiết sẽ lộ ra trên thái độ của anh chàng cán bộ này. Anh này tại sao hôm nay lại có vẻ hiền từ. Mặt không hầm hầm như mọi ngày, lại còn cả không hối thúc Mạnh chuột phải đi nhanh.

Vừa bước vào khung, cán bộ trực trại đã đợi sẵn, hỏi Mạnh chuột một cách “dịu dàng”:

“Anh là bác sĩ, vậy thì anh có biết đỡ đẻ không?”

Mạnh chuột hoàn hồn. À ra thế. Mẹ kiếp, hóa ra là chúng mày cần đến chuyên môn của ông. Tuy không phải là bác sĩ chuyên về sản khoa, nhưng thời còn là sinh viên đi thực tập, Mạnh chuột cũng đã đỡ nhiều ca rồi. Nhưng mà, ở đây có đàn bà đâu mà đẻ với đái. Vậy thì cái gì đây? Gì thì gì, chắc chắn là không phải đi theo thằng San là tốt rồi.

“Biết chứ cán bộ. Mà ở đây, tôi có thấy phụ nữ nào đâu.”

Tay cán bộ trực trại cười giả lả:

“Không phải là đỡ đẻ cho người, mà chúng tôi gọi anh lên để đỡ đẻ cho lợn.”

Máu tếu Nhảy Dù chảy nhanh trong cơ thể, Mạnh chuột nghĩ ngay đến Lịnh, tay chuyên môn thiến heo trong đội.

“Nếu đỡ đẻ cho lợn thì một mình tôi không đủ đâu, tôi lại đang đau. Cần phải gọi thêm người.”

Cán bộ sốt sắng hỏi:

“Anh cần thêm mấy người? Tôi cho gọi lên.”

“Cán bộ gọi cho tôi anh Lịnh, ở đội tôi. Tôi với Lịnh là đủ rồi.”

***

Hơi ấm từ đống lửa bập bùng trong chuồng lợn tỏa ra, Mạnh chuột và Lịnh “thiến heo” được ngồi sưởi là nhờ ơn mưa móc của con lợn sắp đẻ này.

Lịnh ngày xưa, trước khi đi lính lên đến Hạ Sĩ, chuyên sống bằng nghề thiến heo. Đúng ra, nếu không vì tính mê gái, nếu không vì muốn giựt le với cô em bán nước mía đầu đường Nguyễn Thiện Thuật, và nếu không bị lừa là cách mạng ra thông cáo học tập mười ngày cho sĩ quan cấp úy, nếu không…những tưởng sau mười ngày đi học tập cải tạo, Lịnh “thiến heo” được chính phủ cách mạng chính thức hóa được cấp bậc Thiếu Úy của mình, Lịnh “thiến heo” hăng hái đi trình diện, thì bây giờ đâu có phải là bạn cùng trại với Mạnh chuột.

“Đang ngủ ngon lành, anh lại phá tôi. Tôi có biết gì về vụ đẻ đái của mấy con heo bao giờ.”

Mạnh chuột nheo nheo mắt, cười cười:

“Mày sống bằng nghề thiến heo, tức là có dính dáng đến heo rồi. Cũng như tao là bác sĩ thì tao dính dáng đến đỡ đẻ vậy mà.”

Lịnh vẫn còn hậm hực:

“Vậy bộ anh muốn tôi ‘thiến’ con heo nái này à?”

“Không ai ngu như mày. Đỡ đẻ xong, ngày mai sẽ được nghỉ lao động, và thế nào mà không được bồi dưỡng một ít đường.”

Mạnh chuột được ân xá nhờ đỡ đẻ “đạt tiêu chuẩn”, một lứa tám con, không chết con nào nên được tha về đội, lại còn được nghỉ nguyên ngày hôm sau để bù lại suốt một đêm thức trắng đánh vật với lợn.

***

Đảng tha, nhưng “khẩu nghiệp” thì không tha. Mạnh chuột lại bị vạ miệng vì cái “vô học” của mình.

Thời gian này có “dịch” trốn trại. Đêm hôm trước điểm danh đủ, sáng hôm sau mở mắt ra là thiếu một vài mạng. Đảng tổ chức và lãnh đạo thành công mọi cuộc cách mạng, cho nên đảng không thể thất bại trong việc ngăn chặn chuyện trốn trại. Vận động mọi khả năng sáng tạo của đỉnh cao trí tuệ loài người, đảng nghĩ ra một cách kiểm soát tù không tốn công tốn của là bắt tù gác tù. Sau một ngày “lao động là vinh quang, trồng khoai lang là yêu nước”, tù được phân công thay nhau gác… tù.

Trong một ca “đón giao thừa một phiên gác đêm”, Mạnh chuột đã lỡ “vui xuân quên nhiệm vụ”, gác thì lơ là mà miệng lại còn nghêu ngao hát:

Giờ đây bên sông “mai” rụng tơi bời Giờ đây em ơi “sao” mọc lên rồi Lòng anh tan hoang thôi vỡ “đời” ơi…

Đảng còn đang tiến hành cuộc điều tra về gốc gác bài hát, vì đây là một bản nhạc vàng đầy phản động. Tại sao cách mạng thành công, miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng, đem lại cơm tuy chưa ngon nhưng mà no, áo tuy chưa đẹp nhưng mà ấm cho nhân dân lao động anh hùng, mà lại dám nói là “thôi vỡ đời ơi”.

“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ cách mạng.”

“Cách mạng nào, anh lại bôi bác cách mạng phải không?”

“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ của cán bộ cách mạng thật mà.”

“Anh chỉ cho tôi xem cán bộ nào lại dám làm bài thơ phản động như thế này?”

“Bài này tên là ‘Hoa rụng bên sông’ của cán bộ Lưu Trọng Lư.”

Trong khi chờ đợi cuộc điều tra ngã ngũ, Mạnh chuột không bị vào nhà biệt giam, vì có dây dưa đến cán bộ Lưu Trọng Lư, dù rằng cán bộ khung chẳng ai biết cán bộ Lưu Trọng Lư là cán bộ nào. Cho nên Mạnh chuột được “tại ngoại hậu tra”, và đang cong đít lên mà đào giếng.

Đây là vùng đất mà chỉ có chó mới sống được một cách no đủ, vì chỉ toàn là đá với sỏi. Mỗi nhát cuốc bổ xuống là mỗi lần lửa tóe lên.

Mạnh chuột đào giếng qua đến ngày thứ hai mà mới sâu xuống được đâu ngang đầu gối. Cán bộ vệ binh luôn luôn mắng nhiếc “Anh giơ cuốc lên thì chim đậu, hạ cuốc xuống thì mối đùn”. Mạnh chuột giận lắm, ở cái xứ khỉ ho cò gáy này, lấy chó đâu ra chim với mối mà đậu với đùn. Có giận thì giận, có gì thì gì, Mạnh chuột vẫn phải cuốc và vẫn phải cắn răng “ngậm miệng mà không… ăn tiền”.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, buổi chiều ngày thứ ba, khi Mạnh chuột đang lui cui vét đất dưới hố để hất lên trên, cán bộ vệ binh đến cà khịa:

“Đầu óc anh vẫn còn hướng về bọn đế quốc Mỹ nên mới bảo ‘nà’ cách mạng đã ‘nàm’ cho đời anh tan hoang.”

“Đó là bài thơ của cách mạng mà, cán bộ.”

“Thơ thẩn gì, anh vẫn còn tư tưởng yêu Mỹ, kính Mỹ, thương Mỹ, sợ Mỹ. Tôi ‘nà’ đọc được tư tưởng của anh mà.”

Mạnh chuột im lặng không trả lời.

“Phát biểu thì ‘ninh’ tinh, ‘nao’ động thì trây ‘nười’.”

Mạnh chuột vẫn cắn răng cố nhịn, không nói. Anh cán bộ vệ binh thấy Mạnh chuột không nói, nghĩ ngay là nó đang khinh mình, tức giận quát một câu thật to:

“Anh ngu như ‘nợn’ ấy.”

Máu Nhảy Dù dồn lên mặt, mắt đổ lửa. Sẵn tay cầm cuốc, Mạnh chuột đứng bật dậy, những tưởng phen này thế nào cũng có “máu đổ thịt rơi”. Nhưng, trán Mạnh chuột chạm ngay vào mũi khẩu AK. Hơi lạnh của chất thép lan nhanh sang Mạnh chuột. Mọi động tác của Mạnh chuột như tê cóng, ngừng hẳn lại, chỉ còn ý nghĩ chạy trong đầu:

”Mày ngu như lợn thật, Mạnh chuột ạ.”


Cao Xuân Huy

hoangphong
Posts: 391
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Bạn Tôi: Đại Úy Trần Quang Hiệp
- Lưu Hoàng Kỳ -

Tháng 3 năm 1980 bất ngờ tôi gặp lại Hiệp, đúng là quả đất tròn. “Tha hương ngộ cố tri”. Chuyện tôi gặp lại Hiệp như một sắp xếp của bàn tay vô hình. Nhưng cuộc hội ngộ cũng cho tôi nỗi xót xa đến không ngờ. Đúng là mỗi người một mảnh đời không ai biết trước được.

Sáng hôm đó như thường lệ 4 giờ sáng tôi đạp xe từ Phú Nhuận đi Chợ Sặt Biên Hòa mua đậu nành. Qua khỏi ngã tư Thủ Đức thì chiếc dép đứt quai, trời tối đèn điện lờ mờ, nhét chiếc dép vào sau ba ga tôi đạp chân không. Đến chợ Sặt tìm đoạn kẽm cột tạm nhưng dép của tôi quá cũ mỏng như tờ giấy, mới đi vài bước lại đứt tiếp, thấy tôi loay hoay cột tới cột lui bà “chủ vựa” vừa nói vừa cười: “mòn cỡ đó mà còn tiếc gì nữa em ơi! Bỏ mẹ nó mua đôi khác cho rồi”.

Bà đâu biết tôi chỉ đủ tiền mua 50 kilo đậu nành, còn mấy đồng dằn túi đề phòng xe dọc đường nên phải đắn đo. Sau cùng tôi nghĩ về tới chợ Lớn 45 cây số đạp chân không, chết chắc! đành phải mua đôi dép nhựa loại rẻ nhất. Vậy là trả tiền cho bà chủ xong tôi sạch túi.

Tôi đạp xe chở 50 ký đậu trên đường về đến ngã ba “Xa lộ Đại Hàn” thì bánh xe sau bị xì, với tôi lúc đó là một tai họa. Nhìn xuống thấy bánh xe xẹp lép tôi chết điếng người, trong túi không còn dù chỉ một đồng, tiền đâu vá xe? Tôi thầm nghĩ sao hôm nay gặp toàn chuyện xui vậy trời? “Họa vô đơn chí” khi sáng đứt dép bây giờ lại xì bánh xe.

Tôi hạ bao đậu xuống lề đường, bối rối không biết giải quyết thế nào? Tiền đâu vá xe bây giờ? Bí lối chỉ biết kêu trời!

Nhìn về hướng Sài Gòn, cách chừng hơn trăm mét bên lề đường một người sửa xe đạp đang ngồi trong lều nhỏ che nắng bằng tấm nylon. Không còn cách nào khác cứ dắt xe đến rồi tính sau, chưa biết phải mở lời nói sao để người ta cho thiếu nợ ngày mai tôi sẽ trả.

Dựng xe tôi đến trước lều, người sửa xe mặc áo lính quay mặt vào trong đang lục tìm trong thùng đồ nghề. Tôi lấy nón vải lau mồ hôi lên tiếng gọi: “Anh ơi!”. Người thợ ngoảnh mặt ra: “Có tôi đây”. Tôi ngỡ ngàng kêu lên: “Trời ơi! Hiệp có phải không?”. Anh cũng mở to mắt ngạc nhiên: “Ủa, mày hả Tiến?”. Hiệp xoay người ra trên cái đòn ghế, tôi rụng rời xót xa, Hiệp cụt cả hai chân đến nửa đùi. Hai đứa mừng quá bắt tay nhau, tôi xúc động chưa biết nói gì. Hiệp chỉ chiếc ghế thấp:

– Ngồi đi mày… tao lấy nước uống rồi chuyện gì nói sau.

Hiệp xoay người trên chiếc đòn ghế lấy ca nhỏ rót nước từ bi đông quân đội, vừa hỏi:

– Mày vào đây khi nào, bây giờ ở đâu?

Hai đứa tóm tắt hoàn cảnh hiện tại của nhau. Hiệp nói:

– Chuyện còn dài. Bây giờ trước hết mày đem bao đậu đến đây để mấy thằng quản lý thị trường nó “đớp” là hết vốn… vác nổi không? Chân cẳng tao làm sao giúp mày được?”. Tôi chui ra khỏi lều: “Ông cứ để mình”.

Bây giờ lại thấy trong cái rủi có cái may, nếu xe không xẹp bánh thì tôi đâu gặp lại người bạn trong cảnh tha hương giữa đất miền Nam mênh mông trong hoàn cảnh này.

***

Tôi và Hiệp cùng học lớp Đệ Thất 4 ở trường Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi. Nhưng Hiệp lớn hơn tôi đến ba tuổi, năm vào Đệ Thất tôi mới mười hai còn nhỏ xíu, mà Hiệp thì đã mười lăm cao lớn nhất lớp, đang thời kỳ trổ mã đẹp trai, mặt đã có mụn trứng cá và giọng nói khàn khàn như vịt đực. Tính tình nghịch ngợm, hay chọc phá bọn con gái (lúc đó Quảng Ngãi chưa có trường Nữ Trung Học). Nghịch nhất lớp mà học thì cũng loại siêu hạng. Hiệp thông minh học giỏi đều các môn, mỗi lần Cô Hy (vợ thầy hiệu trưởng Hà Như Hy) kêu nó đứng lên đọc Pháp văn là cả lớp im lặng như tờ lắng nghe, nó đọc hay như Tây. Xếp vị thứ hàng tháng, thi lục cá nguyệt, đến tổng kết cuối năm, không đứa nào dành ngôi số một của nó. Mới Đệ Thất mà “cu cậu” đã biết khiêu vũ, chơi đàn guitar, mandolin. Tới giờ dạy nhạc thầy Trần Quang Ngọc thường bảo nó đàn cho cả lớp nghe. Nói chung là cùng lớp Đệ Thất nhưng Hiệp trưởng thành hơn bọn tôi.

Hiệp học giỏi có tiếng, kết quả học tập là một kỳ tích. Nó chỉ chung lớp với bọn tôi đến năm Đệ Ngũ, bỏ Đệ Tứ làm đơn thi trung học Đệ Nhất Cấp, thi đậu qua trường Chấn Hưng học Đệ Tam học luôn chương trình Đệ Nhị, thi Bán Phần đậu bình thứ, lại trở vào Trần Quốc Tuấn học Đệ Nhất và kỳ thi Toàn phần đậu Bình nữa mới ghê. Hiệp học nhảy hai lớp nên khi bọn tôi mới hết Đệ Tam, nó đã đậu xong Tú Tài toàn phần.

Hiệp nộp đơn vào Quốc Gia Hành Chánh. Còn đúng một tuần nữa đến ngày thi, chuẩn bị hành lý vào Sài Gòn thì tai họa ập xuống. Trong một chuyến công tác ở Mộ Đức trở về đi qua Mỏ Cày cha của Hiệp bị Việt Cộng ám sát, ông chết vì một viên đạn AK xuyên qua tim.

Hiệp bỏ thi, còn tinh thần đâu mà học? Bọn tôi đến nhà thăm nhưng nó cứ nằm khóc vùi, mặt mày bơ phờ. Trần Quang Hiệp thông minh giỏi giang miệng mồm tía lia biến mất, nó xác xơ tiều tụy.

Bạn bè đứa nào cũng tiếc cho Hiệp, con đường học vấn đang thênh thang rộng mở. Phải nói Hiệp là một tài năng hiếm có, năm Đệ Tam bọn tôi hay đến nhà hỏi bài, Hiệp giảng hay và dễ hiểu hơn giáo sư ở lớp. Nó mang hoài bão lớn, có lý tưởng rõ ràng, đã vạch cho mình hướng đi nên chọn Quốc Gia Hành Chánh.

Nhưng cái chết của cha làm Hiệp chuyển hướng, cuối năm 1967 nó nộp đơn vào khóa 24 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Đà lạt). Bốn năm học ở Đà Lạt, Hiệp ít về Quảng Ngãi, ra trường lại về binh chủng Biệt Động Quân ở Quân Khu Hai trên cao nguyên. Thỉnh thoảng chỉ biết tin tức qua bạn bè.

Hiệp vô Đà Lạt, bọn tôi hai năm sau mới xong Tú Tài toàn phần. Sau đó cũng tứ tán bốn phương, đứa vào đại học, thằng nào hết hạn hoãn dịch thì vào quân đội, đứa vào Sư phạm Qui Nhơn, Đứa Cán Sự Y Tế Huế. Mỗi người một mảnh đời nổi trôi theo vận nước.

Tôi nhập ngũ khóa 5/70 Thủ Đức, rồi học căn bản pháo binh ở Dục Mỹ, ra trường về tiểu đoàn 20 pháo binh. Suốt hai năm đi “đề lô” cho các tiểu đoàn Biệt Động Quân, Trinh Sát, Chiến Xa, Thiết Giáp, vào sinh ra tử đánh đấm tưng bừng. Trong vòng ba năm bạn bè tôi tử trận gần hết. Đến trung tuần tháng 3 năm 1973, tôi rời Tiểu Đoàn 20 pháo binh thuyên chuyển về làm Trung đội trưởng Trung đội 109 pháo binh lãnh thổ Quảng Ngãi.

Tháng 10 năm 1974 từ Bình Sơn về họp với ban chỉ huy pháo binh tiểu khu Quảng Ngãi. Trưa hôm đó tôi mời Đại úy Tùng, Chỉ Huy Phó và Trung úy Ba Trung đội trưởng 111 ăn cơm ở Bắc Hải. Tiệm đông khách nên không để ý đến ai. Ăn xong tôi vào quầy thanh toán tiền. Lúc trở ra mới được mấy bước có tiếng hỏi: “Phải mày không Tiến?”.
Một ông Đại úy Biệt Động Quân đang ngoảnh lên nhìn tôi mỉm cười, ngồi cạnh là một cô gái đẹp. Phản xạ tự nhiên tôi đưa tay chào kính, cũng trong khoảnh khắc tôi nhận ra Trần Quang Hiệp. Bất ngờ vì trước mặt tôi không phải là Hiệp mảnh khảnh trắng trẻo thư sinh của bảy năm trước ngày bọn tôi tiễn thằng Hiệp 20 tuổi vào trường Võ Bị Đà Lạt. Mà là một ông Đại úy Biệt Động Quân đồ trận hoa rừng, ba bông mai đen trên ve áo với bộ ria mép đen rậm, đẹp trai vóc dáng phong trần.

Hiệp bắt tay tôi giới thiệu với cô gái. Nó quay qua: “Ngọc, người yêu của tao”. Tôi “Chào chị”. Hiệp cười.

Mới đó mà đã bảy năm, gặp lại hai đứa đều mặc áo lính. Hoàn cảnh chiến tranh mỗi đứa một chiến trường nên không gặp nhau. Bọn tôi hỏi thông tin về bạn bè, đứa còn đứa mất. Hiệp đang là sĩ quan phòng Ba của bộ chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu II. Nghỉ mấy ngày phép về thăm mẹ. Đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất bọn tôi gặp lại từ khi Hiệp vào Võ Bị.

Hiệp lên lại cao nguyên, tôi về đơn vị ở Bình Sơn. Tình hình đất nước biến chuyển xấu do sự cắt giảm quân viện của Hoa Kỳ theo tinh thần hiệp định Paris. Tình trạng tiếp liệu của toàn quân đội bế tắc thê thảm, đạn dược thiếu hụt. Đến cuối năm 1974 đạn tồn kho cạn kiệt, Pin PRC 25 trực tác xạ không còn. Tôi được lệnh chỉ bắn một đến hai quả cho mỗi lần quân bạn chạm địch. Bao nhiêu công điện xin tiếp tế tôi gởi đi đều được trả lời là: “Đợi”. Bộ binh chiến đấu đơn độc ngoài chiến trường vì không còn hỏa lực yểm trợ. Trong khi ngược lại, Việt Cộng được Nga Sô, Trung Cộng gia tăng viện trợ tối đa toàn vũ khí tối tân hạng nặng áp đảo. Ưu thế quân sự dần nghiêng về phía cộng sản bắc việt.

Thế rồi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, tôi lăn lóc qua nhiều nhà tù trong nhiều năm. Ra tù thêm bản án quản chế, tôi tất bật mưu sinh trong đói rách tả tơi.

Đầu năm 1980 tôi bỏ Quảng Ngãi vào Sài Gòn tá túc nhà người quen ở Phú Nhuận tìm cách mưu sinh. Thấy tôi nghèo không nghề nghiệp, bà chị sát vách cho mượn tủ thuốc lá nhỏ, tôi bê ra ngã tư Phú Nhuận ngồi từ sáng đến khuya, cả tuần lễ bán lẻ được năm điếu Samit, hai gói rưỡi thuốc Hoa Mai. Thất bại tôi chuyển qua đi bỏ sữa cho quán cà phê, bỏ 6 lon chỉ lấy tiền được bốn, còn hai lon chủ quán không trả tiền, khi tôi đến hỏi lần thứ ba lại lên tiếng lớn, còn cho tôi một tát tai nổ đom đóm, rồi đuổi ra vì chê sữa cũ đặc quá làm họ mất khách. Vậy là tôi mất vốn. Đang tính chuyện đạp xích lô thì có người mách đi chợ Sặt mua đậu nành về bỏ ở Chợ Lớn.

Thế là cứ 4 giờ sáng tôi thức dậy đạp xe ra chợ Sặt Biên Hòa hơn 40 cây số, chở bao đậu 50 ký về Chợ Lớn, đoạn về phải 45 cây số, như vậy trong ngày vừa đi về tôi đạp xe gần 100 cây số. Nhưng tiền lời chỉ tương đương 2 ký gạo cho mỗi chuyến. Mà tôi đạp xe trong tình trạng nhịn đói từ 4 giờ sáng đến 5 giờ chiều trở về nhà mới ăn bữa cơm duy nhất. Tôi cũng tiết kiệm không dám uống nước dọc đường, cứ đến “vựa” uống đầy bụng, về chợ Lớn thì xin nước nơi bán hàng, cho nên đi mấy ngày là tôi ốm nhom. Sợ nhất là đoạn trở về đèo 50 ký mà còn lên cái dốc Thủ Đức, nên người rã rời nhưng không còn cách nào khác.

***
Hôm đó tôi và Trần Quang Hiệp ngồi tâm sự, đến 8 giờ tối mới đèo bao đậu đến chợ Lớn, bán xong về tới nhà là 10 giờ đêm.

Từ lúc tạm biệt Hiệp lòng tôi ngổn ngang nỗi buồn tê tái. Một thời binh lửa đã đi qua, nhưng vết thương vẫn hằn sâu nhức buốt trong tâm hồn những người lính như bọn tôi.

Dù tôi và Hiệp còn rất trẻ đang tuổi thanh niên. Đã từng xông pha nơi chiến trường máu lửa, đã bao lần bước vào cửa chết để tìm ra đường sống. Nhưng hai đứa đã nghẹn lời khi kể nhau nghe những bi kịch về đoạn đời của mình sau ngày phần đất tự do đã mất.

Hiệp nói: “Tao tin vào định mệnh. Mỗi người một số phận không ai biết trước cuộc đời mình sẽ ra sao? Nếu Việt Cộng không giết “ông già” thì tao đâu vào Võ bị Đà Lạt? Rồi nếu không ở quân đội tao đâu gặp Ngọc? Cuộc sống vốn nhiều những sự tình cờ, tình cờ bọn mình gặp nhau, tình cờ tao vào quân đội, và gặp Ngọc cũng là một tình cờ”.

Ngọc quê Quảng Ngãi, tốt nghiệp đại học sư phạm Huế lên dạy ở Pleiku. Ngọc dạy cùng trường với vợ Trung úy Kha ban Ba tiểu đoàn Biệt Động Quân. Họ gặp nhau trong một bữa cơm gia đình ở nhà Kha. Không hiểu sao anh Trung úy đại đội trưởng trinh sát Trần Quang Hiệp gan lì nơi trận mạc. Về thành phố có tiếng hào hoa, đẹp trai, miệng mồm như tép nhảy, thế mà tự nhiên ít nói, lừng khừng như thằng “ngố” bị lãng tai. Ngọc đẹp, hiền lành lại đồng hương gặp nhau nơi cao nguyên nắng bụi mưa bùn, thế là họ yêu nhau.

Từ ngày yêu Hiệp, Ngọc sống trong lo âu đợi chờ, mà Hiệp thì miệt mài say mê chiến trận. Những địa danh Chupa, Dakto, Tân Cảnh, Kiến Đức, Pleime… Trận nào cũng ác liệt một còn một mất với quân thù. Sau hai tuần vắng mặt Hiệp trở về với một cánh tay quấn băng trắng loang lổ máu tươi treo trước ngực, thấy Ngọc rưng rưng, Hiệp mỉm cười: “Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”, vết thương chưa lành lại đòi ra đơn vị với anh em. Rồi Ngọc khóc ngất khi thân thể Hiệp bê bết máu, mê man trong phòng hồi sinh ở Quân Y Viện Pleiku, sau ba tháng điều trị không cần tái khám lại nhất định lên đường. Và bao nhiêu lần trở về trên băng ca, chân tay mình mẩy lại băng bông máu me thấm đỏ. Ngọc phải nhờ bạn bè dạy thế để săn sóc chăm nom. Và Hiệp luôn dấu gia đình nhất định không cho mẹ biết tin.

Chuyện tình của anh quân nhân Biệt Động và cô giáo ngọt ngào như một bài thơ hay. Sau những cuộc hành quân trở về họ sánh vai trên đường phố Pleiku, cả hai đều đẹp. Rồi những buổi hẹn hò, những chiều tiễn đưa. Phố núi Pleiku là cõi “thiên đàng” của những người đang yêu nhau. Nhưng chuyện đời không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái như mơ tưởng.

Ngày tôi gặp hai người ở Bắc Hải chính là ngày định mệnh, chuyện tình của Hiệp qua một ngã rẽ khác.

Trước đó một tháng Hiệp thưa với mẹ chuyện hôn nhân, và cho biết thông tin về Ngọc: “Nhà ở Đức Phổ, Cha chết đã lâu chỉ còn mẹ già sống với người con gái lớn…”. Nỗi vui mừng dâng tràn, niềm ước mong bao năm là thấy mặt con dâu bây giờ mới đạt được. Mẹ đôn đáo lo toan, báo cho chú Hiếu biết, cùng mấy người bà con, tìm thông tin về gia đình Ngọc và chuẩn bị đến lễ Trầu Cau.

Một tối mẹ đang ngồi tính chuyện sắm lễ vật, những ai sẽ là họ hàng đến nhà gái, thì chú Hiếu của Hiệp làm cảnh sát “đặc biệt” ở Quảng Ngãi, người sẽ đại diện nhà trai trong lễ đính hôn xuất hiện với vẻ ưu tư. Ngồi lặng yên hồi lâu, thoáng buồn ông nói: “Chị Hai, cha con Ngọc không phải chết mà là tập kết, đã hồi kết từ năm 1968 từng hoạt động ở Quảng Nam, mới đổi vùng từ 1973, địa bàn hoạt động hiện tại ở nam Quảng Ngãi, là cán bộ cấp tỉnh, và y đã có móc nối với gia đình… Em đã xem và nghiên cứu kỹ hồ sơ. Phải cho thằng Hiệp biết ngay không chậm trễ được…”.

Hiệp hốt hoảng khi cầm bức điện tín: “Mẹ đau nặng con về gấp”. Không biết bệnh mẹ nặng nhẹ thế nào? Thôi cứ đem Ngọc cùng về để mẹ biết mặt con dâu. Hiệp gọi thầm: “Mẹ ơi đợi con về”.

Phải đợi hai ngày mới có chuyến bay về phi trường Chu Lai, Hiệp đưa Ngọc về nhà. Mặt mẹ đầm đìa nước mắt khi Hiệp ôm bờ vai gầy của mẹ.

Ngọc e dè ngồi vào ghế sát tường. Hiệp theo xuống nhà sau vào phòng của mẹ. Ngồi xuống giường mẹ hỏi nhỏ: “Hiệp… Con có biết cha con Ngọc làm gì không?”. “Cha nó chết lâu rồi mà mẹ”. “Không… nó dấu con, cha nó là Việt Cộng, đang hoạt động ở Đức Phổ…” mẹ cho biết thêm những thông tin điều tra của chú Hiếu, cùng sự xác nhận của những người quen.

Như nhát búa tạ vừa đập vào ngực, Hiệp bật ngửa ra giường hai tay dang rộng nhìn lên trần nhà. Hiệp không nghi ngờ gì kết luận của chú Hiếu. Hiệp ăn năn sự hời hợt chết người của mình, tại sao không cho gia đình biết từ đầu? Một sai lầm không đáng có.

Trong đầu Hiệp hiện lên: Vậy là lâu nay mình đã bị kẻ thù giăng bẫy? Không ngờ cô ta lại đóng kịch hay đến thế? Cảm giác sợ hãi. Hiệp cố nhớ lại có bao giờ cô ta hỏi điều gì về lãnh vực quân sự chưa? Hay có khi nào mình sơ suất tiết lộ chuyện gì không? Thời gian hai năm làm sao nhớ hết? Người yêu khoảnh khắc thành kẻ thù hai bờ chiến tuyến. Rõ ràng mình với cô ta là hai đường thẳng song song. Không bao giờ!

Căn phòng yên lặng. Hiệp ngồi dậy gục mặt vào vai mẹ: “Mẹ ơi! Con có lỗi với cha mẹ… Con sẽ tự giải quyết… Mẹ chuyển lời xin lỗi của con đến chú Hiếu. Con hứa không làm gì sai trái với gia đình… Con sẽ liên lạc xin tàu ngày mai trở lại đơn vị. Nếu mấy hôm nữa Ngọc đến tìm, mẹ cứ nói con đã đi và tuyệt đối không tiết lộ gì thêm”.

Vào Bắc Hải ăn cơm xong, Hiệp nói với Ngọc là chiều nay nhà có khách, các cô chú tập trung bàn chuyện đám cưới, để tránh khó xử Ngọc về Đức Phổ thăm mẹ, ngày mai Hiệp sẽ vào đón…

Sáng hôm sau Hiệp bay lên Pleiku, và hai ngày sau Phòng Ba đưa Hiệp ra thay cho một Tiểu Đoàn Phó vừa bị thương, đơn vị đang hành quân ở Kontum. Đến ngày thứ năm khi dẫn hai đại đội ra khỏi khu rừng đến một đồi tranh, cho dàn quân bố trí xong, lúc tiến lên quan sát mục tiêu Hiệp dẫm phải quả mìn cá nhân lớn, một tia lửa sáng lòa tiếp theo tiếng nổ rền rung chuyển. Hiệp không còn biết gì nữa.

Ra khỏi phòng hậu phẫu ba ngày sau tỉnh lại Hiệp lờ mờ cảm giác khác lạ, người nặng nề râm rang đau nhức, đầu óc bồng bềnh, tay chân không co duỗi được. Hồi lâu Hiệp mới biết hai tay bị cột chặt vào cạnh giường, dây chuyền máu, truyền nước biển chằng chịt tê cứng người. Dần dần Hiệp biết mình bị mất đôi chân, phải giải phẫu lấy mảnh ở tay, đầu và bụng qua lời của một bác sĩ mà Hiệp nghe trong trạng thái mơ màng nửa tỉnh nửa mê.

Bảy ngày sau Hiệp mới hoàn toàn nhận biết đang ở Quân Y Viện Pleiku. Vừa mở mắt thấy Ngọc ngồi cạnh giường mặt bơ phờ, đáp lại thái độ vồ vập nghẹn ngào gọi tên mình, Hiệp nhắm mắt im lặng, cố nhớ những gì đã xảy ra.

Chiều hôm đó Đại úy Kha cùng vợ vào thăm, sau khi yêu cầu tất cả ra ngoài. Hiệp cố gắng tóm tắt những thông tin về Ngọc, nhờ Kha vận động để mình được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa trong thời hạn sớm nhất. Đại úy Kha đồng ý và ủng hộ hướng giải quyết của Hiệp. Hôm sau có chuyến bay Hiệp được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa.

Tiếng khóc của mẹ làm Hiệp cảm giác xót buốt như nhát dao cắt vào từng đoạn ruột. Bên mẹ Hiệp thấy bớt cô đơn, suốt ngày loay hoay chăm sóc rửa lau, an ủi nói chuyện để Hiệp khuây khỏa nỗi buồn.

Ngọc đến Tổng Y Viện Cộng Hòa ba lần với dáng vẻ tiều tụy. Hiệp nói với Ngọc mình tàn phế nên không muốn cô bị ràng buộc vào đời một phế nhân, và xin lỗi là lâu nay mình đã lừa dối chứ không yêu thương gì! Bao nhiêu nước mắt của Ngọc cũng không làm Hiệp lay chuyển.

Từ đó tuần nào cũng có một lá thư của Ngọc từ Pleiku, lá thư đầu tiên đến lá cuối cùng Hiệp chưa bao giờ mở ra, cũng không cần biết nàng viết những gì cứ bảo mẹ đốt bỏ.

Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ sau khi mất Phước Long, rồi Quân Đoàn Hai rút bỏ Pleiku, Quân Khu Một di tản, những tin tức xấu từ các chiến trường cứ dồn dập bay về.

Thế rồi khi hai chân còn rỉ máu, những vết mổ chưa liền da, chưa tự ngồi dậy được, thì biến cố 30 tháng 4.

Có mặt ở Tổng Y Viện nên Hiệp tận mắt chứng kiến số phận bi thảm của anh em thương binh Việt Nam Cộng Hòa trước sự tàn nhẫn vô độ của quân Việt Cộng.

Một bọn người nón cối dép râu ăn bận luộm thuộm, mặt mày hung dữ đằng đằng sát khí xông vào, súng AK đạn lên nòng gắn lưỡi lê chĩa vào những người thương binh đang nằm trên giường, đập đánh chửi rủa xua đuổi bằng lời thô tục đầy hận thù. Những người thương binh què cụt, bông băng đỏ ối máu tươi, xương tay chân còn bó nẹp không tự mình ngồi dậy được đã bị đạp rơi xuống sàn nhà mà không dám kêu la. Bao nhiêu người không thể tự mình rời khỏi giường, bị báng súng nện vào lưng, có người phản ứng lại bị đánh tới tấp bằng gậy, bằng bất cứ vật gì chúng vớ được chung quanh.

Máu căm hờn dâng lên đỉnh đầu. Hiệp cắn răng nghe nhịp tim dồn dập, đầu óc quay mòng mòng mồ hôi toát ra và hai tay run rẩy không còn tự chủ. Khó khăn lắm mẹ mới xốc Hiệp lên chiếc xe lăn hối hả đẩy ra sân. Trước mắt Hiệp kẻ lết người bò, kẻ xe lăn người chống nạng, có người một tay đỡ đùm ruột trong bao nilon, một tay cầm bịch máu thất thểu mặt còn nhăn nhó đớn đau. Một dòng người què quặt, máu me lang thang trên đường vật vờ như những bóng ma.

Cuộc chiến ghê gớm nhất hai mươi năm chấm dứt một cách dễ dàng, kẻ chiến thắng cũng ngỡ ngàng, người chiến bại thì vẫn không tin là sự thật. Sau những hối hả ngược xuôi tìm đường trốn chạy, ngày 30 tháng 4 đi qua. Sài Gòn là một thành phố chết, phố xá đóng cửa, nhìn đâu cũng toàn màu đỏ của cờ xí, biểu ngữ. Mọi sinh hoạt đều ngưng đọng đợi chờ chính sách của người “chủ” mới. Không khí khủng bố chết chóc bao trùm xuống miền Nam. Mọi sinh hoạt của Sài Gòn bị tê liệt.

Phe chiến thắng chia nhau chiến lợi phẩm, họ chiếm đoạt những kho tàng, nhà máy. Những người lạ từ đâu dọn vào các biệt thự, nhà phố. Từng đoàn xe nối đuôi hướng về phương bắc chất đầy máy móc hàng hóa.

Hai mẹ con về tá túc nhà cậu Ba ở Tân Bình. Hiệp nằm vùi trên giường như người đã chết, không cần biết những gì đang xảy ra chung quanh. Thiếu thuốc, mẹ rửa bằng nước muối hai vết cắt ở chân làm độc đau nhức, nhưng cái đau của thân xác không sánh bằng cảm giác tả tơi xót buốt như dao cắt bởi tuyệt vọng. Hiệp như rơi xuống một hố thẳm không đáy chẳng biết bám vào đâu?

Những khi thức giấc thực tế hiển hiện như một cơn ác mộng hãi hùng, Hiệp kinh hoàng nhận ra rằng đang đối diện với sự thật. Quốc Gia không còn, Việt Cộng đã thắng, lịch sử đã sang trang. Mình là kẻ chiến bại, một niềm đau đớn dâng lên ngập lòng, mắt cay cay như ai thổi muối ớt vào mặt. Hình ảnh bao anh em đồng đội ngã gục chết tức tưởi hôm nào lại trở về trong tâm tưởng, những người lính đã hiến thân để xây nên một huyền sử não nùng! Bây giờ có giọt nước mắt nào rơi xuống tiếc thương cho người lính hay không? Hiệp nhớ những đồng đội đã nằm lại chiến trường, những anh em Đại Đội Trinh Sát của mình đã chết trong những trận đánh giành từng ngọn đồi. Nhớ bao người lính đã gục xuống để chiếm lại từng tấc đất nơi những địa danh đã đi vào quân sử: Dakto, Tân Cảnh, Đức Lập, Kiến Đức, Pleime… Xương máu nào đã đổ xuống đem sự yên vui cho mọi người, cho một đất nước đầy tai ương? Bạn bè bao nhiêu người còn sống? Bao nhiêu người đã chết, hy sinh trong cuộc chiến giờ này linh hồn họ có tủi hờn gì không?

Những ý nghĩ cứ liên tục hiện ra trong tâm tưởng, như ngọn đèn dầu bùng lên chút ánh sáng cuối cùng trước khi phụt tắt. Một luồng máu nóng lan ra khắp đỉnh đầu, tim thắt lại, mắt hoa lên trong giây phút nghiệt ngã tận cùng. Hiệp thở dài: Ngày đã đi qua, bóng đêm đang tới. Lịch sử đã sang trang.

Nước mất nhà tan, chú Hiếu bị bắt và đưa đi mất tích như số phận của hàng trăm người ở quê nhà. Năm 1979 mẹ qua đời sau cơn bạo bệnh mà không có thuốc men. Hiệp bơ vơ.

Chính quyền “cách mạng” lùa dân Sài Gòn đi kinh tế mới. Ngày nào cũng có người đến gõ cửa. Từng lớp người bị đưa lên rừng phá rẫy tìm đất canh tác.

Cậu Ba có miếng đất gần làng đại học cũ ở Thủ Đức, thằng Tâm con lớn của cậu rủ anh Hiệp ra đó làm nghề chăn nuôi. Hiệp theo nó tìm đường sống. Làm thời gian thấy chân cẳng di chuyển khó khăn không giúp được gì cho em. Sau nhiều đêm suy nghĩ thế là Hiệp thành anh thợ sửa xe.

Từ hôm gặp lại Hiệp, tôi ghé lại đến 10 giờ đêm mới về tới nhà. Hai đứa có nhiều chuyện để nói: chuyện xưa, chuyện nay, chuyện bạn bè, chuyện học hành, chuyện lính tráng trận mạc, chuyện đứa chết, chuyện thằng sống.

Hiệp nói một người bà con ở Quảng Ngãi vào ghé thăm cho biết thông tin về cô giáo Ngọc: “Sau tháng tư 1975, cha cô Ngọc xuất hiện làm cán bộ lớn, và với lệnh của ông hàng trăm viên chức địa phương chế độ cũ, một số đã bị hành quyết, một số bắt đi đến nay không thấy trở về. Ngọc được cha đưa lên làm cán bộ giáo dục ở tỉnh nhưng cô từ chối. Và nghe nói cô giáo Ngọc tuy có được móc nối nhưng không nhận công tác nào như suy đoán trước đây”

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Ngọc ra Quảng Ngãi thấy nhà mẹ Hiệp đóng cửa, người láng giềng cho hay bà đã vào Sài Gòn trước ngày “giải phóng” nuôi con trai bị thương chưa về. Cô hỏi địa chỉ của Hiệp ở Sài Gòn nhưng không ai biết. Sau đó Ngọc vào Sài Gòn nhờ người quen dò tìm tin tức Hiệp cả tháng trời nhưng không kết quả. Thất vọng về lại Quảng Ngãi cô bệnh nặng, hình hài tiều tụy thần sắc bơ phờ như người mất trí. Chuyện cô giáo Ngọc con gia đình “cách mạng” thất tình anh Đại Úy Biệt Động Quân được người ta xầm xì bàn tán. Cha cô nổi trận lôi đình chống đối quyết liệt, lên án con gái ăn phải bơ thừa sữa cặn của đế quốc, bị tay sai “Mỹ Ngụy” đầu độc quyến rũ, chống phá “cách mạng” và đòi đưa cô đi tù.

Ngọc không còn đi dạy, năm 1976 cô bỏ nhà đi tu trong một ngôi chùa ở Đà Lạt. Chuyện cô vào chùa cũng làm ông giận dữ trong một thời gian dài. Sau đó nghe nói chuyện gia đình cũng không vui vẻ gì vì ông đã có vợ con ngoài Bắc trước khi hồi kết.

Tôi hỏi: “Vậy ông có hối hận gì không?”. Hiệp nhìn tôi cười chua chát: “Không lẽ tao kêu một tên Việt Cộng bằng cha?

Nhìn Hiệp xoay trở trên cái đòn ghế cặm cụi cào vá, đục gõ, hai bàn tay đen thui dầu nhớt, mồ hôi ròng ròng lòng tôi dâng lên nỗi buồn, dù bản thân tôi cũng đang làm một thằng cu ly hạng bét, tôi nói cảm nghĩ đó ra, nó cười: “Mày nhớ câu thơ của Lý Bạch không?… “Xứ thế nhược đại mộng!… cuộc đời là một giấc mộng lớn mà”.

Từ khi gặp lại cùng chung tâm trạng nên hai đứa tôi càng thương quý nhau, những suy nghĩ vui buồn đều san sẻ. Mỗi khi ghé lại tôi bơm hơi thử ruột, cào vá cho khách, làm những việc gì có thể, trong khi nó loay hoay siết vặn đục gõ. Vài ba hôm Hiệp lôi xe tôi vào tu sửa, vặn ốc, bỏ mỡ nhỏ dầu rồi nói: “Mày đi xa chở nặng xe mau hư, tiền lời không đủ sửa đâu!”, Hiệp góp ý nên tìm việc khác.

Công việc chở đậu của tôi cũng thưa dần vì đuối sức. Thật ra tôi đã nản ngay từ đầu vì đường xa mà lời thì ít quá, lại thêm chân cẳng rã rời. Rồi chuyện xui xảy đến làm tôi chán và bỏ cuộc:

“Một hôm, sau khi bán đậu xong tôi nghĩ lâu nay mình trung thành một chỗ biết đâu họ ém giá? Tìm thêm nơi khác xem sao? Quả đúng vậy cách ba căn người ta chịu mua hơn mỗi ký hai hào (lâu quá nhớ không chính xác) nghe vậy tôi rất mừng và tự trách mình “ngu” nên lâu nay bị thiệt, vì với tôi lúc đó một hào bạc cũng rất quý. Hôm sau ghé lại tôi khoe, Hiệp mừng còn trách: “mày là thằng khờ” lại còn biểu tôi hôm nay phải đi tìm thêm biết đâu có nơi giá cao hơn nữa.

Tôi về đến cầu Balicao 8 giờ tối đi thẳng đến địa điểm mới, năm thằng choai choai ùa vào, nó kéo tôi tận sau nhà miệng tía lia: “Nhanh lên, nhanh lên quản lý thị trường kìa”. Đèn điện lờ mờ, năm thằng mỗi đứa một bao giấy tranh nhau xúc, linh tính tôi thấy không bình thường, quả đúng vậy cân lên 5 bịch chỉ còn 45 ký, đương nhiên là tôi không đồng ý, và khẳng định bao đậu 50 ký chưa bao giờ thiếu. Lập tức tôi bị một thằng giật cổ áo, thằng dí tay vào mặt chửi lời tục tĩu: “ĐM mày nói tụi tao lấy hả? ĐM tao dzớt thấy con đĩ mẹ mày……” Cả bọn ào tới đòi đánh, biết gặp bọn bất lương tôi điếng người sợ toát mồ hôi, khi đổ lại vào bao, lưng xuống một đoạn xa không đầy như ban đầu, nhưng tôi không dám nói, lo đẩy đi càng nhanh càng tốt. Tôi quay lại chỗ cũ, ông chủ vựa hỏi sao chỉ 45 kg? Tôi nói do vựa hết đậu.

Mất 5 kg đậu coi như tôi đi cả tháng không có đồng nào! Buồn quá nghỉ vài hôm, tôi đạp xe ra kể chuyện với Hiệp. Nó tiếc nhưng không nhịn được cười còn chê tôi “khờ”. Hôm đó ở lại phụ Hiệp và cho biết ý định ngày mai tôi đi Long Thành tìm người quen, nếu ở được sẽ thay đổi.

Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa tôi quyết định ra Long Thành làm rẫy. Nơi tôi đến là trong rừng sâu cách xa đường lộ 15 cây số. Trước hôm rời Sài Gòn tôi đạp xe ra chơi với Hiệp một ngày. Nó buồn lắm, gần trưa Hiệp lên xe lăn đi một lúc trở về với một bịch nhỏ thịt gà và một xị rượu đế. Mọi hôm cơm trưa chỉ mắm làm chuẩn hôm nay bày đặc, tôi phàn nàn: “Ông làm gì vậy?”. Nó buồn buồn “Mày đi ra Long Thành tới chỗ xa xôi heo hút như vậy biết bao giờ gặp lại, xem như bữa cơm chia tay”. Có cái gì chận nghẹn nơi cổ, tôi quay mặt ra đường nước mắt trào ra.

Hai đứa tôi uống chung bằng cái ca nhựa, tôi uống ít nhưng cũng đủ lâng lâng bồng bềnh. Có hơi men cảm xúc tự do tuôn trào đứa nào cũng ràn rụa nước mắt. Tôi và Hiệp vừa bạn học, tình chiến hữu còn gặp nhau ở lý tưởng, và có cùng hoài bảo giống nhau, nhưng chúng tôi đã không phùng thời. Rồi thời thế đẩy đến đường cùng, đứa nào cũng te tua bị nhận chìm xuống tận đáy vực của lớp người cùng khổ nên hiểu và thương quý nhau.

Giọng Hiệp lè nhè: “Thà đừng gặp lại mày, cứ để tao cô độc như lâu nay. Tao sống như đã chết từ lâu rồi… Từ ngày có mày tao vui, mày đi rồi biết nói chuyện với ai?” rồi Hiệp khóc tôi cũng nghẹn ngào.

Lúc chia tay Hiệp nhắc lại: “Chân cẳng tao vầy không đi thăm mày được đâu, cố gắng lên thăm tao”. Hai đứa nắm tay nhau bịn rịn.

Tôi đạp xe một đoạn, ngoảnh lại thấy Hiệp ngồi trên xe lăn đang leo lên lề đường nhìn theo. Tôi nhấn mạnh bàn đạp mà nước mắt quanh tròng, nghe thương Hiệp nhiều quá!

Sáng hôm sau trên chiếc xe than đi Long Thành khi chạy ngang qua chỗ Hiệp, tôi đưa cánh tay ra vẫy nhưng Hiệp đang cặm cụi làm.

Tôi loay hoay cuộc sống mới trong xó rừng ở Long Thành, phương tiện liên lạc khó khăn. Nhà của Tâm trong làng Đại Học nơi mỗi đêm Hiệp về tá túc thì hẻo lánh không có địa chỉ nên cũng không thư từ.

Hơn một năm sau có việc đi Sài Gòn tôi ghé lại thăm, Hiệp mừng quá. Vẫn qua ngày bằng nghề sửa xe, vẫn nỗi khắc khoải ngày nào! Hiệp cho biết một số bạn bè ra tù đã tìm đến thăm, gặp lại bạn cũ cũng bớt buồn. Thằng nào cũng xác xơ đói rách, người đạp xích lô, kẻ chạy ba gác. Hiệp báo một tin quan trọng: “Thằng bạn thân cùng khóa Võ Bị Đà Lạt vừa ra tù tổ chức vượt biên giúp tao, dự trù sẽ đi vào cuối năm… thôi thì một liều ba bảy cũng liều… còn gì để mất? Nếu may còn sống tao sẽ tiếp tục đi học, không may bỏ mình trên biển thì cứ xem như một lần ra trận… mà mình cũng đã chết từ lâu rồi!”. Hiệp tiếp: “Mày yên trí tao sẽ không chọn ở Mỹ đâu!”. (hai đứa tôi cùng lập trường không ưa Mỹ). Tôi mừng và cầu mong chuyến đi thành công để Hiệp thoát thảm cảnh hiện tại.

Tôi tiếp tục cuộc sống trong rẫy Long Thành một thời gian, rồi chuyển đi Phước Tuy, lại thay đổi chỗ ở liên miên. Tháng 6 năm 1983 tôi lên thăm Hiệp thấy không còn căn lều, nền đất cỏ mọc um tùm. Tôi vào nhà Tâm nơi Hiệp tá túc hỏi thăm. Tâm buồn bã báo tin: “Anh Hiệp vượt biên nhưng đã chết trên biển rồi anh”. Tôi rụng rời kêu lên: “Trời!”

Tâm nói: “Ghe xuất bến ở Lam Sơn hôm 10 tháng giêng, chính em đưa “ảnh” đến nơi. Ghe đi được năm ngày thì chết máy, trôi trên biển nửa tháng, bị hải tặc cướp mấy lần, sau cùng ghe bị đâm chìm tất cả đàn ông đều chết, đàn bà con gái bị bắt đi, hãm hiếp rồi nhốt trên đảo hoang, sau được Cao Ủy Tị Nạn cứu. Em có bốn người bà con đi cùng chuyến nhưng chỉ còn sống một người nữ”. Ngưng một lát Tâm tiếp: “Anh Đại úy bạn giúp cho anh Hiệp cũng chết, chị vợ bị hải tặc bắt, hai anh chị mới lấy nhau có một tháng, vào trại tị nạn chị ấy bị điên… Tội quá anh à! Tự do chưa thấy mà tan nát cả.

Nhìn thùng đồ nghề quen thuộc của Hiệp trong góc nhà tim tôi se thắt, đồ đạc còn đây mà người thì không còn nữa. Hiệp hiện lên, tôi úp mặt vào lòng bàn tay gục xuống bàn, không kềm được tiếng khóc: “Hiệp ơi!”

Tôi thất thểu ra về như kẻ mất hồn, cảnh vật chung quanh nhạt nhòa. Đứng trước nơi hai đứa đã ngồi sửa xe, bây giờ chỉ còn mình tôi mà Hiệp thì đang vất vưởng nơi nào? Linh hồn anh đã về với quê mẹ hay còn vật vờ ngoài đại dương nơi trùng trùng sóng gió? Hay anh đã bay về gặp lại bạn bè đồng đội nơi chiến trường xưa?: Tân Cảnh, Dakto, Benhet, Kiến Đức, Pleime…. những địa danh mà đồng đội anh đã chọn làm nơi an nghỉ cuối cùng. Họ nằm xuống để mong ngày quê hương thanh bình và hồi sinh.

Tôi ngồi viết những dòng này đã 32 năm từ ngày Hiệp ra đi và 40 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Cho dù cuộc chiến đã đi qua, và cũng đang dần chìm vào quên lãng theo dòng chảy của thời gian. Nhưng đối với những người lính như chúng tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ phần đất tự do. Đã vào sinh ra tử trên các chiến trường, thì đó là một vết thương khó chữa lành, sẽ mãi mãi âm ỉ một niềm đau không nguôi. Biết bao đồng đội bạn bè đã ra đi vĩnh viễn, nằm lại chiến trường! Biết bao người tàn phế đang sống cuộc đời còn lại trong tận cùng đau thương, khốn cùng và tủi nhục!

Cái quy luật chiến tranh đã vạch nên biên giới “kẻ thắng” và “người bại”, nên những đứa con bất hạnh của Mẹ Việt Nam đã nhận chịu tất cả những đắng cay phũ phàng, nhận chịu cái vô tình và tàn nhẫn, bạc bẽo như dòng nước lũ cuốn phăng ra biển những huyền thoại về người lính mang tên Việt Nam Cộng Hòa. Trong đó có người bạn đáng thương của tôi: Trần Quang Hiệp.

Hiệp ơi! Bài viết này là một nén nhang lòng gởi đến anh, người bạn của tôi, một tài năng hiếm có, mà một thời biết bao anh em từng cúi đầu ngưỡng mộ. Anh đã gắn đời mình vào binh nghiệp và chấp nhận những thiệt thòi đau thương khi tuổi đời còn rất trẻ như tất cả bạn bè thế hệ chúng ta. Tôi chúc anh được yên nghỉ dù rằng yên nghỉ trong cay đắng muộn phiền. Cầu xin linh hồn anh được trở về trên đất mẹ nơi đó có bạn bè chiến hữu, có mồ mả anh em những người đã cùng anh một thời đem xương máu mình tô thắm cho tự do của quê hương.

Gần nửa thế kỷ đi qua, mỗi lần ngang qua chốn cũ, nhìn lại nơi bọn mình ngồi sửa xe, dù dấu tích không còn, nhưng lòng tôi vẫn quặn thắt một nỗi đau khi nghĩ đến anh, nước mắt tôi doanh tròng, buồn… và nhớ nhiều lắm Hiệp ơi…!!!

Lưu Hoàng Kỳ

User avatar
phodem
Posts: 229
Joined: Sat Feb 26, 2011 4:00 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by phodem »

Viết về người lính VNCH bất hạnh
Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250,000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.

Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremberg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật... Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.

Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50,000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời Tử sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của kiếp lính Miền Nam.

Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố, kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội... cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Adams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.

Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.

Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddie lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’m so, so, so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐND, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).

Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng ‘rằng’ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.

Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọc, phá hoại những người đang liều mạng xả thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da sáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước cộng sản, trong đó có CSVN.

Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, giun đất, cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:

“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn”.

(thơ mường giang).

Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô nhi Tử sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày thê thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát, Trường Ðại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:

“... xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng...”

(Chinh Phụ Ngâm: Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

“... tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy

chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô”

(thơ Mường Giang)

Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mường Giang

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by bichphuong »

Image

Phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ

Bà Phan Thị Minh Yến Là Ai?

Từ một nữ sinh trường đầm kiêu sa, thành bà Tướng đầy uy quyền, rồi thế thời đổi thay thành thợ hớt tóc 30 năm dài để nuôi 4 người con nên người mang tên Quang, Minh, Chính, Đại, đặt tên theo tâm niệm của người chồng chiến binh một đời anh dũng.
Đó là Bà Phan Thị Minh Yến, phu nhân Tướng Lê Nguyên Vỹ, vị tướng tư lệnh cuối cùng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực VNCH, một trong 5 vị tướng Miền Nam đã tuẫn tiết để nêu cao khí phách anh dũng và để gìn giữ danh dự của một quân đội vừa mới thua trận trong biến cố 30/4/1975.
Vào năm 1954, cô Phan Thị Minh Yến còn rất nhỏ, nhà ở Cầu Đất, Hải Phòng theo cha mẹ di cư vào Nam. Cô gái Bắc Kỳ nho nhỏ được gia đình cho học chương trình Pháp tại Sài Gòn và đã có câu chuyện tình từ năm 17 tuổi. Khi được 19 xuân xanh thì chính thức lập gia đình với một anh Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lúc đó là mùa Xuân năm 1964. Chàng hơn nàng 10 tuổi. Nhưng trước sau cô Yến chỉ có một mối tình từ khi biết yêu cho đến lúc thành hôn. Tiếp theo là 10 năm làm vợ lính thời chinh chiến. Rồi bắt đầu làm mẹ. Những đứa con lần lượt ra đời. Các cháu Quang, Minh, Chính, Đại. Ba đứa con trai đầu lòng đặt tên với niềm tự hào của người cha cương trực sống trong một hoàn cảnh đất nước nghiêng ngã. Nhưng cô Út bé bỏng, xinh đẹp chỉ được gọi là em Đại ở trong gia đình. Khi ở ngoài lớp học thì đây là cô nhỏ Tường Vi của bà mẹ Hải Phòng.
Suốt thời gian thơ ấu, người cha đi chinh chiến đêm ngày. Các con phần lớn sống gần gũi và trông cậy vào mẹ. Tuy nhiên, hình ảnh người cha quân đội vẫn là chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ cho cả mẹ con.
Tháng 4 năm 1975, bà mẹ 29 tuổi dẫn 4 con từ 6 tuổi đến 10 tuổi di tản qua Hoa Kỳ. Người chồng đang chỉ huy đại đơn vị đang chống giặc nên không có cơ hội tiễn chân vợ con. Lần chia tay sau cùng mà vợ chồng không biết là lần vĩnh biệt. Anh đã ra đi vào miền vĩnh cửu khi quân đội tan hàng. Không một mảnh khăn tang. Không một giọt nước mắt. Vợ con cũng không hề biết tin về cái chết của người thân yêu. Năm đó chưa 30 tuổi, cô Phan Thị Minh Yến trở thành góa phụ ở vậy nuôi con cho đến năm nay, 2008, vừa đúng 33 năm.
Qua Hoa Kỳ, một mẹ và 4 con nhỏ, Minh Yến bắt đầu bằng nghề cắt tóc. Cố gắng tự lập nuôi con. Vừa làm mẹ, vừa làm cha. Từ nữ sinh trường đầm ở Sài Gòn, trở thành vợ lính sống cảnh gia binh, rồi trở thành góa phụ.
Sau bằng ấy năm trời, các con đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học, có cháu nội cháu ngoại. Hỏi rằng bây giờ chị làm gì? Còn làm gì nữa. Trước sau cũng chỉ làm một việc cắt tóc chải đầu.
Nhưng nghề chính là vừa làm cha vừa làm mẹ.
Làm mẹ thì cũng dễ vì đã làm mẹ từ Việt Nam. Nhưng làm cha cho những đứa con trai ở Hoa Kỳ mới thật khó. Tất cả đều phải quyết định một mình. Không bàn với ai được. Ba đứa con trai ở tuổi niên thiếu tại miền đất lạ. Biết bao nhiêu là khó khăn. Chuyện học hành, chuyện sinh sống, chuyện yêu đương của các cháu rồi đến chuyện hôn nhân. Cái gì cũng là chuyện của các con.
Khi được hỏi rằng thế chị làm ở tiệm tóc thì làm chủ hay làm thợ. Được trả lời rằng trước sau chỉ làm công mà thôi. Đã bảo rằng nghề chính là làm mẹ, nếu bôn ba mở tiệm, e rằng không có đủ thì giờ trông nom lũ nhỏ.
Hỏi rằng đi làm như vậy có gặp những điều gì khó chịu không. Trả lời rằng lúc đầu cũng thấy tủi thân lắm. Nhưng rồi thì cũng phải nhịn nhục cho quen đi. Vả lại, ở đây cũng không ai biết hoàn cảnh mình ra sao nên cứ việc mình, mình làm. Cũng thi lái xe, cũng lấy bằng, cũng tìm đường đi học nghề, đi làm và nuôi con. Vâng, việc chính là nuôi con.
Chị có buồn giận về chuyện anh nhà đã không đi được vào năm 1975 hay không? Trả lời rằng thì anh nghĩ coi, ai mà chả muốn có vợ có chồng. Các con muốn có đủ cha mẹ. Nhưng phần số đã như vậy thì mẹ con phải sống sao cho phải đạo với sự hy sinh của ông nhà tôi. Ông ấy mà còn thì cũng chỉ muốn cho các con của chúng tôi được học hành tốt nghiệp đại học, rồi dựng vợ gả chồng cho các cháu như bây giờ gia đình tôi đã được như vậy.
Ngoài việc hãnh diện về chuyện con cái, bà mẹ gốc Hải Phòng còn kể thêm với niềm hào hứng đặc biệt. Đó là mối liên hệ với mẹ chồng.
Số là ngay sau khi di tản qua Hoa Kỳ, gia đình được tin chồng chết nên đã tìm cách báo về Bắc cho bà mẹ già biết tin. Tội nghiệp chưa. Ông nhà tôi, lời chị Yến, cũng di cư vào Nam từ 54, mẹ con xa nhau 21 năm không liên lạc. Bây giờ bà cụ mới biết tin con dâu và các cháu ở Mỹ thì đồng thời cũng biết tin con trai đã qua đời.
Những năm đầu ở Hoa Kỳ cũng rất chật vật nên không tiếp tế được nhiều. Những năm sau này bắt đầu gửi tiền về miền Bắc cho bà cụ. Chính tôi là con dâu mà chưa hề biết mặt mẹ chồng. Đến khi liên lạc được thì chồng đã chết. Gia đình tôi và các cháu tiếp tục liên lạc về Bắc. Mấy năm gần đây cụ vào Nam gặp các bà chị tôi rồi thu xếp cải táng đưa di hài nhà tôi về Bắc. Xong công việc quan trọng, cụ mới qua đời mấy năm gần đây.
•••••
Vâng, thưa quý vị, tôi vừa kể hầu quý vị một câu chuyện của bà mẹ Việt Nam trong nghĩa vụ thay chồng làm cha thời hậu chiến kéo dài hơn 30 năm tại Hoa Kỳ. Một người thiếu nữ 10 năm làm vợ nhưng đã có đến 30 năm vừa làm cha, làm mẹ, và làm dâu hàm thụ qua thư tín.
Cũng suốt 33 năm tại Hoa Kỳ, với vốn liếng Pháp văn và Anh ngữ của trường Đầm Sài Gòn, trước sau bà cũng vẫn chỉ là cô Yến làm tóc tại Hoa Kỳ. Bởi vì, người phụ nữ Việt Nam đơn giản này đã có một nghề cao quý vô cùng mà bà phải hết lòng theo đuổi. Đó là nghề làm mẹ. Do đó Ngày Của Mẹ hàng năm sẽ là ngày đặc biệt đối với những đứa con của bà.
Và mỗi năm, ngày tang 30 tháng 4 cũng là ngày giỗ bố của đám nhỏ. Bà mẹ Việt Nam tổ chức giỗ chồng bằng âm lịch những vẫn dặn con vào ngày cuối tháng 4, dù ở đâu cũng phải dành cho bố những giây phút tưởng niệm.
Bởi vì thân phụ của các cháu đã chết đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tên ông là Lê Nguyên Vỹ, người Sơn Tây, Bắc Việt, chết tại Lai Khê miền Đông Nam Phần.
Ngày nay, tại ngôi đình làng cũ tỉnh Sơn Tây có thờ bài vị của tướng công Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Binh Đoàn Số 5 của quân đội Sài Gòn. Ông đã tự sát vào ngày đất nước “thống nhất và hòa bình”.
Đó là cách ghi nhận của người đồng hương Sơn Tây với một chút tự hào. Và hình ảnh của ông vẫn trong lòng các con Lê Nguyên Quang, Lê Nguyên Minh, Lê Nguyên Chính và con gái út Lê Nguyên Đại Tường Vi tại miền Virginia Hoa Kỳ.
Đối với lũ trẻ Quang Minh Chính Đại, ba trăm sáu mươi lăm ngày, ngày nào cũng là Ngày Của Mẹ.

Kim Anh

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by muanuadem »

Chuyến xe tháng 5
Vương Mộng Long

Lời giới thiệu:

Tháng 5 năm 1975 chiến tranh đã hoàn toàn chấm dứt. Trên toàn cõi Việt-Nam không còn nghe bom nổ, không còn thấy đạn bay. Nhưng giữa tháng 5 năm 1975 cũng có những cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa đã bị đem đi mất biệt, mãi mãi không về…Bảo Huân
Kỳ 1: - Ðời tôi đã có một tháng 5 tràn đầy hạnh phúc, đó là tháng 5 năm 1969. Vào một ngày đẹp trời giữa tháng 5 này, ở Ban Mê Thuột, tôi đã gặp được người trong mộng ước của mình. Người con gái tôi gặp ngày đó đã thành người tôi yêu suốt đời. Người đó đã trở thành mẹ của 4 đứa con tôi, đã thành bà của 5 đứa cháu tôi. Hơn thế nữa, người đó, với tôi còn là một người vợ chung thủy, đồng thời là một người bạn tri kỷ không ai thay thế được.

Tóm lại, từ lâu lắm rồi, tháng 5, với tôi đã trở thành 1 tháng thần tiên, trừ ra 1 tháng 5 thật là đáng ghét, nhưng tôi cũng không thể nào quên nó được, đó là tháng 5 năm 1975.



Tôi đã sống qua những ngày đau thương của cái tháng 5 năm ấy, đã bị giằng co bởi những quyết định sống còn của cuộc đời mình, đã xuôi tay chấp nhận cái chết, và đã chứng kiến những cảnh chia ly não lòng.
Tháng 5 năm 1975 trên toàn cõi Việt Nam không còn tiếng súng giao tranh, nhưng có những người đi không thấy về.
Sáng 1 tháng 5 năm 1975 tôi lang thang trong vùng Ngã Bảy Chợ Lớn, trên đường tìm về nhà mẹ tôi.
Ngày hôm trước đơn vị của tôi đã bị đánh tan. Ðêm qua, sau khi trốn thoát một cuộc truy sát của kẻ thù, tôi vào tá túc trong nhà một người quen nằm trên đường An Bình, Chợ Lớn.
Tới trưa 1 tháng 5 tôi mới về tới nhà. Vậy mà chỉ vài giờ sau đã có lệnh kêu tôi sáng mai phải có mặt ở văn phòng liên gia trưởng khu phố để khai báo lý lịch.
Sáng 2 tháng 5 năm 1975, tôi rời nhà ra chợ tìm tới văn phòng liên gia trưởng. Văn phòng liên gia là 1 căn nhà nhỏ vách phên, lợp tranh, nằm sát bên 1 hiệu tạp hóa lớn của người Hoa.
Lúc tôi tới văn phòng thì đã có vài vị cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hiện diện ở đây rồi. Những vị này là người cư trú trong liên gia này. Họ và ông liên gia trưởng có vẻ không lạ lẫm gì nhau.
Hình như chỉ có mình tôi là người xứ khác, không phải là dân Sài Gòn. Vì đơn vị tôi bị tan hàng, nên tôi mới phải chạy về tá túc ở đây.
Nghe các ông sĩ quan nói chuyện, tôi được biết ông đứng ghi danh trước tôi là một trung úy An Ninh Quân Ðội, nhà ông này ở ngay đầu hẻm và cách nhà mẹ tôi chừng 5, 6 căn. Bên cạnh tôi là ông đại úy Không Quân ở cách nhà tôi 3 căn. Sau lưng tôi là ông chủ tiệm gạo bên kia đường, ông này là đại úy sĩ quan Công Binh.

Ông liên gia trưởng khu phố TK9 phường Nguyễn Cảnh Chân mà mẹ tôi cư trú là bác Thọ. Nhà của bác Thọ cách nhà mẹ tôi 1 con hẻm nhỏ.
Vì là hàng xóm, hôm qua bác Thọ đã chứng kiến cảnh mẹ tôi khóc sướt mướt khi tôi bước vào nhà, nên vừa nhìn thấy mặt tôi, bác đã niềm nở:
– Bác có nghe má cháu nói cháu đi lính ngoài Miền Trung. Chắc cháu mới chạy về phải không? Cháu mau xưng tên họ để bác ghi vào sổ. Cháu là lính Ðịa Phương Quân phải không? Cháu là trung sĩ chứ gì? Cháu chỉ cần khai vắn tắt thôi! Quan trọng nhất là cái địa chỉ tạm trú phải khai cho đúng! Nếu Cách Mạng có lệnh gì thì bác cứ theo địa chỉ mà thông báo cho cháu.
– Thưa bác, bác ghi tên cháu là Vương Mộng Long, nhưng cháu không phải là trung sĩ…
Tôi nói chưa hết câu, “cháu không phải là trung sĩ mà là thiếu tá…” thì bác Thọ đã lớn tiếng phán một cách chắc chắn như đinh đóng cột:
– Cháu và thằng con bà hàng xóm nhà cháu ngang tuổi, ngang lớp với nhau, nó khai là trung sĩ thì cháu cũng là trung sĩ thôi, không thể khai là binh nhất hay binh nhì được đâu! Tội khai gian là nặng lắm đó!
2 ông sĩ quan đứng bên tôi cũng gục đầu khuyên:
– Trung sĩ thì cứ khai là trung sĩ, có gì đâu mà phải sợ? Khai man hay giấu giếm cách gì thì người ta cũng phát giác ra thôi!
Bác Thọ hất hàm ra lệnh cho anh thư ký:
– Số thứ tự 25 là Vương Mộng Long, cấp bậc trung sĩ Ðịa Phương Quân, địa chỉ TK9…
Tôi chưa kịp phản đối thì bác Thọ gọi người tiếp theo, đó là ông chủ tiệm gạo. Ông sĩ quan Công Binh này là một người cao to như một vị hộ pháp. Ông ta vừa bước lên là tôi bị văng sang bên ngay.
Trong lúc ông đại úy khai tên và đơn vị thì tôi thấy nơi cuối hàng có một bàn tay ai đó giơ lên vẫy gọi mình,
– Long! Long ơi!
Tôi giơ tay vẫy lại:
– Chờ chút! Chờ chút!
Rồi tôi sấn tới trước bàn giấy, cầm tay bác Thọ:
– Cháu có việc phải đi ngay! Yêu cầu bác đính chính lại số thứ tự 25 Vương Mộng Long là thiếu tá Biệt Ðộng Quân, không phải trung sĩ Ðịa Phương Quân!
Ông liên gia trưởng ngớ người ra:
– Cháu không nói đùa đấy chứ! Xóm mình từ xưa tới giờ làm gì có ai là sĩ quan cấp tá!
Tôi nghiêm mặt:
– Cháu nói thật đấy!
Ông đại úy chủ tiệm gạo nheo mắt nhìn tôi rồi buột miệng:
– Ðù mạ! Giờ này mà còn hám danh! Khoa trương! Làm oai!
Chắc ông đại úy nghĩ tôi chỉ là 1 anh trung sĩ hám danh, khai man thành thiếu tá để lấy le nên ông ta lớn tiếng chửi thề cho bõ ghét.
Mấy vị sĩ quan đứng gần đó cũng cau mày, nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu và khinh bỉ.

Có lẽ vì thấy tôi có vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, lại ăn mặc không được chững chạc lắm, nên bà con cho rằng tôi chỉ là 1 hạ sĩ quan nhưng thích làm oai.
Chờ cho anh thư ký điều chỉnh xong lời khai báo của tôi, tôi chui ra khỏi đám đông để gặp người vừa vẫy tay gọi tên mình.
Thì ra đó là ông Thiếu tá Lương Ðình Chi, cựu Trưởng ty Cảnh Sát Bà Rịa, 1 người bạn vong niên của tôi. Nhà ông ta ở bên kia đường, ngay góc Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Biểu. Ông Chi vô tình ghé đây. Nhìn thấy tôi trong đám đông, nên ông ta giơ tay vẫy gọi. Ông ta cũng vừa tới văn phòng liên gia trưởng của ông để khai báo.
Ðâu ngờ, cái chuyện khai báo lý lịch xem ra thật đơn giản và không có gì đáng lo ngại, vậy mà nó che đậy một cái bẫy sập ghê gớm.
Chỉ với cái tên, cấp bậc và đơn vị mà chúng tôi khai với ông liên gia trưởng, đã đủ để những người Cộng Sản có thể phát hiện ra những kẻ thù mà chúng cần truy cứu. Chỉ ít bữa sau, một Thượng tá Trung đoàn trưởng của Sư Ðoàn 320A Cộng Sản đã tới gõ cửa nhà tôi để thăm tôi.
Tôi và ông ta đã từng có vài lần đối đầu qua những trận đánh đẫm máu năm 1974 ở Tây Nguyên.
Cũng từ cái chuyện khai báo lý lịch mà chưa tới 10 ngày kế đó, sáng 11 tháng 5 năm 1975, tôi đã trở thành một tù binh.
13 năm sau, trên cái giấy ra trại của tôi đã ghi rõ ràng rằng: Ðương sự bị bắt ngày 11 tháng 5 năm 1975.
Hôm đó, tôi bị gọi lên văn phòng liên gia trưởng. Bác Thọ nhìn tôi ái ngại:
– Phường Nguyễn Cảnh Chân vừa nhận được lệnh nội nhật ngày 11 tháng 5 năm 1975 phải áp giải tên Vương Mộng Long lên giao nộp cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh.
Văn phòng phường không có xe, nên bác Thọ ra lệnh cho anh thư ký của liên gia chở tôi đi bằng xe gắn máy.
Tới Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Ðô, nay là trụ sở Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh của Việt Cộng, tôi xuống xe rồi tự động đứng lẫn vào đám người đang tụ tập trước sân cờ.
Hôm đó, có khoảng vài trăm quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa bị tập trung về từ nhiều nơi quanh Sài Gòn. Họ được chở trên những quân xa đủ loại. Người xuống hết, xe chạy đi, nối đuôi nhau. Chỉ có mình tôi tới đây bằng xe hai bánh do người khác cho quá giang.

Trong số những người hiện diện trong sân, tôi thấy Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, Chuẩn tướng Lê Trung Tường và mấy vị tướng khác, cùng vài người quen của tôi như Trung tá Nguyễn Hiệp, Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước, Thiếu tá Hồ Văn Hòa, Thiếu tá Lương Ðình Chi và Trung sĩ Thông Dịch Viên người Hoa là Huỳnh Cẩm Lường.
Chúng tôi đứng trước sân chờ nghe cái loa treo trên cột cờ kêu tên mình để vào trình diện một trong số những căn phòng đánh số thứ tự A, B, C, D.. X, Y, Z... nằm ở tầng trệt của dãy nhà lầu phía sau.
Tôi được gọi tên để vào làm việc trong căn phòng nơi cửa có cái bảng carton cỡ 40X40 cm ghi chữ «Z» thật to bằng sơn đen, nằm ở đầu hồi. Phòng có cái bảng chữ «Z» là nơi tiếp quản của Quân Khu 5 Cộng Sản. Quân Khu 5 Cộng Sản bao gồm lãnh thổ các tỉnh từ Quảng Trị tới Phú Yên. (Chữ Z= phát âm là Zét)
Văn phòng này do 4 cán binh Việt Cộng phụ trách. 4 tên cán binh này mặc quân phục xanh, không đeo phù hiệu hay quân hàm, và cũng không vũ trang.
Có khoảng trên dưới 20 người được gọi vào phòng Z. Mỗi người được phát một tờ giấy in roneo gọi là bản tự khai, chỉ có mấy dòng:
1) Họ tên
2) Cấp bậc, chức vụ
3) Ðơn vị và nơi đồn trú.
4) Thời gian phục vụ ở địa bàn Quân Khu 5 từ năm nào tới năm nào?
5) Ðịa chỉ cư trú và liên lạc hiện nay
Dưới đó là ngày tháng và ký tên.
Công việc ghi chép những câu trả lời 5 mục nêu trên và ký tên diễn ra không tới 1 giờ.
Tiếp theo là giai đoạn khẩu vấn, công việc này cũng chỉ nhằm mục đích xác nhận xem chúng tôi có đúng là người mà Quân Khu 5 cần tiếp quản hay không.
Từng người trong chúng tôi phải lần lượt đối diện với 4 thẩm vấn viên để trả lời những câu hỏi liên quan tới từng đề tài khác nhau như quê quán, tôn giáo và gia cảnh.
Kết thúc buổi thẩm vấn, tên cán bộ trưởng toán xoa tay cười khẩy, rồi đẩy mấy tờ giấy ghi lời khai của tôi ra trước mặt tôi:
– Ðược rồi! Anh đọc lại đi! Có gì cần sửa thì trình cho tôi. Tôi có cho phép anh thì anh mới được sửa. Nghe rõ chưa?
Tôi liếc qua những dòng chữ đã ghi trên bản tự khai rồi lắc đầu:
– Tôi không muốn sửa chữa điều gì cả.
Nghe vậy, tên Việt Cộng vội xếp tờ giấy tự khai của tôi vào cái bìa cứng rồi đưa tay ra cho tôi bắt:
– Anh có thể đi về, nhớ đúng 8 giờ sáng mai lại vào đây trình diện!
Ra khỏi phòng, tôi đi một vòng quanh trại để tìm người quen, thì được tin Trung tá Nguyễn Hiệp, Thiếu tá Hồ Văn Hòa, Thiếu tá Lương Ðình Chi, đã bị còng tay chở đi rồi.
Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước và ông Thông Dịch Viên người Hoa là Huỳnh Cẩm Lường còn ở trong phòng nào đó chưa ra.
Sáng 12 tháng 5 tôi leo lên Honda chạy một lèo tới Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh.
Gửi xe xong, tôi bước vào trại để tới phòng Z; đã có nhiều quân nhân khác nhanh chân hơn tôi; họ có mặt trong sân doanh trại từ sáng sớm.

Vào phòng, tôi mới hay, sau buổi thanh lọc ngày hôm qua đã có nhiều người được trả tự do vì lời khai của họ không phù hợp những chi tiết mà Quân Khu 5 đã nêu ra.
Hôm nay, trong phòng Z chỉ còn lại đúng 7 người.
Chúng tôi không phải khai báo gì hơn, chỉ ngồi tán gẫu với nhau thôi.
Những cán binh phụ trách công việc tiếp quản chúng tôi cũng vui vẻ nói chuyện với chúng tôi không chút ngại ngùng. Qua vài câu trao đổi, chuyện trò, tôi được biết, 2 trong số 4 cán bộ Cộng Sản này là người Thanh Hóa, 1 là dân Hà Nam Ninh, 1 là dân Hải Hưng (tỉnh Hải Hưng là tên do 2 tỉnh sáp nhập Hải Dương và Hưng Yên). Biết tôi là dân Hải Dương nên người bộ đội Cộng Sản quê Hải Hưng hay nhìn tôi với vẻ mặt nửa lưu luyến, nửa ái ngại và khó hiểu.
Buổi trưa chúng tôi được phép túa ra đường kiếm cơm cháo, mì, phở, 1 giờ sau sẽ quay trở lại.
Bên kia đường là một dãy quán hàng bán đồ ăn.Thấy 1 ông từ phòng Z dẫn theo vài ông khác chui vào một cái lều bên đường, tôi cũng chui vào theo.
Trong lều là 1 gánh cháo lòng do 1 bà tuổi trung niên làm chủ.Chúng tôi theo nhau, 7 người, ngồi trên 2 cái ghế dài của học trò.
Chỉ qua mấy phút tâm sự, tôi đã biết lý lịch của 6 ông bạn mới. 6 ông này gồm có 1 Thiếu úy Trung đội trưởng Thám Báo Tỉnh, 1 thẩm vấn viên của Trung Tâm Thẩm Vấn Quân Ðoàn II, 2 ông sĩquan Ban 2 Chi Khu,1 Trưởng Lưới Mật Báo Viên và 1 nhân viên phản gián của Ủy Ban Phượng Hoàng.
Ông chồng bà bán quán là Trung sĩ Trưởng Lưới Mật Báo Viên của Tiểu Khu Bình Ðịnh tên là Huỳnh Thanh Bền. Ông Trung sĩ Bền là 1 hạ sĩ quan Ðồng Hóa.
Từ ngày thứ 3, tôi không còn phải tốn tiền gửi xe Honda, tôi khóa xe, rồi để xe ngay vách quán của bà vợ ông Bền.
Trung sĩ Bền lớn hơn tôi 10 tuổi, vợ ông cũng lớn hơn tôi 7 tuổi. Anh chị Bền có 3 đứa con, cháu lớn là con gái 19 tuổi, đang học Sư Phạm, 2 đứa kế tuổi 15 và 13 đang học trung học.
Nhà anh chị Bền ở gần Quân Lao Gò Vấp.
Anh chị Bền là người Nam chính gốc, còn tôi lại là dân Bắc (Di Cư) chính gốc; vậy mà chỉ qua vài ngày sơ giao chúng tôi đã thấy thân thiết nhau.
Vợ chồng Trung sĩ Bền coi tôi như em, 3 đứa con của anh chị Bền thì gọi tôi là “Chú Long”.
Ngoài tên ông Bền ra, tới nay tôi chỉ còn nhớ, ông Thiếu úy Thám Báo tên là Bổn, 1 ông sĩ quan Ban 2 chi khu tên Nghĩa, ông phản gián tên Phụng; tên của 2 người còn lại thì tôi quên mất rồi.
Những ngày sau đó cũng có vài người tới trình diện phòng Z, nhưng chỉ qua vài chục phút tiếp xúc thẩm vấn là họ được cho về. Quân số phòng Z hầu như cố định 7 người. Chúng tôi cứ 8 giờ sáng có mặt, cùng nhau tán gẫu, 6 giờ chiều lại chia tay, sau khi nghe một 1 hồi kẻng báo giờ phát đi từ giữa sân cờ.
Hàng ngày, nhân dịp đi loanh quanh trong sân, tôi được biết những phòng đánh số khác cũng là chỗ quy tụ những quân nhân đặc biệt được gọi về chờ các cơ quan quân sự địa phương tới tiếp nhận.

Sau vài bữa, đã có nhiều bảng 40X40 cm được tháo gỡ, chỉ còn lác đác vài phòng là còn người đi vào, đi ra. Chắc những người bị gọi tập trung thanh lọc trong những phòng bỏ trống đó đã được các cơ quan quân sự địa phương đem đi hết rồi.
Một hôm tôi đang trên đường từ nhà vệ sinh công cộng trở về phòng Z thì thấy tên cán binh người Hải Hưng đang đứng chờ tôi dưới một gốc phượng đầy xác hoa.
Y ngoắc tay ra dấu cho tôi đi ra đằng sau dãy nhà ngang. Mắt y đảo quanh một cái thật nhanh rồi nhỏ giọng, vừa đủ cho tôi nghe:
– Anh Long à! Nếu anh mà bị đưa về Quân Khu 5 thì khó toàn mạng đó! Có trốn được thì trốn đi! Cố gắng kín miệng, đừng cho ai biết tôi đã nói với anh điều này!
Tôi chưa mở miệng nói được tiếng nào thì y đã hấp tấp phẩy tay đuổi tôi đi.
Suốt ngày hôm đó tôi cứ băn khoăn suy nghĩ. Cứ theo lời tên cán binh này thì chắc chắn tôi nằm trong số những nhân vật đặc biệt mà Quân Khu 5 Cộng Sản nhắm vào.
Chắc chắn tình trạng của tôi và những anh bạn cùng phòng sẽ lành ít dữ nhiều trong những ngày sắp tới.
Tối đó, về tới nhà, nhìn thấy 3 đứa con nheo nhóc, đứa lớn nhất mới 3 tuổi rưỡi, đứa thứ nhì 2 tuổi rưỡi, đứa thứ 3 vừa chập chững biết đi, vợ tôi lại đang mang bầu sắp tới ngày sinh, tôi không dám nghĩ tới chuyện bỏ vợ con mà đi trốn.
Ngày Ban MêThuột thất thủ tôi những tưởng vợ chồng tôi sẽ chẳng còn gặp lại nhau. Trong những ngày khói lửa ở Ban MêThuột, một quả bom từ máy bay thả xuống giữa phố, đứa con gái lớn của tôi đã bị một mảnh bom ghim vào cánh tay. Hơn 2 tháng nay vết thương trên tay con tôi còn đau,mảnh bom còn nằm trong cánh tay nó. Nay mẹ tôi vừa đón được vợ tôi và 3 đứa bé về Sài Gòn chưa được mấy ngày, tôi đã bị cấm túc.
Suy đi, tính lại, dù gì thì hiện giờ đêm đêm tôi vẫn nhìn thấy vợ thấy con, còn hạnh phúc.
Thôi đành kệ! Ai sao mình vậy! Ngày mai muốn ra sao thì ra!
Tuy thế, trong thâm tâm, tôi vẫn lo lắng không yên.
Tôi cũng không dám chia xẻ những gì mà tên cán bộ Việt Cộng đã tiết lộ cho tôi, vì thời buổi này tôi không tin ai, lỡ mình phơi bày tâm tư cho người ta biết, người ta quay sang phản mình, đi tố cáo mình để lập công thì mình chết chắc.
Tuy vậy, tôi thấy trong hoàn cảnh này, chính tôi và những người đồng cảnh của tôi cũng rất cần những sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Trưa hôm sau, vào giờ ăn trưa, trong quán cháo của bà Bền, tôi đứng lên hỏi ý mấy ông bạn cùng phòng:
– Các bác ơi! Nếu bất ngờ tụi mình bị đưa đi chỗ khác thì các bác có cách gì báo tin cho gia đình biết?
Vừa nghe tôi hỏi, ông Huỳnh Thanh Bền đã nói ngay:
– Các ông cứ chuẩn bị sẵn 1 lá thư có địa chỉ gia đình rồi giao cho bà xã tôi cất. Ngày nào mình bị bốc đi thì nhà tôi sẽ chuyển thư của quý vị tới tận nhà để thân nhân quý vị biết mình đã đi khỏi đây rồi.
Anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh bổ sung thêm:
– Tôi có ý kiến là các ông nên viết sẵn một lá thư mở đầu với câu: Nhờ ai nhặt được thư này thì ghi giùm địa danh nơi thư này rơi, rồi gửi nó về địa chỉ của gia đình tôi ở địa chỉ sau đây.. Ða tạ!
Sau đó các ông cuốn lá thư trong một tờ giấy bạc 500. Tới địa điểm mới thì mình đánh rơi thư này. Thấy tiền, người ta sẽ lượm, rồi có thể, người ta sẽ giúp gửi thư đi cho mình, gia đình mình sẽ biết mình bị đưa đến đâu.
Tôi nghĩ thầm:
– Công nhận ông Bổn Răng Vàng này đa mưu thật!
Anh chàng Thiếu úy Bổn là người ăn nói rất lưu loát, miệng anh ta lại có cái răng nanh bịt vàng, quen nhau rồi, tôi cứ gọi anh ấy là “Bổn Răng Vàng”.
Thế là sáng hôm sau trước giờ chúng tôi trình diện ở phòng Z thì trong túi bà vợ ông Huỳnh Thanh Bền đã có 6 lá thư nhắn tin, và trong túi của 7 anh em trong phòng Z đều có sẵn một cuộn giấy tròn như cái pháo tép, bên ngoài lá thư được bao bởi tờ giấy bạc 500 đồng do Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam phát hành.
Một buổi chiều giữa tháng 5, tôi vừa mở khóa chiếc Honda chuẩn bị đi về thì 1 người khách qua đường dừng chân bên quán cháo lòng:
– Ðại ca! Ðại ca!
Tôi quay mặt lại, nhận ra ngay người vừa gọi mình là ông Trung úy Ðại đội trưởng, 1 Ðại Ðội Ðịa Phương Quân của tỉnh Bình Long. Suốt trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975, đơn vị Ðịa Phương Quân của ông này đã nằm dưới quyền chỉ huy của tôi. Tôi và ông trung úy này chia tay nhau chiều 23 tháng 4 tại căn cứ Long Bình.
Ông trung úy người Cái Sắn nắm tay tôi thật chặt:
– Em đi kiếm đại ca cả tuần nay. May quá giờ gặp rồi! Gặp rồi!
Tôi cũng cảm động:
– Chú bình an chứ? Ði đâu đây? Kiếm anh làm gì vậy?
Người đàn em ghé tai tôi thì thầm:
– Ðại ca ơi! Về Cái Sắn với em! Ba ngày nữa tụi mình sẽ vượt qua Cao Miên rồi trốn sang Thái Lan. Em có đường dây đưa đi an toàn trăm phần trăm. Ðại ca đi với em nhé! Gia đình em sẽ trang trải hết mọi phí tổn cho anh em mình!
Thật bất ngờ, nhưng tôi vẫn còn tỉnh trí. Tôi buồn rầu nói:
– Anh không đi được! Tình cảnh gia đình của anh không cho phép! Chú đi một mình đi! Chúc chú thượng lộ bình an!
Từ ấy tôi không rõ người anh em này phiêu dạt nơi đâu. Tôi luôn cầu mong cho chú ấy luôn luôn gặp những điều may mắn.
Vậy là, trong khoảng thời gian không đầy nửa tháng sau chiến tranh tôi đã có những cơ duyên được bạn bè và cả người phía bên kia giúp đỡ. Nhưng tôi đã không dám hành động để tự cứu mình. Thời gian này, hầu như tôi đã xuôi tay, nhìn cái thòng lọng cứ từ từ siết chặt dần quanh cổ mình.

Thế rồi…
Sáng 20 tháng 5 tôi vòng xe sang đường Lê Thánh Tôn để mua một ổ bánh mì thịt, rồi chạy thẳng lên Tòa Ðô Chánh để cho anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh quá giang. Nhà anh này ở trong con hẻm cách Tòa Ðô Chánh chừng 100 thước. Anh này không có xe, cả tuần lễ nay anh ta phải tới Trại Lê Văn Duyệt bằng 2 chặng xe Lamb chuyển tiếp.
3 tuần lễ sau ngày Miền Nam sụp đổ, Tòa Ðô Chánh Thủ Ðô Sài Gòn đã có bộ mặt mới, với lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam to tổ bố cùng toán bộ đội nón cối, dép râu ôm súng AK47 gác trước cổng.
Tới cổng Tòa Ðô Chánh, tôi giảm ga cho xe chạy từ từ theo bảng chỉ đường giới hạn 5 Km/ Giờ.
Ðoàng! Ðoàng! Ðoàng!”
Bất thình lình, 1 tên bộ đội Việt Cộng từ hiên Tòa Ðô Chánh nhảy ra giữa phố.
Tên Việt Cộng này có lẽ là sĩ quan, vì bên hông y có đeo một cái cặp da tòn ten.
Y giơ 1 tay chận xe tôi lại, tay kia giương cao khẩu K54 bắn 3 phát chỉ thiên, miệng la:
– Ðứng lại! Ðứng lại!
Chẳng hiểu chuyện gì, tôi vội răm rắp tuân lệnh của người cầm súng, tấp xe vào lề đường, thắng lại.
Thằng Việt Cộng chĩa súng ngay đầu tôi, rồi nhảy lên, ngồi trên yên sau, miệng y hét lớn:
– Anh khẩn trương chở tôi lên Bộ Tổng Tham Mưu Ngụy! Nhanh lên! Nhanh lên!
Tôi im lìm nhấn chân sang số, xe đi tới.
Chạy được vài chục thước, tôi thấy trước mặt, bên đường, là anh bạn Bổn Răng Vàng, Thám Báo Tỉnh. Tôi đạp thắng cho xe chạy chậm lại, thì thằng Việt Cộng hét to:
– Ði! Ði! Cấm dừng!
Thấy 1 thằng Việt Cộng vừa kê súng vào đầu tôi, vừa la hét oang oang, ông Thiếu úy Thám Báo Tỉnh cũng hoảng hồn, vội vàng bước thối lui vào lề đường.
Thế là tôi phải vặn tay tăng ga cho chiếc Honda vọt lên. Bạn tôi đứng ngẩn người nhìn theo.
Tôi đâu có biết đường nào lên Tổng Tham Mưu? Tôi cứ chạy vòng vo trong khu Yên Ðổ, Hai Bà Trưng hoài.
Thấy thế, thằng Việt Cộng lớn tiếng ra lệnh:
– Anh chạy theo lệnh tôi! Chạy thẳng! Rẽ phải! Rẽ trái! Chạy thẳng! Rẽ phải!
Xe qua cầu Trương Minh Giảng một lúc lâu mới tới Bộ Tổng Tham Mưu…
“Kia rồi! Dừng lại!”
Hóa ra 1 thằng Việt Cộng vừa ra khỏi rừng mấy ngày mà đã thông thuộc đường sá Sài Gòn hơn 1 thiếu tá tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Vùng 2 của Việt Nam Cộng Hòa!
Tới cổng sau của Bộ Tổng Tham Mưu, tôi tưởng mình thoát nạn, nào ngờ:
– Anh đỗ xe ở đây! Không được thoái bộ! Chờ tôi họp xong, tôi sẽ quay ra! Nghe rõ chưa?
Y chỉ chỗ cho tôi tắt máy và đậu xe sát vọng gác bên hông của Bộ Tổng Tham Mưu rồi ra lệnh cho mấy tên bộ đội trong điếm canh:
– Tôi giao cho các đồng chí nhiệm vụ quản chế anh này! Giữ anh ta tại đây cho tới khi hội họp xong tôi sẽ trở ra. Nếu anh ta thoái bộ thì các đồng chí cứ việc bắn! Ðừng bắn chết là được! Cứ bắn gãy chân thôi! Nghe rõ chưa?
Tôi ngồi xuống bờ cỏ bên vọng gác, móc túi lấy điếu thuốc Ruby ra hút đốt thời giờ. Tôi hút tới điếu thuốc thứ 3 mà tên cán binh Việt Cộng vẫn chưa ra. Ðã tới 8 giờ, giờ điểm danh của ban tiếp quản Quân Khu 5, mà tên Việt Cộng vẫn chưa ra.
Tôi mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Ðã tới giờ tôi phải có mặt ở Ủy Ban Quân Quản Thành Phố, tôi có thể đi được không?
“Crách! Crách!” cùng với tiếng lên cò súng là khẩu lệnh:
– Ngồi xuống đó! Cấm di chuyển! Anh mà bước khỏi đây 1 bước là tôi bắn!
Thế là tôi đành ngồi xuống.
Tôi dự trù nếu thằng cán binh ác ôn mà trở ra, tôi sẽ đòi nó ký cho tôi tờ giấy chứng nhận lý do vì sao tôi tới phòng Z trình diện trễ.
Thoáng chốc mặt trời đã tới đỉnh đầu. Sài Gòn tháng 5 trời vừa nắng cháy da, vừa ẩm ướt hầm hầm như đang trông chờ những cơn mưa bóng mây.
Gặm xong ổ bánh mì thịt, tôi thấy cổ khô ran, khát nước. Tôi lại mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Tôi xin phép đi sang bên kia đường để mua nước uống có được không?
– Ngồi xuống đó! Ði là tôi bắn! Không có nước nôi gì hết! Nghe rõ chưa?
Tới 2 giờ chiều thì bụng tôi căng như cái trống, tôi lại mon men tới bên vọng gác:
– Anh bộ đội ơi! Tôi xin phép vào nhà xí của trại để đi tiểu tiện có được không?
– Cần gì phải vào nhà xí! Anh cứ ngồi xuống vạch cu ra mà đái! Không ai thèm nhìn anh đái đâu!
Cố nín thêm chừng 1 giờ sau nữa, tôi cũng đành phải mở nút quần. Tôi nhắm mắt, đái đại ngay trên lề cỏ bên đường.
Ðồng hồ tay của tôi chỉ đúng 4 giờ chiều thì tên cán bộ mới xuất hiện. Vừa phóng lên yên sau, y đã hối:
– Khẩn trương lên! Họp hành gì mà lâu quá! Tôi đói lắm rồi! Anh mau mau chở tôi về lại Tòa Ðô Chánh! Mau lên! Mau lên!
Trên đường về, thằng Việt Cộng không còn kê súng lên đầu tôi nữa.
Vì đã biết đường đi, nên lúc về tôi không bị lạc. Tới cổng Tòa Ðô Chánh tên cán bộ xuống xe, rồi mở cái cặp da:
– Anh tính tiền xe ôm thuê bao cả ngày hôm nay là bao nhiêu? Tôi sẽ trả cho anh! Anh làm việc có lương tâm lắm! Tôi tuyên dương anh đấy!
Thì ra thằng Việt Cộng này tưởng lầm tôi là 1 anh chạy xe ôm! Tôi nói:
– Anh nhầm rồi! Tôi không phải xe ôm! Nhưng thôi! Anh không cần trả tiền tôi, mà hãy ký cho tôi cái giấy chứng nhận rằng anh đã trưng dụng tôi chạy xe đưa anh đi công tác suốt ngày nay để tôi xuất trình cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố.
Nghe tôi nói, tên cán bộ hơi ngẩn người ra 1 giây, rồi nhẹ giọng:
– Vậy thì xin lỗi anh nhé! Ðược rồi! Tôi sẽ ký giấy làm chứng cho anh.
Nói xong, y mở cái cặp da, rút ra một quyển sổ công lệnh của Quân Khu 7, tờ nào cũng có con dấu đỏ chót.
Y xé một tờ rồi ghi trên đó mấy chữ:
“Chứng nhận đã sử dụng nhân công này từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều ngày 20 tháng 5 năm 1975”.
Y ký tên rồi đưa tờ công lệnh cho tôi,
– Ði đi! Yên chí sẽ không có ai làm khó dễ anh đâu!
Quá 5 giờ chiều tôi mới tới cái lều bán cháo lòng của chị Bền. Thấy tôi, chị Bền lo lắng hỏi:
– Ủa! Sao giờ này chú mới tới? Trưa nay anh Bền và mấy ông phòng “ZÉT” không ra ăn cơm. Chú vào trong đó xem có gì lạ thì ra báo cho chị hay.
Tôi khóa xe rồi đi vào trại. Khu doanh trại của bộ đội vẫn sinh hoạt bình thường. Dãy nhà ngang là khu tiếp quản chỉ còn một phòng Y là có người. Phòng Z cửa cũng mở toang, cái bảng carton 40X40 cm có chữ “Z” đã bị gỡ bỏ, trong phòng không thấy bóng dáng ai.
Tôi ghé phòng Y hỏi thăm 1 người đàn bà đang ngồi trước cửa:
– Chị ơi! Chị làm gì ở đây? Sao hôm nay phòng nào cũng trống không vậy chị? Bà con đi đâu hết rồi?
Người nữ quân nhân (hay công chức) trả lời:
– Tôi là nhân viên của Ty Cảnh Sát tỉnh Bình Thuận bị tập trung ở phòng Y. Hôm nay xe đã tới chở các ông, các bà ở mấy phòng khác đi sạch trơn. Cán bộ canh gác cũng lên xe đi hết, chỉ 4 người của Quân Khu 6 chúng tôi còn ở đây thôi anh ơi!
– Mấy người ở phòng “Zét” đi lúc nào vậy chị?
– Mấy ông phòng “Zét” tập trung từ sáng sớm, mãi tới hơn 3 giờ chiều họ mới bị còng tay đưa lên xe, chẳng biết đi đâu.
Phòng Y và phòng Z ở sát vách nhau, vậy mà cả tuần lễ sau tôi mới biết phòng Y chứa những người bị gọi tập trung theo lệnh của Quân Khu 6.
(Quân Khu 6 gồm các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy).

Tôi cám ơn chị nữ công chức Việt Nam Cộng Hòa rồi lên văn phòng chính của trại để hỏi cho rõ sự tình. Ngay cửa vào, tôi chạm mặt 1 cán bộ người Nam.
Vừa nghe tôi xưng danh, hắn đã hét lên:
– Anh là Vương Mộng Long hả? Anh đi đâu mà giờ này mới vác mặt tới đây? Xe của Quân Khu 5 chờ anh cả nửa ngày mà không thấy anh, họ đã khởi hành rồi! Anh đúng là thằng phá hoại!
La hét xong, y quay vào trong ra lệnh:
– Ðồng chí trực trại đem thằng này đi nhốt cho tôi!
Thế là tôi bị còng hai tay dẫn tới góc rào, tống vào cái điếm canh bỏ trống nằm đằng sau một cái lô cốt lớn bên phải cổng trại.
Tới 6 giờ chiều thì kẻng tan sở gióng lên. Mấy người bị quản thúc trong phòng Y lần lượt theo nhau đi ra cổng.
Trong khi đó tôi ngồi bên song sắt ngó ra ngoài. Tôi không biết những bạn bè cùng phòng Z của tôi đã bị đem đi đâu. Nhưng cứ nghĩ tới câu nói mà tên cán bộ người Hải Hưng đã nói với tôi: “Nếu anh mà bị đưa về Quân Khu 5 thì khó toàn mạng đó! Có trốn được thì trốn đi! Cố gắng kín miệng, đừng cho ai biết tôi đã nói với anh điều này!”
Tôi thấy số mình còn hên. Có khi phải bất đắc dĩ chạy xe ôm không công 1 ngày mà tôi đã được toàn mạng cũng nên.
Ðúng 6 giờ 5 phút, tên cán bộ đã ra lệnh nhốt tôi chợt đi xăm xăm tới cửa điếm canh:
– Anh đã cơm nước gì chưa? Nếu đói thì chờ đó! Chút nữa sẽ có người đem cơm cho anh ăn.
Chợt nhớ tới cái giấy chứng nhận của tên Việt Cộng ở Tòa Ðô Chánh, tôi nói với tên cán bộ,
– Hôm nay tôi tới trễ là có lý do! Cán bộ hãy mở còng tay để tôi lấy bằng cớ cho cán bộ coi.
Ðọc xong những chữ viết và săm soi kỹ cái dấu mộc đỏ, y gật gù:
– Tôi sẽ giữ cái giấy chứng nhận này. Bây giờ tôi cho phép anh về. Sáng mai đúng 8 giờ anh phải tới trình diện tôi trong phòng trực.
5 phút sau tôi ra tới cổng, chị Bền đang chờ tôi, mặt chị không giấu nổi nỗi âu lo:
– Chuyện gì vậy chú?
Tôi vắn tắt kể cho chị biết lý do vì sao tôi tới trễ và lặp lại những lời người nữ Cảnh Sát tỉnh Phan Thiết đã nói với tôi cho chị nghe.
Ngày 21 tháng 5 tôi gửi xe sau quán của chị Bền rồi vào văn phòng chính của trại. Ở đây đã có 4 người, 3 nam, 1 nữ của phòng Y ngồi chờ sẵn.
5 chúng tôi là những người còn sót lại sau cùng của đợt tập trung ngày 11 tháng 5 năm 1975 của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn, Gia Ðịnh.
Sau này tôi mới hay, hôm qua, 20 tháng 5 là thời hạn chót để các đơn vị địa phương tới tiếp nhận người.
9 giờ sáng chúng tôi được lệnh lên xe. Tôi lựa 1 chỗ ngồi bên trái, đằng sau xe để khi ra tới đường Lê Văn Duyệt tôi có thể vẫy tay báo hiệu cho chị Bền.
Xe vừa ra tới cổng, tôi đã thấy chị Bền và đứa con gái lớn của chị đứng bên lề vẫy tay. Tôi chắc mẩm rằng, thế nào chiều nay gia đình tôi cũng sẽ nhận được tin tôi bị đưa đi xa rồi.

Chúng tôi được chở đi quanh co một hồi rồi đậu trước khám đường Chí Hòa.
Tên cán bộ trưởng toán ra lệnh cho chúng tôi xuống xe rồi dẫn chúng tôi đi vòng vòng 1 lúc sau thì chui vào 1 cái sân cỏ nhỏ. Y bảo chúng tôi đứng chờ nơi sát cổng, còn y thì ôm một tập hồ sơ đi vào phòng trực.
Tôi thấy dưới hiên 1 dãy nhà có vài người đứng chen chúc nhau. Trong số những người đang đứng lố nhố đó,tôi nhìn mặt được 3 ông Biệt Ðộng Quân là Hồ Văn Hòa, Lương Ðình Chi và Nguyễn Hiệp. Tôi giơ tay vẫy họ, họ vẫn tỉnh bơ, có lẽ họ không nhận ra tôi.
Sau 10 phút đợi chờ, tên cán bộ trưởng đoàn hối hả đi ra, y ngoắc tay cho chúng tôi đi theo.
Tới xe, y lớn tiếng nói với tên Việt Cộng tài xế:
– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình đi Quang Trung!
Xe nổ máy chạy ra ngoại ô Sài Gòn, hướng về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Tới cổng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung tên cán bộ trưởng đoàn lại lếch thếch ôm cái cặp đi vào.
Lần này chúng tôi không được xuống đất, mà phải ngồi yên tại chỗ.
10 phút sau thằng Việt Cộng lại đi ra, lại ban lệnh cho thằng tài xế:
– Hết chỗ rồi! Chúng nó không nhận! Mình về Hoa Lư!
Trưa hôm đó chiếc GMC chở chúng tôi ngừng bánh trước 1 tòa nhà khá lớn nằm đối diện với sân vận động Hoa Lư trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Vị trí này là cơ ngơi của một bộ gì đó tôi không nhớ, nay là chỗ đóng quân tạm thời của một đơn vị trực thuộc Quân Khu 7 Cộng Sản. Trước sân có vài chiếc xe quân sự đang đậu.
Tên cán bộ dẫn giải ôm cặp hồ sơ đi vào cổng, 10 phút sau lại đi ra.
Lần này y cho chúng tôi xuống xe. Chỉ tay về hướng căn phòng cuối dãy nhà, y ra lệnh:
– Các anh chị vào nghỉ trong đó, chờ phương tiện đi Quân Khu Ngoài!
Tôi nghĩ: “Quân Khu Ngoài chắc là Quân Khu 5 và Quân Khu 6”.
Ngay khi đó, 2 cán bộ Việt Cộng khác từ sau khu dinh thự tiến ra vẫy tay gọi tên trưởng toán dẫn giải; rồi cả 3 chụm đầu vào nhau bàn tán.
Mấy phút sau, 3 tên này vừa nhìn về phía chúng tôi vừa viết viết, ký ký cái gì đó trên 1 mảnh giấy.
Cuối cùng, 1 thằng già Nghệ Tĩnh bước tới trước mặt chúng tôi. Y hắng giọng “khạc! khạc!” vài ba cái rồi nói:
– Tôi đã ký nhận danh sách của các anh chị. Các anh các chị cứ ở tạm đây. Hôm nào có người ở Quân Khu Ngoài vào nhận, tôi sẽ cho các anh các chị đi. Bây giờ các anh các chị có thể về nhà, sáng mai đúng 8 giờ phải có mặt ngay chỗ này!
Nghe được câu này, tôi khoan khoái thở ra: “Thế là chưa sao! Chưa sao!”
Xế chiều, tôi mò về tới quán của chị Bền. Tôi kể cho chị hay diễn biến chuyện đã xảy ra trong ngày. Chị gật gật đầu:
– Như vậy chú còn hên hơn anh Bền! Không rõ giờ này anh Bền ở đâu? Chắc không lâu nữa chú sẽ bị chở đi gặp anh Bền. Gặp anh Bền, chú nhớ nói với anh ấy rằng, vợ con anh ấy suốt ngày cầu Trời Phật phù hộ, độ trì cho anh ấy. Vợ con anh ấy vẫn mong đợi từng ngày để gặp lại anh ấy!
Chị Bền đưa hai bàn tay lên vuốt mặt, nước mắt đã rơi, chị tôi không nói thêm được lời nào nữa…
Hôm đó tôi về tới nhà sớm hơn mọi ngày. Vợ chồng con cái chở nhau trên chiếc Honda đi quanh phố một vòng mà thấy trong lòng thật là vui, quên hết muộn phiền, lo âu.

Từ ngày 22 tháng 5 tôi không còn dùng Honda để làm phương tiện di chuyển nữa; tôi tới sân vận động Hoa Lư theo 2 tuyến đường xe Lamb. Vì nếu tôi tiếp tục dùng Honda mà bất chợt người ta bắt tôi đi, thì gia đình tôi làm sao hay biết mà đi tìm xe? Vả lại cái sổ chủ quyền của chiếc xe lúc nào cũng phải nằm trong túi người lái nó. Lái xe mà không có sổ chủ quyền, gặp các trạm kiểm soát giao thông thì xe sẽ bị tịch thu ngay. Người nhà có tìm ra xe mà không có sổ chủ quyền thì cũng bó tay. Trong thời gian gửi xe ở quán cháo lòng của vợ anh Bền, tôi cũng gửi chị Bền cái sổ chủ quyền chiếc Honda của tôi.
Ðược cái là vấn đề kiểm soát giờ giấc của bọn Việt Cộng này cũng rất dễ dãi, không chút khắt khe. Chúng tôi có tới trễ, tới muộn nửa giờ, một giờ, cũng không ai làm khó dễ gì.
Hàng ngày chúng tôi chỉ cần có mặt ký tên trên sổ điểm danh một lần, rồi muốn đi đâu thì đi, lâu lâu lại tạt về phòng cho có mặt.
Gần tới cuối tháng chúng tôi có thêm 2 ông bạn mới. 2 ông này là 2 ông thiếu tá khóa 10 Ðà Lạt; 1 ông làm Trưởng ty Cảnh Sát, 1 ông làm Trưởng ty Chiêu Hồi. Chẳng rõ các ông này do cơ quan nào mang tới gửi ở đây. Chắc 2 vị này cũng là những người đang chờ bị bốc đi như chúng tôi.
Mãi 2 ngày sau tôi mới biết ông Trưởng ty Cảnh Sát tên là Nguyễn Hồ Ðịch, còn ông Trưởng ty Chiêu Hồi tên là Trần Hướng Trung.
Một buổi trưa tôi rủ 2 ông đàn anh Võ Bị tản bộ ra ngã tư ăn bún bò. Khi chúng tôi quay về thì thấy 4 người Quân Khu 6 đang tụ họp trong văn phòng để làm việc gì đó. Lúc trở ra mặt người nào người nấy đều có vẻ tươi vui. Chúng tôi đang chuẩn bị đi về, nên không kịp hỏi han xem có chuyện gì đã xảy ra. Sáng hôm sau thì 4 người bạn này không xuất hiện nữa.
Thấm thoát đã qua đầu tháng 6, qua tin truyền đi trên Truyền Thanh và Truyền Hình thì Ủy Ban Quân Quản Thành Phố đã ra thông cáo rằng sĩ quan cấp thiếu tá trở lên sẽ phải trình diện đi học tập cải tạo tại vài địa điểm trong Sài Gòn.
Tên Việt Cộng thường ngồi nhận chữ ký hằng ngày của chúng tôi cho chúng tôi biết rằng từ nay Quân Khu 7 sẽ không cho phép các Quân Khu khác tới nhận người nữa. Như thế là chúng tôi không còn phải lo lắng chuyện sẽ bị chuyển giao cho các Quân Khu Ngoài.
Y nói, chúng tôi chỉ cần có mặt ở đây vào ngày các lớp học tập khai giảng thì đơn vị này sẽ cung cấp phương tiện để đưa chúng tôi tới trường, tới lớp. Y nhắc nhở chúng tôi nhớ chuẩn bị đem theo áo quần cùng những vật dụng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải để tiện dùng trong thời gian 1 tháng học tập xa nhà.
Cũng từ ấy, chúng tôi có thể chia phiên nhau, 1 người có mặt, 2 người kia ở nhà. 3 chúng tôi đều biết địa chỉ của nhau. Do đó, người trực có thể đi kêu 2 người kia nếu có chuyện gì cần gấp.
Tên cán bộ quản chế cho chúng tôi biết rằng các trung tâm sẽ nhận người đăng ký từ ngày 13 tới 15 tháng 6 năm 1975. Chúng tôi sẽ được chở tới trung tâm vào ngày cuối, tức là 15 tháng 6 để khỏi phải chờ lâu tại trung tâm trước khi tới địa điểm học tập.
Ðúng 12 giờ trưa ngày 15 tháng 6 năm 1975 tôi và 2 ông đàn anh được đưa lên xe để di chuyển tới các trung tâm tiếp nhận.
Xe chạy thẳng một lèo tới Trường Trung Học Lasan Taberd thì ngừng, tôi bị gọi xuống. Tên cán bộ hướng dẫn đem tôi vào văn phòng của trường, giao nạp tôi cho 1 sĩ quan Cộng Sản.
Cầm cái biên nhận tù binh, tên cán bộ dẫn giải bắt tay tôi rồi nói:
– Mừng anh! Chúc anh học tập tốt, lao động tốt để sớm về sum họp với gia đình.
Sau đó tôi được 1 tên bộ đội dẫn lên lầu để nhập bọn cùng vài sĩ quan cấp thiếu tá đã trình diện sáng nay; vì vậy tôi không rõ 2 ông thiếu tá khóa đàn anh của tôi bị đưa tới trung tâm nào. Mãi tới 6 năm sau, 1981, tôi mới gặp lại 2 vị này ở Trại Z30C Hàm Tân, Thuận Hải.

Từ 15 tháng 6 năm 1975 tôi bắt đầu 1 chuyến đi xa dài ngày…
Nửa năm đầu, từ tháng 6 năm 1975 tới giữa tháng 10 năm 1975 tôi bị giam tại trại Long Giao. Qua 1 tháng sống đời tù đày, tôi bắt đầu có ý định vượt ngục. Tôi đã bàn chuyện trốn trại cùng 2 ông thiếu tá cựu quận trưởng, nhưng giờ chót 2 ông này thối chí, nên tôi đành phải hủy bỏ mưu đồ.
Nửa năm kế đó tôi bị chuyển về trại giam Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa, chờ ngày bị đưa ra Bắc. 2 tuần lễ sau ngày bị đưa ra đất Bắc, nửa đêm 8 tháng 8 năm 1976, tôi vượt ngục lần đầu. Trải qua 10 ngày lặn lội trong rừng dưới cơn bão số 6, tôi và người bạn đồng hành bị bắt lại, bị cùm, bị đánh đập, khảo tra, rồi được cho về Ðội 11, Trại 4, Liên Trại 4 để tiếp tục lao động.
Một hôm trời giăng giăng mưa phùn, tôi và bạn tù đi cấy lúa vần công cho Thôn Nam Xã Cẩm Nhân, Yên Bình, Yên Bái thì thấy 2 ông tù cải tạo khiêng một cái võng có người nằm bên trong.
Cái võng được phủ bằng chiếc mền Trung Cộng màu đỏ. Theo sau cái võng là 1 ông tù đeo cái balô, có lẽ trong balô là tài sản của người nằm trên võng.
Có một vệ binh Việt Cộng đeo AK đi canh chừng đằng sau ông tù đeo balô. Chắc mấy người này đang đưa 1 ông tù bệnh nặng lên bệnh xá của liên trại để chữa trị.
Tôi ngừng tay cấy, lớn tiếng hỏi:
– Ê! Ai đó? Các cha?
Ông tù mang ba lô liền lớn tiếng đáp lời:
– Tước! Tước rằn ri!
– Phải Nguyễn Ðỗ Tước Biệt Ðộng Quân không?
– Ðúng rồi!
– Bệnh gì vậy?
– Kiết lỵ!
Chiều hôm đó cái võng lại quay về, vẫn có chiếc mền đỏ Trung Cộng phủ bên trên.
Tôi lại hỏi:
– Hết bệnh chưa?
Ông tù mang ba lô lại đáp lời:
– Chết rồi!
Tôi chỉ còn biết ngậm ngùi đứng nhìn theo bóng chiếc mền đỏ đi xa dần về hướng Trại 8 nơi Ðèo Lũng Ngàn.
Ngày xưa, trước tôi, Trung tá Nguyễn Ðỗ Tước đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân ở Pleime.
Tết Dương Lịch 1978 vừa đi qua thì tôi vượt ngục lần thứ 2. Sau 2 tháng lặn lội trong rừng, chưa vượt khỏi biên giới Việt Lào, tôi lại bị bắt.
Thất bại lần này, qua những trận khảo đả dã man của kẻ thù mà tôi không thành người tàn phế cũng là nhờ phúc đức ông bà đã che chở cho tôi.
Năm 1981 tôi bị chuyển trại về Nam, trại tù mới có tên Z30C Hàm Tân, Thuận Hải.
Rồi một sớm tinh mơ cuối năm 1984 tôi vượt ngục lần thứ 3.
Vừa nhảy khỏi rào trại, tôi đã bị 1 vệ binh túm được.Lạ lùng 1 điều là thằng Việt Cộng này đã không bắn tôi, không bắt tôi, mà chỉ xua tay ra dấu cho tôi chui vào sân trại trở lại.
Ghìm súng trước ngực tôi, y ra lệnh:
– Anh Long không được đi! Trong giờ tôi gác mà anh trốn thoát thì tôi sẽ vào tù thay anh! Vào đi! Vào đi! Anh không chịu chui vào thì tôi phải bắn!
Nghe thế, tôi bèn nhanh nhẹn chui vào trong rào trở lại. Ai ngờ, 1 tuần lễ sau ngày đó thì tên Công An vệ binh Việt Cộng này đã cùng 1 ông tù cải tạo rủ nhau vượt biên. Họ trốn trong khi tên Công An dẫn ông cải tạo viên đi kiếm củi! Có lẽ 2 người này đã an vui sinh sống trên đất Hoa Kỳ.
Cuối năm 1985 tù cải tạo trại Z30C được tha gần hết. Gần chục người sau cùng, trong đó có tôi, bị chuyển sang trại Z30D cũng ở Hàm Tân, Thuận Hải; trại này còn có tên là Trại Thủ Ðức. Tôi gặp lại ông Lương Ðình Chi và anh Huỳnh Cẩm Lường ở trại này.
Tại đây, chúng tôi tiếp tục bị cưỡng bức lao động cật lực cả ngày lẫn đêm.
Khoảng trung tuần tháng 12 năm 1987,sau 1 ngày làm công tác đào ao thông tầm, ông Lương Ðình Chi tìm gặp tôi trong sân. Ông Chi ôm ngực, nhăn nhó:
– Long ơi! Nhờ chú cạo gió cho anh. Ngực anh đau quá, thở không được.
Tôi dẫn ông về phòng, nhờ bác Mậu già trực buồng xoa dầu, cạo gió, nắn xương cho ông.
Hôm sau ông Chi được cho vào nằm trong bệnh xá, không phải đi lao động. Bệnh tình của ông Chi ngày một tăng, ông không ăn được, không thở được. Trước lễ Giáng Sinh năm 1987 thì Việt Cộng cho ông Chi về điều trị tại gia; sang năm 1988 tôi cũng được thả.

Tôi được về, nhưng anh bạn Trung sĩ Thông Dịch Viên Huỳnh Cẩm Lường của tôi vẫn còn bị giữ trong trại.

Về tới nhà hôm trước, hôm sau tôi tới góc đường Nguyễn Biểu, Trần Hưng Ðạo để thăm ông bạn già Lương Ðình Chi, ông Chi đang nằm liệt giường, liệt chiếu. Tháng sau thì ông Chi qua đời.
Cũng trong thời gian này tôi tái ngộ cựu Thiếu tá Biệt Ðộng Quân Hồ Văn Hòa, anh Hòa đang làm chủ một xe bán nước sinh tố trên đường Lê Thánh Tôn.
Anh Hòa cho tôi hay rằng ngay tối 11 tháng 5 năm 1975 anh và vài chục người khác bị đưa xuống tàu thủy chở ra Côn Ðảo. Không biết vì lý do gì nửa đường, tàu có lệnh quay trở lại.
Về lại Sài Gòn, anh Hòa bị đưa vào Lao Xá Chí Hòa chờ ngày đưa đi cải tạo. Vì lý do đó mà sáng 21 tháng 5 năm 1975 tôi đã nhìn thấy anh ta đứng trong hiên Chí Hòa.
Tới năm 1988, bạn bè mà tôi gặp trong sân Biệt Khu Thủ Ðô ngày 11 tháng 5 năm 1975 chỉ còn rất ít.
Trong suốt 13 năm, từ 1975 tới 1988, trải qua bao nhiêu trại giam; ở đâu tôi cũng cố tìm tin tức những người bạn đã cùng tôi có mặt trong phòng “Zét” ngày xưa. Nhưng tới ngày tôi rời trại tù, 6 ông bạn của tôi vẫn bặt vô âm tín.


Ít lâu sau ngày về tôi đạp xe qua khu doanh trại cũ của Biệt Khu Thủ Ðô để xem quán cháo lòng của bà vợ ông Huỳnh Thanh Bền có còn ở đó hay không.

Thời 1988 khu vực này vẫn chưa có nhiều thay đổi, lều quán bên đường vẫn y nguyên, phố xá có vẻ còn tiêu điều hơn là trước ngày tôi bị dẫn lên xe đưa đi khỏi nơi đây.
Quán cháo lòng ngày xưa được che bằng 2 cái poncho ghép lại, nay được thay bằng một tấm vải nhựa dày. Nồi cháo bốc hơi ngày xưa nay được đổi thành nồi xôi đậu xanh, cũng bốc hơi.
Tôi thấy người ngồi sau cái bàn vuông có 2 cái ghế con là 1 bà già gầy guộc tóc bạc phơ. Nhưng tôi đoan chắc rằng người đó là vợ ông Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền.
Thấy tôi dừng xe chị Bền ngước mắt hỏi:
– Ông khách cần mấy gói xôi? Muốn gói muối đậu chung với xôi hay là gói riêng?
Tôi ân cần:
– Chị Bền! Chị không nhận ra em sao? Long đây chị!
Nghe vậy, chị Bền giật mình trợn mắt:
– Cái gì? Ông khách là chú Long hả?
Tới lúc nhận ra tôi rồi, chị Bền bật khóc:
– Em về rồi hả? Em về lúc nào vậy? Em có gặp anh Bền không?
– Em mới về mấy ngày thôi! 13 năm nay, đi tới trại nào em cũng dò hỏi, nhưng không có tin tức gì của anh Bền cả. Còn chị, từ ấy tới giờ chị có đi tìm anh không? Có nghe ngóng được gì không?
Chị Bền kéo cái ghế con cho tôi ngồi, rồi lấy tấm vải nhựa phủ lên trên gánh xôi, làm như đã dẹp cửa hàng, không tiếp khách nữa:
– Chuyện dài lắm chú ơi! Ðể chị từ từ kể cho chú nghe.
Chị Bền bắt đầu kể chuyện bằng những âm thanh nghẹn ngào chan bằng những giọt nước mắt.
Trong gần 1 giờ đồng hồ tôi đã được nghe toàn bộ câu chuyện đi tìm chồng của Chị Bền.
Thì ra từ khi bị chuyển đi, tôi đã lấy lại cái thư mà tôi đã gửi chị Bền, nên chị không còn địa chỉ nhà tôi, do đó chị không biết tìm cách nào mà liên lạc được với vợ con tôi.
5 cái thư của những bạn phòng “Zét” đã được con gái anh Bền gửi đi ngay sau ngày các anh ấy lên xe. 4 gia đình nhận thư đã không hồi âm, riêng người vợ của Thiếu úy Bổn mãi 3 tháng sau mới liên lạc với con gái anh Bền.
Trong thư, chị Hà, vợ anh Bổn đã hẹn ngày để vào thăm chị Bền. Hôm đó chị Bền không ra quán, ở nhà đón chị Hà.
Chị Hà không đội khăn tang, nhưng ghim trên ngực áo một miếng vải đen, đó là dấu hiệu chị có thân nhân vừa quá vãng.
Bước vào nhà, chưa kịp ngồi xuống ghế, chị Hà đã vừa mếu máo vừa nói:
– Các anh ấy chết hết rồi! Các anh ấy bị xử tử, trôi sông hết rồi!
Nghe được câu này thì vợ Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền ngã ra ngất xỉu. Cạo dầu, đánh gió cả giờ sau mà chị Bền vẫn phải nằm trên giường không dậy nổi.

Chị Hà đành kể tiếp phần sau câu chuyện cho cháu Thoa nghe.
Thì ra cơ mưu thả thư rơi của ông Thiếu úy Thám Báo đã không thành công. Những cái pháo tép có vỏ ngoài quấn bằng những tờ giấy bạc 500 đồng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam phát hành đã bị tịch thu ngay khi các ông bạn tôi vừa đứng vào hàng tập họp trong sân để kiểm tra an ninh trước khi lên xe.
Chiếc Molotova chở 6 ông phòng “Zét” đã chạy thâu đêm và suốt ngày hôm sau thì tới Qui Nhơn. Họ được giao cho Ủy Ban Thanh Lọc của Quân Khu 5.
Ngày kế đó, họ bị đưa vào 1 khu vườn cây cối um tùm, nằm sát bờ sông Lại Giang gần chân cầu xe lửa Bồng Sơn. Nơi này có mấy dãy nhà tôn vách ván kín mít. 6 người bị trói tay và bị nhốt trong 1 căn phòng tối như bưng. Phòng giam này do 3 cán binh Việt Cộng luân phiên canh giữ suốt đêm ngày.
Liên tiếp 1 tuần lễ, ngày nào họ cũng bị áp giải lên 1 phòng chứa đầy dụng cụ tra tấn để các chuyên viên khai thác thẩm vấn và chấp cung.
Qua ngày thứ 8 thì 6 ông cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã kiệt lực, không ai đứng dậy nổi. Ngày thứ 9 họ được ở yên trong phòng.
Tới tối ngày thứ 10 thì có 4 tên Việt Cộng từ Ủy Ban Thanh Lọc Quân Khu 5 tay thủ AK 47 lầm lì xuất hiện trước phòng giam.
Bọn này gọi tên, ra lệnh cho người tù lớn tuổi nhứt là Trung sĩ Huỳnh Thanh Bền bước ra ngoài.
Tới cửa, trước khi bị dẫn đi, ông Bền bị trói chặt hai tay bằng một sợi dây dù, hai mắt ông bị bịt bằng một vuông vải đen, miệng ông bị nhét một cái giẻ to.
Rồi cứ thế, mỗi tối phòng giam lại hụt đi một người. Anh Thiếu úy Thám Báo Tỉnh là người bị trói tay, bịt miệng, bịt mắt dẫn đi sau cùng.
Chị Hà biết được chuyện này là do 1 trong 3 tên cán bộ Cộng Sản canh giữ phòng giam kể lại cho chị nghe. Y là người đã chứng kiến những gì đã xảy ra từ ngày đầu tới ngày cuối.

Số là, khi ra đi, anh Bổn đã chuẩn bị sẵn 10 cái khoen vàng một chỉ. Anh luồn những cái khoen vàng đó trong lưng quần. Sau khi bị khảo đả ngày đầu, anh Bổn vội rút hết vàng ra mua chuộc 1 tên cán bộ bảo vệ. Tên này cùng quê Phú Phong, Bình Ðịnh với anh Bổn. Y đã cố gắng giúp anh khai bệnh tiêu chảy lúc nửa đêm. Anh được đưa ra bờ sông để đại tiện; thừa dịp này anh có thể nhảy xuống nước mà lặn đi. Nhưng mỗi lần anh ra ngoài, đều có 2 vệ binh đi theo. Tên vệ binh thứ nhì đã ranh ma, cột chặt một tay anh vào cổ tay nó, do đó đã có 2 dịp may ngồi bên bờ nước mà anh Bổn vẫn không trốn được.
Vài ngày sau, biết mình đã cùng đường, anh Bổn kể hết mọi chuyện đã xảy ra từ ngày anh bị tập trung ở Sài Gòn cho tới ngày anh bị đưa về Bình Ðịnh cho tên Việt Cộng gốc Phú Phong nghe. Anh cho y địa chỉ gia đình anh ở Qui Nhơn và viết mấy chữ nhắn người nhà anh đền ơn cho y, nếu y tìm tới gặp vợ anh và kể cho chị ấy biết hết sự tình. Thời gian này chị Hà đang ở nhà cha mẹ đẻ trong thành phố Qui Nhơn.
Một tuần lễ sau ngày anh Bổn bị trôi sông, tên cán bộ người Phú Phong đã tới nhà gặp chị Bổn.
Tên Việt Cộng kể rằng ngày cuối cùng chỉ còn một mình anh Bổn trong phòng, anh vẫn bình tĩnh như thường, anh nhờ y nhắn với chị Hà một câu:
“Kiếp này duyên tình của vợ chồng mình nửa đường đứt đoạn, đôi ta chỉ biết hẹn gặp nhau ở kiếp sau!”
Y cũng tiết lộ cho chị Hà biết lý do vì sao mỗi đêm Ủy Ban Thanh Lọc Quân Khu 5 chỉ đem 1 người đi bắn rồi đạp xác xuống sông Lại Giang.
Sở dĩ nhà cầm quyền Việt Cộng chọn cách giết từng người như thế chỉ với mục đích tránh tai mắt của ngư dân quanh vùng. Lại Giang là con sông lớn, nước chảy không ngừng, nên chỉ vài giờ sau khi bị ném xuống nước, xác người bị thủ tiêu đã trôi tới biển Ðông.

Nghe xong chuyện 6 anh em phòng «Zét» bị thủ tiêu, gia đình chị Hà đã bỏ công thuê người đi dò dẫm hỏi thăm dân cư ngụ hai bên bờ Lại Giang từ cầu Bồng Sơn ra tới cửa biển An Dũ xem có xác chết trôi nào nổi lên không?
Cả tháng sau không tìm thấy dấu tích gì, gia đình chị Hà đành bỏ cuộc. Tới tháng thứ 3, chị Hà mới vô tình lục ra cái thư của bà chị anh Bổn gửi ra từ Sài Gòn, từ đó chị Hà có địa chỉ của vợ anh Bền.
Từ sau lần gặp mặt đó, bẵng đi 1 thời gian dài, tới cuối năm 1979 chị Hà lại tái xuất hiện. Lần này chị tới từ biệt chị Bền để ra đi theo chương trình xuất cảnh bán chính thức. Chị Hà bước thêm bước nữa. Chồng mới của chị là một ông lớn tuổi, người Việt gốc Hoa.
Chị Bền cho tôi hay cháu Thoa đã có gia đình, chồng cháu là con 1 ông đại úy chế độ cũ, ông ấy đã được tha về từ năm 1981. Chồng cháu Thoa đã nhiều lần bỏ công sức đi tìm người tù có tên Huỳnh Thanh Bền qua những trại giam của Quân Khu 5 như Tiên Lãnh, Bình Ðiền, Gia Trung, Thuần Hạnh, Củng Sơn… vân vân, nhưng vô vọng.
Có một lần, vào năm 1982, gia đình cháu Thoa được tin ông Bền bị giam ở Trại Z30 A nơi Ngã Ba Ông Ðồn và đang nằm chờ chết vì bịnh sốt xơ gan. Cả nhà ông Bền, gồm cả con trai, con gái, con rể, cùng với 2 đứa cháu ngoại, kéo nhau lên Ngã Ba Ông Ðồn để xin gặp mặt ông lần cuối. Nhưng tiếc thay, khi gặp nhau mới vỡ lẽ ra, ông Huỳnh Thanh Bền này chỉ là 1 người trùng tên, trùng họ với ông Bền ở phòng «Zét» của trại Lê Văn Duyệt mà thôi.
Thời gian sau khi tôi được thả thì tất cả tù nhân cải tạo còn lại đều bị tập trung về trại Z30D, ở Hàm Tân. Tôi nói với cháu Thoa hãy lên đây hỏi thăm xem có ai tên là Huỳnh Thanh Bền hay không.
Chỉ 1 tuần sau tôi gặp lại chị Bền, chị gạt nước mắt rồi nói với tôi:
– Chú ơi! Chẳng có ai tên Huỳnh Thanh Bền ở trại này!
Bận rộn công việc làm ăn kiếm sống, nhưng tôi và 1 anh bạn gốc Thủy Quân Lục Chiến vẫn lâu lâu ghé thăm chị Bền.
Gặp 2 đứa em, chị vui mừng ra mặt, nói đủ thứ chuyện.
Chị kể rằng ngày xửa, ngày xưa chị và anh Bền là con của 2 ông địa chủ ở Cần Thơ. 2 ông địa chủ gả con, cưới vợ cho con mà chẳng thèm hỏi ý kiến con.
Hai cô chiêu, cậu ấm này đều là dân học trường Tây, trường Ðầm, nhưng vẫn nghe lời phụ mẫu: “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó!”
Chị kể cho tôi nghe chuyện đám cưới nhà quê diễn ra như thế nào.
Chị nói, ngày đưa dâu chị lo sợ lắm. Chị không biết ông chồng mình dáng dấp cao, thấp, béo, gầy, ra sao, tính tình hiền lành hay hung dữ, rồi chị che miệng cười:
– Vậy mà chỉ ít lâu sau khi thành vợ, thành chồng, tụi này đã thương nhau dứt ra không nổi.
Chị tâm sự:
– Ảnh là tri kỷ của tui, còn tui cũng là tri kỷ của ảnh! Ảnh Solo Guitar hay lắm! Nhưng ảnh chỉ đờn cho mình tui nghe thôi! 2 đứa tui cứ tự ví mình như Bá Nha, Tử Kỳ. Ngày đám cưới, mẹ ảnh có cho tui 1 cành thoa bằngvàng, ảnh nói sau này có con gái thì ảnh sẽ đặt tên nó là cây trâm vàng để nhớ mẹ anh ấy. Vì thế, đứa con gái đầu của tụi tui có tên là Kim Thoa…

Một hôm, tôi ghé thăm, chị cho tôi hay thằng con trai và đứa con gái út mới về làm ăn dưới CầnThơ, quê nội, còn chị thì dọn về ở với gia đình cháu Kim Thoa đâu đó vùng Thị Nghè.
Tôi thắc mắc:
– Giờ này mấy đứa nhỏ đã lớn khôn và có gia thất cả rồi, chị không còn phải lo lắng nuôi dạy chúng nó nữa. Sao chị không ở nhà nghỉ ngơi và trông cháu? Chị còn tiếp tục buôn bán kiếm tiền làm chi?
Nghe thế, chị Bền nhìn tôi rầu rầu:
– Chị đâu có cần nuôi ai! Chị chỉ nuôi hy vọng thôi! Chị ôm gánh xôi mỗi ngày ở đây chỉ vì chị coi chỗ này như một cái hộp thư. Biết đâu hôm nào đó có 1 ông của phòng “Zét” còn sống sót đi qua, thì chị sẽ có tin tức của anh Bền.
Ngày 5 tháng 5 năm 1992 những người tù cải tạo sau cùng được trả tự do; 1 trong những người đó là Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai, người đã chỉ huy tôi.
Một tuần sau tôi tới tư gia của Thiếu Tướng Giai để thăm ông.
Dịp này Tướng Giai đã nói với tôi:
– Thế là từ nay tất cả anh em mình đều đã được đoàn tụ với gia đình.
Tôi buồn rầu, nắm tay ông Tướng:
– Không phải vậy đâu Thiếu tướng ơi! Còn nhiều anh em đã ra đi mà chưa thấy về!
Trên đường về nhà, tôi đạp xe qua con đường xưa ghé thăm chị Bền. Chị vẫn còn ngồi chỗ cũ. Chị vẫn bán xôi. Chị vẫn chờ tin chồng.
Chị hỏi tôi:
– Em đi thăm ai về?
Tôi trả lời:
– Em vừa từ nhà Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai về, tiện đường ghé thăm chị. Ông Giai mới được thả tuần trước. Ông ấy là người sau cùng ra khỏi nhà giam.
Nghe vậy, chị Bền thở dài:
– Như thế thì anh Bền không về thật rồi! Anh ấy không về thật rồi em ơi!
Chợt chị ngẩng mặt nhìn tôi:
– Bây giờ là tháng 5, năm xưa anh Bền cũng ra đi vào tháng 5. Anh ấy không về, thì coi ngày anh lên xe cũng là ngày giỗ của anh! Chú có nhớ ngày anh Bền lên xe không?
– Hôm đó là 20 tháng 5 năm 1975.
– Hôm nay là ngày mấy rồi hả chú?
– Dạ! Hôm nay là 12 tháng 5.
Chị Bền bỗng hạ thấp giọng như tự nói cho một mình chị nghe:
– Còn 8 ngày nữa là tới ngày giỗ của anh. Anh Bền ơi! Em hẹn sẽ gặp anh đúng ngày hôm đó! Chờ em! Chờ em! Anh ơi! Anh ơi!…
Nghe chị Bền buông những lời than não lòng như thế, tôi bèn an ủi chị:
– Chị đừng quá bi thương, chị còn con, còn cháu. Chị hãy nhìn vào con, vào cháu mà quên đi những muộn phiền...
Chị Bền mở to đôi mắt nhìn tôi, rồi nói với một giọng thật là tỉnh táo:
– Chị ráng sống tới ngày hôm nay chỉ vì chị còn hy vọng.
Sau đó chị đứng lên, xếp gọn quang gánh chuẩn bị đi về.
Những lần qua đây sau ngày ấy tôi không còn trông thấy chị nữa.

Một năm sau, tháng 4 năm 1993 gia đình tôi lên đường đi Hoa Kỳ định cư theo diện H.O.
Trước ngày đi Mỹ, tôi ra thăm Ðà Nẵng lần cuối cùng. Trong chuyến đi này, tôi có dịp ngồi trên xe đò qua cầu Bồng Sơn, Bình Ðịnh.
Chiếc xe già chở đầy khách, bò từ từ trên cây cầu dài, dưới sông nước cuồn cuộn đục ngầu.
Nhìn những cụm lục bình trôi băng băng xuôi dòng, tôi chợt rùng mình, nhớ lại chuyện xưa.
Tôi tin rằng ngày 20 tháng 5 năm 1975 Thượng Ðế đã ra tay cứu tôi thoát khỏi chuyến xe oan nghiệt chở tù binh đi Quân Khu 5, vì nếu Ngài không sắp đặt sẵn những điều đã xảy ra ngày hôm đó thì chắc chắn giờ này linh hồn tôi đã vật vờ đâu đây, dưới chân cầu Bồng Sơn hay trên sóng sông Lại Giang…

Seattle tháng 5 năm 2021
Vương Mộng Long

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Image

Câu chuyện một biệt kích Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Phú Khải

Khắc đậm lời thề trên khép súng
Hẹn ngày trở lại nước nhà yên
Trần Thanh

Tôi từng có cơ hội tiếp xúc với các cựu quân nhân thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở mọi cấp tướng tá úy trước đây. Tôi cũng có cơ hội trao đổi với nhiều thành phần quân cán chính, kể cả những bác sĩ từng phục vụ trong Thủy Quân Lục Chiến. Những cơ hội này đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt trong tôi về tinh thần chiến đấu hy sinh, về tình yêu quê hương đất nước và cho con người Việt Nam, của người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Như đã từng chia sẻ trên Blog này, hiếm ai sống trên đời này mà không trải qua những chấn thương tâm lý hay cảm xúc (trauma) khác nhau. Người lính, dù được huấn luyện và trang bị đến bao nhiêu nữa, sự chết chóc hay thương tích trong mọi cuộc chiến tranh, hẳn sẽ ám ảnh họ mãi. Sự đụng độ và trải nghiệm càng nhiều, thì sẽ càng ghi sâu vào trong bộ óc của một người. Khi chấn thương quá nặng, khả năng bị rối loạn thần kinh, như Post-Traumatic Stress Disorder (PTSD), là khó tránh khỏi. Hình ảnh người dân bị giết chết trong chiến tranh, và các em bé mồ côi, còn ám ảnh mãi trong lòng nhiều người lính. Những người lính thuộc bên đồng minh như Mỹ, Úc v.v… có khi chỉ phục vụ hai năm rồi về lại nước, mà còn bị hệ quả của hậu chấn thương này. Còn những người lính Việt Nam Cộng Hòa thì phải phục vụ mãi, không có sự lựa chọn khi đất nước đang chìm trong khói lửa. Ngay cả khi chiến tranh chấp dứt, sự đầy đọa, trả thù bởi bên thắng trận vẫn chưa ngưng. Nhiều năm tù đầy. Mãi cho đến bây giờ, không còn tù đầy, nhưng vẫn tiếp tục bị bên thắng trận đầy đọa tinh thần, tâm lý. Người lính Việt Nam Cộng Hòa có bao giờ được nguôi ngoai, được có cơ hội lành lặn vết thương!

Mới đây, tôi đã gặp được một người lính Việt Nam Cộng Hòa thật là đặc biệt. Ông tên là Trần Thanh, cư ngụ tại Adelaide từ đầu thập niên 1980. Từ trước đến nay ông chỉ kể lại cuộc đời binh nghiệp của mình cho vợ con trong nhà nghe. Ông hiếm khi nào tâm sự với người ngoài. Có thể vì kể cho người khác nghe không phải là điều ai cũng cảm thấy thoải mái chia sẻ. Nghe vài mẩu chuyện ông kể về cuộc đời binh nghiệp, tôi mong muốn được viết lại câu chuyện này nhân ngày 19 tháng 6, ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thoạt đầu, ông không mặn mà lắm, mặc dầu ông có nói rằng ý tưởng ngồi xuống viết lại thành sách cho con cháu đã có trong ông từ lâu. Ông định vậy, nhưng cho đến nay, vì mưu toan cuộc sống, ông vẫn chưa thực hiện được. Khi biết tôi muốn viết về câu chuyện của ông, ông bảo rằng câu chuyện của ông cũng đâu khác gì câu chuyện của hàng triệu người lính Việt Nam Cộng Hòa khác. Công khó của hàng triệu người đều gian khổ, hy sinh xương máu, trong cuộc chiến. Ông may mắn còn chân tay lành lặn mặc dù những ngày vào đông, đầu ông vẫn giật lên những cơn đau từng hồi bởi những miểng đạn còn trong đầu.

Thuyết phục lắm, ông Thanh mới chịu đồng ý trao đổi cùng tôi.

Ông Thanh bắt đầu đời lính lúc còn rất trẻ. Ông chia sẻ:

Tôi sinh năm 1948, là con trai trưởng trong một gia đình khá giả ngoài Bắc. Tôi theo thầy mẹ di cư vào Nam năm 1954 và lớn lên tại xã Phước Tỉnh. Tôi tham gia đi lính vào lúc 17 tuổi. Khoảng năm tôi 20 tuổi, tôi lập gia đình, thì sau đó một năm, chúng tôi có được đứa con gái đầu lòng, sinh năm 1969. Các lực lượng tôi từng tham gia bao gồm Biệt kích Mike Force, tiểu đoàn 52, Biệt Động quân, Sư đoàn 25, rồi sau cùng là Biệt kích do Bộ Tổng Tham mưu chỉ huy. Toán Biệt kích của tôi thuộc Quân số 1, Bộ Tổng Tham mưu. Tôi phục vụ cho đến khi tôi 26 tuổi, thì bị bắt vào năm 1974.

Phạm Phú Khải: Ông đi lính lúc 17 tuổi, có phải vì ước nguyện của ông và được sự chấp thuận của ba mẹ ông vào lúc đó không?

Trần Thanh: Thành thật mà nói lúc đó tôi học rất giỏi. Nhưng một phần vì tôi giận thầy tôi, nên tôi muốn chọn con đường không còn bị ràng buộc bởi gia đình. Phần khác, tôi nghĩ trong hoàn cảnh đó, tôi không thể ngồi yên được khi đất nước đang dầu sôi lửa bỏng. Cho nên sự tham chiến của tôi cũng là điều khác thường. Tôi phải đi mượn giấy khai sinh của người khác, khai tên giả, tuổi giả, để tôi có thể được tham chiến. Khi tôi vào quân đội rồi, được phục vụ trong các binh chủng khác nhau, tôi cũng không hài lòng với những nơi này, nên lại tiếp tục mượn giấy khai sinh của bạn bè để nộp đơn xin được tuyển vào các binh chủng gây cấn. Binh chủng tôi phục vụ sau cùng là Biệt kích. Nhiều người biết đến tôi qua tên Trần Thanh, hoặc Mai Văn Kim.

Phạm Phú Khải: Vậy ông ở trong Biệt kích được bao lâu?

Trần Thanh: Tôi ở Biệt kích rất lâu, 6 năm tổng cộng trong cuộc đời binh nghiệp 9 năm. Vai trò của toán chúng tôi cũng đặc biệt. Chẳng hạn, lực lượng Trinh sát là đột nhập vào để quan sát tình hình, không được chạm súng, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng. Sau khi Trinh sát báo cáo tình hình, và trước khi đơn vị Hành quân vào, thì Biệt kích vào trước, để dọn đường và để giải quyết nếu có tình huống khó khăn.

Trong thời gian tôi phục vụ, đó là thời điểm dầu sôi lửa bỏng nhất. Hầu như đụng trận với bên địch 7 ngày trên 10 ngày. Có những đêm bị pháo đến nỗi máu tai máu mũi xịt ra. Không thể nào diễn tả được những tình cảnh như thế. Không cần nói về các vụ đụng trận, chẳng hạn khi đi hành quân, lúc phải đi vệ sinh chừng năm phút thôi là đã có cả trăm con vắt bu vào người. Nếu kể ra cho người không biết thì có thể nói mình nói bậy nói xạo. Vậy là thế nào? Tại vì Đơn vị 3 của chúng tôi đến ngay chỗ đó thì mới biết đó là cái rừng vắt. Còn đi hành quân qua miền Tây thì phải đi qua vùng sình lầy. Đỉa to bằng ngón tay. Nó bu cắn khắp người. Thật ra thì người lính trong quân đội không phải ai cũng trải nghiệm giống nhau. Cho nên, có khi mình trải qua và kể lại chưa chắc những người trong quân đội tin, nói gì người ngoài.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp của ông, điều gì làm cho ông không thể nào quên cho đến bây giờ?

Trần Thanh: Tôi từng chiến đấu nhiều mặt trận khác nhau. Nhưng nhớ nhất là mặt trận ở Phước Long. Vào khoảng tầm 4 giờ chiều, nơi đây bị hai trái bom bắn xuống cầu Đắk Lung, chết mấy ngàn người, già trẻ lớn bé. Toàn là dân thôi. Có những gia đình mà có ba bốn đứa nhỏ nheo nhóc, còn bố mẹ gia đình nằm chết dài dài. Thấy xác chết banh thây, không còn gì lành lặn hết. Vào cỡ 9 giờ sáng hôm sau, tôi nhìn thấy một bé gái, chừng 9, 10 tuổi, mặt tái mét, mặc áo nâu ngắn tay, quần đen, ngồi co ro ôm đứa em cỡ một tuổi. Nhìn thấy nó, tôi nghĩ đến con tôi. Tôi đoán con bé đã bế em nó suốt buổi chiều, và qua một đêm. Mà nhiệt độ vào lúc đó chỉ khoảng không độ, rất lạnh. Tôi hỏi bố mẹ con đâu, thì bé chỉ vào các xác chết nằm đó. Gia đình tám xác chết, bố mẹ nằm phơi thây. Con bé ngồi bế đứa em bị sứt mũi, máu me còn dính khô đầy trên mặt. Tôi bảo để chú ôm em cho con một chút thì đứa em dường như nghe thấy, nó vội ôm chặt lấy chị không chịu. Tôi bồi hồi xúc động khi con bé van xin: “Chú ơi chú, chú nuôi con với chú.” Tôi không biết nói sao, cứ ừ lúc đó. Con bé nói tiếp: “Chú nuôi em con nữa chú nhé”. Với tôi, thì cảnh lính chết khi lâm trận là bình thường. Nhưng cả gia đình chết, chỉ còn hai bé nhỏ, vô tội, lại nói với mình những lời như vậy, thì nó ăn sâu vào trong tâm trí, ám ảnh mình, không thể nào quên được.

Các mặt trận như suối Tàu Ô tại quốc lộ 13 (còn gọi là quốc lộ máu), xác Nhảy dù, Biệt Động quân, Thuỷ quân Lục chiến, v.v… nổi lềnh bềnh. Chuyện đó mình thấy thường trong cuộc đời binh nghiệp. Nhưng khi thấy dân làng và trẻ con như thế, sự kiện này cứ mãi ám ảnh tôi từ suốt 50 năm qua.

Phạm Phú Khải: Tinh thần đồng đội trong đời binh nghiệp của ông thì sao?

Trần Thanh: Toán Biệt kích tôi có bảy người, tôi là trưởng toán. Chúng tôi uống máu ăn thề với nhau.

Có những đêm khi xác của đồng đội mình chưa lấy về được, vì bên địch đang cách mình không bao xa, rất nguy hiểm để lấy xác về, thì tôi không làm sao yên giấc được.

Tôi còn nhớ tại Suối Tàu Ô, một người em trong đội tên Phát, to con như Mỹ, cao hơn 1.8m. Đang đi thì bị bắn, nó chết đột ngột quá, chết đứng luôn. Xong rồi Phát gục xuống. Nên đêm đến, tôi quyết định bò lên lấy xác.

Lợi dụng đêm tối trời mưa và giông bão, tôi vắt dây ba lô, dây giầy và dây võng, đủ dài, lấy nhiều sợi. Tôi bò lên một mình. Tay Phát lúc đó cứng quá, nó như gồng lên vậy. Tôi nói với Phát: “Em à, em gồng lên như thế thì anh không thể cột tay em được.” Nói xong thì tay Phát tự nhiên mềm ra. Người Phát cũng như nhẹ hẳn ra. Vì vậy, mặc dầu tôi là người Công giáo, tôi tin con người sống khôn chết thiêng.

Tôi cột xong thì tôi bò thụt lui để kéo xác Phát về. Tôi lấy được xác Phát về đêm đó.

Phạm Phú Khải: Tại sao ông lại làm điều đó, có ai ra lệnh chỉ huy không? Lúc đang làm thì ông nghĩ gì?

Trần Thanh: Tôi không nghĩ gì hết. Không ai bắt tôi làm cả. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến tinh thần anh em đồng đội và nhớ đến lời thề buổi ban đầu đồng sanh cộng tử. Chỉ nghĩ thấy anh em đồng đội mình bị vậy thì mình phải làm, vậy thôi. Phải lấy xác về.

Phạm Phú Khải: Trong cuộc đời binh nghiệp, ông có sợ không? Có sợ chết không?

Trần Thanh: Lúc bắt đầu nhập ngũ, thấy xác chết thì tôi cũng rất sợ. Nhưng sau một thời gian, vì nhiệm vụ của mình, vì không còn sự chọn lựa nào, nên cũng phải hết sợ thôi. Lâu ngày từ nhát thành gan dạ, từ sợ hãi lúc ban đầu khi thấy đạn bắn trên đầu mình 5, 7 mét, sợ hú vía, thì sau này, thay vì sợ, tôi tập lắng nghe tầm đạn nó bay cỡ nào để phỏng đoán, phòng ngừa. Học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm từ các mật khu như Dương Minh Châu, mật khu Hố Bò, Bời Lời, là những địa thế mà đất nó khô, có thể gài mìn, lựu đạn nhiều. Còn miền Tây đất ướt, không gài mìn được. Tuy nhiên, cộng sản nó cũng ghê lắm. Nó chờ cho mình qua bưng rồi nó phục kích, ở những chỗ hiểm nghèo.

Phạm Phú Khải: Ông có bao giờ bắt sống lính cộng sản không? Và nếu có thì cách đối xử của ông với họ ra sao?

Trần Thanh: Tôi đã từng bắt có lúc mười mấy người. Tôi còn nhớ trong người tôi có bao thuốc hút dở dang. Tôi đem phát cho mỗi người điếu thuốc. Tôi quan niệm rằng, người ta cũng vì hoàn cảnh, giống như mình ở bên này chiến tuyến, thì phải đi lính thôi. Trong sự bắt buộc, thì nếu là tôi cũng phải làm vậy. Phải bảo vệ tính mạng của mình và đồng đội thì nhiệm vụ mình phải bắn. Họ cũng thế thôi.

Tâm niệm của người lính VNCH là thêm bạn bớt thù. Không thể thù người lính. Thù là thù chế độ thôi. Không phải người đương đầu với mình trên mặt trận. Cho nên tôi phát thuốc cho họ. Hỏi thăm họ. Hành động đến từ con tim của tôi. Họ có vẻ xúc động lắm. Chính khi tôi phát thuốc cho họ, đơn vị đàn anh nhìn thấy tôi thì vẫn hài lòng hành động của tôi. Không phải tất cả, nhưng có thể nói, đa số người lính Việt Nam Cộng Hòa có tinh thần bao dung như thế.

Phạm Phú Khải: Những lúc đi hành quân như vậy, ông có nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ con không?

Trần Thanh: Trong những lúc hành quân xa nhà, tối đến, ở những nơi rừng sâu nước độc, những nơi vắng lạnh, đèo heo gió hú, tôi nhớ quê nhà da diết. Hình ảnh thân thương cha mẹ, vợ con, anh chị em, cứ hiện ra. Bao nhiêu hình ảnh đó tràn ngập trong tim tôi. Ngay trong giấc ngủ, tôi vẫn nhớ gia đình khôn nguôi, thương vợ thương con. Phập phồng lo sợ sống nay chết mai, đời mình sẽ ra sao. Có chết toàn thây hay cụt chân như bạn bè mình v.v…

Cho nên có lần đi hành quân, đụng trận ở An Lộc xong, tôi được ra ngoài phố. Tôi có mang theo cây súng của mình. Tôi gặp một ông điêu khắc ngay tại chợ. Tôi nhờ ông khắc cho tôi câu thơ trên khẩu súng của mình:

“Khắc đậm lời thề trên thép súng
Hẹn ngày trở lại nước nhà yên”
Trần Thanh

Phạm Phú Khải: Khi ông bị bắt rồi, ông có bao giờ nghĩ ông sẽ có cơ hội sống sót để trở về với vợ con ông không?

Trần Thanh: Tôi còn nhớ như in, chuyến bay cuối cùng thả tôi đến Phước Long mang danh hiệu C123. Không ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời binh nghiệp của tôi.

Tôi bị bắt khi bò lên trên đỉnh núi Bà Rá. Mới lên chỉ một phần ba là bị bắn, nằm xỉu luôn. Tôi không nhớ rõ ngày tháng bị bắt, có thể là giữa năm 1974.

Khi tôi bị bắt, bị xiềng xích, đưa vào mật khu Bù Đốp. Không có cơm ăn. Chỉ có củ mì giã nát ra, trộn với chút gạo rang cháy, nấu lên, đảo với nhau, lăn ra cho dễ ăn mà người lính chúng tôi gọi là bánh xe lăn hoặc là bánh xe lãng tử. Rồi muối hột, trộn với gạo rang cháy pha vô cho có chút màu như nước mắm ăn cùng với bánh xe lăn. Trong những tháng đầu ăn như thế, mặt tôi như không còn tí máu. Tôi nghĩ tôi sẽ chết. Chết tại đó thôi. Vì ngày nào cũng thấy khiêng ra 7, 8 xác chết. Lúc đó vì bị hành hạ đối xử và vì ăn uống thiếu thốn, nên sức khỏe kiệt quệ. Có một đêm, tôi vừa rét vừa đói. Tôi thầm khấn nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, nếu Chúa định cho con chết tại đây, con xin được chết lành; và xin Chúa cho vợ con của con biết rằng con đã chết ở trên đây.” Lúc đó tôi không nghĩ tôi có thể sống sót được. Hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ nghĩ mình sẽ chết thôi.

30 tháng 4, lúc đó tôi vẫn còn đang bị nhốt ở mật khu Bù Đốt, Phước Long.

Lúc được thả về, tôi mới hay rằng trước khi mất nước, vợ tôi đã lãnh tiền tử của tôi gần một năm trời, nên ai cũng nghĩ tôi đã chết rồi.

Phạm Phú Khải: Lúc ông tưởng mình sắp chết, ông không hề nghĩ là Việt Nam Cộng Hòa sẽ mất?

Trần Thanh: Đúng vậy. Khi tôi bị bắt, trong đầu tôi không bao giờ nghĩ Việt Nam Cộng Hòa có thể thua được Việt Cộng. Lúc đó là khoảng năm 1974. Tôi nghĩ lúc đó có thể bị thất trận, một mặt trận như tại Phước Long, bình thường thôi. Nhưng không thể nào thua cuộc chiến. Không bao giờ tôi nghĩ có thể mất nước. Không thể tưởng tượng, chứ đừng nói là nghĩ đến.

Tôi không thể nghĩ là cộng sản sẽ thắng miền Nam Việt Nam. Tại tôi từng chiến đấu, tôi biết khả năng của Việt Nam Cộng Hòa. Như trong mặt trận An Lộc, thiết đoàn của cộng sản gồm 100 chiến xa, ba công đoàn pháo, ba công trường chủ lực, tương đương với sư đoàn, như công trường 7, 9 và 325 thép và 3 trung đoàn pháo. Đánh An Lộc như vậy mà họ vẫn không lấy được. Hoặc cổ thành Quảng Trị, đánh bao nhiêu lần mà cộng sản vẫn không lấy được. Suối Máu, quốc lộ 13, họ vẫn không chiếm được. Còn Phước Long thì rất nhỏ so với An Lộc, nên không thể so sánh được. Phước Long có mất cũng chỉ là thua trận nhỏ thôi. Nên tôi luôn nghĩ mất mặt trận này là bình thường. Nhưng sẽ không bao giờ thua cuộc chiến.

Phạm Phú Khải: Nếu một ngày nào đó có cơ hội gặp lại những anh em từng sống chết với ông, thì ông sẽ nói điều gì với họ?

Trần Thanh: Cho tới giờ phút này, tôi vẫn còn thương nhớ về những đồng đội của tôi. Thằng Phước, thằng Long, thằng Bé, thằng Bẻng, thằng Phương, hiện giờ sống ở đâu, sống ra sao, trong khi chân cụt, tay cụt v.v… Trong toán thì có hai thằng cụt chân, hai thằng cụt tay, một thằng bể bụng ruột lòi ra mà tôi vừa chạy vừa vác theo, nhưng tôi biết nó vẫn còn sống, ít nhất là sau đó (Kim Hiền thì chết banh xác tại Phước Long và Phát, như đã kể trên thì chết tại trận An Lộc). Còn hiện nay, tôi không rõ các chiến hữu của tôi, các em tôi, ra sao. Tôi chỉ ước mơ làm sao gặp lại một trong những đồng đội này của tôi. Để nhớ nhau mãi trong cuộc đời binh nghiệp. Ước mơ đó không biết có thực hiện được không. Ai sống ai chết, tôi không rõ. Tôi cũng già rồi. Những điều này cứ hiện lại trong đầu tôi. Lâu lâu lại càng thấy nhớ da diết. Có những đêm, tôi vẫn gọi tên đàn em tôi trong giấc mơ.

Có một chuyện tôi nhớ vô cùng về đàn em của mình. Một lần ngồi ăn với nhau, các em ngồi dưới đất, nhường cái nón sắt cho tôi ngồi lên. Khi tôi ngồi trên nón sắt, ăn chưa được nửa chén cơm, thì bị một quả pháo ầm bên cạnh. 4 thằng em của tôi bị dính hết. Lúc đó đầu tôi đội cái nón bo, miểng pháo bay xuyên qua nón, xén một mớ tóc trên chỏm đầu mà tôi may mắn không bị hề hấn gì. Tôi nghĩ các em tôi phải chịu sự hy sinh vì tôi.

Cho nên, nếu nhận ra người từng sống chết với mình, đồng cam cộng khổ với mình, thì đầu tiên chưa nói được gì, ôm khóc trước đã. Bắt buộc thôi. Làm sao nói được. Bây giờ gặp bất cứ đồng đội nào, tôi cũng ôm khóc trước. Khóc cho đã rồi nói sau. Thương họ, như máu thịt của mình thôi. Tại vì ngày đêm sống chung nằm chung. Ở nghĩa địa, rừng sâu, núi thẳm, đều giúp đỡ lẫn nhau. Chia sẻ từng ly từng tí, từ đói no, mọi thứ. Có những đêm đói quá đi kiếm cơm ăn. Đào hầm đào hố trùm bạc ở trên để nấu miếng cơm ăn lót dạ. Nói không thể hết được. Nên tình nghĩa gắn bó sống chết có nhau.

Phạm Phú Khải: Ông muốn con cháu ông, người đời, nghĩ về ông như thế nào?

Trần Thanh: Tôi tự hào làm một người lính Việt Nam Cộng Hòa. Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải hy sinh gian khổ để chiến đấu cho sự sống còn của tổ quốc, gia đình, và chính bản thân tôi. Đối với riêng tôi, khi được hòa mình trong đời binh nghiệp rồi, dù trong bất cứ trường hợp hay hoàn cảnh nào, phải bền tâm vững chí chấp nhận mọi sự hy sinh gian khổ để làm tròn bổn phận của người lính. Phải chấp nhận thì mới hoàn thành được nhiệm vụ trong mọi khó khăn, hoàn cảnh, thử thách.

Tôi quan niệm rằng thời trai, trong hoàn cảnh đất nước loạn ly, nhiệm vụ và bổn phận của người trai là phải gánh vác trách nhiệm. Mình phải làm như thế để làm gương cho con cháu sau này. Các thế hệ mai sau hiểu rằng ông bà tổ tiên mình đã dầy công đổ mồ hôi nước mắt và xương máu bảo vệ từng mảnh đất giang sơn mà tổ tiên để lại. Như thế, sau này đất nước có lâm nguy, thì các thế hệ mai sau cũng cần phải có tinh thần như thế để bảo vệ từng tấc đất quê hương.

Phạm Phú Khải: Cảm ơn ông đã dành cho tôi cuộc trò chuyện đặc biệt nhân ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6. Mong chúc cuộc sống còn lại của ông được bình an và yên vui với gia đình. Hy vọng một ngày nào đó, ông có cơ hội ngồi xuống viết lại hồi ký về cuộc đời của mình, nhất là quãng đời binh nghiệp, để con cháu sau này hiểu rõ ông, hiểu về những người lính Việt Nam Cộng Hòa, và về lịch sử đấu tranh bảo vệ miền Nam.

Vài lời cuối: Gần 50 năm sau, ông Trần Thanh mới đồng ý công khai chia sẻ mẩu chuyện về cuộc đời binh nghiệp của mình. Tôi hiểu rằng những gì ông chia sẻ trong này, kể cả những lần đi hành quân tác chiến, tù đầy bởi cộng sản, hay dằn vặt vì trải nghiệm hậu chấn thương khi cơn đau đến, v.v… chỉ là một phần rất nhỏ và không đáng kể so với những gì đã xảy ra trong cuộc đời ông. Biệt tài, công trạng, huấn luyện (ông đã đậu thủ khoa hàng đầu trong khóa của mình về các bộ môn), nhưng ông không muốn chia sẻ nhiều lúc này. Tôi ước gì có thể viết lại, diễn tả hết được, cái bức tranh tổng thể đó, về con người ông. Những người lính Mỹ, lính Úc tham chiến Việt Nam, khi về nước, tuy bị đối xử bất công lúc ban đầu, nhưng sau này những công trạng của họ đều được chính thức ghi nhận. Còn những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu, và hy sinh, mà không bút mực nào tả xiết, nhưng cho đến nay lịch sử không đứng về phía họ. Viết lại câu chuyện của ông Trần Thành, và hy vọng những người khác, cũng là một trong những nỗ lực nhỏ nhoi để góp phần đem lại sự thật cho giòng lịch sử hiện đại của Việt Nam.

User avatar
macco
Posts: 3542
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by macco »

đôi mắt mùa xuân

Phạm Tín An Ninh

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, lằn ranh sống chết còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc trách hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cữu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by muanuadem »

Image

Tuy Hòa – Một Thời Gió Cát
Phạm Tín An Ninh
Tôi không phải là người Phú Yên, cũng chẳng có mối tình nào gởi lại Tuy Hòa, nhưng dường như cái xứ có núi Nhạn sông Đà thơ mộng ấy đã mãi vương vấn tâm hồn tôi, in đậm trong ký ức tôi những mối tình đẹp, thật dễ thương của đám bạn bè, đồng đội, cùng bao kỷ niệm vui buồn một thời trận mạc. Khi ấy bọn tôi còn rất trẻ, đa số vừa mới rời khỏi học đường vài ba năm để bước chân vào nơi gió cát.

Ngày mang “sự vụ lệnh” về trình diện đơn vị tại Ban Mê Thuột, tôi và bốn thằng bạn cùng khóa cứ ngỡ cuộc đời mình sẽ dính liền với rừng núi của xứ “bụi mù trời” và “buồn muôn thuở”, chỉ còn biết nằm nghe tiếng chim kêu vượn hú. Ai ngờ sau hai tuần lang thang quanh quẩn trong con phố buồn hiu, ngắm mấy cô gái Thượng mang gùi đi xuống đi lên trên con đường A Ma Trang Long bám đầy đất đỏ, bọn tôi được ông Trưởng phòng 1 lái xe đi tìm chở về Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, vội vàng lấy balô quân trang, rồi đưa thẳng ra phi trường Phụng Dực, tháp tùng phi cơ của ông tư lệnh, đại tá Lữ Lan, bay xuống đơn vị đang hành quân tại Khánh Hòa, ngay vùng biển quê hương tôi.

Đơn vị tôi lúc ấy, chắc cũng thuộc loại đánh đấm có hạng nên được chọn làm lực lượng lưu động trừ bị cho Quân Đoàn. Nay đây mai đó.Trước khi di chuyển đến đây, đã có mặt khắp nơi: từ Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, đến Lâm Đồng, Quảng Đức…

Khi đến đơn vị, tôi rất vui. Vì ngoại trừ ông tiểu đoàn trưởng, hầu hết tất cả sĩ quan trong đơn vị đều trẻ măng, độc thân vui tính, anh nào “đàn anh” nhất cũng chỉ vừa rời ghế nhà trường năm ba năm. Ba anh trung úy đại đội trưởng đều dạn dày lửa đạn. Một anh tốt nghiệp khóa 16 VB Đà Lạt, hai anh khóa 13 Thủ Đức, một gốc Huế một gốc Bắc Kỳ di cư. Nhưng anh nào cũng đánh đấm rất gan lì và vui vẻ chịu chơi. Tôi được bổ nhậm về đại đội của anh trung úy gốc Huế nhưng lại thân thiết với anh trung úy gốc Bắc Kỳ, vì ngoài các đức tính khác anh còn có nụ cười và ánh mắt dễ làm “chết người ta”. Không biết có bao nhiêu “hồn (đã) lỡ sa vào đôi mắt…anh” rồi, nhưng tôi là thằng lính ngang tàng mà cũng phải lụy anh trong cái tình huynh đệ. Sau này và cho mãi đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn giữ cái tình “anh em tri kỷ” ấy. Đám trung đội trưởng tò te, ngoài tôi ra còn có bốn thằng cùng khóa 18 Thủ Đức với tôi, vài ba anh khóa 15, 17 và hai chàng khóa 19 VB Đà Lạt đầy phong độ, cũng vừa mới ra trường năm ba tháng trước. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 thằng lính, nửa Kinh nửa Thượng. Ngay sau khi nhận trách nhiệm, công việc đầu tiên của tôi là dắt đám lính tráng vào QYV Nguyễn Huệ để dự đám tang, chào tiễn đưa ông Thượng sĩ già, trung đội trưởng tiền nhiệm ra nghĩa trang Đồng Đế. Ông vừa tử trận vài ngày trước đó trong một trận phản phục kích tại Tu Bông (Vạn Giã) và tôi đến trung đội để thay thế ông. Nhìn bà vợ và mấy đứa con của ông kêu gào, khóc la thảm thiết, tôi hình dung ra con đường thê lương trước mặt, và tự trấn an mình: mai này mình chết, may ra cũng không có tiếng quả phụ và trẻ thơ khóc lóc!

Thời ấy, nhờ ảnh hưởng kết quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược còn sót lại, nên tình hình địch ở mọi nơi còn rất yếu, hầu hết là các lực lượng du kích và địa phương, nên bị tiểu đoàn chủ lực lưu động thiện chiến của tôi đánh cho tan tác. Do vậy chúng tôi đến đâu, cũng được các ông tỉnh trưởng đón tiếp nồng hậu. Sau hơn ba tháng theo đơn vị tiếp tục hành quân qua nhiều làng mạc, rừng núi và dẫm nát những mật khu Đồng Bò, Đá Bàn, Hòn Hèo của địch, đơn vị kéo về trú đóng trong một vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Đám sĩ quan bọn tôi được ông tỉnh trưởng ưu ái dành cho bốn phòng trong khách sạn Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa. Mệt và mất ngủ vì vừa trải qua cuộc phục kích đêm hôm trước, nên sau khi tắm rửa xong, tôi ngủ vùi một giấc. Thức dậy, nhìn ra ngoài, ánh đèn đường đã bắt đầu sáng. Mở ba lô tìm bộ quân phục mới để thay bộ quần áo trận còn dính đầy bùn lầy, cho hợp với khung cảnh phố phường. Dự định đi một vòng tìm lại những hang động tuổi thơ cùng dấu tích mấy mối tình học trò của vài năm trước, tôi bỗng nghe tiếng ông tiểu đoàn trưởng gọi tất cả bọn tôi lên xe trở về đơn vị, điểm danh sắp xếp lính tráng lên tàu Hải quân, đã ủi bãi ngay phía trước TTHL Hải Quân.

Ra khơi lúc 11 giờ đêm. Qua hơn một đêm lênh đênh trên biển, tàu cặp vào bến của Duyện Đoàn 24 HQ bên bờ biển Tuy Hòa. Trong số những người ra đón đơn vị chúng tôi, ngoài ông tỉnh trưởng- trung tá Trần Văn Hai, anh trung úy Duyên Đoàn Trưởng HQ, tôi còn bất ngờ nhận ra ông anh con bà cô, trung úy thuộc Tiểu Đoàn 23 BĐQ đang hành quân trú đóng ở đây. Từ khi anh vào quân đội, bao nhiêu năm anh em không gặp, bất ngờ lại nhận ra nhau ở một nơi xa lạ, vui mừng quá đỗi. Anh em vừa mới ôm nhau, hỏi han vài câu, thì đơn vị nhận lệnh lên xe di chuyển. Ông anh kéo tôi và mấy sĩ quan cùng đại đôi lên xe Jeep của anh chạy theo đơn vị. Về khu Nhà Bằng, vị trí đóng quân tạm, sắp xếp đơn vị xong, bọn tôi theo anh ra phố. “Moa đãi các toa một chầu để biết mặt Tuy Hòa – xứ nẫu”. Anh bảo thế trước khi lái xe đi.

Tôi bỗng giật mình khi nghe “xứ nẫu”. Cái tên “Nam Ngãi Bình Phú” và “Liên Khu Năm” vẫn còn hằn trong tâm trí tôi từ lúc mới lên năm, bởi cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra đây hơn ba năm khi ông là thầy giáo đang dạy trường Pháp Việt, và mẹ tôi qua đời trước đó hai năm. Kể từ ấy tôi sống với ông bà nội, thiếu vắng cả cái tình phụ mẫu.

Có lẽ đã phải trải qua những năm dài chiến tranh, nên phố xá Tuy Hòa ngày ấy còn “hoang sơ” lắm. Ngoài văn phòng Air Vietnam hai tầng và khu chợ mới xây dang dở, hầu hết là nhà cũ. Ông anh chở bọn tôi đến một cái quán nằm bên cây cầu, trên đường hướng ra Quốc Lộ 1. Tôi không còn nhớ tên, nhưng quán này nổi tiếng về món cá lóc nướng, và đặc biệt có mấy o Huế rất xinh. Để tránh tình trạng “tấn công nhầm mục tiêu”, ông anh tôi cho biết:

– Tuy Hòa có hai quán ăn nổi tiếng, đều có hai cô chủ “hoa khôi” gốc Huế, nhưng một quán đã có ông quan năm trung đoàn trưởng đóng đô, còn quán này là sào huyệt của ông chi đoàn trưởng Thiết Giáp có tiếng hào hoa.

Nhìn mặt thằng nào cũng buồn xo, ông anh tôi cười, an ủi:

-Yên chí đi! Tuy Hòa còn thiếu gì cô bé dễ thương. Trường trung học Nguyễn Huệ có biết bao cánh hoa biết nói, và mai mốt khi các toa ra vùng hành quân, sẽ có khối cậu chết mê chết mệt vì mấy cô gái quê! Bọn lính trong đơn vị moa thường kháo nhau: “Phú Yên đến dễ khó về” đấy!

Thấy trong đám bọn tôi có hai chàng khóa 19VB, ông anh cho tài xế chạy về đơn vị đón một anh cùng khóa 19 ra gặp bạn đồng môn. Hơn 20 phút sau, một thiếu úy BĐQ cao ráo đẹp trai đến nơi chạy vào tay bắt mặt mừng. Cái tình Võ Bị quả là thắm thiết. Anh được giới thiệu là ” Chương Classic” .Và để giải thích cái nick name của mình, anh mượn cây ghita của cô chủ quán, độc tấu mấy bản nhạc Tây cỗ điển. Ngón đàn của anh quả thật tuyệt vời!

Chỉ sau ba hôm ở thành phố, đơn vị tôi có lệnh di chuyển đi Hiếu Xương, đến đầu cầu Bàn Thạch để hành quân tái chiếm lại một vài nơi đã bị Cộng quân làm chủ tình hình. Ông tỉnh trưởng cũng đã cảnh báo đám sĩ quan trẻ chúng tôi:

-Ở vùng ấy nhiều gia đình có thân nhân theo VC, nên mấy chú phải cẩn thận, nhất là thấy mấy cô con gái đẹp đừng có vội nhào vô. Trước đây đã có một anh chàng sĩ quan đề lô Pháo Binh mết lòng con bé thợ may, hành quân xong cứ ra ngồi ngoài quán, cuối cùng không thấy trở về đơn vị nữa, mất tích luôn!

Đám lính trẻ bọn tôi “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chỉ còn nhớ tới “mấy cô con gái đẹp” trong câu nói ấy của ông thôi.

Trung đội tôi được lệnh đóng quân giữ an ninh cầu Bàn Thạch và khu vực chung quanh. Cây cầu xi măng đúc đã bị VC giật mìn sập, nên vừa được Công Binh bắc cây cầu gỗ tạm. Cầu nằm gần chợ, và phía bên kia là vùng mất an ninh. Một tiểu đội của tôi nằm tiền đồn bên ấy. Ban chỉ huy trung đội và một tiểu đội bố trí ngay dưới gầm cầu.

Sắp xếp vị trí đóng quân và canh gác xong, đã gần 5 giờ chiều, tôi bảo mấy chú lính dọn cơm ăn, để tôi còn đi một vòng chợ tìm xem các cô gái có “đôi mắt người …Phú Yên” ra sao. Vừa mang mấy lon guigoz cơm ra, bốn thằng chúng tôi chưa kịp cầm đũa, thì một trái lựu đạn từ trên cầu rơi xuống. Một anh lính phát giác la lên, cả bọn kịp lăn mình qua bên kia tấm cầu đúc (bị sập xuống), nhưng trái lựu đạn không nổ! Chỉ năm phút sau, người ném lựu đạn bị toán lính của tôi bên kia cầu đuổi bắt. Đến nơi, tôi ngạc nhiên khi nhận ra, không phải một, mà là hai cô con gái quê, tuổi cỡ 14-15, một cô khá xinh, có đôi mắt đẹp. Cô bé này chính là người ngồi phía sau xe đạp, ném trái lựu đạn định giết tôi – chàng “lính trẻ hào hoa”, chỉ mới vài phút trước đây có ý định đi tìm… đôi mắt ấy. Đưa hai nữ “địch quân” đến trình diện ông tiểu đoàn trưởng. Thấy hai cô bé vừa run vừa khóc, mặt mày tái xanh, ông “tâm lý chiến”rất hay, vỗ vai hai cô bé, vừa cười vừa ôn tồn nói chuyện. Hai cô khai hết sự tình, nên được dẫn về giao cho gia đình, vừa “chiêu hồi” và cũng vừa cánh cáo, theo dõi họ. Một tuần sau, toán quân báo tiểu đoàn bắt được người đàn bà trong mũi công tác đã dụ dỗ hai cô bé làm giao liên và ném trái lựu đạn xuống cầu.

Chiều hôm sau, đơn vị có lệnh xuất phát cuộc hành quân bao vây và đánh chiếm kho vũ khí của địch tại Đa Ngư-Phú Lạc, nằm trên một khu núi đá sát biển, địa thế khó khăn hiểm trở và được phòng thủ rất kiên cố bằng nhiều ổ súng đại liên.Tin tức cho biết địch quân đã chiếm làng Thạch Tuân và khu vực Hảo Sơn hơn hai tuần nay. Bộ đội địa phương vừa tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí từ miến Bắc chuyển vào khu núi Đa Ngư Phú Lạc bằng thuyền. Đơn vị tôi có trách nhiệm phải đánh chiếm kho vũ khí này và sau đó tảo thanh các khu vực địch trong vòng hai tuần để đưa một đơn vị Bảo An của Tiểu khu vào trấn giữ.

Đơn vị tôi được tăng cường Đại Đội 23 Thám Kích. Tất cả đều được trang bị mặt nạ chống hơi độc.Khởi hành từ tuyến xuất phát lúc 11 giờ trưa, mãi đến gần 3 giờ chiều chúng tôi mới đến khu vực mục tiêu, vì phải di chuyển qua những địa thế khó khăn hiểm trở để tránh bị phát hiện, gây yếu tố bất ngờ cho địch. Đại đội 3 của tôi đi dọc theo bờ biển đến phục dưới chân núi làm lực lượng án ngữ. Nỗ lực chính đánh chiếm mục tiêu là đại đội 23 Thám Kích và đại đội 2 của ông anh trung úy gốc Bắc kỳ. Không ngờ trận chiến lại khó khăn khốc liệt đến như thế, phải chia nhau từng nhóm nhỏ bò lên chiếm các hốc đá nằm bên ngoài căn cứ, bị địch phát hiện, cầm chân bằng đạn súng cối đủ loại và nhiều ổ súng đại liên. Vì đây là kho vũ khí, nên địch có đầy đủ các loại vũ khí và đạn dược. Cuối cùng phải nhờ đến phi yểm, mặc dù rất bất lợi vì trời chiều, sắp tối. Theo các trái sáng (cầm tay) được đồng loạt phóng lên đánh dấu vị trí bạn, cùng với sự hướng dẫn, chỉ điểm tài tình của anh phi công L19, hai phi tuần khu trục liên tiếp đánh bom rất chính xác xuống căn cứ địch, diệt các ổ súng đại liên, để lực lượng ta bám sát mục tiêu. Đại đội 23 TK và đại đội 2 của anh trung úy gốc Bắc Kỳ đánh đẹp một cuộc cận chiến, chiếm được căn cứ, một số tù binh bị bắt. Đại đôi 1 của anh trung úy Khóa 16VB kịp thời tăng cường bao vây và truy kích. Trận chiến kết thúc trước khi trời tối. Số chiến lợi phẩm thu được khá lớn, địch quân dự trù trang bị các loại vũ khí mới này cho các đơn vị thuộc Liên khu 5 của chúng. Tiểu đoàn kéo về Đông Tác dưỡng quân, được ông tướng tư lệnh Vùng và ông trung tá tỉnh trưởng đến thăm, mừng chiến thắng. Anh trung úy (nhiệm chức) gốc Bắc kỳ khóa 13 Thủ Đức được vinh thăng (điều chỉnh) trung úy thực thụ và tưởng thưởng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Anh trung úy khóa 16VB được ngôi sao vàng. Nhiều sĩ quan và binh sĩ có công cũng được trao gắn huy chương.

Ba ngày sau, được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân. Chiếm lại ngôi làng nghèo này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, Đá Bia. Một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự các cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi có lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn lối nào khác. Nhờ pháo binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng nilon còn cột chặt trên cây. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn nhiều cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời đổ mưa như trút nước. Đại đội 1 của ông anh Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế hoàn toàn bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu. Địch quân tháo chạy, bỏ lại vài chục xác chết và trên mười khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người khác bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra. Riêng trung đội của tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin pháo binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Tôi đi theo cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn: theo con đường sắt. Nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi bắn xuống. Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đóm lửa. Có cả đạn súng cối. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng vừa xin pháo binh bắn cản hậu, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm cả máu, nước mưa, và có thể có cả nước mắt (cho người thương binh -không có chút hy vọng sống- của mình).

Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích trong làng lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, cả toán du kích không chạy kịp bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể nào đến được vì không có an ninh lộ trình. Tối hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăn đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuồi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên với một nhạc sĩ tài hoa và khí khái mà sau này tôi mới biết.

Mục tiêu các cuộc hành quân đã hoàn tất, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về đóng quân dọc theo Quốc lộ 1, từ ngã ba Phú Lâm đến hết Bàn Nham, Bàn Thạch. Trung đội tôi lại nhận lãnh cái cầu (gãy) Bàn Thạch, nơi mà tôi được cô gái Phú Yên đón chào bằng một trái lựu đạn nội hóa. Cứ vài ba hôm chúng tôi lại tổ chức các cuộc hành quân (có khi luân phiên từng đại đội có khi cả tiểu đoàn) ở Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Sơn Thành, hay ra tận Ngân Sơn (Tuy An), Hiệp Mỹ, Tuyết Diêm, Hòa Phú, phía dưới đèo Cù Mông (Sông Cầu), giáp ranh Bình Định. Chấm dứt hành quân lại trở về “cứ điểm” Bàn Thạch. Lúc này con đường từ Bàn Thạch ra phố Tuy Hòa đã tương đối an ninh, nên những ngày không bận hành quân, bọn tôi được phép thay phiên nhau xuống phố Tuy Hòa. Cũng có những đón đưa trước cỗng trường Nguyễn Huệ, Bồ Đề. Cũng có những hẹn hò ngoài bãi dương, quán nước.Trong đám bọn tôi cũng vài thằng có những cuộc tình chợt đến chợt đi. Thì ra các cô gái Tuy Hòa trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm. Lúc ấy, tuổi trẻ bọn tôi còn cao ngạo: “mấy thằng lính ngang tàng này thì dễ gì mà chết trong mắt em”!, nhưng khi cô đơn lại tự an ủi mình: “đời lính tráng như vậy mà vui, không nợ nần, không làm khổ một ai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng!”, tránh cái cảnh như một ông nhà thơ sau này đã thốt lên lời bi thảm “anh trở về dang dở đời em”! Hồi còn trong lính, tôi ghét cay ghét đắng bài thơ được phổ nhạc này. Đám lính tráng về phép mà nghe được đôi lần, chắc nhiều thằng không muốn trở về đơn vị nữa. Nhưng bây giờ ngồi nghiệm lại, tôi thấy đúng, cho dù có chút đắng cay. Lính bị thương tàn phế, hay là lính bị đày ải trong tù “cải tạo” ngày trở về ít nhiều gì cũng đã làm dang dở đời em.

Dù vậy, trong đám bọn tôi cũng có ba chàng phá luật chơi. Một thằng, cùng khóa với tôi, yêu một cô bé học mới lớp đệ lục, nhà ở cạnh chợ Tuy Hòa, một tiệm bán đồ gỗ nhỏ. Bọn tôi cứ nhạo nó là “dụ dỗ gái vị thành niên” và “tiền lương của mày không đủ để mua gạo thúc cho nó lớn”! Vậy mà cuộc tình cũng gắn bó hơn một năm. Ngày đơn vị tôi từ giã Tuy Hòa, cô con gái ấy đã tốn khá nhiều nước mắt. Sau này dường như cô bé trở thành cô giáo, lấy chồng là một đồng nghiệp tốt nghiệp Sư Phạm Qui Nhơn. Thằng bạn của tôi được giải ngũ sớm vì cận thị nặng. Nó trở về tiếp tục sách đèn. Tốt nghiệp sư phạm Đại học Đà Lạt về dạy Triết tại vài trường trung học. Năm 1973, khi nghe bạn bè bảo tôi đang nằm dưỡng thương ở QYV Nguyễn Huệ Nha Trang, nó từ đâu tìm đến thăm. Khi nhắc tới thời lính tráng ở Phú Yên, đôi mắt nó sáng lên, bảo là nó vừa bất ngờ gặp lại cô bé Tuy Hòa ngày xưa, khi cả hai cùng làm giám khảo và giám thị một cuộc thi Tú Tài ở trường Nguyễn Huệ hay Cường Đễ gì đó. Nó cười, nhưng đôi mắt nó lại mơ màng nhìn về một nơi nào đó … xa xăm!

Một ông đàn anh khóa 14 Thủ Đức của tôi, SQ/CTCT Tiểu Đoàn, vốn tu xuất và bị động viên khi đang dạy ở một trường La San Taberd nào đó, lại vướng vào lưới tình của một cô giáo Bàn Thạch. Là con một của bà già góa bụa. Cô giáo có nhan sắc và hiền lành, cười nhiều hơn nói. Có lẽ lớn hơn tôi một vài tuổi. Chị tỏ ra rất thân tình với đám lính trẻ bọn tôi. Chỉ một thời gian, chúng tôi xem nhau như người nhà. Khi nào chán cơm lính, bọn tôi rủ nhau ra chợ mua thịt cá rồi kéo đến nhà chị để nhờ chị nấu cơm, rồi cùng nhau ăn uống và đàn địch ca hát cả ngày. Ông đàn anh “tu xuất” của tôi vốn làm thơ tình rất hay, đàn ca có “trường lớp” lắm. Nghe nói trước kia anh làm trưởng ca đoàn trong mấy nhà thờ. Anh thường đệm đàn cho cô giáo hát bài “Chuyện tình Lan và Điệp”. Giọng hát Phú Yên cũng não nùng ai oán lắm. Đặc biệt phía sau nhà có cái giếng nước rất trong, nên chúng tôi thường ghé vào tắm rửa sau các lần hành quân trở về. Sau này, ông đàn anh thuyên chuyển về Vùng 4 trong Nam.

Mãi đến năm 1980, tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù ngoài Bắc. Ngạc nhiên và thú vị khi nghe anh kể là anh vẫn còn độc thân, và cô giáo Bàn Thạch ngày xưa giờ cũng chưa chồng. Điều làm tôi sững sờ hơn là ông bố của cô không chết mà tập kết ra Bắc năm 1954. Sau 75 về lại Phú Yên và giữ một chức hàm khá lớn. Cô giáo bây giờ không làm nghề giáo nữa mà đang là một cán bộ, chủ nhiệm hay trưởng phòng gì đó của chính quyền CS. Anh còn khoe là cô giáo thường gởi quà cho anh, và còn cho tôi đọc ké mấy lá thư cô ấy viết, bảo là sẽ ra thăm anh, cũng như hứa hẹn bảo lãnh cho anh về Phú Yên, nếu anh thấy lo lắng không muốn trở về quê quán Mỹ Tho, và nơi ấy anh cũng chẳng còn ai, sau khi bà mẹ già đã mất. Nhưng không thấy cô đề cập đến chuyện “nối lại tình xưa”. Tôi ngại, nên cũng không dám hỏi anh. Cuộc tình “giữa hai chiến tuyến” này liệu có làm cho con tim thắng được tất cả mọi giáo điều chủ nghĩa, để vượt qua bao hận thù, tang tóc? Rất tiếc, tôi không tìm được câu trả lời này. Vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại anh ấy, mặc dù tôi đã nhắn tin và tìm hỏi rất nhiều bạn bè sang Mỹ theo diện HO. Đôi lúc, nghĩ về họ, tôi hình dung đến một đôi vợ chồng già sống hạnh phúc trong ngồi nhà ngói xưa ở Bàn Thạch, có khu vườn và cái giếng nước trong, anh đàn em hát; hay đang cùng quì xuống cầu kinh trong một ngôi nhà thờ nào đó. Cô giáo hiền thục ngày xưa không thể nào trở thành một “nữ đồng chí CS” thứ thiệt được, chắc cũng đã sớm nhìn ra cái lý tưởng hoang đường mà ông cha của cô đã mê muội theo đuổi, để đành lòng bỏ lại mẹ con cô một thời góa bụa cút côi, giờ chỉ còn lại bao hệ lụy đau lòng. Có thể cô đã từ bỏ mọi chức tước (nhờ vào thành tích”phấn đấu”của cha), để cùng người tình xưa – người lính khác chiến tuyến với cha cô – sống trong hạnh phúc bình thường. Cầu mong những người con gái Phú Yên, dù hoàn cảnh nào cũng luôn giữ trọn mối tình xưa.

Đặc biệt nhất, và cũng gắn bó nhất, chính là chuyện tình của ông đàn anh Khóa 13 gốc Bắc Kỳ, có nụ cười và đôi mắt dễ làm ” khuấy động trái tim người… ta” mà chúng tôi đã kết nghĩa anh em. Đại đội của anh là đại đội đánh đấm khá nhất, nên được ông tiểu đoàn trưởng tin tưởng, giao cho đóng quân và phụ trách vùng đất bất an nhất: từ phía nam Bàn Thạch đến tận làng Thạch Tuân, tiếp giáp Đèo Cả, ranh giới cuối cùng phía nam của tỉnh Phú Yên.

Ban chỉ huy đại đội đóng quân sau khu vườn của một ngôi nhà ngói lớn hai tầng duy nhất ở vùng này. Đối diện phía bên kia, sau con hương lộ, là ngôi trường tiểu học. Ông bà chủ nhà thuộc hàng khá giả, vừa làm chủ một cửa hàng tạp hóa ở tầng dưới, vừa làm nước mắm ở khu nhà sau. Một ngày cuối tuần, anh rủ chú lính cận vệ ra giếng tắm. Thầy trò chỉ mặc quần xà lỏn huýt sáo nhởn nhơ, bất ngờ gặp hai cô gái đang ngồi giặt áo quần bên thềm giếng. Sau khi bớt ngượng ngùng, hỏi ra mới biết là con ông bà chủ nhà, học ở Tuy Hòa, cuối tuần về thăm cha mẹ. Có lần tôi ghé lại thăm anh, được ông bà chủ nhà và hai cô con gái mời hai anh em tôi dùng bữa cơm thịnh soạn. Ông anh Bắc kỳ hào hoa nhưng rất kín miệng. Nhìn ánh mắt tôi biết là anh đang mết cô chị. Cô em còn bé lắm. Ông bà già mua hẵn một ngôi nhà khá khang trang ở phố Tuy Hòa, gần trường Nguyễn Huệ cho hai cô và một ông anh trú ngụ học hành. Là anh em kết nghĩa, vậy mà cuộc tình của anh, tôi không biết mặn nồng đến đâu. Chỉ biết lâu lâu anh lái xe bỏ bọn tôi xuống phố Tuy Hòa, lì xì vài chục uống bia, rồi phóng xe đi một mình. Đúng hẹn ghé đón bọn tôi với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi.

Hơn một năm từ ngày đổ quân xuống Tuy Hòa, cũng vào một ngày hè nắng cháy, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi Phú Yên, bàn giao trách nhiệm lại cho Trung Đoàn 47 biệt lập từ Bình Tuy ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đóng ngoài Bình Định. Đơn vị tôi cùng chi đoàn Thiết Quân Vận của ông đại úy tài hoa Bùi Thế Dung, lại lên tàu há mổm xuôi nam, đổ quân xuống Phan Thiết.

Ông đàn anh Bắc Kỳ của tôi sau này lên làm tiểu đoàn trưởng, đánh thắng một trận lẫy lừng tại Căn Cứ 6 Pleiku đầu năm 1971, đươc ông Tướng Vùng gắn lon thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Sau đó được ông tỉnh trưởng Ninh Thuận (vốn là cựu trung đoàn phó của chúng tôi khi còn đóng ở Phú Yên) xin đích danh anh về Phan Rang làm quận trưởng. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thiệp hồng của anh mời đám cưới. Tôi ngẩn người khi đọc thấy tên cô dâu chính là cô hoc trò, con bà chủ quán ở Bàn Thạch ngày xưa, nơi anh đóng quân sau vườn nhà 6 năm về trước. Đến bây giờ tai tôi vẫn còn văng vẳng dư âm Bài Không Tên Số 2, với giọng hát Phú Yên thật nồng nàn cảm xúc, chị đã hát tặng bọn tôi ngay sau ngày đám cưới. Phải chăng ” đời một người con gái (Tuy Hòa) ước mơ rất nhiều, nhưng trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo”?

Điều trùng hợp lý thú là năm 1976, khi bị chuyển tù ra Bắc, anh và tôi lại gặp nhau, ở chung một trại. Anh em thường gặp nhau tâm sự. Trong cảnh tù đày khốn khó, tình anh em gắn bó như xưa. Mỗi lần chị ra thăm nuôi anh đều mang theo thêm phần quà cho tôi. Có khi chị giả vờ đi lại trên con đê trước nhà thăm nuôi, biết chúng tôi sau một ngày lao động sẽ được về tắm giặt ở bên con đê ấy, để dúi vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Lòng tôi cảm động. Không ngờ cô con gái hiền lành ở vùng quê Bàn Thạch ngày xưa ấy, sau ngày chồng vào tù, đã dắt ba thằng con trai, mà đứa nhỏ nhất chỉ mới tròn 2 tuổi, vào Sàigòn bươn chãi nuôi con, tạo dựng được cơ ngơi nơi vùng đất lạ xô bồ phức tạp này. Và với chúng tôi, còn là một người bạn, người chị chí tình.

Anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mang theo kinh nghiệm từ Việt Nam, chị sớm vào nghiệp bán buôn. Chỉ một thời gian ngắn gia đình khá giả. Ba đứa con trai đều thành đạt. Cháu trai út ra bác sĩ, cháu giữa làm luật sư, còn cháu lớn là kỹ sư, nhưng sau này đã trở thành một mục sư đi rao giảng đức tin Thiên Chúa.

Ngày đám cưới cháu trai thứ nhì, vợ chồng tôi sang tham dự. Bạn bè cùng đơn vị xưa từ khắp nơi cũng qui tụ về đây. Bất ngờ gặp một nhóm đồng môn Nguyễn Huệ của chị. Một cuộc hạnh ngộ thật kỳ thú. “Phe anh phe chị”. Chúng tôi biết thêm một số người đẹp Tuy Hòa xưa.

Đám đàn bà ngồi nhắc tên những thầy bạn cũ. Đám đàn ông bọn tôi ngồi điểm danh lại những thằng bạn lính, từng in dấu giày saut trên vùng đất Tuy Hòa thuở trước. Giờ cũng chỉ còn có hai thằng: ông anh gốc Bắc kỳ và tôi. Một số đã chết trong chiến trận: Trương Ngọc Điệp, anh trung úy gốc Huế, đại đội trưởng đầu tiên của tôi ngày ấy, đã chết tại chiến trường Thiện Giáo (Phan Thiết) sau hơn một năm rời khỏi Tuy Hòa, và sau đúng hai tuần cưới vợ, một cô giáo Ninh Hòa gốc Huế. Vài tháng sau, ông anh Thái Hữu Dư, khóa 16VB, bị thương nặng trong một trận phản phục kích rất hào hùng tại Lâm Đồng, được thuyên chuyển về Vùng 4 sau khi xuất viện. Đặng Trung Đức, khóa 19 Đà Lạt, người bạn rất thân với tôi, tử trận tại Kontum trong “mùa hè đỏ lửa” khi đang làm tiểu đoàn trưởng. Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi, trước khi nắm tiểu đoàn từng là một đại đội trưởng trinh sát lừng danh của Quân Đoàn II, cũng đã bỏ mình tại vùng Tây Bắc Kontum, trên dãy núi Ngok Wang đèo heo gió hú. Vài thằng giải ngũ vì thương tích. Số còn lại thì bị tù đày rồi tản mát khắp bốn phương trời! Nhưng dù còn sống hay đã chết, có lẽ thằng nào cũng mang theo ít nhiều bóng dáng và giọng nói của các cô gái Tuy Hòa, cùng bao kỷ niệm hào hùng, dễ thương của một thời trai trẻ.

Ngày rời khỏi Tuy Hòa năm ấy, đơn vị tôi cũng đã mang theo một số cô dâu Phú Yên xinh đẹp. Tôi còn nhớ mãi những khuôn mặt thật xinh xắn, làn da trắng nõn nà của các cô bé ở Ngân Sơn (Tuy An), bẽn lẽn “hóa trang”làm lính, xúng xính trong bộ quân phục của chồng, đầu đội cả nón sắt, lội nước leo lên tàu Hải Quân, sợ những người chỉ huy chặn lại không cho phép. Nhưng ông tiểu đoàn trưởng đã biết trước, bảo nhỏ đám chúng tôi cứ làm ngơ cho họ được “tùng phu”, khi biết chắc đây không phải là “mỹ nhân kế” của địch, và biết đâu đơn vị lại được thêm vài tay súng, những “người lính không có số quân“!

Ông trung tá trung đoàn trưởng cao lớn bô trai của tôi cũng đã mang theo cô chủ quán hoa khôi gốc Huế nổi tiếng một dạo ở Tuy Hòa. Ông đại úy Thiết Giáp hào hoa thì xuống tàu một mình. Sau này lên đại tá, trở thành thiết đoàn trưởng chiến xa lừng danh Vùng I, và đã rước cô ca sĩ Hà Thanh của xứ Huế về dinh.

Riêng tôi, rời Tuy Hòa, không vương vấn mối tình nào, nhưng lại mang theo một cậu con trai 15 tuổi. Thời gian đơn vị hành quân ở Phú Lâm, tôi đóng quân sau nhà chú bé. Từ đó chú bé cứ theo mấy chú lính của tôi và năn nỉ xin tôi nhận cho vào lính. Học tới lớp nhì thì cha chết, bà mẹ theo người chồng mới vào Cam Ranh hơn một năm sau. Chú bé ở với vợ chồng ông chú, vừa nghèo vừa đông con, lại bị bà thím hất hủi. Tôi động lòng thương nên thường cho lính gọi đến ăn cơm chung, và lâu lâu lì xì chút tiền lẻ. Chú có khuôn mặt khôi ngô, tình tình lễ phép, gọi tôi là anh ba, và khóc lóc năn nỉ nhất định xin đi theo tôi, dù góc bể chân trời nào. Vào Phan Thiết, tôi kể cho ông tiểu đoàn trưởng nghe hoàn cảnh đáng thương của nó, ông chở tôi và nó đến một văn phòng xã làm giấy khai sanh, tăng thêm đủ tuổi để nhận nó vào lính. Ông giao nó cho tôi. Tôi chỉ cho nó đi theo, mang cho tôi một balô sách và vài thứ thức ăn. Cuộc hành quân nào ác liệt, tôi gởi nó cho anh HSQ Tiếp Tế ở lại hậu trạm. Hơn bốn tháng sau, được gởi vào Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Nó trở lại đơn vị khi tôi đã làm đại đội trưởng, nhất định xin tôi tình nguyện vào tiểu đội thám báo. Không ngờ nó lại là thằng lính đánh giặc gan dạ, lẫy lừng, đã mấy lần cùng toán thám báo cứu tôi thoát chết. Hai năm sau, nó tử trận tại mât khu Lê Hồng Phong (Phan Thiết) vào một ngày gió mưa tầm tã, khi xông vào một căn hầm của địch. Khi ấy nó vừa tròn 18 tuổi đời. Lúc hấp hối, nó thoi thóp cố mở mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi vuốt mắt nó mà nước mắt tôi ràn rụa, trong lòng tựa hổ như đang có trăm ngàn vết chém.
(Lê Xuân Tiên ơi! Bây giờ em đang ở một thế giới khác, bình an, không còn có hận thù chết chóc. Xin em hãy tha thứ cho anh. Đã mấy lần em xả thân cứu anh thoát chết, còn “anh ba”thì lại bất tài, không bảo vệ được cho em!).

Và đó cũng chính là món nợ ân tình duy nhất mà tôi không bao giờ trả được cho vùng đất Tuy Hòa – Phú Yên – của một thời chiến tranh, khốn khó.

Riêng ông trung tá tỉnh trưởng gốc Biệt Động Quân chịu chơi ngày ấy, sau này trở thành vị tướng lãnh tài ba và đã tuẫn tiết theo cùng vận nước vào cuối tháng 4/75. Còn ông anh Nguyễn Văn Tri, con bà cô, và anh “Chương Classic” của Tiểu Đoàn 23 BĐQ đã thoát chết trong một lần Tiểu Đoàn nghỉ quân trong căn cứ của một đơn vị ĐPQ, bị nội tuyến từ trong đơn vị ĐPQ này. Sau này anh Tri bị thương, được chuyển về TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Tôi ghé thăm anh một đôi lần khi đơn vị chuyển quân ngang qua Huấn Khu này. Anh sang Mỹ theo diện HO, định cư ở Boston, có cô con gái là ca sĩ Hạ Vy. và anh đã qua đời hơn 5 năm trước. Anh “Chương Classic” khóa 19VB, sau này lên Thiếu tá, làm Tiểu Đoàn Trưởng một Tiểu Đoàn BĐQ lừng danh. Năm 1979, sau một lần chuyển trại tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù tận vùng Hoàng Liên Sơn. Hai anh em nằm gần nhau. Anh tự chế một cây đàn rất đẹp. Vẫn luôn giữ phong cách của một cấp chỉ huy, tư cách, nhẫn nhục, ít nói. Đêm đêm hai anh em uống trà tươi (giấu được khi hái trà cho trại), tôi ngồi nghe anh đàn. Trong hoàn cảnh ấy và với không gian yên ắng nặng nề, tiếng đàn Hạ Uy Cầm của anh càng thêm não nề réo rắt, chiêu dụ cả đám bộ đội canh gác, kéo nhau đến bên ngoài mê mẫn ngồi nghe. Nghe nói anh cũng đã sang Mỹ theo diện HO, nhưng nỗi buồn gãy súng vẫn chưa vơi, sống rất âm thầm với vết thương không lành được trong lòng.

Xin cám ơn Phú Yên, cám ơn Tuy Hòa, cám ơn cả ngôi trường Nguyễn Huệ đã cho tôi những kỷ niệm vui buồn của một thời làm lính, với những đồng đội, bạn bè cùng những chuyện tình lãng mạn, dễ thương. Tất cả cứ như khói như sương lãng đãng quanh tôi trong những phút giây hồi tưởng.

Phạm Tín An Ninh

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nguyenthanh »

Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa


Trong mỗi chúng ta ai cũng có một người mẹ, để được yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ. Sự hy sinh cao quý của mẹ cho chồng con đã được vinh danh nhiều qua thi ca Việt Nam.

Nhưng sự hy sinh của các bà mẹ, những người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thì không có bút mực nào viết ra hết. Là một người con có mẹ là vợ lính VNCH, tôi đã trải qua nhiều kinh nghiệm về sự hy sinh của mẹ tôi và nhìn thấy sự hy sinh của các bà mẹ, của các bạn đồng cảnh. Với lòng thương yêu và trân quý sự hy sinh của mẹ, tôi đã ôm ấp trong lòng một bài viết về mẹ từ lâu. Sau khi ba tôi mất, nhìn thấy nỗi cô đơn và thương nhớ của mẹ đã thôi thúc tôi phải viết bài về mẹ.


Bài viết này chỉ là câu chuyện nhỏ trong vô số những câu chuyện về các mẹ, vợ lính VNCH. Xin được dùng bài viết như một món quà gởi đến mẹ tôi trong ngày lễ Hiền Mẫu (Mother Day) của năm 2018. Xin cám ơn mẹ cho tất cả những gì mẹ đã đem lại cho ba và anh em tụi con. Qua bài viết này, tôi xin gởi một thông điệp đến các em tôi, các bạn tôi và các thế trẻ về hình ảnh của một người mẹ trong vô số những người mẹ, vợ lính VNCH, đã hy sinh cả cuộc đời cho chồng con.

Cuộc đời của mẹ tôi đã gắn liền với thời chinh chiến ly loạn của dân tộc Việt Nam, mẹ sinh ra tại làng Tân Phú Thượng, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa (nay thuộc tỉnh Long An) vào năm 1945. Theo lời bà ngoại tôi kể, ngôi làng nằm ngoài vùng kiểm soát của thực dân Pháp và trong vùng mà Việt Minh Cộng Sản (VMCS) hàng đêm đến cướp bóc. Quân Pháp thường xuyên mở các cuộc hành quân bố ráp, đốt nhà, và tàn phá mọi thứ. Ba, Mẹ, Tôi (Biên) và em gái kế (Thùy).


Mỗi lần như thế, ông bà ngoại phải dẫn mẹ và các dì chạy trốn trong lằn tên lửa đạn. Người dân trong làng bám đất không vì yêu thích Cộng Sản (CS), mà vì là nơi chôn nhau cắt rốn và đất đai mồ mả ông bà bao đời để lại. Nhiều người đã bỏ làng, trốn ra ngoài vùng Pháp kiểm soát, thì bị VMCS ban đêm tìm bắt, giết và treo cổ ở đầu làng để răn đe thị chúng. VMCS sợ dân bỏ làng đi hết thì bọn chúng sẽ đói vì không còn gì để cướp. Không thể sống trong cảnh bất an, ông bà ngoại tôi đã dẫn gia đình chạy trốn, đi thật xa, và lên lập nghiệp tại vùng Gia Định, thành đô.

Mẹ tôi đã trưởng thành trong nền giáo dục nhân bản của Miền Nam Việt Nam (MNVN). Sau khi hoàn tất trung học, mẹ đã vào làm thư ký cho hãng tàu thủy xuất nhập cảng hàng hóa. Đó là công ty Khánh Phát tại Sài Gòn. Mẹ, cũng như các thanh thiếu nữ khác, đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp đẽ của mình với những tình bạn và tình yêu chân thành. Nhưng chiến tranh khốc liệt ngày một lan tràn khắp nơi trên quê hương Miền Nam, bao lớp trai trẻ phải xếp bút nghiên, rời bỏ công sở và gạt qua những ước mơ riêng, lên đường nhập ngũ, cầm súng bảo vệ sự thanh bình và tự do của Miền NamViệt Nam. Mẹ đã chứng kiến những cảnh chia tay của những người bạn, người yêu, và người thân. Thiếu nữ thời mẹ đã sớm trở thành những người bạn, người yêu, và người vợ của lính. Mẹ cũng thế.


Theo lời mẹ kể, vào một ngày thứ bảy của năm 1966, mẹ và người bạn gái tên Xuyến vào Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm một người bạn đang nằm trị thương. Đến nơi, mẹ và dì Xuyến được biết là người bạn đã ra ngoài bệnh viện dạo phố. Mẹ và dì đang cất bước ra về thì cơn mưa ào xuống để níu chân mẹ và dì ở lại. Hai người chạy vô tránh mưa ở hàng hiên, bên trong là dãy phòng trị thương.

Bên trong phòng, một thương binh lên tiếng:

- Ê tụi bây, bên ngoài có hai thiếu nữ đang đứng tránh mưa kìa.

- Để tao ra mời các cô ấy vào đây nói chuyện cho vui. Một người thương binh khác lên tiếng.

Mẹ kể, một người thương binh băng bó ở cổ đã bước ra khỏi phòng trị thương, mời mẹ và dì bước vào trong phòng. Khi bước vào trong thì mẹ gặp thêm hai thương binh nữa, một người bị thương băng bó ở tay và người kia thì băng bó ở chân. Mẹ và dì đã có dịp trò chuyện vui vẻ với họ, nhưng với mẹ tôi thì nhớ nhất câu trả lời, khi bà hỏi:

- Làm sao các anh bị thương vậy?

Người sĩ quan trẻ bị thương băng ở cổ trả lời:

- Anh đi hành quân thì bị trâu chém.

Trước khi chia tay ra về, mẹ và dì đã trao đổi địa chỉ với ba thương binh, có tên là: Đường, Đăng và Quyền, để liên lạc sau này trong tình quân dân: em hậu phương anh tiền tuyến.

Nào ngờ, ngày Chủ Nhật hôm sau, một chiếc xích lô máy đậu bên ngoài nhà ông bà ngoại. Bước trên xe xuống là ba thương binh chống nạng dìu nhau. Mẹ kể, tiếng nổ inh ỏi của xe xích lô máy cộng với hình ảnh của các thương binh khoác trên người những áo trận hoa rừng đã thu hút sự chú ý của khu xóm, vốn thường ngày yên tĩnh. Sau lần gặp lại đó, mẹ thường gặp lại người chiến binh bị thương ở cổ khi ông về phép. Tình yêu của mẹ từ từ chớm nở với người lính trận này, có họ tên là Nguyễn minh Đường, sĩ quan của binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Lực Việt Nan Cộng Hòa (QLVNCH). Mẹ đã trở thành người yêu của lính. Ba năm sau, mẹ trở thành người vợ lính. Sau khi lập gia đình, ba mẹ tôi mua nhà ra ở tại quận 8 một thời gian. Nhưng vì ba tôi là lính tác chiến qua các binh chủng thiện chiến: Lực Lượng Đặc Biệt rồi Biệt Động Quân của Quân Lực Việt Nan Cộng Hòa, quanh năm hành quân ở biên thùy, một mình mẹ phải sống quạnh hiu với đàn con nhỏ, nên ba mẹ đồng ý bán căn nhà và mẹ dọn về ở với ông bà ngoại.

Như các người yêu và các người vợ lính khác, mẹ đã sống trong nỗi thấp thỏm lo âu về sự an nguy của chồng, trong niềm thương nhớ, và mong chờ cho ngày chồng về phép. Mẹ thay ba tôi, chăm sóc và nuôi dạy anh em tôi. Mẹ lặn lội lên những tiền đồn xa xôi thăm chồng và có khi mẹ dẫn tôi đi cùng. Có những lần đi thăm, mẹ phải lo âu chờ đợi trong tiền đồn, khi chồng vẫn còn đang hành quân giao tranh với quân thù. Mẹ đã hòa nhịp thở của mình với nỗi thăng trầm của cuộc chiến VN. Mẹ vui với những tin vui chiến thắng và được biết chồng bình an trở về sau một trận đánh và mẹ lo sợ khi biết chồng mình bị thương. Mẹ đã là chỗ dựa cho ba tôi trong việc quán xuyến gia đình, để ông an tâm, kìm chắc tay súng chống lại xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài chăm sóc gia đình, mẹ thay ba làm bổn phận người con đến song thân của hai bên.

Trong thời chiến, hạnh phúc của người vợ lính quá mong manh và nhỏ bé, nhưng sự hy sinh của người vợ lính cho chồng con và người thân thì vô cùng to lớn. Sau khi Cộng Sản xâm chiếm Miền Nam Việt Nam, sự hy sinh đó còn tăng lên gấp bội.

Sau ngày đen tối 30-4-1975 của dân tộc VN chừng một tháng, mẹ tôi hạ sanh đứa em gái út. Khi em vừa tròn 1 tháng tuổi thì ba tôi phải ra trình diện đi tù CS. Ba đi tù, để lại cho mẹ năm đứa con thơ: 5, 4, 3, 1 tuổi và một bé sơ sinh. Trong cảnh nước mất nhà tan, gia đình ly tán, ba tôi, các bác tôi, anh họ tôi lần lượt đi tù CS, và cậu tôi tử trận trong những ngày cuối của cuộc chiến. Còn cảnh thương tâm nào hơn, già khóc và trẻ khóc cho một viễn cảnh đen tối của người dân MN, chết chóc và chia lìa. Vì quá thương con, thương cháu trong ngục tù CS, bà nội tôi lâm bệnh và mất vài tháng sau đó. Trong đám tang nội, không có người con ruột nào có mặt để đưa tang. Từ một phụ nữ chân yếu tay mềm, mẹ đã nén những đau thương, bước ra ngoài xã hội bương chải để kiếm sống cho gia đình.

Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã vơ vét, tịch thu tài sản và cơ sở làm ăn của người dân. Mọi công việc, hãng xưởng lớn nhỏ điều tùy thuộc vào sự ban phát của chúng. Chúng thi hành chính sách kỳ thị và phân biệt đối xử lên người dân MN, nhất là với những gia đình có dính líu đến chế độ VNCH. Mẹ tôi đã không thể xin được một công việc hãng xưởng, vì bị liệt kê có chồng là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Mẹ đã làm nhiều công việc buôn bán như xe trái cây, xe thuốc lá, bán bánh kẹo, khoai, bán củi bó… vv và vv. Mẹ phải làm nhiều việc ngõ hầu kiếm đủ tiền lo ăn mặc và những nhu cầu học đường cho anh em chúng tôi. Có những lúc mẹ đi sớm về khua, anh em chúng tôi côi cút trong sự thiếu vắng cả cha lẫn mẹ. Có những lúc buôn bán ế ẩm, mẹ phải bán đi những vật dụng có giá trị trong nhà và ngay cả những nữ trang của mẹ để có tiền trang trải gia đình. Mẹ tần tiện từng ngày để đủ tiền mua quà gởi cho ba tôi, nơi ngục tù CS. Tuổi ấu thơ, anh em tôi quá quen thuộc với những món quà, mẹ gởi cho ba, như: mắm ruốc, muối đậu, thịt chà bông, đường, và khô.

Vào một ngày của năm 1979, mẹ cho tôi biết là mẹ và tôi sẽ đi thăm ba tôi ở trại tù ngoài Bắc. Với tôi, đó là một tin vui không sau tả nổi. Mẹ phải làm nhiều hơn và phải bán đi chiếc Honda Dam hầu có đủ tiền mua vé xe lửa, mua thực phẩm để đóng quà, và làm lộ phí dọc đường. Hành trình đi thăm tù thật là gian nan, với nhiều bất trắc và nguy hiểm. Sau 3 ngày 3 đêm ngồi trên xe lửa, gần một ngày đứng trên xe đò, và gần một buổi đi bộ, mẹ với những gói quà trĩu nặng đôi tay dẫn tôi tới căn nhà trọ thăm tù, nằm chơi vơi giữa vùng đất hoang vắng với những ngọn núi cao bao quanh. Ba tôi bị nhốt tại trại tù K3, Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh. Qua chuyến thăm ba này, rất nhiều hình ảnh, nhiều kỷ niệm và nhiều nhận thức đã ghi lại trong tôi, một đứa bé 9 tuổi, về nỗi nhục nhằn của người tù khổ sai, về sự vất vả của vợ con thăm tù, về sự nghèo nàn lạc hậu và bần cùng của người dân miền Bắc, và về sự dối trá và dốt nát của chế độ CS. Những nhận xét ấy đã mãi theo tôi, đã làm động lực thúc đẩy tôi tìm hiểu về thể chế Quốc Gia và Cộng Sản và giúp tôi tự vươn lên sau này.

Sau khi thăm ba về, mẹ tôi lại tiếp tục buôn bán và làm nhiều hơn mới có thể sống được trong xã hội mà CS chỉ biết lo cho riêng chúng ăn no, mặc ấm, bằng cách cướp bóc và đàn áp người dân, mặc kệ cho sự nghèo khó và lam lũ của người dân. Người dân thì bị thiếu ăn nhất là bị chúng bắt ăn độn khoai và bo bo. Một năm, trừ ba ngày Tết, mẹ làm đủ 362 ngày. Làm việc quá cơ cực, ngày một mẹ càng gầy hơn. Đến một hôm mẹ tôi ngã bệnh vì lao phổi, do lao lực mà ra. Dù bệnh, mẹ không nghỉ, vẫn phải tiếp tục buôn bán hàng ngày. Không biết còn có bao gia đình khác vì quá nghèo khổ, khiến con cái phải bỏ học đi làm hoặc phụ giúp buôn bán để sinh nhai? Còn mẹ tôi, dù cơ cực đến mấy, vẫn gồng gánh, tần tảo làm việc sớm hôm cho chúng tôi được cắp sách đến trường.

Ngoài việc thay chồng, nuôi dạy một đàn con nhỏ, mẹ còn phụng dưỡng ông bà ngoại và giúp đỡ anh chị em và những người thân thương của mẹ.

Anh em chúng tôi ngày một khôn lớn trong vòng tay yêu thương và chăm sóc của mẹ và thiếu vắng hình bóng của ba. Chúng tôi sớm phụ giúp mẹ trong công việc bếp núc và buôn bán. Thương mẹ, anh em chúng tôi sống cần kiệm với những gì mẹ cho, dẹp qua những khao khát mơ ước của tuổi thơ và vươn lên trong học đường. Từ buôn bán nhỏ, mẹ hùn vốn với gia đình anh họ, mở gian hàng bán quần áo may sẵn tại chợ Bà Chiểu.

Sau 10 năm tù, ba tôi được thả về sum họp với gia đình. Ngày ba về là ngày ngạc nhiên và vui mừng nhất cho mẹ và anh em chúng tôi, vì là ngày gia đình tôi mòn mỏi mong chờ và không được biết trước. Từ ngày đó, anh em chúng tôi thật sự biết và sống bên cạnh tình yêu thương và dạy dỗ của ba. Mẹ đã chu tất lo cho ba mọi thứ và nhất là lo cho ba điều trị những căn bệnh hậu chứng của những năm tù CS như: phù thũng, đau bao tử, và gai xương sống. Mẹ còn an ủi và tạo điều kiện cho ba vui với gia đình, bạn tù, và người thân. Ba tôi đã phụ giúp mẹ trong việc buôn bán như đi bổ hàng từ các chợ lớn, như chợ Tân Bình hoăc chợ An Đông. Ngoài ra, ba tôi còn làm thêm việc bán lẻ và bỏ mối bia và nước ngọt đến các tiệm và quán ăn.

Không có sự hy sinh của mẹ, chắc tôi đã không đạt được những thành quả trong học vấn. Năm 1988, tôi thi đậu vào khoa cơ khí, Đại Học Bách Khoa Sài Gòn, trong tổng số 140 thí sinh đậu “chính quy” (hệ A) bên cạnh 310 thí sinh đậu hệ mở rộng (hệ B, phải đóng học phí). Khi nhập học, tôi mới biết là số sinh viên có cha là cựu tù CS như tôi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong hệ thống thi cử vào đại học (ĐH) của chế độ CS, chúng tôi bị phân loại vào nhóm 4, nhóm chót, nhóm cho những gia đình có dính líu đến chế độ VNCH, có cha mẹ đang bị tù chính trị, hoặc người thân vượt biên. Vì thế, chúng tôi phải đậu điểm thật cao và chỉ được nhận đậu với con số nhỏ, tượng trưng.

Cộng Sản nhận chúng tôi vào Đại Học cũng nằm trong mưu đồ chiến lược của họ, nhằm chứng tỏ với thế giới bên ngoài là họ có thay đổi trong chiều hướng mở cửa kinh tế, để qua đó, họ đón nhận trợ cấp và đầu tư từ các nước, nhất là các nước tư bản giàu có, mà chế độ CS luôn tuyên truyền chê bai. Việc thi đậu ĐH của chúng tôi đã ít nhiều đem lại niềm vui và hãnh diện cho ba mẹ, cho thế hệ chúng tôi, thế hệ con em của chế độ VNCH. Chúng tôi đã đạt những điểm cao và xếp hạng cao sau các kỳ thi ở ĐH, cho dù tình trạng lộ đề cho “con ông cháu cha” của CS xảy ra ở mỗi kỳ thi.

Để đỡ bớt gánh nặng cho mẹ, tôi đã đăng quảng cáo trên báo nhận dạy kèm và luyện thi ĐH qua các môn toán, lý và hoá. Tôi đã đi dạy học tại gia từ năm 1989 đến khi gia đình đi tỵ nạn CS vào năm 1995. Tôi rất vui là đã làm ra tiền phụ giúp mẹ và đã giới thiệu nhiều mối dạy học cho các bạn sinh viên đồng cảnh.

Ngày gia đình tôi rời VN đi tỵ nạn CS là ngày vui lớn vì từ ngày hôm đó gia đình tôi sẽ thoát khỏi ngục tù lớn của CS, thoát khỏi cái chủ nghĩa xã hội (vốn là chủ nghĩa cộng sản, được đổi tên hầu lường gạt những người nhẹ dạ) đầy hận thù, phân biệt giai cấp, và kỳ thị. Hơn hết, tôi mừng là ba mẹ sẽ không còn phải vất vả bương chải trong cuộc sống và anh em tôi sẽ có điều kiện thăng tiến trong xã hội mới, tự do và dân chủ.

Trong những năm dài tha phương nơi đất khách, mẹ vẫn luôn là chỗ dựa chính cho ba và anh em tôi. Ngoài việc quán xuyến gia đình, mẹ luôn đi bên cạnh ba tôi trong các sinh hoạt Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia (CĐNVQG). Mẹ song hành với ba trong các buổi tiệc vui cưới hỏi, các buổi họp mặt hội đoàn và đồng hương, các buổi lễ tưởng niệm của VNCH và các Đại Hội Biệt Động Quân hàng năm. Mẹ góp phần công sức cho các lễ hội và tưởng niệm của các hội đoàn và CĐNVQG. Mẹ luôn ở bên cạnh chăm sóc cho ba qua những cuộc giải phẩu, luôn thương yêu và chăm lo một đàn cháu nội ngoại.

Cuộc đời của mẹ tôi là một trong vô số những cảnh đời bi thương của người mẹ, vợ lính VNCH. Đó là những cảnh đời của những người vợ lính: là góa phụ trong cuộc chiến, là vợ thương binh VNCH, hay là vợ người tù “cải tạo”. Cho dù ở cảnh đời nào, các mẹ đã son sắt thủy chung với chồng, thương yêu và chăm sóc chồng con, thay chồng tần tảo sớm hôm nuôi dạy các con và trang bị cho các con một hành trang vào đời. Không biết có bao nhiêu người mẹ đã ngã xuống trên đường đi thăm chồng trong ngục tù CS, trên đường vượt biên tìm tự do, hoặc ngay trên quê hương VN khi mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ chồng về từ các trại tù CS? Thương quá các mẹ, vợ lính VNCH.

Dòng lịch sử VN sẽ sang trang, ngoài những trang sử nói lên hào khí anh dũng của cả dân tộc VN và nhất là Quân-Dân-Cán-Chính MNVN đã, đang, và sẽ còn tiếp tục đứng lên chống lại chế độ vô thần phi nhân CS, tôi tin chắc rằng sẽ có nhiều trang sử ghi đậm những nét hy sinh cao quý của các mẹ, vợ lính VNCH.

Sự hy sinh của mẹ tôi cũng như vô số các mẹ, vợ lính VNCH, đã là tấm gương tiêu biểu cho thế hệ chúng tôi và hậu thế noi theo, đó là sự thủy chung, sự cam chịu những bất công, vượt lên những gian truân, tần tảo làm việc, chăm lo cho chồng con và nuôi dạy con cháu nên người.

Không có sự hy sinh của mẹ, anh em tôi đã không có những gì mình có được ngày nay. Con xin đại diện các em cảm ơn mẹ.

Không có sự hy sinh của các mẹ, vợ lính VNCH, thế hệ chúng tôi sẽ không có được những thành đạt ngày nay trên đất khách quê người, đó là những kỷ sư, bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, nhà giáo, khoa học gia, chính trị gia, thương gia, nghiệp chủ… vv và vv. Nếu được, xin các bạn trẻ đồng cảnh hãy cùng tôi, nghiêng mình cảm kích và tri ân đến mẹ mình và tất cả các mẹ, vợ lính VNCH. Chúng ta hãy cùng hoài niệm về những hy sinh của mẹ, để càng yêu thương và chăm sóc mẹ trong tuổi xế chiều, bạn nhé!

Bùi Tuyên

Post Reply