Chuyện Tù Cải Tạo Cộng Sản

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

ĐOẢN KHÚC THÁNG TƯ

NhuocThu

Tưởng nhớ hương linh hai bạn :
- Nguyễn Văn Sang ( bạn cùng khóa )
- Đào Quốc Hiệp ( nằm kế bên )


tháng tư
tháng của nghìn thay đổi
thêm một lần nữa tới
xót xa
căm uất
khi nhớ những trận đòn thù
mấy mươi lần có dư
hơn mấy mươi lần khủng khiếp
đang đêm
giấc điệp
chợt gào to khi thấy bạn gục trong tù
những cánh tay gầy guộc
những thân hình ốm hơn mắm ruốc
còng chung tay
lê bước
xốc xếch
lếch thếch
lùa lên xe phủ kín bạt thật dày
những chiếc bạt này
trùm cả quê hương ta đây
vẫn một màu chưa đổi
dù mấy mươi lần tháng tư về tới
những chiếc bạt này
trùm cả quê hương ta đây
đằng sau là nó
được ca vang
là cõi thiên đàng...

NhuocThu
Last edited by linhgia on Sun Apr 24, 2005 4:28 am, edited 1 time in total.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Ra Tù Khi Tóc Trắng

(VietBao)


Khi vào tù thì Thầy tóc còn xanh, khi ra tù tóc đã trắng như bông. Đó là hòan cảnh của Thượng Tọa Thích Thiện Minh, vị thầy vừa được CSVN thả ra khỏi tù hôm 2-2-2005. Làm thế nào chúng ta có thể ngợi ca rằng nhà nước đã thật tâm đổi mới, chịu làm hòa với dân sau khi thả ra vài ngừơi tù lương tâm và gọi đó là "ân xá"? Có thật là họ có tội hay không? Hay họ ở tù chỉ vì đã nói lời của toàn dân muốn nói?
Trong cuộc phỏng vấn Thượng Tọa Thiện Minh, do phóng viên Ỷ Lan thực hiện trên đài RFA, một ngày sau khi Thầy về tới Sài Gòn, Thượng Tọa cho biết trong trại giam Thầy vừa rời đi thực ra vẫn còn một số tù nhân lương tâm, trong đó có 2 vị linh mục đang bệnh nặng nguy ngập và một trưởng lão cư sĩ Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương - tình hình sức khỏe của các vị còn lại đều rất là mong manh, như đèn dầu lay lắt trước gió.

Có phải thả vài ngừơi tù ra chỉ để xoa dịu áp lực quốc tế, khi gần tới thời hạn ngày 15-3-2005 khi Hoa Kỳ quyết định xem có nên trừng phạt CSVN vì đã đàn áp tôn giáo hay không? Hay đây là một bước tiến cởi mở thực tâm của nhà nước, sau khi Tổng Bí Thư CSVN Nông Đức Mạnh nhìn nhận rằng nhà nước đã vấp một số sai lầm thế là bây giờ lặng lẽ sửa sai? Hay đây là độc chiêu hé chút xíu cửa tù phía sau, để mở rộng cổng phía trước cho Việt Kiều ôm tiền về làm ăn -- có phải nhà nứơc đã thành khẩn sám hối rồi, đã chịu lắng nghe tiếng dân rồi?

Thực sự, nan đề chính là chỗ này: nhà nứơc nhất định không cho tự do tôn giáo, không để cho Giáo Hội nào thực sự họat động ngòai bàn tay sắt của Mặt Trận Tổ Quốc... và chính ông Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh tuần qua đã lập lại vị trí lãnh đạo độc tôn của Đảng CSVN sau khi thú nhận rằng đảng cũng có một số sai lầm. Trong khi đó thì Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất dứơi sự lãnh đạo của Đức Tăng Thống Hòa Thượng Thích Huyền Quang lại nhất định không chịu sự kiểm sóat của chính phủ về mặt tôn giáo. Như thế, thực khó mà dung hòa hai quan điểm này.

Nan đề trong cốt tủy thực sự là đòi hỏi tự do, dân chủ và phú cường cho tòan dân - đó là điều quan tâm lớn nhất mà quý thầy GHPGVNTN suy nghĩ. Chuyện xin cho GHPGVNTN họat động độc lập đúng ra chỉ là một phần trong tòan cảnh, vì lòng quý Thầy thực sự là nghĩ tới tòan dân, với lòng từ bi nghĩ tới lợi ích cho cả những người đang đàn áp mình ngày hôm nay, cho cả đời con cháu của họ nữa. Quý Thầy thực sự nghĩ tới tòan dân mà lòng không phân biệt, cho cả các tín đồ các đạo khác nữa, chứ không phải chỉ nghĩ riêng cho Phật Tử, cho dù khối Phật Tử này đang chiếm 50% hay 60% hay 70% hay 80% dân số - những con số thống kê mà nhà nước CSVN đưa ra không ai kiểm chứng nổi.

Thượng Tọa Thích Thiện Minh trong khi trả lời phỏng vấn các câu hỏi của phóng viên Ỷ Lan đã nói rất rõ, kể lại lời người sĩ quan công an dặn dò là Thầy về đừng "làm mất an ninh, chống nhà nứơc" nữa, thì Thầy đáp là chính ông Hồ đã nói, "nơi nào có áp bức thì nơi đó có đấu tranh, và chính phủ này thì đầy áp bức…" Than ôi, có Việt Kiều nào vvề nước và nói thẳng như thế đâu.

Lời của Thầy Thiện Minh, của một ngừơi vừa mới ra tù sau 26 năm bị giam khắc nghiệt, rất là dị biệt với lời của những Việt Kiều về thăm quê nhà và ngợi ca công đức của chính phủ đã chịu đổi mới. Việt Kiều về thăm nhà là chuyện tự nhiên, nhưng đâu có ai buộc các Việt Kiều này phải ngợi ca công đức nhà nước… cho dù¹ là có ký được các hợp đồng bạc tỉ đô la, hay ngay cả những hợp đồng bí mật nào khác.

Nhìn lại tiểu sử Thượng Tọa Thiện Minh, do Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế phổ biến tuần trứơc, sẽ thấy được cốt tủy của nan đề cực kỳ khó hòa giải: Thượng Tọa trong năm 1995 đã trình thỉnh nguyện thư với 200 chữ ký tù nhân trại Xuân Lộc, đòi hỏi CSVN phải xóa bỏ điều 4 Hiến Pháp - có nghĩa là điều khỏan độc quyền lãnh đạo của đảng CSVN. Một người đang ở tù, mà dám xin cho đủ 200 chữ ký bạn tù để đòi hỏi quyền lợi cho 80 triệu người đang ở ngòai nhà tù thì thật sự phải gọi là Bồ Tát, một người sinh vào cõi này vì nguyện lực, để làm lợi ích cho chúng sinh. Hãy nghĩ, trong khi khoảng 80 triệu người ngoài trại tù giữ im lặng, thì Thầy từ trong tù và 200 bạn tù khác cùng ký tên đòi hỏi một bước nhảy dân chủ tự do cho cả nước… Không thậtt lòng từ bi, không thật lòng yêu thương dân tộc thì không ai dám làm như thế. Phải là người đã thật sự thấy tánh vô ngã của thân, của tâm, đã phá vỡ hết các thân kiến, rồi mới dám nói những lời thẳng thắn thay mặt cho toàn dân.

Bản tiểu sử của Thầy viết có đọan như sau:
"Thượng tọa Thích Thiện Minh, thế danh Huỳnh Văn Ba, lãnh hai án chung thân vào năm 1979 và 1986 vì lý do tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đòi hỏi cho tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ. Do áp lực quốc tế, năm ngoái Thượng tọa được giảm án xuống 20 năm tù. Năm nay Thượng tọa 51 tuổi, bị bắt lúc 25 tuổi, vì phản đối việc nhà cầm quyền cưỡng chiếm ngôi chùa do Thượng tọa làm trú trì ở Bạc Liêu, rồi đưa máy ủi đất san phẳng chùa làm công viên. Năm 1979 bị kết án chung thân với tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân". Năm 1986 bị kết án chung thân thứ hai vì trốn trại. Năm 1995, Thượng tọa gửi đến Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam một thỉnh nguyện thư yêu sách cho nhân quyền, dân chủ Việt Nam và bỏ điều 4 trên Hiến pháp với gần 200 chữ ký của tù nhân trong trại Xuân Lộc. Sang tháng 5.1996, Thượng tọa lại cùng với 200 tù nhân chính trị đấu tranh tố cáo điều kiện giam giữ bất nhân, yêu sách cải thiện chế độ nhà tù cho tù nhân chính trị. Các sự kiện này đã được Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam công bố trước Ủy ban Nhân quyền LHQ ở Genève gây xúc động và tạo áp lực khiến Nhà cầm quyền cộng sản phải thay ban điều hành quản lý trại và cải thiện chế độ nhà tù. Nhưng nhiều tù nhân lên tiếng đấu tranh cùng Thượng tọa Thiện Minh bị chuyển sang trại K1 trong rừng sâu, bị biệt giam, còng xích chân tay suốt ngày qua hàng năm ròng. Ngày 2.12.1997, Ủy ban Nhân quyền LHQ tuyên dương Thượng tọa Thích Thiện Minh là người tù bị bắt bớ trái phép. Tháng 10.1998, Giáo sư Abdelfattah Amor, Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm tự do tôn giáo sang Việt Nam điều tra đến thăm Thượng tọa. Nhưng công an đã không ngừng can thiệp để cắt lời Thượng tọa kể cho Giáo sư Amor về tình trạng giam giữ khắc nghiệt, lao động đến kiệt sức, xem tù nhân như người nô lệ, khiến Giáo sư Amor đành phải bỏ dở cuộc trao đổi. Theo nguyên tắc thì Thượng tọa sẽ mãn hạn tù vào năm 2006…"

>Thực sự, đất nứơc vẫn còn nhiều ngừơi như Thầy, còn nhiều người vẫn đang hy sinh, đang miệt mài đòi hỏi tự do, dân chủ cho đồng bào. Họ làm trong phương tiện và khả năng của họ. Trong đó, có những người vừa mới được công an thả ra khỏi tù như Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà báo Nguyễn Đình Huy, linh mục Nguyễn Văn Lý… Trong Ą‘ó, có những nhà họat động dân chủ còn đang bị giam như Mục Sư Nguyễn Hồng Quang, nhà báo Nguyễn Vũ Bình, kỹ sư Lê Chí Quang… Trong đó có những người đang bị quản thúc như Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng Quảng Độ, Thượng Tọa Tuệ Sỹ… Trong đó có những người đang bị truy bức và có thể bị đẩy vào tù bất cứ khi nào, như Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang, linh mục Chân Tín, nhà văn Phương Nam Đỗ Nam Hải, GS Trần Khuê… Tất cả đều cùng đòi hỏi tự do dân chủ cho đồng bào, và không một hợp đồng bạc tỉ đô la nào có thể mua chuộc họ được... và cũng không hào quang nào có thể mua chuộc hay làm động lòng họ được.

Họ biết cái giá phải trả, cái giá của nước mắt, của tù tội và kể cả có khi mất đi sinh mạng… Nhưng họ đã chỻn đứng về phía những người bị áp bức, và không chịu đi chung lối với cường quyền, cho dù chính phủ có trải thảm đỏ, thảm vàng…

Than ôi, vào tù khi tóc xanhh, ra tù khi tóc trắng, vẫn giữ một tấm lòng son với đạo pháp và dân tộc… Lời Th᡺§y Thiện Minh nói rằng điều Thầy nghĩ tới đầu tiên khi tới Sài Gòn là muốn ghé thăm một giáo phẩm GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một vị sư đang bị quản thúc âm thầm, lặng lẽ.

Cánh cửa sắt của Thanh Minh Thiền Viện, nơi quản thúc Hòa Thượng Quảng Độ, có sẽ được phép công an cho mở ra để tiếp đón Thượng Tọa Thiện Minh hay không? Hay là cánh cửa này chỉ mở được bằng các chìa khóa quốc tế? Hay là rồi, hai nhà sư với hai mái đầu lún phún các chân tóc trắng, một người còn bị quản thúc và một người mới được thả về, sẽ phải nhìn nhau qua cánh cửa sắt… nhìn nhau xuyên qua hàng rào công an đứngg chập chùng ngăn trở. Và ngăn cách giữa họ cũng là những hàng rào Việt Kiều đang về nước tung hô sự lãnh đạo “ưu việt” của đảng CSVN.



Trần Khải

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Bản Trường Ca Thăm Nuôi
Karen N. Nguyễn
(Viết để kính tặng Má)
Karen N. Nguyễn là trưởng nữ một gia đình H.O., tác giả đã được tặng giải thưởng bán kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ tư (2003-2004). Cô hiện là một dược sĩ làm việc tại Virginia. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm Tháng Tư 1975-2005, cô vừa hoàn tất loạt truyện kể đặc biệt sau đây về một thời không thể quên của những gia đình H.O.. Loạt bài đăng nhiều kỳ.

(Tiếp theo và hết)

Kỷ niêm nào đáng nhớ hơn là chuyến làm khách của đoàn tàu Thống Nhất mùa hè năm 1979 của tôi.

Để đi ra Bắc, tôi phải ra ga xe lửa Bình Triệu. Đừng boa giờ thắc mắc vì sao cảnh leo lên con tàu ra Bắc luôn luôn diễn ra vào chập choạng tối! Cổng vào ga là một cái cổng nhỏ đầy kẽm gai mở một chút xiú đủ để một người xách giỏ hay gánh hàng luồn lách qua, nếu có bị chen thì thế nào cũng bị té nhào vào kẽm gai xé người, rách áo, tét tay chảy máu, giày dép rớt rơi, tóc tai sút sổ, chưa kể bị móc túi, lắc dây chuyền, mất đồ đạc. Qua được cổng thở hắt ra và mệt nhoài, tôi không hiểu sao mình vẫn chưa hóa kiếp sau khi bị đẩy một cái té nhào, rồi phải đứng dậy chạy ra xe lửa để còn giành chỗ nhét hành lý trên và dưới chỗ ngồitrên tàu. Biết thân yếu, tôi đã xin các chị có con trai nhờ cậy theo ủng hộ và bảo vệ như trong chuyện ngày xưa. Sao đi xe lửatrả tiền mà khổ thế.

Chuyến đi thăm nuôi lần đầu tiên ngoài Bắc, tôi tập tành kinh nghiệm đi buôn gọi là buôn chuyến trên đường xe lửa. Tôi tự an ủi cố gắng đừngđể bị cụt vốn vì trộm cắp, chứ tôi làm gì biết sành buôn bán để có lời. Trong xách tay tôi mang theo thức ăn nấu chín như cơm vắt, thịt chà bông, quà bánhkhô ăn đi đường, và một cái “can” nhựa 4 lít đựng nước uống với một cái ly nhựanhỏ, khăn mặt quân áo để tới Đà Nẵng tắm tẩy trần bụi đường xa. Ngoài ra trong túi xách tôi còn có 3 gói cau khô mua ở đường Võ Di nguyngay dọc cầu kiệu bên Phú Nhuận để làm quà tặng cho các cụ già ở Hà Nội ăn trầutheo lời khuyên của các chị bạn, còn nếu không quen ai thì sẽ đem bán ở vinh Thanh Hoá. Các bạn tôi nói các cụ miền Bắc ăn trầu chỉ ăn vỏ cau khô, khác với các cụ trong nam ăn hột cau. Các chị bạn tôi còn dặn nhớ mua quài cau tươi ở ga Bình Triệu hay cùng lắm là ở ga Mường mándể bán, nhớ lựa quài nhiều trái tròn tươi, nhớ treo ở gần cưả sổ cho cau tươi. Buôn bán cho vui 3 ngày 4 đêm ngồi tên xe lửa tôi tự nhũ chứ lời lãi gì các thứ quà ẻ tiền.

Chen hụt hơi qua cổng, lội bộ trong bóng đêm rồi leo lên tàu chen mãi đến cuối toa mới có số ghế của mìnhtôi thấy chỗ trên kệ để hành lý đã chật, chỗ dưới chân cũng chật luôn. Có một bà cụ người Bắc ngồi phân nưả cái ghếgỗ, tôi khẽ gật đầu chào bà cho gọi là có phép rồi ngồi xuống, để giỏ đồ tuỳ thân dưới chân. Ngay sau đó, có một chú bộ đội kéo một cái ba lô to dùng để phịch xuống, ngồi lấn vào bà cụ. Thế là cái băng ghế 2 người ngồi giờ có thật sự 3 hành khách, tôi là người bị lép vế bị lấn trào ra ngồi không có chỗ tưạ lưng. Tôi thầm nghĩ ngồi như thế này làm sao đi đến Hà Nội, quay qua nói với chú bộ đội chỗ ngồi này là của tôi. Chú bộ đội hất hàm, gằn giọng phách lối “ Chị nói chỗ này là của chị à, còn tôi nói chỗ naỳ là của tôi!”Mọi người ngồi trên xe lửa đều êm re. Một bà người nam đi tranh chỗ ngồi với một “yên hùng” bộ đội về phép, bậy qúa, bậy quá!!! Đến khi một người có nhiệm vụtrên tàu mặc đồng phục hỏa xa đi qua, tôi trình vé đi Hà Nội và cố phân trần về chuyện chỗ ngồi. Người này có vẻ yếu đuối, sọ tay bộ đội ra mặt, nói với tôi “chị hãy đợi tôi sẽ gọi người đến giải quyết”Chờ cả hơn thế kỷ mới thấy một chú công an đường sắt xuất hiện và hỏi giấy chú bộ đội. Sau khi coi giấy xong chú công an đường sắt bỏ đi mất! Chắc công an đường sắt không muốn đụng độ với bộ đội biên phòng về phép! Còn tôi đi thăm nuôi ngồi sao cũng được, ông công an đường sắt không hề đoái hoài hỏi xét vé của tôi, chỉ không đuổi tôi khỏi toa vì tôi vó giấy tờ hợp lệ.

Không khí trên xe lửa nặng nề làm sao, nặng còn hơn tải trọng của 3 người ngồi chen chúc trên chiếc băng gỗ nhỏ xiú. Ai cũng có vé, vậy là cứ ngồi, xe cứ chạy. Đến tối xe lửa sắp sửa vào Long Khánh, mọi người chuẩn bị ngủ đêm đầu tiên trên xe lửa. Chú bộ đội lấy chiếc võng cột một đầu vào thành ghế dựa, đầu kia thì chú nhìn quanh nhìn quất tìm chỗ dể cột. Ở cuối toa có một cái cần màu đỏ trên vách để kéo còi báo động khi cần kíp, chú liền cho đầu võng vào tay cầm của cần báo động, cột thật chặc. Tôi nhìn thấy như vậy thi hết hồn , nhưng không dám nói, cứ để yên cho chú bộ đội làm. Aùnh mắt tôi có vẻ làm cho chú khó chịu , nhưng chú vẫn ngang nhiên leo lên võng nằm. Chú bộ đội vừa ngả lưng xuống võng thì còi hụ báo động vang lên điếc cả tai, đoàn xe lửa đang chạy ngừng lại, toả khói khét nghẹt.

Đoàn tàu tắt máy. Mọi người nhốn nháo. Công an đường sắt chạy rầm rập tới toa, sau khi nhìn ra cớ sự liền mời chú bộ đội qua toa công an để nói chuyện. Chú bộ đội đi khỏi, tôi ngồi ngả lưng xuống kế bà cụ già. Xe vẫ ngừng. Một số hành khách leo xuống xe hóng mát. Có mấy người thợ đường sắt xuông xem bánh xe và lác đầu. Một lúc sau chú bộ đội trở lại, mở chiếc võng ra gói vào ba lô, có công an đường sắt theo hộ tống. Tôi ngồi dựa lưng vào ghế, nhắm mắt ngủ gà ngủ gật. Đến sáng thì thắng nguội, hết dính vào đường rầy, xe lửa mới bắt đầu chạy được.

Ra đến Quảng Ngãi, tôi bắt chước mấy người trên xe mua đường. Đường bán bao 10 ký, phải coi chừng người bán để mặt đường trắng, phiá dưới là đường vàng mõ gà! Còn nhiều loại đường kác như đường phổi, đường phèn, mạch nha, nhiều loại kẹo như kẹo đậu phọng, kẹo gừng , kẹo mè trắng mè đen, mặc sức mà mua cho người học tập!

Qua ga gà, hành khách ăn miến gà, gà luộc chấm muối tiêu, muối ớt, mua cả con rẻ rề, xé ăn với xôi gà để lấy sức ngồi trên xe lửa nghe tiếng bánh xe chạy trên đường sắt rùm,rùm, rùm … người ngồi trên xe lửa đến ga Gà vào chập tối chỉ thấy một điệu muá mâm nhôm trắng bạcchạy dài theo ga dọc theo các toa tàu, trên mâm có những tô phở gà hay miếngà bốc khói, có tô điểm cọng hành xanh, trái ớt đỏ, miếng gà vàng, vàng ghệthêm bởi ánh đèn cầy lung linh trong gió đêm. Aên phải trả tiền trước vì người bán phòng hờ xe chạy không đòi được tiền, mất vốn. Nhiều chuyến xe lửa ra Bắc vào Nam gặp nhau ở ga này, người buôn bán chạy bước chân nghe huỳnh huỵch, giấy bạc nhồi vào túi áo trào ra, bạc cắc xu hào rơi rớt phải hò hét đám con nít đi lượm mót, tiếng người la hét ồn aò náo động cả sân ga.

Đến ga Đồng Hới, có một thứ để mua: trứng luộc, rất rẻ, 1 chục 16 trứng. Trứng gà, tôi còn nhớ ngày xưa đọc “Trống Mái” của Tự Lực Văn Đoàn, có nói đến cô bán hàng mời mua “Trấng”, đến ga này tôi nghe lời phát âm y như trong sách văn học đọc hồi ấu thơ, mời mua “trấng” (trứng), mua “chúi”(chuối).

À còn chuyện mua dừa Tam Quan:
Công đâu công uổng công thưà
Công đâu xách nước tưới dừa Tam Quan.
Người ra miền Bắc hay mua dừa rám khô đập bỏ nước, ăn cơm dừa dòn dòn, beo béo, ngọt ngọt. Tôi chỉ nhìn hành khách xung quanh ăn dừa vì tôi không có sức khoẻ đập bể trái dừa khô. Bâng khuâng nhớ đến quê nhà lục tỉnh Hậu Giang, uống nước dừa xiêm nạo, còn dừa khô nạo nhuyễn vắt nước cốt làm thức ăn mặn hay ngọt nh7 chè bánh,… ít ăn xác dưà…

Tàu đến ga Đà Nẵng, hành khách kéo nhau đi mua nước tẩy trần. Các bạn tôi dặn nên mặc đồ màu tối, ngồi lựa chỗ lộ thiên khuất vừa vừa rửa sơ sơ mặt mũi tay chân, không nên mắc cỡ, xấu hổ đi vào những nơi vắng coi chừng bị mất bóp, mất tiền, mất vé xe lửa, chú trọng chuyện sạch sẽ quá e sẽ gặp họa vào thân!

Xe lửa ra Bắc đi qua 3 đèo, đèo cả, đèo Hải Vân, và đèo Ngang. Đèo Cả dài nhất. Tôi phải khâm phục những người làm ngành đường sắt đã làm con đường hâm xuyên sơn phá thạchcả trăm năm về trước xây dựng đường xe lửa xuyên Đông Dương chạy nhanh nhất express có 2 ngày 2 đêm từ Saigon ra Hà Nội lên lào cai. Vậy mà bây giờ năm 1979 xe đi 2 ngày 2 đêm đi chua được nửa phần chiều daì của quê hương! Tiện nghi khômh thấy đâu, chỉ thấy toàn thắc thảm lo âu khi xe lửa bắt đầu vào đường hầm.

Qua đèo Cả, tôi đã trở thành người đấu võ rừng bất đắc dĩ chống kẻ cướp giật trong bóng đêm. Bà cụ già người Hà Nội ngồi cạnh tôi vào Saigon để lãnh một số quà tặng của thân nhân trước khi người naỳ đi định cư ở ngoại quốc. Trong bóng tối của đường hầm có một bóng người lẻn vào đứng trước mặt tôi, đưa tay kéo mấy túi đồ. Tôi sợ quá, chợt nghĩ rủi tên trộm lấy nhầm gói đồ các bạn bè tôi gởi cho thân nhân thì làm sao? Tôi lấy hết sức dùng móng tay cấu mạnh vào cánh tay tên trộm, chân tôi mang đôi sa bô gỗ đạp túi bụi vào chân kẻ lạđứng trước mặt tôi, còn bà cụ kéo giỏ đồ lại, la lớn “Cướp, cướp!” Có ánh đèn vàng chớp lóe lên một tia nhỏ trong toa xe lửa, trong xe hỗn loạn, tôi sợ điếng người. Lúc xe sắp ra khỏi đường hầm, tên cướp bỏ chạy sau khi đấm cho tôi một cú vào mặt đau thấu trời xanh, mái tóc tôi cột gọn ghẽ bị sỏ tung toé. Lúc xe lửa ra khỏi đường hầm, trong ánh đèn lù mù của toa xe lửa là hình ảnh của tôi, đầu bù tóc rối, mặt đỏ ké sau khi bị một cú đấm vào mặt.

Sau khi làm người bảo vệ bất đắc dĩ cho người già cô đơn, tôi được bà cụ ngồi kế bên nhìn với ánh mắt thân tình. Thế là trên quãng dường còn lại đi Hà Nội tôi có bạn đồng hành để trò chuyện. Bà cụ thấy tôi hay ngắm nhìn phong cảnh và hay mua sắm quà lặt vặt nên đổi cho tôi được ngồi kế cửa sổ. Tới ga Dà Nẵng bà cụ cùng tôi chia nhau coi hành lý để mua nước tẩy trần bụi đường xa, mua cơm mua nước uống thoải mái dể tiếp tục cuộc viễn hành.

Xe vào ga đổi đầu máy kéo và một đầu máy đẩy để qua đèo. Xe lửa chạy chầm chậm như người già đi bộ nhờ vậy tôi có nhiều thời gian để ngắm phong cảnh quê hương, cảnh sơn thủy hữu tình của dãy Trường Sơn và của biển Đông. Bên núi, bên biển, phong cảnh hữu tình bát ngát nghìn trùng sóng vỗ nhìn từ đỉnh đèo cao nhất của quê hương: dèo Hải Vân . Mây trắng bao phủ đèo Hải Vân tùy thời điểm xê dịch qua lại như chiếc khăn quàng cổ bay bay, làm dáng cho nàng tiên núi. Dãy Trùng Sơn trải dài như cột sống của đất nước, một dãy bình phong có sắc xanh đậm nhạt khác nhau.

Xe lửa đến Bình Trị Thiên. Các món ăn của Huế của Thừa Thiên được các cô bán hàng gánh đến ga, các cô mặc áo dài nâu tứ thân, nón lá yểu điệu như trong tranh vẽ ngày xưa; cháo cá, mì quảng, bánh ít lá gai… Phong cảnh Thừa Thiên êm ả, nước sông trong vắt. Có một người mù ôm cây đàn guitar đi trên sân ga, hát một bản tình ca thời xưa về những đổi hoa sim tím…

“Sim đây ! Sim tím đây!” tiếng rao hàng làm tôi chạnh nhớ câu ca dao:
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương.
Từ Dà Nẵng tới đây đã bắt đầu xài tiền miền Bắc, tôi muốn xài thử mà chưa rõ giá trị đối với vật giá ra sao, bảo cô bé bán cho tôi một đồng sim. Cô bé bán hàng ngước mặt lên cửa sổ toa xe tôi ngồi, nói to:
“Hãy đưa cái gì đựng sim cho mau, xe sắp chạy rồi.!”
Ngồi trên xe gần cửa sổ, nhìn quanh nhìn quất tôi thấy chỉ có caí nón lá bài thơ để đội lúc đi đường vào trại vì các bạn tôi nói xe xích lô ở Hà Nội không có mui, không có nệm giống chiếc xe ba gác. Tôi đưa cái nón bài thơ cho cô bé, nghe tiếng đổ rào rào, cái nón bài thơ nặng chĩu trên tay tôi, có tiếng niềng tre mỏng manh gãy răng rắc dòn tan. Tôi đã xài hớ tiền để mua những quả sim rừngtím mộng mơ và đã làm đau cái nón lá bài thơ, cái nón mà các cô gái đất thần kinh chỉ dùng để che nghiêng mặt chữ điền!

Xe lửa đến đèo Ngang, đèo nằm ở dãy núi mọc ngang đất nước, dãy Hoành Sơn, tôi còn nhớ giọng các thầy dạy Văn, Sử ngày nào dõng dạc đọc lời sấm tiên tri của người xưa.
“ Hoành Sơn nhất đới
Vạn đại dung thân”
Tới đèo ngang xe lửa chỉ có một đường rầy nhỏ gập ghềnh chạy theo triền núi, qua đèo phải ngừng để ưu tiên cho xe từ miền bắc vào. Xe ngừng trời chập choạng tối, tôi chạnh nhớ mấy câu thơ cổ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đà chen hoa..”
Chỉ có thơ của Nũ Sĩ Thanh Quan mới lột tả được cái đẹp tự nhiên thơ mộng của núi rừng cùng tâm trạng”mảnh tình riêng ta với ta” của người xưa…

Xe lửa qua cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17 phân chia đất nước từ hiệp định Geneve 1954. Qua khỏi cầu Hiền Lương, địa phận buồn thiu, không còn cảnh buôn thúng bán bưng các đặc sản vùng quê, không còn cảnh ăn uống dọc đường ì xèo, xe lửa đã vào phiá đất nước xây dựng xã hội chủ nghĩa chính quy mấy chục năm. Thức ăn khô đem theo đã mốc meo, thiu thúi vì trời nóng hầmhập, người ngồi trên xe chật như nêm. Uống nước mới thấy thở được, trời nóng tôi uống cạn trong chớp mắt can nước đem theo.

Tôi nếm vài trái sim chát còn sót lại trong chiếc nón, vị sim chát lại đắng và bắt đầu có mùi thui thúi… tôi len lén bóc bỏ từ từ từng trái sim tím đen bẩn bằng 2 đầu ngón tay, vừa ngẫm nghĩ người xưa vì sao chỉ dám ăn có nửa trái sim, uống lưng bát nước, còn tôi ăn cả nón sim, uống không biết bao nhiêu lít nước trên đường xe lửa Thống Nhất để đi tìm người thương của mình!!!

Gió lào thổi sang nóng hầm hập, tôi lại nhớ đến ngọn gió tây mà cụ nghè Tam nguyên Yên Đỗ đã tả:
“ Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Mong được Nồm Nam cơn gíó thổi
Đàn ta, ta gảy khúc Nam nghe!”
Xe đến vịnh. Nhưng hố bom đã được thiên nhiên hàn lại bằng những thảm cỏ xanh. Cỏ ở đây khác với cỏ ở miền Nam vì mọc trên vùng đất khô của đá vôi. Vùng Thanh Nghệ Tĩnh, người đông nhưng có nét dò xét, đăm chiêu, không buôn bán xởi lởi, không vui vẻ chút nào! Xe vào Nam Định, Phủ lý, khởi sự náo nhiệt hẳn lên. Lời nói có âm thanh L, N đặc biệt nghe vui tai nhưmg nhanh có lúc khó hiểu.

Xe lửa vào đến ga hàng cỏ, Hà Nội cũng vào lúc tối trời. Người trên tàu aò aò đẩy những kiện hàng lậu trốn thuế xuống các bu6i rậm dọc đường sắt. Bà cụ ngồi kế bên tôi nói nhỏ với tôi:”Coi chừng hành lý nghe!”. Xe lửa từ từ vào sân ga, đèn đuốc trong sân ga sáng trưng, công nhân đường sắt ăn mặc tề chỉnh, có huy hiệu trên áo, đội nón kết viền đỏ. Trong ga không có người dở hàng thuê. Tôi đang phân vân không biết làm sao kéo đồ xuống khỏi xe lửa thì có một người đàn ông đi Hà Nội ngồi cùng toa nói:” Tôi sẽ phụ chị kéo hàng xuống xe và kéo qua cổng, cảm phiền chị cầm dùm tôi một chiếc quạt điện, tôi mua một cái ở SaiGon và được tặng một cái, nếu ra cửa 2 cái quạt điện sẽ bị thuế.” Tôi mừng như được phao cấp cứu. Hè hụi, ì ạch rồi tôi cũng ra được cửa ga hàng cỏ lúc gần 9 giờ đêm.

Tôi có nói với bà cụ ngồi gần tôi là tôi sẽ hợp đồng xe xích lô để hai người đi chung, Tôi sẽ xuống trước khi đến khách sạn Đường Thành, và bà sẽ được phu xích lô chở về nhà, giá cả tôi sẽ trả. Bà cụ đồng ý. Thân nhân của bà cụ đến đón, bà cụ nói nhỏ chi với họ, họ liếc nhìn tôi rồi hăm hở dìu bà cụ cùng hành lý của bà ra cổng sau khi ném một cái nhìn đầy nghi nghờ về phiá tôi y như tôi đã dụ dỗ người già! Ông khách nhờ tôi xách cái quạt điện ra khỏi ga cũng có thân nhân đến đón. Giã từ đường ai lấy đi. Chỉ còn có tôi ngồi với đống quà trước sân ga hàng cỏ, càng về khua váng càng thấy nó nặng và to sồ.

Một người công an kinh tế đến mời tôi đi đóng thuế buôn chuyến. Tôi nhìn mớ quà thăm nuôi, lòng đau xót kể như sắp mất trắng vào tay các quan thu thuế. May qúa có người ra hỏi và tôi vụt nhớ lời chị C đã đi thăm nuôi dặn tôi ai hỏi thì nói đi tiếp tế. Tôi cố hết sức lịch sự nói:”thưa cán bộ, tôi đi tiếp tế.” Mấy chữ “tiếp tế” mới kỳ diệu làm sao, cán bộ đường sắt hỏi tôi chị đi tiếp tế ở đâu. “Dạđi Hà Tây.” Cho lãnh hàng ra ! Miễn thu thuế.

Tôi về đến khách sạn Đường Thánh lúc 1 giờ khuya, mệt nhoài. Không thể nào hát nỗi tâm sự cuả một người thathiết nhớ nhung Hà Nội:
Tôi xa Hà Nội khi tôi mười tám khi vừa biết yêu…
Đến Hà Nội sau gần 4 ngày trời trên xe lửa, tôi không mơ tìm thấy bầu trời Hà Nội về đêm, thành Đại La có rồng vàng bay lên để có biệt danh mà sử sách một thuở còn ghi: Thăng Long Thành!

Hà Nội dã trở thành xa xôi vô cùng trong tôi. Giấc mơ đi du học ở thủ đô như các bậc cha chú của tôi đã biến mất từ 1954. Năm 1979, sau một phần tư thế kỷ tôi đến thủ đô không phải là du học sinh, không phải là du khách, mà là người đi nuôi tù cải tạo từ Nam ra Bắc! Mệt mỏi chán chường, đường xá trơ trọi quạnh hiu, không một người thân! Tôi bước vào khách sạn. Nhờ được các chị bạn đi thăm nuôi giới thiệu nên tôi được người ở quầy ghi khách đến tiếp đãi niềm nở, đưa chìa khóa phòng, xách hộ quà vào phòng, chỉ dẫn nơi giặt giũ, tẩy bụi đường xa… Sau gần 4 ngày trên xe lửa, sau những giấc ngủ chập chờn trên băng ghế, bây giờ tôi mới có dịp ngã lưng xuống để ngủ tai tôi vẫn còn nghe tiếng xe lửa chạy trên đường rầy rùm, rùm, rùm….


Trong ớc tưởng tượng của tôi, Hà Nội vẫn là Hà Nội 36 phố phường với những cô bán hàng duyên dáng trong tác phẩm của Thạch Lam. Ra tới cửa Đông, tôi lại nhớ đến chuyện người đẹp trong tranh, nàng tiên Giáng Kiều của chàng thư sinh phong nhã Tú Uyên…

Tôi đi chợ Hà Nội, không phải với tâm trạng phụ nữ thời xưa:
Một quan tiền tốt mang đi
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra…
Trái lại, tôi có mang theo danh sách gửi và chỉ dẫn nơi mua với giá ước lượng để khỏi mua lầm. Quà khô, thuốc men đã gói sẵn theo rồi, giờ tôi chỉ mua sắm nhanh, đủ để mang vào trại Hà Tây. Tôi chỉ cần mua quà tươi và nhu yếu phẩm. Đặt mua bánh mì xong, tôi ra chợ hàng Gà để mua vải thiều . Tôi định mua bánh chưng thì có một người đi chợ nói nhỏ với tôi bánh này chị không để dành ăn lâu được đâu. Tôi hỏi vậy chứ bánh chưng đặc biệt của người miền Bắc thì mua ở đâu, thế là tôi được chỉ đường ra cửa nam chợ Đồng Xuân.

Trên đường ra chợ Đồng Xuân, tôi giở cẩm nang đi đường mang theo, thấy ra đó có thể mua nhãn nhục cho người thân. Đến chợ tôi gặp 1 cảnh khó quên: Mấy hàng thịt chó bày bán y như mấy hàng thịt heo quay ở chợ cũ. Tôi an ủi thì giống như Ngã Ba Ông Tạ vậy chứ gì, đâu có gì phải lo lắng ngạc nhiên. Thật ra từ nhỏ tôi chỉ thấy mấy hàng thịt chó từ xa xa chứ đâu có dịp len lỏi đến gần và được chào mời như bây giờ! Tôi vụt nhớ một bài ca dao xưa:
Con gà mà gáy ó o
Đi chưa đến chợ đã lo ăn quà
Bánh nếp chen lẫn bánh đa
Củ từ, khoai mỡ, nào là cháo kê
Aên rồi ngả nón ra về
Thấy hàng chả chó lại lê chân vào
Chả này bà bán làm sao
Ba đồng một mớ lẽ nào không mua
Nói dối rằng mua cho chồng
Đi ra quãng đồng ngã nón ngồi ăn
Về nhà còn khóc băn khoăn
Nào mẹ đi chợ có ăn qùa gì!
Tôi thấy có ông dắt con chó con nhỏ tròn trĩnh tung tăng chạy theo chủ, lưỡi hồng thè ra, mắt đen tròn xoe, duôi cong cong, có đeo lục lạc leng keng. Vụt có tiếng nói , 150 đồng, có tiếng trả giá 200 đồng. Tôi nhìn con vật đáng yêu và vội vả rời khỏi chợ Đồng Xuân, hết thiết tha đi mua sắm ở chợ Bát Hoa kế bên.

Tôi ra phố Hàng Buồm, dặn xe xích lô như lời chị C giới thiệu. Đi qua phố Hàng Ngang, buôn bán đông đúc, có một địa chỉ em của người bạn, tôi đến gần hỏi thăm thì thấy mặt tiền là chỗ người ta buôn bán. Dãy nhà kiến trúc thời xưa có nhà kho, nhà bếp nhà gia nhân, bây giờ phần trong cùng chật hẹp của ngôi nhà là nơi chủ nhân xưa kia của toàn bộ căn nhà cư nhụ, không hiểu sao một gia đình đông đúc sống chật chội như vậy mà chịu nỗi! Ở một góc nhà tôi nhìn thấy có một số sách chưởng Kim Dung bị liệt kê vào loại sách “đồi trụy” nay nằm ở góc giải trí cùng một số băng “nhạc vàng”. Diện tích nhà quá chật hẹp nên điều kiện vệ sinh quá thô sơ, không dám nhớ tới!

Đi qua phố Hàng Bè có em của bà cụ láng giềng ở Saigon để nhắn lời bà cụ thăm hỏi và để được có người giúp đỡ nếu tôi cần, không ngờ đi đến phố ấy tôi gặp rắc rối. Vào nhà chào hỏi, tôi được ông cụ chủ nhà mời uống ta xã giao. Ông cụ là người khiếm thị nhưng rành đường phố Hà Nội, tôi hỏi ông và được chỉ đường rõ ràng, tôi chép vào 1 tờ giấy để nhớ. Ra khỏi nhà tôi bị 2 người công an kè về đồn, xét hỏi giấy tờ, bóp, tiền trong người. Sau vài tiếng đồng hồ tôi được trả tự do, bảng vẽ đường ghi chép bị tịch thu. Sau này về Saigon tôi thuật lại và các bạn tôi nói tôi đã dại dột đi vào khu buôn bán tiền, vàng nên mới ra nông nổi!

Tờ mờ sáng hôm sau chú X chạy xe xích lô đến đúng hẹn và tôi hợp đồng một số tiền hậu hĩ kèm ba bữa ăn sáng trưa, chiều cho chú. Tôi nói ghé chỗ nào kha khá, ăn được thì chú ghé ăn và tôi cùng ăn, tôi trả tiền. Xe chạy đường vòng né tránh các trạm thuế đến Hà Đông thì hừng sáng. Nhà cửa vùng này khá khang trang, nhà xây cao có hòn non bộ, trồng hoa kiểng, có bậc thang giưã vào cửa chính, có tam cấp hai bên , có cửa sắt và lan can hoa văn trang trí rất đẹp, có cả giếng nước trước nhà.

Chú X ghé hàng phở chui, bán cho người loa động đến sáng là hết. Phở rất ngon hay tôi đói? Aên xong bà chủ bán đưa tăm xỉa răng. Tôi hỏi bà có gì uống không? Có ạ, bà nói, tôi ngồi đợi và thấy bà dọn ra một bình rươu ba xi đế hâm nóng với cái chung rượu nhỏ xíu đính kèm. Tôi trả tiền phở và rươu vì lỡ kêu. Chú xích lô hỏi bà chị không uống thật à. Tôi gật đầu và mời chú uống phần rươu nếu chú thích. Lúc ra xe tôi mới thấy lời mời của mình là tai hạikhi phải ngồi trên xe xích lô của một ông chếnh choáng hơi men, đạp nhanh như gió, nói chuyện râm rang khó hiểu và ca hát huyên thuyên.

Rút kinh nghiệm, đến khi ăn trưa tôi không hé miệng kêu thức uống. Có một bà cụ ở căn nhà kế bên cho một cô bé lễ phép mời tôi qua cho bà cụ gặp mặt. Tôi hơi sợ, nhưng bác bán cơm và chú xích lô nói dân Hà Đông vậy chứ hiền lắm, đừng sợ. Tôi đi, gặp một bà cụ mặc đồ luạ trắng, vấn tóc ngồi trên ghế không di chuyển được. Bà rất đẹp lão, gọi tôi lại gần, vừa vuốt trán tôi, vừa lẩm bẩm “những tưởng… nào ngờ… mợ còn trẻ quá…!” tôi lấp bấp lí nhí lời chào hỏi sức khỏe, thấ mình rõ thật vô duyên vì không hợp tình cảnh, rồi cúi chào bà và nói mình phải đi kẻo trễ. Xe đi ngang qua bưu điện, đi ngang qua bệnh viện Hà Sơn Bình rất lớn. Một hồi sau xe hết chạy trên đường tráng nhựa, chỉ còn đường đá, rồi đến đường đất gập ghềnh. Đường càng lúc càng xấu và nhỏ hẹp, dân cư thưa thớt dần.

Xe đi ngang một bảng nhỏ đề tên Thường Tín. Tôi vụt nhớ quê bà Huyện Thanh Quan, và bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” vụt hiện lên trong trí tôi:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa, hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Tôi thấy một ngôi nhà thờ có rào chắn chung quanh, nhìn vào có tượng Saint Michel diệt con ác qủy, ngôi nhà thờ có lẽ còn sót lại từ thời pháp thuộc. Có bóng mấy cụ già lặng lẽ đi lễ sớm ở một ngôi nhà gần đó… Dấn dần không còn nhà của dân cư, đường đất cỏ may mọc đầy chứng tỏ không ai qua lại. Tôi leo xuống đi bộ. Chú xích lô có vẻ mừng vì đỡ được trên 40 ký lô trên đường nhiều mô đất hố trũng gập ghềnh. Bông cỏ may vương đầy, tôi lại chạnh nhớ một bài hát ngày nào:
“nhũng ngày chưa nhập ngũ, anh hay đón em về vùng ngoại ô có cỏ bông mai…”

Gần đến trại tôi thấy có đường rải đá trắng trên nền đất đỏ. Nhìn hai màu trắng toát và đỏ đậm dưới chân tôi cảm thấy thương sức những người trong trại cải tạo đã đổ bao mồ hôi công sức làm đường này. Chưa bao giờ biết trại tù, tôi thấy cổng trại nghèo nhưng có trồng hoa kiểng, có nền cao lót gạch nung, có chút tường vôi khá chắc chắn. Chú xích lô không được vào, chỉ đem đồ đến gần tới cổng rồi chỉ hướng chú sẽ gặp tôi khi tôi thăm thân nhân xong. Tôi bắt đầu kéo lê đồ vào trại từ từ theo lối kiến tha…


Tôi vào trình giấy tờ. Văn phòng chính treo lá cờ đỏ sao vàng to tướng và khẩu hiệu “không có gì quý hơn độc lập và tự do” , tôi nhìn là cảm thấy chóng mặt. Tôi vào trại sớm nên được thấy các đội lao động, từng đội có một người công an cầm súng đi trước, đoàn người hàng một đi từ từ, sau cùng có một người công an bồng súng AK đi theo. Một tổ lao động đi ra cổng, bắt đầu làm việc sau nhà khách viếng, người lặng lẽ toả ra các hướng, một dòng người câm nín không có chút âm thanh. Tôi nhớ cảnh loa động ở Tây Bá Lợi Á trong phim Doctor Zhivago, khác chăng là khí hậu nóng cuả Hà Tâyvà khí hậu băng giá của Liên Sô… Những người tù vẫn vậy, điển hình trong bộ quần áo sọc xanh đậm nhạt không đều, quần áo rộng rãi vì người tù nào cũng ốm o nhỏ hơn chuẩn đồ phát, dép lê, xách lon “gô” đựng nườc, đội nón vải, nón lá đủ thứ loại để che nắng. Có những đội có người cầm đòn gánh và cái thùng rỗng để xách nước. Có người đẩ cái xe cúc kích mà tôi nhớ hồi lâu lắm rồi thời 1945 có vài đội tù đi làm đường đẩy ngang nhà ở lục tỉnh quê trong Nam. Tôi nhớ đến những người tù trong trại Auschwitz thời Dức Quốc Xã, nhũng quân nhân Mỹ bị cầm tù ở “khách sạn Hilton:, hỏa lò Hà Nội… Đều mặc đồ tù mà tôi đang thấy ở trước mắt mình.

Lúc tôi đang lo sợ, thấy rơi vào tuyệt vọng, nước mắt sắp tràn ra thì có tiếng kêu tên tôi vào gặp cán bộ quản giáo trại. Người này dáng dấp nhỏ thó, khô đét,”mặt sắt xanh dờn “, nghe các chị đã đi thăm nuôi dặn tôi phải không được khóc, đừng bao giờ lộ nét bi ai khóc lóc sẽ bị cán bộ đuổi ra, giờ thăm sẽ bị rút ngắn. Cũng theo lời các chị bạn tôi, người cán bộ quản giáo này là một anh hùnh chiến sĩ Điện Biên vì lên cơn ghen đã lỏ tay “làm chết vợ” nên bị đày lên khiển tù loa động ở nơi hoang vắng này.

Tôi chào cán bộ, được hỏi ngay là chị từ miền Nam ra, có biết chính sách cuả đảng và nhà nước hay không. Thế là người cán bộ ào ào trả bài về ba dòng thác cách mạng, về sự tất thắng của cách mạng ở chiến trường miền nam, về chuyện hạt thóc hạt gạo cắn làm ba, nghĩa vụ quốc tế cao cả ở chiến trường Tây Nam, tinh thần quốc tế cao cả, vv.. và vv… Tôi ngồi mở mắt nhìn không phải la nhìn người nói mà nhìn phong cảnh ngoài cửa sổ sau lưng người cán bộ, giống như học sinh lơ đãng, có ngồi có nhìn chăm chú nghe lời giảng bài, nhưng thật sự tôi đang thả hồn ra cửa.”tinh thần ở ngoài lao”!!! Chuyện biết rồi khổ lắm nói mãi.

Có một đội người già, ốm yếu thấy rõ so với các đội đi lao động hồi nãy, ra dọn dẹp quanh nhà khách, xách nước tưới kiểng, làm cỏ, dọn cỏ, chỉ nghe âm thanh dụng cụ loa động như cuốc xẻng, còn người lặng lẽ như những cái máy.

Sau đợt công tác tư tưởng đả thông đường lối cuả đảng và nhà nước, cán bộ nói đến phần học tập nội quy gặp thân nhân, tóm tắt dúng như lời các chị bạn tôi đã ra thăm người thân từ tết 79là không được khóc, không được hôn chồng, nếu không tuân theo sẽ không được thăm 20 phút!!! Lý do không khóc thì còn hiểu nổi vì phải tỏ tinh thân cách mạng hồ hởi, phấn khởi, còn lý do thứ nhì thì phải hiểu theo lời cán bộ trại, đó là thái độ không đúng, biểu hiện tình cảm của tiểu tư sản mại bản!!! Nói chuyện lúc thăm gặp phải nói to, để cho cán bộ ngồi cuối bàn thăm nuôi nghe kỹ!!!!

Sau phần nghe giảng chính trị và chò đợi vài tiếng đồng hồ, đến hơn 11 giờ trưa thì tôi được báo có thân nhân ra gặp. Hồi hộp vì sợ nước mắt tuôn rơi, tôi vội nhìn vào vách tường vôi vàng vàng ngang tầm mắt, tay bấm chặt đấu ngón taycái như lúc còn nhỏ sợ bóng tối phải bấm tay niêệm chú trừ tà! Tôi đã sắp xếp trong đầu chuyện phải kể cho chồng, kể từ hỏi thăm sức khoẻ chồng, những gì anh cần, chuyện mẹ già, chuyện các con từ đưá lớn tới đứa nhỏ, còn chuyện của bản thân mình sau cùng vì sợ hết giờ thăm.

Tôi nghe tiếng chân bước lên thêm, tiếng nói “chào cán bộ”, giọng nói trầm ấm của chồng tôi. Tôi quay lại nhìn thấy chàng, người ốm đi, da đen hơn, mặc quần áo tù không có số. Aùnh mắt chàng triù mến pha lẫn nghạc nhiên như thầm hỏi: Làm sao em ra được nơi đây, không một ai quen ở ngoài Bắc hết… Chàng định hôn tôi, cái hôn thân ái thông thường cuả vợ chồng, nhưng tôi liếc nhìn thấy tên cán bộ quản giao đang ngó chúng tôi trừng trừng, vội khều tay chàng và nói anh ngồi xuống tụi mình nói chuyện cho nhau nghe. Bao nhiêu chuyện từ lúc xa cách nhau năm 1975, nay tôi chỉ có 20 phút để nói với chồng.

Tôi không còn nhớ mình đã nói những gì, chỉ nghe chồng hỏi rồi vâng dạ, chứ không theo quy trình dự tính ban đầukể chuyện cho chồng nghe. Chiếc bàn thăm nuôi sao bỗng trở nên daì vô tận như giòng sông Tương:
“ Quân tại tương giang dầu
Thiếp tại tương giang vĩ”
Cùng thấy nhau mà nghìn trùng xa cách bởi boa nhiêu điều cấm đoán vô lối!!!

Giờ thăm nuôi đúng 20 phút thăm nuôi đã hết, tôi hỏi chàng được một câu “sao anh không có số” chàng nói tù thường phạm có án áo mới có số! Giả từ mắt chàng đỏ hoe, tôi nói nhỏ với chàng là em không được khóc , để vế Nam em sẽ khóc. Trái tim tôi quặn thắt khi tôi nhìn chàng đẩy quà thăm nuôi trên chiếc xe bù ệt một bánh gọi là xe cải tiến, tôi dõi theo bóng chàng đến khi chàng đi khuất ở khúc quanh gần nhà thăm nuôi.

Trên đường ra chỗ hẹn với xe xích lô dể về Hà Nội, tôi cất bước mà nước mắt lã chã tuôn rơi, người tôi mệt nhoài, rã rời. Có một đội đi lao động về, có một người gầy yếu ngồi nghỉ ở một viên đá ven đường, thấy tôi đi gần đến thì vỗ vỗ vaò viên đá rồi đứng lên theo đội hướng về trại tù. Tôi hội ý, cố quăng chiếc nón lá đội đầu cho bay về hướng viên đá, lượm chiếc nón , ngồi lên chỗ người tù hồi nãy như nghỉ mệt, lấy khăn tay lau nước mắt. Tôi liếc nhìn thấy một xấp thơ viết có bao và không bao lộn xộn nhưng cột chặt để dưới viên đá, tôi cúi xuống vờ như sưả dép, ròi đẩy mớ thư vào xắc tay để dưới chiếc nón lá, không đội nón lá lên đầu dù trời chiều còn nắng chói chan! Hồi hộp nhưng tôi thầm nghĩ về khách sạn tôi sẽ lựa thư, một số bỏ bưu diện Hà Nội, một số đem về Saigon bỏ tiếp. Nghĩ lại, nếu bị bắt chắc không có dịp trở về nhà mà bị đi cải tạo ở một trại tù khác nơi chồng ở lắm.

Tôi về tới khách sạn thì trời đã tối, vừa nghỉ một chập thì có người lên báo là có một đôi vợ chồng nói là người quên muốn gặp. Tôi ngạc nhiên định nói không quen ai , nhưng tọc mạch muốn coi ai ở Hà Nội mà biết mình nên bước ra xem, hoá ra đó là ông khách đi cùng chuyến xe lửa ra Bắc, người nhờ tôi câm hộ chiếc quạt máy lúc xuống ga Hàng Cỏ. Ông ấy giải thích là muốn cho cô vợ chưa cưới cuả mình, cô nàng là văn công rất xinh xắn, được biết một người phụ nữ Saigon đã vượt đường xa lặn lội thăm chồng ở trại Hà Tây. Hai người mời tôi đi ăn ở một tiệm ăn của giới nghệ sĩ thủ đô. Đúng là có “lộc thực” ! Hà Nội có chút xiú, đi bộ một chốc là tới nơi, ăn uống, kể chuyện và giã từ, không hẹn gặp lại! Có nhà hàng ở khá gần mà tôi không biết, vì kể ra mình không có tiêu chuẩn để vào ăn!

Tôi về đến khách sạn nghỉ đêm khóc sưng vù cả hai mắt….

--

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, nghe tiếng xe điện chạy, tôi vội chạy ra đón để ra ga Hàng Cổ cho sớm. Phòng bán vé chưa mở cửa nhưng đã có nhiều người nằm la liệt ở ga từ lúc nào! Tôi ngồi xuống tam cấp ga và chờ phòng vé mở cửa giống boa người khác, lòng bỗng nhớ đến đến những chuyện bạn tôi nói khi mình không quen ai mà không dám mua vé chợ đen vì sợ vé giảthì chỉ có cách xếp hàng và có thể kẹt ở Hà Nội cả tháng trời!!!

Khi phòng vé vừa mở cửa, chỉ mới có ánh đèn vàng hiện lên bên trong phòng véchứ chưa bắt đầu bán vé thì mọi người rần rần chạy đến, chen lấn để xắp hàng dài từ chỗ bán vé tới cuối sân ga. Tôi thấy minh đứng trong vài người cuối!!! Mùa hè trời sáng rất nhanh, dòng người xếp hàng không thấy nhúc nhích, tôi nghĩ chác mình sẽ ở Hà Nội dài dài, lòng chán ngán đến cùng cực.. Có boa giờ minh gặp tiên như trong cổ tích!

Nàng tiên hiện ra, một cô bé người nam lễ phép lại gần nói nhỏ với tôi, má cháu mời bác lên trên kia để cùng mua vé, sao bác ra trễ vậy, má cháu đợi hoài bây giò bác mới tới! Hội ý chớp nhoáng với “nàng tiên” đời nay của tôi, con gái vủa chị th., theo mẹ ra Bắc thăm bố ở trại Hà Tây, tôi vội vàng đi nhanh đến đứng cạnh chị th. Chị Th vừa bấm tay tôi vừa phân bua với mọi người xung quanh là”em tôi đi lạc đường mới đến ga!”. Tôi chỉ mua được vé ngồi, còn má con chị Th với tài ngoại gia khéo léo và đứng được sát quầy vé đã mua được vé couchette, Nắm được chiéc vé xe lửa bé xíu mua bằng tiền miền Bắc để về Nam, tôi cứ ngỡ mình nằm mơ, lòng vô cùng cảm tạ chị Th đã thương người đồng hội đồng thuyền. Tôi giã từ sau khi cám ơn chị Th và con gái đã giúp tôi phương tiện trở về nhà. Sau này chúng tôi vẫn còn gặp nhau mấy lần khi đi thăm nuôi và tôi gặp lại chị Th định cư ở Mỹ tại tiểu bang Virginia.

Còn chút thời gian, tôi quyết định đi viếng thủ đô theo lối express! Tôi ghé nhà chú lái xích lô hôm qua , nói chú chở tôi đi dạo Hà Nội một vòng vì đến chiều tối tôi sẽ trở lại Saigon. Kiến trúc cuả thủ đô Hà Nội và của thành phố Saigon sao có nhiều nét tương đồng, tôi tự hỏi ngày xưa có lẽ chỉ dùng một bản vẽ thiết kế đô thị cho đỡ tốn kém hay không? Tôi đi ngang nhà hát lớn, toà đô chính bưu điện . Trường Bưởi làm cho tôi vụt nhớ đến người đẹp nuôi chồng thời xa xưa trong “Gánh hàng Hoa” của Nhất Linh và Khái Hưng… Chú xích lô đưa tôi ra quãng trường Ba Đình, được biết “lăng bác” đang đóng cửa để chỉnh trang. Tôi ở miền Nam mà không được “thăm lăng bác”, mùa hè nóng nực, lăng đóng cửa chỉnh trang hay vì mở cửa cho khách viếng không đủ khí lạnh sợ hư xác ướp? Tôi biết minh không được xếp vào diện cháu ngoan Bác Hồ, nên đến chết không nhìn nhau!

Tôi thăm khu hoàn kiếm, có tháp rùa, đền ngọc sơn, cầu thê húc… lúc đang nghĩ sao cầu Thê Húc nhỏ quá, tôi vụt nhớ lời người giáo sư dạy Sửngày xưa dặn chúng tôi có nhìn công trình lịch sử của đất nước thì phải nhớ nhìn với con mắt của lịch sử… Tôi cố thu vào óc những cảnh mình thấy, và mơ về thời Lê Lợi được thần ruà trao gươm báu để giết giặc ngoại xâm, sau khi chiến thắng trở về thì thần rùanổi lên lấy lại kiếm báu, lặn sâu xuống nước, một giai thoại thần kỳ oai hùng biết bao trong sử VietNam. Từ lúc nhỏ, tôi vẫn mơ về hồ hoàn kiếm trong ảnh của Nguyễn AN Ninh, , đệp như tranh vẽ, in trong tạp chí Revue du Sud-East Asiatique, bây giờ mới có dịp thấy tận mắt.

Qua khu Đống Đa tôi nhớ đến Quang Trung đại phá quân Thanh nhưng thấy mình khó hình dung giai đoạn lịch sử này vì gò thấp quá! Tôi đến nhìn sông Hồng, nghĩ đến tác phẩm “Vỡ Đê” đọc ngày nào, tưởng tượng đê đập kiên cố chứ nào ngờ ngoài đời bờ đất dễ trôi, dân cư sống và trồng trọt rau màu giữa đê chính và đê phụ.. Tôi thấy cầu Thăng Long đã xây xong nhưng do chiến tranh biên giới Việt trung lúc bấy giờ nên không xử dụng…
“cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Bến thu phong đứng rũ tà huy…”
Tôi vào bưu điện Hoàn Kiếm để gởi thơ vào trại Hà Tây, báo tin cho chồng là tôi đã mua được vé xe lửa trở về. Tôi mua một số tem và phong bì bỏ một số thơ nhắùn tin ở miền Bắc, sao chép điạchỉ viết trên những tờ giấy đủ cỡ viết lên boa thư, thư cuả những người tôi không hề quen biết, chỉ biết là cùng chung số phận ở Hà Tây như người thân của tôi… Thử xem điện tín đánh từ thủ đô ở bưu điện Hoàn Kiếm có đến SaiGon nhanh hay không, tôi điện về:”mẹ về nhà chuyến tàu Thống Nhất ngày… tháng 7 năm 1979.” Cái thú thử trò truyền tin điện tử này còn hại tôi dài dài, tôi sẽ kể ở phần sau.
Chiều tôi vào ga Hàng Cỏ, chen lấn tưởng chết ngộp, may là không có hành lý nhiều như lúc đi, cũng còn lách được vào toa tàu. Vé tự mua, không có ai tranh chỗ, nhưng chỗ ngồi gần phòng vệ sinh của toa “thom lừng”

Trên đường về 3 ngày 4 đêm, ngồi nhìn phong cảnh dọc theo cửa sổ xe lửa, tôi nhớ bài hát phổ nhạc từ thơ Hồ Dzếnh:
“Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây…”
Tôi nhớ chồng sống đọa đày loa khổ trong trại tù Hà Tây, nhớ Hà Nội, vụt nhớ 2 câu thơ Bà Huyện Thanh Quan:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.”
Về nhà, mẹ tôi hỏi con đi Hà Nội thấy ở đó ra sao, thăm chồng con thấy nó thế nào. Tôi đáp thấy cảnh Hà Nội đẹp, mẹ tôi hứ một tiếng , con này mới đi Hà Nội mà đã mê lậm!
Tôi nhớ hai câu thơ cuả Trần Dần trong Nhân Văn Giai Phẩm:
“Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà
Chỉ thấy mưa xa trên màu cờ đỏ…”
Tôi thầm nghĩ, tôi đi Hà Nội thấy phố xá cũ xì, công an đầy dẫy, cuộc sống người Hà Nội che dấu, nhưng cũng còn có người Hà Nội tốt…. Tôi mếu máo ôm chầm lấy mẹ tôi và nói:”mẹ ơi, chồng con là tù không án không số, biết boa giờ ra!!!
Mẹ tôi vuốt tóc tôi, lau nước mắt trên mặt tôi, an ủi tôi” rồi con sẽ đi thăm nuôi nữa, hè sang năm ráng thu xếp cho mấy đưá nhỏ đi thăm ba tụi nó.”

Sau ba ngày 4 đêm đi xe lửa tôi về tới nhà, cái điện tín gởi từ bưu điện Hoàn Kiếm vẫn không thấy đâu cả. Một ngày sau khi tôi về tới nhà, điện tín tới, nhưng tôi bận đi chợ không có ở nhà, về nhà thấy tronh thùnh thơ có giấy boá ra bưu điện Saigon nhận bưu tín! Tôi vò bỏ, nghĩ điện tín chậm như ruà bò, không thèm lãnh vì chính tôi gởi. Không ngờ vài hôm sau có giấy báo của công an phường bảo tôi lên gấp hỏi tại sao không di lãnh điện tín gởi từ Hà Nội! Tôi trình bày cớ sự, chú công an phường nói à, chị quả là có xin phép ra Bắc, thôi chị về nhà nghỉ ngơi ! về nhà tôi tâm sự với ngưới hàng xóm gốc Hà Nội, các bác bên hàng xóm nói với tôi sao chị không biết chuyện dân Saigon có gốc ở Bắc đã ra ngoài âý cùng bà con đi vượt biên, nghe nói dễ đi hơn trong Nam, mấy trại tỵ nạn ở Hồng Kông tràn ngập người là người!

Chuyến thăm nuôi về sau nhờ có kinh nghiệm nên không có gì đáng kể. Thân tình cuả những người vợ, người con đi thăm nuôi ngày càng thắt chặt, tạo thành một mạng lưới của giới “thân nhân học tập cải tạo” Tháng này chị A đi thăm chồng ở Hà Tây, tháng tới cô X ra thăm bố, người nào đi thì nhận mang quà cuả những người khác. Tin tức từ trại nhắn về, người ở nhà biết được những thứ cần phải gởi, những thứ không dùng được, người tù sống được là do gia đình muôi, trại tù không có gì phải lo lắng nên cứ giữ tù dài dài.

Sau gần năm năm trời đi thăm nuôi ở miền Bắc, chồng tôi được chuyển vào nam gia đình tôi đi thăm nuôi ở Long Khánh. Qua đèo mẹ bồng con của núi chứa chan thì tới, đi bằng xe hơi bao đón ở Bình thạnh, An Đông…, đưa rước cả chuyến đi vào trại, về Saigon chúng tôi thường đùa với nhau theo giọng người Nam:núi chứa chan, chán chưa? Chưa chán cho nên tháng nào cũng ráng gởi quà hoặc ráng đi thăm theo phép trại để cho thân nhân đỡ sống thiếu thốn. Năm 1987 trại cải tạo thả một số tù về với gia đình, trong số đó có chồng tôi, chấm dứt 13 năm trời thăm nuôi.

Năm 1991 gia đình tôi được định cư ở Mỹ theo diện HO. Tôi lại sống đời đi thăm nuôi, không phải vất vả nuôi chồng ở trại cải tạo mà cùng chòng đi thăm các con ở các trường đại học, rồi sau đó khi các con thành tài, lập gia đình , thỉ đi thăm con , thăm dâu thăm rể, thăm các cháu. Tính ra cũng đã gần 14 năm trên đất Mỹ, cuộc đời chỉ có niềm vui vươn lên, chứ không tràn đầy nước mắt tủi hờn bị đoạđày của một thời 13 năm trời đi nuôi chồng từ Bắc vào Nam của một người vợ HO.

Kính tặng má của chúng con
Karen N. Nguyen

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Tội Ác Bùi Ðình Thi Tại Trại Tù Thanh Cẩm


Phần I

2 vụ án bi thảm trong trại tù Thanh Cẩm

hay

Một vấn đề của lương tâm

Trong suốt 17 năm qua, nhiều lần tôi định ngồi ghi lại một vụ sát nhân dã man đã làm nhiều người phải kinh ngạc, mà tôi vừa là một nhân chứng vừa là một trong những nạn nhân may mắn còn sống sót. Nhưng mửi lần cầm bút để ghi lại, tôi vẫn phân vân tự hỏi: Có ích lợi gì đâu việc khơi lại đống tro tàn của quá khứ? Việc ghi lại này sẽ có tác dụng như thế nào đối với thủ phạm, đối với các bạn tù, đối với thân nhân và những người quen biết tôi, đối với thân nhân và những người quen biết thủ phạm..., và cả đối với những người sẽ đọc câu chuyện này? Với tư cách là một linh mục, tôi có nên ghi lại những điều mà tôi biết sẽ gây nên những sự đau xót hay công phẫn nơi nhiều người hay không? Tuy nhiên, mửi khi nhớ tới câu chuyện kinh hoàng này là tim tôi đau nhói như có ai đang rạch lại vết thương lòng tuy đã lâu năm nhưng còn rướm máu của tôi.

Sau nhiều năm tháng suy nghĩ và nói chuyện với nhiều người quen thân, tôi thấy đã đến lúc phải nói lên tất cả sự thật của vụ sát nhân đó để làm sáng tỏ những khúc mắc đang âm ỉ làm nhức nhối tâm hồn của nhiều người, trong số đó có tôi, và để rút ra một bài học cho những người vì những suy nghĩ nông nổi đã hành động bất chấp lương tri để mưu cầu những lợi ích thấp hèn. Ðây là câu chuyện về vụ giết người thật dã man trong nhà tù CS mà thủ phạm không phải là cán bộ CS hay một can phạm hình sự, mà là một chiến hữu đã từng chiến đấu trong QLVNCH, sau đó là một người bạn tù trước khi trở thành kẻ sát hại người đồng cảnh ngộ như mình. Ðiều đau lòng hơn nữa đối với tôi, thủ phạm lại là một tín đồ Công giáo.



Khi phải ngồi viết lại những dòng này, lòng tôi đau đớn vô cùng. Tôi dùng chữ "phải ngồi viết lại" vì trước đây tôi đã cố chôn vùi câu chuyện kinh hoàng này vào dĩ vãng. Tôi nghĩ rằng người chết thì đã chết rồi, còn thủ phạm thì ung dung sống dưới sự che chở của chế độ CS, nên viết lại cũng chẳng ích lợi gì. Nay thủ phạm đã được đến Hoa Kỳ theo chương trình HO và hiện đang sống ung dung tại một đất nước tự do, ở ngay bên cạnh những nạn nhân của mình, những người thân yêu của nạn nhân và những đồng bào đã phải bỏ nước ra đi để thoát khỏi chế độ bạo tàn của CS. Sự có mặt của thủ phạm đã khơi lại nửi đau đớn cho nhiều người, trong đó có tôi. Nhiều anh em bạn tù đã thúc giục tôi phải nói lên sự thật để xác định một thái độ, dù đó là một thái độ bao dung, vì đây là vấn đề của lương tâm.



Thủ phạm là Bùi Ðình Thi, một cựu Ðại úy của QLVNCH. Khi được chuyển đến trại Thanh Cẩm, một trại nằm sát biên giới Việt - Lào thuộc tỉnh Thanh Hóa, Bùi Ðình Thi đã lập nhiều "công trạng" với ban giám thị trại nên đã được ban giám thị cho giữ chức Trật Tự, một chức có nhiệm vụ canh chừng và theo dõi mọi hoạt động của các tù nhân trong trại. Với trách vụ này, Bùi Ðình Thi đã không từ chối bất cứ hành động nào, kể cả đánh đập và giết chết người đồng cảnh, để lấy lòng Công an VC với hy vọng được về sớm. Nạn nhân của Bùi Ðình Thi rất nhiều, trong đó có một cựu Thiếu tá phi công và là Dân Biểu của VNCH ngày trước. Anh đã bị đánh đập dã man cho đến chết. Một nạn nhân khác là một bạn tù thuộc tổ chức Phục Quốc đã bị đánh đập và bỏ cho chết đói. Và rất nhiều nạn nhân khác, trong đó có một số linh mục, đã bị đánh đập và hành hạ bằng đủ mọi hình thức. Bùi Ðình Thi và gia đình mới được đến định cư tại Hoa Kỳ theo danh sách HO trong vòng 2 năm nay (vào thời điểm 1995).



Trong chuyến đi Âu Châu tháng 7/1995, tôi có ghé qua California một thời gian để thăm các bạn bè, đa số là các bạn cựu tù nhân chính trị và những người tôi quen biết khi tôi phục vụ trong trại tị nạn tại Thái Lan. Các bạn cựu tù thuộc trại Thanh Cẩm khi vừa gặp tôi, ai cũng hỏi: "Cha đã gặp Bùi Ðình Thi chưa? Bùi Ðình Thi hiện ở Santa Ana". Từ đó Bùi Ðình Thi trở thành đề tài chính trong các câu chuyện giữa các anh em cựu tù nhân chính trị chúng tôi. Sau đó, tôi sang Pháp và một số nước Âu Châu. Tại đây, tôi có dịp gặp một số anh em cựu tù nhân chính trị, họ cũng lôi Bùi Ðình Thi ra làm đề tài khi nói chuyện, mặc dầu có người không hề ở chung trại Thanh Cẩm với tôi. Trên đường về Tân Tây Lan vào trung tuần tháng 8/95, tôi có ghé lại Orange County một lần nữa. Trong lần thăm viếng anh em này, tôi đã có dịp nói chuyện với Bùi Ðình Thi qua điện thoại. Thành thật mà nói, với tâm tình và cuộc sống đời linh mục của tôi, trong thâm tâm tôi đã tha thứ cho Bùi Ðình Thi. Nhưng những hậu quả mà Bùi Ðình Thi đã gây ra khi còn ở trong trại Thanh Cẩm vẫn còn nguyên vẹn ở đó. Tôi và một số anh em vẫn nghĩ rằng tôi có trách nhiệm phải tường thuật mọi chuyện đã xảy ra để giúp Bùi Ðình Thi có sự sám hối thật sự ở trong lòng, và những người khác khi ở vào hoàn cảnh của Bùi Ðình Thi, đừng vì những suy nghĩ nông cạn mà gây đau khổ cho đồng loại. Trước hết tôi muốn dùng những hàng chữ này như một nén hương lòng thắp lên trước bàn thờ 2 anh Ðặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn, 2 nạn nhân đã bị Bùi Ðình Thi sát hại, để cầu cho vong linh 2 anh được nhẹ nhàng nơi thế giới bên kia, nơi mà tôi nghĩ rằng không còn có hận thù hay khổ ải như cái địa ngục trần gian Thanh Cẩm mà chúng tôi đã một thời phải sống ở đó. Tiếp đến, qua bài này, tôi xin gởi đến những anh em tù nhân đã từng bị Bùi Ðình Thi hành hạ, đánh đập như tôi để chia xẻ những tổn thương mà chúng ta phải gánh chịu trong suốt cả cuộc đời còn lại. Tôi cũng xin gởi đến thân nhân của các nạn nhân lời phân ưu của chúng tôi về những đau thương mà quí vị phải gánh chịu qua cái chết tức tưởi của người thân. Tôi cũng hy vọng rằng câu chuyện này sẽ góp phần vào việc làm đồng bào và thế giới biết rõ hơn cái gọi là "trại cải tạo" của CS và những phương thức bạo tàn mà CS đã xử dụng để xây dựng và củng cố quyền bính. Tôi ước mong rằng bài hồi ký này sẽ được ghép vào phần cuối của các hồi ký về trại cải tạo mà các anh em cựu tù nhân chính trị đã và đang viết ra.



Chức vụ trật tự



Như tôi đã trìng bày ở trên, Bùi Ðình Thi, một tù nhân chính trị, đã lập được nhiều "công trạng" để VC tin tưởng và cho giữ chức Trật Tự ở trong trại tù Thanh Cẩm, và đã lợi dụng chức vụ đó để tiếp tục lập công bằng cách hành hạ, đánh đập và hạ sát các người tù đồng cảnh. Do đó, trước tiên tôi xin trình bày qua vài dòng về chức Trật Tự ở trong một trại tù CS.



Các trại tù do Công an quản lý thường được tổ chức như sau: Ðứng đầu trại là một Ban Giám Thị gồm Trại trưởng, Trại phó và các Ban, Ngành lo về các phần vụ chuyên môn như Ban Giáo Dục, Ban An Ninh, Ban Hồ Sơ... Những người bị giam giữ được phân thành từng đội, mửi đội do một tù nhân làm Ðội trưởng và một cán bộ quản giáo trông coi. Ðội trưởng do Ban Giám Thị trại chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh. Mửi khi các tù nhân được di chuyển ra khỏi trại, như đi lao động sản xuất chẳng hạn, phải có 1 hoặc 2 cán bộ võ trang vác súng dài đi theo canh giữ. Ban đêm, các cán bộ võ trang này thay nhau tuần tra trong và ngoài vòng rào của trại để ngăn ngừa tù nhân trốn trại. Trực tiếp lo về sinh hoạt và đời sống của tù nhân có Ban Trưc Trại, đứng đầu là một cán bộ trực trại. Ðể điều hành công việc trong trại, cán bộ trực trại thường chọn một số tù nhân được trại tín nhiệm để phụ trách các công tác trật tự, y tá, văn hóa, thi đua, v.v... Những người phụ trách các công tác này cũng do Ban Giám Thị chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh và Ban Trực Trại. Trong các công tác nói trên, công tác trật tự được coi là quan trọng nhất, do một Trật Tự điều hành. Anh này có quyền hành nhất trong trại, chỉ sau cán bộ CS mà thôi. Muốn làm chức Trật Tự phải có nhiều công trạng với trại, được trại tín nhiệm, và cũng phải có sức mạnh. Ngoài nhiệm vụ trông coi trật tự trong trại, Trật Tự còn phụ giúp cán bộ trực trại trong coi khu kiên giam, như khoá còng các còng các tù nhân bị kỷ luật vào buổi tối và tháo ra vào buổi sáng. Những tù nhân được coi là nguy hiểm, bị cùm cả ngày lẫn đêm, có khi hết tháng này đến tháng khác, năm nọ sang năm kia. Trật tự cũng có nhiệm vụ gánh khẩu phần cho các tù nhân bị kiên giam mửi ngày 2 lần, đi diểm danh với cán bộ trực trại mửi buổi tối và khóa cửa buồng, mở cửa các buồng vào buổi sáng, v.v... Trật tự còn được giao cho nhiều công tác linh tinh khác. Mửi lần Trật tự lên làm công tác trên khu kiên giam thường có cán bộ đi theo. Cũng có những người tuy không có "công trạng" nhiều đối với trại, nhưng nhờ đút lót tiền của cho cán bộ trực trại và cán bộ an ninh nên được cho làm Trật Tự, vì làm Trật Tự không phải đi lao động vất vả như các tù nhân khác và được tự do hơn.



Tôi đã sống qua nhiều trại, kể cả những trại do một phạm nhân hình sự làm Trật Tự, tôi thấy đa số các anh Trật Tự chỉ là nhiệm vụ mà Ban Trực Trại giao phó, có khi còn lợi dụng chức vụ này để giúp đỡ anh em đồng cảnh như anh Nguyễn Văn Bảy (thường được gọi là Bảy Chà) ở trại Thanh Cẩm chẳng hạn. Có những anh tù hình sự làm Trật Tự thường hống hách đối với cá tù nhân hình sự, nhưng ít khi đối xử tệ các anh em tù nhân chính trị. Cũng có những anh lợi dụng chức vụ Ban Trực Trại giao phó để sách nhiễu, chửi bới hay đánh đập anh em, nhưng hung bạo và tàn ác như Bùi Ðình Thi chỉ là trường hợp họa hiếm.



Trại tù Thanh Cẩm



Ðầu tháng 8/1978, khi chiến tranh biên giới giữa VN và Trung Quốc sắp sửa bùng nổ, nhóm tử tù "48 Quyết Tiến" chúng tôi được di tản khỏi trại trừng giới Quyết Tiến, thường được gọi bằng biệt danh là trại "Cổng Trời", và đến trại Thanh Cẩm thuộc tỉnh Thanh Hoá, vì trại "Cổng Trời" nằm ở tỉnh Hà Tuyên, chỉ cách biên giới Trung Quốc có 10 km đường chim bay. Sở dĩ trại này có cái tên là trại "Cổng Trời" vì 2 lý do. Lý do thứ nhất là không mấy khi tù nhân bị đày lên trại này còn có ngày trở về. Họ thường đến đây để chờ ngày đi qua thế giới bên kia. Lý do thứ hai là trại này nằm ở độ cao hơn 2000m trên mặt biển (cao gần đụng Trời), ở đó quanh năm giá rét, mây mù che phủ, đất trời âm u, chẳng khác gì cảnh âm ty địa ngục. "Cổng Trời" là nơi VC dành riêng cho các tử tội. Có không biết bao nhiêu thành phần phản kháng chế độ CS bị chết ở đây, như linh mục Nguyễn Văn Vinh thuộc nhà thờ chánh tòa Hà Nội chẳng hạn. Chỉ sau một thời gian bị giam ở đó, chúng tôi đã thấy bóng Thần Chết lảng vảng một bên. Các linh mục già yếu càng thấy rõ hơn. Vì bị đặt vào một hoàn cảnh bi thảm như thế, nên ngày được vui mừng và sung sướng nhất trong suốt 13 năm tù tội của tôi lại là ngày được di chuyển ra khỏi trại Quyết Tiến "Cổng Trời" vào đầu tháng 8/78, sau đó mới đến ngày tôi được tuyên bố tha ra khỏi trại vào cuối năm 1988. Việc Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào vùng biên giới Việt Bắc được coi là một cơ hội may mắn đối với các tù nhân được đưa đến lưu đày tại trại này, vì chính nhờ cơ hội đó, chúng tôi mới được chuyển về miền xuôi và nhờ vậy một số anh em chúng tôi còn được sống sót đến ngày hôm nay.



Sau 2 ngày đi đường thật vất vả, chiều tối hôm ấy, dưới cơn mưa tầm tã, nhóm 48 người chúng tôi lang thang lếch thếch, tay xách nách mang, bước vào cổng trại Thanh Cẩm, một nơi hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, nằm sâu trong vùng rừng núi của huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Chưa biết những gì đang chờ đợi trước mắt, nhưng anh em chúng tôi bảo nhau: "Bất cứ điều gì sẽ xảy ra, ở đây cũng còn tốt hơn Cổng Trời!" Vừa vào cổng trại, đang tiến tới một hội trường bằng tre lợp tranh ở giữa sân trại, một cảnh tượng lạ lùng đã đập vào mắt làm tất cả chúng tôi phải ngạc nhiên và vẫn còn nhớ mãi cho đến ngày hôm nay, đó là hình ảnh cán bộ trực trại, chân mang ủng cao gần tới đầu gối, 2 ống quần kaki vàng của Công an xắn một cách vô trật tự lên tới bẹn, để lộ một khúc đùi từ đầu gối trở lên, đen đen mốc mốc. Con người của anh ta trông bẩn thỉu và bèo nhèo như một cái nùi giẻ, loại nùi giẻ của thợ máy xe; "cái nùi giẻ" đó đang say rượu, chân nam đá chân chiêu, tay cầm một cây trúc cao quá đầu, vừa quơ lung tung vừa quát tháo ầm ĩ, như muốn dằn mặt "bọn lính" mới chúng tôi. Nhìn anh cán bộ Thượng úy trực trại này tôi liên tưởng đến một bức tranh biếm họa vẽ hình Táo quân, một Táo quân đang say rượu. Hai anh tù mặc đồng phục màu xanh đang lăng xăng chạy trước mặt và chung quanh chúng tôi, múa tay chỉ trỏ để lùa chúng tôi vào chử chỉ định. Chúng tôi biết ngay đây là 2 anh Trật Tự, vì khi từ trại Nam Hà đến trại "Cổng Trời" vào ngày Giáng Sinh năm 1977, chúng tôi cũng thấy có một anh tù hình sự làm Trật Tự giúp cán bộ khám xét nhóm 20 anh em chúng tôi như vậy. Nhưng anh Trật Tự ở trại "Cổng Trời" làm việc từ tốn và chậm rãi, chứ không có lăng xăng như 2 anh này.



Nhìn 2 anh Trật Tự, chúng tôi thấy 1 anh độ ngoài 40 tuổi, trông có vẽ lầm lì ít nói. Anh kia trẻ hơn, khoảng chừng 30 tuổi, mập tròn béo tốt, da mặt bóng láng, chân hơi bị tật. Anh ta mập đến nửi mông tròn và căng lên dưới lớp quần xanh của tù trông như đàn bà, khác hẳn với những thân hình xanh xao và gầy còm của nhóm anh em chúng tôi vừa mới nhập trại. Anh này đang cố gắng làm mặt "ngầu" để thị uy bọn "lính mới" chúng tôi. Miệng anh lúc nào cũng la hét, tay anh chỉ hết bên nọ đến bên kia, nhưng không bao giờ nhìn thẳng vào mặt ai trong bọn chúng tôi. Nhóm chúng tôi di chuyển rời rạc, vì những người còn trẻ đi nhanh tới chử tập trung ngay, còn những người ốm yếu bệnh tật lò mò theo sau. Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Sỹ Thuyên gần kiệt sức, vừa tới nơi tập trung đã vất phịch cái bao áo quần và chăn màn bẩn thỉu xuống nền hội trường, rồi nằm ngửa người trên đó. Tôi cũng quá mệt nên tới ngồi cạnh bên anh. Sau một lúc, anh Thuyên lấy lại được sức và dùng cùi chỏ thúc nhẹ vào tôi, hất mắt hướng về tên cán bộ trực trại, rồi nói nhỏ: "Mẹ ! Cái thằng trông như ở lử cống mới móc lên !". Tôi chưa kịp ra dấu phát biểu đồng tình thì giật mình vì một giọng quát từ sau lưng: "2 anh này không lo thu xếp dồ đạc, còn ngồi nói chuyện chi đây? Bộ muốn chống đối hả?" Tôi quay lại nhìn thì chạm ngay cặp mắt trắng dã của tên Trật Tự trẻ mà từ lúc đầu tôi đã gườm hắn. Tôi đứng dậy bỏ đi vì biết rằng đây không phải là chử tốt để bày tỏ một thái độ nào khác. Tôi vừa đi vừa nghĩ bụng là mình phải cẩn thận với tên này.



Tất cả chúng tôi đã bị nhốt lên khu kiên giam ngay chiều hôm sau. Khu kiên giam gồm những căn nhà xây cất rất kiên cố, được chia ra nhiều phòng nhỏ, dùng để giam các tù nhân bị coi là nguy hiểm hay bị trừng phạt vì kỷ luật. Có những tù nhân phải bị còng chân ban đêm hay suốt cả đêm ngày. Tất cả 48 anh em chúng tôi đều được xếp vào loại nguy hiểm, nên bị đưa lên giam ở đây. Hàng ngày chúng tôi không được đưa đi lao động, không được liên lạc với các tù nhân khác bên ngoài. Thông thường, 2 tuần một lần, những người ở nhà kiên giam được di tắm giặt dưới sông trước mặt trại giam một lần và bị canh gác rất cẩn thận.



Tuy bị đưa vào giam ở nhà kiên giam, nhưng nhờ một số tù nhân cũ đang bị giam tại đây, chỉ độ vài ngày sau chúng tôi đã nắm vững vị trí của trại và tình hình trong trại này. Trại Thanh Cẩm lúc đó được chia làm hai K (Khu), chúng tôi đang ở K1 gồm toàn tù nhân chính trị miền Nam khoảng 400 người, đa số là các cựu viên chức hành chánh của chế độ miền Nam cũ và một số anh em thuộc tổ chức Phục Quốc hay vượt biên bị bắt. Không có thành phần cựu quân nhân. K2 nằm cách K1 khoảng 3 km, được dùng để giam tù hình sự.



Một số anh em tù nhân chính trị đã kể lại cho chúng tôi biết, khi họ từ trại Long Thành đến đây vào tháng 12/76, trại này có đến 3 K. K1 là phân trại mà chúng tôi đang bị giam, gồm một nửa là tù chính trị miền Nam và một nửa là tù hình sự. Phân trại này trước đây là nhà tranh, có hàng rào bằng tre nhiều lớp bọc xung quanh, dùng dể giam tù hình sự. Sau khi chiếm được miền Nam, Bộ Nội Vụ ra lệnh xây cất gấp những căn nhà gạch và một vòng tường kiên cố để đón các tù chính trị miền Nam, vì tù chính trị miền Nam được coi là thành phần nguy hiểm, phải canh giữ rất cẩn thận, không cho liên hệ với bên ngoài. Khi các anh em từ trại Long Thành ở trong Nam được chuyển ra đây thì phía bên phải của trại đã có 4 căn nhà ngói, còn bên trái 3 căn nhà tranh, và một căn nhà kiên giam xây bằng đá tối om, có lử thông hơi rất nhỏ, được dùng dể giam những người Việt gốc Trung Hoa bị coi là gián điệp của Trung Quốc và những người bị kỷ luật. Chúng tôi thường gọi nhà kiên giam này là Nhà Ðen. Khu kiên giam mà chúng tôi đang bị giam là khu mới xây cất để đón chúng tôi.



Trật Tự Bùi Ðình Thi



Vào một buổi chiều, sau một cơn mưa, nước đọng thành vũng chung quanh khu nhà kiên giam, cũng được gọi là nhà vì có mái bằng, anh em chúng tôi đang ngồi bó gối trong buồng nhìn ra cửa sổ nói chuyện trên trời dưới đất như thường lệ cho qua thời giờ, bửng nghe tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Việc cửa khu kiên giam được mở vào giờ bất thường như thế này bắt buộc chúng tôi phải theo dõi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Nhìn qua cửa sổ, chúng tôi thấy một anh tù lạ mặt vác cuốc bước vào sân. Chúng tôi đoán với nhau rằng anh này là anh Trật Tự mới.



Chúng tôi đoán như vậy vì không một anh tù nào được vào khu vực này, trừ ra các anh có chức vụ như Trật Tự, văn hóa và y tá. Việc thay đổi một anh Trật Tự có ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của chúng tôi, nên tất cả 5 người trong phòng tôi đều dí mặt vào song cửa để quan sát. Anh tù lạ mặt này tướng tá coi bộ cao ráo, gân guốc, mạnh mẽ. Anh ta đang đào rãnh khai thông vũng nước mưa đọng ngay bên ngoài cửa sổ buồng chúng tôi (buồng 1). Anh vung những nhát cuốc trông thật "chất lượng" và thành thạo. Lúc anh quay mặt vào buồng chúng tôi, tôi quan sát kỹ lưỡng hơn. Anh ta khoảng 40 tuổi, tay chân dài lều khều, cái tướng mà người Nam chúng tôi thường gọi là "chân chòi củ loi". Mặt anh ta hơi dài, tóc thưa, cặp mắt tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Ðiểm đặc biệt nhất nơi anh là cái miệng. Tôi không biết tướng số nên không biết diễn tả như thế nào, chỉ biết là có một cái gì không ổn nơi cái miệng đó. Ðôi môi hình như chưa được cấu tạo đầy đủ. Môi trên và môi dưới không giáp mí nhau, đúng ra không phải là cái môi theo nghĩa thông thường mà là 2 mảng thịt mỏng lúc nào cũng nhơm nhớp nước bọt. Thỉnh thoảng anh ta ngoái lưỡi liếm nước bọt bám ở 2 bên mép. Anh mặc bộ đồng phục màu xanh của tù, cạp quần 2 bên hông được lận lên cao, chân mang dép râu. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi sau vài giây phút quan sát là tên này không phải là một tay vừa. Nếu quả thật anh ta được cử làm Trật Tự thì không dễ thở đâu. Anh ta có một cái gì khác với cả Phạm Ðình Thăng lẫn Trương Văn Phát. Một "cái gì khác" đó có lẽ không hứa hẹn "một tương lai sáng sủa" nào cho anh em tù kiên giam chúng tôi.



Từ bên trong song sắt cửa sổ chúng tôi cố gợi chuyện với anh ta. Rõ ràng là anh không muốn trả lời, nhưng nhiều người hỏi quá buộc lòng phải trả lời vài câu, nhưng theo lối đáp nhát gừng. Sau một cuôc phỏng vấn chớp nhoáng và được trả lời một cách miễn cưỡng, chúng tôi được biết anh ta từ trại quân đội mới được chuyển về đây ít lâu và vừa được trại cử làm Trật Tự thay cho Phạm Ðình Thăng đã được về. Anh ta là một người công giáo, ở xứ Gia Cốc, Hố Nai, gốc Ðịa phận Hải Phòng. Nghe tới 2 tiếng Hải Phòng, cha Chu Văn Oanh, một linh mục lớn tuổi trong buồng tôi mừng rỡ:



- Anh gốc Ðiạ phận Hải Phòng hả? Tôi cũng Hải Phòng nè, thế anh có biết cha nào gốc Hải Phòng không?



- Cha Bình.



Cha Oanh vội rước lời:



- Cha Bình làm Quản lý của Ðịa phận Hải Phòng, bây giờ thuộc Giáo phận Long Xuyên chứ gì?



- Ðúng rồi.



Cha Oanh hớn hở:



- Cha Bình là bạn thân của tôi, 2 người thân nhau lắm.



Thinh lặng một lúc khá lâu như để lựa lời, một lúc sau anh nói ngắn gọn:



- Cha Bình là chú tôi.

Cha Oanh vui mừng ra mặt:

- Thế thì may quá, không ngờ được gặp cháu cha Bình ở đây. Nếu anh có viết thư nói tôi là cha Oanh, không, phải nói cha Oánh, vì lúc bấy giờ tên tôi là Oánh, gửi lời hỏi thăm người nhé. Thế anh tên là gì nhỉ?

- Thi

- Cái gì Thi?

Anh ta ngập ngừng tỏ vẻ hơi khó chịu trước cái cách "thấy sang bắt quàng làm họ" một cách quá lộ liễu của ông linh mục già này, nhưng cũng đáp gọn:

- Bùi Ðình Thi

Tôi cũng có chút hơi ngượng trước thái độ cầu thân thái quá của cha Oanh, nhưng trong lòng cũng mừng thầm vì từ nay có một người công giáo làm Trật Tự, anh ta lại có chú làm linh mục bạn của cha Oanh, chắc từ nay cảnh sống kiên giam sẽ đỡ hơn, không như tên Phát "vô đạo", hửn láo, đối xử với chúng tôi thật chẳng ra gì. Ngon đà, cha Oanh còn hỏi thêm mấy câu nữa nhưng anh ta vác cuốc bỏ đi nơi khác làm cha Oanh hơi cụt hứng.

Khi Bùi Ðình Thi đi rồi, bầu không khí trong buồng chúng tôi trở nên vui vẻ lạ thường. Chúng tôi gọi sang các buồng khác để báo tin vui, vì 4 buồng kiên giam sát vách nhau nên tin tức gì một buồng biết là các buồng kia đều biết. Sau khi nghe chúng tôi thông báo về lai lịch của anh Trật Tự mới, anh em các buồng kia cũng phấn khởi và nghĩ là phen này tù kiên giam chắc sẽ dễ thở hơn. Từ mấy tháng qua, tên Phát làm mưa làm gió nên anh em chúng tôi cảm thấy cuộc sống trong tù vốn đã khổ lại càng khổ hơn. Trong buồng tôi, cha Oanh vui vẻ ra mặt, cười nói liên hồi như vừa lập được chiến công lẫy lừng, luôn miệng lập đi lập lại câu nói: "Chuyến này thì ăn thua rồi! Chuyến này thì ăn thua rồi!" Oanh đang vui vẻ nói năng, tự nhiên tôi đâm ra tự trách mình đã nhận xét không tốt về anh Bùi Ðình Thi lúc nãy. Mới trông qua bộ mặt anh ta, tôi thấy có vẻ hắc ám, nhất là cái miệng trông thấy ghê sợ..., nhưng biết đâu chừng anh là người tốt, anh là một con chiên, là một giáo hữu, dân "Bắc Kỳ Hố Nai", nơi giáo dân nổi tiếng ngoan đạo. Anh ta lại là cháu của một linh mục bạn của cha Oanh, dù gì chắc cũng không đến nửi tệ.



Ðọc tới đây chắc có bạn thắc mắc tại sao lúc bấy giờ anh em kiên giam chúng tôi lại quá bận tâm về một anh tù làm Trật Tự như vậy. Xin nói ngay vì sau cán bộ, Trật Tự là người nắm giữ quyền hành trong khu vực này. Thông thường, đến giờ điểm danh hay phát khẩu phần cho khu kiên giam, cán bộ cùng đi với Trật Tư, vì Trật Tự cũng là tù nên không được hoàn toàn tin tưởng. Nhưng phát cho ai bao nhiêu, phát nhiều hay phát ít, cán bộ không hề hay biết. Trật Tự trù ai bằng cách bớt phần ăn thì người đó khốn khổ ngay. Chính vì cái quyền này, Bùi Ðình Thi đã để anh Lâm Thành Văn chết đói mà chúng tôi sẽ kể dưới đây. Ngoài ra, nếu Trật Tự dễ dàng một chút, khi làm vệ sinh và lãnh khẩu phần, anh em sẽ được thoải mái hơn, có chút thời giờ trò chuyện hay thở không khí trong lành một chút. Trật Tự gắt gao thì chúng tôi làm không kịp thở. Nói một cách tổng quát, cuộc sống của nhà kiên giam và kỷ luật tùy thuộc khá nhiều vào anh Trật Tự, anh dễ dàng thì dễ thở, anh ta khó khăn thì khốn khổ. Cán bộ chỉ nghe lời Trật Tự chớ không nghe lời tù kiên giam. Xin các bạn hãy kiên nhẫn, đọc hết bài này các bạn sẽ thấy vai trò của Trật Tự quan trọng thế nào.

Giờ cho ăn chiều hôm đó, ngoài cán bộ và Phát còn có thêm anh Trật Tự mới là Bùi Ðình Thi. Cửa mở, chúng tôi ra ngoài lo các việc vệ sinh như thường lệ. Cha Oanh vì lớn tuổi nên không phải làm gì, ngài ra sân quơ tay đá chân mấy cái xong vui vẻ bước lại chử Bùi Ðình Thi đang ngồi chia thức ăn gạ chuyện. Không biết 2 người đã nói những chuyện gì, có lẽ cha Oanh muốn nối tiếp câu chuyện còn dở dang lúc nãy. Bất ngờ chúng tôi nghe Bùi Ðình Thi gắt lên thật to và dứt khoát: "Ði vào buồng, đừng hỏi lôi thôi". Tội nghiệp cho cha Oanh, không kịp có phản ứng vì "cháu người bạn thân" có thái dộ quá bất ngờ, miệng ngài há hốc có vẻ sửng sốt, rồi cúi đầu lủi thủi vô buồng. Câu nói đó của Bùi Ðình Thi cũng làm tan biến hy vọng của chúng tôi. Trong lúc ngồi ăn, tôi nghĩ rằng nhận xét ban đầu của tôi về Bùi Ðình Thi có lẽ đúng, mặc dù lúc nào tôi cũng mong là mình đã lầm.

Mấy ngày tiếp theo sau, có mấy anh em dưới "làng" mới bị đưa lên kiên giam cho biết Bùi Ðình Thi đã từng là một hung thần khi làm Trật Tự ở trại cũ, có người còn nói anh ta đã có lần tuyên bố thẳng thừng: "Tôi sẵn sàng bước qua xác chết của bất cứ ai vì hạnh phúc của vợ con tôi". Có thật anh ta đã nói câu đó hay một câu nào khác có ý tương tợ như thế hay không, tôi không biết, nhưng qua cách anh ta đối xử với chúng tôi trong thời gian sau đó, tôi nghĩ là họ nói đúng, hoặc có sai thì cũng không sai bao nhiêu.



Bùi Ðình Thi làm Trật Tự vào khoảng 1979. Càng ngày anh ta càng trở nên hung ác hơn, một phần là do bản chất, phần khác muốn tỏ ra là một đầy tớ trung thành và tận tụy của VC để mua cho được 2 chữ "tiến bộ" mong được về sớm, mà cách tiến bộ nhanh nhất là phản bội anh em để tỏ ra mình đã thuộc về chế độ mới. Nhắc tới trung thành và tận tụy, tôi còn nhớ một hình ảnh trông thật khó coi.



Mửi chiều nghe tiếng kẻng, các đội phải xếp hàng chờ điểm danh vào buồng. Dưới "làng" được điểm danh trước, kiên giam và kỷ luật sau. Trong các khu kiên giam, tất cả chúng tôi đang ở trong buồng, nên chỉ phải ngồi ngay ngắn trên bệ nằm đợi cán bộ tới phiên điểm danh. Bửng nhiên chúng tôi nghe tiếng khua rỏng rẻng của các xâu chìa khóa và 2 anh Trật Tự Thi - Phát chạy vụt vào sân, lục soát các ngõ ngách. Cán bộ trực trại theo sau, tay cầm gậy khua lung tung, la hét chỉ chỏ, y như cảnh người thợ săn đang xua cặp chó săn chạy sục sạo đánh hơi tìm con mồi. Lúc ở các trại khác cũng như trại "Cổng Trời", chúng tôi đều thấy có cán bộ và Trật Tự đi điểm danh như thế, nhưng tôi chưa hề thấy có anh Trật Tự nào, kể cả các anh hình sự, chạy nháo nhác trước mặt chủ như thế bao giờ.

Khi Bùi Ðình Thi được đưa lên làm Trật Tự, Trương Văn Phát vẫn được làm phụ tá. 2 tên này khi đi cặp với nhau đã gây không biết bao nhiêu kinh hoàng cho anh em chúng tôi. 4 chữ "thằng Thi thằng Phát" trở thành cách gọi quen thuộc trong trại tù Thanh Cẩm để biểu thị cho một thứ gì vừa đáng sợ vừa đáng kinh tởm.

Guest

Post by Guest »

Sự hành-hạ của Cộng-sản đối với tù-nhân



Có nhiều việc xảy ra trong những nuớc cộng-sản mà những người sống trong thế-giới tự-do không thể nào tưởng-tượng và hình dung ra được. Một trong những điều ấy là sự đối xử của những người cộng-sản đối với tù nhân. Nó rất là khủng-khiếp và không thể nào tin được; nhưng nó vẫn đã xảy ra trong cõi thế gian nầy.



Chính-phủ miền Nam Việt-Nam bị sụp đổ vào năm 1975, và người cộng-sản đã cai-trị đất nước chúng ta từ ngày ấy! Chúng bắt nhốt tất cả những Sĩ-quan trong Quân Lực-Việt-Nam Cộng-Hòa vào các trại tập-trung mà chúng gọi là trại cải-tạo để đánh lừa nhân-dân thế-giới và để che đậy sự hành-hạ dã-man của chúng đối với tù-nhân. Hầu hết những trại cải-tạo (trại tù) đều ở miền Bắc. Đất đai ở miền bắc là một loại đất đai cằn cổi, đầy sỏi đá, và kém mầu-mở. Khí-hâu ở miền Bắc rất lạnh về mùa đông, và rất nóng vào mùa hè.






Tôi là một trong những người tù nhân ấy. Tôi đã chịu-đựng sự buồn-khổ, và đau-đớn gần 10 năm trong những trại đó. Họ bắt chúng tôi phải lao-động khổ-sai. Chúng tôi phải cày ruộng với năng-lực của chúng tôi. Thay vì dùng bò hoặc trâu để kéo cày, chúng bắt-buộc chúng tôi phải nai lưng ra để kéo cày với sức-lực của chúng tôi. Khi mùa thu-hoạch đến, chúng tôi phải ngâm mình dưới nước lạnh thấu xương để gặt lúa. Mùa mưa khởi-đầu từ tháng sáu đến tháng mười hai hàng năm tại Việt-Nam. Người dân bắt đầu cày ruộng và gieo giống vào mùa hè; gặt lúa vào mùa đông. Thời-tiết ở miền Nam rất nóng ( hầu như nóng suốt cả năm). Nhân-dân miền Nam đã quen với cái nóng, họ cảm thấy rất lạnh nếu nhiệt độ dưới 70*F (21*C). (Tôi nhớ những ngày hành-quân ngoài Quảng-Tri khi nhiệt-độ chỉ 19*C (66*F) tôi đã mặc một bộ đồ nhái, một bộ đồ trận, một field jacket, một cái áo khoác bằng dạ của quân-đôi Pháp, đắp môt cái mền len mà vẫn cảm thấy lạnh) Hầu hết chúng tôi sinh-trưởng tại miền Nam, và chúng tôi không quen với cái lạnh; vì thế đã có nhiều tù-nhân bị bệnh vì phải ngâm mình dưới nước vào mùa đông để gặt lúa. Ngoài mùa màng ra, những người cộng-sản còn bắt chúng tôi leo lên núi cao, hoặc vào rừng sâu để lấy gổ hoặc tre để làm nhà. Đôi khi chúng còn đánh-đập chúng tôi nếu chúng tôi không làm đủ chỉ-tiêu do chúng đưa ra!!



Chúng đã tỏ ra tàn-ác cực-cùng khi chúng bắt-buộc chúng tôi lao-động nặng-nhọc, nhưng chúng lại cho chúng tôi ăn không đủ no! Thông-thường một người Việt-Nam ăn 3 hoặc 4 chén cơm trong môt bữa ăn; nhưng người cộng-sản chỉ cho chúng tôi ăn một chén, đôi khi chỉ còn có 3/4 chén bo-bo, hoặc bắp cho mỗi bữa ăn. Nếu ai bị biệt-giam thì còn thê-thảm hơn nữa!! !! (Tôi nhớ khi bị biệt-giam; vì bữa ăn quá ít, nếu ăn nhanh sẽ bị mau hết, nên tôi đếm từng hột bắp bung một và nhai hột bắp ấy cho thật nhuyễn rồi mới nuốt để cho bữa ăn được kéo dài thêm ra. Hôm ấy tôi đã đếm được số bắp bung trong phần ăn của tôi là 72 hột). Chúng tôi không được ăn thịt hoặc cá mà chỉ có nước muối để ăn với bo-bo mà thôi. Riêng cá-nhân tôi hầu như không được ăn cơm khi còn bị nhốt ở trong trại cải-tạo; vì mỗi năm chúng tôi chỉ được ăn cơm vào những ngày sau đây: 3 ngày Tết Nguyên-Ðán, ngày Tết Tây, ngày 1-5, ngày 2-9 hàng năm, còn tất cả những ngày còn lại thì ăn khoai mì khô, khoai lang khô, bắp bung, bo-bo v..v...Tất cả chúng tôi đều bị đói triền-miên. Chúng tôi chịu-đựng cái đói từng giây một, chứ đừng nói từng phút một!! Chúng tôi không bao giờ biết no là gì khi ở trong trại tù. Ở trong tù tôi thường ước mơ được ăn một chén cơm trắng với nước mắm mà không được!!! Để chế-ngự cái đói, ngưòi tù cải-tạo ăn tất cả những gì có thể ăn được. Chúng tôi đã ăn thằn-lằn, ếch, nhái, ểnh-ương (thịt ểnh-ương ngọt hơn thịt cóc và thịt ếch), rắn, chuột, rít (mà chúng tôi gọi là tôm núi vì thịt nó sau khi nướng lên thì thơm và ngọt như thịt tôm tươi), trùn đất (giun đất), cào-cào, và nhiều thứ khác ... Ðôi khi chúng tôi phải ăn cả cỏ để đối-phó với những cơn đói khủng-khiếp đang hành-hạ dạ-dày của chúng tôi. Tôi là một trong những người đã ăn cỏ để xoa dịu cơn đói. Ở Việt-Nam có 2 loại cỏ mà con người có thể ăn được đó là Cỏ Chai và Cỏ diệu. Chúng tôi nấu những thứ cỏ ấy xong rồi cho vào miệng; cỏ rất khó nuốt, nhưng chúng tôi cũng ăn phải vì đói quá!!! Nếu ai được người nhà gởi quà vào thì bỏ tôm khô vào nồi cỏ ấy mà nấu thành canh. Sự đối-xử tàn-bạo của những người Cộng-sản với tù-nhân còn tệ hơn sự đối xử của bọn chủ nô đối với vong-nô trong thời đại nô-lệ. Chúng đối xử với chúng tôi còn thua chúng đối-xử với súc-vật.



Chúng tôi không học được gì trong những cái trại gọi là trại cải-tạo; trên thực-tế đó là những trại tù, mà chúng tôi là những tù-nhân, chứ không phải là cải-tạo-viên gì cả. Người cộng-sản nói với thế-giới rằng chúng đang dạy cho chúng tôi những lối sống cho phù-hợp với xã-hội chủ-nghĩa, nhưng thật ra chúng chẳng dạy chúng tôi điều gì hết. Những điều chúng nó làm là giảng thuyết cho chúng tôi về chủ-nghĩa Cộng-sản. Chúng nó nói chủ-nghĩa Cộng-sản là một chủ thuyết tốt đẹp nhất, nền kinh-tế xã-hội chủ-nghĩa là đường-lối hay nhất để phát-triển quốc-gia, và đó là con đường đẹp nhất để làm cho người dân được giàu và hạnh-phúc. Nhưng trên thực-tế, chủ-nghĩa Cộng-sản là một chủ-nghĩa tàn-bạo nhất. Đó là một chủ-thuyết tồi-tệ nhất trong các chủ-thuyết. Nền kinh-tế xã-hôi chủ-nghĩa là một nền kinh-tế tệ-hại nhất. Để chứng-minh chủ-nghĩa Cộng-sản, và nền kinh-tế xã-hội chủ-nghĩa tồi tệ như thế nào chúng ta hãy nhìn xem những người cộng-sản Liên-xô đã lưu-đày những ai đã chống lại chế-độ cộng-sản và chính quyền do chúng đặt ra. Chúng ta hãy nhìn những người dân Liên-xô đã nghèo-nàn và bất-hạnh đến thế nào thì chúng ta sẽ rõ chủ-thuyết cộng-sản ra sao. Cũng không có nhân-quyền trong thế-giới Cộng-sản. Bởi vì những sự xấu-xa đó và những sự độc-tài đó mà nhân-dân Nga đã lật-đổ chính-quyền Cộng-sản ở Liên-xô, kéo theo sự sụp đổ của toàn thể những đảng cộng-sản ở Đông-Âu. Ở trong tù chúng tôi biết bọn cộng-sản nói dối, chúng tôi biết chế-độ cộng-sản xấu-xa và tàn-bạo như thế nào, nhưng chúng tôi đành phải câm miệng vì sự cấm phát-biểu ý-kiến do bọn cán-bộ đưa ra.



Chúng tôi phải lao-động khổ-sai, chịu đói-khát, đôi khi chúng tôi còn bị đánh-đập, khi bị nhốt trong những nhà tù Cộng-sản. Những ngày kinh-hoàng đó đã qua đi, nhưng mổi khi nhớ lại tôi vẫn còn rùng mình kinh-sợ. Bây giờ tôi đang sống với ước-mơ rằng những người Việt-Nam trẻ tuổi đang sống ở nước ngoài sẽ sát cánh cùng những bậc cha anh của họ để tích-cực đấu-tranh hầu giải-thể chính-quyền Cộng sản ở Việt-Nam để cho nhân-dân Việt-Nam bớt khổ. Tôi cũng mong họ cố-gắng học-hành để sau nầy về giúp nước, giúp dân, khi bọn Cộng-sản không còn tồn-tại ở đất nước chúng ta.








Đềlô Cao-cấp.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Chuyện "Vui" Trong Tù



(Tặng các cựu tù của Quảng-Ðà)
THG


Lời người viết:

Một năm người có mười hai tháng
Riêng một mình ta, chỉ tháng TƯ.

(THANH-NAM)



Ðúng là cái tháng TƯ đầy oan nghiệt, cái tháng mà toàn dân miền Nam không thể nào quên được. Cũng bắt đầu từ tháng nầy, miền Nam rơi vào địa ngục trần gian. Mất hết, mất tất cả...Trên khắp nẽo miền Nam thân yêu, các trại tù mọc lên như nấm. Bọn chúng tôi phải bị lùa vào các trại cải tao (đó chỉ là danh từ hoa mỹ để lừa bịp, thật ra chỉ là những trại tù không hơn không kém). Với thân phận của kẻ chiến bại, là một dịp để cho bọn Cọng Sản trả đòn thù hận lên chúng tôi - những QUÂN, CÁN, CHÍNH của chế độ Cọng Hòa, kể cả các Văn nghệ sĩ của miền Nam.



Hàng ngày chúng tôi phải bị lao động khổ sai, ăn “Peu” làm “Bien”, cái đói, cái khát cứ bám chặt đời mình. Từ cái đói đó, con người gầy còm, tiêu hao sức lực, mất hết ý chí và sinh lực, thậm chí, còn bị chúng chưởi rủa hàng ngày. Chúng vẽ “rắn” thêm chân, vẽ “rồng” thêm cánh, đầy nanh, đầy vuốt như thể chúng tôi là loài quỷ dữ, chỉ biết bóc lột và hút máu người dân miền Nam . Sau những năm tháng dài tù tội, có nhiều người trong chúng tôi chịu đựng không nỗi đòn thù trên phải bỏ mình một cách oan khiên, tức tưởi. Những mả cũ, mả mới, trùng trùng, điệp điệp mỗi ngày quanh bìa rừng, hóc núi. Ðúng là “Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay”.



Không làm sao kể hết được những sự dã man, hèn hạ của CS đối xử với chúng tôi. Tôi xin ghi lại mấy câu thơ của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã viết trong trại tù Cọng Sản:



Hitler giết tù còn thua Cọng Sản

Cọng Sản giết tù không cần súng đạn

Không cần lửa điện, lò thiêu

Chỉ cần cho ăn ít, bắt làm nhiều.



Sau thời gian “Nín thở qua sông” trong các trại tù, chúng tôi cầm cái “Giấy Tạm Tha” để trở về nhà(có nghĩa là có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào), để trở về trong một nhà tù lớn hơn. Như một người bị vất ra ngoài lề xã hội, không có thẻ căn cước, không có tên trong tờ khai gia đình, bị cấm làm rất nhiều nghề, chỉ có nghề “dân biểu” (dân biểu chi làm nấy) là không bị cấm thôi. Sống một cuộc sống lây lất, tạm bợ của một giai cấp thấp nhất trong tận cùng giai cấp vì chúng tôi là những cựu Sĩ quan...ngụy.



Bây giờ được may mắn ở xứ người, tôi xin kể lại vài mẫu chuyện “vui” trong tù để nhớ lại một thời NÍN THỞ QUA SÔNG.



1/ VÌ AI MÀ CHÂN TÔI RA NÔNG NỖI NHƯ RI!



Ngày thê thảm nhất của đời mình rồi cũng đã đến. Tôi cùng 500 bạn khác bị đưa đến trại 2 Hiệp Ðức (thuộc Tổng trại 1, Quảng Nam , có 5 trại) để lao động. Trại 2 cách Khâm Ðức khoảng 5 km về hướng đông, nằm giữa một thung lũng được bao vây bởi rặng Trường Sơn. Hằng ngày chúng tôi đi phát rẫy để trồng sắn (củ mì). Ðặc biệt ở trại nầy có Khối 1 (đa số là binh chủng Không Quân). Ngoài sự đói khát, lao động cực nhọc, chúng tôi hàng ngày phải nghe những lời chửơi rủa, mĩa mai, lên án...đủ điều. Một hôm có tên quản giáo tên Hy, cà thọt đi tới và đứng trước Khối 1 đang phát rẫy, hắn ta xăn ống quần lên tận háng, lòi ra những vết sẹo ngang dọc, và nói lớn:



“Nè, nè! Xem nè...Vì ai mà chân tôi ra nông nỗi như ri! Chính các anh - những tên giặc lái của đế quốc Mỹ đã bắn tôi. Các anh đâu có thoát khỏi bàn tay của nhân dân.”

Tưởng gì, những lời nhục mạï,chửơi bới tương tự như thế nầy chúng tôi đã nghe quá nhiều, nghe riết rồi cũng quen nhưng trong đám đông, có ai đó lên tiếng:



- ”Ở đây toàn giặc lái A37, F4, F5... của nhà 1. Cán bộ qua bên nhà 2 hỏi thử xem! Bên đó giặc lái máy bay lên thẳng nhiều lắm.” Hắn ta bỏ ống quần xuống và bước đi. Tôi hỏi các bạn, mới biết: Năm 1972, hắn ta lò dò ra bìa rừng ở quận Duy Xuyên, trực thăng của SÐ1 Không Quân đuổi bắn, hắn bị thương, suýt chết. Bây giờ làm quản giáo của khối 4, mỗi lần thấy Khối 1 làm ở đâu cũng xấn tới và nói những câu tương tựï như trên.



2/ CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG



Sau một tháng gọi là “học tập đường lối, chính sách của Ðảng”, cứ mỗi bài học, chúng tôi trở về mỗi Khối của mình để thảo luận, kiểm điểm bản thân, kê khai tội ác...Một hôm đến phần có công với cách mạng, ai có thì khai. Chúng tôi vẫn biết rằng, đối với chúng tôi ở trong trại tù chỉ có đầy dẫy những tội ác như lá rừng, như nước biển Ðông, nào là” chống phá cách mạng”, là “công cụ của đế quốc Mỹ”, là “chống lại nhân dân”...làm sao mà có “công” với cách mạng được. Thế nhưng cũng có hai ông bạn tôi lần lượt đưa tay ghi “công”:

Anh thứ nhất, Trung úy Ðại Ðội Trưởng Ðịa Phương Quân, Tiểu Khu Quảng Nam :



- ”Mỗi lần cho lính đi phục kích, tôi ra lịnh toán đi phục kích phải đi nhè nhẹ, không được gây ra tiếng động để...cách mạng ngủ ngon có sức đi chiến đấu”.



Anh thứ hai, Thiếu úy Tiền sát Viên Pháo Binh phát biểu ghi “công” cũng không kém:



- ”Mỗi lần hướng dẫn phi cơ oanh kích cách mạng, tôi cho bắn khói màu trước để cách mạng biết mà rút lui”.



Chúng tôi ai nấy nhìn nhau cười thầm. Tên cán bộ quản giáo sau một hồi lâu đứng phắt dậy, mặt đỏ au như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi, nói lớn:



- ”Giỡn mặt với cách mạng hả! Như vậy là có công với cách mạng à?”



Ngay ngày hôm sau, hai ông bạn “to gan, bạo mồm” đó liền khăn gói vào nhà...cùm để “cười thầmØ” 2 tuần lễ cho lời phát biểu “tưởng như thật” của mình.



3/” CON GÀ RÙ”



Ở tại trại Kỳ Sơn được nửa năm, chúng tôi chuyển xuống Phú Ninh để làm đập thủy điện. Trong thời gian nầy các khối 1, 2 và 3 luân phiên nhau đi cuốc đất trồng sắn, vớt sạn dưới lòng sông Kỳ Trà, đi đốn củi ở Ðức Phú...Một hôm, khối 2 của tôi đi trồng sắn ở các đồi bên kia sông, dưới cái nắng ùchang chang của mùa hè, anh em chúng tôi phải phơi lư ng suốt 8 giờ mỗi ngày từ đồi nọ đến đồi kia, bao la bát ngát. Tôi cùng anh em giăng hàng ngang cuốc đất moi lỗ để anh em phía sau bỏ hom sắn xuống trồng. Ðang làm với anh em bình thường, thoáng thấy tên quản giáo Túc đi tới , dừng lại sau lưng tôi, hai tay tôi như chùng lại, cứ tà tà phang từng lát cuốc xuống đất như người đau mới dậy. Ðứng chặp lâu, chắc tên Túc ngứa mắt, nói lớn:



- ”Anh Th, anh làm gì giống như CON GÀ RÙ vậy? Anh phấn đấu, năng nổ lên chứ,ù để còn về với vợ con. Bộ anh không muốn lao động tốt sao?”.



Tôi nghĩ thầm trong bụng: “ Xưa như trái đất, tốt vớøi không tốt. Tốt cũng về, xấu cũng về nhưng chưa biết lúc nào về thôi”. Rồi tôi quay lại nói với hắn:



- ”Hôm nay tôi bị bệnh, cán bộ.”. Tên quản giáo trước khi bỏ đi còn nói:



- ”Lúc nào cũng nghe anh nói bệnh cả. Bệnh gì mà bệnh lắm thế!”.

Hắn đi rồi, anh em nhao nhao chọc tôi: “Ê! GÀ RÙ! GÀ RÙ! Làm đi để sớm về với “má”.

Tôi nói đùa lại với anh em: “Lao động là vinh quang, không lao động thì vinh quang hơn”. Cũng may, không có tên ăng-ten nào nghe nên cũng khỏi đau lưng ngồi nghe kiểm điểm hết đêm nầy sang đêm khác.



Cái tên “đáng yêu” nầy cũng còn đeo mãi theo tôi khi gặp lại bạn bè ngoài phố hay trong điện thoại, tên Th thì có kẻ nhớ người quên nhung xưng là CON GÀ RÙ là anh em nhớ ngay.

Năm 1998, ở Việt Nam có đứa cháu gọi bằng cậu cưới vợ, tôi có gởi cho cháu chút quà. Sau đám cưới cháu gởi qua cho cuốn video tape. Cả nhà đang ngồi xem, bỗng tôi đứng dậy như cái lò xo, nói lớn:



- ”A, cố nhân đây rồi! Cố nhân lại gặp cố nhân”.



Bà Xã và mấy đứa con trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi bèn giải thích:



- ”Cái tên đội nón cối, mang kiến đen, mặc cái áo kaki Nam Ðịnh 4 túi đứng bên họ nhà gái là tên quản giáo trại tù Phú Ninhø trước đây đó”.



Vợ tôi nghe vậy, liền phán một câu nghe cũng hả dạ lắm:



- ”Ðã bỏ đi qua đến Mỹ rồi mà cũng còn gặp lại “oan gia”. “Oan gia lại gặp oan gia”.



4/ THƠ VỚI...THẨN



Một người bạn khác, Nguyễn Thuần quê ở Hội An, Ðại Ðội Trưởng Biệt Ðộng Quân thuộc Quân Khu I thường hay nằm trên võng nghêu ngao ngâm thơ của tên bồi bút Tố Hữu làm cho nhiều anh em bực mình, khó chịu:



Stalin! Stalin!

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!



Hay



Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười.



Tôi lại nghĩ khác vì có nhiều lần nói chuyện với Thuần, tôi biết Thuần là người không đến nỗi “tệ” lắm mà có ý mĩa mai ngầm tên gia nô Tố Hữu mà thôi.



Một hôm nghe Thuần cũng ngâm mấy câu thơ đó, tôi buột miệng kêu lên:



- ”Trời ơi là Trời”.



Ða số anh em đều đọc được cái ý nghĩ trong đầu tôi nên chỉ nhìn tôi cười thôi nhưng khối trưởng sợ trại biết được nên tổ chức họp kiểm điểm tôi cho qua chuyện. Trước khi nhận khuyết điểm tôi cũng chống chế vài câu:



- ”Tôi thường nghe cán bộ nói, nhân dân ta bắt Trời làm mưa, nghiêng đồng đổ nước...Tôi tưởng có Trời thiệt nên tôi la vậy thôi. Tư bản tin duy linh là tầm bậy quá. Không có số, không có mạng gì cả. Tôi nhận khuyết điểm và không la Trời nữa”.



Khối trưởng tuyên bố: “Ði ngủ”

Xem như hòa cả làng.



5/ CŨNG TẠI VÌ...THƠ



Cũng tại trại Phú Ninh, sau khi chúng tôi đốn củi chất thành khối tại rừng Ðức Phú, mỗi người phải gánh một gánh củi về cho nhà bếp trại.Trước khi vô trại, chúng tôi lội xuống bờ sông để tắm, đang tắm tôi nhìn lên phía trên đường cái, thấy có nhiều “Rau Răm” cũng đang vác cuốc đi về trại, tôi bỗng đọc câu thơ của tên Tố Hữu ca tụng cái chủ nghĩa xã hội của hắn:



“Ðường ta rộng thênh thang tám lối”.



Các bạn quanh tôi hiểu ý, im lặng nhìn bâng quơ lên đường nhưng có một tay ăng-ten (lâu quá nên quên mất tên) liền đưa tôi ra phê bình kiểm thảo ngay tối hôm đó, rằng tôi cố ý sửa thơ của cách mạng, rằng tôi mĩa mai, bôi bát chế độ...bằng cách đọc hai chữ “tám thước” thành “tám lối”. “Tám lối” nói lái là “tối lắm”.



Biết là đã “sa” vào tình thế có thể bị cùm nên tôi cố ráng gân cổ lên cãi lại:



- ”Anh...nói như vậy là hoàn toàn suy diễn, không đúng. Tôi nghĩ “tám thước” cũng giống như “tám lối” mà thôi, có thua gì ở các nước tư bản đâu? Và tôi tố anh ta ngược lại cho bỏ tật “chụp mũ” người khác, đó cũng là kinh nghiệm đầy mình của chúng tôi khi phản pháo.



- ”Tôi không có ý mĩa mai chế độ, không sửa thơ của cách mạng. Chỉ có anh cố ý suy diễn để sữa thơ, để bôi bát mà thôi”.



Tôi vẫn giữ lập trường của mình đến cùng, suốt hai đêm như vậy tôi cũng không nhận khuyết điểm. Khối trưởng bèn trình biên bản lên quản giáo khối để khỏi chịu trách nhiệm. Ngày hôm sau đang lao động, tên quản giáo khối kêu tôi ra riêng để “làm việc”, tôi vẫn một mực chối phăng, chỉ nhận là nhớ lộn “tám thước” thànhø “tám lối” mà thôi, không có ý sửa thơ, không có ý nói lái để mĩa mai như anh kia đã nói. Sau đó tôi cũng không nghe ai nhắc đến nữa. Xem như thoát nạn.



THG



User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Người tù Pháp " nhiều năm nhất "
trong ngục tù Cộng Sản.



Trung Tá Huỳnh Bá Xuân, sĩ quan trong quân đội Pháp , trong buổi lễ tưởng niệm 11.11 tại Rennes ( ngày Đinh chiến trận đệ nhất thế chiến 1918) đã được Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Bà Alliot-Marie trao tặng Huy chương anh dũng cao cấp của quân đội " Croix de Guerre avec palme ".
Image

Trung tá Xuân đă bị Việt Minh bắt cầm tù tại Hưng Yên năm 1953, và được trả tự do năm 1976, tổng cộng là 23 năm.

Ông viết cuốn hồi ký " Oublié 23 ans dans les goulags Viet-Minh " in tại nhà xuất bản Harmattan năm 2004.

Sau đây là vài nét chánh về tiểu sử của ông:

Sanh ngày 23.12.1929 tại Bạc Liêu tại Nam - Việt , sau khi thân phụ của ông bị Việt Minh thủ tiêu năm 1949, Ông tình nguyện gia nhập quân đội Pháp và tốt nghiệp các trường sĩ quan Pháp " Ecoles d'Infanterie / Bộ Binh " ở Coëtquidan, và " Arme Blindée / Thiết Giáp " ở Saumur " năm 1950. Ông làm tùy viên quân sự của Tướng De Lattre năm 1951 tại Đông Dương, được bổ nhiệm Tham mưu Trưởng với cấp bậc Đại Úy trong chiến dịch hành quân Pháp tại Nasan năm 1952, và sau cùng bị Cộng sản Việt Nam ( còn núp dưới nhãn hiệu Việt Minh ) bắt cầm tù tại Hưng Yên năm 1953. (hinh buổi họp tại bộ chỉ huy Tướng De Lattre - Hùynh bá Xuân là người có đánh dấu chữ X trắng )

Image

Trong quyễn hồi ký, ông tả lại những cực hính và đọa đày mà CS áp dụng đối với tù binh của họ. Lúc ở tù, ông chủ mưu một cuộc nổi dậy nhưng thất bại v́i có nhiều tù nhân Pháp bỏ cuộc giờ phút chót.

Tất nhiên là Việt Cộng dành một quy chế đặc biệt cho ông : hai chân ông bị đóng gông cùm, ngủ trong phòng tối 1,7 m chiều dài ( được hưởng 10 phút phơi nắng mỗi ngày ), lưong thực ( toàn cơm tẩm dầu hôi ở Cao Bằng) giảm còn phân nữa. 80 % tù nhân qua đời sau 10 năm bị cầm tù, và nếu còn sống thì sẽ trở thành phế nhân.( Điều nầy, hơn 500.000 quân nhân cán chính của Việt Nam Cộng Ḥoa sau 1975, cũng đă từng nếm mùi CSVN).

Công tác đày đọa 6 ngày ròng rã, mỗi ngày 12 tiếng có khi còn hơn. Chỉ có một ngày tương đối rảnh rổi thí phải bị " nhồi sọ " nghe chúng chửi bới coi tù nhân như kẻ giết người, và phản bội tổ quốc.

Đễ chịu đựng, ông phải đọc kinh cầu nguyện Đức Mẹ, và đọc thơ của thi sĩ Pháp André Chénier.

Sau hiệp định Paris năm 1973, ông và 2 người còn sống sót trong trại tù được VC cho sinh sống tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề mộc dưới sự kiểm soát của công an.

Được trả tự do năm 1976, ông về Saigon và sống tại nhà của bà mẹ . Ông tìm lại được giấy tờ chứng minh ông là quân nhân của Pháp, nhưng Tòa Lãnh Sự Pháp làm ngơ . Ông tìm cách vượt biên 2 lần nhưng thất bại, nhưng rất may là ông không bị công an bắt. Trong khoảng thời gian đó, ông cưới vợ tại Biên Họa.

Năm 1980, được bà quả phụ Thông chế De Lattre giúp đỡ, với sự can thiệp của Tổng Trưởng Jean-François Poncet, ông mới được đến Paris ngày 12.7.1984

Vì bị cầm tù từ năm 1953, nên đến năm 1955 ( thời TT Ngô đính Diệm ), ông không có cách nào xin được quyền giữ quốc tịch Pháp, nên làm sao được hưởng quyền lợi của một quân nhân Pháp ?

Các sĩ quan Pháp đồng khóa Leclerc với ông, Viện " Thống chế De Lattre " vận động ủng hộ ông.

Tháng Janvier năm 1986, Tòa Án Rennes tuyên án công nhận Ông Hùynh bá Xuân có quốc tịch Pháp, và Bộ Quốc Phòng Pháp cho ông tái ngũ với cấp bậc Trung Tá cùng truy cập lương từ năm 1953 đến năm 1986.

Quyễn sách " 23 ans oublié dans les Goulag Viet Minh "- nhà Xuất bản Harmattan 2004 - bằng pháp ngữ đa diễn tả hết nổi niềm tâm sự của một người tù dưới chế độ phi nhân của CSVN. Cần phổ biến rộng rãi với những thân hữu Pháp.



Tin Paris.

KHương
Posts: 152
Joined: Sun Mar 20, 2005 2:44 am

Post by KHương »

linhgia wrote:Người tù Pháp " nhiều năm nhất "
trong ngục tù Cộng Sản.



Trung Tá Huỳnh Bá Xuân, sĩ quan trong quân đội Pháp , trong buổi lễ tưởng niệm 11.11 tại Rennes ( ngày Đinh chiến trận đệ nhất thế chiến 1918) đã được Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Bà Alliot-Marie trao tặng Huy chương anh dũng cao cấp của quân đội " Croix de Guerre avec palme ".


Tin Paris.
Nhờ vào đức tin và lòng chịu đưng phi thường, đã giúp ông khắc phục và vượt qua giai đoạn tâm tôí nhất cũa cuộc đời .
Xin Chúa luôn chúc lành cho ông.
Xin cám ơn anh Linh trẽ đã chia sẽ bãn tin trên

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

THIẾU-TÁ VÕ ĐẰNG PHƯƠNG:
BIỂU-TƯỢNG BẤT-KHUẤT VÀ KIÊU-HÙNG
CỦA MỘT SĨ-QUAN QUÂN-LỰC VNCH.




DƯƠNG VIẾT ĐIỀN

Nói đến cuộc bạo-động trong tù, chúng ta không thể quên được "vụ 20 tháng 04 năm 1979" xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung-tâm trại "cải-tạo" Bình-Điền tại tỉnh Thừa-Thiên. Vụ này do một ban tham-mưu gồm 9 Sĩ-quan của QLVNCH chỉ-huy toàn thể 500 tù-nhân trong trại vùng dậy đòi cải-tổ chế-độ lao-tù.
9 sĩ-quan trong ban-tham-mưu đó là:
-Trung-tá Nguyễn tri Tấn: Trung-đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
-Thiếu-tá Vũ ngọc Tụng: Quân-Trấn Đà-lạt
-Thiếu-tá Phạm-Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC
-Thiếu-tá Lê quang Liễn: Sĩ-quan TQLC
-Thiếu-tá Hoàng Hưng: Sĩ-quan Bộ- Binh
-Thiếu-tá Phan văn Lập: Chi-đoàn trưởng Thiết-giáp.
-Đại-úy Trần-Biên: Sĩ-quan truyền-tin SĐ5/BB
-Đại-úy Nguyễn thuận Cát :Sĩ- quan Biệt-động quân
-Đại-úy Nguyễn đình Khương: Tiểu đoàn phó TĐ120 Địa phương quân, tiểu-khu Quảng-trị..
Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo-tàn đến gãy xương,trào máu,bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ-quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã-man vô nhân đạo như Đại-úy Nguyễn văn Báu, Đại-úy Nguyễn thuận Cát, Thiếu-úy Trần hữu Sơn. Còn tất cả 9 sĩ-quan trong ban tham-mưu nói trên đều bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung -tâm trại "cải - tạo" Bình-Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công-an từ dưới ty công an thuộc tỉnh Bình trị Thiên lên tàn sát tù-nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã-man, bạo-tàn đánh đấm liên-tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh,đấm,đá,đạp 3 tiếng đồng hồ,bọn công-an "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la-liệt,rên la quằn-quại trên những vũng máu như anh Nguyễn văn Thiện,anh Nguyễn văn Vy,anh Nguyễn hữu Ái,anh Đôn,anh Nguyễn trung-Việt ,anh Nguyễn hữu Tứ v.và giống như cảnh ở ngoài chiến-địa hoang tàn chờ trực-thăng đến bốc xác chết và những người bị-thương vậy.
Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù-nhân trong trại đều căm thù đến uất-nghẹn.Có một sĩ-quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người dòng máu bất-khuất và anh-hùng của Lê-Lợi, Quang-Trung, dòng máu kiên-cường và dũng-cảm của Trần hưng Đạo,Trần bình Trọng cũng như ý-thức được Trách-nhiệm, Danh-dự và Tổ-quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục-tù Cộng-sản; Tiếp-tục nuôi-dưỡng ý-chí đấu-tranh đến giọt máu cuối cùng, ngõ hầu mang vinh-quang về bồi-đắp cho quê mẹ,tô-thắm cho non sông. Bởi vì anh ta biết rằng, chân-lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mỉm cười với trời xanh bất chấp cả thời-gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đọa-đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nữa,cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên-ngang bảo-vệ chân-lý đến cùng không một chút nao-núng trong lòng : đó là Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC/QLVNCH. Nhận thấy Cộng-sản đã đối xử quá tàn-nhẫn với tù-nhân qua chế-độ lao-tù trong các trại "cải-tạo" nhận thấy Cộng-sản đối xử tàn-tệ với vợ con của tất cả các sĩ-quan cũng như của các viên chức thuộc chính-phủ Việt nam Cọng hòa trước đây, nhận thấy Cộng-sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ-xúy chiến-tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người,nhận thấy Cộng- sản không chịu thực thi những lời cam-kết mà vẫn làm cho nhân-dân Việt-nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam,Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG mặc dầu đang ở trong ngục tù Cọng-sản, quyết-định viết một bức thư gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để yêu-cầu tên thủ-tướng nầy giải-tỏa những vấn đề nêu trên. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt-khoát viết một bức thư gởi tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để đại diện cho nhân-dân Việt-nam yêu-cầu chính-phủ Hà-nội xét lại chính-sách cai trị nhân-dân của đảng Cộng-sản Việt-nam. Chính Đại-úy Nguyễn đình Khương, Tiểu-đoàn phó TĐ 120 Địa-phương quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 04,ờ bị Cộng-sản cùm gần 5 năm mới được thả ra,đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ phân trại 2 về phân trại 1 thuộc trung tâm trại Bình-Điền, anh Khương ngủ sát chỗ nằm với anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG. Lúc bấy giờ, mỗi người chỉ được 45cm chiều ngang để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ nên theo lời thuật lại của anh Khương, hai người đã cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng như sau:
" ...
Xét rằng :
1- Sau khi Cộng-sản chiếm miền Nam Việt-nam vào ngày 30 tháng 04 năm 1975, tất cả sĩ-quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại " cải-tạo" mà không xét xử, không tuyên án.. Đây là một hành-động vi-phạm trắng trợn hiệp-định Paris năm 1973 mà chính các ông đã ký kết.
2- Tất cả sĩ-quan QLVNCH trong những trại "cải-tạo" trên khắp lãnh thổ Việt-nam đều bị đối xử quá tồi-tệ,vô nhân-đạo. Đó là một sự trả thù hèn-hạ, thấp kém,điên-cuồng,mất cả tình người,không đếm xỉa gì đến bản tuyên- ngôn quốc tế nhân –quyền.
3- Gia-đình vợ con của tất cả sĩ-quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi-tệ :
-Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là kinh-tế mới.
- Tất cả những nhà cửa, tài-sản của nhân- dân miền Nam bị tước đoạt một cách công khai,trắng trợn
- Con cái của các sĩ-quan trong chế-độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường vì bị coi là con của Ngụy. Lý-lịch 3 đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc gì để sinh-sống được.
4- Sau hơn 10 năm đất nước Việt-nam đã thống nhất, nhân-dân Việt-nam vẫn còn đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc. Chiến-tranh vẫn chưa chấm dứt, hòa-bình vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt-nam.Sự tự-do dân chủ vẫn chưa được thực-thi. Nhân-dân Việt-nam vẫn sống trong lo-âu sợ-hãi. Điều này chứng tỏ Đảng và nhà nước đang thi-hành một chính sách sai lầm hoàn-toàn. Nay yêu cầu Đảng và Nhà nước:
- Thả ngay lập-tức tất cả sĩ-quan và những nhân-viên của chế-độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân-đạo theo bản tuyên- ngôn nhân-quyền quốc-tế.
- Hãy đối xử nhân-đạo và bình-đẳng với vợ con, gia-đình của tất cả sĩ-quan và những viên-chức trong chế-độ cũ trước đây.
- Xét lại toàn bộ đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hòa-bình,độc-lập,tự-do, dân-chủ thực sự :
- Thực thi hòa-giải hòa- hợp dân-tộc.
- Phục hồi lại nền kinh-tế
- Chấm dứt chiến-tranh
- Giải tỏa lệnh bế-quan tỏa- cảng để thông thương với nước ngoài.
- Làm tại Bình-Điền ngày 19 tháng 6 năm 1985
Ký tên
VÕ ĐẰNG PHƯƠNG
Chủ-Tịch Lâm-Thời Phong-Trào Thiết-Lập
Nền Đệ-Tam Cộng-Hòa.
Sau khi viết xong bức thư, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG có mời một số sĩ-quan đã tham-gia vụ 20 tháng 04 cùng ký vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh nầy vừa tham-dự một trận chiến trong ngục-tù quá khốc-liệt nên để cho các anh ấy nghỉ dưỡng quân một thời gian đã. Thế rồi anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết định ký tên một mình. Sau đó anh ghi lại thành 3 bản, một bản anh gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho tên trưởng trại cải-tạo Bình-Điền nhờ cán bộ trực trại chuyển giao, và một bản lưu .
Sau khi tên trại trưởng trung-tâm trại cải-tạo Bình-Điền là trung-tá Trần văn Truyền nhận được bức thư nói trên, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG liền bị cùm ngay rồi bị đưa vào ở trong nhà kỷ-luật khoảng 3 tháng trước khi đưa ra tòa xét xử. Dĩ-nhiên bức thư của anh PHƯƠNG là một bản án chống lại chế-độ Cộng-sản Hà-nội một cách rõ-rệt nên ban tham mưu cán-bộ trại "cải- tạo" sau nhiều ngày họp với ty công-an Bình trị Thiên đã quyết định đưa anh ra tòa án nhân-dân để xét-xử .
Đứng trước vành móng ngựa, thiếu- tá TQLC VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đã trả lời một cách khẳng-khái và hùng hồn khiến ai nấy đều cảm phục. Một số nhân- viên làm việc trong tòa án đã bỏ dở công việc để chạy vào xem vì thấy "bị-cáo" là một mẫu người thật khí-khái. Cứ mỗi lần quan tòa hỏi câu nào, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG không trả lời trực-tiếp,anh giả-bộ nói loanh-quanh để chưởi chế- độ độc-tài đang tác-oai tác quái trên đất nước Việt-nam. Có đoạn anh PHƯƠNG đã nói:
- Tôi nói đây với tư-cách của người dân thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân-dân Việt- nam, không dám nói. Tôi nói có tình có lý, chứ không phải sử-dụng biện-pháp quân sự để đàn-áp.
Nghe anh PHƯƠNG nói vậy, tên quan tòa nói ngay:
- Anh là một thằng sĩ-quan ngụy không hơn không kém, anh là cái thá gì ? Một triệu ngụy-quân và chư hầu còn thất- bại nói gì một mình anh.
Nhưng rồi qua một đoạn khác anh PHƯƠNG vẫn hiên-ngang :
- Các ông làm gì có luật-pháp. Luật-pháp của các ông là luật rừng. Tôi đã ở trong tay các ông thì do các ông quyết-định. Thấy những lời nói hùng-hồn của "bị-cáo" bất lợi cho phiên-tòa, tên quan-tòa liền chỉ-thị cho "bị-cáo" nói câu cuối cùng. Biết chúng cố-ý không cho nói nhiều, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết-định cô-đọng lại những tư-tưởng quan-trọng rồi tiếp-tục ngẩng đầu cao và dõng-dạc trước tòa:
- Ai là kẻ vi-phạm hiệp-định Paris 1973?
- Ai là kẻ đã gây ra chiến-tranh và nghèo đói?
- Phạm văn Đồng phải chịu trách -nhiệm hoàn-toàn về việc xé bỏ hiệp-định Paris. Rồi đây nhân-dân Việt-nam cũng như nhân-dân thế-giới đều được biết lời nói của tôi trước tòa-án này.
Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đang nói thao-thao bất-tuyệt thì tên quan tòa đứng lên tuyên-bố chấm dứt phiên-tòa để vào nghị-án. Sau khi nghị án , tòa tuyên-án anh PHƯƠNG 10 năm tù ở sau khi thi-hành xong án tù "cải-tạo" vì phạm tội "âm-mưu lật đổ chính-quyền dân-chủ nhân-dân.". Theo anh Nguyễn kim Chung (đại-úy TQLC ,cũng đã xuất-hiện trong phiên-tòa này như một "bị-cáo" vì bị nghi-ngờ có liên-hệ đến vụ này) , khi nghe đọc bản án, anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước vì nó giống như một bài luận văn trong Quốc văn giáo-khoa thư của chương trình Bộ giáo-dục cho học-sinh học. Còn việc đưa anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ra tòa xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách hình-thức để đánh lừa quần chúng mà thôi .Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra tòa, anh PHƯƠNG đã ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh tòa-án anh PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa là 20 năm. Sau khi rời tòa-án và bị còng tay đưa lên lại trại "cải-tạo" Bình- Điền để ở tù tiếp, tên trại trưởng trung-tá Trần văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh PHƯƠNG nên nhún-nhường và phải biết điều hơn ,anh PHƯƠNG đã quát vào mặt tên trại trưởng :
- Ông đừng có dạy đời tôi nữa, ông biết Trần bình Trọng trong lịch-sử Việt-nam chứ! Tôi muốn sống như Trần bình Trọng!
Dĩ-nhiên sau đó thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa trong sự uất-ức và hận thù triền-miên .
Mãi đến năm 1995, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG mới được Cộng-sản trả tự do khỏi trại cải-tạo Hàm-tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành-hạ do những trận đòn tra tấn dã-man và ác-độc qua những năm tháng quằn-quại trong ngục-tù Cộng-sản để rồi sau đó, anh đã vĩnh-biệt cõi đời trong tức-tưởi và uất- nghẹn vì thù nhà chưa trả ,nợ nước chưa đền .
Qua những hành-động đầy kiên-cường và bất-khuất của Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG nói trên, ta thấy rằng Sĩ-quan của QLVNCH là thành phần ưu-tú của dân-tộc Việt-nam. Ngay trong ngục-tù Cộng-sản, họ vẫn luôn luôn biểu-lộ tinh-thần Danh-dự, Tổ-quốc,Trách-nhiệm. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đúng là một Sĩ-quan gương – mẫu đã vị quốc vong thân. Tổ-quốc và Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa vinh-danh anh.

DƯƠNG VIẾT ĐIỀN

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Image

Kẻ sống sót
Nguyên Hoàng Bảo Việt

Đêm đã xuống
Trên đường trốn về Nam
Tìm sao để định hướng
Con chim Việt còn nhớ cành


Sau lưng tôi
Bạn bè ở lại
Giữa trại tù tập trung
Nào ai biết
Dù màn sắt hay màn tre
Ngục hình của Cộng sản
Ngàn lần hơn Lao Bảo
Trăm lần hơn Côn Nôn
Luật rừng thời trung cổ
Khổ sai và tẩy não
Chung thân
Chết đói và tuyệt vọng
Muôn năm
Xích xiềng và liềm búa
Khua vang
Khua vang
Khua vang trong trí nhớ


Mỗi hột cơm khô
Là một giọt máu
Anh em đã nhịn ăn
Cho tôi mang theo
Và nguyện cầu
Cho tôi được sống
Tự do
Cho tôi được hát
Tình ca
Cho tôi được viết
Bài thơ
Gởi đi thế giới
Nhân danh anh em


Rùa thần nào đã nâng đỡ
Lúc tôi bơi qua Lô Giang
Sao không nghe nữa
Những tiếng hò khoan
Những mái chèo trăng
Đôi bờ im vắng
Sương khuya
Núi rừng Việt Bắc hoang vu
Bâng khuâng nhìn tôi đi
Trốn về Nam


Dọc theo dòng Bến Hải
Phía bắc cầu Hiền Lương
Tôi đi lẩn khuất
Vũ Anh Khanh ơi!
Giọt máu nào
Trái tim anh năm xưa
Hóa thành viên hồng ngọc
Dưới đáy nước cô đơn
Cho tôi nhìn thấy
Từ khi Cộng sản hạ sát anh
Đâu chỉ có "Nửa bồ xương khô"
Sọ người gom lại
Cả đồi cả núi
Máu nước mắt
Như triều sông
Dâng lên
Dâng lên
Dâng lên không ngớt


Tôi vẫn đi trong bóng tối
Không nhìn thấy
Một con người
Đi trong mưa gió
Với tiếng vọng về từ biển
Xa xôi
Trị Thiên Nam Ngãi Bình
Lửa máu
Năm nào miền Trung di tản
Giặc pháo đuổi không nương tay
Trẻ khóc thiếp ôm xác mẹ
Chị cúi xuống hôn em lần cuối
Bà lão lạc đàn cháu mồ côi
Run rẩy hoảng hốt
Trận cuồng phong
Mao-ít Lê-nin-nít
Đã thổi qua quê hương
Nhổ bật rễ tình cảm truyền thống
Vùi dập hoa thơm vườn văn hóa
Kéo dân tộc giật lùi
Về thời kỳ đồ đá
Xô triệu người ra biển
Bao nhiêu đến được bến bờ
Trên những ghe thuyền mục nát
Trôi giạt ngoài đại dương
Quên sau được
Việt Nam đau thương ơi!
Cả nước bị chiếm đóng
Máu dân tô màu cờ đảng
Rũ xuống những đồn canh
Lạng Sơn đến Cà Mau
Quân phản trắc
Rước giặc về
Bao vây Tổ quốc
Giày xéo mộ Quang Trung
Đấu tố Mẹ Âu Cơ
Theo sau quan thầy Sô-Viết
Lính đánh thuê Cuba Đông Đức
Làm nhục em gái chúng ta
Giặc tưởng Kaboul khi đến Huế
Cao nguyên Đà Lạt là rừng núi Angola
Đi nghênh ngang giữa Sài Gòn
Như lúc chúng tiến vào Prague
Lúc chúng hỏa thiêu Budapest
Lúc chúng đàn áp anh em ta
Ở Đông Bá Linh và Poznan
Bọn công an nhân dân
Làm sấm làm sét
Làm giông làm gió
Làm vua
Ở từng quận từng phường từng phố
Tôi nhìn tận mặt quân phi nghĩa
Tội ác ngàn năm cũng không quên


Con nai bình nguyên
Bám sát chân tôi
Người và thú
Cùng bị săn đuổi
Từ Vàm Cỏ Đông
Nhìn về thành phố
Sài Gòn đâu đã ngủ
Tối tăm giờ giới nghiêm
Tôi đếm
Bấy nhiêu sao
Bao nhiêu ánh mắt
Bao nhiêu dòng lệ
Mưa tuôn ướt xối
U hoài
Trên những pho tượng đá
Vẫn đứng đợi
Người sống sót trở về
Từ Auschwitz hay Sibérie xa xăm
Từ Vientiane hay Phnom Penh gần gũi
Từ trại tù tập trung con tin
Trên đất nước Việt Nam tan vỡ...


Đằng sau những cánh cửa sổ
Khép vội trước mũi súng sát nhân
Sài Gòn đâu đã thất thủ
Thầm thì những lời ru con
Thay cho tiếng nói
Giặc đã cưỡng đoạt
Trên tháp chuông trơ vơ
Thập tự giá phô tấm lòng nhân ái
Dưới mái chùa hiu vắng
Hạnh từ bi nở ngát tòa sen
Bóng đen bầy quạ dữ
Bay vây quanh


Tôi đếm
Bấy nhiêu ngọn nến
Bao nhiêu nhánh mặt trời Tự do
Sẽ mọc lại


Tôi đếm
Bấy nhiêu giọt sương long lanh
Bao nhiêu chuỗi cười ròn rã
Bao nhiêu lớp người nô lệ
Sẽ đứng lên

Nguyên Hoàng Bảo Việt

Post Reply