Bút ký chiến trường Phan Nhật Nam: Người lính dần đi xa . . .
Năm 1963, anh là viên thiếu úy hai-mươi tuổi, vừa ra trường, đến trình diện Tiểu Đoàn 7 Dù, doanh trại đóng tại phi trường Biên Hòa, căn cứ Không
Khi Beo Gấm trở về núi cũ.. (*)
(*) “Beo Gấm Chiến Trường”: Danh hiệu của Tướng Quân Lê Quang Lưỡng, Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù/QLVNCH. (1972-1975)
1. Mở trận. Năm 1963, anh là viên thiếu úy hai-mươi tuổi, vừa ra trường, đến trình diện Tiểu Đoàn 7 Dù, doanh trại đóng tại phi trường Biên Hòa, căn cứ Không
Đoàn 23. Anh ngơ ngác lạc lõng giữa đám sĩ quan xa lạ, sành sõi, lớn tuổi cùng chung đơn vị trong buổi đầu tiếp xúc - Những “ông sĩ quan nhảy dù” - Anh gọi họ
như thế. Anh cũng rơi vào tình cảnh bối rối, ngần ngại đối với những người lính cứng cỏi, dạn dày chiến trận mà anh nhận nhiệm vụ chỉ huy. Thế nên, có dịp rảnh rỗi,
anh theo xe lam ba bánh qua vùng Ngã Ba Tam Hiệp, tìm đến những gã bạn thân quen cùng khóa như một cách tự nâng đỡ - Những thiếu uý thuộc Tiểu Đoàn 5,
chung hệ thống Chiến Đoàn 2 Dù với tiểu đoàn của anh.
..Thằng nầy chung khóa với tôi, đại úy. Hắn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất khóa! Thiếu Úy Hiếu giới thiệu anh với viên đại đội trưởng.
- Không cần nói, tao nhìn là biết ngay. Viên đại úy tỏ vẻ thông cảm, cách thân mật của kẻ đàn anh.. Mầy ở đây với thằng Hiếu, ra ngồi chơi ngoài quán, hoặc xuống
dưới câu lạc bộ, đừng đi đâu xa. Lát nữa, tao cũng có chuyện bên tiểu đoàn 7, để tao chở về bển.. Mầy ở đại đội của ai?
- Thưa đại úy.. Tôi.. em ở đại đội ông Phát. Anh lúng túng, ngượng ngập, tội nghiệp.
- Phát “râu” hả? Ổng bạn tao, mầy ở với ông Phát là có phước, ổng chịu chơi, dễ tính. Đụng phải đại đội thằng “Lh” là chết ngay. Cái mặt ngơ ngơ như mầy chịu gì
nổi mấy giả!
Khi viên đại úy bước đi, anh nói với Hiếu: Đại đội trưởng của mầy vui quá, bên tao, mấy ông đại úy nghiêm lắm, nhất là tiểu đoàn trưởng.
- Nhảy dù ở đâu cũng vậy, tiểu đoàn trưởng ở đây còn nghiêm hơn nữa, nhưng “ông Lưỡng tao” dễ lắm, cả tiểu đoàn ai cũng quý và phục ổng. Ổng cùng khóa với
ông tiểu đoàn trưởng như tao với mầy vậy, nên không hề có chuyện mất lòng. Anh nhận thực lời bạn với ý nghĩ: Hóa ra, trong nhảy dù cũng có một “Ông Đại Úy”
xuề xòa, dễ tính và “hay” như vậy.
Và Đại Úy Lê Quang Lưỡng chứng thật nhận xét trên của những viên thiếu úy sau đó ngay trên chiến địa.
Mật Khu Đỗ Xá nằm giữa hai tỉnh Quảng Ngãi-Kontum vốn là vùng bất khả xâm phạm thuộc Liên Khu V cộng sản do Tướng Nguyễn Đôn chỉ huy. Từ chiến tranh
1946 -1954, nơi nầy đã là căn cứ địa an toàn của toàn vùng Nam-Ngãi-Bình-Phú, nối liền đường chiến lược lên cao nguyên, qua Lào. Binh đoàn viễn chinh Pháp
không hề có khả năng hành quân xâm nhập trong suốt thời gian dài chín năm chiến tranh. Năm 1960, khởi cuộc Đông Dương lần hai, Đỗ Xá thêm một lần lập lại
chức năng quan trọng của mình với danh xưng “Khu an toàn giải phóng”. Nhưng danh hiệu nầy hoàn toàn bị phá vỡ trong ngày 27 tháng 4, 1964 khi chiến dịch tấn
công Đỗ Xá bắt đầu.
Từ phi trường Quảng Ngãi, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, 18 trực thăng H34 đợt đầu tiên đồng loạt đưa toàn bộ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, mũi nhọn xung kích của
cánh quân B vào trận địa. Phía cộng sản không chỉ bố trí súng chống máy bay chung quanh bãi đáp, nhưng dài theo thung lũng dọc đường bay trực thăng chuyển
quân. Chúng ta nghe lời kể từ Đại Úy “Woody” Goodmansee, trưởng toán trực thăng võ trang (nay đã là Trung Tướng Lục Quân hồi hưu).. “Trong đợt đầu, trực
thăng bay thấp khoảng 100 bộ, tất cả bốn trực thăng Dragon đều thả khói hai bên trực thăng (để ngụy trang). Tôi có thể thấy các lằn đạn xoẹt ngang dọc từ cả hai
bên (lộ trình bay). Trong một vòng bay từ tây sang đông, tôi bị một súng phòng không 50 ly nhắm bắn từ phía nam, một lằn đạn xoẹt qua dưới bụng trực thăng.. (1)
Đấy là cảnh tượng trên không, dưới đất, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù bị tấn công ngay tại bãi đáp, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Ngô Quang Trưởng tung hết bốn đại đội
xung kích lẫn đại đội chỉ huy cự địch. Khẩu 57lyKhông Giật của đại đội chỉ huy công vụ (vốn là súng phá công sự, chống chiến xa) nay biến thành vũ khí bắn thẳng
để bảo vệ cận phòng bộ chỉ huy tiểu đoàn, bởi bốn đại đội tác chiến đã được lệnh dàn ngang tràn ngập mục tiêu trong thời hạn ngắn nhất. Đại Úy Lê Quang Lưỡng
dẫn đầu Đại Đội 54 xung phong tràn qua phòng tuyến giặc, chiếm lĩnh trận địa, không để phía đối phương có đủ thời giờ thu gọn chiến trường, tổ chức đội hình rút
lui. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn II đích thân chỉ huy trận địa từ trên không; trực thăng chở ông và các Tướng Lữ Lan, Trần Văn Minh (Tư lệnh không
quân sau nầy) phải bay sát ngọn cây để tránh đạn phòng không, nhìn xuống thấy dạng hình lớp lớp áo rằn ri chuyển động như rừng chuyển sóng. Không nao núng
bởi thế trận căng thẳng, lại vốn là chỉ huy trưởng tiên khởi của Liên Đoàn Nhảy Dù (1955-1959), Tướng Trí hiểu rõ năng lực tác chiến của các thành phần đơn vị,
nhân sự chỉ huy đang có mặt trên chiến địa (các Thiếu Tá Phan Trọng Chinh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 50 Bộ Binh; Thiếu Tá Sơn Thương, Liên Đoàn
Trưởng Biệt Động Quân trước kia đã là những sĩ quan nhẩy dù thuộc quyền của Tướng Trí), ông thả nốt biệt động quân vào trận, tiếp sức nhảy dù cày sạch vùng
bất khả xâm phạm gọi là Đỗ Xá. Chỉ riêng ngày thứ hai của cuộc hành quân, phía biệt động đã tịch thu được một đại liên 30ly, một trung liên, sáu tiểu liên, và 144
súng cá nhân, một ngàn bịch chất nổ, một số lượïng lớn quân trang, lựu đạn, mìn và tài liệu quan trọng. Cuối trận, tổng số vũ khí có thêm hai phòng không 52 ly, một
đại liên 30 ly và 69 súng cá nhân với 62 xác đếm tại hiện trường; 17 tù binh bị bắt.
Cuộc hành quân chấm dứt đúng một tháng sau, 27 tháng 5 do Trung Đoàn 50 Bộ Binh của Thiếu Tá Phan Trọng Chinh hoàn tất quét sạch toàn vùng Đỗ Xá khi
Nhảy Dù và Biệt Động Quân đã kết thành vòng đai chận bít không để lực lượng cộng sản chạy lẫn vào vùng núi phía tây, hoặc về phía nam Tây Nguyên. Số lượng
vũ khí và nhân mạng phía cộng sản bị thiệt hại như kể trên không phải là một thắng lợi quân sự quá to lớn, nhưng đứng về mặt chính trị đã chứng minh điều quan
trọng: Sau những xáo trộn chính trị, tình hình quân sự không ổn định (1963-64), Quân Lực VNCH đã lấy lại sức mạnh chiến đấu cơ hữu, có khả năng thực hiện
những cuộc hành quân lớn cấp trung đoàn, sư đoàn, nếu như những sĩ quan tham mưu, chỉ huy được yểm trợ xác đáng, và nhất là để họ toàn quyền điều động đơn
vị quân binh theo thực tế chiến trường chứ không là một biểu diễn bề mặt vì mục tiêu chính trị.
Mặc biến động chính trị bày cảnh hỗn loạn cực độ ở Sàigòn, người lính nơi chiến địa vẫn vững chắc tay súng. Tháng Giêng 1965, Chiến Đoàn 2 Dù xử dụng Tiểu
Đoàn 7 Dù làm thành phần nút chặn để không cho lực lượng cộng sản chạy thoát ra ngã Quốc Lộ 15 (đoạn nối Sàigòn-Vũng Tàu dọc chân núi Ông Trịnh, vùng có
tên Mật Khu Hắc Dịch) và hai Tiểu Đoàn 5, 6 nhẩy trực thăng xuống ngay giữa lòng mật khu, xong cùng lúc lùa địch từ núi ra quốc lộ. Trong đêm tối, viên thiếu úy
Tiểu Đoàn 7 nằm sát trên đất, lắng tai nghe phía tiểu đoàn bạn hô rền xung phong sau mỗi đợt trực thăng bắn yểm trợ tiếp cận.. Đạn, bom chém cành lá cây rừng
từng tràng rần rật, rung sâu mạch đất. Có lúc, viên sĩ quan trẻ tuổi kia tưởng chừng như toàn khu rừng đồng bốc cháy, và hắn thấy ra dạng hình hàng loạt người xô
đẩy, săn đuổi, chạy vùn vụt qua vũng lửa chập chờn vàng tươi, tiếng thét âm âm gào rợn. Bình minh đến từ lúc nào không biết (do lửa đã thay ánh sáng mặt trời xé
toang màn đêm) khiến cánh quân Tiểu Đoàn 7 thấy rõ khu rừng hầu như bật tung, rơi rụng hết cành lá, chỉ còn trơ trụi những thân cây xám đen, dựng đứng tua tủa,
nghi ngút khói. Qua màn khói dày, viên thiếu úy nhận ra “Ông Lưỡng Tiểu Đoàn 5” đi ngã nghiêng giữa đám cây rừng gãy đổ ngỗn ngang. Khi đi ngang gã thiếu úy,
Đại Úy Lưỡng cười vui: “..À thằng em, thấy anh Ba (Đại úy, mang huy hiệu cấp bậc Ba Hoa Mai Vàng) đánh giặc ngon không mậy?” Lần nầy, gã thiếu úy đã có
phần cứng cáp, dạn dĩ, y đứng thẳng, đưa tay chào kính với lời kính phục: “Tụi em nằm đây suốt đêm, chờ bên đại úy đuổi vi-xi chạy ra”. Mầy còn nước không?
“Dạ không, hai ngày nầy lính em cũng không ăn gì hết.” Ờ há, hôm nay còn tết đó mầy.. Đại Úy Lưỡng chuyển câu chuyện qua với những sĩ quan bộ chỉ huy Tiểu
Đoàn 7 đi tới. Cách nói dung dị, từ tốn với âm sắc dễ dàng của người miền Nam.
2. Tác Chiến là một Nghệ Thuật.
Dẫu mới thành hình cuối năm 1965, nhưng dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng, Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù đã không hề vấp phạm khuyết điểm (coi như
là tất nhiên) của một đơn vị tân lập. Đầu năm 1966, tiểu đoàn khai trận ngay trên Vùng Tuyến Lửa, nam sông Bến Hải. Có thể do công tác điều nghiên kỹ, phía
cộng sản nhất quyết diệt gọn Tiểu Đoàn 2 Dù để đột phá mắc xích vòng đai điện tử phía nam khu Phi Quân Sự, hàng rào phòng thủ mà Bộ Trưởng Quốc Phòng
McNamara đánh giá có khả năng ngân chận sự xâm nhập quân đội miền Bắc. Nhưng phía chỉ huy quân sự cộng sản của mặt trận Trị-Thiên đã nhầm lẫn khi khai
chiến cùng với lực lượng Dù gồm hai Tiểu Đoàn 2 và 6. Thế nên, thay vì đánh vỡ được mắc xích như dự định, lực lượng cộng sản lại bị quân nhảy dù quét sạch ra
khỏi nam sông Bến Hải, vùng thôn Diêm Hà Trung, Diêm Hà Thượng.. Và hàng rào điện tử cắm được mốc đầu tiên trên những cồn cát bắt đầu từ mạn Bắc Cửa
Việt (nơi Sông Đồng Hà đổ ra biển).
Để tưởng thưởng cho chiến công khai trận, cũng để đơn vị bổ sung quân số sau thiệt hại không tránh khỏi, tiểu đoàn được đưa về giữ an ninh vòng đai ngoại ô Sài
Gòn, vùng Xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc, Bà Điểm, Hốc Môn, Gia Định. Và như trong câu chuyện thần kỳ, vào một buổi chiều, một đại đội của tiểu đoàn sau ngày hành
quân lục soát, bất ngờ gặp phải Tiểu Đoàn Đặc Công của Tỉnh Đội Gia Định.. Lính nhảy dù (do không phải mang ba-lô vì đang hành quân lục soát) tốc chiến xung
phong ngay vào đội hình của đơn vị đặc công. Phía cộng sản núng thế trước một địch thủ quá cường mãnh, vừa đánh vừa lui về vùng kinh rạch Xuân Thới Thượng
để trở lại khu an toàn Đức Hòa, Đức Huệ, hoặc vùng du kích Củ Chi, Tỉnh Hậu Nghĩa. Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng được tin khẩn báo, huy động toàn thể bốn đại
đội tác chiến vây chặt khu vực hành quân.. Bộ đội đặc công cùng đường phải rút vào những ấp Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc, dựa vào giao thông hào, và thành ấp để
kháng cự. Không có ưu thế chiến trận do được chuẩn bị trước như thường thủ đắc, không công sự, hầm hào ẩn núp, tác chiến, đơn vị đặc công bị đánh tan ngay
sau cuộc giao tranh ngắn ngủi, phải phân tán từng đơn vị tiểu tổ, cá nhân nương bóng tối chém vè vào vùng lau sậy, kinh rạch. Thây người chết nằm chật cả một
vùng đồng trống, máu đẫm ướt sênh sếch những gốc chân rạ khô se của những thửa ruộng mới gặt. Thắng lợi quá lớn xẩy ra nơi một vùng cận kề Sài Gòn khiến
báo chí, giới chức cao cấp hành chánh, quân sự trung ương có cơ hội đến đến thăm viếng đông đảo. Lần đầu tiên, họ được chứng kiến tận mắt sức chiến đấu
thượng phong của binh đội Nhảy Dù Quân Lực Cộng Hòa, dẫu đối phương là đơn vị đặc công sừng sỏ, hậu thân những đơn vị du kích địa phương đã dựng nên
những kỳ tích huyền thoại “Bộ đội Mười-tám thôn vườn trầu Hốc Môn, Bà Điểm”, hoặc chiến công vang dội dòng “An Phú Đông nơi hàng dừa xanh soi bóng..”
trong chiến tranh chống Pháp năm xưa. Nay, thời, thế đã đổi, và người cũng đã đổi. Và, tính chất cuộc chiến đã hẳn là thay đổi. Một thời gian sau không lâu, cũng
trên đất Gia Định nầy, chúng ta sẽ chứng kiến những chiến công khác của “Lê Lợi 612” (3) với những tiểu đoàn nhảy dù dưới quyền. Lẽ tất nhiên luôn có mặt Tiểu
Đoàn 2 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của ông.
Với những chiến công thâu đạt cấp kỳ như trên vừa kể, Tiểu Đoàn 2 là đơn vị đầu tiên của Lữ Đoàn Nhảy Dù được ân thưởng Giây Biểu Chương Anh Dũng Bội
Tinh với Nhành Dương Liễu sau chưa đầy một năm thành lập. Tiểu đoàn cũng là đơn vị độc nhất có một giàn đại đội trưởng thuần cấp bậc đại úy, không riêng đối
với nhảy dù mà chắc rằng cũng của toàn quân lực. Đơn vị sẽ chứng tỏ tiếp năng lực vượt trội của mình nơi những chiến trường kế tiếp để trở nên biểu trưng huyền
thoại: Đơn vị Không Hề Thất Bại với Người Chỉ Huy có danh hiệu Beo Gấm Chiến Trường.
Mùa đông 1967, vùng Bắc Tây Nguyên, Tỉnh Kontum với những vị trí chiến lược Dak Tô, Dak Sút (“Dak: Suối”) bao quanh bởi các cao độ Ngok Jrong; Ngok
Niay; Ngok Wank.. với đỉnh Ngọc Linh trấn thủ (cao 8520 bộ; “Ngọc” do phiên âm từ “Ngok: Núi”) là những vị trí chiến thuật mà phía cộng sản quyết tâm chiếm
giữ để nối vùng Tam Biên (Mặt Trận B3) xuống đồng bằng Nam-Ngãi (phần Trận Đỗ Xá đã trình bày tổng quát). Hơn thế nữa, Bộ Tổng quân ủy Hà Nội còn có
mục tiêu chiến lược (bao gồm yêu cầu chính trị-quân sự) muốn chứng minh Chiến Thuật Lùng và Diệt do Tướng Westmoreland chủ trương không khả năng thực thi
đối với cuộc chiến Miền Nam. Phối hợp với Sư Đoàn 4 Bộ Binh (đơn vị Mỹ nổi tiếng ở mặt trận Triều Tiên 1950-1953), từ giữa năm 1967, Lữ Đoàn 173 Nhẩy Dù
Mỹ được đưa vào vùng để thực hiện mục tiêu Lùng và Diệt của Tướng West. Trận chiến kéo dài suốt mùa mưa qua mùa khô giữa ba trung đoàn/Sư Đoàn 320 Bộ
Binh Bắc Việt với các đơn vị: Trung Đoàn 503/LĐ173Dù/Mỹ, Trung Đoàn 8, và 12/SĐ4BB/Mỹ bất phân thắng bại. Đơn vị hai bên thay phiên nhau chiếm đóng và
phản công lấy lại những ngọn đồi quanh lòng chảo Quận Dak Tô. Điển hình, trận đánh ngày 19 tháng 11 trên Đồi 875 (Cao độ 875 thước), Mỹ xử dụng Tiểu Đoàn
2/TrgĐ503/LĐ173 tiến chiếm mục tiêu, gặp phải thế trận phục kích của Trung Đoàn 174/SĐ320/BV bao vây; phi cơ Mỹ được gọi đến giải vây, lại ném nhầm quả
bom 500 pound vào đội hình quân bạn gây thiệt hại trầm trọng. Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn 173 Nhẩy Dù, Sư Đoàn 4 Bộâ Binh phải tăng cường tiếp viện đơn vị lâm
chiến. Nhưng mãi đến 22 tháng 11, trận chiến vẫn chưa kế thúc, bởi bộ đội Bắc Việt áp dụng chính xác, khôn ngoan phương thức tác chiến, kỹ thuật tránh bom,
pháo Mỹ bằng cách: “Bám chặt thắt lưng địch mà đánh” - Thêm tai nạn dội bom nhầm trong ngày 19/11 làm giới chức Mỹ không dám khai triển toàn diện sức
mạnh của phi, pháo cơ hũu. (4)
Chiến Đoàn 3 Nhẩy Dù do Trung Tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy gồm các Tiểu Đoàn 2, 3, 7 nhận lệnh vào vùng dứt điểm trận địa. Và trận chiến đến đây không
còn là thuần túy diễn tiến quân sự giữa hai phe lâm chiến, nhưng đã là mục tiêu để giới chức lãnh đạo của tất cả các bên đánh giá lại khả năng đơn vị và chiến lược,
chiến thuật áp dụng. Toàn thế giới, quốc hội, báo chí Mỹ đồng trông vào hoạt động quân sự của Mỹ và Nam Việt Nam ở vùng Tây Nguyên xa khuất nầy để lượng
định “Ai Thắng Ai” nơi diễn trường Đông Dương. Cuối cuộc, sau lần xung kích dứt điểm với ba tiểu đoàn, Chiến Đoàn 3 Nhẩy Dù đã dựng nên Lá Cờ Vàng cùng
chiếc nón Đỏ giữa vũng rừng bốc màn khói đục, trên đất đá điêu tàn của Đỉnh Ngok Wank, Cao Độ 1416; cũng chấm dứt mưu định đánh chiếm Tây Nguyên trong
chiến dịch mùa khô 1967. Chiến cuộc 1972, hay 1975 (phía cộng sản chủ công thực hiện) tại Tây Nguyên sau nầy chỉ là bản sao lại với kinh nghiệm rút tỉa được từ
những trận đánh ở những năm 1965, 1967 - Chiếm đóng được Tây Nguyên tức chiếm được Miền Nam - Giá máu của bao nhiêu quân binh qua những chiến công
giữ vững Tây Nguyên đã không được người gọi là “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu” lưu tâm đến trong lần ra lệnh rút bỏ cao nguyên ngày 17 tháng 3, 1975 - Đưa
đến hệ quả (tất nhiên) toàn diện sụp đổ Miền Nam, 30 tháng Tư, 1975.
Công trận lừng lẫy nâng cấp Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng Nguyễn Khoa Nam nên thành Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng, (Sau biến cố Mậu Thân (4/1968 ), Chiến Đoàn
Dù biên chế thành Lữ Đoàn). Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng được đề nghị giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn I Dù, dẫu trên cấp số tổ chức phải là một
chức vụ với cấp đại tá. Năm 1967 chấm dứt để sắp chứng kiến trận thư hùng mới bắt đầu từ Giao Thừa Mậu Thân, 1968. Và Chiến Đoàn Trưởng Lê Quang
Lưỡng lại thêm một lần. Chúng ta nên nhắc lại yếu tố: Người Lính Lê Quang Lưỡng chỉ kinh qua những chức vụ chỉ huy trưởng các đơn vị tác chiến kể từ một ngày
xa xưa năm 1955 mãi đến hôm ấy. Và những ngày dài lửa đạn sau nầy..
3. Giữa những vũng lửa..
31-Tết Mậu Thân, 1968.
Huế là một mặt trận quan trọng thứ hai sau Sài Gòn, là nơi phía cộng sản chiếm đóng được một phần thành phố, khu vực Quận Tả Ngạn Sông Hương (bao gồm
Thành Nội, khu dân cư Chợ Đông Ba, Gia Hội) trong thời gian từ 31 tháng 1 đến 24 tháng 2, 1968; thành lập được một tổ chức chính trị, Liên Minh Dân Tộc, Dân
Chủ, Hòa Bình. Việc tấn công chiếm đóng Huế tuy đưa đến hậu quả thất bại quân sự (đối với lực lượng cộng sản), nhưng Hà Nội lại chứng tỏ sách lược “Tổng
Công Kích-Tổng Nổi Dậy” có cơ sở thực tiễn, phát triển đúng các bước chiến lược song song với những chiến dịch quân sự, và họ đạt được thế thượng phong
thuận lợi chính trị qua khai hội Hội Nghị Paris (1968-1973). Mặt trận Huế có nhiều giai đoạn với nhiều đơn vị tham chiến: Sư Đoàn I Bộ Binh với Đại Đội Trinh Sát
Hắc Báo; Chiến Đoàn A/SĐ/TQLC; Liên Đoàn Biệt Động Quân; Thiết Đoàn Chiến Xa; Pháo Binh, và các lực lượng diện địa, cảnh sát thuộc Tiểu Khu Thừa
Thiên của phía VNCH; Và thành phần Thủy Quân Lục Chiến, Không Kỵ Mỹ thuộc phía đồng minh. Nhưng do chủ đề của bài viết, chúng tôi chỉ khai triển giai
đoạn đầu của chiến dịch (từ 31/1-12/2/1968) với Chiến Đoàn 1 Dù của Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng.
Trước Tết Mậu Thân 1968, Chiến Đoàn Dù gồm ba Tiểu Đoàn 2,7,9 chịu trách nhiệm toàn vùng từ Huế đến Quảng Trị suốt từ mùa Hè 1967. Ngày 28/1/1968, bộ
chỉ huy Chiến Đoàn 2 của Trung Tá Đào Văn Hùng bàn giao vùng trách nhiệm lại cho Chiến Đoàn 1 của Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng, ba tiểu đoàn kể trên vẫn giữ
nguyên nhiệm vụ chỉ định, chỉ thay đổi những vị trí theo phối trí như sau: Tiểu Đoàn 2 chịu trách nhiệm vùng quận Quảng Điền (Đông-Bắc Huế), vùng sình lầy dọc
Phá Tam Giang phía đông Quốc Lộ I; Tiểu Đoàn 7 đóng quân ở Căn Cứ Tử Hạ (Cây số 17 - Trên Quốc Lộ I, đoạn Huế-Quảng Trị), chịu trách nhiệm vùng núi
Tây Quốc Lộ I; Tiểu Đoàn 9 tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Trị (cách Huế 70 cây số về hướng Bắc). Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 cùng với Pháo Đội C của Đại Úy
Bùi Đức Lạc đóng cùng vị trí với Tiểu Đoàn 7. Đêm Giao Thừa, Tiểu Đoàn 9 ở Quảng Trị bị tấn công trước hết. Đại Đội 94 đóng ở Tri Bưu, làng Công Giáo cực
Tây thành phố bị tràn ngập bởi một tiểu đoàn cộng sản; Đại Đội Trưởng Thừa, hai Trung Đội Trưởng Lộc, Hổ đồng tử trận. Chiến trận được mô tả khách quan như
sau qua ghi nhận của viên cố vấn Mỹ: “Đại Đội 94 còn chừng 10 đến 15 người do một hạ sĩ quan chỉ huy (đúng ra là Chuẩn Úy Chỉ - Pnn) , tìm đường về Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn đóng tại Hạnh Hoa Thôn (ngỏ vào Quảng Trị - Pnn); đại đội nầy bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 812 Bắc Việt (thật sự là Tiểu Đoàn Đặc Công của
đơn vị nầy - Pnn) . Phần lớn lính nhảy dù chết tại vị trí chiến đấu, trong số có Cố Vấn John Church - Đúng như tinh thần của Chiến Binh Nhảy Dù - Chiến đấu đến
người lính cuối cùng!”(5) Nhưng sau thiệt hại ban đầu, Tiểu Đoàn 9 tổ chức lại thế trận, cùng các lực lượng bộ binh và diện địa Tiểu Khu Quảng Trị bẻ gãy mũi tiến
công của binh đội cộng sản; các đại đội của TĐ9 khép chặt vòng vây, diệt gọn các lực lượng xâm nhập thuộc Trung Đoàn 812, thây chết nằm chật cánh đồng Chi
Khu Mai Lĩnh. Mặt trận Quảng Trị mau chóng kết thúc trong ngày Mồng 4. Không chút nghỉ ngơi, Tiểu Đoàn 9 trực thăng vận liền vào Thành Mang Cá (nơi đặt
Bộ Tư Lệnh SĐIBB với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng), tăng cường Chiến Đoàn 1 thực hiện nhiệm vụ quan trọng: Bảo vệ Thành Mang Cá, tiến ra giải tỏa các
cứ điểm trong Thành Nội, để đạt kết thúc quét sạch toàn diện lực lượng cộng sản chiếm đóng thành phố Huế, hiện thực hùng tâm giữ nước của Quân Dân Miền
Nam - Cũng để chứng thực cùng lịch sử - Có hay không có cuộc xâm lăng gọi là “Giải phóng Miền Nam” trên vùng đất khổ nạn đau thương nầy.
Từ ngày Mồng Một Tết (30 tháng 1/1968) khi hay tin Tiểu Đoàn 9 bị tấn công ở Quảng Trị, Thiếu Tá Lê Quang Trưởng từ Thành Tử Hạ (Cây Số 17) cùng Bộ Chỉ
Huy Chiến Đoàn đã vào đến Mang Cá để chứng thật cùng Tướng Ngô Quang Trưởng điều cao quý cảm khích: Những Người Bạn Chiến Đấu luôn có mặt cùng
nhau - Tình bạn trong sáng giữa những người lính chiến không chút tỵ hiềm được hình thành từ ngày tuổi trẻ hơn mười năm trước (Dẫu hai người nay cách nhau
một khoảng cách về cấp bậc (Chuẩn Tướng-Thiếu Tá), tuy rằng đã cùng chung một khóa sĩ quan, với một đơn vị đầu đời, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù). Thiếu Tá Lưỡng
tổ chức những quân nhân tiền trạm của ba tiểu đoàn Dù (những quân nhân chuyên trách truyền tin, tiếp tế, tải thương..) thành những đơn vị chiến đấu - Và chính
thành phần quân nhân tác chiến tại chỗ nầy đã giữ vững Mang Cá trong đợt tấn công đầu tiên của Tiểu Đoàn 12 Đặc công cộng sản. Mang Cá đã là mục tiêu điểm
hẹn của tất cả mọi mũi tấn công do chính Thủ Trưởng đơn vị E6 (E: Trung đoàn) Nguyễn Trọng Đấu chỉ huy với ý niệm chỉ đạo chiến dịch - Chiếm được Mang Cá
có nghĩa đánh sập được trung tâm đầu não của phía quân lực cộng hòa. Biết rõ như thế, nên đêm Mồng Một, hai Tiểu Đoàn 2 và 7 được lệnh bôn tập từ Quảng
Điền, An Lỗ về Huế bằng phương tiện đôi chân trên quãng đường mười-bảy cây số dày đặc phục kích. Tiểu Đoàn 7 bị chận ngay tại làng Đốc Sơ, Cầu An Hòa,
mối nối phía Tây vào khu vực Hoàng Thành Huế, Đại Úy Nguyễn Lô và đại đội của anh, mũi nhọn xung kích của Tiểu Đoàn 7 bị thiệt hại nặng, tiểu đoàn phải phân
tán mỏng quanh những mồ mã, nhường mục tiêu lại cho Tiểu Đoàn 2; Đại Úy Nghi, tiểu đoàn phó TĐ2 chịu phận tử thương trong đợt xung phong đầu tiên. Hai tiểu
đoàn tiếp nương nhau băng qua hào rộng, vượt Cầu An Hòa, chiếm Cửa Chánh Tây, sân bay Tây Lộc, bao quanh Thành Mang Cá một vòng đai vững chắc, để từ
đây dần chiếm lại Đại Nội do đơn vị Hắc Báo/SĐIBB trách nhiệm trấn giữ, nhưng do ít quân số phải rút lui từ đêm trước. Ngày mồng Bốn (2/2/68 ), được tăng viện
Tiểu Đoàn 9 từ Quảng Trị vào, vòng đai nhảy dù dần nới rộng ra, từ Mang Cá qua Hồ Tỉnh Tâm, Cửa Đông Ba, Cửa Thượng Tứ (Chánh Nam), đường ra khu dân
cư, phố chính Trần Hưng Đạo.
Ngày 12/2, sau hơn hai tuần liên tục tác chiến, quân số tham chiến của Chiến Đoàn 1 Dù chỉ còn lại khoảng một tiểu đoàn (thiệt hại hơn 1/3; có đại đội bị hoàn toàn
bất khiển dụng) và các mục tiêu chiếm đóng xong lại không đủ quân số phòng giữ, nên chiến đoàn được lệnh bàn giao vùng trách nhiệm lại cho đơn vị bạn, Lữ
Đoàn A/SĐ/TQLC. Để từ đây, các đơn vị Quân Lực VNCH hiệp cùng binh đoàn TQLC/Mỹ thực hiện nên khung cảnh bi hùng của cuộc chiến giữ nước: Lá cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ được kéo lên trên Kỳ Đài giữa mưa mờ mùa Xuân xứ Huế tang tóc, sáng ngày 24 Tháng 2, 1968.
Trở lại Sàigòn, Chiến Đoàn 1 Dù được chỉ định ngay nhiệm vụ bảo vệ vòng đai thủ đô, mặt trận phía tây, đường đi về Tây Ninh, Hậu Nghĩa trong Chiến Dịch Trần
Hưng Đạo, tiếp Chiến Dịch Toàn Thắng quét sạch, diệt gọn lực lượng cộng sản bôn tập từ những mật khu miền Đông Nam Bộ đánh chiếm Sàigòn từ đêm Giao
Thừa Mậu Thân (29/1/1968). Với biên chế mới nên thành cấp lữ đoàn, Trung Tá Lê Quang Lưỡng tiếp tục giữ chức Lữ Đoàn Trưởng. Thật ra, ông đã có quyết
định thăng chức từ ngày 1 tháng 1, 1968 - Ngày nhận nhiệm vụ chỉ huy Chiến Đoàn 1.
32- Toàn Thắng, 1970.
Từ giữa năm 1969 qua 1970, Lữ Đoàn I Dù thống thuộc Sư Đoàn Dù phối hợp với Đệ Nhất Sư Đoàn Không Kỵ Mỹ (1stCAV), Sư Đoàn 25 BB/Mỹ; Sư
Đoàn25BB/VNCH trong khuôn khổ các cuộc Hành Quân Toàn Thắng dưới quyền Tư Lệnh Quân Đoàn III Tướng Đỗ Cao Trí, đã quét sạch toàn vùng mật khu
tưởng như bất khả xâm phạm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Long, Phước Long (Sông Bé), những vùng đất mang tên “Chiến Khu Đ; Khu Tam Giác
Sắt..v.v”, để chuẩn bị sau nầy cho một kế hoạch lớn, quan trọng hơn một chiến dịch quân sự thuần túy.
Năm 1970, để thực hiện sách lược “..chận đứng cuộc xâm lăng (của Bắc Việt) đối với quốc gia ấy (Miền Nam Việt Nam), cũng để công cuộc Việt Nam Hóa
chiến tranh, và kế hoạch rút quân Mỹ được tiếp tục”(6), chính phủ Mỹ chấp thuận kế hoạch phối hợp và yểm trợ quân lực VNCH hành quân vượt biên đánh chiếm
bản doanh Trung ương cục cộng sản miền Nam, bí danh “R” - Mục tiêu nằm rộng, sâu trên đất Miên song song với hai vùng lãnh thổ Vùng III và IV của miền Nam
(bao gồm các Tỉnh Sông Bé, Bình Long, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Kiến Tường); và những binh trạm cộng sản đối diện những tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuộc
thuộc Vùng II Tây Nguyên. Ngày 1 tháng 5, đại quân Miền Nam gồm 50,000 người theo ba mũi tấn công vào đất Miên dưới ba kế hoạch hành quân mang Danh
Hiệu: Bình Tây (Vùng II); Toàn Thắng (Vùng III); và Cửu Long (Vùng IV).
Riêng tại Vùng III chiến thuật, các cuộc Hành Quân Toàn Thắng (Chỉ danh từ 42 - 46) có những mục tiêu quan yếu nằm trong hai vùng đất mệnh danh, “Lưỡi
Câu” - Đối diện các Tỉnh Phước Bình (Sông Bé); Bình Long; Tây Ninh); và “Mõ Vẹt” - Đối diện với Tỉnh Hậu Nghĩa, Kiến Tường (Vùng VI). Lực Lượng Nhảy
Dù huy động toàn bộ ba lữ đoàn chiếm đóng các căn cứ hỏa lực (CCHL) được đặt tên từ A (Anne), B (Barbara).. đến V (Vichy) xen kẻ với các đơn vị Không
Kỵ Mỹ (CAV) chạy dài từ Tây Ninh sang Sông Bé, để từ đấy dùng làm căn cứ tấn công vào đất Miên song song với lực lượng Không Kỵ Mỹ, có thiết giáp và phi
pháo Mỹ yểm trợ. Chỉ riêng cuộc Hành Quân Toàn Thắng 42, cánh quân phía Bắc gồm Nhảy Dù, SĐ25BB, BĐQ tiến sâu vào đất Miên đến 60 cây số (quân lực
Mỹ chỉ được phép vào sâu 30 cây số - Lệnh Tổng Thống Nixon), truy kích Trung Ương Cục cộng sản phải chạy trốn lên vùng Kratié; tịch thu 2000 vũ khí các loại,
308 tấn đạn dược; phía cộng sản bị thiệt hại nặng về nhân mạng với 3, 588 tử thi để lại trận địa (dù phần lớn bộ phận đã được lệnh tránh tác chiến, rút đi không kịp
mang theo kho tàng, quân trang dụng). Hành quân Toàn Thắng 43 tiếp theo cũng có kết quả tương tự, gây thiệt hại cho đối phương 3,190 tử thương; và quan trọng
hơn hết, toàn bộ khu vực hậu cần gồm căn cứ huấn luyện, bệnh viện giải phẫu đồng bị phá hủy. Quân lực cộng hoà tịch thu hơn hai triệu đạn, 300 xe vận tải của bộ
phận chuyển vận.
Tổng kết toàn bộ cuộc hành quân qua Campuchia, chuyên viên quân sự ước tính thiệt hại to lớn của phía cộng sản, với nhân lực bị tổn thất nặng (11,349 chết; 2328
tù binh bị bắt), và quân trang bị, kho tàng bị phá hủy - Số lượng người và vũ khí có khả năng tổ chức, trang bị cho 54 tiểu đoàn trong một năm. Về mặt trận chính trị,
chế độ Lonol có điều kiện duy trì vững chắc do tình hình quân sự được cải thiện: Đường Số 4 nối Nam Vang - Hải Cảng Shihanouk được khai thông khi quân lực
VNCH chiếm đóng, kiểm soát được vị trí chiến lược Kompong Speu.(7)
Nhưng thành quả lớn nhất của cuộc hành quân là số lượng 50,000 người Việt (hoặc Miên gốc Việt) được giải thoát ra khỏi cuộc tàn sát của “Lính Campuchia bao
gồm Lính Lonol, lính Shihanouk, lẫn lính Kmer đỏ” nhân dịp sau khi Lonol đảo chính lật đổ chính quyền Shihanouk, cũng là dịp để tàn sát người Việt với oán thù
nuôi dưỡng hằng thế kỷ - Nay trút xuống thêm do sự chiếm đóng của phía quân đội cộng sản. Quân và Dân mang căn cước Việt Nam Cộng Hòa hứng chịu toàn
phần hậu quả của trận cuồng phong lịch sử hung hãn nầy.
Màn đầu của chiến dịch “Cứu Dân” được thực hiện do khi Lữ Đoàn 1 điều động đơn vị cơ hữu, Tiểu Đoàn 1 Dù vào hành quân phía bắc Trại Lực Lượng Đặc Biệt
Kà-tum (Thuộc Tỉnh Bình Long, sát biên giới Miên-Việt). Tiểu đoàn giải cứu được một thanh niên người Việt sống sót sau cuộc tàn sát ở đồn điền Mimot (Khu đồn
điền người Pháp trong lãnh thổ Campuchia). Người nầy cầu xin quân Dù tiếp cứu hàng ngàn người dân đang bị kẹt trong vùng Mimot và sắp sửa lính Miên “cáp-
yuồn - Chặt đầu - Cáp: chặt; Yuồn: Việt”. Đại Tá Lưỡng (vinh thăng từ 1/1/1970) khẩn cấp chuyển lời cầu xin đau thương nầy đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đang họp
cùng Tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Trí khẩn lệnh Đại Tá Lưỡng xử dụng trực thăng cơ hữu của Việt Nam trong đêm tối đỗ ngay Tiểu Đoàn 2 Dù (đơn vị đầu tiên của
Đại Tá Lưỡng) xuống đồn điền Mimot. Lính Miên không phải là địch thủ của lính Dù nên toàn bộ bị bắt sống và hàng ngàn đồng bào sau đó được di chuyển liền về
Thiện Ngôn bằng GMC của quân đội.(8 ) Cuộc hành quân giải cứu có mặt đủ tất cả những giới chức cao cấp nhất của mặt trận: Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh
Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhảy Dù; Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng, và nhiều sĩ quan tham mưu cao cấp của Quân Đoàn
III cùng Sư Đoàn Dù.. Bởi vị tư lệnh cao nhất của chiến trường, Tướng Quân Đỗ Cao Trí đã cùng hai đại đội đầu tiên nhảy xuống khu đồn điền Mimot ngay trong
đêm. Có một điều cần phải nói rõ thêm: Bản doanh bộ chỉ huy cộng sản của Tướng Trần Văn Trà không xa khu vực Mimot, nhưng “bộ đội giải phóng” án binh bất
động để mặc lính Campuchia tàn sát “đồng bào người Việt của họ” vì lý do “bảo mật vị trí, công tác”, cũng như không muốn mất lòng “bạn - Bạn nào hở trời (!?)”
đang cho họ mượn đất lập căn cứ theo tinh thần “anh em quốc tế vô sản (!)”. Một lý do nữa có thể dùng giải thích đối với hành vi bất nhân, vô đạo nầy là: Những
người Việt (hầu hết là đàn bà, con trẻ) để mặc bị giết do đã bị phía cộng sản (Cộng sản Việt, bất kể Nam hay Bắc) quy kết, xếp loại: “Ngụy”-Ngụy Dân thuộc
Ngụy Quân; Ngụy Quyền”.
Người cộng sản (Việt cộng, nếu muốn gọi đúng, đủ danh từ, bản chất) vốn nhiều lần im lặng.. Im lặng (và vỗ tay reo mừng) khi quân Pháp giết “Người cách mạng
quốc gia” giai đoạn 1939-1945. Im lặng lần Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa (tháng 1/1974); im lặng như lớp lớp sóng biển đông chìm lấp vạn thây người ba nước
Đông Dương bị hải tặc Thái, Mã giết hại những ngày họ liều chết vượt biên sau 1975, để sau nầy những người sống sót trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, đơn vị
đồng bào thân thương, một vấn đề “bức xúc” của những người cầm quyền ở Hà Nội. Màn hí kịch bi thảm cực độ nầy hiện tại đang diễn ra với cách dàn dựng trân
tráo tàn nhẫn nhất được tiếp tay bởi những nhân sự tên gọi Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Nhất Hạnh.. Và nhiều kẻ nữa.
Sự thật đơn giản trên hình như đã, đang được (thật ra là bị) nhiều người trong chúng ta quên khuất. Quên theo nghĩa của một tiến triển hợp lý, tự nhiên.
33-Hạ Lào, 1971.
Hành Quân Lam Sơn 719 được khai diễn như một thử thách do toan tính từ những yêu cầu chính trị - Những đòi hỏi chính trị của người Mỹ nơi Toà Bạch Ốc, Thủ
Đô Hoa Thịnh Đốn, và những người Việt cầm quyền tại Dinh Độc Lập, Sàigòn. Đối lại, Bộ Tổng Quân Ủy ở Hà Nội không phải đợi đến tháng Hai, năm 1971 (khi
cuộc hành quân khai diễn) mà từ 1959, đã quyết định thành lập Đoàn 559 để thiết lập, kiến tạo đường giây tiếp vận Bắc-Nam chạy dọc theo hai triền Tây-Đông
Trường Sơn. Đến năm 1971, công tác đã hoàn thành một đường giây hậu cần chiến lược, triển khai lực lượng và cơ sở vật chất ở nam sông Gianh -Quảng Bình để
tạo chân hàng chi viện cho các chiến trường miền Nam, và bảo đảm chiến dịch của chiến trường Trị-Thiên kế cận miền Bắc (9). Đường giây nầy trước tiên (1959 )
do Thượng Tá Võ Bẩm trách nhiệm (chỉ xử dụng chủ yếu đường Tây Trường Sơn với nhân lực, cơ giới còn là thứ yếu); đến năm 1965, đường phía Đông được
hoạch định để nên thành một hệ thống xa lộ (với ống dẫn dầu vào tận các ngã rẽ xuống đồng bằng Trung-Nam Bộ, tổng cọng chiều dài 20,000 cây số) do những
chuyên viên xây dựng cao cấp như Phan Trọng Tuệ, Bộ Trưởng Bộ Giao Thông kiêm Tư lệnh lực lượng Đường 559; Tuệ được Hoàng Văn Thái, Tổng cục phó
Tổng Cục Hậu Cần (phân biệt với Tướng Hoàng Văn Thái, Tổng Cục Chính Trị) thay thế vào năm 1966. Tất cả đặt dưới quyền Đồng Sĩ Nguyên, Tư Lệnh Bộ Đội
Trường Sơn từ 1966 đến 1975. (9Bis)
Bởi không biết rõ, đủ những điều trên (hoặc cố tình như không biết), nên những người soạn thảo kế hoạch hành quân Việt-Mỹ ước tính trong vùng Hạ Lào, tại vị trí
tiếp vận Tchépone, dọc Đường Số 9 chỉ có khoảng từ 11,000 đến 12, 000 lính Bắc Việt, chủ yếu là thành phần phụ trách tiếp vận, bảo vệ đường giây, với số vũ khí
nặng có chừng 1400 đến 2000 đơn vị. Vì ước tính như thế, nên những giới chức Mỹ-Việt chỉ đạo cuộc hành quân nghĩ rằng sẽ chiếm phần ưu thắng khi huy động
hết lực lượng trừ bị quốc gia gồm hai Sư Đoàn Dù và TQLC; xử dụng Sư Đoàn I Bộ Binh, một Liên Đoàn Biệt Động Quân/Quân Khu I làm thành phần xung kích
có pháo binh diện địa của quân khu, và cơ hữu của các đơn vị yểm trợ; Lữ Đoàn I Thiết Kỵ tăng cường, phối hợp hành quân. Tổng cộng đạo quân gồm từ 15,000
đến 16,000 người. Về phía Mỹ, phi cơ B52 của không lực; chiến đấu cơ của hải quân; trực thăng của bộ binh đảm trách phần yểm trợ bao vùng, không yểm chiến
thuật, và không vận, dẫu bị hạn chế bởi Tu Chính Án Cooper - Church cấm xử dụng không quân Mỹ trên đất Lào. Sư Đoàn 101 Nhảy Dù và Lữ Đoàn 1/Sư Đoàn 5
Bộ Binh Cơ Giới Mỹ đảm trách phần an ninh bên trong lãnh thổ Việt Nam, phần tiếp giáp với khu vực hành quân của Lam Sơn 719; Pháo Đội 108 Mỹ với pháo tầm
xa 175 ly đóng ở Khe Sanh yểm trợ tăng cường cho pháo binh của đơn vị Việt Nam (10) Phần viết tiếp theo sẽ giới hạn diễn tiến cuộc hành quân qua hoạt động
của Sư Đoàn Nhẩy Dù liên quan đến Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn I Dù, Đại Tá Lê Quang Lưỡng.
Điểm tiếp vận Tchépone thuộc vùng Binh Trạm 604 và 611 (Lưu ý những phiên hiệu để biết , chúng được xây dựng từ những năm 1960, 1961), nằm trên Đường Số
9 (nối Quảng Trị và Savannakhet của Hạ Lào) cách xa biên giới Lào-Việt khoảng 20 miles (30 cây số). Với ước tính như phần trên vừa trình bày, giới chức quân
sự Mỹ-Việt có suy diễn: “Giá như phía cộng sản có tăng cường thêm quân số, lực lượng trừ bị cho chiến trường nầy cũng không thể quá hơn một sư đoàn (!)” Ngày
8 tháng Hai, 1971, chiến dịch bắt đầu với Lữ Đoàn I Dù gồm hai tiểu đoàn cơ hữu (1, 8 ) tùng thiết chiến xa của Lữ Đoàn I Thiết Kỵ vượt qua Căn Cứ Hỏa Lực
Bravo của Tiểu Đoàn 5 (cứ điểm bảo vệ hậu tập) tiến đến Bản Đông, vị trí nằm giữa đoạn đường tới Tchépone. Ngày 9, Tiểu Đoàn 9 trực thăng vận xuống chiếm
đóng Bản Đông, làm đầu cầu cho cánh quân bộ của Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn Thiết Kỵ. Mưa lớn làm con đường biến thành một bãi lầy, dính chắc chiến xa và bộ
binh, thêm các thành phần thuộc Trung Đoàn 64/SĐ320CS ngăn chận, phá quấy liên tục, nên đoàn quân chỉ có thể di chuyển được một đoạn ngắn tối thiểu trong hai
ngày 9, 10.. Mãi đến ngày 11, Tiểu Đoàn 8 của Trung Tá Văn Bá Ninh, thành phần tiền phong của lữ đoàn mới tiếp xúc được với Tiểu Đoàn 9 ở Bản Đông, thiết
lập nên Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới, cũng là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 - Thành phần xa nhất của mũi tiến quân trên Đường Số 9. Tiểu Đoàn 1 khám phá một kho quân
trang, quân dụng; Tiểu Đoàn 8 tìm thấy 2000 chiếc xe đạp của Trung cộng còn mới, và 1000 chiếc cũ đã xử dụng, kho nhiên liệu để chạy động cơ máy nổ, quân
xa; Tiểu Đoàn 9 tung quân lục soát quanh căn cứ khám phá một trung tâm huấn luyện rất quy mô ngụy trang dấu kỹ trong một khu rừng rậm..
Những thu hoạch chiếm cứ của Lữ Đoàn I Dù tuy quan trọng nhưng không phải Mục Tiêu Lớn của chiến dịch; khi chiếc sườn thiết lập trên Đường 9 đã vững, bộ
tư lệnh hành quân tiếp khai triển lực lượng bảo vệ hai mặt bắc, nam của con lộ huyết mạch. Mặt Bắc, đổ bộ hai Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân thiết lập hai
Căn Cứ Hỏa Lực Ranger South và Ranger North (Các căn cứ thường có ám số, hoặc ám danh với danh tự Mỹ để dễ liên lạc trên tầng số không lục với phi cơ,
pháo binh Mỹ yểm trợ) trong hai ngày 8 và 11/2; trực thăng vận hai Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù xuống tại hai cao điểm đặt tên Căn Cứ 30, Căn Cứ 31; Bộ Chỉ Huy Lữ
Đoàn 3 Dù đóng tại Căn Cứ Hỏa Lực 31 (Cao độ 456 thước) với Tiểu Đoàn 3 của Trung Tá Lê Văn Phát. Về mặt nam Đường 9, các tiểu đoàn của Trung Đoàn
3/SĐIBB trực thăng vận chiếm đóng các căn cứ có tên Hotel, Blue, Don, Delta và Delta1. Sư Đoàn TQLC đóng tại Khe Sanh và những cao độ như đỉnh Cô Rốc
(cao 800 thước) ở phía Nam làm thành phần trừ bị cuộc hành quân. Tính đến ngày 11/2 tình hình được đánh giá là khả quan với hai cạnh sườn Đường Số 9 được
bảo vệ khá kỹ, thời tiết tương đối tốt, Lữ Đoàn 1 của Đại Tá Lê Quang Lưỡng cùng lực lượng thiết kỵ của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật sẵn sàng vượt tuyến xuất
phát A Lưới để tiến chiếm Tchépone như dự tính. Nhưng một điều thậm vô lý đã xẩy đến mà hôm nay hơn ba-mươi năm sau vẫn không được giải thích: Chiến trận
bỗng nhiên bị chận đứng lại - Suốt bốn ngày từ 11 đến 14 không một lệnh nào đến cùng với Sư Đoàn Dù, cụ thể đối với Lữ Đoàn I của Đại Tá Lê Quang Lưỡng
với Thiết Kỵ của Đại Tá Nguyễn Trọng Luật , thành phần xung kích đang sẵn sàng tiến chiếm Tchépone bằng ngã đường bộ.
Sau nầy (Sau 30/4/1975), Tướng Hoàng Xuân Lãm có giải thích (về việc ngưng tiến quân trong những ngày 11-14/2/71) như sau: “Vào ngày thứ hai của cuộc hành
quân (9/2), chiếc trực thăng chở những sĩ quan cao cấp của quân đoàn gồm Trưởng Phòng III, Trưởng Phòng IV bị bắn rơi có tấm bản đồ Hành Quân Lam Sơn
719.. Nên Tướng Lãm án binh sau tuần lễ đầu là để hoàn tất kế hoạch điều động cho phù hợp với tình hình, vì nhờ tấm bản đồ của Trưởng Phòng III/Quân Đoàn
(Phòng Hành Quân), đối phương đã biết được ý định điều quân, lực lượng tham chiến, cũng như kế hoạch lui binh của ta.”(11) Việc đình hoãn cuộc tấn công thì
được Tướng Davidson, Trưởng Phòng Quân Báo (Phòng II), Bộ Tư Lệnh MACV tìm hiểu qua một lý do khác: “Trong cuộc họp ngày 12/2 với Tướng Lãm và các
tư lệnh chiến trường, Thiệu nói với Lãm: “Cẩn thận khi tiến quân về hướng Tây, và hủy bỏ cuộc hành quân nếu như quân đội cộng hòa bị tổn thất đến số 3000
thương vong..”(12). Không biết ai đã là người đã thực sự ra lệnh đình hoãn cuộc tiến quân, chỉ biết quân đội cộng hòa đã mất đi một số ngày thuận lợi vô cùng quý
giá. Và trong những ngày quyết định kia, phía cộng sản, đã từ thái độ phân vân ở những ngày đầu tháng Giêng.. “Khi chúng đổ quân vào Đông Hà, trong anh em
cán bộ chúng tôi vẫn còn những câu hỏi thắt mắc: “Liệu chúng nó ra Miền Bắc hay sang Lào?”(13) đến cách thức quyết định có những hành động cụ thể ..”Cũng
trong ngày 9 (9/2), Trung Đoàn 88 vừa đặt ba-lô xuống là chiến đấu ngay” (14) Phía Mỹ-Việt, hẳn cũng có người thấy ra điều vô lý nguy hại kia, nên ngày 14/2,
Tướng Abrams, Tư Lệnh Quân Lực Mỹ tại VN đích thân đến gặp Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng để thúc dục đến mức như van nài phải thực
hiện kế hoạch tiến chiếm Tchepone như dự liệu (15). Ngày 14 qua đi không động tỉnh. Quá nôn nóng bởi tình hình tắc nghẻn, người lính thuần thành kinh nghiệm
Abrams bay ra Đông Hà với Tướng Viên, và Tướng Sutherland, Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV (Lực lượng Mỹ ở Vùng I) trực tiếp gặp Tướng Lãm để thúc dục việc
khai triển Sư Đoàn I BB ở phía nam Đường 9, để giữ an toàn cho Thiết Kỵ-Nhảy Dù (trên con đường) tiến chiếm Tchépone. (15Bis)
Nhưng tất cả thúc dục đã là vô ích. Năm ngày mất đi là thời gian đủ để ba Sư Đoàn 304, 308, 320 khai triển, tổ chức toàn hảo thế trận với hai trung đoàn chiến xa
hạng nặng có pháo tầm xa 130 ly, 122 ly yểm trợ.. Cơn bão lửa sẵn sàng chụp xuống cùng lúc với quyết định cuối cùng của Tổng Thống Thiệu nói cùng Tướng Lãm
trong ngày 19/2: “Lưu ý nguy hiểm đối với sư đoàn 308 với chiến xa T34, T54.. Hãy cẩn thận, từ từ cho tăng cường lục soát về hướng Tây-Nam” (16)
Chúng ta không được phép khe khắt, chủ quan, thiên lệch khi tìm hiểu, tra cứu đối với người và việc thuộc về lịch sử; nhưng phải có bổn phận khách quan nhận ra
những khuyết điểm của quá khứ để tránh lỗi lầm cho tương lai - Mà đôi khi (rất nhiều khi) tương lai là một sự đã rồi không khả năng, cơ hội phục hồi (như trường
hợp hôm nay với quân lực và chế độ Việt Nam Cộng Hòa). Sau chiến trận Hạ Lào, riêng về mặt quân sự, các sư đoàn bộ binh, nhảy dù, TQLC; lữ đoàn thiết kỵ;
chiến đoàn BĐQ; các đơn vị pháo binh, công binh.. đã gánh chịu phần tổn thất (vũ khí, phương tiện, quân số, khả năng tác chiến..) vô cùng trầm trọng mà cá nhân
người lãnh đạo Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu qua chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Đội phải hoàn toàn trách nhiệm chứ không ai khác. Những tính toán chính trị và
sai lầm chiến lược, chiến thuật về chiến dịch Hạ Lào đã đưa đến hậu quả tất nhiên nơi chiến trường với giá máu của vạn quân binh tham chiến. Căn cứ Ranger
North và Ranger South của Biệt Động Quân bị tràn ngập ngày 24/2 bởi lực lượng Trung Đoàn 102/SĐ308; chiều ngày 25/2, Căn Cứ 31 của Lữ Đoàn 3 Dù thất thủ;
với quân số thực tế chỉ gồm hai Đại Đội 33 và 34 (-), Pháo Đội C/TĐ3PB/ND, và thành phần chỉ huy của lữ đoàn phòng thủ nên không thể nào đương cự đối với
những đợt tấn công cấp trung đoàn có chiến xa yểm trợ, sau khi đã bị tê liệt toàn diện bởi pháo tầm xa cường tập hủy diệt. Trên chiến trường, nơi Đồi 31 đã xẩy ra
thảm kịch.. “Ba phần tư ngọn đồi (Đồi 31 của Lữ Đoàn 3 Dù; Tiểu Đoàn 3 Dù-Pnn) đã nằm trong tay địch. Chúng tôi chỉ còn giữ được một phần bộ chỉ huy tiểu
đoàn, lữ đoàn, nhưng không còn ai ở trong những vị trí đó.. Sau khi tái phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh trực tiếp của tiểu đoàn tổ chức một cuộc phản kích
toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm lại những vị trí đã mất với hy vọng không quân (Mỹ) sẽ yểm trợ hữu hiệu.. Đợt phản kích không đủ sức mạnh để đạt hiệu
quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người và xe tăng..”(18 )
Thất bại của các đơn vị (nhảy dù, biệt động quân) trong việc bảo vệ các căn cứ có những nguyên nhân cụ thể, và ảnh hưởng tương quan.. Hoặc vì trường hợp một
cá nhân: “Vào lúc nầy (15 giờ 20 chiều ngày 25 tháng 2, 1971-Pnn), một phản lực cơ F4 của Hoa Kỳ bị bắn cháy, Toán Điều Không Tiền Tuyến (FAC) đã phản
ứng bằng cách ngưng yểm trợ Đồi 31 để ưu tiên dồn nỗ lực vào việc cấp cứu phi công”(19); Hoặc đấy là tình hình chung: “Đêm chót (25/2/1971), Bắc Việt pháo
kích liên tục cho đến sáng, (quân binh Đồi 31) không ngóc lên được. Không quân Hoa Kỳ lại yểm trợ không hữu hiệu.. Khi chiến xa và bộ binh của Lữ Đoàn 1 Đặc
Nhiệm đến nơi thì Đồi 31 đã mất”(19Bis). Do không biết tình hình đích xác ở Đồi 31, Lữ Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng cố gắng lần cuối, dùng hai đại đội của
Tiểu Đoàn 8 do Thiếu Tá Phú, Tiểu đoàn phó chỉ huy cùng một lực lượng thiết kỵ gồm năm chiến xa M41 và một số thiết vận xa MPC của Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh
cố đánh giải vây và tiếp viện Căn Cứ 31. Nhưng khi lực lượng tiếp cứu tới nơi thì phần lớn Đồi 31 đã do lực lượng cộng sản kiểm soát. Cuộc hành quân giải vây
biến thành cuộc hành quân tái chiếm, và trận xa chiến giữa hai bên diễn ra qua ba đợt trong những ngày từ 25 đến 28 gây nên tổn thất lớn cho đôi bên cả chiến xa
lẫn nhân mạng.
Tiêu diệt xong Căn Cứ 31, lực lượng cộng sản mặt Bắc Đường 9 tập trung vào Căn Cứ Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ. Với can đảm, khôn ngoan, và bình tĩnh
tuyệt vời, viên sĩ quan Ban 3 Tiểu Đoàn, Đại Úy Trần Công Hạnh đã điều động phi cơ AC130 thả trái sáng, và hướng dẫn phi cơ chiến thuật Mỹ (Hạm Đội 7 bay
vào) yểm trợ tiếp cận để phần còn lại của tiểu đoàn rút bỏ căn cứ vào lúc 9 giờ sáng ngày 3/3/1971 sau khi phá hủy những khẩu pháo binh nặng của lực lượng pháo
Quân Đoàn I, và cơ hữu của pháo binh Dù .
Khi dãy căn cứ mặt Bắc bị nhổ bỏ, Lữ Đoàn I Dù đối diện cùng lần với ba sư đoàn Bắc Việt, cũng do đối phương đã biết rõ kế hoạch tiến chiếm Tchepone bằng
đường bộ bị hủy bỏ, và lữ đoàn cùng các thành phần cơ hữu chỉ còn đợi lệnh rút lui theo một kế hoạch đã hoàn toàn bạch hóa bởi sự kiện bản đồ hành quân đã bị
mất từ ngày 9 tháng Hai. “Lê Lợi 612” siết cau vầng trán.. Những thành phần sống sót của hai Tiểu Đoàn 2, và 3 đã mất hết khả năng chiến đấu, đạn không còn,
thương binh không tải thương được, người chết không thể lấy về - Những người chết hằng quen biết, những người bị địch bắt giữ quá thân thiết như Tiểu Đoàn
Trưởng Nguyễn Văn Phan, Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Thọ.. Và bao nhiêu quân binh nhớ mặt thân yêu của hai Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 5, những đơn vị đầu
đời thân thiết của ông; những tiểu đoàn thuộc quyền cơ hữu: 1, 8, 9.. Beo Gấm của Chiến Trường dần nhận rõ ra sự bất lực của chính mình và đơn vị - Tất cả đã
rơi vào chiếc bẫy sập xuống.
Sau khi Tiểu Đoàn 4 và 5 do hai viên sĩ quan lừng lẫy của Sư Đoàn I Bộ Binh, Trung Tá Lê Huấn và Thiếu Tá Trần Ngọc Quế chỉ huy “đặt chân” xuống
Tchépone, chiến dịch Hành Quân Lam Sơn 719 được đánh giá coi như đạt “mục tiêu bề mặt”, và lệnh triệt thoái được khởi đầu vào ngày 9 tháng 3. Bấy giờ, Lữ
Đoàn 1 chỉ còn trông cậy vào sức của riêng mình để tồn tại và rút lui khỏi vùng chiến trận mà đến lúc nầy quân số địch đã lên đến 40,000 người - Gấp bốn lần số
lượng ước tính ban đầu. Nếu ngày khởi cuộc, Căn Cứ A Lưới là đầu cầu xa nhất của mũi tấn công, thì nay là cứ điểm rút lui sau cùng, khi các căn cứ Lolo và
Sophia của bộâ binh đã di tản. Toàn bộ gánh nặng cuộc hành quân triệt thoái của cánh quân bộ binh trên Đường Số 9 đè nặng lên trách nhiệm cá nhân Lữ Đoàn
Trưởng Lữ Đoàn 1 hằng ngày Lê Lợi 612 phải xử dụng trực thăng để thống nhất liên lạc giữa các đơn vị bị phân tán sau những thiệt hại lớn; các chỉ huy trưởng
đơn vị hoặc chết, hoặc bị thương như trường hợp toàn ban chỉ huy của TĐ1 và TĐ7 Dù đồng bị nạn. Ngày di tản khỏi A Lưới, mọi người đồng có ý kiến Đại Tá
Lưỡng nên dùng đường bộ để được an toàn hơn, nhưng do ý muốn ở lại với những đơn vị thuộc quyền, nên ông là người cuối cùng lên trực thăng. Chiếc tàu bị bắn
rơi sau năm phút cất cánh, Đại Úy Hồng Thu, người thân tín (theo ông từ ngày ở Tiểu Đoàn 5 ) nhảy đè lên che thân Đại Tá Lưỡng. Chiếc trực thăng Mỹ hộ tống
hạ xuống, Thu đẩy ông lên gấp.. (Phải sống với người như thế nào “Lê Lợi 612” mới có người đàn em sẵn sàng liều thân như thế). Rừng núi Hạ Lào dưới thân máy
bay mờ khói đạn. Mắt người lính kiên cường thoáng mờ màn nước.. “Đích Thân Lê Lợi” hẳn không khóc cho lần sống sót của bản thân. Ông khóc cho bao người
chết không về. Những người sống cùng ông từ rất lâu.
34-An Lộc, 1972.
Bỗng chốc thị trấn nhỏ về cực đông-nam miền Nam, phần cuối con Đường 13 trở thành địa danh vang dội toàn thế giới... Guernica, Arden, Berlin của Thế Chiến
lần thứ Hai không còn ý nghĩa khi so với thị trấn bề dài 1800 thước và bề ngang từ cửa Phú Lổ đến hàng rào phòng thủ tiểu khu đo đúng 1000 thước. Trên diện tích
bé nhỏ này, lại nhỏ hơn nữa của những ngày “tử thủ”, khi thành phố “co” lại với khoảng 900 thước bề dài còn lại - Một ô vuông cây số hứng chịu gần 60 ngàn quả
đạn, đạn đại bác bắn tập trung từ mười vị trí trở lên trong 100 ngày vây khốn.
Trong qui ước truyền tin quân đội, chữ A được đánh vần là “Alpha” hay “Anh Dũng”. An Lộc cũng bắt đầu với chữ A, thế nên chúng tôi gọi “An Lộc là Anh
Dũng” - Tỉnh từ này đã được dùng quá nhiều, đến độ nhàm chán, nhưng ngoài nó ra không còn một danh từ nào xác thực và đúùng đắn hơn. Phải, An Lộc là Anh
Dũng. Chiến đấu ở An Lộc- Sống ở An Lộc- Chết ở An Lộc là Anh Dũng. Phẩm tính của người và sự kiện nơi An Lộc là tỉnh từ giản dị đầy đủ nầy.
Đường 13 chạy từ Ngã Ba Chơn Thành đến An Lộc đo được 30 cây số, tiếp tục về hướng Bắc thêm 18 cây số nữa là Lộc Ninh, bên kia biên giới là Snoul, qua
Snoul con đường ngã theo hướng Tây-Bắc để tới Kratié, nằm cạnh bờ Cửu Long. Nép bên bờ trái con sông, đường chạy tiếp về phía bắc để gặp Stungsteng, vị trí
chiến thuật quan trọng của đường giây ông Hồ từ Bắc vào. Khởi đầu cuộc chiến “Đông Dương lần thứ Hai (1960)”, những công thần đầu tiên của Trung ương Cục
Miền Nam đã lần mò, tìm kiếm, ráp nối lại con đường.. Bắt đầu từ vùng suối Đá, suối Chà Là, suối Ma.. Bình Long, Phước Long, băng qua biên giới, đến những
“mật khu” đã vang danh theo chiều rộng thế giới: Lưỡi Câu, Mõ Vẹt. Trong cuộc chiến năm 1970, đại quân Miền Nam từ Bình Long, Tây Ninh, đồng loạt xua quân
qua biên giới, quét sạch , diệt gọn các nơi chốn nầy (Đã trình bày ở phần trên về kỳ tích của nhiều đơn vị có sự góp công của Lữ Đoàn I Dù). Nay, hai năm sau,
những ngày đầu 1972, một lực lượng cộng khác, thứ cộng nguyên gốc, theo một kế hoạch được bảo mật tinh vi, chuẩn bị yểm trợ cho mục tiêu chính trị (Hình thành
ở Hòa Hội Paris được khai mạc từ 1968) từ miền Bắc xuôi theo Đường 13 vượt qua Snoul cùng ào vào Lộc Ninh với ba sư đoàn chính qui thượng thặng, sau khi
được giàn đại pháo 130ly đã dọn sẵn đường. Sau Lộc Ninh là An Lộc. Và thị trấn nhỏ bé của miền cực đông-nam Nam bộ, bắt đầu co vào trong một thế gọi là “tử
thủ”. Địa ngục có thật bắt đầu từ ngày đầu tháng 4-72 ở đây. Nơi An Lộc.
Những đơn vị, người lính kiệt liệt của An Lộc đã được nói tới nhiều nhưng chắc không đầy đủ, vì An Lộc không những chỉ có Tướng Lê Văn Hưng với các Trung
Đoàn 8, 9, 48, 52/ Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Đại Tá Nguyễn Văn Huấn với Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù; Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, và Đại Tá Trần Văn Nhật với
thành phần cơ hữu của Tiểu Khu Bình Long.. Còn có Lữ Đoàn I Nhẩy Dù với Đại Tá Lê Quang Lưỡng , đơn vị tham chiến từ ngày 7-4, “bắt tay” An Lộc lần một
vào ngày 17-4; và lần thứ hai, sau trận đánh trên tất cả các trận đánh, Tiểu Đoàn 6 Dù “clear” hai cây số còn lại vào đến Xã Thanh Bình (khu đồn điền Xa Cam)
trong “bốn mươi-lăm phút chiến trận”. An Lộc được “bắt tay” lần thứ hai lúc 17g45 Ngày 8 Tháng 6, 1972.