Đêm Việt Nam

Post Reply
Nguyễn_Sydney
Posts: 2581
Joined: Mon Dec 06, 2004 5:03 am
Been thanked: 1 time

Đêm Việt Nam

Post by Nguyễn_Sydney »

Nhân dịp nhà văn , nhà thơ ,nhạc sĩ HÀ THÚC SINH đến Úc trình diễn ,

tôi đã gặp anh , anh đã tặng tôi CD Nhạc "Tủi nhục Ca " cùng CD mới nhất "Người em Quận Cam " (CD mới nhất năm 2005)

ĐÊM VIỆT NAM

HÀ THÚC SINH

Đêm thế giới đang dồn một lần trên đất nước tôi gọi Việt Nam
Đêm bát ngát những khu trại giam
Đồi thênh thang thu hẹp dần dần
Đêm em bé lên mười cùm gần anh Chiến sĩ Biệt động Quân
Đêm thiếu nữ có đơn tạm thu ngồi kề vai gái giang hồ lo
Đêm đấu tố và thủ tiêu
Đêm săn bắt cho đầy chỉ tiêu
Người chết nhanh người phát điên
Đêm cáo chung Tự Do Nhân quyền
Đêm nhức buốt phang bằng chầy vồ
Vang tiếng thét sau cùng : Tự Do !
Đêm có tiếng súng sau trại giam
Người tù binh chết bên bìa ruộng
Đêm thế giới đang dồn một lần
Trên miếng đất đã thừa lầm than
Đêm trút xuống hố sâu diệt vong là
Việt nam nước tôi buồn tênh

Hà thúc Sinh

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Đêm Việt Nam

Post by linhgia »

VIỆT KIỀU THẬT, VIỆT KIỀU GIẢ



ĐẠI-DƯƠNG


Tin tức từ hệ thống truyền thông quốc doanh cho biết số lượng Việt kiều về nước trong năm 2004 lên đến 400,000 người.

Phan Văn Khải, Thủ tướng cộng sản Việt Nam trong buổi họp mặt mừng xuân Ất Dậu với 600 Việt kiều tại dinh Thống Nhất hôm 30-01-05 đã phát biểu "Người Việt Nam ở nước ngoài dù đi đâu, ở đâu, dù đi ra nước ngoài vì bất cứ lý do gì, họ cũng là máu của máu VN, là thịt của thịt VN".

Cộng đồng người Việt hải ngoại phức tạp hơn bất cứ sắc dân nào sinh sống ở 90 quốc gia khắp thế giới thuộc nhiều thành phần khác nhau về lý tưởng, về mục đích qua nhiều biến cố lịch sử.

Nhóm đệ nhị thế chiến đa số có thiện cảm với Việt Minh vì uất ức với cách cư xử kiểu thực dân của người Pháp.

Nhóm lẫn tránh chiến tranh miền Nam qua chương trình du học, hoặc có liên hệ với chính phủ nước ngoài nên sinh sống ở ngoại quốc suốt thời kỳ chiến tranh Đông Dương. Một số tham gia các phong trào phản chiến một chiều nên chỉ chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và quân đồng minh tham chiến tại Đông Dương. Không mấy ai trong số họ tình nguyện trở về sinh sống tại quê cha đất tổ khi hòa bình tái lập với đảng cộng sản thống trị toàn cỏi Việt Nam.

Nhóm tị nạn quốc gia gồm du học sinh Việt Nam Cộng Hòa mang tinh thần quốc gia; những viên chức ngoại giao VNCH không muốn rơi vào tay cộng sản sau năm 1975.

Nhóm tị nạn cộng sản năm 1975 khoảng 200,000 người vượt hẵn số lượng Việt kiều từng sinh sống ở ngoại quốc. Đa số chống cộng quyết liệt vì từng gánh vác trọng trách bảo vệ dân chúng miền Nam vĩ tuyến 17. Sự xuất hiện bất ngờ của nhóm này đã làm thay đổi quan điểm của người ngoại quốc cũng như người Việt hải ngoại về đảng cộng sản Việt Nam, về cuộc chiến tranh Đông Dương mà từ trước từng bị bóp méo bởi truyền thông thế giới cũng như guồng máy tuyên truyền của Đệ Tam Quốc Tế.

Sự tương đồng lý tưởng đã kết hợp hai nhóm tị nạn quốc gia và tị nạn cộng sản thành một lực lượng chống cộng vượt trội trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Nhờ thế, người ngoại quốc và cộng đồng người Việt hải ngoại đã xem xét cuộc chiến Đông Dương tương đối chính xác hơn.

Nhóm thuyền nhân bao gồm những người Việt đi tìm tự do từ cuối thập niên 1970. Sự ra đi ồ ạt của thuyền nhân Việt trên các phương tiện thô sơ trải qua những hiểm nguy do công an cộng sản, hải tặc, biển cả ... đã làm thức tĩnh lương tâm nhân loại trước một vấn nạn to lớn của thế kỷ 20. Cộng đồng quốc tế, kể cả lực lượng chống cộng đã ra sức cứu vớt, cưu mang hơn một triệu thuyền nhân. Hơn 600,000 thuyền nhân bất hạnh đã mất mạng trên đường tìm tự do.

Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi làn sóng thuyền nhân với khát vọng tự do tỏa khắp thế giới. Nhóm thuyền nhân mang nhiều ấn tượng thương đau dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hòa nhập vào lực lượng chống cộng ở hải ngoại làm thành đa số tuyệt đối trong cộng đồng hải ngoại.

Nhóm tị nạn cộng sản bất đắc dĩ khi Đông Âu là Liên Xô sụp đổ vào năm 1989 và 1991 vì hợp đồng lao động không còn hiệu lực và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa không thực tâm đưa toàn bộ về nước. Trong khi đó, những người đi lao động hợp tác và du học sinh, nghiên cứu sinh cũng không muốn trở về quê hương vì nhiều lý do khác nhau. Một số chê chủ nghĩa cộng sản sau nhiều năm trường bị nhồi nhét những điều không tưởng. Số khác vì lý do kinh tế dù cho phải làm những việc bất hợp pháp để kiếm sống nơi xứ người.

Nhóm cựu tù nhân chính trị được Hoa Kỳ cho phép tái định cư từ cuối thập niên 1980 mang theo những vết thương chí mạng về vật chất lẫn tinh thần do cộng sản gây ra đã bổ sung thêm sức mạnh cho lực lượng chống cộng trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Được sự cưu mang của các quốc gia sở tại, cộng đồng người Việt đã biểu thị tinh thần lá lành đùm lá rách để cùng nhau hội nhập và vươn lên trong xã hội tạm dung. Đồng thời, cũng không quên giúp đở cho thân bằng quyến thuộc bất hạnh tại quê nhà và kiên trì đấu tranh cho nước Việt Nam tự do dân chủ phú cường.

Sự lớn mạnh của cộng đồng người Việt hải ngoại không liên hệ gì đến các Đại sứ quán và Lãnh sự quán của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Trái lại, từ Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho chí các nhà ngoại giao Hà Nội và truyền thông quốc doanh đã không tiếc lời sỉ nhục người Việt tị nạn cộng sản.

Cho tới nay, hầu hết người Việt tị nạn đều mang quốc tịch nước ngoài và cộng đồng người Việt hải ngoại đã có một tiềm lực kinh tế và chất xám dồi dào. Cộng đồng này không liên hệ gì đến Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt pháp lý cũng như trên phương diện xây dựng và phát triển.

Nhóm Việt kiều tạm thời chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong cộng đồng người Việt hải ngoại, tuy cho chiều hướng gia tăng trong những năm tới, nhưng cũng sẽ chiếm tỉ lệ không đáng kể ở nước ngoài. Tiến trình hội nhập với thế giới văn minh tạo điều kiện cho Hà Nội tung cán bộ chính trị, kinh tế, văn hóa đi khắp nơi, tăng cường số du học sinh, nghiên cứu sinh và lực lượng lao động ra nước ngoài, du lịch tìm việc ... Số người này chịu sự quản lý chặt chẽ của Đại sứ quán và Lãnh sự quán cộng sản. Hầu hết còn mang quốc tịch Việt Nam . Nhóm này chẳng hề và cũng không cần góp chút sức nào vào sự phát triển và phồn thịnh của cộng đồng người Việt hải ngoại vì chỉ lưu lại ở nước ngoài trong một thời gian ngắn.

Tiềm năng kinh tế và chất xám của cộng đồng người Việt hải ngoại đã khơi dậy tham vọng của Hà Nội muốn khống chế, kiểm soát và điều khiển nguồn tài nguyên này nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến lược của đảng cộng sản. Nghị quyết 36 của Hà Nội được ban hành giữa năm 2004 đã không che dấu ý đồ này.

Hà Nội biết rõ không thể vận dụng đa số người Việt hải ngoại ủng hộ mục tiêu chiến lược của đảng cộng sản Việt Nam nên dùng phương pháp nhập nhằng.

Nhà nước cộng sản Việt Nam sử dụng ba nhóm Việt kiều: thân cộng, phản chiến và tạm thời làm đại diện cho ý nguyện của người Việt hải ngoại. Tức là lấy thiểu số đại diện cho đa số.

Trong dịp Tết Ất Dậu, chính phủ Hà Nội đã đài thọ cho các tổ chức và cá nhân Việt kiều hoạt động cho đảng cộng sản về thăm quê hương để ca tụng chính sách của Nhà nước như Trịnh Cao Sơn, Việt kiều Thái-lan; Lê Thiết Hùng, được cử đi đào tạo tại Ba Lan, hiện là Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Ba Lan Ðoàn kết và Hữu nghị; Hoàng Thị Phương, Việt kiều Lào, 56 tuổi đảng; Phạm Thanh Thủy, Ủy viên Ban chấp hành Hội người Việt Nam tại Campuchia; Đinh Thúy Nga, Việt kiều Thái-lan; Tiến sĩ Đoàn Hồng Hải, nguyên Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Mỹ. Họ đều là những cán bộ do cộng sản phái đi làm công tác ở nước ngoài. Họ là những Việt kiều giả.

Nguyễn Ngọc Thạch du học ở Cộng Hòa Liên Bang Đức năm 1968 được hãng Siemens cử về làm đại diện tại VN từ năm 1993; Cao Văn Phú, Việt kiều Pháp cùng gia đình về nước làm ăn, sinh sống từ cuối năm 1990; Hoàng Ngọc Phan, Việt kiều Mỹ, Giám đốc Cty Liên Việt Mỹ là một trong 5 Việt kiều được Bộ Ngoại giao cấp bằng khen. Họ đều là Việt kiều giả vì lý do không còn trực tiếp sinh hoạt trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

TS Nguyễn Đăng Hưng, Việt kiều Bỉ; TS Trần Văn Khê, Việt kiều Pháp; TS Đặng Lương Mô, Việt kiều Nhật đều hồi hương. Như thế, họ cũng thuộc loại Việt kiều giả bởi đã tách rời với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Nguyễn Lương Mô phát biểu trên tờ Tuổi Trẻ 04-02-05 "Tôi quyết định hồi hương vì sự kêu gọi của tình cảm quê hương ... trong khi đất nước mình đang cần mình thì lại đem kiến thức làm việc cho nước ngoài thì thật là vô lý".

Suốt đời họ bán kỹ năng cho ngoại quốc, nhất là ở độ tuổi sung mãn để có địa vị, danh vọng. Nay, đến tuổi hưu lại muốn tiếp tục bán kỹ năng cuối đời cho cộng sản. Ai cũng có quyền tự do buôn bán kỹ năng của mình, nhưng người có lương tri không nên che đậy bằng những lời lẽ yêu nước, thương dân.

Qua phát biểu của những Việt kiều giả trên hệ thống truyền thông quốc doanh đã phản ảnh thái độ cam chịu làm nô lệ cho đảng cộng sản.

Báo Lao Động 08-01-05 ghi nhận đề nghị của Nguyễn Đăng Hưng "Tôi nghĩ muốn thu hút chất xám về Việt Nam thì Nhà nước cần có những chính sách cụ thể hơn tinh tế hơn và hiệu quả hơn ... cần có một diễn đàn nào đó để trao đổi thông tin, để Việt kiều có thể hiến kế".

Kế do Việt kiều hiến sẽ được Ban Nghiên cứu khoảng 30 người của Thủ tướng duyệt xét. Ban này gồm toàn những gạo cội cộng sản cở tuổi trên 70 Đào Xuân Sâm (chuyên về lý luận), Trần Việt Phương (nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chuyên về văn hoá xã hội), Vũ Quốc Tuấn (nguyên trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chuyên về cải cách doanh nghiệp), Vũ Đại Lược (về chiến lược), Nguyễn Thiệu (về tài chính ngân hàng), nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh (về cải cách hành chính), Lê Đăng Doanh (về kinh tế vĩ mô) ...

Chất xám của người Việt hải ngoại sẽ bị những chuyên gia xã hội chủ nghĩa sàng lọc làm cho biến chất. Trong khi đó, Hà Nội rất trân trọng đối với chất xám không mang dòng máu Việt Nam .

Hoàng Ngọc Phan bị Bộ Văn hóa Thông tin chơi một vố khi duyệt phim Bẫy tình làm mất khá nhiều tiền mà chỉ "nén tiếng thở dài ... không dám trách móc gì Bộ VHTT ... đầu tư vào điện ảnh ở nước ta hiện nay còn gặp nhiều thủ tục phiền hà và phiêu lưu mạo hiểm quá".

Cao Văn Phú phát biểu "Khi trở về quê hương sinh sống, đầu tư, chúng tôi xác định, về không phải là để thắc mắc, đòi hỏi, chúng tôi hiểu, đất nước còn khó khăn ... đừng kêu nữa mà hãy cứ làm đi".

Những nhà đầu tư này cứ cúi đầu vì đồng tiền bất chấp tư cách con người, như thế khác nào công cụ lao động của đảng cộng sản.

Kiều hối trong năm 2004, theo tin của Hà Nội, lên trên 3 tỉ mỹ kim, xấp xỉ tiền tài trợ của cộng đồng quốc tế (3.4 tỉ); bằng 3/4 vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (4.2 tỉ). Đó là 3 nguồn tài chính quan trọng nhất của Việt Nam .

Số kiều hối tại TPHCM trong năm 2004 gần 1.9 tỉ mỹ kim, nhưng đưa vào đầu tư có 2%. Đa số nằm trong két sắt hoặc ngân hàng.

Người Việt hải ngoại nên suy xét lại giá trị kinh tế của kiều hối.

Thứ nhất, tại sao với số tiền tương tự, mà các nhà tài trợ quốc tế buộc Hà Nội phải thực hiện nhiều cải cách quan trọng, kể cả lĩnh vực nhân quyền, trong khi người Việt hải ngoại không hề đặt một điều kiện nào cả?

Thứ hai, tiền gửi cho thân nhân nhiều chỉ đọng trong ngân hàng hoặc két sắt, gầm giường là những đồng tiền thiếu hiểu quả kinh tế. Nên lưu lại ở ngoại quốc để đầu tư sẽ được bảo đảm và sinh lợi. Gữi vừa chi tiêu đơn giản cho gia đình phải chăng là một sự tính toán khôn ngoan?

Những người muốn đầu tư chất xám cũng nên tự vấn.

Một là, khi bán kỹ năng cho người ngoại quốc tại các xứ tạm dung đều được tôn trọng và được quyền gián tiếp quyết định hướng đi của xã hội. Được tự do chất vấn chỉ trích chính quyền. Tại sao khi về Việt Nam lại bị khinh thường và tự tướt bỏ quyền tự do ngôn luận?

Hai là, đem chất xám về Việt Nam để làm thay đổi xã hội hay làm nô lệ cho đảng cộng sản?

Hà Nội muốn sử dụng thiểu số Việt kiều giả để đại diện cho tiếng nói chung của cộng đồng người Việt hải ngoại trong mục tiêu phục vụ cho chiến lược lâu dài của đảng cộng sản mà ai cũng biết.

Tuy nhiên, có sụp bẫy hay không còn tùy thuộc vào sự sáng suốt và thận trọng của người Việt hải ngoại vốn có quá nhiều kinh nghiệm với cộng sản.




ĐẠI-DƯƠNG

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Đêm Việt Nam

Post by linhgia »

Nói Với Các Bạn Trẻ Về Sự Thật Ở Việt Nam


Ngày tháng: 07/02/2005


L.S. Nguyễn Hữu Thống

Sự Thật Xã Hội

Cố Trung Tướng Trần Độ nguyên là Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương Đảng CS. Ông dành cả cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và dân chủ hóa đất nước. Vì bất đồng chính kiến, ông bị Đảng khai trừ năm 1999. Tháng 6-2001, ông bị công an tước đoạt cuốn Nhật Ký Rồng Rắn (Cuối năm Thìn 2000, đầu năm Tị 2001). Con chim bay đi tiếng hót thiết tha, con người ra đi nói lời minh triết. Sau đây là trích dẫn những nhận định trong cuốn Nhật Ký của ông về chế độ mệnh danh là Xã Hội Chủ Nghĩa

Độc Tài Toàn Trị

Nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn cả là chuyên chính tư tưởng. Những điều luật quy các tội có hại cho lợi ích cách mạng, nói xấu chế độ, nói xấu lãnh đạo v...v... để đàn áp tàn khốc mọi tiếng nói.

Nền chuyên chính vô sản làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, nô dịch con người thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều làm cho giáo dục khô cứng, các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn.

Nền chuyên chính tư tưởng là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Nhân dân Việt Nam sau 70 năm đấu tranh gian khổ và 30 năm chiến tranh ác liệt đã mang lại cho đất nước một chế độ xã hội kiểu gì?

Câu trả lời ngon lành như sau:

"Ta đang có một chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa tốt đẹp. Ai nói khác đi là chống lại Chủ Nghĩa Xã Hội, chống lại Đảng Cộng Sản. Nhưng người dân thường, nhất là nhiều bậc lão thành, nhiều nhà trí thức và thanh niên, đều thấy chữ Xã Hội Chủ Nghĩa thật là vô duyên và vô nghĩa".

Sau năm 1975, hàng trăm ngàn người không công nhận chế độ chính trị đã bỏ đất nước ra đi. Đảng Cộng Sản công khai tuyên bố là Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Đảng quét sạch các Đảng Việt Quốc, Việt Cách, vận động và ép buộc hai đảng đồng minh trong Mặt Trận Tổ Quốcù là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội phải tự giải thể với lý do "đã hoàn thành sứ mệnh".

Nói Một Đường Làm Một Nẻo Đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị xã hội này là nói một đàng làm một nẻo. Nói thì dân chủ vì dân, mà làm thì chuyên chính phát xít, nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, "nói vậy mà không phải vậy". Đặc điểm này tạo ra một xã hội dối lừa, lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, bằng cấp giả dối, giáo dục dối lừa, đến gia đình cũng lừa dối.

Điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài ý thức hệ. Bất cứ một khác biệt nào đều bị quy là chống đối, là phản động, là tội phạm. Hệ quả của chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, dám có ý nghĩ khác, dù có nghĩ một đàng cũng phải nói một nẻo. Như vậy xã hội bao trùm sự giả dối, lừa bịp, sợ hãi, tê liệt về tư duy và tình cảm. Đó là một chế độ lưu manh hóa xã hội, bần cùng hóa nhân dân, và nô lệ hóa con người. Vì vậy chế độ không phải là dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa mà là một chế độ xã hội phản dân chủ.

Điều rõ nhất là Đảng đưa ra Hiến Pháp 1992, nhân dân phải chấp nhận Điều 4 và phải chịu sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng Sản.

Tự Do Là Chìa Khoá Của Phát Triển Điều quan trọng nhất cho đất nước hiện nay là tìm ra con đường phát triển đất nước cho mau chóng thoát khỏi nghèo khổ, lạc hậu. Năm 1975, ta thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng hóa, thế mà đến những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải. Xem quanh ta Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái lan và Malaysia, mấy nước này có do chủ nghĩa Mác Lênin hướng dẫn không? có một đảng Cộng Sản theo Chủ Nghĩa Xã Hội không? Thế mà cả 5 nước ấy khi bắt đầu còn nghèo khổ, vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm đã trở thành những nước phát triển, nhân dân có đời sống khá phong lưu.

Muốn cho đất nước phát triển nhanh thì cần phải làm sao cho mọi người dân đều được tự do làm ăn, nông dân, thương nhân, nhà doanh nghiệp, công nhân, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sĩ, tất cả đều phải được tự do. Vì tự do là chìa khóa của phát triển.

Bây giờ chỉ còn lại có bốn nước theo chủ nghĩa Mác Lênin và Chủ Nghĩa Xã Hội. Trong đó nước lớn nhất và quan trọng nhất thì miệng nói chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng đã đưa đất nước tiến lên theo kiểu "có màu sắc Trung Quốc". Họ phải chơi với Mỹ, xác định vai trò kinh tế tự do và kinh tế tư nhân. Có người nói cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Nga thành công và Liên Xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Vậy thì sự sụp đổ của cái "quan trọng" ấy lại càng "siêu quan trọng".

Khi đất nước đã chuyển sang hòa bình xây dựng thì cần có một bộ máy quản lý xã hội phù hợp với cuộc sống đời thường. Cần có 4 thứ như bốn bánh xe của một cỗ xe:

1) Một xã hội công dân
2) Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi
3) Một nhà nước pháp quyền
4) Một nền dân chủ đầy đủ Bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ. Khi dân có dân chủ thì dân phải "dùng" cái quyền dân chủ đó, dùng không phải là "lợi dụng".

Đảng Cộng Sản Sẽ Phải Chịu Tội Trước Lịch Sử

Sự thật của mấy chục năm qua là: Cuôc cách mạng ở Việt Nam đã xây dựng nên một xã hội nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế của một chế độ độc đảng toàn trị. Những mỹ từ được sử dụng chỉ để củng cố sự cầm quyền của đảng Cộng Sản, biến đảng Cộng Sản thành một tầng lớp thống trị gồm một tập đoàn quan chức chỉ muốn bóc lột, hành hạ, sai khiến nhân dân và lừa bịp nhân dân, và lại cứ nhân danh là "đầy tớ của nhân dân".

Sự nỗ lực của đảng Cộng Sản hiện nay chỉ tập trung vào sự củng cố quyền lực của Đảng. Bộ máy công tác tư tưởng đồ sộ ngày đêm hò hét ca ngợi Đảng, một bộ máy "nói lấy được", lừa bịp, dối trá đến trắng trợn, kiểu lưu manh. Bên cạnh đó, nảy sinh một hệ thống an ninh đầy quyền lực và thủ đoạn, học tập từ các chế độ phong kiến, phát xít và độc tài cộng sản. Tất cả nhằm bảo vệ quyền lực của đảng Cộng Sản. Trong lúc đảng Cộng Sản ngày càng tỏ ra kém sức lực trong việc quản lý xã hội bình thường. Vì đảng Cộng Sản chỉ quản lý được một "xã hội trại lính".

Đảng ra sức củng cố tình trạng độc đảng, chuyên chế về tư tưởng và chính trị, tạo ra một xã hội đầy tham nhũng, dối trá và lừa bịp. Ngoan cố duy trì chế độ độc đảng và toàn trị thì sớm muộn nhân dân sẽ chán ghét và do đó dẫn đến đổ vỡ, tạo ra những tai họa khôn lường cho đất nước và dân tộc, tai họa ấy còn nặng nề gấp nhiều lần tai họa của cải cách ruộng đất. Tai họa ấy sẽ xóa sạch vai trò của Đảng trong lịch sử và Đảng sẽ phải chịu tội trước lịch sử.

Thực chất là chế độ rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân như thần thánh hóa Đảng và các nghị quyết. Điều vô lý là bắt toàn dân phải học nghị quyết của Đảng.

Nổi bật lên là một bộ máy độc đoán, độc tài toàn trị, đàn áp thẳng tay các ý kiến khác. Có một đội ngũ "lưỡi gỗ" rất đông đảo, chuyên ngụy biện, nói lấy được, nói bừa bãi, trắng trợn, bất chấp lẽ phải, đạo lý và luật pháp và có lúc dùng nhiều thủ đoạn lưu manh.

Nhân dân bị tước hết mọi quyền tự do dân chủ. Đảng tự do yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng góp của dân. Đảng luôn tạo ra một không khí khủng bố đối với bất cứ ai có chính kiến độc lập. Đảng tạo ra một xã hội đầy tham nhũng, phản dân chủ, đầy dối trá lừa bịp, nói một đàng làm một nẻo, đầy thủ đoạn (nịnh nhau, hất nhau và hại nhau). Trong hiến pháp có rất nhiều điều về quyền dân chủ của dân, nhưng trong đó có ba điều dân chủ cơ bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử và tự do lập hội, thì đều bị chôn vùi bởi những đạo luật phản động và những thủ đoạn bỉ ổi.
Như về bầu cử thì có những thủ đoạn "Đảng cử, dân bầu", "hiệp thương", thực chất là không ai được quyền tự ứng cử. Như về báo chí, xuất bản, thì những đạo luật trái ngược với hiến pháp lại bắt buộc mọi người phải tuân theo nghiêm ngặt. Như về tự do lập hội thì trong thực tế không ai có quyền gì hết, vì các thủ tục xin phép đủ làm nản lòng tất cả những ai muốn lập hội .

Trong khi tuyên truyền sống theo pháp luật thì Đảng lại là người sống ngoài pháp luật và sống trên pháp luật trắng trợn nhất. Chế độ độc đảng, độc quyền toàn trị là thủ phạm và nguồn gốc của mọi sự lộn xộn tiêu cực trong xã hội và tình trạng phản dân chủ của đất nước.

Có thật Chủ Nghĩa Xã Hội mang hạnh phúc cho nhân dân không? Tại sao Liên Xô xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội hơn 70 năm rồi mà không tiếp tục đứng vững được? Các nước Đông Âu theo Liên Xô cũng thay đổi cả. Nhân dân ở các nước đó đều thấy bất bình với chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Tại sao Việt Nam có hàng triệu người bất kể sống chết, hiểm nguy cứ ra đi tìm đường sống ở các nước khác?

Không nên nói định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà chỉ nói dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Hết sức quan trọng là ở mấy chữ xã hội công bằng, dân chủ. Vì đã dân chủ thì phải đả phá chuyên chính, đả phá toàn trị, đả phá độc quyền. Đường lối thì chưa giải quyết, chỉ mới là một sự lập lại vô duyên các khẩu hiệu quá lỗi thời.

Đảng chỉ chấp nhận và đoàn kết với những người giống như Đảng và nói theo ý Đảng, coi tất cả mọi người có ý kiến khác đều là chống đối, là phản động. Ngay cả những đảng viên lâu năm mà có ý kiến khác cũng bị khai trừ và đối xử như thù địch. Như vậy là vấn đề đường lối chưa được giải quyết. Đất nước đang bị tụt hậu nghiêm trọng.

Xã hội này nhiễu nhương quá thể, người dân không được tự do. Nơi nơi tham nhũng, cấp cấp tham nhũng, ngành ngành tham nhũng. Người dân đóng góp nhiều thứ, nhiều lần quá, trong khi lương thực không đủ ăn. Mất dân chủ mọi lúc mọi nơi, mất tự do hơn cả khi còn chế độ thực dân. Đạo đức xuống cấp, tệ nạn xã hội ngày càng tăng, sự quan liêu bất lực của cơ quan nhà nước đến phát sợ. Vậy thì xã hội dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư bản là ở chỗ nào?

Sau những năm 90, mô hình Chủ Nghĩa Xã Hội đã thất bại, Trong khi đó Chủ Nghĩa Tư Bản đang tự điều chỉnh và ngày càng tiến đến hậu tư bản chủ nghĩa. Dân Chủ Hoá Là Vấn Đề Chiến Lược Các vị lãnh đạo nói nhiều điều tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo hò hét "kiên quyết chống tham nhũng". Dân yêu cầu dân chủ thì lãnh đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược. Nhưng nói thêm chữ thì chưa có ý nghĩa gì. Vì ta vốn nói một đàng, làm một nẻo. Người trí thức và người dân chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa.

Dân chủ hóa phải là vấn đề đường lối, vấn đề chiến lược, vấn đề chính trị xã hội. Yếu tố thiết yếu là một nền dân chủ thật sự bảo đảm tất cả mọi quyền công dân đã ghi trong hiến pháp và các công ước quốc tế. Chủ yếu nhất là thực hiện ngay (thực hiện chứ không phải chỉ ban bố) quyền tự do ngôn luận, tự do ứng cử, tự do bầu cử, và tự do lập hội.

Phải từ bỏ độc tôn lãnh đạo, xóa bỏ chế độ độc đảng, thực hiện đa nguyên, đa đảng.
Phải truất bỏ ngay những thủ đoạn của các cơ quan công an như quản chế Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh; bắt giam vô tội vạ Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao Quận; khám nhà lấy tài liệu của Vũ Cao Quận, Lê Hồng Hà; xâm phạm quyền thông tin và thư tín của Hoàng Minh Chính, Trần Độ v...v... Những hành vi đó không chỉ mất dân chủ, phi luật pháp, xâm phạm quyền tự do công dân, mà còn là những hành vi man rợ, vô văn hóa, bất lịch sự, rất đáng lên án và phỉ nhổ. Trích Nhật Ký Trần Độ (Tháng 5, 2001)

Gia Tăng Đàn Áp

Tháng 6/2001 tập Nhật Ký Trần Độ đã bị công an cưỡng đoạt. Hành động thô bạo này khiến ông uất ức, cơn bạo bệnh bộc phát. Ông mất hồi tháng 8/2002. Bất chấp lời cảnh giác của Trần Độ, sau vụ Đại Khủng Bố ngày 11 tháng 9-2001, Đảng Cộng Sản lợi dụng thời cơ leo thang khủng bố. Một tháng sau, tháng 10/2001, họ kết án Linh Mục Nguyễn Văn Lý 15 năm tù về 2 tội phá hoại chính sách đoàn kết quốc gia và vi phạm quyết định quản chế hành chánh. Năm 2001 khi hay biết có sự nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng, các nhà trí thức trẻ trong Nhóm Dân Chủ như Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình cũng như các vị lão thành cách mạng như Phạm Quế Dương, Trần Khuê đã đồng thanh tố cáo Đảng Cộng Sản nhượng đất, bán nước cho ngoại bang.

Để trả đũa Đảng Cộng Sản đã thẳng tay đàn áp:

Tháng2/2002, họ bắt giữ và truy tố Lê Chí Quang về tội tuyên truyền chống nhà nước sau khi viết bài "Hãy Cảnh Giác Bắc Triều!" Trong năm 2002 họ còn bắt giữ và truy tố thêm 8 người về tội gián điệp: Nguyễn Khắc Toàn (tháng 1), chỉ vì đã tổ chức những vụ khiếu nại khiếu kiện, mít tinh biểu tình tại Hà Nội để đòi lại ruộng đất cho nông dân hai miền Nam Bắc; Phạm Hồng Sơn (tháng 3), chỉ vì đã dịch cuốn "Thế Nào Là Dân Chủ?" từ mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ; Nguyễn Vũ Bình (tháng 7), chỉ vì đã gởi bản điều trần đến Quốc Hội Hoa Kỳ tố cáo những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam cùng đòi thực thi chế độ đa đảng, và đệ đơn thành lập Đảng Tự Do Dân Chủ đối lập với đảng cầm quyền; Nguyễn Vũ Việt, Nguyễn Trực Cường và Nguyễn Thị Hoa là 3 người cháu của Linh Mục Nguyễn Văn Lý (tháng 10), chỉ vì đã tàng trữ các tài liệu nhân quyền và cung cấp cho người Việt hải ngoại những tin tức về vụ các Phật tử chuẩn bị đón Hòa Thượng Thích Huyền Quang từ Quảng Ngãi vào Saigon; Phạm Quế Dương và Trần Khuê (tháng 12) là hai phát ngôn viên của Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng và Nhóm Dân Chủ; Tháng 1½002 họ kết án Lê Chí Quang 4 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước; Và tháng 12/2002 họ kết án Nguyễn Khắc Toàn 12 năm tù về tội gián điệp. Trong năm 2003 họ còn bắt giữ và truy tố thêm 2 người về tội gián điệp: Trần Dũng Tiến (tháng 1) là người đã đích danh tố cáo Đỗ Mười và Lê Đức Anh bao che tham nhũng; Nguyễn Đan Quế (tháng 3), vì đã tố cáo Đảng CS giữ độc quyền thông tin; Trong tháng 3 và tháng 6/2003, họ đã bắt giữ và truy tố Mục Sư Nguyễn Hồng Quang và 5 Truyền Đạo Tin Lành về tội bịa đặt ngăn cản nhân viên công lực hành sự;

Cũng trong tháng 6/2003 họ đã kết án Phạm Hồng Sơn 13 năm tù về tội gián điệp (sau giảm án còn 5 năm). Tháng 1½003, họ đã kết án về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ (thay vì tội gián điệp) và đã tuyên phạt: Nguyễn Vũ Việt và Nguyễn Trực Cường 32 tháng tù; Nguyễn Thi Hoa 4 tháng 8 ngày tù; Trần Dũng Tiến 10 tháng tù; Và tháng 12/2003 họ đã kết án Nguyễn Vũ Bình 7 năm tù về tội gián điệp. Qua tháng 7 năm 2004 họ đã kết án về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ (thay vì tội gián điệp), và đã tuyên phạt: Phạm Quế Dương và Trần Khuê 19 tháng tù; Nguyễn Đan Quế 30 tháng tù. Và tháng 1½004 họ đã kết án Mục Sư Nguyễn Hồng Quang 3 năm tù về tội thường phạm bịa đặt "ngăn cản nhân viên công lực hành sự" thay vì tội lợi dụng quyền tự do tôn giáo hay tội gián điệp. Trước đó 2 tháng, ngày 15/9/2004, Chính Phủ Hoa Kỳ đã liệt kê Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần phải đặc biệt lưu tâm, vì đã thường xuyên và thô bạo vi phạm quyền tự do tôn giáo. Muốn tránh tiếng đàn áp tôn giáo, Viện Kiểm Sát đã viện dẫn tội thường phạm chống lại nhân viên công lực.

Như vậy từ tháng ½002 đến tháng 1½004, Đảng CS Việt Nam đã truy tố và kết án 12 tù nhân chính trị và tù nhân tôn giáo bằng những tội danh bịa đặt, giả tạo và lố bịch.

Sự Thật Lịch Sử

Như Trần Độ đã viết, người Cộng Sản nói một đàng làm một nẻo. Họ đưa ra những mục tiêu lý tưởng để giành chính nghĩa và cướp chính quyền. Từ thập niên 1940 những khẩu hiệụ tuyên truyền được phổ biến là: đoàn kết quốc gia, độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng, hòa hợp dân tộc, bảo vệ tổ quốc v...v... Tuy nhiên thay vì thực thi nguyện vọng của người dân, Đảng CS đã hành động trái ngược. Sự thật lịch sử đã chứng minh điều đó.

Đoàn Kết Quốc Gia

Sau Thế Chiến II, Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương, vì họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Để có chính nghiã đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng ký Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sainteny cho 15 ngàn quân Pháp trở lại đồn trú tại Bắc Việt trong thời hạn 5 năm.

Tháng 5, 1946, sau khi quân đội Trung Hoa triệt thoái, Đảng CS thẳng tay thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Đồng Minh Hội là những đối thủ nguy hiểm của Cộng Sản trên đường cướp chính quyền.
Từ năm 1936, dưới thời Mặt Trận Bình Dân, Đảng CS hợp tác với nhóm Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch trong Mặt Trận Dân Chủ. Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, Đảng CS phản bội giao ước đoàn kết, và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch trong nhóm Tân Tả Phái, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà trong các nhóm Lập Hiến, Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng), Đức Huỳnh Phú Sổ (Hòa Hảo) v...v..
.
Độc Lập Thống Nhất

4 năm sau Thế Chiến Thứ Hai, năm 1949, 12 nước Á Châu đã giành được độc lập bằng đấu tranh chính trị và ngoại giao, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế CS. Trong thời gian 3 năm, từ 1946 đến 1949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Anh, Pháp, Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu:

Năm 1946 Hoa Kỳ trả độc lập cho Phi Luật Tân vào ngày Quốc Khánh 4 tháng 7 (Phi Luật Tân được tự trị từ 1935).

Trong những năm 1947-1948, Chính Phủ Lao Động Anh Clement Attlee trả độc lập cho 5 thuộc địa và giám hộ: Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và Palestine. Năm 1949 Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương Năm 1946 Pháp trả độc lập cho Syria và Lebanon. Và năm 1949 tại Điện Élysée Paris, Tổng Thống Pháp Vincent Aureol ký 3 hiệp định với các Quốc Vương Việt Nam, Ai Lao và Cao Miên để trả độc lập cho Việt Nam (8 tháng 3-1949), cho Ai Lao (20 tháng 7-1949), và cho Cao Miên (8 tháng 11-1949). Ngay từ 1947, Tổng thống Pháp đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc đăng ký 3 nước Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập. (Coi Everyone's United Nations năm 1986, trang 332).

Tại Saigon, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ Tự Trị để sát nhập lãnh thổ Nam Phần vào Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất. (Coi Nguyễn Khắc Ngữ: Bảo Đại, Các Đảng Phái Quốc Gia và sự thành lập chính quyền quốc gia. Có thể tham khảo thêm tại các thư viện và văn khố tại Paris).

Mặc dầu vậy, Đảng CS đã phủ nhận Hiệp Định Élysée vì Hiệp Định này không cho Đảng CS độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và Đảng CS đã vận dụng sự yểm trợ của Liên Xô và Trung Quốc để tiếp tục chiến đấu võ trang trong suốt 30 năm. Từ 1949 chiến tranh Việt Nam không còn là chiến tranh giải phóng dân tộc, mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ như Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953). Trên bình diện dân tộc đây là cuộc chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa khiến cho 3 triệu thanh niên nam nữ đã phải hy sinh thân sống.

Tự Do Hạnh Phúc

Ngoài ra Đảng CS còn phản bội đồng bào trong các mực tiêu tự do hạnh phúc. Sau 60 năm cai trị, Đảng CS đã biến Việt Nam thành một trong số 10 quốc gia phản dân chủ nhất thế giới kém cả Cao Miên. Vì tại Cao Miên không thấy có đàn áp tôn giáo, có các báo chí độc lập và đối lập, có 3 chính đảng của Hun Sen, Ranariddh và Rainsy, và tương đối có tự do tuyển cử. Trong khi đó tại Việt Nam, Đảng Cộng Sản đã tước đoạt của người dân tất cả những quyền tự do tinh thần và tự do chính trị như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp, lập hội và lập đảng và tự do tuyển cử.

Về mặt kinh tế xã hội, từ một quốc gia giàu thịnh nhất Đông Nam Á trước Thế Chiến II, Việt Nam đã trở thành một trong những nước nghèo đói nhất thế giới, lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 tại Phi Luật Tân, 1/6 tại Thái Lan, 1/10 tại Mã Lai, ½5 tại Đại Hàn, ¼0 tại Đài Loan, 1/85 tại Tân Gia Ba. Và đặc biệt chỉ bằng Ỏ½ tại Congo (Coi Encyclopedia Brittannica 2001: Việt Nam 350 mỹ kim so với Congo 680 mỹ kim).

Thêm vào đó, những bất công và bất bình đẳng xã hội trầm trọng đã gây nên sự chênh lệch giàu nghèo quá đáng, và lợi tức thực sự của người dân Việt Nam trung bình tại nông thôn chỉ được chừng ½ mỹ kim một ngày.

Công Bằng Xã Hội Người Cầy Có Ruộng

Trong thập niên 1950, khi chiến tranh còn đang tiếp diễn, thay vì vận dụng toàn dân đoàn kết, Đảng CS đã phát động đấu tranh giai cấp trong 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, nói là để thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Trên thực tế Đảng CS đã không chia ruộng đất cho bần cố nông. Năm 1958 họ áp dụng chính sách tập sản hóa để tập trung tất cả ruộng đất trong các hợp tác xã thuộc quyền quản trị của Đảng và Nhà Nước. Và người nông dân vô sản vẫn hoàn là vô sản, không có một tấc đất cho bản thân và gia đình. Kết quả hơn 200 ngàn trung tiểu nông (có từ 1 hecta đến 3 hecta ruộng), bị đôn lên hàng địa chủ, đã bị sát hại, tù tội và tước đoạt tất cả ruộng đất, nhà cửa, tài sản. Người cày có ruộng là một khẩu hiệu tuyên truyền dối trá, trắng trợn nhất của Đảng CS.

Hoà Hợp Dân Tộc

Năm 1975, sau khi thôn tính Miền Nam, Đảng CS đề ra chính sách hòa hợp dân tộc, hứa hẹn hòa giải với những người quốc gia phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Trên thực tế, hàng trăm ngàn trí thức văn nghệ sĩ, quân nhân, công chức, cán bộ đã bị lao động khổ sai trong các trại tập trung (hay trại cải tạo), người thì 5, 7 năm, người thì 15, 17 năm. Mục đích để đọa đày thân xác và hủy diệt ý chí của tù cải tạo.

Cũng trong năm 1975, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau khi hoàn thành sứ mệnh, đã bị giải thể để sát nhập vào Mặt Trận Tổ Quốc.

Bảo Vệ Tổ Quốc

Năm 1958 Đảng CS công bố mục tiêu thôn tính Miền Nam bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội cần sự cưu mang tận tình của người thầy phương Bắc. Muốn được cưu mang phải có lời cam kết ĩđền ơn trả nghĩa. Ngày 14 Tháng 9, 1958, qua văn thư của Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, cam kết nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Có 3 lý do được viện dẫn trong lời cam kết này:

1) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu.
2) Sau này, nếu do những tình cờ lịch sử, Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?
3) Giả sử cuộc thôn tính Miền Nam không thành, thì việc Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng sẽ có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về chiến lược, kinh tế và chính trị.

Trong những năm 1999 và 2000, giữa lúc trời quang biển lặng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ký 3 hiệp ước để nhượng đất, bán nước và dâng biển cho Trung Quốc. Đó là Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá. Đây là những hiệp ước bất công và không cần thiết. Vì vấn đề phân ranh lãnh thổ và lãnh hải Bắc Việt đã được giải quyết từ thế kỷ 19. Năm 1885 Việt Nam và Trung Hoa ký Hiệp Ước Thiên Tân để phân định chủ quyền lãnh thổ, và 2 năm sau, năm 1887, lại ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân ranh hải phận Bắc Việt. Hai hiệp ước quốc tế này đã đem lại an ninh lãnh thổ cho hai quốc gia từ trên một thế kỷ. Vậy mà ngày nay, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột biên giới, không có tranh chấp hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe lãnh đạo Cộng Sản mật đàm, mật ước và lén lút thông qua 3 hiệp ước nói trên để nhượng 800 km2 lãnh thổ biên giới, 12.000 km2 hải phận Bắc Việt và hiến dââng tôm cá, dầu khí cho Trung Quốc.

Thay vì bảo vệ Tổ Quốc, Đảng CS đã phản bội Tổ Quốc, phản bội bằng cách vi phạm chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải quốc gia và xâm phạm quyền của người dân được hưởng dụng đầy đủ các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.
Như vậy các mục tiêu chiến lược như độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng, đoàn kết quốc gia, hòa hợp dân tộc, bảo vệ tổ quốc v...v... chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền dối trá.

Tuyên truyền dối trá là vũ khí chiến lược số 1 của CS để cướp chính quyền và củng cố chính quyền.

Ngày nay trong giai đoạn thoái trào, để làm lạc hướng dư luận và che dấu tình trạng khủng hoảng toàn diện về chính trị và xã hội, Đảng CS đề ra chính sách kiều vận trong Nghị Quyết 36 do Bộ Chính Trị Đảng CS ban hành tháng 3/2004. Nghị Quyết 36 nhắc lại 4 khẩu hiệu cũ và một khẩu hiệu thời sự:

1) Xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đề cao sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (trước kia là độc lập quốc gia, thống nhất đất nước).
2) Đại đoàn kết toàn dân tộc (trước kia là đoàn kết quốc gia, hòa hợp dân tộc).
3) Phát triển kinh tế cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng (trước kia là ấm no hạnh phúc, công bằng xã hội, người cày có ruộng).
4) Xây dựng dân chủ để hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh (trước kia là xây dựng chế độ dân chủ gấp triệu lần chế độ dân chủ tư sản tây phương).
5) Khẩu hiệu thời sự nói là đểụ ổn định cuộc sống, bảo hộ công dân, bảo hộ quyền lợi chính đáng của Người Việt Hải Ngoại, tạo điều kiện cho Người Việt Hải Ngoại hội nhập vào cộng đồng các quốc gia sở tại.

Tháng 6-2004, Chính Phủ Hà Nội công bố Chương Trình Hành Động "nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị Quyết nêu trên của Bộ Chính Trị, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống và phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam, hướng về Tổ Quốc góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Theo Trần Độ, Đảng CS nói dân chủ, mà làm chuyên chính, người dân mất tự do hơn cả khi còn chế độ thực dân. Nói dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng chỉ xây dựng một xã hội đầy bất công, tệ nạn, tham nhũng, độc tài và lạc hậu. Ngày nay Đảng Cộng Sản dùng tuyên truyền để củng cố quyền lực. Bộ máy công tác tư tưởng ngày đêm hò hét ca ngợi Đảng, một bộ máy "nói lấy được", lừa bịp, dối trá.

Phe lãnh đạo Cộng Sản nói nhiều điều tốt đẹp, là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo hò hét chống tham nhũng. Dân yêu cầu dân chủ thì lãnh đạo thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu tuyên truyền. Nhưng nói thêm chữ thì chưa có ý nghĩa gì. Vì Cộng Sản nói một đàng, làm một nẻo. Trong Nghị Quyết 36, Đảng Cộng Sản nói đổi mới nhưng lại sợ thay đổi, sợ tiến hóa, sợ diễn biến hòa bình; nói dân chủ nhưng là dân chủ tập trung, độc tài độc đảng; nói bình đẳng dân tộc nhưng lại kỳ thị giai cấp, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị sắc tộc, kỳ thị người quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc; nói giao lưu văn hóa nhưng là giao lưu văn hóa một chiều; nói yêu nước bảo vệ tổ quốc nhưng lại phản bội tổ quốc, không bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải quốc gia và quyền của người dân được hưởng dụng đầy đủ các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.

Chính Phủ Hà Nội hứa hẹn sẽ trích ra 700 triệu mỹ kim trong ngân sách quốc gia để đài thọ cán bộ trong các cơ quan, tổ chức ngoại vi và đảng đoàn phụ trách, như Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy Ban Về Người Việt Nam ở nước ngoài, Ban Tư Tưởng Văn Hóa, Ban Dân Vận, Ban Cán Sự Đảng ngoài nước, Hội Liên Hiệp Thanh Niên, Hội Sinh Viên Việt Nam, Đoàn Thanh Niên CS Hồ Chí Minh v...v... Đây là cơ hội để dĩ công vi tư, biển thủ công quỹ.

ChươngTrình Hành Động của Chính Phủ Hà Nội gồm 9 mục tiêu công tác trong 3 kế hoạch:

1) Kế hoạch tuyên truyền với 2 công tác:
a) Công tác thông tin tuyên truyền đưa ra 5 mục tiêu chiến lược hay 5 khẩu hiệu tuyên truyền
b) Công tác thông tin văn hóa vận động báo chí, truyền thông để quảng bá chính sách đổi mới, dân chủ chính trị, phát triển kinh tế, đối xử bình đẳng, phát huy chủ nghĩa dân tộc, đề cao tự hào dân tộc, bản sắc dân tộc,đạo lý, truyền thống, văn hóa dân tộc, tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương v...v...
2) Kế hoạch kinh tài gồm 3 công tác:
a) Kêu gọi người Việt hải ngoại về thăm quê hương để tài trợ thân nhân, mua nhà sang đất, kết hôn, hồi tịch v...v...
b) Kêu gọi trí thức, chuyên gia về nước hợp tác, quản lý các cơ sở và cơ quan quốc nội và quốc tế.
c) Kêu gọi các nhà tư sản về nước đầu tư kinh doanh, hùn hợp, buôn bán v...v...
3) Kế hoạch xâm nhập gồm 4 công tác:
a) Ổn định cuộc sống và hội nhập vào xã hội sở tại. Bảo hộ công dân, tạo cơ hội can thiệp, lũng đoạn, xâm nhập để tiếp xúc, mua chuộc cảm tình và chiêu dụ giới trẻ.
b) Giao lưu sinh hoạt về văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao, du lịch về nguồn, hội thảo, trại hè, trình diễn văn nghệ dân tộc v...v...
c) Truyền bá quốc ngữ cho giới trẻ, qua sách báo, truyền thanh, truyền hình, internet, lớp học v...v...
d) Thi đua, tuyên dương, khen thưởng để gây cảm tình viên và kết nạp trong các tổ chức ái hữu thân nhà nước.



L.S. Nguyễn Hữu Thống

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Đêm Việt Nam

Post by linhgia »

Tương Kế Tựu Kế

Hiến pháp năm 1992 của Cộng Sản Việt Nam không khác gì hiến pháp các nước tự do dân chủ trên thế giới, cũng có tất cả những quyền cho người dân để sống một cuộc đời đáng sống, chỉ khác một điều mà vì điều này khiến tất cả những quyền của người dân ghi trong hiến pháp này trở thành chiếc bánh vẽ to tướng, lại đặt vào một chiếc dĩa cũng to tướng không kém, đó là điều 4 hiến pháp. Ðiều này ghi rằng: “Ðảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nông Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp”.

Hiến pháp đã qui định như vậy thì tất cả những qui định trong hiến pháp chẳng qua chỉ là những câu sáo ngữ ghi cho có cho vui mà thôi. Một nguyên tắc bổ túc do Cộng Sản đưa ra và được rất nhiều cán bộ, dù đã có những hành vi chống đối Ðảng vẫn chấp nhận như một công lý toán học là: “Dân làm chủ, đảng lãnh đạo và nhà nước quản lý”. Quản lý và lãnh đạo là 2 quyền căn bản của người chủ, thế mà người chủ dưới thể chế Cộng Sản không có 2 quyền này, vì đảng Cộng Sản đã giành quyền lãnh đạo, và Nhà Nước, một tổ chức do Ðảng Cộng Sản đẻ ra và điều 4 hiến pháp cũng cho phép Ðảng lãnh đạo Nhà Nước luôn, nghĩa là đảng Cộng Sản vừa lãnh đạo, vừa quản lý. Chưa hết, người dân là một thành phần lớn của xã hội mà điều 4 hiến pháp cũng cho đảng Cộng Sản lãnh đạo. Rốt lại, xã hội Việt chỉ có 2 giai cấp: giai cấp lãnh đạo và giai cấp bị lãnh đạo hay giai cấp cai trị là đảng Cộng Sản và giai cấp bị trị là những ai không phải là đảng viên Cộng Sản.

Trên thực tế, nước nào cũng có 2 giai cấp cai trị và bị trị, nhưng giai cấp cai trị lại do giai cấp bị trị bầu lên một cách tự do, tự do ứng cử và tự do bầu cử, và nhất là có nhiệm kỳ minh bạch, 2 năm, 4 năm… Ngoài ra, hiến pháp của một vài nước còn qui dịnh một cá nhân không được ứng cử nhiệm kỳ thứ 3. Vì vậy, tuy cũng có 2 giai cấp nhưng khác xa với nước Việt do Cộng Sản cai trị. Sở dĩ phải dài dòng về vấn đề này là vì đó là căn bản, là gốc của mọi vấn đề. Nếu không nắm giữ vấn đề này, cuộc đấu tranh của những người có tâm huyết trở nên vô ích vì không có căn bản.

Nhìn vào các cuộc đấu tranh hiện tại của dân chúng Việt Nam trong cũng như ngoài nước, chúng ta thấy rõ có 2 khuynh hướng, khuynh hướng thứ nhứt đòi hỏi Cộng Sản phải trả lại quyền dân tộc tự quyết cho dân chúng để người dân có quyền quyết định thành phần đại diện cho mình lãnh trách nhiệm cai trị đất nước, do tự do ứng cử và bầu cử, có nhiệm kỳ để được lựa chọn lại, tránh nạn độc tài, tránh lãnh đạo lỗi thời và để những người mới tài đức hơn ra giúp nước. khuynh hướng thứ 2 là xin Cộng Sản Việt ban cấp những quyền có ghi trong hiến pháp như tự do ngôn luận, tự do hội họp v.v…

Khuynh hướng thứ nhứt đòi hỏi Cộng Sản Việt phải trả lại quyền tự quyết cho dân tộc. Khuynh hướng này lập luận rằng đất nước là của chung, mọi thành phần dân tộc đều có quyền lợi và nhiệm vụ như nhau, tại sao đảng Cộng Sản lại tự giành lấy quyền cai trị dân chúng? Hơn nữa, chính đảng Cộng Sản cũng phải nhìn nhận rằng sự cai trị của Cộng Sản đã đưa đất nước đến chỗ suy đồi, thụt lùi và băng hoại.

Trước hết, Cộng Sản đã theo chủ thuyết Mác LêNin và chính Việt Cộng cũng phải công nhận chủ thuyết này về phương diện kinh tế đã đi từ thất bại này đến thất bại khác, khiến cho dân tộc đứng bên bờ vực thẳm của đói khát nghèo nàn. Không cần phải so sánh 2 miền Nam Bắc trước năm 1975, chỉ cần nhìn vào Nam Bắc Triều Tiên, nhìn vào Ðông và Tây Ðức chúng ta cũng thấy chủ nghĩa Cộng Sản đã đưa nhân loại đến một nền kinh tế lạc hậu, chết đói. Do nhận định này mà Việt Cộng đã đổi mới, đã vứt bỏ kinh tế Cộng Sản, chạy theo kinh tế thị trường mới sống sót. Chọn đường hướng sai lầm làm cho đất nước điêu linh mấy chục năm trường, làm sao có đủ khả năng để lãnh đạo? Ðường hướng sai lầm này (là đường hướng Cộng Sản) đã giết chết mấy trăm ngàn người dân vô tội tại Bắc Việt vì Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Ðất do Hồ Chí Minh vâng lệnh Trung Cộng thực hiện, và chính Hồ Chí Minh đã phải nhận lỗi, hứa sửa sai. Không kể cuộc chiến tranh 1960 – 1975 là một cuộc chiến tranh không cần phải có. Cuộc chiến tranh này đã giết chết mấy triệu người dân Nam Bắc 2 miền, phá hủy biết bao nhiêu công trình đã xây dựng. Không thể cho rằng cuộc đấu tranh 1960 -1975 là cuộc đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm. Vì cuộc chiến tranh đó có mục đích bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản. Hơn nữa, người dân miền Bắc sống dưới chế độ Cộng Sản, ngoài nạn bị tiêu diệt mấy triệu người, còn bị chế độ hộ khẩu, làm ăn tập thể, mỗi năm mỗi người chỉ có 4 mét vải, lao động cực nhọc mà luôn không đủ ăn, không được tự do. Và sau năm 1975 cả 2 miền sống dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng Sản đều nghèo đói, tụt hậu chứg tỏ cuộc chiến đó không thể gọi là có chính nghĩa. Trong khi đó thì ở miền Bắc Hồ Chí Minh đã phải cắt 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng, đã để cho Trung Cộng đóng 3 trăm ngàn quân mười năm trời trên miền cực Bắc. Chính miền Bắc mới đáng giải phóng.

Từ ngày đổi mới đến giờ, dù tình trạng kinh tế khá hơn, nhưng nạn tham nhũng, nạn buôn lậu, nạn mãi dâm, nạn xuất cảng phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài làm nô lệ tình dục… Ðiều này chứng tỏ đảng Cộng Sản cũng không có khả năng quản lý đất nước sau khi đổi mới, tại sao lại vẫn bám lấy quyền lực mà không chịu trả lại cho dân chúng?

Một đảng cầm quyền chỉ đem lại tai hại cho đất nước như đảng Cộng Sản tại sao lại vẫn bám vào quyền lực? Vì đã bám vào quyền lực và chỉ biết tham nhũng thối nát, cần phải lật đổ, cần phải thay thế một chế độ khác, đó là điều tất yếu.

Khuynh hướng thứ 2 là XIN đảng Cộng Sản cho những quyền được ghi trong hiến pháp, đã được Cộng Sản hứa hẹn nhưng chưa thực hành. Hậu quả đầu tiên của khuynh hướng này là phải chấp nhận chế độ Cộng Sản, một chế độ giao quyền lãnh đạo muôn năm cho Cộng Sản, chấp nhận sự cai trị của Cộng Sản. Tiếp theo là chỉ XIN những gì cần, và nói như Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn là người có thể cho mà có thể không rất tùy tiện và tùy thích. Hơn nữa, người đi xin không thể ra thời hạn và cách thức cho, chỉ có người cho mới có quyền này.

Có lập luận cho rằng tiên lễ hậu binh. Chúng ta phải XIN trước, khi nào Cộng Sản không CHO hẳn hay. Nhưng XIN đã có một lịch sử lâu đời và những kinh nghiệm xương máu. Võ Nguyên Giáp là một công thần của Cộng Sản, đã bị oan ức, đã 2 lần gởi thơ lên Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng, xin được có một sự xét xử công minh để rửa tiếng oan, nhưng cho đến nay, qua 2 lần Ðại Hội Ðảng, Cộng Sản vẫn làm lơ, không trả lời. Lê Chí Quang, một người trẻ, có kiến thức luật pháp, không có tham vọng chính trị, chỉ XIN Ðảng cảnh giác Bắc Phương, với những chứng cớ cụ thể, những minh chứng rõ ràng. Lê Chí Quang không xin gì cho quyền lợi cá nhân của mình, chỉ mong Cộng Sản chú ý, đừng để Cộng Sản Tàu xâm thực đất nước. Hậu quả là Lê Chí Quang đã bị tù đày khốn khổ mấy năm trời. Lê Chí Quang được trả tự do không phải vì những người XIN đảng Cộng Sản, nhưng Lê Chí Quang được tự do vì áp lực đấu tranh của người Việt hải ngoại, của dư luận quốc tế. Trần Ðộ cũng là một công thần của Cộng Sản, thấy nguy cơ Ðảng bị sụp đổ, lên tiếng XIN đảng cải tiến để tồn tại. Hậu quả là Trần Ðộ bị trù dập cho đến chết, thân hữu bạn bè cũng bị cấm ngặt không được chia buồn.

Một nhóm người như Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê đã xin Ðảng được thành lập một đảng giúp Ðảng chống tham nhũng là một tệ nạn mà chính Ðảng cũng phải gọi là quốc nạn. Hậu quả là họ bị trù dập, bắt bớ, khám xét nhà cửa, tịch thu tài liệu, cắt đứt phương tiện liên lạc. Nguyễn Vũ Bình, một nhà báo của Ðảng, chỉ làm đơn XIN Ðảng cho phép thành lập một Ðảng chính trị theo như hiến pháp đã qui định. Hâu quả là Nguyễn Vũ Bình bị tù đày, tội danh là gián điệp. Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, chỉ dịch một bài báo trên Internet với tựa đề “Thế Nào Là Dân Chủ” của tòa đại sứ Hoa Kỳ phổ biến. Hậu quả là bác sĩ Phạm Hồng Sơn bị tù đày cho đến hôm nay chưa được trả tự do. Theo thống kê của Việt Cộng thì năm trước đã có tới 1 triệu 2 trăm ngàn người đi XIN Việt Cộng trả lại đất đai của họ đã bị đảng viên dùng quyền lực cướp mất. Họ đã không được Việt Cộng giải quyết mà còn bị đàn áp, trù dập, trấn áp, đánh đập. Ðó là hậu quả của khuynh hướng XIN CHO.

Trong khi đó, những người đấu tranh chống lại sự cai trị của Cộng Sản, nhận định đảng Cộng Sản không xứng đáng để lãnh đạo đất nước, chủ trương lật đổ chế độ Cộng Sản, bị Cộng Sản bắt bớ tù đày, nhờ các chinh phủ tự do, những tổ chức phi chính phủ cũng như người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại đòi hỏi, Cộng Sản đã phải trả tự do cho họ như trường hợp của linh mục Nguyễn Văn Lý, bác sĩ Nguyễn đan Quế, Hòa Thượng Thích Thiện Minh v.v…

Khuynh hướng có mục đích lật đổ chế độ Cộng Sản để thiết lập một nền tự do dân chủ vững chắc ngày càng được nhiều người ủng hộ mà Khối Tuyên Ngôn 8406 là điển hình nhất. Trong khi đó thì khuynh hướng XIN Việt Cộng CHO những quyền hạn được ghi trong hiến pháp, đã được Việt Cộng hứa hẹn không đem lại một kết quả nào, bị người dân phản đối là làm cò mồi, làm tay sai cho Việt Cộng.

Những ngày gần đây, Việt Cộng đã nhân các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ trong cũng như ngoài nước, có mục đích lật đổ chế độ Cộng Sản bằng phương pháp bất bạo động, đã tương kế tựu kế, đưa những tên tay sai làm cò mối, cũng đấu tranh nhưng có khuynh hướng XIN CHO. Thực hiện khuynh hướng này, Việt Cộng có cái lợi là chia rẽ lực lượng chống đối, làm cho lực lượng này suy yếu và gạt được những người dễ tin. Tùy tình hình quốc tế biến đổi, Việt Cộng hoặc giải tán khuynh hướng chống đối này như đã giải tán đảng Dân Chủ do chúng đẻ ra vào năm 1988, hoặc chấp nhận một số điều kiện của khuynh hướng này thì coi như chẳng chấp nhận gì cả, vì đó là người của Việt Cộng chỉ làm bù nhìn, làm các chậu kiểng để che mắt quốc tế, làm cho những người tranh đấu thực sự mất thế chủ động.

Khuynh hướng này có thể gạt được dư luận quốc tế, nhưng không thể gạt được những ai thực tâm đấu tranh cho một Việt dân chủ tự do thực sự. Lấy ví dụ giáo sư Trần Khuê nguyên là một cán bộ Việt Cộng, những năm gần đây ông cũng tham gia chống đối Cộng Sản, nhưng qua cuốn “Đối Thoại” của ông người ta nhận thấy ông ta đã không có lập trường chống Cộng thực sự, ông chỉ muốn cứu Đảng khỏi bị sụp đổ. Nếu công cuộc “chống Đảng để cứu Đảng” của ông thành công, ông sẽ được Cộng Sản tái dụng vào những chức vụ xứng đáng. Chức vụ mà ông Trần Khuê mong muốn là Đại Biểu tại quốc hội. Hành động vội vã đưa ra một bản Tuyên Ngôn Dân Chủ mà bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi nhân danh là người được ông Trần Khuê ủy nhiệm ra mắt nó. Trong khi đó thì linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý đã có một Tuyên Ngôn 8406 có đến 118 người ký tên ban đầu và sau này có hàng ngàn người trong nước ủng hộ, các tổ chức quốc tế cũng ủng hộ. So sánh 2 bản Tuyên Ngôn, chúng ta thấy rõ bản Tuyên Ngôn của giáo sư Trần Khuê mà bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi công bố chúng ta thấy rõ giáo sư Trần Khuê và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi là Tuyên Ngôn XIN/CHO. Cụ Hoàng Minh Chính, do sự sắp xếp của giáo sư Trần Khuê và bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, đã được sang Hoa Kỳ chửa bệnh tiền liệt tuyến, nhưng thực ra là một chuyến đi vừa thăm dò tình hình người Việt hải ngoại, vừa lấy lòng chính giới Hoa Kỳ. Cụ Hoàng Minh Chính đã làm cùng lúc 2 việc trái ngược nhau, tổ chức Tiểu Diên Hồng Bàn Tròn 3 bên cho những kẻ không có lập trường chống Cộng rõ rệt, mặt khác lại lên án chủ nghĩa Mác Lê với những hệ lụy tai hại khiến nhiều người có cảm tình với cụ. Nhưng nay thì cụ Hoàng Minh Chính tuyên bố phục hoạt đảng Dân Chủ, một đảng được Việt Cộng thành lập theo nhu cầu che mắt mọi người của Việt Cộng, và đã bị Việt Cộng giải tán. Nhưng đảng Dân Chủ XXI Phục Hoạt gần như ngoài tầm tay của cụ Hoàng Minh Chính mà lại được điều động hoàn toàn bởi giáo sư Trần Khuê!

Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi được nổi bật từ khi ông ta về Việt Nam thông tim cho cán bộ Việt Cộng, nhưng lại bị Việt Cộng trục xuất sau đó, vì “nghi ngờ ông ta tiếp xúc với đảng viên Nhân Dân Hành Động do ông và kỹ sư Nguyễn Sỹ Bình sáng lập và điều hành”. Và từ khi ông cùng giáo sư Trần Khuê “thuyết phục “được Việt Cộng cho phép cụ Hoàng Minh Chính qua Mỹ chữa bệnh, sau đó lại tiếp nhận tất cả các chức vụ và trách nhiệm về “dân chủ” do giáo sư Trần Khuê và cụ Hoàng Minh Chính đưa ra, coi như là cánh tay mặt của giáo sư Trần Khuê.

Rõ ràng nhất là sự bảo trợ và tiếp đón 2 du sinh Việt Cộng của bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi. Ban đầu, ai cũng nghĩ đây là 2 du sinh sau khi được ra hải ngoại, thấy rõ thế giới bên ngoài khác hẳn với đất nước, một đất nước dưới quyền cai trị của Việt Cộng và họ đã giác ngộ và quyết đấu tranh cho một Việt dân chủ và tự do. Nhưng qua lời phát biểu của em Nguyễn Tiến Trung tại đại hội sinh viên ở San Jose, chúng ta nhận thấy Nguyễn Tiến Trung thiếu đầu óc quan sát khi còn ở trong nước, không nhận định được những gì xảy ra chung quanh mình và đã tin theo Việt Cộng một cách mù quáng, y như là một người từ trong bưng biền bước ra. Khi 2 du học sinh Việt Cộng này đến San Jose, bác sĩ Ngãi đã không cho treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vì hoặc là do 2 du sinh này không muốn hoặc là bác sĩ Ngãi “nghĩ rằng chúng là người của Cộng Sản nên đã không treo cờ quốc gia.

Qua những tuyên bố khác của Nguyễn Tiến Trung chúng ta ghi nhận 2 du sinh này thuộc loại XIN/CHO của Cộng Sản, nhất là Nguyễn Tiến Trung đã tuyên bố tại Nam California rằng sẽ đấu tranh để về Việt Nam ứng cử các chức vụ địa phương năm 2007. Thỉnh nguyện thư của họ cũng chỉ “nhắc Việt Cộng thi hành những gì đã hứa mà không làm” (sic). Cuộc trình diễn “được Tổng Thống Hoa Kỳ và phu nhân Laura Bush tiếp kiến và ủng hộ” đầu voi đuôi chuột, nặng phần trình diễn, và cho đến nay, những hình ảnh của 2 du sinh này chụp chung với Tổng Thống và phu nhân vẫn chưa được công bố khiến người ta nghi ngờ đây chỉ là tham dự viên trong bữa tiệc gây quỹ của đảng Cộng Hòa, ai có tiền thì có thể được mời.

Việt Cộng đã nhân luồng gió đấu tranh mạnh mẽ của người Việt trong nước cũng như hải ngoại để tương kế tựu kế, lập ra những nhà đối kháng giả trước là cứu cuộc bầu cử bù nhìn năm 2007 mà nhóm Tuyên Ngôn 8406 cực lực lên án và đòi cho được những điều kiện tự do dân chủ để cuộc bầu cử có giá trị đích thực, sau là phá hoiạ công cuộc chống Cộng của những người thật tâm muốn thấy một Việt Nam tự do dân chủ thực sự. Đừng mắc mưu của Việt Cộng.

Lê Văn Ấn

Post Reply