QUÁN BIÊN THUỲ

lequyen
Posts: 283
Joined: Sun May 22, 2011 6:22 am

Post by lequyen »

Không bao giờ quên anh

Trà Khan

Ðêm nay, mưa rơi kéo dài, tuy không lớn, nhưng tiếng mưa đều đều trên mái hiên nhà, gian phòng nơi tôi ngồi trở nên hắt hiu vắng lạnh.

Tiếng nhạc nhà ai bên hàng xóm đã từng thức khuya hằng đêm, như vô tình lọt qua khe hở nơi tôi ngồi, một thứ âm thanh như nhắc nhở người bỏ nước ra đi, đừng bao giờ quên người chiến sĩ đã nằm xuống năm xưa ..”. Tôi nhớ tên anh như nhớ trông ai, tôi nhớ tên anh muôn kiếp không phai,... Tôi nhớ tên anh vào nghìn đời sau còn nhớ...” Tiếng nhạc lời ca trầm bổng tưởng như tiếng lòng của hồn thiêng sông núi vọng lên từ lòng đất mẹ, tâm tư tôi như cuốn trôi theo dòng nhạc buồn gục đầu trong đêm vắng ấy. Tôi có cảm nghĩ giấy bút cũng buồn theo!

Tôi viết những dòng cảm tác này, trên một đất khách lạc loài, cách quê mẹ nghìn trùng xa thẳm. Nhưng! không vì nghìn trùng xa thẳm ấy, mà “cách mặt xa lòng.” Song! Trong tôi, vẫn da diết nhớ về quê mẹ, như một trẻ thơ vừa mới bỏ vú mẹ hôm qua.

Bởi vì tôi không phải là rêu phong gỗ đá, mà trong tôi đang chan chứa tràn đầy tình yêu quê hương xứ sở, trong đó có tình người chiến hữu của tôi năm xưa.

Với tình yêu thiêng liêng ấy, vì nó không phải là một thứ ân tình “mâm cao cổ đầy” để đãi thực khách, một khi đã “hết xôi thì rồi việc.” Cũng vì thế, Lacordaire nói rằng: “Tình yêu quê hương nảy sinh trong lòng người, nó là tâm tình sâu thẳm và vị tha, được nuôi dưỡng bằng lịch sử của quá khứ và kỷ niệm của cuộc sống cá nhân, nơi đó tập trung những gì ta đã thấy, ta đã làm, và ta đã sống từ những ngày lành của tuổi ấu thơ, đến những xao động của thời lão thành, và viễn tượng của mồ mả ông cha.”

Cuộc chiến Nam Bắc đã chấm dứt từ lâu! Một thứ an bình trong đau khổ của kẻ mất quê hương, những khăn sô của thiếu phụ vẫn còn đó, những anh em thiếu chân, cụt tay, đui mù vẫn còn lê lết bên lề đường xin ăn, làm sao tôi quên được, vì họ là những chiến binh cùng tôi một chiến tuyến, và cùng tôi có chung một ý thức hệ!

Vì thế tôi không thể vui, một khi quê hương đã mất, nhạc buồn nói về đời lính, là niềm xúc cảm vô biên, bằng những gợi nhớ, gợi thương, một khi bắt gặp những lời ca tiếng hát “người tình không chân dung” “bây giờ anh ở đâu” hay “tấm thẻ bài mang tên anh” v.v... thì môi tôi thiếu hẳn một nụ cười, vì nụ cười chỉ là giọt nước mắt khô không lệ!

Những bước chân ngày hai buổi trên lối đi về, tôi đếm bước bằng những ngày tàn mà nghe hồn nhỏ lệ! Trên miền đất tạm dung, nơi đây nơi đó, tôi vẫn thấy cô đơn, một thứ cô đơn lưu đày và mất mát miên viễn, vì nó không phải là nơi tôi mở mắt chào đời. Cho dầu, nơi tôi đang ở là một đất nước sang giàu, rộn tiếng hát câu cười, nhiều niềm vui giải trí. Nhưng không đánh đổi được cảm xúc nhớ thương, mỗi khi nghĩ về quê mẹ “ruột đau chín chiều.”

Tháng Tư lại về trên đất khách, là nỗi buồn của kẻ mất quê hương. Tôi nhắm mắt để cố quên đời chiến sĩ. Nhưng cố quên lòng lại càng nhớ thêm, đó là điều ngang trái nhất trong tôi.

Ba mươi tám năm trôi qua. Và đây cũng là ngày giỗ thứ 38, nơi mà anh đã nằm xuống!

Mau quá anh nhỉ! một nén hương xưa không còn đâu nữa! vì nó đã tan biến theo mây khói và đã trở thành băng giá. Hơn nữa, nó còn lạnh lùng như tảng băng ở miền Bắc Cực vậy!

Nhưng! riêng tôi! Lúc nào, trong mọi lúc, mọi nơi, và mọi hoàn cảnh, dẫu phải vất vả lo cho nghiệp sống nơi chính mình. Nhưng trong tôi, lúc nào cũng còn tồn tại một nén hương lòng ngầm cháy mãi trong tim, như một lời tri ân mãi nhớ không nguôi đến anh! và các anh đã vì nước quên mình!

Ngày đau thương trọng đại, khi nước nhà xóa sổ, lại có những người chiến sĩ hào hùng của QLVNCH vì đại nghĩa quên mình, để cứu vớt cho những người còn sống một niềm vinh dự to lớn, là khỏi bị ám ảnh tủi nhục “hàng thần lơ láo, phận mình ra chi” đó là những vị tướng lãnh, biết chọn đến cái chết cao cả “chết vinh hơn sống nhục.”

Tôi là một người lính, như mọi người lính trận bình thường của QLVNCH.

Nhưng vẫn mãi ở trong cương kỷ, cho dầu giấy đã rách nhưng vẫn giữ lấy lề, và không để cho “giậu đổ bìm leo” như lời nói người xưa. Vả cũng đừng để một ai đó bóp méo sự thật, ở những người lính VNCH đã nằm xuống.

Lúc nhớ anh, tôi thường thuộc nằm lòng bài thơ “Anh hùng vô danh” của tác giả Ðằng Phương, cho dù vô danh hay hữu danh, các anh cũng đã giữ vững được thế đứng của chính mình. Vì nước quên mình “Nước còn thì còn tất cả” nước mất bản thân theo nước mà mất. Toàn dân Miền Nam Việt Nam chân chính nghiêng mình, và muôn đời tôn vinh và thương kính các anh.

Thời gian trôi qua, năm tháng trôi theo. Quá khứ lui dần vào quá khứ. Nhưng! dư âm vang vọng như một Tháng Tư 75 vẫn còn lảng vảng đâu đây.

Những lời hịch truyền xuống từ dưới trướng các anh, là một lời lệnh “Phép Công Là Trọng Niềm Tây Sá Nào.” Kể từ đó, từng sư đoàn đến sư đoàn, không chậm trễ một phút giây, nhất tề tung quân diệt loài quỷ ác, bảo vệ từng tất đất của đất mẹ, mà tổ tiên nghìn đời có công dựng nước và giữ nước với câu nói “nếu ngươi lấy một tất đất của thánh tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải bị tru di.”

Trên chiến trường bốn vùng chiến thuật, từ Bình Long Anh Dũng, Kom Tum Kiêu Hùng, đến Quảng Trị Bách Chiến Bách Thắng, nơi nào cũng có dấu chân các anh. Chiến trường rực màu khói lửa, những người lính dưới trướng các anh không lùi bước trước họng súng của kẻ thù. Chiến công hiển hách, báo cáo dồn dập đến tận Bản Doanh Hành Quân Các Anh, đã làm cho Quân Dân Miền Nam nức lòng tin tưởng vào thế tất thắng cuối cùng của người lính QLVNCH.

Nhưng cô đơn và đau đớn thay! Tôi chẳng biết chọn một lời lẽ nào để diễn tả đúng với niềm đau năm tháng ấy. Một khi phải “giã từ vũ khí” cũng là lúc người lính VNCH nhìn súng súng thẹn! nhìn gươm, gươm xấu hổ!

Nhưng! người lính thua trận, cho dầu đã hụt hẫng thế đứng, nhưng vẫn nghiêng về một phía chinh nghĩa, dù vinh hay nhục nhất thiết không sống chung và đi chung cùng loài ác quỷ.

Sự cô đơn của người lính, là mang theo một thứ mặt cảm chán chường, không còn dám nhìn thẳng, sống trong tâm trạng như người “lạ mặt,” trên quê mẹ, cũng như trên đất nước“lạ mặt lạ người.” Mặc dầu đó là đất nước của mình và là những người thân của chính mình. Nhưng! họ nhìn người lính thua trận, như nhìn người không quen. Cho dầu, mới ngày hôm qua còn chơi bời quyến luyến.

Hôm nay! Mùa Xuân trên miền đất lưu vong đã bắt đầu gối Ha. Tôi miên ngẫm đến ngày giỗ của VNCH. Ngày của Tổ Quốc Vấn Khăn Tang! Ngày của Quân Dân Miền Nam Việt Nam oai hùng bức tử. Ngày của các bọn thế lực “Ðồng Chí Ngoại Lai,” sau những ngoắt ngoéo về chính trị, bọn chúng cùng nhau manh tâm bán đứng Miền Nam Việt Nam cho giặc phương bắc. Và cũng là ngày người lính VNCH bị trói tay cột chân bởi người Ðồng Minh Mỹ. Họ đã phản bội không báo trước, thật đáng ghê tởm.

Người lính VNCH không còn một viên đạn diệt thù. Không còn một trái hỏa châu soi sáng!

Chúng tôi cần soi sáng! Soi sáng để nhận diện rõ bộ mặt xảo trá, lật lọng gian manh của kẻ thù. Bọn chúng vẫn dùng cái “điệp khúc“đường xưa lối cũ” Từ Mậu Thân lật lọng cho đến Hiệp Ðịnh Pari phản bội. Và lẫn ngầm cái hỗ trợ nhịp nhàng cho kẻ thù phương bắc, bởi người bạn Ðồng Minh “Cốt Lõi” trắng trợn phản bội “khi xanh như lá lúc bạc hơn vôi.”

30 Tháng Tư! Ngày giỗ! Ngày giỗ của bao chiến sĩ hào hùng của QLVNCH đã ngã xuống trên đất mẹ. Máu xương của các anh đã nhuộm thắm trên nương khoai, ruộng vườn, từ bìa rừng nầy đến đồi cao dốc thẳm nọ, nơi nào cũng có in chiến tích hiển hách và máu xương của các anh, cho Miền Nam được phú cường, cho người người được ấm no hạnh phúc.

Nhưng! Hỡi anh! Trách người một, trách ta mười, bởi vì ta quá tin lời ở người bạn Ðồng Minh “chung thủy” “chung tình.” “chung sức” Nên giờ thì “nghĩ mình, mình lại thương mình bấy nhiêu.”

Tiếc thay cho cuộc chiến kéo dài trên 20 năm, đã mang lại cho người lính VNCH những gì?. Tưởng không đơn giản, như lời một người tình nói với người yêu “ngủ đi em mộng bình thường.” Không ai có thể dại dột tin đến thế. Thế mà! Chúng nó gói trọn “Ta trong Ta,” và bỏ Ta vào trong cái gọi là “Giấc Ngủ Nam Kha” khi bừng mắt dậy thấy mình tay không.

“Không Bao Giờ Quên Anh” bằng những lời tâm sự với những Anh Hồn Vị Quốc Vong Thân. Như một lời tình buồn ngắn nhất cũng là lời dài nhất, mà trong ba mươi tám năm qua, người lính sống còn trong cuộc chiến, đã chưa có dịp thực hiện những điều thiết thực, để tưởng nhớ đến người lính đã nằm xuống, ở giờ thứ 25 của cuộc chiến 75.

Và đã 20 năm, lạc bước lưu đày. Lần đầu tiên tôi đến thăm thủ đô nước Mỹ! Như để trắc nghiệm lại lòng mình, là nơi chốn ấy có gì đẹp lắm không? đã làm cho thiên hạ trên thế gian này, thường ca tụng không ngớt lời về nước Mỹ, là nơi thiên đường tuyệt diệu!

Ðứng trước tòa Bạch Ốc! Hận lòng trai, tim như hụt hẫng nhịp đập. Tôi tự cảm thấy mình xấu hổ vì bị mang nỗi nhục mất nước, nên không lấy gì làm vui! và cũng không lấy gì làm “mặn mọi” cho lắm.

Tiếp nối những suy nghĩ, đã kéo tôi đến kết luận, như một “định đề” khá “mỉa mai” vì cảnh vật nơi nầy không “đeo sầu.” Song lòng người lính năm xưa “đeo sầu” thế nên“người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Và hơn thế nữa, nơi đây! đã gợi cho tôi “cái quá khứ” “nhiều đắng lắm cay” cho dân tộc tôi, và cho đất nước tôi, trong một hoàn cảnh đầy nghiệt ngã “gừng cay, muối mặn” một khi gợi nhớ đến, đã làm môi tôi mặn, mắt tôi cay. Vì thế, tôi không nhìn được cái đẹp hùng vĩ ở nơi này, chỉ thấy tâm tư mình ray rứt bằng những mất mát đắng cay, những tang thương đổ nát.

Thì liền sau đó! Cuộn phim dĩ vãng năm xưa từ từ quay thật chậm trước mặt tôi, như một vết nhơ hận lòng. Dư âm tiếng nói ngày ấy còn vang vọng đâu đây. Tổng Thống Kennedy nói gì và sau đó TT Johnson hứa gì, rồi bộ trưởng quốc phòng Mc Namara đến Sài Gòn xác nhận lời cam kết ra sao, và liền sau đó TT Nixon hành động ra sao và làm gì?
Thế rồi! Ðã đến lúc gừng không còn cay, muối đã hết mặn, các ông đành bỏ tôi! đưa Miền Nam đến cảnh nước mất nhà tan!

Thưa anh! người đã hy sinh trong cuộc chiến 75! Cuộc chiến đã tàn. Nhưng dư âm vẫn còn đó! Mặc dầu tóc đầu chúng tôi nay đã bạc. Nhưng, lòng chúng tôi không bạc như tuyết, không trắng như vôi! Khi nghĩ về đất nước, nhớ đến các anh! một xót xa trên chót vót của xót xa vô cùng tận.

Những lời này về anh, và tất cả cho các Anh! Những người chiến sĩ thân yêu đã vì nước quên mình!

Khi “Màu Cờ Vàng” đã hóa thành “Màu Cờ Trắng” lệnh từ Dinh Ðộc Lập truyền ra.

Rồi sau đó, biểu tượng hào hùng của người lính VNCH, là những vị tướng: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và Phạm Văn Phú. Các ngài đã hiên ngang đạp lên lệnh đầu hàng, lấy tự sát làm cứu cánh cho chính mình là vĩnh viễn ra đi, nước mất là mất theo nước, nhất định không hàng giặc.

Lẫm liệt thay! Hiển hách thay! “Hãy chém đầu thần rồi sẽ hàng” của một Trần Thủ Ðộ trên hai trăm năm trước, vẫn còn in bóng trong tim các ngài.

Ðất nước rơi vào tay giặc thù, ngôi vị của các ngài, là lấy sự tận trung để đền đáp Sơn Hà Xã Tắc, lấy sự tận hiếu đễ đền đáp công ơn thê nhi gia tộc.

Ðược tin buồn các ngài tuẫn tiết, theo gương trung liệt tiền nhân, đã là lúc “máu chảy ruột mềm. Toàn Quân Dân Cán Chính Miền Nam khi nghe hung tin, tim như rạn vỡ, bàng hoàng như trong cơn chiêm bao. Thương nhớ đến các ngài, thương nhớ nhất đời!

Sống Vi Tướng, Tử Vi Thần, Anh Hùng Tử Khí Thiên Bất Tử. Các ngài đã trở thành vị thánh thời đại 75, của một Võ Tánh, của Ngô Tùng Châu, của Hoàng Diệu, của Nguyễn Tri Phương v.v...

Bại trận là nhục. Ðầu hạng còn nhục nhã hơn nữa. Nhục mất nước! Và kéo theo biết bao nhiêu điều sỉ nhục! Nhục không dám chết! Nhục không chết được!

Nhưng thưa các ngài! Chúng tôi biết sống là nhục, nhưng phải sống để chịu nhục! Còn hơn là phải vào luồn ra cúi, tìm chút “công thừa việc bẩn” từ kẻ thắng ban cho.

Rồi mai này, bảng vàng bia đá sẽ khắc tên các ngài. Tên các ngài sẽ ghi đậm nét trên trang sử Việt. Các ngài mất đi đã làm rạng tiết nghìn thu cho cháu con mai hậu muôn đời tôn thờ kính phục. Tên các ngài sẽ được đời lưu danh thiên cổ. Chúng tôi mãi nhớ các ngài, cho dù ở bất cứ không gian và thời gian nào.

Các ngài tuẫn tiết không phải ở nơi chiến địa hiểm nghèo, mà ở trên cái bến cuối cùng của cuộc sống.

Các ngài nằm xuống cho hận thù vào lãng quên, cho hậu thế tôn vinh nhớ đời. Cái chết hiên ngang của các Ngài, nơi có trụ cờ vàng ba sọc đỏ, ngạo nghễ phất phới bay trong gió, đã làm nhân chứng cho bất cứ sự hy sinh cao cả nào khác.

Thưa các ngài! Người đã ngủ yên bỏ lại đằng sau bao phiền lụy của cuộc sống. Linh hồn các Ngài đã về với hồn thiên sông núi, nơi chốn bồng lai, hay đã tự tại nơi chốn thiên đường nào đó, nếu linh thiêng xin phù hộ cho con dân nước Việt sớm thoát khỏi cảnh gông cùm cọng sản.

Thương thay! Các ngài ra đi, ra đi trong đớn đau buốt lạnh. Không bạn bè tiễn đưa chào kính! không một lời điếu văn, không một tiếng kèn truy điệu, v.v...

Ba mươi tám năm trôi qua, là trên mười bốn nghìn ngày mang nỗi buồn của kẻ mất quê hương. Mặc dầu thế, chúng tôi, trong mỗi lúc của từng mỗi lúc, lúc nào cũng cảm thấy hình bóng các Ngài luôn mãi ở bên cạnh chúng tôi trong suốt mọi chặng đường trên quê mẹ, cũng như mọi nơi, mọi miền trên đất khách.

Chúng tôi người lính! xin một phút cúi mặt! Vì cho đến nay vẫn chưa đúc được tượng, chưa lập được đền thờ để tưởng nhớ đến các ngài. Mặc dầu, tiểu bang California nói chung và Orange County nói riêng, cộng đồng Người Việt tỵ nạn trên dưới nửa triệu người, và được mang cái tên khá hãnh diện là “Thủ Ðô Của Người Tỵ Nạn.”

Là những người lính thân phận lạc loài trên một đất nước tạm dung. Chúng tôi chỉ có tấm lòng, nhưng không “đủ tài” “đủ sức” và nghĩ rằng, “một cây làm chẳng nên non” chúng tôi rất cần nhiều bàn tay của muôn triệu bàn tay. Từ trí thức khoa bảng, từ những anh hùng hào kiệt, từ những mạnh thường quân, cho đến các cơ sở thương mai có tầm vóc, đến những hội đoàn, đoàn thể, các trung tâm băng nhạc nổi tiếng.

Và hơn thế nữa! đằng sau lưng của các hội đoàn nói trên, còn có một lực lượng khá hùng hậu, đó là hội cựu tù nhân chính trị, sao không cùng nhau làm những việc hết sức cao cả, là phát động phong trào “tất cả cho một đền thờ của người chiến sĩ vị quốc vong thân!” Và cũng là lúc để cho người bản xứ thấy rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc “uống nước nhớ nguồn” và có văn hóa. Nhưng tiếc thay, chúng tôi “cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.”

Rồi mai đây không sớm thì muộn, Việt Nam có tự do dân chủ. Không còn bóng dáng người cọng sản. Nếu chúng tôi chưa làm được. Nhưng chúng tôi vẫn còn một hy vọng khi “tre tàn thì măng mọc” con cháu chúng tôi sẽ tiếp tục làm cho bằng được, một khi trở về quê hương nơi chỗ các ngài nằm xuống, sẽ xây đền thờ tưởng niệm các ngài, để mọi người dân Việt Nam lui tới nhang khói nhớ ơn các ngài.

Lời tâm sự tuy mộc mạc, nhưng rất chân thành, chúng tôi không dám “múa rìu qua mắt thợ” chắc chắn có nhiều lỗi lầm thiếu sót ngoài ý muốn. Mong người đọc rộng lòng khoan dung. Và cũng xin đừng để những lời này “gác ngoại vòng thoi.”

Sau cùng, chúng tôi xin mượn lời thơ “một năm người có mười hai tháng, ta trọn năm dài một Tháng Tư” Như tự nhủ lòng là mãi nhớ đến các anh và “Không Bao Giờ Quên Anh.”

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Mai Năm 1969, Tiểu Đoàn tôi đang hành quân chung quanh Bến Lức thì được lệnh di chuyển về Đức Hòa, một quận nhỏ thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, về Đức Hòa để bảo vệ Bộ Tư Lệnh SĐ25 đang đóng ở đây. Hậu Nghĩa có lẽ là một tỉnh nhỏ nhất của miền Nam, nguyên nó là 1 xã của Đức Hòa hay Đức Huệ gì đó, vì tính cách chiến lược, ông Ngô Đình Diệm lập nên tỉnh này.

Rời khỏi Bến Lức với con sông Vàm Cỏ Đông lòng tôi bùi ngùi, nửa năm ở đây, thường các cuộc hành quân là ủi bãi cùng với Hải Quân , VC hai bên bờ như rươi, con sông chạy dài tới tận Tây Ninh, mỗi lần tầu đi, chúng phục 2 bên bờ bắn B40 như pháo bông, 4 ngày cuối cùng trước khi về Đức Hòa thì Thiếu Úy Hạnh, khóa 18 TĐ, Đại Đội phó của ĐĐ tôi hy sinh, tầu bị phục kích, khi bị bắn, tầu ủi bãi, Hạnh xua quân xông lên, vài phút sau tin báo Hạnh trúng đạn chết.

Tới Đức Hòa, TĐ được phân công phòng thủ quanh vòng đai ngoài của bộ chỉ huy SĐ, Đại Đội tôi được chỉ định đóng tại Bình Hữu, tung các điểm phục kích chặn những đường tiến sát địch có thể xâm nhập vào Bộ TL, Bình Hữu là một xã nhỏ, nằm trên đường đi lên Đức Huệ, con đường Bình Hữu nhỏ, ngắn, được 3,4 chục căn nhà, Ban Chỉ huy Đại Đội tối đóng quanh quẩn trong mấy ngôi nhà đó, các trung đội vừa có toán phục kích, vừa bảo vệ ĐĐ, thỉnh thoảng hành quân nhảy trực thăng, thường là nhẩy xuống mật khu Lý văn Mạnh hoặc xa hơn nơi biên giới Đức Huệ, Lý Văn Mạnh là một khu dinh điền thời TT Ngô Đình Diệm, nay bỏ hoang đã lâu, VC bám trụ ở đây, thỉnh thoảng tập trung tấn công các đồn bót của ĐPQ, NQ, chúng bám trụ nơi này để giữ đường giao liên từ Long An, qua Đức Huệ để tới Kampuchia.

Chiều hôm đó, sau cuộc hành quân tảo thanh về, thay quần áo xong thì Xuân, Trung Úy, bạn cùng khóa 21 VB, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 cùng TĐ đóng ở Bình Tả gần đó lái xe jeep qua, rủ đi uống cà phê, có cái quán nhỏ xế chỗ tôi đóng quân, bước vào, quán đã sẵn mấy anh Thiếu úy pilot trẻ lái trực thăng đang ốn ào, huyên thuyên, Xuân không kêu cà phê nữa, nó gọi bia nhậu với cá lóc nướng, mấy hôm sau tôi mới hiểu vì sao các anh chàng pilot trẻ này cứ lượn ra lượn vào ở cái quán cà phê này.


Cũng tội nghiệp bà chủ quán tên là Dì Năm, khoảng 50 tuổi, có tụi tôi trong quán, lính không dám vào, quán bị ế, cả mấy anh pilot thấy 2 ông Trung Úy trẻ, tác phong rõ ràng là dân tác chiến chứ không phải SQ của bộ Tư Lệnh, ngồi tì tì với bia thì chút sau cũng phú lỉnh, tôi gọi máy kêu 2 Trung đội trưởng của ĐĐ lên nhậu, lúc sau ngà ngà, nói chuyện với Xuân về Hạnh mới bỏ mình bên bờ Vàm Cỏ, tôi muốn khóc, ôm chai bia đứng dậy loạng quạng bước theo bước tango : đời tôi quân nhân, chút tình riêng gửi núi sông…đời lính, biết bao nhiêu lần say ? mà có phải chỉ có chút tình riêng gửi núi sông đâu, SQ/VB là gửi cả cuộc đời cho núi sông ấy chứ, như thằng Hạnh chẳng hạn, gửi cả cuộc đời cho núi sông khi còn quá trẻ, mới ngoài hai mươi chứ mấy, thế là xong hết. Trong lúc ngật ngưỡng ôm chai bia, tôi bắt gặp một cặp mắt đen láy nhìn tôi qua cái rèm cửa sổ thông với buồng trong, tôi khựng lại nhìn đôi mắt ấy, chiếc rèm khép vội lại, đôi mắt mất hút. Tôi lẩm bẩm : ê, nhìn trộm hả, rồi nhún vai :

em là gái trong song cửa
anh là mây bốn phương trời
anh theo cánh gió chơi vơi
em vẫn nằm trong nhung lụa
( Một mùa đông : Lưu trọng Lư )

đúng rồi, anh là mây bốn phương trời, vấn vương chi với những đôi mắt, nhất là mắt đàn bà con gái, tôi nói lớn hỏi Sơn : Ê Xuân, đàn bà con gái làm bận rộn mình quá hả, quẳng hết đi phải không mày, Xuân gục đầu ầm ừ: quẳng gì thì quẳng nó vẫn bám cứng chân mình như thường, quả thực thằng Sơn này vướng nhiều đàn bà quá, khi làm tới Quận trưởng, lính gác quận đường canh VC thì ít mà canh đàn bà thì nhiều, nhưng thôi nó cũng xứng đáng, bị thương 3,4 lần, bay mất một mắt thành độc nhỡn như Moshe Dayan, tôi liền cánh, liền cành với nó từ ngày ra trường tới mãi 1973 khi nó làm QT, mà nào có dứt ra được đâu, thỉnh thoảng nó vẫn kêu lên SĐ xin TĐ tôi biệt phái bảo vệ Quận nó để 2 thằng bù khú.

Trở lại với Bình Hữu, Đức Hòa, cũng một buổi chiều rảnh rỗi Sơn lại kiếm tôi rủ uống cà phê, lần này thì uống cà phê thực sự, tôi và Sơn không phải là những người nát rượu, thỉnh thoảng nổi hứng hay buồn quá mới uống, khoảng chiều, một cô gái nhỏ nhắn, mặc áo dài trắng nữ sinh, loại áo dài mà tôi thích nhất trong các kiểu áo dài, người con gái ôm cặp trước ngực, bước vô quán, nàng chào hai đứa tôi, tay vuốt mái tóc xõa trên trán, ánh mắt lướt nhanh qua nhưng tôi cũng kịp ngờ ngợ : đôi mắt này, phải rồi, đôi mắt tối nọ nhìn trộm mình đây mà! Cô gái bước vô trong còn ngoái lại nhìn tôi, môi mím lại như muốn cười nhưng không dám cười, tôi cũng toét miệng ra gật đầu, cô ta dáng dấp nhỏ bé, có lẽ bé thật, tóc ngang vai, khoảng 16,17 chứ mấy, với tôi thế là quá bé dù tôi cũng chưa già là bao, mới hơn 20 chứ bao nhiêu, ôi thôi, mà lẩn thẩn chi vậy, chuyện gì nữa đây, chắc cô ta thấy tôi tối đó ngồ ngộ hoặc chưa bao giờ thấy một người say ôm chai bia loạng quạng nhẩy ?

Xuân đá đá chân tôi : ôi chao phí của, mày ở đây, địa phương mày mà không quen cô bé này thật là phí của, tao ra lệnh cho mày, 10 ngày nữa mày phải ôm cô bé trong tay, thôi, ôm thì vội quá, mày phải nắm được tay cô ta và nói nàng hãy bảo mấy anh lái trực thăng kia đi chỗ khác chơi, mày không làm được thì không đáng là Sĩ quan Võ Bị, rõ chưa.

Rồi tôi cũng biết, nàng tên Mai, một mẹ một con, ông bố có bà hai đi đâu mất tiêu, bà Năm, mẹ của Mai mở quán cà phê, lợi tức cũng đủ cho hai mẹ con đắp đỗi qua ngày, hình như tôi cũng đang bị điều tra, thằng tà loọc nói dì Năm hỏi về trung Úy nhiều lắm, tôi cũng không để ý, lời Xuân khích bác tôi cũng không để ý, những cuộc hành quân liên miên làm không có thì giờ nhiều, ưu tiên lo lắng an toàn cho đơn vị, mỗi lần chạm địch có người chết, tim tôi cứ thắt lại khi thấy những người vợ lính lên tìm chồng, vành khăn tang trắng, đứa bé còn bồng trên tay. SĐ quần tụi tôi như cái mền rách vì an ninh của BTL, từ ngày về đây, chỉ có đụng chạm nho nhỏ, SĐ chưa một lần bị pháo kích.

Thường mỗi tối, khu vực ĐĐ tôi phụ trách đường phố giới nghiêm, chẳng cần thông báo, tối là mọi người ở trong nhà, Ban CH/ ĐĐ đóng xéo với quán cà phê Dì Năm, một tối, tôi lững thững sang đó uống cà phê, chẳng có mục đích gì với lời nói của Xuân, Mai ngồi nơi quầy, nàng cầm cuốn tập trong tay, tôi gọi ly cà phê sữa đá rồi hỏi :

- Mai siêng thế này chắc học giỏi lắm hả?

Lần đầu tiên đối diện cô ta và cũng lần đầu tiên trò chuyện mà tôi nói tỉnh bơ làm như đã biết nhau lâu lắm. Mai tròn mắt nhìn khi thấy tôi gọi đúng phóc tên nàng :

- Đâu có, quá dốt là đằng khác, sao Tr/U biết tên Mai ?

- Ồ, tôi biết Mai từ buổi tối Mai nhìn tôi qua cái cửa sổ kia kìa, tối đó chắc tôi say làm Mai buồn cười lắm hả ?

- Ôm chai bia mà cứ tưởng là ôm cô nào thì không biết có thể gọi là buồn cười hay không !

Hay, cô này biết nói chuyện đây dù tuổi còn nhỏ, mới 17 và đang học ở Trung Học Quận, có lẽ Tam, Tứ gì đó.

Cũng một tối khác sang chơi, Mai hỏi tôi giải giúp một bài toán phương trình bậc 2, tôi hỏi về toán, cô ta chẳng biết gì cả, dốt toán quá, tôi giảng cho Mai – giảng mấy lần mà vẫn chưa hiểu, tôi buột miệng:

- Dốt quá thế này

Mai sửng cồ:

- Thì Mai đã nói Mai dốt rồi mà, chê người ta mai mốt qua uống cà phê em bỏ muối vô cho xem

- Có bỏ muối cũng không giỏi toán hơn được, chịu khó làm bài tập nhiều vào, và muốn thật giỏi hơn, phải hối lộ thầy.

- Tr/U muốn Mai hối lộ gì ?

- Hối lộ gì sẽ cho biết sau nhưng trước hết không được gọi tôi là Tr/U nữa, cô có phải là lính của tôi đâu.

Hai tuần sau, Xuân hỏi :

- Tình hình đến đâu rồi, đã nắm tay cô ta chưa, sao mày ụt quá vậy.

Tôi trả lời:

- Tao chưa nắm được tay nàng nhưng nàng nắm tay tao thì sao ?

Xuân trợn mắt :

- Thật không ? vậy là mày vượt quá chỉ tiêu rồi còn gì, sao có chuyện ngược đời vậy ?

Chẳng có gì là ngược đời và sao lại không thật, chỉ tình cờ thôi, tối đó khi giải cùng Mai bài toán xong, tôi về, chợt Mai nắm tay tôi :

- Em còn một câu toán nữa quên hỏi anh.

Cái nắm tay đó rất tự nhiên, rất thật thà của cô gái mới lớn nhưng không hiểu sao tôi lại không nhận ra cái thật thà đó, tôi nghịch ngợm biến sự thật thà đó thành điều có ý nghĩa hơn, tôi im lặng không nói gì nhìn Mai, sự im lặng của tôi làm Mai bối rối, chút sau nhận ra, nàng rụt tay về nhưng tôi giữ chặt lại, được một lúc, bàn tay không còn có vẻ muốn rút về nữa, hình như nó muốn được nằm yên như vậy, tay Mai mềm đi trong tay tôi và tôi biết trái tim nàng cũng đang mềm đi, 17 tuổi rồi, không lẽ không biết rung động là gì sao, còn tôi thì tỉnh táo như con sói nhìn con cừu, hai tay tôi nắm tay Mai, giờ mới thấy được tay Mai run run, sau này có nhiều bàn tay cũng run run trong tay tôi nhưng những bàn tay đó có sự xúc động khác, không tinh khiết như cô học trò nhỏ này, vậy là vấn vương rồi ư.

Một lần hành quân về, nhẩy trực thăng, người đầy sình, tắm rửa xong thì lính nói Dì năm kêu Tr/ U sang ăn cháo, vừa đói vừa lạnh, có tô cháo gà nóng, tỉnh cả người, vừa ăn tôi vừa nghĩ : vậy là sâu đậm rồi đây. Mai dốt toán nhưng lại giỏi văn chương, cứ tưởng cô học trò nhỏ ở cái quận đèo heo hút gió này thì biết gì nhưng Mai hiểu khá nhiều về thơ văn, cách nói chuyện cũng khéo léo, một lần nói về ý nghĩ này, Mai lại sửng cồ : đèo heo hút gió cái gì, từ đây về SG có 1, 2 tiếng đồng hồ chứ mấy, không được coi thường người ta ạ. Một tối, sau khi dậy Mai học, lúc về, Mai chợt đứng phắt dậy ôm lấy tôi, ô hay, tối nay sao bạo thế này, nàng thì thầm :

- Hôm nay em được 18 tuổi rồi, mừng sinh nhật em đi

Cách bày tỏ này là tự nhiên hay sắp đặt trước ? thây kệ, tôi ôm Mai đặt lên trán nàng nụ hôn :

- Mừng em được 18, với anh, em vẫn là cô học trò bé nhỏ, còn anh vẫn là mây bốn phương trời, quen lính khổ lắm nghe em, để ý đến anh hồi nào vậy ?

- Thì cái tối anh uống bia say đó, anh và ông Tr/U Sơn nhắc về một người nào mới chết, em thấy anh buồn, rồi anh ôm chai bia nghêu ngao hát, trông anh lúc ấy thật tội nghiệp, hôm nay em 18, đến tuổi đi bầu rồi, có quyền công dân rồi, không được coi em như con nít nữa, mọi lần nói chuyện với anh, em thấy anh như chẳng để ý gì lời em cả, lúc nào cũng coi em như con nít, này anh, có phải ông Nguyên Sa yêu bà ấy lúc bà mới 13 phải không, anh trễ hơn ông ta 5 năm rồi đấy.

- Vậy ư, 13 nhỏ quá, em biết Phạm Thiên Thư chứ, thuộc thơ như em hẳn phải biết ông này, tà áo trắng mỗi chiều em học về, anh đứng nhìn lơ mơ thấy em là cô Hoàng thị Ngọ: em tan trường về, anh theo Ngọ về…Mai ngắt ngang : anh mà theo ai, anh chẳng theo mà cũng làm chết người ta đây này.


Thế ra tôi đóng ở đây cũng khá lâu mà không biết, Mai đã được18 rồi đấy. Mấy ngày sau sinh nhật Mai, ĐĐ tôi được lệnh chuyển lên Đức Huệ, hành quân chung với một ĐĐ của SĐ 9 Mỹ, hôm lên xe di chuyển, tôi thấy ánh mắt ấy khuất sau cánh cửa quán cà phê nhìn theo, chắc có ngấn lệ, đã nói rồi mà, anh là mây bốn phương trời, yêu lính khổ lắm, u uẩn chiều ly biệt như thơ Quang Dũng. Tới Đức Huệ, BCH/ ĐĐ tôi đóng chung với BCH/ĐĐ Mỹ trong nhà máy đường Hiệp Hòa, nhà máy đồ sộ to lớn cao sừng sững, đã lâu nhà máy không còn hoạt động vì chiến tranh, máy móc còn nhưng cũng không biết ai đã gỡ đi một ít. Thời gian phối hợp ở đây, tôi mới thấy cách tổ chức của quân đội Mỹ quá lớn, Tiểu Đoàn Trưởng có trực thăng riêng, ĐĐT Mỹ thì như TĐT của VN, họ cho các Trung đội hành quân riêng lẻ, ĐĐT ngồi một chỗ chỉ huy thành ra tôi cho các Trung đội phối hợp với Mỹ, không phải lội theo, một lần chạm địch, tôi dẫn Trung đội trừ bị vượt sông Vàm Cỏ tiếp ứng, đi chung với Mỹ nên họ gọi pháo binh, Cobra, các phản lực rất nhanh, còn ta hành quân pháo binh thì có nhanh nhưng các phương tiện yểm trợ khác thì chậm, có người bị thương, họ kêu Medevac có ngay. Đức Huệ gần biên giới Kampuchia nên VC nơi đây khá nhiều nhưng với phương tiện dồi dào của Mỹ, chúng không thể tập trung đông vì pháo binh Mỹ bắn suốt ngày, hơi có chút nghi ngờ là máy bay bay lên dội bom ngay, một lần hành quân mở rộng lục soát, ban chỉ huy ĐĐ tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vì mìn bẫy, người lính mang máy đá phải sợi dây căng mìn của VC, may mà chỉ có hạt nổ kích hỏa, còn trái 155 nằm chình ình như con heo dấu dưới lớp cỏ, trái pháo bị lép, nếu không, mấy thầy trò chỉ còn cách hốt xương vô poncho.

Một hôm đang ngồi nghiên cứu bản đồ khu vực hành quân ngày mai thì viên ĐĐT Mỹ kêu tôi:

- Ra đây tao chỉ cho coi cái này

hắn dẫn tôi xuống dưới gần cái giếng, chỉ vào một người lính của ĐĐ tôi đang loay hoay cạo lông cái lỗ tai heo, lỗ tai còn bám đầy đất cáu bẩn, lông lá tua tủa. Hắn nói :

- Lính mày ăn cái gì mà dơ quá vậy, bộ C Ration không đủ cho tụi mày à ?

Tôi mắc cở đỏ mặt, cái lỗ tai heo đó là do chính tôi sáng nay nói với anh chàng đầu bếp nấu ăn là ra chợ Đức Huệ kiếm cái lỗ tai heo, tao thèm chấm mắm nêm với chuối chát quá, cũng may, chiều đó trong chuyến tiếp tế, Mai ghé hậu cứ gửi cho tôi một cạp lồng cháo gà, cái lỗ tai heo, tôi cho người lính nấu ăn, tôi thấy họ bàn tán với nhau đi mua xị đế. Gần 1 tháng hành quân chung với ĐĐ Mỹ, ĐĐ tôi trở nên “giầu có “ lựu đạn, claymore, khói mầu…dư giả.

Sau một tháng ở đây, ĐĐ trở về mái nhà xưa, TĐ tôi vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ BTL/SĐ, vì thông thuộc địa thế, tôi vẫn trông giữ Bình Hữu, đôi mắt đen như hạt nhãn đón tôi trong reo cười, trong tôi cũng có bâng khuâng rộn ràng , chiều đó lại có cháo gà. Tối tối tôi thường sang Mai, nàng không còn hỏi tôi nhiều về toán nữa, chuyện giờ là những nhớ nhung của những ngày xa cách, khi nói chuyện, Mai thường hay nắm tay tôi, tôi hỏi:

- Nắm tay anh hoài không chán ư ?

- Không, em vẫn có linh cảm rồi anh sẽ bỏ đây đi xa, giữ được anh lúc nào hay lúc đó, không anh lại bỏ đi

- Thì anh vẫn nói với em rồi mà, anh là mây bốn phương trời, anh theo cánh gió chơi vơi, lính tác chiến chứ có phải lính Phủ Tổng Thống đâu.

- Không, đừng làm mây bốn phương trời, hãy là những áng mây che phủ ngọn núi gì mà anh hay kể em nghe đó, ừ, đúng rồi, ngọn núi Lâm Viên nơi hồi xưa anh học ở Đà Lạt, những ngày mùa đông, mây tụ trên đỉnh núi, anh hãy như những áng mây đó, tung bay bốn phương trời làm chi, ở đây với em, tình yêu làm người ta ích kỷ, em biết ước muốn của em mong manh như những sợi tơ trời, tơ trời chỉ giữ được con ruồi, con muỗi, làm sao giữ được chân anh, em sợ ngày đó quá anh ạ .

Có níu kéo cũng không thể được đâu, đã nói rồi mà, thôi chào em, chào người con gái bé bỏng tội nghiệp, anh cũng đâu có muốn bỏ đi, nhưng lính mà em. Ít lâu sau, TĐ tôi di chuyển lên Tây Ninh, lần ra đi này tôi nghĩ khó có dịp quay lại Đức Hòa vì nơi sắp đến là nơi mịt mù khói lửa, không có những tối yên bình để chúng ta ngồi bên nhau, tình hình chiến sự biên giới có vẻ sôi động, sau thời gian dài Sihanouk cho VC sử dụng đất Kampuchia sát Việt Nam làm nơi chứa quân và vật dụng chiến tranh để tấn công miền Nam, trước đây, khi truy kích VC mà lỡ xâm phạm biên giới, Sihanouk làm rùm beng, đưa vấn đề ra LHQ, giờ ông ta bị lật đổ, Lonol lên làm Thủ Tướng, Lonol thỏa thuận với chính phủ VNCH cho ta mở cuộc hành quân biên giới đánh đuổi VC, SĐ 25 là một thành phần của cuộc hành quân này cùng với Nhẩy Dù, TQLC, BĐQ…Quân Đoàn 3 dưới sự chỉ huy của vị Tướng lừng danh Đỗ Cao Trí, người Mỹ gọi ông là Patton của Mỹ, Patton là tướng Thiết Giáp mà Mỹ đã gọi ông ta là America’s greatest General, Tướng Trí không phải là Tướng Thiết Giáp nhưng trong các cuộc hành quân ở Kampuchia, ông sử dụng TG rất tài tình trong nhị thức Bộ Binh Thiết Giáp, cuộc chiến ở Kampuchia đã tạo nên những vị Thiết Đoàn Trưởng nổi tiếng như Đại Tá Trần quang Khôi ( sau là chuẩn Tướng ), Đại Tá Quang, Đại Tá Đồng…Những vị Thiết Đoàn Trưởng này rất gần gụi với Tướng Trí vì ông luôn sử dụng họ phối hợp với bộ binh, tạo được nhiều chiến thắng vẻ vang, ngược lại Tướng Hoàng Xuân Lãm là Tướng Thiết Giáp nhưng trận Hạ Lào Lam Sơn 719, ông không sử dụng TG được như Tướng Trí.

Tháng 3-1970, quân ta rầm rộ vượt qua biên giới sau khi có lệnh là lời hiệu triệu của TT nguyễn Văn Thiệu với toàn dân : Thưa quốc dân đồng bào, khi tôi đang nói những lời này cùng đồng bào thì Quân Đội ta vừa vượt qua biên giới Kampuchia để đánh đuổi quân CS xâm lược…

Lệnh xuất phát ban ra, từng cánh quân tràn qua biên giới, ĐĐ tôi được “cõng” bởi Chi Đoàn 2 Thiết Đoàn 10, Chi Đoàn Trưởng là Đ/U Nhuận, chưa vượt được bao xa thì chạm địch liền, không phải chỉ riêng cánh quân tôi mà hầu như suốt dọc biên giới, chỗ nào cũng chạm địch, chứng tỏ chúng ung dung ở đây đã lâu, xây dựng các cơ sở hậu cần vững chắc, quân ta với hỏa lực hùng hậu cùng sự yểm trợ của phi pháo, lúc này Hoa Kỳ vẫn còn yểm trợ ta nên các cánh quân tiến như chẻ tre, chiếm mục tiêu đầu, vượt qua cánh rừng chồi tới khoảng trống, tôi thấy trải dài theo biên giới ngút ngàn, khói lửa mù mịt, máy bay quần thảo tứ tung, mồ hôi trán đổ xuống mắt cay sè với cái nóng tháng 3, tôi nhận tin cánh quân bên cạnh, người bạn cùng khóa 21 VB của Trung Đoàn 49, Đại Đội Trưởng Nguyễn văn Bình vừa hy sinh, hồi trong trường, Bình chung ĐĐE với tôi, đạn nổ ròn rã từ các khẩu 12.7 của Thiết vận xa, đạn VC xé gió bay tới khiến tôi chẳng kịp bùi ngùi cho người bạn vừa nằm xuống, chiều các mục tiêu ấn định thanh toán xong, VC bỏ lại nhiều xác cùng vũ khí, tối quây tròn phòng thủ cùng với Chi Đoàn Thiết vận xa, nằm ngửa trên cái poncho bên cạnh hầm trú ẩn mới đào, người còn nguyên quần áo, hôi rình vì mồ hôi, cát bụi của cuộc quần thảo ngày hôm nay, người lính hỏa thực mang lại bịch gạo sấy với miếng thịt ba lát :

- Ăn chút đi ông thầy, sáng tới giờ ông chưa ăn gì cả

Chưa ăn gì mà có thấy đói đâu, chỉ khát nước, nhệu nhạo nhai vài ba miếng, nhớ tới Mai, ngước lên bầu trời, các vì sao lấp lánh, tôi thấy đôi mắt hạt nhãn như đang nhìn mình : chàng từ đi vào nơi gió cát, đêm trăng này nghỉ mát phương nao? nghỉ ở đâu ư Mai, anh đang trên vùng biên giới đó em, với mùi thuốc súng và mùi máu người. Em ạ, như anh nói rồi đấy, đời lính khổ lắm, yêu lính cũng khổ theo, chẳng biết rồi sẽ như thế nào, rất dễ dàng như Bình bạn anh hôm nay, với anh đã đành, phải chấp nhận và quen rồi, chỉ cầu xin em đủ nghị lực thôi.

Sau mấy tháng hành quân liên tục không ngừng nghỉ, tôi được thăng Đại Úy tại mặt trận, một ngày tháng 7-1970, TĐ tôi tách ra, hành quân chung với Thiết Đoàn 15 chiến xa, tiến vào vùng Mỏ Vẹt và chạm địch nặng tại đây, mục tiêu sát bìa rừng, một ngôi làng trải dài với hàng tre dầy kiên cố, 10 giờ sáng chạm địch, sau 2 lần xung phong không chiếm được mục tiêu, hầm hố địch rất kiên cố với đủ loại hỏa lực, ta bị cháy mất 2 chiếc M41, một số bị chết và bị thương của cả Thiết giáp và BB.

Khoảng 3 giờ chiều, một chiếc trực thăng lượn vòng vòng rồi đáp xuống, tôi ở gần đó đang chuẩn bị dàn quân cho cuộc xung phong tới, nhẩy ra khỏi trực thăng là Tướng Trí và một người đàn bà người Âu, cả 2 mặc đồ dù, Tướng Trí đội cái mũ lưỡi trai mầu đen, ông thoăn thắt bước lên chiếc xe nơi tuyến đầu mà thỉnh thoảng VC vẫn cầm chừng bắn về phía ta ( chúng ta nên biết Tướng Trí rất bận rộn vì bao quát nhiều cánh quân của QĐ 3, hầu như đâu cũng chạm địch, với ông lúc đó chỉ là lệnh và lệnh + sự điều động và theo dõi các trận đánh. Ông đáp xuống đây chắc SQ Tham Mưu bay cùng ông báo cáo cánh quân này chạm nặng và chưa tiến lên được ), nhìn vào mục tiêu quan sát một hồi, tôi thấy ông ta cầm cái can gõ gõ lên cái nón sắt của Trung Tá Đồng, Thiết đoàn Trưởng Thiết Đoàn 15 :

- Đù mẻ, lên ngay nghe Đồng, cháy bao nhiêu xe tao cho bấy nhiêu, phải chiếm cho được mục tiêu trước tối nay nghe chưa.

Trung Tá Đồng đứng nghiêm chào Tướng Trí nhận lệnh, Thiết giáp và BB xốc lại hàng quân, máy bay của ta và Mỹ quần thảo gầm rú trút bom xuống mục tiêu, xong tới pháo binh, cuối cùng TG và BB căng hàng ngang nhất tề xung phong, ông Tướng 3 sao đứng ngay phía sau, cả Thiết Đoàn Trưởng và Tiều Đoàn Trưởng đều xông lên, địch còn bắn ra nhưng yếu đi nhiều, giờ thì liều, chết cũng phải xông lên chứ không còn lui được nữa, xe và Bộ Binh tràn như nước vỡ bờ, địch tung hầm bỏ chạy, ta chiếm được mục tiêu, có sự trả giá đắt, ĐĐ tôi, Ch/U Thái trung đội Trưởng hy sinh, Đại Úy Xuân, Đại Đội Trưởng ĐĐ2, bạn cùng khóa, người ra lệnh cho tôi 10 ngày phải nắm được tay Mai, bị thương nặng, Thiết giáp cháy thêm một xe và một số chết + bị thương, xác địch và vũ khí vương vãi khắp nơi, ngay lúc đó TĐT cho tôi biết Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh vùng 4 vừa tử nạn máy bay khi đang điều động Quân Đoàn 4 đánh qua biên giới, chiếc CNC của ông đụng phải chiếc Cobra của Mỹ, 2 phi công Mỹ và Ban Tham Mưu + Tướng Thanh, tất cả đều hy sinh.

Có một điều thú vị và cảm động, trong một lần tiếp tế, tôi dặn Sĩ Quan chỉ huy hậu cứ mua cho cái bắp cải vì cứ ăn gạo sấy hoài, háo người quá, cái bắp cải có cộng với một cạp lồng cháo gà, viên HSQ hậu cứ theo chuyến trực thăng tiếp tế nói cô Mai lên tận Tây Ninh gửi cái này cho Đ/U, tôi gọi 3 Trung đội Trưởng sớt cho mỗi người ít cháo và mấy lá bắp cải, rau rửa qua loa vì nước rất quý, mọi người nhai ngấu nghiến, gạo sấy hoài, xót cả ruột.

TĐ tôi tạm rời vùng Mỏ Vẹt, tiến theo trục Quốc Lộ 1, đường lên Neak Luong, giữ đường cho TQLC hành quân đưa người Việt sống ở Kampuchia về, nhiều người Việt bị giết khoảng thời gian này, trong lần lục soát một ngôi làng ở vùng Kampong Trabek, vài người Tầu còn lại dẫn chúng tôi ra mấy cái giếng chỉ xuống cho coi, tôi thấy xương người, tóc tai, quần áo đầy dưới đó, họ nói trong làng có chục gia đình người Việt tất cả bị chặt đầu (cáp duồn) trong đó có nhiều trẻ con đều bị giết xô xuống giếng, thái độ lính trong ĐĐ thay đổi hẳn khi thấy điều này, tuy vẫn giữ kỷ luật nhưng đâu đó tôi thấy có sự xô đẩy và quát tháo mấy người Miên ở đây, tôi vội rút ĐĐ đi chỗ khác và ngăn chặn âm mưu của 3 Trung đội Trưởng, họ bàn với tôi là dàn dựng một cuộc chạm địch giả rồi nói: thẩm quyền xin pháo binh đi, tụi này tàn ác quá mà, tôi nói họ thôi, trong làng có đàn bà và trẻ con, không phải tất cả đều tàn ác - nếu không, với cuộc đụng trận giả, pháo binh sẽ làm không còn cái nhà nào đứng vững trong ngôi làng này.

Tôi được tin TĐ sẽ về lại Đức Hòa dưỡng quân, tin làm tôi thật vui, như vậy sẽ gặp lại Mai, xa nhau cũng mấy tháng rồi còn gì, tội nghiệp Mai, vò võ đợi chờ, còn tôi với bao bận rộn có thể quên đi được, trước khi về, ông Tiểu Đoàn Trưởng cho biết tôi có 2 ngày cho một Đại Đội lính Kampuchia( Lonnol ) theo tôi thực tập, hôm ra ngoài quốc lộ nhận ĐĐ này tôi mới tá hỏa, không phải 1 ĐĐ mà đông nghẹt tới 4,5 ĐĐ vì lính Kampuchia đi hành quân mang theo cả vợ con, gà vịt, nồi niêu soong chảo. Tối đóng quân, lính mình nằm vòng ngoài, đào hầm hố phòng thủ, họ nằm giữa còn nổi lửa nấu nướng linh tinh, tôi phải ra lệnh tắt hết lửa nhưng cũng vô ích, khuya trẻ con khóc, chó sủa, gà gáy…may là vùng này lúc đó tạm yên, giả như tối mà VC tấn công, tôi không biết lo toan sao với đám “lính” này. ĐĐT của lính Miên là 1 anh Tr/U Tầu lai, đeo 2 vạch vang trên cầu vai như quân đội Pháp, tay cầm bản đồ, địa bàn nhưng cầm cho lấy có, anh ta không biết cách sử dụng, cũng chẳng hiểu tốt nghiệp quân trường nào, nói chuyện với nhau phải dùng tiếng Pháp, may là suốt 7 năm Trung Học tôi chọn sinh ngữ 1 là Pháp nên cũng tạm hiểu nhau, họ nói tiếng Pháp rất thông thạo.

Cuối cùng chúng tôi cũng lên đoàn xe trở về Đức Hòa, có lẽ tại hậu cứ TĐ tôi vẫn còn ở đây dù SĐ đã chuyển về Cử Chi, tới nơi, Thiếu Úy Cư, ĐĐ phó nói với tôi : Đ/U cứ đi gặp chị Mai đi, để tôi sắp xếp ĐĐ cho. Tôi xuống xe jeep bước ngay vào nhà, Mai ôm chầm lấy tôi, nàng khóc chưa bao giờ tôi thấy khóc như vậy, lòng tôi cũng chùng xuống, mình cũng yêu Mai quá mất rồi, bắt đầu chỉ là tinh nghịch thôi, ai ngờ, người ta bảo đừng đùa với lửa mà. Ngày mai, tôi nhận sự vụ lệnh đi đơn vị mới : Đại Đội Trinh Sát, ở các đơn vị BB, hiếm có ĐĐT là Đ/U lắm nên việc tôi và Xuân chuyển làm nhiệm vụ khác cũng dễ hiểu. Xuân sau khi xuất viện đi làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 , tối đó là tối cuối còn ở Đức Hòa, tôi và Mai ngồi nói chuyện tới tận khuya, lúc đứng lên, Mai quấn chặt lấy tôi, có tiếng thút thít, thân thể con gái thơm tho ấm áp, mềm mại qua làn áo mỏng, khi thấy ánh mắt tôi nhìn nàng khẽ gật đầu, Mai run rẩy :

- Em xin anh, hãy giữ gìn cho em, giữ gìn cho chúng ta, giữ gìn cho ngày hạnh phúc.

Tôi thở dài, tôi trân trọng Mai, giữ cho nàng, tôi biết nếu tôi muốn hơn nữa, Mai cũng chịu thua thôi, nàng đang mềm như sợi bún, không còn là chính nàng lúc này, tôi hối hả quay ra, tôi cũng không còn là chính tôi lúc này.

Về nắm ĐĐ Trinh sát, quanh quẩn suốt ngày với núi rừng, tuy nhiên cũng thường ở Hậu cứ sau những chuyến đi nguy hiểm, những lần như vậy. tôi cho xe về đón Mai lên, bây giờ thì đã có toan tính về tương lai, về những hoạch định chính thức, trước đây cứ nghĩ lấy vợ sẽ là một người ở Sài Gòn, nhưng SG xa quá và ít có thời gian ở đây, mà con tim thì sao biết được, Mai có gì cho mình phải suy nghĩ đâu? trước mắt, nàng được tất cả, yêu mình nồng nàn, chuyện là do chai bia biết nhẩy tango, cũng buồn cười, có phải tôi xuất hiện đúng lúc và nỗi buồn “may mắn” của tôi cũng đúng lúc.

Năm 1972, chiến trường lại bùng lớn, ĐĐ Trinh Sát không còn len lỏi bờ bụi rình rập nữa mà trực diện đánh nhau với VC như một ĐĐ bộ binh, tôi và Xuân lại có duyên với nhau, tôi được tăng phái cho Xuân lúc này là TĐT/TĐ2, cuộc chiến rất khốc liệt, VC sử dụng nguyên một SĐ rải chốt từ Chơn Thành lên tới Bình Long, mục đích không cho ta dùng đường bộ tiếp tế cho An Lộc, cả tôi và Xuân đều thiệt hại nặng, thậm chí có lúc Trinh Sát hết cả Sĩ Quan mà phải để Trung sĩ coi trung đội, một lần nữa, Xuân lại bị thương vì pháo, mất mất một mắt, nó rất tiếu lâm :

- Mỗi lần bị thương trước tiên tao sờ xem cái đó còn không, còn là tao yên tâm

Xuân lên Thiếu Tá và đi làm Quận Trưởng sau đó. Tôi nghĩ, giá Tướng Đỗ Cao Trí không bị “tai nạn” nổ trực thăng, có lẽ không có trận An Lộc này, Cục R của VC bị ông dí bắt, chiến trường ông mang ra xa khỏi miền Nam, ông làm chúng te tua, cái chết của ông lúc đó người ta chưa hiểu gì nhiều, cũng có suy nghĩ nào đó nhưng chưa rõ ràng, phải sau khi miền Nam rơi vào tay CS, lý do cái chết của ông ngày càng sáng tỏ hơn, bàn tay lông lá của Mỹ tạo ra sự việc này khi ông được điều động ra vùng 1 cứu nguy cho Lam Sơn 719. Đầu năm 1973, tôi rời Trinh Sát, về nắm Tiểu Đoàn 3/46, sau hiệp định Paris, tôi dẫn TĐ về bảo vệ Quận Dầu Tiếng, một quận nhỏ heo hút nằm sâu trong vùng đồn điền Michelin, ba phía trước mặt là mật khu, sau lưng là con sông, chỉ có chiếc cầu độc nhất nối liền với Quận Khiêm Hanh, có lần tôi tập họp Tiểu Đoàn nói chuyện cùng binh sĩ :

- Nếu địch tấn công phải ráng mà đánh trả, đây không có đường rút, con sông đó lội qua được không hay chết đuối. Vị trí như thế này, tôi nhớ tới một Tướng nào trong chuyện Tam quốc Chí thì phải đã đóng quân dựa lưng vào cái chết như thế này, nhưng nhờ vậy mà binh sĩ phải dốc lòng chiến đấu, không còn đường nào khác.

Mai xuống xe ở Khiêm Hanh, chuyển qua chiếc xe đò vô Dầu Tiếng, Mai lên thăm không báo trước, nàng nghĩ thầm : thôi kệ, để anh ấy bất ngờ, mọi lần thì có xe đón Mai lên, hôm nay Mai cứ sao xuyến trong lòng, mấy cái thiệp cưới đã in xong, nàng muốn đưa lên ngay để : anh ấy kịp gửi mời bạn bè. Chiếc xe cũ kỹ mệt mỏi lăn trên con đường đất đỏ, dân Dầu Tiếng cũng không đông mấy nên chuyến xe cũng không đến nỗi chật chội, đường vô Dầu Tiếng là con đường độc đạo, 2 bên đã được phát quang mỗi bên 200m, khi chiếc xe còn cách ngã ba Đất Sét 3 trăm thước thì bỗng một loạt đạn vang lên từ trong bìa rừng, tiếp theo là một tràng dài nhắm vào chiếc xe, chiếc xe cũ kỹ rung lên, VC lén lút mò ra bắn cả vào xe đò dân chúng di chuyển, Mai thấy nhói ở ngực, một vệt máu loang trên chiếc áo dài trắng, chiếc áo dành cho chàng, một loạt đạn nữa vang lên, Mai giật nẩy người gục xuống, nàng thảng thốt kêu lên :

- Anh ơi !

Nàng thấy ánh sáng mờ dần, Mai còn thấy chiếc cạp lồng đựng cháo ngả xuống, nàng với tay muốn giữ nó lại nhưng bàn tay không đưa ra được nữa rồi, nó buông thõng xuống, mấy cái thiệp cưới Mai vẫn giữ trong tay rớt xuống sàn xe, nhiều tiếng người kêu khóc, một làn gió thổi tới, mấy tấm thiệp bay tung theo bụi đỏ.

Khi nghe tin, tôi lái xe hộc tốc ngay ra chỗ chiếc xe đò bị bắn, chiếc xe đầy vết máu và vết đạn, tôi nhặt được một cái thiệp còn lại trên xe, cầm cái thiệp, người tôi run lên, không, không phải, Mai không sao hết, em không sao hết, những người chết và bị thương người ta cho biết đã được chuyển về Bệnh Viện Tây Ninh, tôi hối tài xế chạy ngay lên đó, tới nơi, tôi xông vào, người y tá trực hỏi:

- Thưa Thiếu Tá cần điều chi ?

Tôi nói về chiếc xe đò bị bắn ở giữa Khiêm Hanh và Dầu Tiếng

- Dạ, có 4 người chết và 6 người bị thương, mời Th/Tá theo tôi,

Anh ta dẫn tôi vô một cái phòng, trên một cái bàn, tôi thấy Mai nằm đó, nàng nằm ngửa, 2 tay đặt trên ngực, chiếc áo dính đầy máu, tôi nấc lên nắm tay Mai :

- Em ơi, Mai ơi, anh đây, cầm lấy tay anh

trong hốt hoảng tôi mong Mai sẽ cử động mà nắm lấy tay tôi, chớp chớp mắt khi nghe tiếng tôi nói, điều đó nghĩa là Mai chưa đến nỗi nào, hãy còn sự sống, nhưng bàn tay bất động và giá lạnh. Người y tá đến bên tôi :

- Thưa Thiếu Tá, chị ấy đi rồi !

Nước mắt dàn dụa, tôi nhìn khuôn mặt ngây thơ của Mai, nàng như đang ngủ, tôi cúi hôn lên vầng trán, vuốt vuốt mài tóc rối bời vương bụi đỏ, tôi đặt lên tay nàng chiếc thiệp cưới tôi nhặt được trên xe : ôi hạnh phúc của em đây, một hạnh phúc nhỏ nhoi em đang ngụp lặn mà người ta nỡ nhẫn tâm cướp đi của em. Tôi gục xuống.

Người ta bảo rồi thời gian sẽ xóa nhòa hết nhưng cho mãi nhiều năm sau này, tôi không bao giờ quên được hình ảnh Mai nằm trên chiếc bàn ở bệnh viện Tây Ninh máu loang chiếc áo học trò, khuôn mặt ngây thơ không chút hận thù : tôi có làm gì nên tội mà sao cướp đi hạnh phúc tôi, tôi đi gặp người yêu dấu của tôi mà? sao không cho tôi hưởng hạnh phúc của ngày lấy chồng, tôi mới đặt chân vào thiên đường thì lại xô tôi ra ? - Hữu Loan còn có đồi sim để những lần hành quân nhớ về người vợ trẻ chết vùng quê xa, tôi cũng có những lần hành quân nhưng không có đồi sim đi qua mà nhớ về Mai, không còn đôi mắt hạt nhãn chờ đợi như trước, nhưng tôi vẫn còn Bình Hữu, còn căn nhà xưa đầy ắp kỷ niệm để quay về, tôi trở lại đây biết bao lần, ngôi mộ ở giữa vườn sau nhà, Mai nằm đó cô đơn, hai bên mộ, má Mai trồng mấy cây huệ trắng, trắng tinh khiết như mầu áo học trò nàng mặc khi xưa, lần nào tôi cũng đứng lặng hàng giờ trò chuyện cùng nàng, tội nghiệp em, người đi chinh chiến đầy hiểm nguy thì không sao, tội nghiệp em đang say sưa ngụp lặn trong hạnh phúc, đang hân hoan với cuộc đời mầu hồng. Trong căn nhà, cái bàn Mai thường ngồi học mỗi tối vẫn để nguyên vậy, cái khung ảnh có hình Mai 2 tay chống dưới cằm, ánh mắt nhìn tôi cười nghịch ngợm : thì đã nói người ta dốt mà, chê người ta mãi, em bỏ muối vô cà phê cho xem.

TRẦN NHƯ XUYÊN
( Trích : Đoạn Đường Chiến Binh )

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Những cánh én giữa mùa đông

Tôi gặp anh trong buổi tiệc họp mặt mừng xuân của Hội Biệt Động Quân Nam Cali. Khi nghe giới thiệu, anh đến tìm tôi. Anh cầm tay hỏi lại tên tôi rồi nức nở với hai hàng nước mắt. Tôi ngạc nhiên, đứng dậy, im lặng xúc động nhìn anh khóc. Anh mặc bộ đồ bay màu đen, cao lớn, bô trai. Hàm râu mép vừa tăng vẻ cương nghị oai phong vừa đượm nét hào hoa lẫn một chút phong trần của những người đã từng một thời đi mấy về gió. Tôi vội vã cố lục lọi trong ký ức, nhưng không thể nhớ anh là ai, và đã từng gặp nhau chưa. Có thể là ngày xưa chúng tôi đã cùng tham dự một cuộc hành quân phối họp nào đó. Lúc ấy tôi là lính bộ binh, tham gia nhiều cuộc hành quân trực thăng vận, hoặc được L-19 bao vùng, Hỏa Long soi sáng hay được cận yểm bởi các oanh tạc cơ, mà chúng tôi xem như những chàng dũng sĩ, cứu tinh trong giờ phút lâm nguy. Tôi có dịp quen biết một số phi công, nhiều nhất là ở các Phi Đoàn trực thăng, nhưng không nhận ra chàng pilot vẫn còn đầy phong độ, đang ngồi trước mặt mình.
Khi bớt xúc động, anh đưa tay lau nước mắt và tự giới thiệu:
- Xin lỗi anh, gặp anh tôi xúc động quá, vì nghĩ tới anh tôi. Tôi là em của anh Phạm văn Thặng.
Bây giờ tôi mới hiểu ra. Đúng là tôi chưa gặp anh bao giờ. Sở dĩ anh biết tôi, vì mới đây trong một ký sự về chiến trường xưa, tôi có nhắc lại những trận đánh tại Kontum, và trong đó có kể lại cái chết can trường của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng, khi anh đang bay một phi vụ yểm trợ cho chính đơn vị của tôi.
Tôi cảm động, ôm lấy vai anh và mời anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Chỉ nói chuyện được một lúc, vì cả hội trường đang bừng lên với những bài hùng ca trên sân khấu. Anh cho tôi địa chỉ, số điện thoại và mong được gặp tôi tại nhà anh vào cuối tuần sau. Anh muốn biết tường tận hơn về cái chết của người bào huynh khả kính, cố Trung tá Phạm văn Thặng.
Qua tâm tình, tôi biết anh có một cái tên khá đẹp: Phạm Vương Thục. Trước 75 từng là phi công trực thăng võ trang của một Phi Đoàn kỳ cựu, tiếng tăm Vùng I: Song Chùy - 213. Đọc trên Cánh Thép, tôi còn biết anh từng là Lead Gun (trưởng toán trực thăng võ trang), tham gia trong suốt cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Một trận chiến mà địch quân tập trung hỏa lực phòng không mạnh mẽ nhất từ trước tới nay. Gây thiệt hại không nhỏ cho các đơn vị không quân Hoa Kỳ và Việt Nam tham chiên. Nhờ tài năng, phán đoán nhanh nhẹn cùng với sự bình tĩnh và can trường, anh đã vẫy vùng trên bầu trời trận mạc, bao lần vượt qua cái chết trong đường tơ kẻ tóc để yểm trợ hữu hiệu, cứu nguy cho các lực lượng chiến đấu cũng như cho chính những người bạn trong Phi Đoàn. Có lần phi cơ trúng đạn, anh đã phải đáp khẩn cấp xuống Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 30, trong khi Đồi 31 đã bị thất thủ.
Image
Phạm Vương Thục với Tướng STEVE RICHIE , người cựu phi công từng hạ 5 Mig 21 của CSBV
Cuối tuần, trước khi đến anh, tôi báo cho anh biết, là tôi vừa gặp người bạn cùng tù thân thiết, là một sĩ quan Lôi Hổ thuộc Nha Kỷ Thuật, vào năm 1972 đồn trú tại căn cứ B-15 ở Kontum. Và cũng là người trưởng toán, chỉ huy việc lấy di thể của anh Phạm văn Thặng từ chiếc oanh tạc cơ bị bốc cháy bên bờ sông Dakbla ngày ấy. Anh Thục rất vui mừng và mong được gặp người bạn Lôi Hổ này sẽ cùng đến với tôi.
Chúng tôi không mấy khó khăn khi tìm đến nhà anh, dù lúc trời đã tối và đang vần vũ một cơn mưa. Chưa kịp bấm chuông là anh đã mở cửa, vui mừng mời chúng tôi vào. Ngôi nhà khá đẹp, bày biện trang nhã. Điều làm chúng tôi bất ngờ cảm động là ở một góc của tầng trên là bàn thờ trang trọng với tấm ảnh chân dung lớn của cố Trung Tá Phạm văn Thặng, một số bạn bè không quân của anh đã hy sinh, năm vị tướng và một số sĩ quan khác đã tuẫn tiết vào giờ thứ 25 cuộc chiến. Chúng tôi đứng nghiêm trước các bức chân dung, lòng ngâm ngùi thương tiếc, cùng cảm kích tấm lòng của anh, người phi công dũng cảm hào hoa vẫn luôn giữ trọn tình với quê hương, chiến hữu.
Chị Thục từ dưới bếp chạy lên vui vẻ chào chúng tôi. Đúng là vợ phi công. Chị rất hiếu khách, bặt thiệp. Sau đó, khi nhìn trên bàn thờ gia đình, thấy tấm ảnh chân dung của Đại tá Trịnh Tiếu, tôi mới biết chị Thục là em gái của vị Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn mà tôi đã vài lần được gặp ở Kontum. Sau 75, Ông từng bị tù đày, tra tấn hành hạ nhiều năm, sức khỏe hao gầy, bệnh hoạn, nên vừa mới qua đời tại hải ngoại. Tấm ảnh của ông mới nhất trong số các bức ảnh chân dung khác trên bàn thờ. Anh Thục kể lại chuyện hai người tình cờ quen nhau, khi anh chỉ huy một phi đội vào Quảng Ngãi tham gia hành quân với Sư Đoàn 2BB. Buổi chiều, trước khi bay về Căn Cứ Phi Đoàn ở Đà Nẳng, anh được BTL/SĐ chuyển lại lời yêu cầu của Đại Tá Trịnh Tiếu (khi ấy là Trung Tá). Thục đã nhận lời chở quan tài của thân sinh đại tá Tiếu từ Quảng Ngãi ra Hội An an táng, và trong “phi vụ” đặc biệt này anh đã quen và làm xiêu lòng cô em gái xinh đẹp của ông, tháp tùng trên chuyến bay.
Trong bàn ăn, chúng tôi kể lại những chuyện vui buồn trong thời lính chiến ngày xưa. Anh Thục cho biết anh được tin máy bay anh Phạm văn Thặng lâm nạn tại Kontum vào lúc 5.30 giờ chiều ngày 26.5.72. Ngay sáng hôm sau Sư Đoàn 1 KQ cho một phi cơ A37 đưa anh từ Đà Nẵng vào phi trường Pleiku. Phi công của chiếc A37 này lại là người em cột chèo của anh, Thiếu Tá Trịnh Đức Tự (sau này đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Quế Sơn). Nhưng khi đến Pleiku, anh được cho biết tình hình ở Kontum rất nặng nề, chưa thể tìm được anh Thặng nhưng sự sống sót rất mong manh, không còn chút hy vọng nào. Thục đã bay trở lại Đà Nẵng trong ngày. Đến tối, anh được BTL/KQ cho biết là thi thể anh Thặng đã được đưa về Tử Sĩ Đường ở Tân Sơn Nhất. Khi anh cùng người anh cả vào nhận xác, thấy đầu anh Thặng không còn, nên quyết định cho tẩm liệm ngay, không muốn cho gia đình biết thêm điều đau đớn này Anh đã tột cùng xúc động khi quá thương tiếc người anh khả kính đã từng có với mình cả một trời kỷ niệm tuổi thơ, đặc biệt khi còn ở miền Bắc. Anh Thặng là người con thứ sáu và anh Thục là người con thứ tám của gia đình. Năm Thục vừa tròn 12 tuổi và anh Thặng 16, đã cùng gia đình di cư vào Nam, sống và lớn lên ở thành phố Huế. Không chỉ là anh em, hai người còn là đôi bạn thân thiết, cùng theo học trường Pellerin nổi tiếng do sự giúp đỡ tận tình của các Linh mục và Sư huynh, trước khi chia tay vào quân ngũ. Vài ngày trước khi hy sinh, như là điềm báo trước, anh Thặng gọi điện thoại về Đà Nẵng thăm anh và hỏi han khá nhiều về mọi người trong gia đình.
Tôi kể lại hành động can trường của anh Thặng mà tôi đã được chứng kiến từ khi anh lên vùng cho đến lúc hy sinh, và người bạn tù Lôi Hổ của tôi kể lại việc lấy xác của anh sau khi lâm nạn. Anh Thục ngồi nghe và khóc sụt sùi. Trước khi chia tay, anh xin địa chỉ e-mail của bạn tôi, bảo sẽ báo tin này cho cô con gái lớn của anh Thặng, hiện định cư ở Đức để cháu cám ơn người đã giúp lấy xác ba cháu. Hai ngày sau, người bạn chuyển cho tôi bức điện thư với lời lẽ rất lễ phép, cảm động dễ thương của cháu Phạm Hồng Phương, con gái lớn của anh Thặng.

Vào tối ngày 29.4, được thư mời của anh Thục, chúng tôi đến nhà hàng Paracell tham dự một Chương Trình Tưởng Niệm do cá nhân anh phối họp với người bạn thân, chiến hữu Đặng Thành Long, một cựu SQ Hải Quân, tổ chức. Anh đón chúng tôi trước cửa Nhà Hàng, nơi có bàn thờ nhiều vị Tướng Lãnh và Sĩ Quan VNCH đã hy sinh tại chiến trường hay tuẫn tiết trước giờ mất nước. Buổi Tưởng Niệm được tổ chức thật chu đáo, và nhiều ý nghĩa, trong không khí tôn nghiêm và cảm động. Tất cả tiền thu được dành hổ trợ những người đấu tranh trong nước đang bị tù đày khốn khổ. Cũng trong đêm nay, tôi được hân hạnh gặp bác sĩ Ngô Thế Khanh, một cựu y sĩ Không Quân tại Pleiku, một người lúc nào cũng trọn tấm lòng với anh em. Cái tình chiến hữu anh đã dành cho làm tôi cảm động. Tôi cũng được gặp một số các anh phi công khác. Tất cả đều có một thời oanh liệt, ngang dọc trên bầu trời quê hương và hào hùng trên đầu quân địch. Đêm nay cũng có người phi công mà tên anh có lẽ người cựu lính nào cũng biết. Bởi những bài ký sự chiến trường, mà ai đọc qua cũng phải ngưỡng mộ anh, không những cảm phục về tài bay bổng mà còn có một trí nhớ thật phi thường. Người hùng Vĩnh Hiếu, Lead gun của Phi Đoàn Thần Tượng 215. Phi Đoàn mà đơn vị tôi có nhiều gắn bó nhất, lúc còn hoạt động ở khu vực Sông Mao, và khi ấy người anh cả cuối cùng của Phi Đoàn, Trung Tá Khưu văn Phát còn là Đại úy Trưởng Phòng Hành Quân. Đêm nay, đã trải qua 35 năm dâu bể, nhưng Vĩnh Hiếu vẫn rất trẻ trung, với đôi mắt sáng, hàm râu mép hào hoa, nụ cười rạng rỡ, với những cái bắt tay thật chặt ân tình và những chuyện chiến trường, chuyện đồng đội sôi nổi dường như không muốn dứt. Như vậy đó, mà anh đã từng là một phi công trực thăng võ trang gan dạ hào hùng trên khắp chiến trường Vùng 2 khói lửa năm nào. Ngồi nói chuyện với anh, tôi thầm nghĩ, nếu bây giờ trở lại chiến trường, Thần Tượng Vĩnh Hiếu này cũng vẫn là một Lead Gun hào hùng(và hào hoa) như thuở trước.
Qua anh Thục, hôm sau tôi liên lạc được một người bạn phi công anh hùng khác. Người mà tôi đã từng chứng kiến và ngưỡng mộ về tài năng và sự can đảm phi thường. Thiếu Tá Hàn văn Trung. Năm 1973, khi ấy Hàn văn Trung còn mang cấp bậc Đại Úy, giữ chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 235 Sơn Dương ở Pleiku.
Hôm ấy, tôi nhận lệnh Đại Tá Bùi Hữu Khiêm, TMT Sư Đoàn 23BB, cùng bay trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235, để bốc khẩn cấp số thương binh, trong đó có Thiếu Tá Cang, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2/44 ra khỏi căn cứ Võ Định. Căn Cứ nằm phía Bắc Kontum khoảng 15 cây số, bên cạnh QL 14 trên đường đi Dakto, trên ngọn núi trọc, với một cao điểm có khả năng chế ngự các vùng chung quanh. Đặc biệt, ngay phía dưới là con sông Dak La. Bên kia sông trở về hướng Bắc là vùng địch chiếm từ cuối tháng 4/72, sau khi BTL/ SĐ 22BB tại Tân Cảnh bị tràn ngập và vị Tư Lệnh đã lẫm liệt hy sinh, vùi thân nơi chiến địa. Căn cứ này đã trải qua nhiều trận chiến, bao lần bỏ đi rồi chiếm lại, nên bây giờ chỉ còn là một ngọn đồi xám xịt, hoang tàn loang lổ dấu đạn bom.
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Cang, tốt nghiệp khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, nguyên là Sĩ Quan Nhảy Dù. Trong một cuộc hành quân trực thăng vận tại Đông Hà, anh bị thương nặng ở chân phải. Xụất viện, với một thanh sắt vĩnh viễn nằm trong cái chân khập khiễng, được lệnh thuyên chuyển ra khỏi Nhảy Dù về BTL/Quân Đoàn II, giữ một chức vụ tại Trung Tâm Hành Quân. Chỉ một thời gian ngắn, anh khẩn khoản xin ra đơn vị tác chiến, mặc dù Phòng Tổng Quản Trị từ chối vì tình trạng sức khỏe của anh. Anh tiếp tục xin vị Tư Lệnh, và cuối cùng được toại nguyện, bổ nhiệm về nắm Tiểu Đoàn 2/44, mà vị Trung Đoàn Trưởng trẻ tuổi thao lược, lại là người bạn cùng khóa: Trung Tá Ngô văn Xuân.
Đầu năm 1973, vài ngày trước khi có Hiệp Định Paris (Ngưng Bắn Da Beo), Tổng Thống Thiệu ra lệnh các đơn vị cố gắng mở rộng tối đa vùng kiểm soát, đặc biệt chiếm lấy những vị trí quan trọng để cấm ngọn cờ chủ quyền. Tiểu Đoàn 2/44 nhận lệnh phải chiếm bằng được căn cứ Võ Định, cao điểm trọng yếu tận cùng phía Bắc Kontum.
Với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ, hữu hiệu của Không Quân và Pháo Binh, Tiểu Đoàn 2/44 của Thiếu Tá Cang được trực thăng vận bất ngờ xuống ngay vùng địch, đánh một trận khá đẹp, nhanh chóng tiêu diệt lực lượng địch án ngữ phía dưới và dễ dàng chiếm lĩnh căn cứ trên ngọn đồi Võ Định. BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội CHYT và một Đại Đại Đội tác chiến trách nhiệm phòng thủ căn cứ. Các Đại Đội còn lại bung ra hoạt động các vùng lân cận. Một toán Công Binh được thả xuống ngay sau đó để tu sửa lại hệ thống phòng thủ, nhất là vị trí dành cho một trung đội pháo binh 105 ly sẽ được thả xuống nay mai. Ngày N+1 tình hình hoàn toàn yên tĩnh, nhưng sáng sớm hôm sau, pháo địch từ bên kia sông thi nhau ập xuống. Địch đã có sẵn các yếu tố tác xạ và sử dụng tối đa các loại pháo, liên tục và chính xác. Những công sự phòng thủ chưa kịp tu bổ xong đã bị phá hủy. Thiếu tá Cang và một số sĩ quan và binh sĩ bị thương, kể cả anh Sĩ Quan trưởng toán Công Binh.
Ngày hôm sau, tình hình trở lại yên tĩnh trong không khí căn thẳng nặng nề. Sau khi Sao Mai 09, (phi cơ quan sát L-19) hướng dẫn hai phi tuần đánh bom vào các điểm nghi ngờ vị trí đặt pháo của địch, hai chiêc trực thăng tản thương, được yểm trợ bởi các gunships, đáp xuống căn cứ để bốc thương binh. Riêng Thiếu Tá Cang tình nguyện ở lại cùng đơn vị. Nhưng khi chiếc thứ nhất vừa đáp, hằng loạt pháo địch lại thi nhau rót xuống. May mắn chỉ có người co-pilot bị thương nhẹ, nhưng máy bay bị trúng đạn, không cất cánh được. Chiếc thứ nhì quyết không bỏ đồng đội, đáp xuống bốc phi hành đoàn trong tiếng nổ và khói lửa mù trời của pháo địch.
Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, BTL Sư Đoàn quyết định rời bỏ căn cứ Võ Định để tránh tổn thất do trận địa pháo của địch. Tiểu Đoàn 2/44 rút về Căn Cứ Eo Gió, nằm phía Nam Võ Định khoảng bốn cây số. Nhưng phải giải quyết số thương vong và anh Tiểu Đoàn Trưởng không thể di chuyển theo đoàn quân bộ chiến được. Tôi được vị Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn giao cho trách nhiệm tháp tùng trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235 thi hành nhiệm vụ khá gay go nhưng rất khẩn cấp này.
Đến bãi đáp B15, tôi gặp người chị huy hợp đoàn trực thăng hôm ấy. Rất vui mừng khi gặp lại Đại Úy Hàn văn Trung, Trưởng Phòng Hành Quân Phi Đoàn 235. Tôi đã từng bay đổ quân với anh vài lần, thích bản tính vui vẻ và thầm thán phục về khả năng chỉ huy và bay bổng của anh. Sau khi nghe tôi trình bày tình hình và mục tiêu, cũng như lời dăn dò của vị TMT /SĐ, Đại Úy Trung gọi các phi công lại để bàn kế hoạch. Tôi lên chiêc C&C do Trung điều khiển, cất cánh trước cùng với hai trực thăng võ trang. Sau một vòng bay để quan sát kỹ lưỡng địa thế, anh Trung bay vòng lại và gọi tất cả phi cơ còn lại lên vùng. Tôi thấy anh cho một số phi cơ bay tản ra nhằm đánh lạc hướng địch, để hai trực thăng khác bất ngờ đáp xuống căn cứ. Nhưng không tránh được sự quan sát của địch. Chiếc trực thăng vừa can đảm xuống thấp và lấy hướng an toàn bay vào, thì pháo địch đã nổ ngay trên bãi đáp. Đại Úy Trung cùng hai trực thăng võ trang liền xuống thấp yểm trợ, và cùng lúc ra lệnh cho chiếc trực thăng này bay ra theo hướng an toàn nhất, chiếc thứ hai bay từ hướng khác tìm cách bất ngờ xuống bãi đáp. Nhưng pháo địch tiếp tục ập xuống. Nhìn chiếc trực thăng bay lên từ trong một vùng khói lửa, chúng tôi ai cũng căng thẳng, hồi họp lo âu. Đại úy Trung ra lệnh cho cả hợp đoàn bay về Kontum lấy xăng.
Sau gần một giờ nghỉ ngơi và nghiên cứu một kế hoạch khác, Đại úy Trung gọi các phi công lại, thảo luận kế hoạch và phân chia nhiệm vụ. Lần này anh sẽ đích thân lái chiếc C&C đáp xuống bốc thương binh. Dường như Trung vừa mới quyết định một điều bất thường, ngoại lệ, nên tất cả mọi người đều tròn mắt nhìn anh ái ngại. Anh nổ máy, đích thân điều khiển phi cơ. Anh bay thật thấp dọc theo con suối chảy dài phía bên trái quốc lộ 14, trong khi hai gunships bay hai bên và tác xạ trước vào các điểm nghi ngờ. Hơp đoàn còn lại bay theo phía sau xa. Anh bay thấp đến nỗi các hàng lau sậy nằm rạp xuống ngay dưới bụng máy bay, nước dưới suối bắn tung lên. Đã từng rất nhiều lần ngồi trên trực thăng, nhưng chưa bao giờ tôi bị “bay” rất nhanh với một độ thấp như thế. Mấy lần tôi suýt thét lên, khi chợt thấy phía trước là một cây cao hay một tảng đá, nhưng anh đã tài tình lách qua tránh khỏi. Tôi có cảm tưởng chiếc trực thăng như là một món đồ chơi nhỏ bé trong tay anh.
Con suối khá dài, dẫn tới triền đồi Võ Định. Anh Trung tiếp tục bay sát theo ngọn đồi. Tôi có cảm giác như chiếc trực thăng đang bò lên căn cứ. Địch quân không hề hay biết. Nhưng khi anh bất ngờ đáp xuống, bụi mù bốc lên, địch mới phát hiện và pháo bắt đầu nổ. Cát, sạn, và có thể có cả mảnh đạn nữa, bay rào rào vào thân và kiếng phi cơ. Nắm chặt khẩu M-18, tôi chưa biết xử trí thế nào, thì thấy anh Trung bảo người co-pilot giữ cần lái, rồi mở cửa máy bay nhảy xuống. Tôi nhảy theo anh, chạy về hướng hầm chỉ huy đốc thúc, phụ lực khiêng và dìu thương binh ra phi cơ. Thương binh khá đông, có tới trên 10 người. Thiếu Tá Cang nhìn chúng tôi lo lắng, nhưng đại úy Trung rất bình tĩnh ra dấu cho tất cả lên máy bay. Đạn pháo vẫn tiếp tục rót xuống, một vài thương binh lại bị thêm ít mảnh đạn. Trung là người cuối cùng bước lên tàu khi anh co-pilot điều khiển cho phi cơ quay đầu lại và bay nhanh xuống đồi.
Đáp xuống bãi đáp B-15. nhìn thấy trên thân và kiếng phi cơ lỗ chỗ nhiều vết đạn, Thiếu Tá Cang và tôi đã ôm chầm lấy Trung và người co-pilot. Giọt nước mắt biết ơn và cảm phục đã lăn xuống gò má của tất cả những người lính bộ binh vừa được Trung và phi hành đoàn bốc ra từ cõi chết.
Trở về Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn ở căn cứ B-12, tôi gặp hai ông Đại tá Tư Lệnh Phó và TMT Sư Đoàn. Kể lại phi vụ đặc biệt của Phi Đoàn 235, tôi hết lời ngợi ca và xin đề nghị tưởng thưởng cho đại úy Trung một Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, và các anh còn lại của phi hành đoàn mỗi người một ngôi sao vàng. Hai ông đại tá hứa sẽ làm theo đề nghị của tôi( Nhưng không biết sau này kết quả ra sao). Một vị Trung tá KQ ngồi cạnh anh Sĩ Quan Không Trợ, mà khi vừa mới bước vào tôi không để ý, quay sang nhìn tôi cười:
- Tay Trung này thì có tài và liều lĩnh lắm, nhưng cũng là một tay coi trời bằng vung. Nó đùa giỡn với chiếc máy bay như là một món đồ chơi. Thích biểu diễn kiểu nào là nó làm ngay, và dù có bị “ký củ” hơi nhiều, vẫn cứ cười tỉnh bơ. Vì vậy nên có thừa tài năng và can đảm, nắm Trưởng Phòng Hành Quân mà vẫn chưa mang Thiếu tá được!
Tôi không còn nhớ rõ là đó là Trung Tá Quang hay Trung Tá Vĩnh Quốc. Nhưng tất cả mọi người trong TTHQ đều cười và thán phục. Sau này Thiếu Tá Cang nhận Trung là người anh em kết nghĩa. Sau một cuộc hành quân trở về, hai chàng lại gặp nhau, bù khú ngay trong căn cứ dã chiến của Tiểu Đoàn. Mùa hè 2010, gặp lại anh Cang trong Buổi Họp Mặt Khóa 17 VBĐL tôi báo cho anh biết là tôi vừa nói chuyện với Hàn Văn Trung trong điện thoại. Mắt anh Cang sáng lên. Mừng như sắp được gặp lại người tri kỹ.

Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng. Địch quân khiếp sợ. Không có chiến tích nào mà thiếu sự tham dự của các chàng trai hào hoa ấy. Với những người lính bộ binh như chúng tôi, các Bạn luôn là những cứu tinh, là niềm hy vọng khi đơn vị bị lâm nguy, hay gặp khó khăn trên con đường tiến quân vào vùng địch. Các Bạn cũng là ân nhân của bao nhiêu thương binh và gia đình tử sĩ. Không có sự can trường, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy của các Bạn, có biết bao chiến binh đã phãi vĩnh viễn nằm lại tại chiến trường, ở một vùng núi rừng lạnh lùng vô danh nào đó. Tôi đã từng theo dõi những phi vụ tản thương của Phi Đoàn 243 Mãnh Sư, từ căn cứ Phù Cát đã phải bay lên Cao Nguyên trong những đêm khuya gió mưa tầm tã. Có chiếc lạc vào những đám sương mù dày đặc, và rớt trên đỉnh núi cùng với số thương binh của chính đơn vị tôi vừa mới được bốc lên. Tôi đã đứng nghiêm trong TTHQ để đưa tay chào vĩnh biệt!
Các Bạn đúng là những cánh én đã từng mang lại bao mùa Xuân cho đồng đội, cho quê nhà. Những cánh én ấy, giờ đây, dù đã phải trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã, dù tan tác chia lìa khắp muôn phương, nhưng vẫn luôn khát khao vẫy vùng trên bầu trời xưa cũ. Tiếc rằng, chúng ta đã phải trải qua một mùa Đông quá dài. Dài hơn cả đoạn đời đẹp đẽ nhất, khi các Bạn còn bay bổng trong bầu trời xanh, trong lửa đạn, mà vẫn vui đùa trước lằn ranh sống-chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.
Mãi mãi các Bạn vẫn là những cánh én hào hùng. Cho dù những cánh én ấy đang phải ẩn mình để chờ đợi một mùa Xuân.

Phạm Tín An Ninh

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Tiểu Đoàn 92 BĐQ 510 Ngày tại Tống Lê Chân

Mũ Nâu Đặng Hưng Vượng

Vài dòng giới thiệu tác giả:

- Đại đội trưởng của một đại đội của Tiểu Đoàn 92 BĐQ.

- Đã đưa đại đội trinh sát của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tăng phái cho Sư Đoàn Kỵ Binh Black Horse, Hoa Kỳ, đang đóng ở Lai Khê,
đại đội Brown Team, khoảng 4 tháng. Trách nhiệm của Đại Đội là đi giải vây để cấp cứu các phi hành đoàn trực thăngMỹ bị bắn rơi.

- Trong nửa thời gian đầu căn cứ TLC bị địch vây hãm, là Sĩ Quan Không Trợ, Phụ Tá Ban 3 của Tiểu Đoàn.

- Sau đó, theo trực thăng tải thương rời căn cứ, làm Sĩ Quan Tiền Cứ cho Tiểu Đoàn, và trách nhiệm thả dù tiếp tế cho Tiểu Đoàn ở TLC.

- Sĩ Quan Tiền Cứ, kiêm Phát Hướng Viên Tiểu Đoàn khi Trung Tá Nguyễn Hân làm Tiểu Đoàn Trưởng,
kế tiếp là Thiếu Tá Lê kim Tư làm Tiểu Đoàn Trưởng.

Image
Trại Tống Lê ChânTonlé Tchombe là một vùng đất thuộc Tây Ninh nằm sát ranh giới với Bình Long, đầu nhánh sông Saigon. Đa số người Miên và người Thượng sinh sống lâu đời quanh vùng này. Mặc dù thuộc tỉnh Tây Ninh, nhưng lại gần với tỉnh lỵ An Lộc, Bình Long, trại cách An Lộc 15 km theo đưòng chim bay và cách Xa Cam trên 10km trong khi cách rất xa tỉnh lỵ Tây Ninh. Năm 1967, khi Thiếu Tá Đặng hưng Long, Trưởng Phòng 3 thuộc Bộ Chỉ Huy C3 Chiến Thuật, Lực Lương Đặc Biệt (LLĐB), nhận lệnh lập trại ở đây, ông đã đặt tên là Trại Tống Lê Chân, dựa theo âm sắc của Tonlé Tchombe. Sau khi thay đổi vài trại trưởng, Đại Uý Lê văn Ngôn được chỉ định làm trại trưởng cuối cùng trước khi chuyển sang BĐQ. Năm 1970, cùng với việc cải tuyển các trại biên phòng cuả LLĐB thành các tiểu đoàn BĐQ Biên Phòng, lực lượng ở đây trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ (14-9-1970), do Đại Uý Lê văn Ngôn làm tiểu đoàn trưởng và Trung Uý Trần hữu Phước làm tiểu đoàn phó, dưới quyền điều động trực tiếp của Bộ chỉ huy Quân Khu 3 BĐQ, do Đại Tá Nguyễn thành Chuẩn làm chỉ huy trưỏng, vốn là Chỉ Huy Trưởng C3 LLĐB chuyển sang.

Vài dòng về LLĐB:

- VNCH có 4 vùng chiến thuật. Mỗi vùng có một Bộ Chỉ Huy C. Quân Khu 3 có Bộ Chỉ Huy C3 LLĐB.

- Bộ Chỉ Huy C3 LLĐB chỉ huy 3B. Mỗi B là một khu chiến thuật cuả Quân Khu. QK III có 3 Khu Chiến Thuật 31, 32, và 33.

B15 LLĐ, thuộc Khu Chiến Thuật 33, đóng tại Bình Long dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đặng hưng Long.

B16 LLĐB đóng tại Tây Ninh, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê tất Biên.

B14 LLĐB đóng tại Phước Long, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Văn công Báu, hay Lê văn Hành (?).

- Mỗi B chỉ huy khoảng 10 toán A LLĐB. Mổi toán phụ trách một trại biên phòng.

Các trại biên phòng tập trung dọc theo biên giới Nam VN từ Bến Hải đến Cà Mau, nơi đây tập tung vào việc tuyển mộ và huấn luyện Dân Sự Chiến Đấu (còn gọi là Biệt Kích Quân) để phát giác và ngăn chận đường xâm nhập của CS vào lãnh thổ VN. Toán A162 đóng tại căn cứ Tống Lê Chân trực thuộc B16 đóng tại Tây Ninh, nhưng sự yểm trợ và liên lạc bị trở ngại vì quá xa nên giao cho B15 của Trung Tá Đặng hưng Long trực tiếp chỉ huy.

Khoảng năm 1970, các trại biên phòng LLĐB chuyển cải thành BĐQ biên phòng, và vẫn giữ các nhiệm vụ như trên. Từ 1974, các tiểu đoàn biên phòng sát nhập vào các liên đoàn BĐQ, thay đổi khu vực hành quân theo vùng, không còn ở một vị trí cố định như trước. Từ đây, nhiệm vụ của các tiểu đoàn BĐQ hoàn toàn giống nhau.

Như đã nêu ở trên, các trại biên phòng trên toàn lãnh thổ miền Nam đều có nhiệm vụ phát giác và ngăn chận các đơn vị VC xâm nhập từ Kampuchia, Lào vào lãnh thổ VNCH. Đối với trại Tống Lê Chân, trại còn có ý nghiã chiến lược quan trọng hơn. Do vị trí đặc biệt, nằm trong chiến khu C, gần khu Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Kampuchia, là nơi đặt đại bản doanh của Cục R, trại còn là điểm ngăn chặn, hoặc phát giác CS xâm nhập vào Tây Ninh (gần sát Thủ Đô Saigon) qua Katum… Do đó, trại TLC luôn là cái gai trước mắt, VC cần loại bỏ với bất cứ giá nào.

Khi chuyển qua BĐQ, Tiểu Đoàn 92 có khoảng 350 quân nhân các cấp, đa số là người Miên, một phần người Thượng, và người Việt. Tiểu Đoàn có 4 đại đội. Các sĩ quan, hạ sĩ quan đa số từ LLĐB. Các cán bộ Dân Sự Chiến Đấu, quen khu vực quanh căn cứ, và có kinh nghiệm chiến đấu cao, được mang cấp bậc Chuẩn Uý, hoặc Thiếu Uý. Sau đó, họ sẽ được đi học khoá Sĩ Quan Hoàn Hảo tại Trường Thủ Đức để bổ túc kiến thức. Tiểu đoàn còn có một trung đội pháo binh 105 ly, có khả năng yểm trợ tới Xa Cam (cách An Lộc 10 km về phiá Nam). Khi mặt trận An Lộc bắt đầu, Sư Đoàn 25 BB đã đặt ở đây thêm 1 trung đội pháo binh 155 ly, đủ để yểm trợ mặt trận An Lộc khi cần. (Khi mặt trận An Lộc chấm đứt, Sư Đoàn 25 BB đã rút 2 khẩu 155ly khỏi căn cứ.)

Căn cứ nằm trên một ngọn đồi cao 50m trấn áp cả khu vực chung quanh, thuận lợi cho việc phòng thủ, bất lợi cho việc tấn công. Đường kính trung bình 400m, với các công sự đã được công binh Mỹ (US Sea Bee) xây cất. Phiá bên phải trước cửa là đầu nhánh sông Saigon. Trại giống như một ngôi sao nhiều cánh với 2 đại liên 50 bắn về 2 phiá tại mỗi đỉnh ngôi sao, không kể đến các súng liên thanh khác như đại liên 30 và 60. Các đại đội phòng thủ trong vòng rào ngoài ngăn cách căn cứ với chung quanh, với hệ thống giao thông hào và hầm hố kiên cố. Muốn vào hàng rào ngoài, địch phải vượt qua một bãi mìn dày đặc với hệ thống chiếu sáng báo động. Kế tiếp là khoảng trống đủ để các trực thăng đáp. Trong cùng là hàng rào ngăn cách Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Một phi trường cho C123 nằm ngay dưới cổng trại.

(Tiểu Đoàn 92 BĐQ có một phương thức gài mìn đặc biệt phối hợp giữa cách gài bẫy của người Thượng và mìn Claymore. Khi chạm, mìn sẽ nổ liên hoàn nên sức công phá rất mạnh và hiệu quả. Tr/T Ngôn đã được mời về trường Võ Bị Đà Lạt, và khi đang theo học khoá Bộ Binh Cao Cấp tại trường Thủ Đức cũng được mời thuyết trình về cách gài bẫy hiệu quả này.)

Đầu năm 72, LĐ6 BĐQ do Trung Tá Trịnh văn Bé làm liên đoàn trưởng và Lữ đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần quốc Lịch làm lữ đoàn trưởng, hành quân quanh vùng và Kampuchia. Trong thời gian này, bộ chỉ huy nhẹ của LĐ6 BĐQ đóng trong căn cứ. Khoảng tháng 4-72, một đại đội được lệnh tuần thám chung quanh (không cần đi xa vì hiện đã có 2 đại đơn vị quanh vùng) thì phát giác một đường mòn lớn hướng về phiá An Lộc, xe hơi có thể chạy qua, Đây là dấu hiệu báo cho biết các đơn vị công binh cuả CS đang chuẩn bị đường xá cho một cuộc chuyển quân lớn cuả chúng trong chiến dịch Đông Xuân sắp tới. Quân Khu đã cho máy bay L19 lên quan sát.

Hai đại đơn vị ND và BĐQ đã đột nhiên rút ra khỏi căn cứ, giao trách nhiệm toàn vùng cho TĐ 92 BĐQ, báo hiệu một chuyện thật lớn có thể xảy ra. Riêng LĐ6 BĐQ đã phải rút khẩn cấp theo đường bộ về theo ngả Tây Ninh, đến phi trường Trảng Lớn mới có máy bay chở đi Vùng I.

Đúng như tôi dự đoán, chiến dịch tấn công An Lộc của CS bắt đầu ngay ngày hôm sau. Trại TLC từ đó bắt đầu bị địch vây đánh kéo dài nhiều ngày, mở đầu bằng các đợt pháo kích bằng 82 ly, 107 ly vào căn cứ liên tục ngày đêm. Vào những ngày cao điểm, căn cứ hứng chiụ mỗi ngày từ 100, đến 200 quả đạn. Kế tiếp sau vài ngày, bộ binh địch áp sát, tấn công ban ngày, bò vào ban đêm, cắt đứt đường bộ, chặn tiếp tế, tiếp viện. Chúng còn dùng 12,7 ly phòng không và cả hoả tiễn tầm nhiệt để bắn máy bay đang yểm trợ, hay tiếp tế cho căn cứ.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581236.jpg

Lực lượng biệt kích trước khi chuyển thành Biệt Động Quân Biên Phòng

Ở đây, các đơn vị bộ binh của địch dùng 2 cách để tấn công căn cứ:


1.”Tiền pháo hậu xung”: pháo kích tối đa vào căn cứ rồi cho bộ binh tấn công, trong khi pháo binh tiếp tục bắn lên phiá trước mở đường. Khi xung phong, địch có thể dùng chiến thuật biển người, lấy lợi thế về quân số để áp đảo quân ta.

2.”Hoa nở trong lòng địch”: Cho đặc công bò vào căn cứ rồi bung ra các phía như cánh hoa nở (Tôi đã qua một khoá huấn luyện do binh chủng BĐQ tổ chức về chiến thuật cuả VC).

Gặp sức kháng cự cuả tiểu đoàn và sự yểm trợ hữu hiệu của phi cơ và pháo binh từ các căn cứ khác, địch đã bị chặn lại hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác.

Tuy nhiên, Tiểu Đoàn không tránh khỏi thiệt hại. Các binh sĩ lần lượt bị thương và tổn thất nhân mạng mỗi ngày một cao. Nhiều công sự phòng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại không còn xử dụng được. Khi pháo binh của căn cứ bắn yểm trợ An Lộc, thì VC tập trung pháo kích vào vi trí pháo binh của ta. Chỉ sau vài ngày, các khẩu đại bác bị hư hỏng nên không còn dùng được nữa. Với lưới đạn dày đặc đan kín bầu trời, việc tiếp tế và việc tải thương bằng máy bay càng trở nên khó khăn khi áp lực địch gia tăng mỗi ngày. Nhưng đơn vị vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật và tinh thần binh sĩ vẫn cao. Áp lực địch giảm đôi chút khi VC bị thất bại tại An Lộc, tuy nhiên chúng vẩn duy trì pháo kích và phòng không.

Trong một lần hành quân chung quanh căn cứ, một toán tiền đồn của TĐ92 BĐQ đã phục kích giết chết 1 tên đeo sắc cốt và 2 tên cận vệ. Trong đêm, một đơn vị VC đã trở lại cướp xác nhưng bị ta đánh trả dữ dội nên không thành công. Đơn vị tiền đồn đã tịch thu được một túi tài liệu, và một khẩu súng K59, vốn được trang bị cho các sĩ quan tham mưu cao cấp của chúng.

Quân đoàn 3, sau khi nghiên cứu tài liệu, đã xác nhận đó là đại tá CS với bí danh Nguyên Hương, Cục Phó Cục R, đặc trách về chính trị. Y đang nghiên cứu về sự thất bại của CS tại An Lộc. Tại sao chiến thuật “Nhị thức bộ binh – Thiết giáp của CS lại thất bại?” Bản đánh giá nói là việc kết hợp không đồng bộ: Lúc có thiết giáp thì không có bộ binh, và ngược lại. (Đây chỉ là một lý do để biện minh cho sự yếu kém của chúng. Chúng quên mất chính tinh thần chiến đấu của lực lượng phòng thủ và dân chúng sống tại An Lộc mới là yếu tố chính làm chúng thất bại!)

Mặt trận lại đột nhiên trở nặng. Sau khi chiến dịch tấn công An Lộc chấm dứt, mặc dù bị tổn thất nặng, chúng cũng đã rảnh tay nên xiết chặt vòng vây, liên tục pháo kích, tấn công, đặc công. Trại TLC, không thể được tiếp cứu vì Quân Đoàn không còn đơn vị trừ bị, không thể liên lạc với bên ngoài bằng đường bộ vì VC dày đặc vây kín căn cứ, giờ đây đã trở thành một tiền đồn cô đơn nằm giữa vùng đất địch, ngược lại cũng đã trở thành vết nhọt trong vùng đất chúng chiếm đóng. Tiểu đoàn nhận tiếp viện đạn được, súng ống, lương thực, thuốc men… hoàn toàn bằng trực thăng và C130. Tuy nhiên vì hoả lực phòng không của VC đan chặt trên bầu trời, trực thăng trở thành mục tiêu dễ bị bắn hạ, nên chỉ còn chờ C130 tiếp tế từ trên cao, do Căn Cứ 90 Tiếp Tế Thả Dù tại Phú Thọ, Saigon đảm trách. Cách thả dù cổ điển đã không chính xác vì trung bình 10 kiện hàng thì chỉ có 2, 3 kiện lọt vào căn cứ, còn lại thì bay ra ngoài vào vùng đất địch. Sau khi học được kỹ thuật đặc biệt là khi tới một cao độ nhất định, ngòi nổ gắn theo dù được kích hoả nổ để các kiện hàng rơi vào trong căn cứ, thì việc tiếp tế có hiệu quả hơn. Các phi công chỉ cần tính toán sức gió và hướng gió là có thể thả từ trên cao mà không sợ bay ra ngoài trại.

Tôi cũng cần nói thêm, một quân nhân tên Bằng, vốn thuộc LLĐB trước đây, sau khi chuyển qua BĐQ, đã được đi học và trở thành một phi công trực thăng. Anh đã tình nguyện 3 lần bay vào căn cứ. Đây là một sự tình nguyện đáng ghi ơn vì nhờ thế căn cứ đã có khá đủ tiếp liệu. Sự can đảm tuyệt vời của anh khiến tôi luôn khâm phục, vì mỗi lần vào được căn cứ, vượt qua lưới đạn phòng không dày đặc của địch, rồi trở ra là một lần đối diện với cái chết. Khi vào tới căn cứ, trực thăng phải áp dụng kỹ thuật xuống đặc biệt để tránh bị VC pháo kích. Họ phải bay thật nhanh thẳng tới căn cứ, rồi từ trên cao tắt máy cho rơi tự do, khi gần tới đất thì mở máy ngay để đáp xuống. Có thấy các máy bay trực thăng đáp xuống căn cứ mới thấy lòng can đảm và tài lái điêu luyện đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của các phi công.

VC pháo kích ngày nhiều ngày ít, nhưng sự tổn thất cuả tiểu đoàn tuỳ thuộc vào độ chính xác của pháo binh địch. Do tiếp tế giảm, diều kiện sống hàng ngày cuả toàn Tiểu Đoàn xuống thấp. Ăn uống thiếu thốn, điều kiên vệ sinh kém, khiến càng có nhiều bệnh binh bị suy nhược, sốt rét. Tinh thần binh sĩ các cấp đã bị kéo dãn căng, thể xác bị mệt mỏi đến cực độ nên tinh thần giảm sút. Nhưng Tiểu Đoàn vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật. Vì thế sức chiến đấu nhìn chung không giảm. Số thương bệnh binh không thể tải thương ngày một tăng, vì số lần tải thương bằng trực thăng ngày càng giảm. Sau một lần bổ xung quân số, một trực thăng Chinook bị bắn rơi khiến một số quân nhân bi chết cùng với viên sĩ quan truyền tin lên thay thế. (Trung Uý Đỗ đức Hoạt Phú Quý, khoá 6/69 Thủ Đức, sau 3 ngày kết hôn đã bỏ ngày phép tình nguyện theo trực thăng lên căn cứ.) Viên phi công tên Toàn đã được một trực thăng khác “bốc” khỏi căn cứ. Sau gần một năm rưỡi, lại một trực thăng khác rơi trong căn cứ. Phi hành đoàn được cứu thoát nhưng bị kẹt lại vì không thể đưa ra khỏi căn cứ.

Để tưởng thưởng cho chiến công của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ, cũng như khích lệ tinh thần, tất cả quân nhân các cấp đã được thăng một cấp, sau gần 1 năm bị vây hãm (1973). Tất cả các SQ được tưởng thưởng Bảo Quốc Huân Chương, hoặc Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, các binh sĩ, hạ sĩ quan được tưỏng thưởng ngôi sao đồng và bạc. Tiểu Đoàn được phong tặng Bảo Quốc Huân Chương, quân kỳ Tiểu Đoàn được mang dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương (màu đỏ). Các “lon” và huy chương đã được thả từ trực thăng xuống mặt trận, thay vì trao tặng tại chỗ.

Vào khoảng đầu năm 74, một lần nữa toàn bộ Tiểu Đoàn lại được thăng cấp lần thứ hai vì sự chiến đấu quả cảm, và sự hy sinh trong gian khổ trong một trận chiến quá dài ngày.

Khoảng tháng 4-73, phái đoàn ICCS (bốn bên) bay vòng quanh căn cứ để quan sát. Vì có sự hiện diện cuả phái đoàn này nên VC không dám bắn và pháo kích vào trại. Các phi công VN bay cho phái đoàn ICCS đã đánh lạc hướng VC bằng cách bay thật thấp về hướng Sóc Con Trăng. Trong khi đó, các phi cơ trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân bay thật sát ngọn cây, để ICCS không thấy, vào TLC tiếp tế và tải thương. Đây là chuyến tải thương được nhiều thương binh nhất trong suốt thời gian trại bị vây hãm.

Tôi đã được lệnh TĐT theo trực thăng rời trại với 3 nhiệm vụ, được cho là rất quan trọng:

1.Là gạch nối an ủi, trấn an thân nhân, gia đình binh sĩ. Ngoài ra, tôi còn phải hàng ngày thông báo về tình trạng thân nhân của họ đang chiến đấu tại căn cứ TLC cho gia đình cuả họ. (Mỗi khi tôi đứng trước nhà là họ oà lên khóc vì biết hung tin đã tới, khiến tôi không thể nói nên lời. Thật đau lòng khôn tả!)

2. Liên lạc với Bộ Chỉ Huy Quân Khu 3 BĐQ, phụ trách việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn.

3. Đặc biệt giải quyết lương bổng cho gia đình binh sĩ các cấp.

Lúc đó, tình trạng gia đình binh sĩ ở Trại Phan Hạnh, Biên Hoà đang bị rối loạn. Sở dĩ có tình trạng này, vì vợ con của các quân nhân đang tham chiến tại Tống Lê Chân đã kiệt quệ về tinh thần, và túng thiếu về vật chất (không có lương do chồng gửi về). Họ đang tuyệt vọng chờ chồng, cha của họ đã bị kẹt tại mặt trận quá lâu. QK3 đã yêu cầu TĐ đưa một SQ kỳ cựu về để trực tiếp giải quyết với vợ con của các binh sĩ, vì đa số vợ con họ, người Thượng và Miên, không có thói quen giữ giấy tờ để chứng minh liên hệ của họ với chồng, cha. Do đó, việc xác định là vợ, con chỉ căn cứ vào sự nhận biết của những người quen cùng đơn vị. Trong tất cả SQ của Tiểu Đoàn, chỉ có tôi có thể giải quyết tình trạng lương bổng cho vợ con binh sĩ và lo việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn hiệu quả.

(Khi bình yên, vợ con các binh sĩ, nhất là người Thượng, ở trong trại cùng chồng. Tôi đã ở từ ngày đầu nên biết hầu hết thân nhân sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ vì gặp nhau hàng ngày và thường nói chuyện với nhau. Vợ con binh sĩ đã được đưa về trại Phan Hạnh khi cuộc chiến trở nên khốc liệt.)

Sau khi về tới hậu cứ, tôi thường xuyên theo C130 thả dù tiếp tế và nhận lệnh trực tiếp từ TĐT (qua vô tuyến) uỷ quyền thay binh sĩ đang chiến đấu, cho gia đình họ được lĩnh lương đúng kỳ. Theo đúng nguyên tắc, một binh sĩ muốn nhờ hậu cứ trao lương cho vợ con của họ thì phải có chữ ký của binh sĩ đó. Tôi đã ghi nhận và báo về Đại Đội Công Vụ của QK3 và giải quyết lương bổng theo yêu cẩu của TĐT. Trong những lần theo C130 về ban đêm, tôi đã nhìn thấy lưới đạn phòng không của địch (với những đường đạn sáng) đan kín chung quanh, và thỉnh thoảng các hoả tiễn tầm nhiệt hướng về máy bay, nổ chói loà trong đêm đen của núi rừng biên giới. Tuy nhiên, máy bay đã bắn các trái sáng có nhiệt độ cao nên các hoả tiễn này không thể tới gần máy bay của họ.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581423.jpg


11-4-74, sau 510 ngày Tiểu Đoàn bị vây hãm, Trung Tá Lê văn Ngôn ra lệnh tôi phải bay từ Biên Hoà tới An Lộc ngay, phải mở truyền tin 24/24. Khi đang ở trong An Lộc thì Tr/ Tá Ngôn đã gọi cho tôi: (Để đơn giản, tôi dùng bạch văn để trình bày cùng các độc giả):

- Trại đang bị tấn công rất nặng. Anh hãy báo ngay cho Đại tá Chuẩn.Trại Huấn Luyện của Lực Lượng Đạc Biệt tại Đông Ba Thìn

Sau đó, tôi nghe nhiều tiếng nổ dữ dội từ hướng trại TLC vì chỉ cách có 15km theo đường chim bay. Tôi lại nghe tiếng Tr Tá Ngôn từ máy vô tuyến:

- Kho đạn đã bị nổ và trại bị tràn ngập.

Và lời nói cuối cùng:

- Tôi đã ra lệnh rút quân.

Vô tuyến bị cắt, không một tin tức gì được ghi nhận thêm từ đó. Tôi đã báo cáo với Thiếu Tá Thuận, Trưởng Phòng 3 QK3 BĐQ. Tại đây, họ cũng cố gắng liên lạc với TĐ nhưng không kết quả. Cũng cần nói thêm, trong thời gian này, VC đã chiếm được một số máy vô tuyến cuả ta và đã cho bộ phận tình báo của chúng theo dõi và bẻ khoá. Do đó, mọi chuyện liên lạc qua CR25 đều bị chúng nghe lén và tìm cách đối phó. Với tình thề sống còn của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ thì việc “im lặng vô tuyến” là điều cần thiết và dễ hiểu. Sáng hôm sau, Đại Tá Chuẩn đã phái L19 bao vùng, tìm kiếm, và theo dõi nhưng rất tiếc không có dấu hiệu cuả TĐ92 BĐQ.

Ngày 12-4-74, L19 tiếp tục bao vùng, kể cả khu vực chung quanh An Lộc nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của Tiểu Đoàn. Khi bay ngang Trại TLC, viên phi công thấy phía dưới khói mịt mù (có lẽ vì kho đạn nổ và đám cháy chưa dứt). Đến gần trưa, đột nhiên tiếng Trung Tá Ngôn vang lên trên máy truyền tin muốn nói chuyện với Đại Tá Chuẩn. Tr Tá Ngôn xin Đại Tá Chuẩn cho lực lượng tiếp viện trong khi Tiểu Đoàn cố gắng phá chốt để vào An Lộc.

Chỉ một thời gian ngắn sau đó, VC đã bắt được tần số sóng truyền tin của ta. Tôi không chắc chúng biết được nội dung cuộc điện đàm vì đã được mã hoá, cũng như việc bẻ khóa đòi hỏi thời gian. Nhưng VC đã báo động và ra lệnh toàn bộ lực lượng của chúng quanh An Lộc đồng loạt tấn công các đơn vị của ta bằng bộ binh và pháo kích đồng loạt nhằm ngăn chặn tiếp cứu, đồng thời cho các đơn vị của chúng tìm kiếm Tiểu Đoàn 92 đang ở đâu đó quanh An Lộc, để chuyển quân tấn công. Ngược lại, các đơn vị của ta cũng đồng loạt mở các cuộc tấn công về phiá địch nhằm làm giảm áp lực lên Tiếu Đoàn 92, mặc dù các đơn vị phòng thủ An Lộc không rảnh tay để tổ chức tiếp cứu. Để ứng phó với tình hình, các phi đoàn trực thăng và phản lực thuộc Quân Đoàn III đã lên vùng yểm trợ.

Ở bên ngoài, Tiểu Đoàn vừa phải chống trả sức tiến công điên cuồng, vừa phải phá các chốt ngăn chặn của CS. Lại có thêm thương binh và binh sĩ tử trận. Đổi lại bọn CS cũng phải chịu tổn thất cho hành động của chúng. Trung Tá Ngôn đã yêu cầu Thiếu tá Phước, Tiểu Đoàn Phó, cùng một đại đội đi đầu “nhổ” các chốt trên đường đi, trong khi ra lệnh cho các đại đội khác vừa đánh vừa rút.

Khoảng 3 giờ chiều, tôi được Đại Tá Chuẩn gọi và yêu cầu báo cho TĐ biết là “phải vào vị trí an toàn trước 4 giờ”, vì trời sẽ mau tối, nhiều sương mù nên Không Quân không còn yểm trợ hữu hiệu.

Tôi đã ngồi trên CNC theo dõi cuộc rút quân. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy Tr/Tá Ngôn, ngồi giữa một hố B52, chung quanh có khoảng chục binh sĩ đứng bao quanh, và các binh sĩ bị thương nằm la liệt khắp nơi. Ông đang cho trải pano, đánh dấu vị trí bạn, để điều chỉnh trực thăng đánh về phiá VC. Khi tôi dùng máy truyền đạt lệnh cuả Đại Tá Chuẩn, Trung tá Ngôn đã ra lệnh cho tôi:

- Hãy về nói với “ông già”, chừng nào tôi mang được “đứa con” cuối đang bị “kiến cắn” vào thì tôi mới vào.

Tôi đã bật khóc và nói với ông:

- 90 cố gắng vào vì yểm trợ cuả Không Quân sẽ không còn hữu hiệu.

Thật may mắn, các trực thăng thuộc Sư Đoàn 3 KQ đang bay phiá trên, đã nghe được cuộc điện đàm nên tất cả bay vào tấn công địch không cần chờ lệnh, bằng mọi cách giải toả cho Tiểu Đoàn. Trực thăng xuống đổ xăng rồi bay lên tiếp, như châu chấu trên trời, và bắn yểm trợ tối đa, bất kể lưới đạn phòng không của VC.

Cuối cùng, nhờ lòng can đảm của các người bạn ngoài quân chủng (Trong đó có một phi công là bạn cùng khóa 21VB với Tr/Tá Ngôn, Thiếu Tá Trần gia Bảo), nhờ tác xạ hiệu quả của các trực thăng, cuối cùng tiểu đoàn đã vượt qua những chướng ngại sau cùng. Đại đội đi đầu đã nhổ được các chốt ngăn chặn, mở đường cho các đại đội kế tiếp tuần tự vào theo.

(Cũng tiện đây, thay mặt các sĩ quan thuộc TĐ92 BĐQ, còn 5 người hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ, các quân nhân của Tiểu Đoàn 92, tôi gửi lời chân thành ghi ơn đến các phi hành đoàn vận tải C123, C130, các phi đoàn phản lực thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất, và các phi đoàn trực thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hoà, về các phi vụ mà cách anh đã tiếp tế, yểm trợ, tải thương cho TĐ92 BĐQ trong thời gian bị vây hãm và rút lui.)

Cuối cùng, Tiểu đoàn 92 BĐQ đã về đến điểm an toàn. Trong cuộc rút quân này, Tiểu Đoàn đã đưa được toàn bộ đơn vị khoảng trên 250 người, hầu hết thương binh, kể cả phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi tại TLC nhưng trực thăng tiếp cứu không thể xuống, trừ 2 người phải bỏ lại dọc đường vì đã chết. (Phi công và phụ tá tên Phối và Mỹ, và 2 xạ thủ đã cùng Tiểu Đoàn theo đường bộ rút lui.)

Sau đó, tôi đã dìu Tr/Tá Ngôn, gần như kiệt sức, vào trình diện Đại Tá Chuẩn. Tại đây, Tr/Tá Ngôn nghiêm chào rồi nói:

- Thưa Đại Tá, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.

Đại Tá Chuẩn đã dõng dạc, nhưng nhỏ nhẹ, trả lời:

- Không, tôi là Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Khu 3, kiêm Tư Lệnh Mặt Trận An Lộc, cấp bậc cao cấp nhất tại đây, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.

o O o

Một thời gian sau đó khi có thời gian, Tr/Tá Ngôn mới kể thêm cho tôi biết thêm về cuộc vây hãm của VC, và cuộc rút quân cuả Tiểu Đoàn 92 BĐQ:

Căn cứ đã bị Sư Đoàn Công Trường 9 vây hãm, trong đó Trung Đoàn 271 (VC đã dùng nhiều danh xưng với mục đích nguỵ trang. Nhiều đơn vị đã dùng 2, 3 tên khác nhau nhưng thực sự chỉ là một) và một trung đoàn pháo binh của CS trực tiếp tham chiến. Trung đoàn pháo binh này được trang bị các loại súng cối 82 ly, 107 ly… và các loại hoả tiễn 24 nòng, và các hoả tiễn tầm nhiệt. Loại hoả tiễn này bắn hàng loạt, có sức công phá rất lớn đối với sinh vật đứng trên mặt đất, tuy nhiên không chính xác nên thỉnh thoảng chúng mới dùng. Ngoài ra chúng còn điều động một tiều đoàn pháo binh 130 ly bắn trực tiếp vào căn cứ.

Với hoả lực và quân số áp đảo khi so sánh với Tiếu đoàn 92, VC đã nhiều lần tung các đợt tấn công nhằm xoá bỏ sự hiện diện của quân ta trong vùng do chúng chiếm đóng.

Khoảng cuối tháng 3/74, sau khi pháo kích dữ dội bằng súng cối 82 ly và hoả tiễn 107 ly, địch đã cho bộ binh xung phong, định đè bẹp căn cứ. Nhưng, các đại đội đã đẩy lui địch nhờ căn cứ có hầm hố kiên cố dù đã bị hư hại nhiều.

Ngày 5 tháng 4, bộ binh địch sau một đợt pháo kích dữ dội đã được xe tăng T54 yểm trợ tấn công trại, nhưng nhờ điạ thế trại ở trên cao xe tăng không thể lên tấn công nên chúng đã thất bại.

Ngày 11-4-74, sau khi kho đạn bị nổ vì địch pháo kích trúng, Tr/ Tá Ngôn biết Tiểu Đoàn không còn đủ khả năng giữ căn cứ nên ra lệnh rút lui. Trước đây, đề phòng trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, là một sĩ quan giàu kinh nghiệm, ông đã nghiên cứu đường rút quân và phân công các đại đội những việc phải thi hành khi có lệnh rút lui. Ông đã ra lệnh phá huỷ các khẩu đại bác 105 ly, các khầu súng liên thanh lớn, các máy truyền tin dư thừa, và cả mìn và đạn chưa bị hư hại. Ngoài ra, các đại đội còn được phân công mang theo toàn bộ thương bệnh binh.

Việc rút quân bất ngờ cuả TĐ chắc chắn gây bối rối cho VC quanh căn cứ, vì một đơn vị lớn như Tiểu Đoàn 92, không có phương tiện vượt sông, không thể băng được qua đầu sông Saigon vào mùa mưa, nước lớn mà không bị khám phá. Đối với người quen thuộc điạ thế, con đường duy nhất là mở đường máu xuống cửa trại, băng qua cầu và đi thẳng về An Lộc. Vì nghĩ như thế, chắc chắn VC đã bố trí các lực lượng ngăn chặn một khi TĐ rút quân theo hướng này. Đoán được suy nghĩ của chúng, Tiểu đoàn đã rút theo hướng ngược lại mà VC không ngờ. Đó là đi sâu vào vùng đất địch.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581509.jpg


Họ từ đỉnh đồi băng ra sau căn cứ, vượt suối đang muà nước lớn, đi ngược về hướng Minh Thạnh cách hơn 40km. Để đưa được nguyên Tiểu đoàn băng qua suối, Tr Tá Ngôn nhờ những người lính Thượng trước đây thường đi bắt cá, biết được nơi có đá ngầm, căng dây cho những người không biết bơi, và các thương binh đi qua.

Ông nói:

- Minh Thạnh thuộc Chiến Khu C, vì VC mang quân vây mình nên nơi đây sẽ không có chủ lực quân của nó. Cùng lắm chỉ có đám hậu cần và thương binh của chúng mà thôi.

Bình Long toàn rừng le, cây phủ trên đầu, Tiểu Đoàn phải len lỏi, đôi khi phải bò theo những khoảng trống dưới tàn tre. Núi rừng hiểm trở như thế, TĐ còn tắt máy truyền tin vì sợ VC tìm ra điểm đứng, nên máy bay L19 không thể tìm được tung tích, dù đôi lúc L19 bay trên đầu Tiểu Đoàn. Như một phép lạ đối với ta và địch, Tiểu Đoàn 92 đã biến mất khỏi vùng hành quân. Khi tới Minh Thạnh, TĐ đi ngược lại theo QL 13 rồi quay vòng về An Lộc, tới Xa Cam, Xa Cát.

(Trước khi vể TLC, Tr/Tá Ngôn đã ở trại Chí Linh của LLĐB, cũng như Đại Uý Phan trí Viễn đã ở trại Minh Thạnh nên rất rành khu vực này.)

Khi gần tới nơi, Tr/Tá Ngôn mới quyết định mở máy liên lạc để giữ bí mật tuyệt đối. Đi sâu vào lòng địch, các binh sĩ của cả tiểu đoàn hành quân trong điều kiện tuyệt đối khó khăn, không thể tiếp viện, không thể kêu cứu, trong khi còn phải cáng hoặc dìu theo thương binh. Tiểu Đoàn đã phải trải qua cuộc hành quân vô cùng nguy hiểm, vì chỉ một sai lầm nhỏ khiến VC khám phá ra vị trí, thì cả Tiểu Đoàn phải gánh chịu hậu quả khôn lường.

o O o

Hôm nay sau gần 40 năm, những hình ảnh bi thảm, nhưng kiêu hùng của các binh sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn linh động hiện ra trước mắt, trong ánh sắng nhạt nhoà của ký ức. Khi tuần tự vào được bên trong khu vực An Lộc, họ gần như đã kiệt quệ, gầy ốm vì thiếu ăn lâu ngày; da xạm đen, bệnh hoạn vì thiếu hụt thuốc men; quần áo tả tơi rách nát vì thiếu quân phục thay thế; bẩn thỉu do đất bùn vì phải lặn lội trong rừng sâu và phải chiến đấu liên tục để dành sự sống. Một số phải diù đi.

Nhưng qua nét mặt của họ hiện lên vẻ nhẫn nại chịu đựng phi thường, trong khi đầu họ vẫn ngửng cao phảng phất nét hãnh diện vì đã làm được chuyện thần kỳ.

Các thương binh còn tệ hại hơn, vì có môt số phải nằm trên cáng. Một số không còn đủ sức để trả lời. Tôi không hề nghe tiếng rên xiết, trách cứ về số phận kém may mắn của mình. Mặc dù đã có hơn 250 binh sĩ trở về, trong đó có 4 người của phi hành đoàn trực thăng (gồm 1 phi công, 1 phụ tá, và 2 xạ thủ), nhưng quân số có khả năng tham chiến thực sự chỉ còn khoảng 150 người.

Lúc đó, tôi đứng im lặng nhìn họ, lòng đầy cảm xúc không nói nên lời. Tôi cảm thấy hãnh diện vì đã là một phần của họ. Vượt lên sự sợ hãi, đối diện với cái chết, họ đã chiến đấu chống kẻ thù không mệt mỏi trên 510 ngày, trong thiếu thốn, đói khát, bệnh tật. Vượt trên sự yếm kém về quân số, trang bị, và hoả lực, họ đã giáng cho VC những tổn thất nặng nề dù chúng mạnh hơn nhiều lần, quân số đông hơn nhiều lần, trang bị tận răng. Điều gì khiến họ làm được? Đó chính là tinh thần kỷ luật và sự tin tưởng đối với cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy của họ đã giữ lời hứa là chiến đấu và mang họ về đến điểm an toàn. Họ làm được như vậy là vì chế độ nhân bản của Miền Nam hơn hẳn chế độ phi nhân của CS Việt Nam, hoặc của chế độ tàn bạo CS Nga, Tàu.

Hôm nay, sau gần 40 năm, hình ảnh của 2 cấp chỉ huy đứng đối diện nhau, trong giá buốt của núi rừng, và bóng tối của thị trấn An Lộc vẫn ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời. Tôi vẩn cảm thấy bồi hồi và xúc động khi nhớ như in lời đối đáp của Đại Tá Nguyễn thành Chuẩn và Trung Tá Lê văn Ngôn (giờ đây cả hai ông đã không còn nữa):

“Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.”

Câu trên được nói 2 lần liên tiếp qua 2 cấp chỉ huy khác nhau. Tại sao họ phải làm như vậy? Bởi vì họ ý thức được rằng, họ là người đầu tiên nhận vinh quang, khi đơn vị mang thắng lợi về, thì họ cũng phải là người dám can đảm nhận trách nhiệm về những tổn thất của đơn vị. Vì đó là danh dự, là phẩm chất không thể thiếu của một cấp chỉ huy. Thật may mắn, chúng ta đã có nhiều người như họ, dám nhận trách nhiệm về mình bất kể hậu quả.

Sau 30-4-75, chiụ chung số phận của dân chúng Miền Nam, giống như trăm ngàn người của chế độ cũ, Tr/Tá Ngôn đã bị đưa đi tù “cải tạo” tại miền Bắc. Bị bạc đãi, hành hạ tinh thần, ông vẫn bình tĩnh giữ đúng tư cách của một quân nhân dù đã bị bại trận, vẫn duy trì được niềm tin vào chính nghiã. Nhưng ông đã không chống chọi nổi với cơn bệnh hiểm nghèo trong điều kiện khốn cùng, thiếu thốn thuốc men và dinh dưỡng. Cuối cùng, ông đã lặng lẽ giã từ cõi đời. Những người bạn đưa ông xuống huyệt mộ với một tấm chiếu rách trong câm nín, là những người bạn tù đáng thương đang chiụ nạn như ông, những người đã là từng chiến đấu, từng cùng nhau chống kẻ thù chung là CS Việt Nam.

Kể từ ngày VC chiếm Miền Nam, chúng ta không hề nghe CSVN nhắc đến, hay tổ chức ăn mừng “Trận Đánh Tống Lê Chân”. Phải chăng, lực lượng VC tấn công đã bị thiệt hại rất nặng nề trước một lực lượng phòng thủ nhỏ bé, bị cô lập với thế giới bên ngoài? Phải chăng chiến dịch đánh chiếm cuả chúng bị kéo dài quá lâu vì sợi “gân gà” khó nuốt? Câu trả lời đúng nhất là chúng muốn quên đi nổi nhục nhã đã để nguyên một tiểu đoàn BĐQ biến mất khỏi vòng vây kiên cố của chúng với sự tổn thất không đáng kể, như đã “bốc hơi”.

30 tháng 4 năm nay lại về, một thoáng nhớ về kỷ niệm xưa, kẻ còn người mất, tôi muốn được im lặng tưởng nhớ đến Tr/Tá Ngôn và những người lính cuả TĐ92 BĐQ năm xưa, kém may mắn đã hy sinh tại trại Tống Lê Chân và trên đường rút lui. Cho tôi được nghiêng mình trước sự hy sinh cao cả ấy. Các anh đã là những vị anh hùng vì chỉ có các anh mới làm được chuyện đội đá vá trời. Nghĩ đến các anh, tôi không quên nghĩ đến nỗi đau khổ mà vợ con các anh phải gánh chịu. Xin cho tôi được nghiêng mình chia sẻ nỗi bất hạnh tột cùng với vợ con các anh vì đã mất người thân yêu.

Giống như các liệt sĩ vô danh khác cuả QLVNCH, sự hy sinh của các anh sẽ được muôn đời nhắc đến.

User avatar
saohom
Posts: 2214
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Chuyện Người Nghĩa Quân...

Rừng thiêng sơn trại không hò trận
Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma

Viên Linh

Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác. Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay vì xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường mòn dọc theo chân núi. Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suýt ngã xuống vực. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.

- Nó nằm đây!

Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như hình dung rõ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường. Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười… Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, tò mò nhìn xem chúng tôi làm gì? Ý nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn lầm thầm. “Chúng tôi rất hãnh diện có được những người bạn đã chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào. Sự hy sinh của các bạn càng thêm ý nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không còn nữa!” Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn “Anh em đồng môn luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”. Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.

- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, còn mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.

- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.

- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một mình trong mái tranh đằng kia, mình có thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không tốn bao nhiêu.

Mới buổi sáng mà nắng đã gay gắt. Tôi đứng nhìn quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.

- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia kìa, nếu để ý, quá khỏi tàng cây, có cái gò cao, giống hình người đang ngồi. Bạn thấy chưa? Đó là cái gò mối, nhưng người ta đồn đãi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ mình thử đến đó xem sao.

Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rãnh sâu. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai mì và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí gì đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.

- Có ai trong nhà không?

Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.

- Có tôi!

Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.

- Chào quí anh. Quí anh có chuyện gì mà lên chỗ hẻo lánh nầy?

- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.

Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè vì khói thuốc.

- Lúc mấy anh đi lên, tôi đã thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè gì nằm ở đó?

- Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy tìm không ra.

- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.

Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, vì phép lịch sự tôi không nhìn kỹ sách gì nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách. Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một bình tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà. Chúng tôi ngồi nhìn quanh, hỏi vọng xuống bếp.

-Anh sống một mình sao?

Anh ta đi lên nhà trên.

- Tôi sống một mình. Cũng hơn mười năm.

- Không buồn à? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện trò, ốm đau còn nương tựa nhau.

- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…thờ vợ.

Tôi pha trò.

- Anh có hiếu với vợ dữ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung tình như anh.

Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấây ấm nước lên, mở nắp bình tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.

- Sống một mình cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.

- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?

-Phải xuống suối móc sình lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó?

- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…

Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.

- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào?

- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không?

- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không?

- Sao anh biết?

- Tôi là lính phòng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra thì ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đình về Sài gòn, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi còn ông ta thì ở lại. Ôâng phó bảo đã tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi thì nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà.

Vẻ dè dặt không còn trong cách đối xử của anh ta.

- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ thì tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy. Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có thì giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ còn mồi thì lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.

- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.

Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên võng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió rì rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cõi thần tiên nơi góc núi. Hai đứa tôi chuyện trò linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ thì anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa sì sụp vừa chuyện trò.

- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện gì? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không?

- Có chứ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống thì ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày thì có một đại đội dù đến tăng cường. Ông phó phối hợp với bên dù cho gài mìn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến thì giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật mìn. Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong mìn thì lên chỗ gò kia nằm, theo dõi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi. Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm mìn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa. Từ ngày tôi đi nghĩa quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau. Ôi thôi! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi bò lên chỗ gò mối nằm dòm chừng để báo cáo tình hình. Đến chiều thì xe tăng tụi nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối thì nhào ra. Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi. Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm thì tan hàng, ai về nhà nấy. Tôi về trình diện chính quyền cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ.

Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem bình trà và ly ra.

- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm!

Tôi nhìn lên đồi, thấy cái gò mối giống hình người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.

- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không?

- Chuyện linh thiêng thì tôi không tin, vì đôi khi chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó thì tôi biết rõ. Vì nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.

- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không?

- Chuyện chẳng có gì lạ lùng cả. Lúc đụng độ thì cái gò mối chưa cao và to như vậy…

Tôi đoán chừng.

- Sau đó cái gò mới nổi lên giống hình cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không?

- Cũng gần như thế. Trong toán nghĩa quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.

Anh ta trầm ngâm.

- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn bình yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng nghĩa quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu tình hình khó khăn, nguy hiểm thì anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái gò đó. Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xã bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc võng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường thì cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy thì vô nhà. Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi thì chỗ con gái nằm, mối đã đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao thì hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy. Hôm trước đó, cô gái đã than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn gò ngập luôn xác của cô.

- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?

- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường mòn mà mấy anh dẫn xe vô lúc nãy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. Vì mưa quá lớn không thấy đường sá gì cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận. Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo thì thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi thò đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng gì cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa. Chửi xong anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số thì thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu gì cả. Nếu không vì chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đã cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo. Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đã đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suýt xảy ra tai nạn. Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó thì gặp mấy ông công an xã đi ngang. Họ dừng lại hỏi lý do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy ông công an kéo nhau lên chỗ gò mối, ông trưởng công an xã rút súng bắn vào cái mộ để thị uy “Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh gì cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” Vì mấy ông đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, ông trưởng công an xã bị gãy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là ông ta bị “Cô” vật.

- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với lòng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng.

Anh ta như không để ý lời tôi, kể tiếp.

- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp vì sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ trì viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận. Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường bình an.

- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao?

- Nghĩa quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên nhảy dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên gì. Vả lại phải nhớ tên mấy người đã chết, để sau nầy thân nhân đi tìm mà chỉ cho họ.

Thấy trời đã về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.

- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.

- Anh đừng lo, tôi là Việt kiều, anh cứ tính công vào cho sòng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.

Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm gò mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ gò mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần thì không hình dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi vòng phía bên kia, sẽ thấy giống hình một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào lòng mẹ. Tôi hỏi.

- Trông giống Hòn Vọng Phu, nhưng sao Hòn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi?

Anh ta có vẻ đăm chiêu.

- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.

Buổi chiều âm u, cảnh vật im lìm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống hình người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò. Tôi nói.

- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…

- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.

Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi. Tôi thấy trên bàn thờ có để hình hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là hình một cô gái, diện mạo bình thường, hơi mập, mặt tròn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh hình cô ta là hình một người thanh niên.

- Có phải hình thờ bên cạnh là chồng cô ta không?

-Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.

Tôi nhìn hình người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu? Nghĩ mãi một lúc, quay nhìn anh ta… hóa ra là hình của chính anh.

-Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là hình người khác?

- Hình của tôi đó! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.

- Nhưng sao anh lại thờ chính mình?

Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.

- Khi học tập cải tạo, cán bộ bảo rằng nước Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đã bị người ta chiếm mất rồi! Cán bộ nói rõ là chúng tôi đáng tội chết, chúng tôi không còn là người dân nước Việt Nam nữa. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dõi như những người tù.

Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau! Tôi như người lính duy nhất còn sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không còn nơi để trở về. Cảm tưởng rõ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nhìn vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn còn đó, nhưng tôi không còn quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đã bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.

Tôi sống một mình ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở gò mả ngoài kia. Khi thì tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện trò với đồng đội nằm dưới đó. Tôi nghe được, hiểu được những gì các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc.

Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi.

Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi.

Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt thì tôi đã có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.


Phạm Thành Châu

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Trận Chiến PLEI ME
Trần Quốc Cảnh K 19, Trường Võ Bị/ QGVN

Lời Giới Thiệu:

Đã hơn 39 năm qua, Quân Sử của VNCH cũng như của Hoa Kỳ đều nói, viết và đưa lên phim ảnh Hollywood về trận đánh lịch sử ở thung lũng Ia-Drang, trên Cao nguyên Trung phần vào tháng 11, năm 1965. Nhưng chưa một ai nói và viết chi tiết chiến thuật "Công Đồn Đả Viện" của quân Cộng Sản Bắc Việt, trong trận phục kích đoàn quân tiếp viện của ta, gồm Trung đoàn 3 Thiết Giáp (sau đổi là Thiết đoàn 8 Kỵ Binh) và tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân, làm mũi nhọn đi giải vây cho tiền đồn Plei Me đang bị vây hãm, cách thành phố Plei Ku khoảng 40 Km về hướng Nam.

Khi đó, quân ta đang rơi vào một cái bẫy xập to lớn hơn, do hơn một Trung đoàn (+) quân chính quy CSBV đang giăng ra để chờ đón con mồi từ từ bước vào vùng tử địa trên Tỉnh Lộ 6C, nối liền từ Plei Ku đến Plei Me.

-/-

Bài này được viết ra do kinh nghiệm bản thân và nhiều lần được nghe chính các quân nhân binh chủng BĐQ, thuộc Tiểu đoàn 21 còn sống kể lại. Lúc đó, họ chỉ là những Trung Đội Trưởng của các Đại Đội thuộc Tiểu Đòan 21, và là những Sĩ quan rất trẻ, mới tốt nghiệp từ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Khoá 19 Nguyễn Trãi. Họ cũng là những người bạn thân thiết, đã nhiều lần vào sanh ra tử tại các chiến trường nổi tiếng của vùng 2 Chiến Thuật, nơi đã được gọi là "Em Plei Ku má đỏ môi hồng" trong bản nhạc nổi tiếng bất hủ của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ theo thơ của Vũ Hữu Định.

A. Tình Hình Tổng Quát:

Khóa 19 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ra trường cuối năm 1964, đúng lúc các trận chiến bùng nổ dữ dội khắp 4 vùng chiến thuật với chiến dịch Đồng Khởi của địch. Chúng tôi: Thiếu uý Trần Quốc Cảnh, Huỳnh Kim Tắc, Hoàng Văn Chu được bổ xung về Tiểu đoàn 21/ BĐQ và Thiếu Uý Tăng Bửu Tuyền, Nguyễn Xuân Riện, Hiệp, Nguyễn văn Thu về Tiểu đoàn 22/ BĐQ. Hậu cứ của 2 Tiểu đoàn nằm sát liền nhau, trên ngọn đồi trọc cạnh Biển Hồ, cách thành phố Plei Ku 15 Km về hướng Bắc.

Tại vùng 4 Chiến Thuật, có những chiến thắng lẫy lừng của TĐ 42/ BĐQ "Cọp Ba Đầu Rằn" và TĐ 44/ BĐQ "Cọp Đen" với chiến thuật Trực Thăng Vận, nhảy trên đầu địch đánh xuống, khiến địch bị bất ngờ không kịp trở tay. Tại vùng 1 Chiến Thuật ,TĐ 39/ BĐQ bị thiệt hại nặng trong trận Ba Gia, nhưng TĐ 37/ BĐQ chiến thắng lớn trong trận Thạch Trụ. TĐ 2/ TQLC bị địch phục kích tại tại QL 1, 15 Km phía Bắc Thành phố Huế, TĐT Lê Hằng Minh tử thương, TĐ bị thiệt hại khá nặng.

Tại vùng 3 Chiến thuật, địch đã tổ chức đơn vị cấp Trung đoàn, bao vây, khuấy rối Ấp Chiến Lược Bình Giả, dụ quân ta vào trận liệt đã được điều nghiên và bố trí kỹ càng, phục kích quân tăng viện, giải cứu. TĐ 4/ TQLC đã bị thiệt hại nặng nề và Thủ Khoa Khoá 19 VBĐL Lê Thành Kháng là một trong vài người bạn cùng khoá đã hy sinh sớm nhất. Kế tiếp, địch bao vây trại LLĐB Đồng Xòai, lại với chiến thuật "Công Đồn Đả Viện", đã dụ TĐ 7/ Nhảy dù VN vào đồn điền cao su, và với quân số gấp bội bao vây tiêu diệt. Người bạn cùng khoá 19 là Đoàn Phương Hải, cũng đã bị thương nặng.

Kể từ đây, lực lượng Tổng Trừ Bị (ND-TQLC) của ta mới rút kinh nghiệm, chỉ hành quân cấp Chiến đoàn gồm từ 2, 3 Tiểu đòan trở lên.

Tại vùng 2 Chiến Thuật, với rừng núi mênh mông, giáp ranh với biên giới Cam Pu Chia và Lào, có lợi thế cho địch thiết lập mật khu, kho tiếp liệu, tập trung, ẩn dấu quân và lấy rừng núi chế ngự đồng bằng.

Trong thời gian này, địch đã có ý định dứt điểm Miền Nam, cùng lúc gây ra do sự chia rẽ của các vụ đảo chánh liên tiếp. Trước hết, các toán tập kết ra Bắc năm 1954 là thành phần tiền phong được xâm nhập trở lại Liên Khu 5 cũ (Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên) móc nối gia đình, thiết lập cơ sở nằm vùng, tình báo và tiếp tế.

Tiếp theo đó, các Trung đòan chính quy CSBV lần lượt xâm nhập theo đường mòn HCM dọc theo biên giới Lào, Việt, Miên di chuyển mất khoảng 2 tháng leo đèo, vượt suối. Tướng Chu Huy Mân đã xâm nhập từ năm 1964 trách nhiệm vùng Đà Nẵng, Chu Lai, sau đó trách nhiệm mặt trận B3 Cao Nguyên Trung Phần, bản doanh đóng tại Plei Bong Klo trong nội địa Lào, cách biên giới 10 Km về phía Tây. Chu Huy Mân đã bị Pháp bắt giam tại Kon Tum trong Chiến dịch Việt Pháp, là Chính Ủy của Sư đòan 316 trong trận đánh Điện Biên Phủ năm 1954. Vào tháng 3/ 1965 Trung Đoàn 42 Bộ Binh biệt lập dưới sự chỉ huy của Trung Tá Lại Văn Chu, trách nhiệm vùng Kon Tum, gồm ngã ba biên giới Việt, Miên, Lào với Tân Cảnh, Dakto, Daksut, đã phát giác các lực lượng CSBV xâm nhập của địch. TĐ 21/ BĐQ được tăng phái cho Trung Đoàn 42 BB/ Biệt lập, đã giao tranh ác liệt với một Trung Đoàn CSBV trong 2 ngày, 2 đêm trong rừng núi, không được tiếp viện, tải thương, tiếp tế đạn dược, đồ ăn, nước uống, vì núi non chập chùng, rừng rậm nguyên sinh, ban ngày chỉ thấy ánh mặt trời le lói qua tàng lá cây. Cuối cùng TĐ 21/ BĐQ phải rút lui trong đêm tối, bỏ lại các đồng đội đã tử thương và cả bị thương nặng không thể đi được, vì không thể khiêng, vác theo trong đêm tối mịt mùng. Quân ta chỉ bám lưng nhau lên núi xuống đèo mà đi cho khỏi lạc và chung quanh lại bị địch quân bao vây, xả súng bắn tới tấp khi nghe tiếng di chuyển của quân ta. Người bạn thân của chúng tôi, Thiếu úy Hoàng Văn Chu đã tham dự trận chiến đầu tiên trong đời binh nghiệp, và cũng là trận cuối cùng của anh. Xác anh đã được bọc bằng chiếc áo mưa poncho, thay cho da ngựa, "phút chốc anh đã trở thành người thiên cổ...".

Tình báo của ta được báo đó là Trung đoàn 101 CSBV, chỉ huy bởi một Trung đoàn trưởng, đã 15 năm chỉ huy Trung đòan và đã tham dự trận đánh Điện Biên Phủ năm 1954. Sau đó được biết là Thượng tá Nguyễn hữu An, Tư lệnh phó B3 của Tướng Chu Huy Mân, và là Trung đoàn trưởng dưới quyền Tướng Mân trong trận ĐBP, đã chiếm Bộ chỉ huy của Tướng Pháp De Castries trên cứ điểm Eliane 1.

Điểm đặc biệt được khám phá trong trận chiến này là vũ khí của địch được trang bị tối tân, gồm đại liên có bánh xe kéo tay, thượng liên gắn đạn nồi, AK 47 tự động, và CKC (súng trường báng đỏ ) có gắn lưỡi lê gấp, dính liền với súng, và súng hỏa tiễn chống chiến xa B 40. Còn vũ khí trang bị của ta toàn là vũ khí cũ của thời Đệ Nhị Thế Chiến, như Đại liên M 30, Trung liên Bar, Thompson, Carbin M1, Garant M1 bán tự động (bắn phát một) súng phóng lựu mới M79. Súng AR15 (tiền thân của M.16), trước đó được trang bị để trắc nghiệm, sau đó đã bị thu hồi lại.

Tháng 5/ 1965, Trung đòan 32 CSBV (trước là TĐ 101) đã tiến sâu hơn vào nội địa Quân Khu 2, tính cắt trục tiếp tế giao thông trên Quốc lộ 19 trên đèo Mang Giang, nối liền Plei Ku và Quy Nhơn. TĐ 22 /BĐQ đã giao chiến và thu được một số súng tối tân của địch. Tháng 8 / 1965, địch lại công đồn, bao vây trại LLĐB Đức Cơ trên QL 19, sát biên giới Cao Miên. Hai Tiểu đoàn Nhảy dù được trực thăng vận giải vây xung quanh tra, nhưng địch đã rút qua biên giới. Trong trận này có Thiếu Tá Norman Schwarzkopf là Cố vấn cho Trung Tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy Chiến đoàn Nhảy dù. Trong thời gian này Trung đòan 33 CSBV mới xâm nhập, và áp lực của địch càng gia tăng mạnh mẽ ở vùng rừng núi Cao Nguyên.

Một Chiến đoàn của ta được thành lập: Trung đòan (-) gồm Thiết Giáp M41, Thiết Vận Xa M113 dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Trọng Luật và một chiến đoàn TQLC dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thành Yên và TĐ 21 / BĐQ với Đại Úy Nguyễn Văn Sách (khóa 9 Đặc Biệt Đà Lạt) làm Tiểu Đoàn Trưởng, là lực lượng tiếp cứu trại LLĐB Đức Cơ di chuyển bằng đường bộ trên QL 19.

Chiến thuật Công Đồn Đả viện lại được địch áp dụng, nhưng đã bị quân ta đánh bại và bị không quân của ta truy kích, địch quân đã rút bỏ chạy qua biên giới. Trên các Quốc lộ và trục giao thông chính như đường 14, 19, 21, đều bị cắt đứt và phá rối liên tục. Mọi tiếp tế bằng đường bộ trở nên khó khăn, phải chuyên chở, tiếp vận bằng phi cơ. Ý định của địch ngày càng hiện rõ, họ xử dụng chiến thuật "Vết dầu loang" , hay "Tầm ăn dâu","lấy rừng núi chế ngự đồng bằng", "lấy nông thôn bao vây thành thị", tiả dần, tỉa mòn lực lượng của ta và sau đó tiến công dứt điểm.

Ngày 19/ 10/ 1965 lúc 11:30 đêm, địch phát khởi trại LLĐB Plei Me, cách thành phố Plei Ku 40 Km về phía Nam.

1/ - Lực Lượng Địch:

Trung Đòan 32 CSBV với 3 Tiểu đoàn 344, 635 và 966 doThiếu tá Mã Văn Minh làm Trung Đoàn Trưởng.

Trung Đoàn 33 CSBV của Thượng Tá Nguyễn Hữu An chỉ huy tổng quát.

Một Tìểu Đoàn súng cối 60, 82, và 120 mm.

Một Tiểu Đoàn súng phòng không 12.7 mm

Một Tiểu Đoàn địa phương H. 15.

Trung Đoàn 66 CSBV, với 3 Tiểu đoàn 7, 8 và 9 do Trung Tá La Ngọc Châu đang xâm nhập trên đường mòn HCM và đụng độ với Tiểu Đòan 1 thuộc Lữ Đòan 7 của Sư Đòan 1st, Không Kỵ Hoa Kỳ tại chân rặng núi Chu Prong, trong thung lũng Ia Drang (tên con suối) ngày 14 , 15 và 16 tháng 11 năm 1965.

2/ - Lực Lương Bạn Cánh A:

- Trung Đòan 3 Thiết Giáp (-) gồm 12 chiến xa M41 và 8 thiết vận xa M113.

- Đại đội 1 và 2 thuộc Tiểu Đòan 21 BĐQ, vừa đi bộ mở đường thám sát, vừa tùng thiết (ngồi trên pháo tháp chiến xa M41 và trên nóc Thiết vận xa M113).

Lực Lượng Bạn Cánh B:

- Bộ Chỉ Huy TĐ 21/ BĐQ, Đại đội 3 và Đại đội 4 BĐQ đi theo sau cánh A khoảng 2 km trên trục lộ, với đoàn convoy chở đạn dược tiếp liệu, xăng dầu và nước uống, cùng tiểu đội công binh cùng 2 chiếc Thiết vận xa M113, 2 xe bọc sắt RM8 có gắn đại liên 30 ly bên hông xe và 2 khẩu pháo Howitzers 105 ly.

Lực Lượng Bạn Cánh C:

- Tiểu đòan 1 Bộ Binh, thuộc Trung Đòan 42 Biệt Lập tăng phái đến từ Kon tum và Tân Cảnh do Đại úy Mã văn Nông làm Tiểu đoàn trưởng.

Trừ bị:

- Tiểu đòan 22/ BĐQ do Đại úy Phạm văn Phúc làm Tiểu đoàn trưởng, nằm trừ bị tại phi trường Cù Hanh, Plei Ku, sẵn sàng tiếp ứng bằng Trực thăng vận.

B- BỐ TRÍ TRẬN LIỆT:

Lúc 11:30 đêm 19-10-1965, một tiểu đòan của Trung Đòan 33 CSBV, bao vây tấn công, dùng đặc công và pháo kích vào trại LLĐB Plei Me gồm 12 Cố vấn Hoa Kỳ, một tóan LLĐB/ VN và khoảng 400 dân sự chiến đấu Thượng, sống cùng với vợ con trong trại.

Địch đã bố trí các đại liên, phòng không và súng cối trên các ngọn đồi núi cao quanh trại.

Từ Plei Ku, trước khi chuyển quân, tôi thấy một máy bay khu trục Skyraider A1E của ta bị phòng không 12.7 ly của địch bắn trúng, phi công đã nhảy dù ra và cánh dù màu da cam bay lơ lửng trên bầu trời của trại LLĐB Plei Me.

Ta đã biết chắc là địch lại áp dụng chiến thuật Công Đồn cổ điển, để Đả Viện, nhưng quân ta không còn cách nào khác đành chấp nhận cuộc chơi do phe kia lựa chọn chiến trường.

Một Chiến đoàn cứu viện của QĐ 2/ QK II, dưới quyền Tư lệnh của Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc được thành lập, gồm Trung đòan Kỵ binh (-) với một Chi đoàn M41 thiết giáp 12 chiếc, một Chi đòan (-) Thiết vận xa M113 gồm 8 chiếc dưới quyền chỉ huy tổng quát của Trung Tá Kỵ binh Nguyễn Trọng Luật (thăng cấp sau trận Đức Cơ tháng 8/1965) Chiến đòan được tăng phái Tiểu Đòan 21 BĐQ và Tiểu Đoàn 1 / 42 Bộ Binh biệt lập và tăng cường 2 khẩu pháo binh 105 ly di chuyển theo đoàn quân.

Đơn vị Thiết giáp và Tiểu Đoàn 21 BĐQ được tập trung tại Phù Mỹ, giao điểm của QL 14 và Tỉnh lộ 6C trong 2 ngày để gom các đơn vị trực thuộc, tiếp vận, pháo binh và chờ Tiểu Đoàn 1/42 Bộ Binh từ Dak To và Tân Cảnh tới.

Địch quân đã nghiên cứu kỹ lưỡng đoạn đường này từ nhiều tuần lễ trước khi khởi sự trận đánh, và khúc đường được lựa chọn để mai phục đoàn quân tiếp viện của ta khi địa thế con đường bị bẻ ngoặt, giống như ở chỗ khúc khuỷ tay (góc cạnh 60 độ) là nơi chặn đầu đoàn quân với các hầm hố , công sự chiến đấu được ngụy trang kín đáo. Một lực lượng khác do Tiểu Đòan 344 CSBV , khoảng 400 người sẽ khoá chặt khúc đuôi của đoàn quân ta, và cùng lúc một lực lượng xung kích của địch bố trí trên các cao địa (20 - 30 m), dùng vận động chiến, với hỏa lực hùng hậu cuả dàn súng chống chiến xa B40, súng cộng đồng SKZ 57, cùng sơn pháo 75 ly và đồng loạt Tiểu liên tự động AK47, từ các hầm hố ngụy trang xung phong, tràn ngập và tiêu diệt lực lượng chính của ta.

Địch với 2 Tiểu đòan thuộc Trung đòan 33 và 2 Tiểu đòan thuộc Trung đoàn 32 làm nỗ lực chính để Đả Viện. Ngoài ra thêm một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 32 làm lực lượng trừ bị.

Đoàn BĐQ đi đầu do Trung Úy Vòng Lập Dzếnh, người Nùng làm Đại Đội Trưởng với Thiếu Úy Huỳnh Kim Tắc, Khoá 19 Đà Lạt, Trung Đội Trưởng/ Trung đội 1/ Đại đội 1/ TĐ21 BĐQ đang ngồi trên Thiết giáp M41 đã nhanh nhẹn xuống xe hạ chiến, và anh đã chỉ huy toàn Trung đội phản công dữ dội. Cộng vào đó hỏa lực cơ hữu của các Đại liên 50 ly từ các Thiết vận xa M113 và đạn chày chống biển người từ các Thiết giáp M41 đã đẩy bật lại sự tiến công và tràn ngập của kẻ địch. Cùng lúc đó Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia, Khóa 14 Thủ Đức, Trung Đội Trưởng/ Trung Đội 2/ Đại đội 1/ TĐ 21 BĐQ đang di chuyển bộ trên hai bên đường cũng bị địch với quân số đông gấp bội, nhào ra từ những hầm hố ngụy trang bên cánh phải nhằm tiêu diệt gọn phe ta. Như Triệu Tử Long của Tam Quốc Chí, Thiếu Úy Gia đã cùng Trung đội 2 xung phong tiến lên cận chiến, quyết không cho địch chiếm phần chủ động chiến trường. Đại Đội 2 BĐQ với Trung Úy Võ Vàng khóa 17 Đà Lạt, làm Đại Đội Trưởng và Thiếu Úy Trần Quốc Cảnh, Khóa 19 Đà Lạt Trung Đội Trưởng, tùng thiết M41 đi kế tiếp hàng dọc trên đường đất độc đạo tiến vào Plei Me. Địch quân, với địa thế đồi cao, đã xông ra như thác đổ từ bên cánh trái đòan quân của Đại Đội 2 BĐQ. Ngay lập tức, các chiến sĩ BĐQ đã hạ chiến và phản công quyết liệt, không cho địch quân xung phong tiếp cận các Thiết giáp và Thiết vận xa, cùng lúc đó hỏa lực của các khẩu đại liên 50 ly trên M113 và M41 đã đồng lọat khai hỏa đẩy bật các đợt tấn công liên tục của địch từ trên các đỉnh đồi và các hầm hố ngụy trang dọc con đường tiến quân. Địch đã dùng chiến thuật "biển người " hay lấy thịt đè người, nhằm chủ động và thanh toán chiến trừơng. Đạn tổ ong từ pháo tháp 76 ly của Thiết giáp M41 đã quật ngã hàng lọat và phá huỷ những hầm hố, công sự chiến đấu kiên cố của địch. Lực lượng BĐQ và Thiết Giáp của cánh A đã bẻ gãy âm mưu Đả viện của Tiểu đòan 635/ Trung đoàn 32 CSBV.

Lực lượng cánh B đi phía sau, trên đường được chỉ huy bởi Thiếu tá Lê văn Tui/ Trung đòan phó Thiết giáp và Đại uý Nguyễn văn Sách, TĐT/ TĐ 21/ BĐQ, và Trung úy Nguyễn văn Huân, TĐP cùng Đại đội 4 do Trung úy Nguyễn Thành Banh, Khóa 16 Đà Lạt làm ĐĐT và Trung úy Nguyễn văn Chính, Xử Lý Thường Vụ ĐĐ 3 đi sau cùng, (thay cho Trung úy Nguyễn văn Tốt đang đi học). Bộ Chỉ Huy Tiểu đòan đã chống trả thật mãnh liệt, sau đó lui xuống cuối đoàn xe để bảo tòan lực lượng, bố trí phòng thủ qua đêm tại một Ấp Chiến Lược với những hầm hố và công sự chiến đấu đã bỏ hoang gần đó, phía sau nơi phục kích 1 km. Quân ta đã đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của Tiểu đòan 344 và 966/ Trung đòan 32 CSBV. Trong đêm tối, nhờ máy bay Dakota C47 của Không Quân VNCH thả chiếu sáng liên tục trên bầu trời quanh đồn Ấp Chiến Lược, nên rất rõ ta và địch. Cho đến gần sáng, địch "Chém Vè", rút lui. Kiểm điểm cánh B bị thiệt hại khỏang 2/3 số xe cộ trong đòan tiếp tế bị cháy và phá hủy bởi B40, SKZ 57, Sơn pháo 75 ly, ngay từ những lúc khởi đầu trận đánh của cánh B. Ngay từ lúc đầu, cuộc tiến quân rất chậm vì Trung đội của Thiếu úy Ngô Hoàng Gia phải đi bộ để lục sóat hai bên đường và lực lượng cánh B đi bộ phía sau có nhiệm vụ bảo vệ đòan xe xăng, dầu, đạn dược, tiếp liệu của đoàn quân và kéo theo sau 2 khẩu pháo binh 105 mm...

* Thiếu úy Trần Quốc Cảnh đã kể lại như sau:

Khoảng 3 giờ chiều, lực lượng tiền đạo cánh A từ trên một đồi cao đi xuống thung lũng (lòng chảo hay hình dáng chiếc yên ngựa), để tiến lên một cao đỉnh phía trước thì bị lực lượng chặn đầu của địch dùng vũ khí cộng đồng và cá nhân bắn xối xả. Quân ta đã lọt vào thế bị động, tiến không được và lùi cũng không xong, mà dàn quân sang phải, trái thì bị rừng cây ngăn trở. Địch từ những hầm hố cố định dùng vận động chiến tìm cách tiến sát quân ta, nhưng bị hỏa lực của Thiết giáp dùng đạn chầy, chống biển người và đại liên 50 cùng BĐQ đã hạ chiến càn quét. Địch đã bị ngăn chặn không thể tiến sát để tràn ngập quân ta... Trong lúc giao tranh, trời còn sáng, tôi nhìn lại đòan quân trên đồi cao phía sau, thấy những đám khói đen bốc cao, tiếng súng nhỏ phía sau ít nghe thấy có lẽ khoảng cách khá xa (2 km), và đang ở dưới thung lũng thấp, và đạn đại bác và đại liên nổ ròn rã sát bên. Sau đó, trời bắt đầu xập tối và tôi cảm thấy nếu cứ nằm dọc theo đường đất một hàng dọc như vậy suốt đêm thì quá nguy hiểm vì không có phòng thủ diện địa chiều sâu. Hơn nữa, nếu địch tiến sát, trộn trấu, không thể phân biệt được ai là bạn, địch, và quân ta dễ bắn lầm quân ta, hoặc địch không bắn (vì tiếng nổ của AK47 ròn vang, khác với tiếng nổ lẹt đẹt của Carbin M1 của ta), chỉ tung lựu đạn thì biết địch ở đâu mà phản ứng. Thật là "Tiến Thối Lưỡng Nan"....

* Thiếu úy Ngô Hòang Gia đã kể lại như sau:

Trong lúc đầu, khi mới vừa bị phục kích, Trung đội 2/ ĐĐ 1/ TĐ 21 BĐQ do Thiếu úy Ngô Hoàng Gia đã anh dũng dàn hàng ngang, xung phong thẳng vào cận chiến với địch. Mỗi chiến sĩ BĐQ, kể cả hiệu thính viên là một chiến sĩ trên hàng đầu mặt trận. Cuộc cận chiến chỉ kéo dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì bóng tối đã ngả xuống, cản trở tầm nhìn xa và sự nhận xét tổng quát xung quanh. Trung đội 2 tiếp tục duy trì đội hình cho đến gần khuya thì lần lượt tập họp thành từng nhóm nhỏ, dựa vào nhau hoặc những cây lớn để bảo vệ lẫn nhau. Đến khi trời sáng, kiểm điểm lại Trung đội, Thiếu úy Ngô Hòang Gia nhận thấy chỉ có 2 chiến sĩ đã hy sinh và 3 chiến sĩ bị thương.

Tại Đại đội 2 BĐQ, Thiếu úy Trần Quốc Cảnh tìm cách liên lạc với ĐĐT Võ Vàng và các Trung đội bạn để tập họp, nhưng mọi cố gắng đều không thực hiện được vì đêm tối biết đâu mà tìm. Vả lại, nhiệm vụ chính là phải bảo vệ cận phòng cho chiến xa mà mình tùng thiết. Phản ứng cấp thời khiến tôi đi kiếm một sĩ quan Thiết giáp gần nhất, sau đó gặp một Chuẩn úy tên Tuyển trắng trẻo, to con, đẹp trai và bàn với nhau gom được 6 chiếc thiết giáp M41 tiến lên sườn đồi bên cánh trái của trục tiến quân, làm chu vi phòng thủ qua đêm, vói 23 chiến sĩ BĐQ mà tôi gom lại được. Các bụi cây rậm rạp xung quanh được thiết giáp cán xẹp hết để làm vị trí đóng quân, khai quang xạ trường và để cho địch khỏi tiến sát vị trí phòng thủ. Sau khi thiết giáp bố trí vòng tròn xong, các chiến sĩ BĐQ đã đào hố phòng thủ giữa khỏang cách của 2 chiến xa để ngăn chặn không cho địch tràn lọt vào khỏang trống. Mọi người đều ngồi trong hố suốt đêm, hướng súng ra ngoài, sẵn sàng nổ súng nếu phát hiện bất cứ ai di chuyển và gây tiếng động bên ngoài, do đạp hay đụng phải cây cối gẫy đổ xung quanh. Trong đêm, bất ngờ nghe tiếng người di chuyển, một chiến sĩ thiết giáp gác giặc trên pháo tháp la vừa đủ nghe: "Ai ..." Yên lặng ...."Ai ..." nữa.

Địch có lẽ đang dưới đường đất tiến lên trên đồi do quân ta phòng thủ. Tôi ngồi dưới hố chung với hiệu thính viên mang máy truyền tin PRC-10, giận điên người vì sự thiếu kinh nghiệm của người lính thiết giáp.

Giữa đêm tối im lặng, tôi la lên thật lớn, nhiều lần: "Bắn đi...", "Bắn đi...." Mà người lính đó vẫn không bắn. Tiếp theo đó tôi nghe tiếng quân địch la to: "Lực lượng mạnh ..." , sau đó B40 hoặc B41 nổ rền khắp nơi, cùng tiểu liên AK47 và thượng liên nổ ròn tứ phía. Lúc đó, đại liên 50 của ta mới khai hỏa và 6 chiếc thiết giáp M41 nổ máy di chuyển xịch tới, xịch lui để tránh đạn chống chiến xa. BĐQ chúng tôi đang ngồi dưới hố giao chiến, không sợ bị địch bắn, mà chỉ sợ thiết giáp phe ta đè nát , do đó tất cả đều nhảy lên khỏi hố cá nhân , di chuyển tiến và lùi theo sự di chuyển của thiết giáp. Sau lúc giao tranh, mặt trận trở lại yên tĩnh, chúng tôi lại nhảy xuống hố phòng thủ như cũ, sẵn sàng ứng chiến.... Một lúc sau, tôi đang ngồi trong hố với hiệu thính viên, vô tình quay ra sau lưng, nhìn vào bên trong chu vi phòng thủ, thấy một bóng đen mờ mờ (vì ngồi dưới hố nhìn lên trời, cây cối và bụi rậm đã khai quang hồi chiều) đang lần mò đi sau lưng chiếc thiết giáp kế bên... Đúng là: "Số mày Bà dắt " hoặc linh tính đã khiến tôi hỏi nhỏ cho hắn đủ nghe: " Ai...? ". Hắn trả lời: " Bộ binh " , có lẽ đó là mật khẩu của địch để nhận nhau trong đêm tối. Tôi nhớ lại, có một tiểu đoàn Bộ Binh , thuộc Trung đoàn 42 Biệt lập đi hành quân chung, có lẽ đi cánh nào khác mà suốt cuộc hành quân tôi chưa bao giờ thấy lính Bộ Binh của đơn vị đó. Tôi nghĩ có lẽ đơn vị hắn bị đánh, và chạy lạc sang cánh BĐQ chăng? Tôi nói với hắn: "Đây là BĐQ, Không phải Bộ Binh, đi chỗ khác chơi...!!! Hắn vội trả lời: "Dạ , dạ..." và đi ngược lại vào trong chu vi phòng thủ.

Tôi chợt nghĩ đêm tối thế này làm sao hắn kiếm được đơn vị Bộ Binh của hắn. Tôi bèn nói: "Đêm tối làm sao mà về đơn vị được,thôi nằm sau lưng tôi, sáng đi kiếm sau". Hắn: "Dạ , dạ..." và nằm xuống sau lưng tôi. Tôi vẫn ở dưới hố, chong súng ra ngoài. Đơn vị BĐQ thời đó được trang bị súng cá nhân Carbin M1 bán tự động (bắn phát một). Tôi ngoại giao với LLĐB / VN xin được báng súng gấp và bộ máy cò bắn tự động, trong khi đó Dân sự chiến đấu Thượng đã được trang bị Carbin M2 tự động (thấy mà tủi thân, mặc dù BĐQ là lực lượng trừ bị và ưu tú của Quân đoàn.) Té ra trong lúc xung phong, tên địch đã chạy lọt vào trong chu vi phòng thủ của quân ta và lúng túng kẹt lại, trong lúc đồng bọn đã tẩu tán hết. Đã rờ rẫm thiết giáp, và nay lại biết rõ là BĐQ , muốn thoát ra khỏang trống giữa hai thiết giáp lại đụng quân ta ở giữa . Có lẽ hắn đã " Hồn xiêu , phách lạc " , sợ qúa nên thần kinh trở thành tê liệt, lò mò đi tìm lối thoát. Tôi chợt quay lại phía sau, đã thấy hắn nằm kế bên, nay lại thấy hắn đứng lên bỏ đi. Do linh tính, tôi bước ra khỏi hố, tay trái cầm thân súng Carbin báng gấp, tay phải nắm vào lưng quần hắn, trên hai bàn tay hắn ." Trời ơi , lưu đạn chầy!!!!" . Tôi chết sững như Từ Hải chết đứng, tay phải vẫn nắm chặt 2 bàn tay hắn trên lưng quần. Hắn đang tháo lựu đạn chầy ra, nhưng có lẽ run qúa nên chưa tháo kịp. Tôi hoàn hồn trở lại, tay trái cầm thân súng Carbin kéo ra phía sau vì sợ hắn giật cây súng, dọa hắ : " Mày mà động đậy là tao bắn". Tôi rất muốn lùi tay ra sau về chỗ lẩy cò và cho hắn về thăm ông bà, nhưng làm sao buông dần thân súng để lùi tay được. Ngoài ra khóa an toàn chưa mở thì cũng vô ích. Tên hiệu thính viên cùng chung dưới hố phòng thủ với tôi cũng không biết gì hết. Tôi gọi nhỏ tên hắn, hắn bước ra khỏi hố và tôi nói với hắn: "Tên này là VC, trói hắn lại". Hắn lúng túng mãi mới kiếm ra giây trói 2 cánh tay tên địch ra sau lưng và trói chân, đặt nằm sau lưng và cạnh phía sau thiết giáp. Lúc đó, tôi trở thành lính gác giặc bên ngoài và gác tên tù binh bên trong. Chỉ có tôi và hiệu thính viên biết việc này và tôi không nói cho ai biết hết, vì không biết trận chiến còn tiếp diễn ra sao, nếu nói ra làm mọi người hốt hoảng thêm, không ích lợi gì . Tờ mờ sáng, mặt trời chưa mọc, sương mù còn nhiều, một chiến sĩ BĐQ của tôi đi tới, có lẽ kiếm tôi và tôi chỉ tên VC bị trói nằm đó. Hắn nhảy lùi lại, la hoảng lên: "Giết hắn đi". Tôi chỉ phì cười. Sau đó tôi gọi Chuẩn úy Tuyển của thiết giáp chui từ trên pháo tháp M41 đi xuống và chỉ cho hắn tên VC nằm sát cạnh thiết giáp. Hắn giật bắn người và la hoảng lên: " Giết hắn đi ..." vì tên địch nằm kế bên cả đêm mà thiết giáp không biết gì hết.

Lúc đầu tên tù binh rất sợ sệt vì ai cũng đòi giết, nhưng sau thấy tôi đối xử tử tế, cho ăn, uống, hút thuốc (mặc dầu tay vẫn bị trói),thăm hỏi tình hình, quê quán.. Tôi còn nhớ tên hắn là Trung và mặt mày hắn tươi tắn, sáng rỡ, cười nói thành thật những gì tôi hỏi vì biết chắc là thoát chết. Sau đó hắn xin nới lỏng dây trói, xin tháo dây trói và hứa sẽ không bao giờ bỏ chạy. Thấy hắn hiền lành và tội nghiệp, tôi cho thaó dây trói chân. Cũng may cho tôi là súng của hắn đã bị mất trong lúc giao tranh, nếu không thì mạng của tôi cũng nguy rồi, đâu còn dịp kể lại kỷ niệm này cho các bạn nghe ... Sáng hôm đó, tôi cho lính lục soát xung quanh thâu lượm súng của ta và địch gom thành bó và báo cho M113 tới chở đi cùng tù binh, vì trên lại có lệnh tiến quân. Súng ống tịch thu qúa nặng làm sao mà khiêng vác nổi trên đường hành quân.

Cùng lúc đó, có một chuyện vừa đau thương và vừa tức cười là có một số chiến sĩ BĐQ của tôi bị tử thương, tôi ra lệnh cho một binh sĩ dưới quyền lấy poncho (áo mưa, làm lều, bọc xác) gói bọc xác các đồng đội tử thương lại. Có lẽ lính mới, nên không dám rờ tử thi. Tôi quắc mắt, làm nghiêm ra lệnh: "Hắn có đánh , có cắn mày đâu mà mày sợ cái gì chớ? Mày mà không lo cho bạn bè, đồng đội thì tới lượt mày, không ai lo cho mày đâu .." Nghe nói vậy, hắn sợ cho bản thân, đi làm ngay lập tức. Tôi thấy vậy cười thầm trong bụng, nhưng lòng đầy xót xa... Lính BĐQ sống mạnh, sống hùng nhưng không sống lâu. Đạn tránh người chứ người làm sao tránh được đạn. Người ta ai cũng chết, không chết trước thì chết sau cũng thế thôi, nhưng sống, chết có ý nghĩa và được mọi người thương mến thì mới là trọn vẹn.
Image Ngay buổi chiều gần tối, trong ngày đầu giao tranh, một đoàn trực thăng UH1B của 1 st CAV chở Tiểu đoàn 22/ BĐQ do Đại úy Phạm văn Phúc làm Tiểu đoàn trưởng bay thấp sát ngọn cây tăng viện bên cánh trái, 2 Km phía Nam hướng tiến quân của TĐ 21 BĐQ và Thiết giáp. (bên hướng rặng núi Chu Ho). Vì trời tối TĐ 22/ BĐQ đã án binh bất động, phòng thủ qua đêm, tuy có nghe tiếng quân CSBV di chuyển, nhưng không giao chiến với quân địch vì tầm tác xạ qúa xa, nên chỉ gọi pháo binh bắn tập trung vào những điểm có hướng địch di chuyển. Cánh B di chuyển cùng đoàn convoy tiếp liệu đã bị thiệt hại nặng vì địch phục kích và vận động chiến nhiều đợt với quân số đông gấp bội. Địch đã tràn ra như thác lũ, trong khi quân ta di chuyển trên đường trải dài ra mấy cây số với 2 cây đại bác 105 mm và đoàn quân xa tiếp vận (Xăng, dầu cho chiến xa, đạn dược, thực phẩm, nước uống...) Hai khẩu đại bác và đoàn quân xa hoàn toàn bị phá huỷ, địch đã làm chủ và thanh toán chiến trường trong đêm tối. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 21BĐQ với Đại đội 3 và 4 còn lại lùi dần về phía sau 1 Km và phòng thủ qua đêm tại một Ấp Chiến Lược của ta đã bỏ hoang từ trước. Tại cánh A, địch và ta đánh trộn trấu, không thể phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, súng cá nhân và lựu đạn gần như không sử dụng được vì dễ bắn lầm bạn, làm lộ vị trí, nên chỉ rờ quân phục của nhau và xử dụng lưỡi lê đánh cận chiến trong đêm tối...

Cho đến lúc gần sáng, bộ phận còn sống sót của 3 tiểu đoàn 344, 635, và 966 của Trung đoàn 32 CSBV đã rời bỏ chiến trường, kéo rút về căn cứ đóng tại rặng núi Chu Prong, sát gần biên giới Cam Pu Chia. Một số bị thương nặng đã đựơc khiêng, vác đến một bệnh viện dã chiến, với một vài nhà thấp làm bằng cây rừng và rơm rạ sơ sài chỉ cách trại LLĐB Plei Me khoảng 15 Km theo đường chim bay về hướng Tây Nam. Bệnh viện dã chiến này, sau đó đã bị sư đoàn Không Kỵ 1 st CAV Hoa kỳ tình cờ tìm ra và phá hủy, khi họ dò theo những đám tàn quân rải rác, theo đường rút lui thấy từ trên phi cơ. Đến sáng ngày 25-10-1965, sau khi đã thu dọn chiến trường và tải thương, Tiểu đoàn 21 BĐQ và lực lượng Thiết giáp, Thiết vận xa đã tiếp tục tiến về hướng trại Plei Me, giải tỏa xung quanh, chấm dứt sự vây hãm "Công đồn" của quân CSBV Giai đọan I kể như thành công và chấm dứt. Trên lộ trình rút quân trở lại Plei Ku, chúng tôi được một đơn vị nhỏ của TQLC bảo vệ an ninh trục lộ. Một kỷ niệm nhỏ khác là trong máy truyền tin PRC 10 của tôi có tiếng nói lanh lảnh, sắc bén, chanh chua, đanh đá của một cô gái Bắc Kỳ thuộc Mặt trận B3 (Mật khu, Bộ chỉ huy) kêu ra rả: " ơn Tây gọi Đồng Đăng, trả lời". Danh hiệu truyền tin toàn những địa danh miền Bắc. Nghe mãi điếc cả con ráy. Máu tiếu lâm của tôi lại nổi lên, hơn nữa cũng muốn cô ta ra khỏi tần số nội bộ của tôi, bèn nói với cô: "Đồng Đăng nó chết đã lâu rồi, thôi đừng gọi hắn nữa, nghe hoài .., khổ lắm..., nói mãi..." Tôi nghĩ cô ta nghe như vậy cũng phải phì cười, nhưng lệnh là lệnh, cô ta vẫn kêu ra rả như chim cuốc kêu mùa hè. Tài liệu bắt được của địch, khai thác tù binh và sau khi chiến tranh VN chấm dứt, Trung Tá Harold Moore đã đi gặp Tướng Võ Nguyên Giáp, Chu Huy Mân và Nguyễn Hữu An để thâu thập tài liệu trận chiến để viết cuốn hồi ký "We were soldiers once,... and young" được biết Trung đoàn 33 bị tổn thất 40 % , trong đó có 2 trong 3 Tiểu đoàn trưởng bị tử thương. Một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 bao vây căn cứ Plei Me chỉ còn lại khoảng một Đại đội. Tất cả 18 khẩu vũ khí phòng không 12.7 mm và 11 khẩu súng cối của tiểu đoàn súng nặng đều bị hủy diệt. Riêng Trung đoàn 32 bị thiệt hại nặng nề khi giao tranh với Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 7, thuộc Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ trong giai đọan II của chiến dịch và sau đó đụng độ với Nhảy dù VN dưới quyền chỉ huy của Trung tá Ngô Quang Trưởng, và Thiếu tá cố vấn Norman Schwarzkoff. Trung đoàn 32 đã bị thiệt hại nặng nề và tháo chạy qua biên giới Cam Pu Chia,

PHẦN KẾT:

Mặc dù quân số của địch đông hơn, chủ động trong trận Đả viện, ưu thế về vũ khí tối tân hơn, địa thế thuận lợi để phục kích đoàn xe, nhưng quân ta vẫn hoàn thành nhiệm vụ là giải vây cho tiền đồn Plei Me, bẻ gãy kế hoạch cắt đôi Cao nguyên của kẻ địch.

Do cuốn sách và phim ảnh " We were soldiers ...and young " của Tướng Horold Moore về trận chiến ở thung lũng Ia Drang của Tiểu đòan 1, Lữ đoàn 7 thuộc Sư đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và một số tài liệu viết rất mơ hồ và quá tổng quát về trận đánh Công Đồn Đả Viện Plei Me giữa QLVNCH và lực lượng CSBV mới xâm nhập. Rút tỉa kinh nghiệm chiến trường trong năm 1965, ta có thể suy đoán được mục tiêu chiến lược của CSBV là cắt đôi Miền Nam ra làm hai, tạo sự khủng hoảng, rối loạn. Để đạt mục tiêu trên, CSBV đã áp dụng chiến thuật chủ yếu "Công Đồn - Đả Viện" để tiêu diệt hoặc gây thiệt hại nặng cho lực lượng xung kích, tổng trừ bị như Nhảy dù, TQLC và BĐQ của ta, giống như đánh rắn phải đập khúc đầu trước, còn phần thân và đuôi sẽ tự động tan rã. 39 năm sau trận chiến Plei Me mà tôi đã được tham dự và 29 năm sau tháng Tư đen, thực tâm tôi muốn quên đi những di lụy đau buồn của cuộc chiến ủy nhiệm và vì " Nhất Tướng công thành vạn cốt khô". Nhưng người em trai của tôi cứ thúc dục để xác minh những thiếu sót và để các thế hệ sau hiểu rõ thêm một khía cạnh của cuộc chiến "Huynh Đệ tương tàn" , nên tôi xin phép được góp vài lời sơ, ý thiển vậy.

Trần Quốc Cảnh Trần Đức Hợp
(phối hợp)

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Lược sử trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức
Hà Mai Việt biên soạn
Lời nói đầu

Trong hoàn cảnh hiện tại, phải thành thật mà nói, ít ai có đủ tài liệu tham khảo để có thể hoàn thành một bài viết về lịch sử của một quân trường hay một đơn vị trong Quân Lực VNCH một cách đầy đủ và chính xác.

Bởi vậy cho nên ngoài việc phỏng vấn các cựu sinh viên sĩ quan trừ bị (SQTB) mà tôi có dịp gặp để đối chiếu và sưu tầm tin tức, tôi đã góp nhặt được một số tài liệu tương đối có căn bản, liên quan tới những nét chính của quân đội quốc gia Việt Nam, để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về việc đào tạo cán bộ chỉ huy mà điển hình là việc đào tạo sinh viên sĩ quan trừ bị, từ khóa 1 đến khóa 5, là khóa chót của giai đoạn này.

Ngoài ra để người đọc có thể biết qua về hoàn cảnh và sinh hoạt của quân trường sau khi quân đội viễn chinh Pháp bàn giao lại cho quân đội quốc gia VN, tôi cũng ghi chép vài nét đại cương về những khóa kế tiếp, từ khóa 6 đến khóa 3/1974, để các cựu SVSQTB có dịp bổ khuyết hay viết thêm cho đầy đủ hơn, hầu góp phần vào pho quân sử QLVNCH.


Biến cố sau Ðệ Nhị Thế Chiến

Vào lúc 21 giờ đêm ngày 9 tháng 3, 1945, tại Việt Nam, đặc sứ Nhật Bản Matsumoto, đã thực hiện cuộc đảo chính loại quân Pháp khỏi Việt Nam. Quân Pháp tuy có kháng cự nhưng cuối cùng cũng phải đầu hàng. Ông Decoux, toàn quyền Pháp tại Ðông Dương, bị bắt. Sáng hôm sau, ngày 10 tháng 3, 1945, Ðại Sứ Yokohama đã đến điện Kiến Trung yết kiến vua Bảo Ðại và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Nhưng biến cố này trên thực tế chỉ là một cuộc “đổi chủ” giữa thực dân Pháp và phát xít Nhật mà thôi.

Hai ngày sau khi Nhật đầu hàng (17 tháng 8, 1945), Tướng de Gaule đề cử Thủy Sư Ðô Ðốc Thierry d'Argenlieu làm cao ủy Ðông Dương và Tướng Leclerc giữ chức tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp. Nhiệm vụ của hai ông là tái lập chủ quyền của Pháp trên toàn lãnh thổ Ðông Dương gồm Việt, Miên và Lào.

Với sự giúp đỡ của quân đội Anh, ngày 11 tháng 9, 1945, 300 quân nhân Pháp được đổ bộ xuống phi trường Tân Sơn Nhứt lập đầu cầu. Sáu tháng sau, Pháp đã kiểm soát tổng quát được phần đất ở Nam vĩ tuyến thứ 16. Ðầu tháng 3, 1946, Tướng Leclerc cho quân đổ bộ lên Hải Phòng và chuyển quân về Hà Nội sau khi ông Sainteny ký hiệp định sơ bộ với hai ông Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh.

Trong vòng 9 tháng, kể từ tháng 10, 1945 đến tháng 6, 1946, đoàn quân viễn chinh Pháp đã lấy lại ưu thế tại Ðông Dương. Vấn đề an ninh và chủ quyền của Pháp đã được tái lập trên những vùng của dân tộc thiểu số. Pháp đã kiểm soát được những địa điểm trọng yếu như Ðà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Nam Ðịnh, Phủ Lạng Thương, Hòn Gay, Cẩm Phả, Lạng Sơn, Cảng Vallut và đảo Cô Tô tại vịnh Hạ Long. Nhưng tất cả các đồn binh tại những nơi này hầu như bị cầm tù, không thể ra ngoài được.

Mối giao hảo Việt-Pháp ngày càng rạn nứt bởi các phong trào chống thực dân Pháp, vụ quân Việt Minh tấn công đoàn xe của Pháp chạy ngang qua Bắc Ninh để tới Phủ Lạng Thương, nhất là sau vụ nổ súng giữa các đơn vị Pháp và Việt tại hải cảng Hải Phòng vào ngày 20 tháng 10, 1946, khiến Pháp đã chiếm trọn Hải Phòng. Do đó, tình hình trên toàn cõi Bắc Việt mỗi ngày một trở nên căng thẳng và cuộc chiến tranh toàn quốc giữa Việt Minh và quân đội viễn chinh Pháp bùng nổ vào ngày 19 tháng 12, 1946.

Sau khi các cuộc điều đình với Việt Minh tại hội nghị Dalat vào ngày 17 tháng 4, 1946 và hội nghị Fontainebleau vào ngày 6 tháng 7, 1946 bị bế tắc, Pháp bèn quay sang giải pháp tiếp xúc với cựu hoàng Bảo Ðại tại Hồng Kông. Kết quả là Cựu hoàng chấp nhận thương thuyết với Pháp. Do đó, hiệp định Hạ Long đã được ký vào ngày 5 tháng 6, 1948 giữa Bollaert và cựu Hoàng trên tàu Duguay Trouin. Trong bản hiệp định này, Pháp công nhận Việt Nam là một nước độc lập và Pháp để Việt Nam tự do thực hiện lấy sự thống nhất của mình, nhưng ngược lại, Việt Nam tuyên bố gia nhập Liên Hiệp Pháp.

Tuy nhiên, Hiệp Ðịnh Hạ Long chỉ là bước đầu để tiến tới một thỏa hiệp chính thức với chính phủ Pháp. Và mãi đến ngày 8 tháng 3, 1949, Hiệp Ðịnh Elysée mới được ký kết giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Ðại. Nhờ có hiệp định này, “Quân đội Quốc gia Việt Nam” mới được chính thức bắt đầu thành lập.

Mặc dầu thỏa ước Elysée ký kết vào ngày 8 tháng 3, 1949, nhưng mãi tới ngày 1 tháng 5, 1950, Quốc Hội Pháp mới chấp thuận cho Việt Nam được thành lập quân đội theo đề nghị của thủ tướng Pháp. Cũng trong ngày này, tại Việt Nam, Thủ Tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập quân đội quốc gia chống Cộng gồm 60,000 người, một nửa là chính quy và một nửa là phụ lực quân.


Diễn tiến đào tạo sĩ quan cán bộ

Do sáng kiến của Tổng Trấn Trung phần Phan Văn Giáo, hàm trung tướng, trường Sĩ quan Hiện Dịch đầu tiên được chính thức thành lập tại Huế vào ngày 1 tháng 12, 1948 để rèn luyện các cấp chỉ huy cho quân đội của ông. Nhưng người Pháp không đồng ý như vậy, họ muốn trường này cũng đào tạo sĩ quan trung đội trưởng và huấn luyện viên cho cả quân đội quốc gia Việt Nam, cũng nhờ vậy mà sau này quân đội quốc gia có trên 100 sĩ quan xuất thân từ trường Sĩ Quan Huế, trong đó có Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Ðệ Nhị Cộng Hòa và Trung Tướng Ðặng Văn Quang, cố vấn của Tổng Thống Thiệu.

Gần hai năm sau, ngày 15 tháng 9, 1950, các trường Võ Bị địa phương Nam Ðịnh (Bắc Việt), Huế (Trung Việt) và Trung Chánh (Nam Việt) được thành lập để đào tạo cán bộ cho các đơn vị bộ binh thuộc mỗi miền.

Khi trường hạ sĩ quan ra đời tại Huế, Quốc Trưởng Bảo Ðại có ý kiến chuyển trường Sĩ Quan Huế về Ðà Lạt và cải danh trường này thành trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt. Ngày 1 tháng 10, 1950, trường tiếp tục huấn luyện khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Ðà Lạt nhằm đào tạo sĩ quan trung đội trưởng. Ðây là khóa sĩ quan tình nguyện đầu tiên được huấn luyện tại Ðà Lạt, thời gian thụ huấn là 6 tháng.

Song song với trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức cũng bắt đầu hình thành vào ngày 1 tháng 10, 1950. Nhưng vì dự án xây cất trường ốc trên đồi Tăng Nhơn Phú chưa hoàn tất nên khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị đã được khai giảng vào ngày 1 tháng 10, 1951 tại hai địa điểm ở Bắc và Nam Việt, đó là Nam Ðịnh và Thủ Ðức.

Mãi đến ngày 5 tháng 5, 1951, Bộ Quốc Phòng mới thật sự được thành lập bằng những cơ cấu tiên khởi đã được phác họa và tạm sắp xếp từ thời chính phủ Trung ương Lâm thời Nguyễn Văn Xuân.

Vào tháng 7, 1951, guồng máy chiến tranh chuyển động mạnh và lan rộng khắp mọi nơi. Ðể đối phó với tình trạng khẩn trương này, quốc trưởng Bảo Ðại ký dụ số 12 ngày 15 tháng 7, 1951 ban hành Lệnh Ðộng Viên (Service militaire obligatoire).

Việc động viên thành phần sĩ quan nhắm vào tư nhân, công tư chức, học sinh, sinh viên có bằng cấp văn hóa từ trung học đệ nhất cấp hoặc tương đương trở lên. Trong đợt động viên đầu tiên, vào năm 1951, có nhiều sinh viên sĩ quan đã đậu bằng tú tài hay cử nhân, đặc biệt tại trường Sĩ Quan Nam Ðịnh có 197 SVSQ (55.33%) trong số 356 SVSQ có bằng tú tài trở lên, riêng SVSQ Nguyễn Phú Ðức đã có bằng tiến sĩ luật khoa.

Khóa sĩ quan trừ bị đầu tiên đã được tổ chức tại Thủ Ðức và Nam Ðịnh vào tháng 10, 1951. Chương trình huấn luyện sĩ quan trừ bị cũng tương tự như chương trình đào tạo các sĩ quan hiện dịch. Thời gian huấn luyện dài khoảng 6 tháng, không kể thời gian thực tập.Vấn đề động viên sĩ quan lúc đầu cũng gặp một vài trở ngại như tại Nam Ðịnh có một số khóa sinh, sau khi hết phép vào dịp Tết Nguyên Ðán, đã trở về đơn vị trễ hay bỏ học, không trở lại trường. Vì vậy cho nên có một số SVSQ trong trường hợp nói trên đã bị bắt giữ, nhưng sau lại được thả ra và đưa vào Thủ Ðức tiếp tục học khóa 1 hay được phép thi vào trường Võ Bị Ðà Lạt. Tại Thủ Ðức, trong thời gian khai giảng khóa 2, có một số SVSQ tuyệt thực nhưng đã được ban giám đốc giải quyết êm đẹp.

Ðể có đủ quân số khẩn thành lập các đơn vị khinh quân thay thế quân Pháp rút khỏi các đồn bót, lệnh tổng động viên đã được ban hành vào ngày 1 tháng 4, 1953. Theo kế hoạch dự trù thì việc động viên được chia làm 4 đợt, mỗi đợt 10,000 người trong tháng, kể từ tháng 7, 1953. Các thành phần trước đây đã phục vụ trong quân ngũ, nay cũng bị tái ngũ. Ngoài ra, 60,000 thanh niên Việt Nam cũng được lệnh nhập ngũ để thụ huấn hai tháng về căn bản quân sự, sau khi mãn khóa, họ được trở về với gia đình để chờ lệnh. Sự thực thì vấn đề động viên binh sĩ lúc bấy giờ chỉ là một nhu cầu chính trị. Tính đến cuối năm 1953, quân đội quốc gia gồm có 198,000 người, trong đó 151,000 (76.27%) là chính quy và 47,000 (23.73%) là phụ lực quân.

Nhằm tăng cường cho biện pháp động viên, ngày 12 tháng 4, 1954, Thủ Tướng Bửu Lộc đã quyết định động viên tập thể mọi thanh niên sinh từ 1 tháng 1, 1929 đến 31 tháng 12, 1933. Hầu hết số người trong hạng tuổi này, khoảng 1,250 người đủ điều kiện học vấn, đã trình diện các bộ tư lệnh quân khu để theo học khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị khai giảng vào ngày 15 tháng 6, 1954 tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Vì trường Thủ Ðức không đủ chỗ nên số sinh viên thặng dư, khoảng 250 người, được gửi lên học tại Ðà Lạt, nhưng vẫn giữ nguyên tình trạng trừ bị. Ðến ngày mãn khóa, các sĩ quan tốt nghiệp ở Ðà Lạt lại trở về Thủ Ðức để dự lễ tuyên thệ cùng với các bạn đồng khóa tại Sài Gòn.

Ngày 12 tháng 8, 1954, dụ số 12 ký ngày 15 tháng 7, 1951 và các nghị định liên quan đến dụ trên đều tạm đình chỉ cho đến khi có lệnh mới. Lệnh động viên được tạm ngưng nhưng các quân nhân trừ bị vẫn được lưu giữ.


Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức

Theo kế hoạch huấn luyện của Bộ Quốc Phòng thì trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức (Ecole d'Officiers de Reserve) được thành lập để đào tạo sĩ quan trừ bị (SQTB) hầu kịp thời cung ứng cấp chỉ huy cho quân đội quốc gia trong thời gian có chiến tranh. Sinh viên Sĩ quan là những người đến hạn tuổi luật định, hội đủ điều kiện sức khỏe và có học vấn, từ bằng trung học trở lên, được động viên tập thể. Sau khi tốt nghiệp, tân sĩ quan có đủ khả năng để chỉ huy một trung đội bộ binh hay một đơn vị tương đương thuộc binh chủng hay binh sở chuyên môn mà họ đã được chọn lựa.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1951 đến tháng 1 năm 1955, dưới sự bảo trợ của Quân đội Viễn chinh Pháp tại Ðông Dương, sau hơn 3 năm, quân đội Quốc gia Việt Nam đã đào tạo được 6 khóa sĩ quan trừ bị: 5 khóa chính và 1 khóa phụ. Khi ra trường các tân sĩ quan được mang cấp bậc thiếu úy trừ bị (TB).

Tổng số sĩ quan tốt nghiệp, trong giai đoạn nói trên, khoảng hơn 5,000 người. Các tân thiếu úy ngay sau khi ra trường phần lớn được lần lượt bổ nhiệm về các đơn vị tác chiến để thay thế sĩ quan người Pháp đang chỉ huy những đơn vị được thành lập sau khi Pháp trở lại Việt Nam hay bổ sung cho các đơn vị tân lập của quân đội quốc gia Việt Nam. Những sĩ quan này là cán bộ nòng cốt của Quân đội Quốc gia VN thời bấy giờ, cũng như của quân lực Việt Nam Cộng Hòa sau này. Ðiển hình là một số lớn sĩ quan cấp tướng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo hay chỉ huy các đại đơn vị trong thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa đều xuất thân từ các khóa sĩ quan trừ bị trong đợt đầu. Theo Niên giám Sĩ quan Chủ lực quân VNCH, tính đến ngày 31 tháng 1, 1971, tổng số tướng lãnh của quân lực là 63 người, trong đó có: 14 vị xuất thân trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức và Nam Ðịnh, thuộc các khóa 1, 2, 3 và 4, đạt tỷ lệ 22%. 18 vị xuất thân trường Võ bị Quốc gia, đạt tỷ lệ 28%. Số 50% còn lại xuất thân từ các quân trường khác như trường Sĩ Quan Huế (10), Sĩ Quan Tông (3), Sĩ Quan Nước Ngọt (2), Võ Bị Vũng Tàu (2), Võ Bị Ðịa phương Phú Bài (1), Sĩ Quan Hải Quân (3),...


Thời gian huấn luyện SQTB

Thời gian huấn luyện tại quân trường cho mỗi khóa học trung bình từ 6 đến 9 tháng tùy theo tình hình chiến sự. Chương trình huấn luyện được chia làm hai giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: huấn luyện phần căn bản quân sự, bộ binh thuần túy, từ cá nhân đến cấp tiểu đội. Thời gian là 8 tuần lễ dành cho các khóa dài 6 tháng, và 9 hay 10 tuần cho các khóa dài 9 tháng.

Giai đoạn 2: huấn luyện về Bộ binh đến cấp trung đội dành cho sinh viên sĩ quan học về Bộ binh hay các ngành chuyên môn dành cho SVSQ được tuyển chọn vào các binh chủng khác như thiết giáp, pháo binh, công binh, truyền tin,...

Trước năm 1955, sau khi tốt nghiệp tại Thủ Ðức, tân sĩ quan được gửi đi học bổ túc tại các quân trường chuyên môn của Liên Hiệp Pháp. Riêng các tân sĩ quan thuần túy bộ binh sau khi tốt nghiệp được phân phối thẳng về những đơn vị đang thiếu hụt quân số.

Dưới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, trước hay sau ngày mãn khóa, các tân sĩ quan còn được thực tập trong vòng một hoặc hai tháng tại vùng lân cận thủ đô Sài Gòn hay các vùng xôi đậu. Ðiển hình là Khóa 23 SQTB Thủ Ðức thực tập bình định với khóa Biệt Chính, cũng như khóa 1/72 Sĩ Quan Nha Trang, trước ngày mãn khóa, cũng công tác tại Qui Nhơn gần 2 tháng.

Sau cuộc tổng công kích của Cộng Sản Bắc Việt vào dịp Tết Mậu Thân, năm 1968, sắc lệnh tổng động viên ra đời, thanh niên tuổi từ 18 đến 43, có bằng tú tài 1 trở lên đều phải nhập ngũ. Ðể có đủ cán bộ chỉ huy các đơn vị tân lập theo kế hoạch bành trướng quân lực và nhất là để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của chiến trường, kể từ khóa 1/68, chương trình huấn luyện, địa điểm và thời gian học tập cũng được sửa đổi cho phù hợp với tình hình.

Theo thông lệ, trường Bộ Binh Thủ Ðức hàng năm đào tạo trung bình từ 2 đến 4 khóa sĩ quan trừ bị tùy theo nhu cầu. Nhưng vào đầu năm 1968, sau biến cố Tết Mậu Thân, vì nhu cầu quốc phòng vượt quá khả năng huấn luyện của trường Bộ binh Thủ Ðức nên trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế, Nha Trang đã phải gánh vác thêm việc huấn luyện sĩ quan trừ bị. Mở đầu cho giai đoạn này trường Ðồng Ðế tiếp nhận khóa 1/68 và 2/68. Ðây là hai khóa sĩ quan trừ bị đầu tiên được huấn luyện tại Nha Trang. Thời gian huấn luyện được rút xuống còn 6 tháng thay vì 9 tháng.

Kể từ tháng 1, 1968 đến tháng 12 năm 1972, tất cả sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại trường Bộ binh Thủ Ðức hay trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế, Nha Trang. Sau khi trình diện trung tâm tuyển mộ và nhập ngũ địa phương, các SVSQ TB được đưa thẳng đến trung tâm huấn luyện Quang Trung để theo học khóa Dự bị Sĩ quan, thời gian thụ huấn là 9 tuần lễ. Khóa sinh tốt nghiệp được phân phối về một trong hai trường Thủ Ðức hay Nha Trang để tiếp tục học giai đoạn 2 trong vòng 3 tháng rưỡi.


Các Khóa SQTB do quân đội Pháp đảm trách

Khóa 1 Lê Văn Duyệt (Thủ Ðức) và Lê Lợi (Nam Ðịnh):

Ðể đáp ứng nhu cầu cán bộ chỉ huy các đơn vị tân lập cho kế hoạch bình định lãnh thổ và để thay thế các sĩ quan Pháp hiện đang chỉ huy đơn vị Việt Nam, trường Sĩ quan Trừ bị (SQTB) được thành lập vào khoảng đầu năm 1951 và khởi sự huấn luyện từ tháng 10, 1951.

Trong giai đoạn đầu, vì lý do cơ sở chưa sẵn sàng nên khóa 1 SQTB được tổ chức huấn luyện tại hai địa điểm khác nhau. Trường SQTB Thủ Ðức huấn luyện SVSQ trình diện nhập ngũ thuộc các tỉnh từ Huế trở vào Nam. Trường SQTB Nam Ðịnh huấn luyện SVSQ thuộc các tỉnh từ Quảng Trị ra Bắc. Tại Thủ Ðức, trường tạm dựng những dẫy nhà mái lá, vách phên tre làm chỗ cho sinh viên sĩ quan tạm trú. Tại Nam Ðịnh, trường Sĩ quan Trừ bị sử dụng một số phòng ốc trong Camp Carreau làm nơi huấn luyện. Camp Carreau là một căn cứ quân sự của bộ chỉ huy Quân đội Viễn chinh Pháp tại miền Nam, nằm trong khuôn viên nhà máy sợi Nam Ðịnh. Nơi này sau được bàn giao lại cho trường Võ bị Nam Ðịnh vào khoảng cuối năm 1952.

Khóa 1 SQTB khai giảng vào ngày 16 tháng 10, 1951. Tại Nam Ðịnh, sĩ số là 356 SVSQ, mãn khóa vào ngày 1 tháng 6, 1952, được đặt tên là Khóa Lê Lợi. Tại Thủ Ðức, sĩ số khoảng 250 SVSQ, mãn khóa vào ngày 31 tháng 5, 1952, được đặt tên là khóa Lê Văn Duyệt.Vào tháng 1 1952, khi khóa học bước sang giai đoạn 2, trường SQTB Thủ Ðức hình thành một đại đội SVSQ Kỹ thuật gồm các trung đội công binh, truyền tin và pháo binh. Các SVSQ thuộc đại đội này là những người trong số hơn 600 SVSQ Nam Ðịnh và Thủ Ðức được tuyển chọn trên căn bản học lực.

Tổng cộng cả hai khóa Lê Lợi và Lê Văn Duyệt có 580 tân sĩ quan gồm 495 thiếu úy và 85 chuẩn úy. Thủ khoa khóa Lê Lợi là Thiếu úy Nguyễn Duy Hinh và thủ khoa khóa Lê Văn Duyệt là Thiếu úy Phạm Kim Quy. Cấp hiệu thiếu úy, dập theo cấp bậc của quân đội Pháp, là một gạch vàng hay trắng bằng kim tuyến, nằm trên hai cầu vai. “Lon” mầu trắng dành cho các sĩ quan thuộc binh chủng thiết giáp, quân cụ và thông vận binh. Cấp hiệu mầu vàng dành cho bộ binh và các binh chủng khác.

Tính đến đầu năm 1971, các sĩ quan tốt nghiệp Khóa 1 đã nắm giữ những chức vụ quan trọng gồm có các tướng Lê Nguyên Khang, Nguyễn Bảo Trị, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chấn, Nguyễn Duy Hinh tốt nghiệp tại Nam Ðịnh và các tướng Nguyễn Ðức Thắng, Ðồng Văn Khuyên, Nguyễn Ngọc Loan, Trần Văn Minh, Võ Xuân Lành, Phan Ðình Soạn, tốt nghiệp tại Thủ Ðức. Ðến cuối năm 1972 và sau này, quân lực lại có thêm các chuẩn tướng Phạm hữu Nhơn, Ðặng Ðình Linh, Ðặng Cao Thăng, Nguyễn Văn Lượng, Nguyễn Hữu Tần, Nguyễn Ðức Khánh và Vũ Ðức Nhuận từ trường Nam Ðịnh và các chuẩn tướng Nguyễn Khắc Bình, Phạm Ngọc Sang, Phan Phụng Tiên và Huỳnh Bá Tính từ trường Thủ Ðức.

Trong suốt cuộc chiến, quân lực VNCH có 23 tướng lãnh xuất thân từ khóa 1 Thủ Ðức và Nam Ðịnh, nhưng đặc biệt nhất là thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, người đã giữ những chức vụ quan trọng như Tư lệnh Không quân VN, Chủ tịch ủy ban Hành pháp Trung ương và Phó Tổng thống VNCH.

Khóa 2 Phụng Sự khai giảng vào ngày 1 tháng 10, 1952 và mãn khóa vào ngày 1 tháng 4, 1953. Thời gian huấn luyện là 6 tháng. Khóa này có khoảng 300 sinh viên sĩ quan, tổ chức thành 14 trung đội thuộc 5 đại đội. Lễ mãn khóa được tổ chức tại Sài gòn, thủ khoa khóa 2 Phụng sự là Thiếu úy Nguyễn Thành Huê.

Kể từ khóa 1 SQTB, tại Thủ Ðức ngoài việc đào tạo các sĩ quan Bộ binh, còn có các lớp giảng dạy về ngành chuyên môn như Pháo binh, Công binh, Truyền tin. Kể từ khóa 2 trở về sau lại có thêm các lớp Thiết giáp, Sĩ quan Tình báo và Quân cụ.

Ðặc biệt Chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiện, tư lệnh Biệt khu Quảng Ðà, nguyên chỉ huy trưởng Thiết giáp binh thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, là vị tướng độc nhất của khóa 2 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức được vinh thăng lên hàng tướng lãnh, nhưng ông được ghi nhận mất tích trong chuyến bay quân sự từ Ðà Nẵng vào Sài Gòn để Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân gắn lon chuẩn tướng cho ông tại dinh Ðộc Lập.

Khóa 3 Ðống Ða khai giảng vào tháng 5 và mãn khóa vào tháng 12, 1953. Tổng số sinh viên sĩ quan thụ huấn là 700 người. Khóa 3 SQTB có hai sĩ quan được vinh thăng lên hàng tướng lãnh, đó là các tướng Nguyễn Khoa Nam và Huỳnh Văn Lạc. Trong chức vụ tư lệnh Quân đoàn 4/Quân khu IV, vào sáng ngày 1 tháng 5, 1975, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết, không chịu đầu hàng, sau khi nhận thấy tình thế đi đến chỗ tuyệt vọng.

Khóa 4 Cương Quyết gồm 1,400 sinh viên sĩ quan, khai giảng tại Thủ Ðức vào tháng 11, 1953 và mãn khóa vào ngày 2 tháng 6, 1954. Thời gian huấn luyện là 6 tháng. Ðặc biệt trong khóa này, sang giai đoạn 2, ngoài việc huấn luyện các ngành chuyên môn như quân cụ, truyền tin, pháo binh, thiết giáp, công binh, thông vận binh, nhà trường còn huấn luyện thêm một trung đội Nhảy Dù. Khóa 4 là khóa đã đào tạo nhiều tướng trẻ nổi danh trong đầu thập niên 70 như các tướng Ngô Quang Trưởng, Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Nguyễn Văn Ðiềm và Hồ Trung Hậu.

Tới cuối năm 1953, việc đào tạo sĩ quan cán bộ cho quân đội quốc gia Việt Nam có phần cấp bách nên trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức đang với khả năng thâu nhận trung bình là 500 khóa sinh cho mỗi khóa, đã phải tăng lên đến 1,000 người. Mặc dầu sĩ số thụ huấn đã tăng lên gấp đôi nhưng trên thực tế vẫn chưa thỏa mãn được nhu cầu động viên tập thể. Ðể tránh tình trạng ứ đọng, gây trở ngại cho kế hoạch động viên, kể từ khóa 4 SQTB, Bộ Tổng Tham Mưu quyết định gửi thặng số thanh niên đến tuổi động viên lên trường Võ Bị Ðà Lạt thụ huấn nhưng được áp dụng chương trình huấn luyện dành cho sĩ quan trừ bị. Sau khi tốt nghiệp các tân sĩ quan vẫn theo quy chế của sĩ quan trừ bị. Sau này, sĩ quan trừ bị muốn sang hiện dịch, các đương sự phải nạp đơn xin, chuyển theo hệ thống quân giai, để Bộ Tổng Tham Mưu quyết định.

Khóa 4 phụ Cương quyết có 850 SVSQ, chia làm hai toán, khai giảng vào ngày 25 tháng 3, 1954. Trường Thủ Ðức phụ trách huấn luyện 500 sinh viên, số 350 sinh viên còn lại được chuyển lên Ðà Lạt thụ huấn nhưng đến ngày mãn khóa, 1 tháng 10, 1954, người ta ghi nhận chỉ còn lại 160 thiếu úy và 99 chuẩn úy tốt nghiệp, gần 100 sinh viên khác không hội đủ điều kiện nên đã bị loại sau kỳ khảo hạch giai đoạn 1. Thủ khoa khóa 4 phụ tại Ðà Lạt là thiếu úy Ngô Văn Lợi. Thời gian huấn luyện dành cho khóa 4 phụ là 6 tháng nhưng khóa 4 phụ tại Thủ Ðức mãn khóa sau khóa 4 phụ Ðà Lạt đúng một tuần.

Vào những năm cuối cùng của cuộc chiến, 1974-1975, vì nhu cầu chỉ huy đại đơn vị, khóa 4 phụ có hai đại tá được thăng lên cấp chuẩn tướng đó là các tướng Trần Quốc Lịch, gốc Nhảy dù và Phạm Duy Tất, gốc Lực Lượng Ðặc Biệt, nguyên chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 2 Chiến thuật.

Khóa 5 Vì Dân: Trước khi Ðiện Biên Phủ thất thủ, hơn một ngàn thanh niên trên toàn quốc được động viên theo học khóa 5 SQTB. Khóa này khai giảng ngày 15 tháng 6, 1954 và mãn khóa vào ngày 30 tháng 1, 1955. Vì lý do khả năng tiếp nhận hạn hẹp nên trường Thủ Ðức chỉ giữ lại 1,000 người trình diện theo hạn định, lập thành 8 đại đội gồm: đại đội 1 và 2 Bộ binh, đại đội 3 Vũ khí nặng, đại đội 4 Công binh, đại đội 5 Pháo binh, đại đội 6 Thông vận binh, đại đội 7 Thiết giáp (3 trung đội) và Quân cụ (1 trung đội), đại đội 8 Quân nhu. Thặng số còn lại khoảng 265 người, lập thành 2 Ðại đội BB, được chuyển lên trường Võ bị Ðà Lạt để thụ huấn. Các tân sĩ quan thụ huấn tại Ðà Lạt, cũng tương tự như trường hợp của khóa 4, sau khi tốt nghiệp, vẫn giữ quy chế của sĩ quan trừ bị. Lễ mãn khóa được tổ chức tại đường Trần Hưng Ðạo, Sài Gòn vào đầu tháng 2 năm 1955 cho các tân sĩ quan thụ huấn tại Thủ Ðức và Ðà Lạt. Thủ tướng Ngô Ðình Diệm chủ tọa và long trọng đặt tên cho khóa này là khóa Vì Dân.

Cũng như khóa 2 Phụng Sự, khóa 5 Vì Dân chỉ có một trong số không quá mười đại tá thuộc khóa 5 Vì Dân được vinh thăng lên hàng tướng lãnh tính đến tháng 3, 1972, đó là Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chức vụ sau cùng của ông là tư lệnh phó Quân Ðoàn 4/Quân khu IV. Sau khi Ðại Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng vào lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, 1975, tướng Hưng là vị tướng đầu tiên tại Vùng 4 tuẫn tiết vào buổi tối cùng ngày, chứ không chịu để địch quân bắt sống.

Tính đến ngày 30 tháng 4, 1975, sau 21 năm chiến đấu chống Cộng Sản Bắc Việt, SVSQ Lê Văn Hưng là người độc nhất, trong số 1,265 sinh viên sĩ quan trừ bị nhập ngũ từ tháng 5, 1954, được thăng cấp chuẩn tướng. Từ khóa 5 trở về sau, người ta chưa thấy một sĩ quan trừ bị nào trong Quân Lực VNCH được thăng lên hàng tướng lãnh. Do đó người ta có nhận định rằng việc thăng lên cấp tướng thường không căn cứ vào khả năng quân sự, nhu cầu chỉ huy, hay qui chế sĩ quan cao cấp như thường được áp dụng trong quân đội các nước tân tiến mà chính là bởi quyết định của cá nhân vị lãnh đạo quốc gia và bởi ảnh hưởng chính trị. Do đó quân đội VNCH đã được đặt dưới quyền chỉ huy của nhiều tướng lãnh hèn nhát và thiếu tài đức.

Sau khi hoàn tất việc huấn luyện khóa 5 SQTB, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức tạm ngưng đào tạo sĩ quan trừ bị trong một thời gian khoảng 2 năm.Vào cuối năm 1955, các lớp huấn luyện chuyên môn như quân cụ, quân chánh, thông vận binh, thiết giáp binh, pháo binh, công binh, truyền tin,... lần lượt trở thành các trường chuyên môn, phụ trách huấn luyện cán bộ các cấp, từ hàng binh sĩ cho đến sĩ quan, thuộc binh sở hay binh chủng. Nhưng các trường hay lớp huấn luyện chuyên môn này vẫn được đặt dưới quyền kiểm soát của bộ chỉ huy trường Sĩ Quan Trừ Bị. Do đó, vào đầu năm 1957 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức được cải danh thành Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức gồm các quân trường nói trên. Riêng hai trường Pháo binh và Công binh tuy thống thuộc Liên trường nhưng trú đóng tại Bình Dương.

Kể từ tháng 2 năm 1957, các quân trường thuộc Liên trường VKTÐ bắt đầu hoạt động theo phương thức huấn luyện của Hoa Kỳ. Các cơ sở và thao trường cũng được tân trang hay xây cất thêm cho qui mô và rộng rãi hơn.


Các Khóa SQTB do Quân đội Quốc gia đảm trách

Khóa 6: Mãi đến tháng 2, 1957, Liên trường Võ khoa Thủ Ðức mới tiếp tục đào tạo SQTB, đây là khóa sĩ quan trừ bị đầu tiên kể từ ngày nước Việt Nam bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc tại vĩ tuyến thứ 17 bởi Hiệp Ðịnh Genève, do Pháp và Việt Minh cùng thỏa thuận ký kết vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Ðại úy Nguyễn Viết Thanh, sau này là thiếu tướng tư lệnh Quân Ðoàn IV, được chỉ định làm giám đốc “Trường Sĩ Quan Trừ bị” này. Tổng số sinh viên sĩ quan khóa 6 gồm khoảng 600 người kể cả 200 khóa sinh thuộc Bảo An đoàn. Ðặc biệt khóa này được huấn luyện trong thời gian 11 tháng để các tân sĩ quan có đủ khả năng chỉ huy một đơn vị cao hơn cấp trung đội khi cần. Kể từ khóa 6 SQTB, sinh viên sĩ quan sau khi tốt nghiệp được mang cấp bậc chuẩn úy thay vì thiếu úy như 5 khóa trước áp dụng quy chế của quân đội Pháp. Chuẩn úy Phạm Văn Vĩnh đậu thủ khoa khóa 6.

Sau khi khóa 6 ra trường, Khóa 7 được tiếp tục khai giảng vào tháng 3, 1958. Mỗi năm trường Bộ binh đào tạo trung bình từ 2 đến 4 khóa, đánh số theo thứ tự từ khóa 7 cho đến Khóa 27. Sau đó, kể từ đầu năm 1968, các khóa kế tiếp được thay đổi danh xưng bằng cách dùng số thứ tự kèm theo niên hiệu. Ví dụ khóa 1/68 thay vì khóa thứ 28.

Kể từ khóa 7 đến khóa 3/74, là khóa cuối cùng, chúng tôi chưa sưu tầm được đầy đủ tài liệu nói về danh xưng, sĩ số, thời gian và địa điểm huấn luyện, ngày khai giảng và mãn khóa, tên họ thủ khoa. Vậy nên chúng tôi xin để các hội hay tổng hội cựu SVSQTB sưu tầm, bổ khuyết, đúc kết và phổ biến sau. Trường hợp quý vị muốn chúng tôi điền khuyết trong bài, xin gửi tài liệu bổ túc về: HMV/SVSQTB, 10210 Kent Towne Ln, SugarLand, TX 77478.

Khóa 7: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 8: 1960, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, thủ khoa Bùi Ðức Lạc?

Khóa 9: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 10: Từ khóa 10, các khóa sinh có bằng THDNC phải qua một kỳ thi tuyển. Sĩ số khoảng trên 400 người kể cả 1 đại đội BA trên 100 người. Huỳnh Văn Bé, thủ khoa khóa Thành Tín. Thời gian, địa điểm HL, ngày khai giảng, mãn khóa không rõ?

Khóa 11: Sĩ số là 800 người kể cả 200 Bảo An, đa số khóa sinh BA là Hạ sĩ quan thâm niên. Khai giảng ngày 3 1 1961, mãn khóa ngày 22 12 1961. Thời gian huấn luyện là 11 tháng. Tên khóa: Ðồng tiến, thủ khoa: Trần Văn An. Hầu hết BA gia nhập lực lượng đặc biệt.

Khóa 12: Sĩ số là 2,000 người, kể cả hơn 300 Bảo An (8 đại đội x 4 trung đội) 50% phải qua một kỳ thi tuyển. Khai giảng vào tháng 9 1961, mãn khóa ngày 1 8 1962. Thời gian huấn luyện là 11 tháng. Thủ khoa là giáo sư Nguyễn Ngọc Linh. Ðại tá Võ Ân, trung đoàn trưởng trung đoàn 53 BB, trấn giữ phi trường Phụng Dực, tháng 3 1975, là cựu SV khóa 12 Thủ Ðức.


Trường Bộ Binh Thủ Ðức

Vào tháng 10 năm 1961, tất cả các quân trường chuyên môn như quân cụ, quân chính, truyền tin, quân vận, công binh, pháo binh,... được tách rời khỏi Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức và trực thuộc các binh sở và binh chủng liên hệ. Vì vậy mà Liên trường Võ khoa không còn hiện diện, đồng thời “Trường Sĩ Quan Trừ Bị” cũng được cải danh thành trường Bộ Binh. Ðến năm 1962, tại căn cứ huấn luyện Thủ Ðức chỉ còn lại trường Bộ Binh, trường Thiết giáp và trường Vũ thuật và Thể dục Quân sự. Ðặc biệt trường Bộ binh ngoài việc đảm nhiệm các khóa Sĩ quan Trừ bị trường còn phụ trách huấn luyện các lớp đại đội trưởng.

Tóm lại, trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức trên đồi Tăng Nhơn Phú hình thành từ năm 1950, đến năm 1957 trường này được biến cải và bành trướng thành Liên trường Võ khoa Thủ Ðức. Cuối năm 1961 trường lại thâu gọn thành trường Bộ binh Thủ Ðức.

Khóa 13: Khai giảng vào tháng 1 1962, mãn khóa vào tháng 11, 1962. Phải có bằng tú tài 1 trở lên. Các khóa sinh BA kể từ khóa này cũng phải qua nột kỳ thi tuyển. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 14: Khai giảng vào tháng 4 1962, mãn khóa vào tháng 1 1963. BA có một quy chế riêng. Chuẩn úy Trần Sách Ðắc đậu thủ khoa khóa 14. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, chưa rõ?

Khóa 15: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 16: 1963. Sau cách mạng 1 11 1963, BA đổi thành Ðịa phương quân. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 17: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 18: Khai giảng vào tháng 6 1964. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 19: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 20: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 20 Phụ: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên thủ khoa?

Khóa 21: Khai giảng tháng 10 1965, mãn khóa tháng 10 1966. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 22: Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 23: khai giảng vào tháng 9 1966, mãn khóa vào tháng 6 1967. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 24: khai giảng vào đầu năm 1967, mãn khóa vào tháng 9 1967. Thời gian huấn luyện là 9 tháng. SVSQ đa số là giáo chức, chuyên viên kỹ thuật. Tên khóa, sĩ số, địa điểm HL, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 25: Sĩ số khoảng 2,000 người, 10 đại đội gồm 5 trung đội 40 SV, cũng như các khóa 24 và 26, đa số là giáo chức bị động viên, khai giảng ngày 12 4 1967, thời gian thụ huấn khoảng 9 tháng rưỡi. TT Thiệu chủ tọa lễ mãn khóa ngày 5 1 1968, trước Tết Mậu Thân. Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm HL, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 26 khai giảng vào tháng (6?) 9, 1967, mãn khóa vào ngày 8 tháng 6, 1968. Sĩ số trên 2,000 người. Tên khóa, thời gian, địa điểm, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 27 khai giảng vào ngày 26 tháng 12 1967 và mãn khóa vào ngày 1 8 1968. Thời gian 7 tháng. Sĩ số khoảng hơn 1,000 người. Khóa 27 trưởng thành trong khói lửa, sau khi trải qua biến cố Tết Mậu Thân. Khóa 27 là khóa cuối cùng gọi tên khóa bằng số. Tên khóa, địa điểm, tên họ thủ khoa Châu Minh Ba (Trưởng ty Công Chánh Long Khánh - Chi tiết Thủ Khoa do KBCHN cung cấp)


Các Khóa SQTB lấy tên theo niên hiệu

Kể từ năm 1968, danh hiệu của các khóa Sĩ Quan Trừ Bị được đánh số thứ tự kèm niên hiệu. Năm 1968 có 8 khóa, sinh viên khóa 1 và 2/68 dựng trên đỉnh núi một tượng bằng ciment cao khoảng 30 feet, đứng nhìn xuống thao trường, họ đặt tên cho tượng này là anh Cù Lần.

Khóa 1/68 tại Nha Trang, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 2/68 tại Nha Trang, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 3/68 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 4/68 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 5/68 tại Thủ Ðức có 8 đai đội, sĩ số khoảng 1,500 người Mãn khóa tại Quang Trung ngày 28 tháng 7, 1968, giai đoạn 2 tại Thủ Ðức từ 8 tháng, 10 1968 đến 25 tháng 1, 1969. Thủ khoa là Chuẩn úy Nguyễn Ðình Mô. Tên khóa?

Khóa 6/68 Ðịa điểm, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 7/68 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 8/68 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 9/68 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Năm 1969 có 6 khóa:

Khóa 1/69 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 2/69 tại Nha Trang, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ, thủ khoa?

Khóa 3/69 tại Thủ Ðức gồm 5 đại đội, mỗi đại đội có 200 người, sĩ số là 1,000 SVSQ. Khóa này khai giảng vào tháng 3 và mãn khóa vào khoảng tháng 10, 1969. tên khóa, thời gian, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 4/69 tại Thủ Ðức, mãn khóa tháng 7, 1970. tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 5/69 tại Thủ Ðức, tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 6/69 tại Thủ Ðức, khai giảng tháng 7, 1970. tên khóa, sĩ số, thời gian, khai giảng, tên họ thủ khoa không rõ?

Năm 1970 có 6 khóa:

Khóa 1/70, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 2/70, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 3/70, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 4/70, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 5/70, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 6/70, Tên khóa, 1650 SVSQ, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Năm 1971 có 5 khóa:

Khóa 1/71, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 2/71, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 3/71, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 4/71 tại Thủ Ðức, khai giảng ngày 22 tháng 8, 1971 đến ngày 2 tháng 5, 1972, tổng cộng hơn 8 tháng. Có tên là Khóa Bình Long Anh Dũng, sĩ số, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 5/71, Tổng số khoảng 500 SVSQ, mà 1/5 thuộc thành phần giáo chức nhưng trước ngày mãn khóa có một số được trả về nhiệm sở cũ. thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, thủ khoa được bổ sung về ngành HCTC. Khóa này có tên là Kontum kiêu hùng.

Năm 1972 có 15 khóa,

Tất cả đều tham dự chiến dịch, chia làm nhiều toán khoảng 4, 5 người đi với Ðịa phương quân và nghĩa quân để tác động tinh thần và phổ biến hiệp định Paris. Thời gian học quân sự và chiến dịch khoảng một năm.

Khóa 1/72 tại Nha Trang, do đại tá Bùi Trạch Dần, Liên đoàn trưởng, phụ trách. Khai giảng... Lẽ ra mãn khóa ngày 8 tháng 12, 1972, nhưng vì Hiệp Ðịnh Paris nên mãi đến tháng 3, 1973 mới mãn khóa. Sĩ số khoảng 700 SVSQ, hầu hết là sinh viên kiến trúc nhập ngũ theo lệnh tổng động viên. Tên khóa, ngày khai giảng, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 2/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 3/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 4/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 5A/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 5B/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 6/72 Nha Trang (Thiếu tướng Võ Văn Cảnh chỉ huy trưởng trường Ðồng Ðế), sĩ số, thời gian, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 7/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 8/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 9A/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 9B/72, Nha Trang, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 9C/72, Thủ Ðức, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 10/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 11/72 tại Nha Trang, sĩ số 922 người. khai giảng 16 10 1972, mãn khóa 2 6 1973. thời gian, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 12/72, Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?


Năm 1973 có 8 khóa:

Khóa 1/73 tại Thủ Ðức, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 2/73 tại Thủ Ðức, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 3/73 tại Long Thành, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 4/73 Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 5/73 Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 6/73 Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Khóa 7/73 Rất đông sinh viên SQ có bằng cử nhân và cao học, một số lớn xin gia nhập ngành Quân Cảnh và Ðịa phương quân. Khóa học trên 11 tháng kể cả thời gian đi chiến dịch lấn đất, giành dân. Tên khóa, sĩ số, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 8/73 Tên khóa, sĩ số, thời gian, địa điểm, ngày khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa?

Image
Năm 1974 có 3 khóa:

Khóa 1/74 tại Long Thành, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 2/74 tại Long Thành, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Khóa 3/74 tại Long Thành, sĩ số, thời gian, khai giảng, mãn khóa, tên họ thủ khoa không rõ?

Vì nhu cầu bổ sung cán bộ, các sĩ quan trừ bị đã có nhiều cơ hội nắm giữ những chức vụ quan trọng tại hầu hết các bộ tham mưu và ngành chuyên môn trong quân đội. Bởi lẽ khối lượng sĩ quan trừ bị đông đảo hơn sĩ quan hiện dịch (gấp 17 lần trong năm 1973), hơn nữa vì cuộc chiến kéo dài triền miên nên những sĩ quan thuộc các khóa đầu đã phục vụ trong quân đội hầu như vĩnh viễn. Một số lớn sĩ quan trừ bị thâm niên đã xin chuyển sang hiện dịch để được hưởng quy chế dành cho sĩ quan hiện dịch, nhất là có nhiều quyền lợi sau khi được giải ngũ. Những sĩ quan này, nhờ có nhiều kinh nghiệm và khả năng cao nên đã nắm giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền.


Danh sách chỉ huy trưởng trường Võ Bị Thủ Ðức

Các sĩ quan cao cấp sau đây lần lượt chỉ huy trường Thủ Ðức trong 25 năm đầu (không chắc lắm)

Thiếu tá Bouillét, 1951-1953.
Ðại tá Phạm Văn Cảm,1953-1957
Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, 1957-1961
Thiếu tướng Hồ Văn Tố, 1961-1962
Ðại tá Nguyễn Văn Chuân, 1962?
Ðại tá Phan Ðình Thứ tự Lam Sơn, 1962-1963
Thiếu tướng Trần Ngọc Tám, 1963?
Thiếu tướng Bùi Hữu Nhơn 1964?
Thiếu tướng Trần Văn Trung, 1965-1967?
Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ, 1967-1969
Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần, 1969-1973
Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, 1973-1975
Ðại tá Trần Ðức Minh, Q. CHT, 3 1975


Thành quả của trường Sĩ Quan Trừ Bị

Nhân ngày Quân Lực 19 tháng 6, 1973, nói về thành tích quân trường, người ta ghi nhận như sau: Kể từ ngày thành lập trường Sĩ Quan Trừ Bị để cung ứng nhu cầu chỉ huy và lãnh đạo cho quân đội Quốc gia, trong thời gian chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, thì từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1973, gần một phần tư thế kỷ, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức đã hoàn tất được 69 khóa huấn luyện, đào tạo 75% sĩ quan cán bộ nòng cốt cho Quân lực VNCH. Tổng số sĩ quan trừ bị tốt nghiệp là 80,000 người so với 4,600 sĩ quan hiện dịch xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.

Ðặc biệt trong năm 1972 có 15 khóa SQTB thụ huấn tại Nha Trang và Thủ Ðức. Kể từ tháng 1 1968 đến tháng 12, 1973, trong việc tiếp sức trường Bộ Binh Thủ Ðức, riêng trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang đã đào tạo được 12,000 sĩ quan trừ bị. Như vậy tổng số sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại Thủ Ðức, Nam Ðịnh, Ðà Lạt và Nha Trang đã lên đến trên dưới 100,000 người.

Các sĩ quan trừ bị, mặc dầu trong hoàn cảnh động viên, đã phục vụ quốc gia rất đắc lực, không những trên phương diện quân sự mà ngay cả trong địa hạt hành chánh và lãnh đạo.

Ðiển hình là có rất nhiều sĩ quan gốc trừ bị đã từng giữ những chức vụ lãnh đạo quan trọng trong guồng máy quốc gia như phó tổng thống, thủ tướng, tổng trưởng, bộ trưởng, thứ trưởng, tổng giám đốc, giám đốc, tỉnh trưởng, thị trưởng, quận trưởng,... Về quân sự, có nhiều sĩ quan trừ bị đã được bổ nhiệm vào những chức vụ chỉ huy và tham mưu cao cấp như phụ tá tổng tham mưu trưởng, tham mưu trưởng liên quân, tham mưu trưởng quân đoàn, sư đoàn, quân, binh chủng, tư lệnh quân chủng, tư lệnh binh chủng, tư lệnh quân đoàn, tư lệnh sư đoàn, tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn trưởng, thiết đoàn trưởng, tổng cục trưởng, cục trưởng, trưởng phòng bộ tổng tham mưu, trưởng phòng bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, quân, binh chủng,...

Nói tóm lại, sĩ quan trừ bị là một nguồn nhân lực chỉ huy và lãnh đạo trọng yếu, giữ một vị thế quan trọng trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ chính nghĩa Quốc gia và kiến thiết xứ sở.

Trên thực tế, không ai phủ nhận rằng trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức là nơi quy tụ hầu hết các thanh niên có học thức yêu nước, là những cán bộ ưu tú của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng ít ai tin rằng:

Trong suốt cuộc chiến, trên chiến trường, đã có hàng chục ngàn sĩ quan trừ bị anh dũng gục ngã dưới lá quân kỳ để bảo vệ tự do và thanh bình cho quê hương, dân tộc.

Sau cuộc chiến, đã có hàng chục ngàn sĩ quan trừ bị chịu cảnh đọa đày trong các trại cải tạo ác nghiệt của Cộng Sản Bắc Việt cho đến khi họ kiệt sức hay phải bỏ mình nơi rừng thiêng, nước độc.

Từ ngày Hiệp Ðịnh Genève 1954 ra đời cho đến ngày 30 tháng 4, 1975, đã có hàng ngàn sĩ quan trừ bị tàn phế sống lay lắt, điêu đứng trong cảnh màn trời, chiếu đất, tối tăm, tủi nhục.


Ngày cuối cùng của trường Thủ Ðức trên đồi Tăng Nhơn Phú

Vào cuối năm 1973, trường Bộ Binh di chuyển về Long Thành, nhưng đến ngày 27 tháng 4, 1975 trường lại được lệnh di tản chiến thuật về Thủ Ðức để nghênh cản địch quân.

Một trong những nhân chứng có mặt tại đồi Tăng Nhơn Phú vào giờ chót của ngày cuối cùng, ông Minh Tân Lê Quảng Trị, đã tường thuật đại để như sau:

Vào lúc 08 giờ 15' sáng 30 tháng 4, 1975, từ xa lộ Biên Hòa, 4 chiến xa T 54 của CS Bắc Việt lồng lộn tiến nhanh về phía quân trường Thủ Ðức, nhưng ba trong bốn chiến xa nói trên đã bị bắn cháy ngay tại bờ rào kẽm gai bởi pháo binh 105 ly bố phòng trực xạ. Chiếc chiến xa T 54 còn lại vượt thoát chạy thẳng vào trung tâm trường Thủ Ðức, dùng đại liên 50 trên pháo tháp bắn xối xả vào lực lượng phòng thủ khiến trung tá Ông Văn Tuyên, trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên sĩ quan tử thương, Thiếu tá Vương Bá Thuần và 9 người khác bị thương. Sau đó chiếc chiến xa này chạy thẳng ra cổng số 1, tìm đường tẩu thoát nhưng đã bị các tổ sinh viên sĩ quan sử dụng súng phóng hỏa tiễn M72 bắn đứt xích. Khi chiến xa lết ra tới Niệm Phật đường Quảng Ðức, chợ Nhỏ, chúng quay pháo tháp vào trường, tiếp tục bắn phá.

Ðứng trước tình trạng nan giải này, hai tân khóa sinh, mỗi người tình nguyện mang 4 trái lựu đạn lân tinh, bò ra ngoài để tiêu diệt chiến xa địch. Trong lúc chiếc T 54 đang nhả đạn vào trường, hai khóa sinh nói trên đã leo lên chiến xa, thả lựu đạn lân tinh vào trong pháo tháp khiến chiến xa địch phát hỏa, đạn trong pháo tháp phát nổ tung trời. Chiến tích dũng cảm của hai tân khóa sinh không những đã làm mọi người phải ngưỡng phục mà còn nói lên cái khả năng chiến đấu siêu việt cũng như ý chí bất khuất và quyết thắng của


Sinh viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức

Nhưng vào lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Ðại Tướng Dương Văn Minh, tổng thống vài ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, đã ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Tất cả cán bộ cũng như sinh viên, khóa sinh, không ai bảo ai, đã lần lượt giã từ vũ khí, về với gia đình.

Sugarland, ngày 25 tháng 12, 2002

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

CHẾT ĐỂ LÀM GÌ.
Giao Chỉ San Jose.

Hồi ký Lê Ngọc Danh

Chết để làm gì ? Ai nói câu đó ? Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ai nghe được ? Trung úy tùy viên Lê Ngọc Danh. Ghi nhận ở đâu ? Trong tác phẩm Nguyễn Khoa Nam của gia tộc Nguyễn Khoa. Người nói như vậy có phải đang hoảng loạn tâm thần hay không ? Không hề. Lúc đó tướng quân Nguyễn Khoa Nam hết sức sáng suốt, bình tĩnh và dũng cảm. Nhắc lại Chết để làm gì như vậy có phải là sỉ nhục một danh tướng VNCH không ? Tầm bậy. Lê ngọc Danh viết lại với tấm lòng tôn kính ông thầy. Dòng họ Nguyễn Khoa in trong sách với niềm hãnh diện chia xẻ với toàn quân. Tôi viết lại nguyên văn vì chợt bắt được linh hồn của chữ nghĩa. Các bạn chê bai là chưa tỏ ngọn ngành. Nhưng cũng nhờ những phê phán loạng quạng tôi có dịp giảng giải nguồn cơn. Thực vậy, các bạn thắc mắc loạn ngôn nhưng tôi phải cảm ơn, chính vì các bạn mà tôi viết lại đầu đuôi câu chuyện này.
Image

Di ngôn tự vấn
Từ nhiều năm trước, tôi đọc hồi ký Lê Ngọc Danh, chợt đến những đoạn nghe đối thoại của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tôi lặng người. Tôi suy tư về tư duy của con người đã nói lên những lời bất hủ đó. Khi tùy viên báo tin tướng Minh đầu hàng. Ông nói: Qua biết rồi. Khi báo cáo các sĩ quan thân cận di tản. Ông nói: Đi làm gì. Khi được thương binh yêu cầu: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Ông nói: Không! Qua không bỏ tụi em. Khi báo cáo phó tướng tự tử. Ông nói: Chết để làm gì.

Những lời ông nói lúc đó không phải dành cho thủ hạ. Không phải dành cho chúng ta. Tướng Nguyễn Khoa Nam nói cho chính ông. Ông tự hỏi và tự đi tìm câu trả lời. Bây giờ 38 năm sau, xin các bạn cùng tôi tìm hiểu. Tôi phải viết lại câu chuyện từ đầu như sau.

Những lời cuối cho miền Nam.

Lịch sử ghi rằng. 1954 Geneve chia đôi đất nước. Đất nước trở thành 2 miền Nam Bắc. Trải qua 21 năm đấu tranh chính trị rồi chiến tranh thực sự. Tháng 4 năm 1975 Bắc quân tràn ngập các quân khu 1,2 và 3. Quân khu 4 của tướng Nguyễn Khoa Nam với 3 sư đoàn, 18 tiểu khu và 200 ngàn quân vẫn còn yên tĩnh. Tổng thống và thủ tướng cùng bàn giao và ra đi. Đại tướng tổng tham mưu trưởng cũng ra đi. Trung tướng quyền tổng tham mưu trưởng điện thoại cho tướng Nam yêu cầu chuẩn bị đón chính phủ và bộ tổng tham mưu tái phối trí về miền Tây. Tướng Nam điện thoại cho tư lệnh sư đoàn 9 đưa trung đoàn Long An chuẩn bị lên đường. Liền sau đó lệnh hủy bỏ. Vị tổng thống dân sự chưa nhậm chức được 1 tuần đã chuẩn bị bàn giao cho vị đại tướng cuối cùng.

Chiều 29 tháng 4- 1975 thiếu tướng Phạm văn Phú quê Hà Đông, 47 tuổi uống thuốc độc tự tử tại nhà, tự nhận trách nhiệm làm mất vùng 2. Chở vào nhà thương Grall cấp cứu. Ông qua đời sáng 30 tháng 4, trước khi có lệnh đầu hàng. Trưa 30 tháng 4 đại tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng trên radio Sài gòn. Tại Cần thơ, trung úy Lê ngọc Danh bước vào phòng tư lệnh quân đoàn 4 báo cáo chưa hết lời, tướng Nguyễn Khoa Nam ngồi coi giấy tờ, ngước lên nói: Qua biết rồi. Trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long sinh trưởng tại Huế, 56 tuổi, nghe tin radio đã tự sát bằng súng lục tại công viên giữa thành phố Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, quê Sơn Tây, 42 tuổi, bình tĩnh ngồi ăn 3 bát cơm với các sĩ quan rồi rút vào phòng tự tử bằng súng tại bộ tư lệnh Lai Khê.
Từ căn cứ Đồng Tâm nghe tin đầu hàng, chuẩn tướng Trần văn Hai, quê Gò Công, 50 tuổi, tư lệnh sư đoàn 7 , điện thoại qua Mỹ Tho từ giã tướng Huỳnh văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9 bộ binh. Sau đó ông Hai uống thuốc độc tự tử. Trở lại Cần Thơ, tùy viên lại vào phòng tư lệnh báo cáo các sĩ quan quân đoàn bắt đầu di tản. Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam vẫn ngồi ở bàn giấy, nhìn lên nói. Đi để làm gì.

Ông tự hỏi nhưng đã tự tìm thấy câu trả lời. Ông quay sang chỉ thị cho tùy viên chuẩn bị xe. Lúc đó là chiều 30 tháng 4. Sài Gòn đang náo loạn. Những chiếc trực thăng cuối cùng của Hoa Kỳ đã rời tòa đại sứ từ sáng sớm. Bến Bạch Đằng vắng lặng vì toàn thể hạm đội VNCH đã ra khơi đêm qua. Đoàn tầu quân vận của chúng tôi đi sau hải quân nhưng chưa ra khỏi cửa sông đã nghe lệnh đầu hàng. Trong khi đó, tại miền Tây, tướng Nam, tưởng chừng một ngày như mọi ngày, đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản giữa 1 thị xã Cần thơ vắng lặng.
Thương binh ngóc đầu nói với vị tư lệnh: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Tư lệnh nói: Không, Qua không bỏ tụi em. Bước ra cửa bệnh viện, tùy viên thấy tư lệnh chùi nước mắt. Trở về tư dinh, tư lệnh vẫn mặc quân phục thắp hương lễ Phật. Hai lần phái đoàn cộng sản vào gặp tư lệnh rồi lại đi ra. Tối 30 tháng 4 tùy viên Lê ngọc Danh qua nhà tướng tư lệnh phó Lê văn Hưng. Nghe tiếng súng nổ. Chuẩn tướng Lê văn Hưng quê Gia Định, 42 tuổi, đã vào phòng riêng tự sát. Trở về báo cáo. Vị tư lệnh quân đoàn nói. Chết để làm gì. Ông nói với tùy viên, nhưng thực sự là tự hỏi mình. Tùy viên kể lại, ông vẫn mặc quân phục nằm suốt đêm 30 tháng 4. Đèn vẫn sáng trên bàn thờ Phật . Buổi sáng sớm 1 tháng 5-1975 ở Cần thơ. Thành phố vẫn vắng lặng. Ba thầy trò đứng nhìn xuống đường. Tư lệnh đứng giữa, hai tùy viên 2 bên. Tư lệnh chợt bật khóc. Hai anh trung úy trẻ tuổi trẻ cũng khóc theo. Giọt nước mắt của những chiến sĩ khóc cho cả 1 đạo quân. Dường như có máu trong nước mắt đàn ông. Quay vào tư lệnh bình tĩnh giao 2 va ly cho 2 anh sỹ quan. Các anh vừa ra khỏi phòng, ông lấy súng bắn vào đầu tự tử. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, sinh quán Thừa Thiên, năm đó 48 tuổi. Tiếng chuông thỉnh Phật lần cuối dường như vẫn còn vang vọng trong không gian với khói hương nghi ngút. Tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 dài nhất của đời lính.
Ông đã tự tìm thấy các câu trả lời. Đi để làm gì. Ông không đi. Chết để làm gì. Ông biết ông chết để làm gì. Rất sáng suốt và bình tĩnh. Ông chọn cái chết. Ông là mặt trời chói lọi của tháng 4 năm 1975.

Chết để làm gì. Đó chính là di ngôn tự vấn.
Image
Suy luận cổ Kim.
Sau cùng tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại di ngôn bằng 1 câu hỏi. Ông đưa ra 1 bài toán và ông đưa ra lời giải đáp.

Ngày xưa ở trong Nam năm 1867 tại Cần thơ, cụ Phan thanh Giản không giữ được 3 tỉnh miền T ây cũng đã tự tử. Ngài cũng biết chết để làm gì. Ngoài Bắc, Nguyễn Tri Phương 1873 rồi đến Hoàng Diệu 1882 cũng không giữ được thành Hà Nội nên đã tự tử. Các ngài đã biết là chết để làm gì.


Con người ta thường hỏi là chết rồi sẽ đi đâu. Không ai hỏi là chết để làm gì. Chỉ có những người tự quyết định tính mạng của mình mới có thể đặt câu hỏi chết để làm gì.
Trong đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam, người chiến binh thường không có cơ hội lựa chọn. Cộng sản ào đến biển người hô lớn. Hàng sống, chống chết. Sự lựa chọn không có suy nghĩ. Giơ tay lên sống, không giơ tay lên bị bắn. Đại tá Hồ ngọc Cẩn là công giáo nên không tự sát. Ông không giơ tay đầu hàng nên bị xử bắn sau khi bị hành hạ suốt 4 tháng dài. Ông không đầu hàng có nghĩa là đã chọn con đường chết. Ông tự sát trong phiên tòa cộng sản. Ông tự sát bằng những viên đạn thù xử bắn. Trên bảng vinh danh anh hùng tuẫn tiết, chúng tôi ghi nhận 7 người chiến sĩ. Sự lựa chọn không trong tầm tay anh chị em xây dựng dự án. Toàn thể hải ngoại đã công nhận trong 38 năm qua. Có tên tuổi, hình ảnh, có tiểu sử và chiến tích. Có nhân chứng cho tới giờ phút cuối cùng. Sau cùng tất cả đều là lính Việt Nam Cộng Hòa. Khi nhập ngũ họ đều là lính. Cấp bậc chỉ là hình thức trong binh đoàn. Họ đã sống như người lính và tuẫn tiết như những người lính có trách nhiệm.
Bây giờ nói đến chuyện trả lời câu hỏi Đi để làm gì. Trong anh em chúng ta dù ở lại hay ra đi, nếu có cơ hội lựa chọn lấy quyết định cũng là 1 thái độ mà phê phán suốt cả cuộc đời chưa hết chuyện.
Bây giờ ở hải ngoại này dường như ai cũng đã ra đi. Kẻ trước người sau. Tất cả đều phải trả lời cho tướng Nam câu hỏi. Đi để làm gì?
Nếu ngày xưa 30 tháng 4-1975 ông Nam đưa ra câu hỏi: Chết để làm gì ? thì ngày 2 tháng 1-1961 khi Kennedy lên làm tổng thống, ông cũng đã có câu trả lời cho vấn nạn sống để làm gì.
Đừng hỏi đất nước này đã làm gì cho anh, hãy tự hỏi anh đã làm gì cho đất nước. Câu nói đó của Kennedy đã được khắc trên bia đá tại nhiều nơi trên nước Mỹ. Cũng theo danh ngôn này, người ta đã dùng để tu thân suốt cả cuộc đời. Xin đừng đòi hỏi người khác phải làm cái này, cái nọ; hãy tự hỏi mình xem đã làm được gì cho bản thân, cho gia đình, cho cộng đồng, cho đất nước tạm dung và cho quê hương bỏ lại. Lịch sử luôn luôn ở bên những người hành động. Lịch sử không có chỗ cho các bạn ngồi phê phán. Có ý kiến hay, xin bạn đứng lên làm lịch sử.

Bài diễn văn lịch sử:

Nhân nói đến chuyện khắc các di ngôn trên bia đá. Xin kể các bạn câu chuyện dành cho phần kết.

Năm 1863, trận chiến kinh hoàng nhất của chiến tranh Nam Bắc Hoa Kỳ xảy ra tại vùng Gettysburg thuộc Pennsylvania giữa binh đoàn Potomac Liên bang Union và binh đoàn Bắc VA của phe Liên hiệp Confederate. Đây là trận quyết định với chiến thắng về phe liên bang. Chiến trường đẫm máu với 51,000 thương vong, trong số này có 7,500 binh sĩ cả hai bên chết vì gươm giáo còn để xác tại chỗ. Trải qua nhiều ngày, các xác chết 2 bên đã bốc mùi nên dân ở thị xã nhỏ bé Gettysburg có vài ngàn người phải ngày đêm lo chôn cất. Một nghĩa trang 17 mẫu được thành lập. Ban tổ chức làm lễ tưởng niệm vào ngày 19 tháng 11 năm 1893. Diễn giả chính là 1 nhân vật danh tiếng từng là thượng nghị sĩ, thống đốc và viện trưởng Harvard. Khách mời có tổng thống Lincoln dự trù sẽ nói vài lời trước khi chấm dứt.

Sau khi ông diễn giả chính nói chuyện 2 giờ đồng hồ, tổng thống Lincoln đọc bài phụ diễn chưa đến 3 phút gồm có 272 chữ trong 10 câu. Bắt đầu bằng câu:

81 năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này 1 quốc gia mới, thai nghén trong tự do.
Câu cuối cùng là: Một chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không thể tàn lụi trên trái đất này.

15 ngàn người gồm các thống đốc và chính khách có mặt. Tất cả đã sững sờ nghe trực tiếp bài diễn văn bất hủ. Đây là những lời nói khuôn vàng thước ngọc và trở thành bài diễn văn nổi tiếng kim cổ trên toàn cầu. Đặc biệt bài diễn văn này tuyệt đối không đề cập đến chiến thắng hay chiến bại. Không nói đến bạn hay thù. Tổng thống nói: Những người nằm xuống ở đây đều đã chết cho tổ quốc.

Người ta khắc bài diễn văn trên đá tại các thư viện, tại các trường đại học và tại nhà mồ của ông Lincoln ở Springfield, Illinois.

Đó là lý do chúng tôi muốn có cơ hội khắc trên bia đá những lời của tướng Nguyễn Khoa Nam. Những lời nói ngắn ngủi của ông phản ảnh triết lý sống và chết của con người. Ra đi hay ở lại. Câu hỏi của cả nhân loại trên con đường tìm đất sống, tìm tự do. Con đường mưu cầu hạnh phúc. Sống để làm gì, và chết để làm gì.

Lời Chúa và lời Phật nói ra cũng phải có người chiêm nghiệm và giải thích. Phải viết thành Kinh Thánh hay Kinh Phật để truyền bá và học hỏi.

Đi hay ở. Tại sao. Đi để làm gì.

Sống hay chết. Sống để làm gì và chết để làm gì.

Tôi không biết rằng có thuyết phục được ban tượng đài khắc lời của tướng Nguyễn Khoa Nam thành câu chuyện Anh Việt ở phía sau bức tường hay không. Nhưng câu chuyện và lời nói của ông đã khắc sâu trong tim tôi. Mãi mãi, chẳng bao giờ ai lấy ra được. Đi để làm gì, tôi đã có câu trả lời bằng nửa cuộc đời. Chết để làm gì . Tôi chưa biết.

Giao Chỉ

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Vợ Lính

Nguyễn Thị Thêm

Tôi quen biết chàng khi anh ấy đã là lính. Cái lon Chuẩn úy chẳng là cái thá gì với tôi, một người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe, mặt chẳng đẹp trai và nhìn qua là biết chẳng phải con nhà giàu. Mấy cái đó và cả con người đó đáng lý ra chẳng dính dáng gì với tôi. Thế nhưng, trời bất dung gian cái tên Chuẩn uý người Huế đó không biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung học tư tôi đang dạy. Tôi thì phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết giờ về không chuyện trò tào lao với người khác phái. Cái nhược của tôi bây giờ tôi mới biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy thì hắn lại sai học trò sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán thì lau bảng thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn phấn, mượn khăn.

Từ đó tôi ghét hắn. Mấy đứa học trò cũng biết tôi không thích hắn. Thế là tôi bảo học trò để sẳn một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học trò hắn qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hãy giử lấy tôi tặng luôn, khỏi trả. Hắn tìm tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy. Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền đi thẳng. Buổi chiều, hắn tìm tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, hắn lại tới nhà mượn sách và ngồi lì nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hể có dịp là hắn tới nhà tôi ngồi đồng, hắn nói đủ thứ chuyện bằng âm hưởng miền Trung nặng trình trịch. Một thời gian sau, tôi nghe miết rồi quen cái giọng khó nghe. Không tới trả sách thì lại thấy thiếu vắng một cái gì không phải là sách. Cái chiến thuật “mưa lâu thấm đất”, “Nói hay không bằng ngồi dai” đã khiến tôi phải lên xe hoa về nhà hắn và làm vợ hắn cho tới bây giờ.

Ông xã tôi là con trai một trong một gia đình hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đã mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đã ở vậy một nắng hai sương làm tròn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài bảo của bà là có người thừa tự. Tôi cô gái miền Nam tánh tình bộc trực, lại là một nữ hướng đạo hội họp, đi cắm trại liên miên, không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi cậu con trai đã quyết thì bà phải bằng lòng. Vì trong thời buổi chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây ngoài trận chiến. Và thế mẹ chồng tôi đã bỏ cái làng quê chôn nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong tìm một mống cháu nội sau này.

Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nhìn tôi với đôi mắt thiếu tin tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi tình cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được. Thế là bà bỏ Biên Hoà theo con trai ra Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo chồng. Kỳ nghỉ tết năm 73, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe đi Sài Gòn và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh. Thế là chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên tôi chính thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn.

Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm chiếc màn cách ly. Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính thì có nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây. Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai mắt của kẻ thù rình rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại đội phó đưa tôi về Đà Nẳng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi lên máy bay về lại Sài gòn vì ngày mai đã bắt đầu niên học mới.

Thế là tôi có mang đứa bé đầu lòng và tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đã thật không yên. Nhà tôi ở gần Phi Trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi về lại Biên Hoà để lo cho con gái sinh nở. Tôi mang cái bụng bầu chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, Hạ sĩ Quan, rồi lính bị thương liên tục. Cuối cùng người Đại đội phó mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuýt bị sẩy thai. Thế rồi mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở. Con tôi mở mắt chào đời ở một nhà hộ sinh tư . Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai để nối dõi tông đường. Còn anh, được tin tôi đã sinh con, anh về cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con hôn vài cái là xe hậu cứ đã chờ để đưa anh lên lại đơn vị. Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con đầy nhà. Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi “Sao mặt nó như dài ra” hôn con, ăn vội vã vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường. Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh, mà cũng không thể không trách anh. Chẳng nói gì được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con và thương mình quá đỗi.

Thế là cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng không biết ở đâu? Chỉ biết ít nguy hiểm tính mạng hơn ở Đại đội. Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một người phụ nữ. Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm tất. Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường chúng tôi cho hai vợ chồng kia. Anh nói:

- Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy nó mừng lắm. Hãy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay, chết mai.

Và như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3 ngày phép đoàn tụ tuyệt vời. Một lần thấy anh không còn bộ đồ civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn là người khó tính và kén chọn. Mãi sau mới chọn được màu vải vừa ý mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi mãi bận hành quân không có dịp mặc. Đại đội phó của anh gia đình ở tận miền Tây, anh ta lại phải lòng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội phó của mình. Anh nói với tôi :

- Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ thì mình còn nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đình nó ở xa, không có bộ đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan trọng.

Tôi vừa tiếc vừa phục tấm lòng tốt của chồng. Không còn lời nào để nói tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để thoát vào Sài gòn. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân, biết sự sụp đổ đã đến, không liên lạc được với đại đội cũ của mình. Anh cấp tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi mòn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu.

Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người tuân lệnh thi hành. Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi, tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính. Ngày chưa theo anh, tôi đi dạy, có lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính thì tính liền anh cũng chẳng có gì dư dã. Theo chồng ra Đà Nẵng tiền lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không thì tôi không biết, còn tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên anh không có lương và anh đi cải tạo suốt 8 năm trời chấm dứt một thời kỳ lính tráng.

Như vậy thì làm vợ lính vui hay buồn, sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt thòi. Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng như hoà bình. Những ngày tù tội đã đành không thể trách ai. Các anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng người vợ lính ở nhà cái vòng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn, con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe doạ thân phận đàn bà. Tôi có những người bạn vì thương chồng, lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng cải tạo. Thương tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của chiến tranh ý thức hệ.

Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức mình cùng sát vai vợ mà lo cho gia đình không? Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con, cho chồng thì bất chấp sự cực khổ. Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc Nam, Bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút, làm công nhân… Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra tiền thì không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ. Khi các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời mình cho đói khát, bệnh tật. Các anh không biết là đã mang theo trong mình một nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất mãn và nghi kỵ mọi thứ. Các anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đã mất. Các anh bây giờ đã bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng tráng của mình. Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất mãn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân mình. Tôi đã khóc nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công nhận CS thật quỷ quyệt, những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo trì những chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đã thật sự thất trận thảm thương.

Khi được sang Mỹ đinh cư, mẹ chồng tôi mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác mình phải làm cái gì trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi như thân cây không còn mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy tim, bị strock và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh Parkinson.

Bây giờ sau 38 năm chồng tôi không còn làm người lính, nhưng tôi vẫn làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội. Có món gì ngon là anh bảo kêu mấy đứa tới ăn. Đừng tưởng anh kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi thì kêu tôi chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi. Khi thì bảo thay đồ cho anh để anh đi họp Tiểu đoàn. Khi thì vui cười kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt.

Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu bình an cho chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện cho những anh hùng chiến sĩ đã nằm xuống được nhẹ nhàng siêu thoát.

Tôi rất ái mộ những chị cầm cờ theo chồng trong những cuộc biểu tình, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt đơn vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng ngời hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh. Những người vợ lính ấy đã làm đẹp cuộc đời cho chồng, cho xã hội. Tôi không được may mắn ấy, chồng tôi bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không thể sát cánh cùng đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc anh đầy ắp tình đồng đội và quê hương. Và tôi dù gì và cho thế nào đi chăng nữa tôi vẫn mãi mãi là người vợ lính không bao giờ thay đổi.

Nguyễn thị Thêm

User avatar
khieulong
Posts: 6757
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Băng Đạn Cuối Cùng
Bảo Định

Người lính trận không còn trận để đánh, khi Tổng Thống 48 giờ, kiêm “Tổng Tư Lệnh QLVNCH” Dương Văn Minh kêu gọi: “quân sĩ đâu ở đó, ngưng nổ súng và chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia.”

Thật là khôi hài cho hai chữ “bàn giao” và gọi bọn cộng sản Bắc Việt xâm lược là “phía bên kia” một cách nhẹ nhàng thân ái. Trong lúc chúng CS) chỉ là những tên đồ tể khát máu, mất tính người, là công cụ của bọn Cộng sản Đệ Tam quốc tế, cần phải loại chúng ra khỏi đất nước này, loại chúng ra khỏi tâm tư của mọi người dân Việt. Chúng chỉ là loài sâu bọ biến thành người, hay như chúng tự nhận là con cháu của loài khỉ trên rừng “trải qua quá trình lao động nên biến thành người”.

Tại sao ông Minh có thể ngây thơ đến như vậy! Nếu trong con người của ông còn một chút gì là lính, người lính VNCH chân chính, thì ông đã không hành động như vậy. Hoặc ít ra nếu suy nghĩ nông cạn, bị bọn trí thức khoa bảng ăn hại bu quanh bàn ra tán vào lếu láo, bị tên Dương Văn Nhật, Thiếu tá tình báo cộng sản, em ruột móc nối, bị mấy ông thầy tu xách động xúi dục, “sợ dân chúng đổ máu” (chỉ là cái cớ để biện minh), thì sau lời tuyên bố dâng đất, dâng dân, dâng thành cho Cộng sản Bắc Việt, ông phải biết kê khẩu súng vào màng tang để bóp cò một phát cho tròn khí tiết của một người lính, nhất là khi ông đã là một Tướng 4 sao! Từng hai lần làm Quốc trưởng (nhưng chẵng nên cơm cháo gì). “Mất thành phải chết theo thành” như Võ Tánh ngày xưa tuẫn tiết tại thành Bình Định, hay Hoàng Diệu tại thành Hà Nội.

Người lính trẻ mệt mỏi, mặt mày bơ phờ vì đã nhiều ngày đêm không ngủ, đang lê đôi chân nặng nhọc từ cầu Sơn hướng về ngã tư Xa lộ Hàng Xanh. Anh định về Thị Nghè, nhà anh ở đó. Anh biết mẹ anh, chị Dung của anh đang chờ tin tức anh. Anh biết Loan, người yêu của anh, đang trông chờ anh từng giờ, từng phút. Hay nàng đã theo gia đình di tản đang lênh đênh trên mặt nước. Nàng có dám hy sinh, dám cãi lời cha mẹ không lên tàu, dám ở lại để chờ chàng, người lính trận của phe thua trận?

***
Thôi hết rồi, khi đài phát thanh Saigon đọc lời tuyên bố của ông Dương Văn Minh, lệnh cho tất cả quân sĩ không được nổ súng, đâu ở đó, chờ phía bên kia vào bàn giao! Việt Nam Cộng Hòa không còn, QLVNCH không còn, đơn vị anh tan hàng, nhưng lần này không “cố gắng” như trước. Đây là lần tan hàng cuối cùng! Vị Tiểu đoàn trưởng của anh tập họp Tiểu đoàn và tuyên bố: “Việt Nam Cộng Hòa không còn, QLVNCH không còn, Tiểu đoàn của chúng ta cũng không còn. Tôi xin cảm ơn các bạn đã đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, đã cùng nhau chiến đấu trong bao nhiêu năm. Chúng ta đã tạo được nhiều chiến thắng lẫy lừng ghi trong quân sử. Nhưng ngày hôm nay, vận nước không còn. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối thi hành mệnh lệnh. Dù đó là mệnh lệnh gì. “Thi hành trước, khiếu nại sau”. Với tư cách là Tiểu đoàn trưởng, tôi tuyên bố giải tán đơn vị. Các bạn ai về nhà nấy để gặp lại gia đình, sống cuộc đời thường dân lương thiện. Chúc các bạn sức khoẻ - Chào VĨNH BIỆT! Vừa dứt lời, vị Tiểu đoàn trưởng khả kính đã kề khẩu colt 45 vào màng tang và bóp cò...

Buổi trưa ngày 29, tuyến phòng thủ Trảng Bom vỡ. Một Đại úy Đại đội trưởng chết ngay tại trận tiền. Một vị Tiểu đoàn trưởng bị cộng quân bắt sống. Đoàn quân xâm lăng Bắc Việt đã chiếm cứ Trảng Bom, tiền đồn xa nhất của Saigon lúc đó, chỉ cách Thủ đô yêu dấu miền Nam hơn 30 cây số. Từ đây, súng 122ly, 130ly có thể bắn tới.

Căn cứ Long Bình bị pháo kích nhiều nơi, nhiều kho đạn bị nổ. Phi trường Biên Hòa bị oanh kích bởi chính những chiếc F5E của QLVNCH do Không quân không kịp di tản, để lại tại Đà Nẳng, tại Phan Rang, do chính tên Trung úy nằm vùng Nguyễn Thành Trung hướng dẫn. Dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau dồn về Saigon. Lẫn trong đoàn dân chạy loạn, có những người lính vừa thất trận tại phòng tuyến Trảng Bom. Đơn vị Tuấn phải củng cố tuyến phòng thủ để bảo vệ BTL/SĐ. Kể từ khi rời mặt trận Xuân Lộc, vì là đơn vị sau cùng làm lực lượng chặn hậu cho đại đơn vị rút ra an toàn, đã bị thiệt hại nặng, nên đã được chỉ định làm lực lượng phòng thủ BTL. Công việc tương đối an nhàn, ít nguy hiểm. Ngay trong không khí hỗn quân hỗn quan và loạn lạc đó, một chiếc xe honda từ Saigon trờ tới trước cửa BTL. Đó là chị Dung, chị ruột của Tuấn và Loan, cô bạn gái, người yêu của chàng.

Vừa gặp mặt Tuấn, chị Dung nói ngay:

- Họ đi hết rồi, cả Sàigon đang đi. Anh rể em ở bên Không quân có lệnh đưa gia đình ra Phú Quốc. Bên Hải quân cũng chuẩn bị cho gia đình xuống tàu ra biển. Còn chị làm trong DAO cũng đã làm danh sách cho cả gia đình mình đi. Mấy ngày nay chị và Má cứ trông em về để đi, tất cả đã sẵn sàng.

- Nhưng ông Tướng, các cấp chỉ huy và đồng đội của em vẫn còn ở lại, vẫn còn tiếp tục chiến đấu.

- Ông Thiếu Tướng Kỳ, cựu Thủ Tướng, cựu Phó Tổng Thống, chiều ngày 28 tháng 4 còn đến xứ Tân Sa Châu thuộc quận Tân Bình hô hào tử thủ, hô hào sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, nhưng mới sáng sớm ngày hôm nay, tức 29 tháng 4, ông đã dùng máy bay trực thăng riêng bay ra Hạm đội. Ông Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III kiêm Quân khu 3 của em, buổi sáng ghé đây họp với các Tư lệnh Sư đoàn, chỉ thị các vị ấy phải tử thủ, phải chiến đấu, thì sau đó ông bay về Gò Vấp thu gom đồ đạc và bay thẳng ra Hạm đội 7 rồi. Chỉ có ông Tướng của em, các cấp chỉ huy của em điếc không sợ súng, không am hiểu tình thế mới ở lại để tiếp tục chiến đấu.

- Không được, em phải ở lại, em phải cùng đơn vị chiến đấu. Dù là trong tuyệt vọng. Em không thể đào ngũ trong lúc này. Em xin lỗi chị, xin lỗi Má.

- Loan, em hãy nói vài lời với Tuấn đi, em hãy thuyết phục Tuấn dùm chị. Em hãy nói em không thể sống xa Tuấn, sống thiếu Tuấn. Má, chị và cả nhà sẽ mang ơn em nhiều.

Nghe lời chị Dung, Loan có nói, nhưng Tuấn vẫn kiên trì. Tình yêu gia đình, tình yêu trai gái, Tuấn đã coi nhẹ hơn tình yêu đơn vị, tình yêu đồng đội, ít ra là trong lúc này, trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này. Nói thế có nghĩa là trong quá khứ, cũng đã nhiều lần Tuấn “dù” về nhà thăm mẹ, thăm chị Dung, người chị mà chàng thương yêu nhất, và Loan, dĩ nhiên là Loan, mối tình từ thuở học trò của chàng. Không thuyết phục được người em, người tình cứng đầu, Dung và Loan thất vọng trở lại Saigon.

***

Tuấn đi như người mất hồn. Anh không có một chủ định nào cả. Chân bước đi, đôi chân chàng di động như cái máy. Chàng hướng về Thị Nghè, nơi đó có Má, có chị Dung, có Loan đang chờ chàng. Một chiếc xe Lam chạy qua. Mui xe cắm lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, chính giữa có ngôi sao vàng 5 cánh của bọn Côn đồ “Giải phóng Miền Nam”. Trên xe đầy lũ nhóc cách mạng 30, tay đeo băng đỏ. Xe vừa chạy qua chỗ Tuấn, chúng ngừng lại. Một tên có lẽ là chỉ huy, quát Tuấn:

- Thằng lính ngụy kia! Giờ này mà còn bận đồ lính và cầm súng. Hãy vất súng xuống, cởi mau đồ lính ra không ông cho phát AK bây giờ.

Tuấn như con người máy. Anh vất súng xuống bên vệ đường, ngồi xuống từ từ cởi đôi giày trận - đôi giày đã theo anh dẫm nát biết bao nhiêu là mật khu của VC - sau hết là bộ đồ trận. Giờ này đâu còn trận nữa, thôi thì cởi phắt cho xong - Tuấn vừa cởi vừa suy nghĩ. Rốt cuộc, trên người anh chỉ còn lại cái quần xà lỏn và áo thun ba lá. Thấy Tuấn đã cởi đồ xong, tên chỉ huy ra lệnh cho xe nổ máy tiếp tục chạy.

***

Người lính ngơ ngác một lúc. Anh bình tĩnh trở lại. Anh vội vàng mặc lại bộ quần áo trận, không kịp mang giày, anh nhặt khẩu súng lên, anh lên đạn và nhắm ngay vào chiếc xe Lam đang từ từ lăn bánh - Anh bóp cò. Nhưng lòng anh không chút hận thù oán trách. Trước mắt anh là lũ địch, bọn Việt cộng ác ôn. Anh phải bắn chúng, nếu không chúng sẽ bắn anh. Ai nhanh tay, người ấy sống. Một tràng đạn M16 tuôn ào ào ra khỏi nòng súng. Vài tên chết và bị thương, chiếc xe đảo qua đảo lại, lật nghiêng bên đường. Người lính từ từ kê nòng súng vào cằm như chống gậy. Anh dùng ngón cái tay phải xiết cò súng. “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Việt Nam Cộng... Câu thứ ba mới phát âm đến chữ “Cộng” thì: ầm! Anh ngã xuống. Máu phun có vòi.

Lúc đó là giữa trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vĩnh biệt Tuấn, người con yêu của Tổ Quốc, người lính trận không còn trận để đánh!


Người lính trận anh hùng bất khuất của đơn vị anh hùng không chịu hàng giặc. Thà chết vinh hơn sống nhục!

Bảo Định

Post Reply