30/4 Đen

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

(Tiếp theo)


Lời tòa soạn:

“Lệnh di tản người Mỹ đột ngột có thể gây bạo động ở Sàigòn. Nếu không giữ bình tĩnh mà lại đưa thủy quân lục chiến [Hoa Kỳ] vào đây thì có thể gây sự nổi giận không thể lường được...” Ðại sứ Martin viết trong một công điện mật gởi Kissinger đêm 17 tháng Tư, 1975. Sáu ngàn lính Hoa Kỳ còn kẹt lại Việt Nam những ngày cuối tháng Tư năm 1975, theo lời tác giả Nguyễn Tiến Hưng, việc đưa 6,000 lính Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam một cách vội vã có thể biến Hoa Kỳ và VNCH thành những kẻ tử thù. Ông viết: “Kissinger, với vẻ mặt mệt mỏi và phiền muộn, đã báo cáo rằng một quan chức Sàigòn có nói: “Nếu các Ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội Miền Nam để có lối ra.”

Chúng tôi xin đăng tải tiếp kỳ 2, chương 17 của hồi ký “Khi Ðồng Minh Tháo Chạy.” Tác giả cuốn hồi ký, Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng, cũng là tác giả cuốn sách nổi tiếng “The Palace File” (Hồ Sơ Mật Dinh Ðộc Lập). Ông là cựu Phụ Tá Tổng Thống về Tái Thiết, và là Tổng Trưởng Kế Hoạch và Phát Triển cuối cùng của VNCH. Cuốn “Khi Ðồng Minh Tháo Chạy” sẽ được xuất bản trong nay mai, nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố 30 tháng Tư.


Tác động phía Miền Nam


Một mặt thì ngăn chận Washington gửi TQLC vào Sàigòn, một mặt ông lại cố tác động phía Miền Nam để giữ cho tình hình khỏi xáo trộn. Ông làm ba hành động: một là sinh hoạt hết sức bình tĩnh để không đổ thêm dầu vào lửa, không làm xôn xao thêm dư luận là Mỹ đang bỏ chạy; hai là cố kéo dài cuộc di tản người Mỹ để giúp một số người Việt ra đi; và ba là cho di tản sớm một số phi công và gia đình quan chức, tướng lãnh nòng cốt. Ông giải thích cho Quốc Hội Hoa Kỳ đầu năm 1976:

“Ðiều lo ngại nhất của chúng tôi lúc đó là tránh khỏi cảnh hoảng hốt, hỗn loạn. Sự lo nghĩ này nó ảnh hưởng đến tất cả những hành động khác.

“Liên quan tới điều này là mối lo âu thứ hai của tôi, đó là: nếu chúng ta không cư xử cho đúng mức thì đồng minh của chúng ta (phía VNCH) sẽ cảm thấy mình đang bị bỏ rơi, và trở mặt với Mỹ trong những ngày cuối cùng.”

“Bởi vậy phải hết sức bình tĩnh nếu muốn di tản được người Mỹ, những người Việt có liên hệ gia đình với Mỹ, và càng nhiều nếu có thể được, số người Việt mà Mỹ có trách nhiệm đối với họ” (11).

Dù bị Kissinger hối thúc liên tục, tại tư thất cũng như văn phòng làm việc, ông Martin nhất định không chịu đóng gói. Ðồ đạc, sách vở, hồ sơ, hình ảnh trên tường vẫn được để nguyên vẹn, không xê dịch. Ngày 18 tháng 4, ông còn cho Giám Ðốc Thông Tin Hoa Kỳ, ông Alan Carter lên TV Sàigòn để tham dự một cuộc phỏng vấn. Những câu hỏi và trả lời được soạn kỹ lưỡng trước, nhằm làm giảm nhẹ những lo âu là Mỹ đang bỏ Việt Nam. Việc đầu tiên Carter phải làm là đánh tan cái tin đồn là “nếu Quốc Hội Mỹ không chấp thuận quân viện cho VN vào hạn chót như TT Ford đã đặt ra (đó là 19 tháng 4), thì toàn bộ người Mỹ sẽ được di tản.”

Tôi còn nhớ là ngày 11 tháng 4, sau khi ông Ford ấn định ngày 19 tháng 4 là ngày Quốc Hội phải quyết định có hay không cấp quân viện phụ trội cho VNCH, toàn bộ Nội Các hết sức xôn xao. Ông Thiệu cũng hỏi tôi tại sao lại là ngày 19 tháng 4? Tôi trả lời là thực sự tôi cũng không hiểu. Sau đó tôi gọi ÐS Martin hỏi, ông nói lơ mơ là không có gì đặc biệt. Rồi ông soạn một trang gợi ý cho ông Thiệu mấy điểm để giải thích lập trường của ông Ford (xem chương sau).

Trong cuộc phỏng vấn trên TV, ông Carter đã nhấn mạnh là:

“Ngày 19 tháng 4 chỉ là một ngày đề ra cho Quốc Hội hành động, chẳng có gì quan trọng cả. Ngoài ra, ông nói: “Ta cũng nên nhớ rằng Tổng Thống Ford đã tuyên bố ông sẽ còn yêu cầu những $1.29 tỉ quân viện cho VNCH vào tài khóa tới (1975/76).”

Ðể chứng tỏ là tình hình vẫn bình thường, Carter nói thêm:

“Nếu quý vị ghé thăm tư thất Ðại sứ và Bà Martin, quý vị sẽ thấy hoàn toàn không có đóng gói gì hết. Và ở nhà riêng tôi cũng vậy.”

Ðược hỏi về lời đồn thổi là văn phòng Lãnh Sự Mỹ đã cấp chiếu khán cho một số người Việt di tản, Carter chối phắt đi: “Ðây cũng chỉ là một lời đồn đại khác nữa, không có một chút sự thật nào cả” (12).

Người ta kể lại là ông Martin đã rất khó chịu với ông Polgar (trùm CIA) khi nghe tin ông này đã đóng gửi đồ đạc gia dụng đi từ đầu tháng 4 (13). Theo ông Von Marbod, Ðệ nhất Phó Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng kể lại, dù đã tới ngày 28 tháng 4, ông Martin cũng vẫn còn chưa muốn cho Marbod di chuyển số máy bay còn lại và quân cụ nặng ra khỏi VN vì e ngại ảnh hưởng tới tinh thần quân đội VNCH. Dĩ nhiên là Marbod cứ tiếp tục vì ông đã có lệnh từ Washington.


Vì sao phi công VN được di tản trước?

Ngoài bà vợ viên chức tình báo cao cấp, Ðại sứ Martin đã sắp xếp để đưa một số khá nhiều phi công VNCH và gia đình được ưu tiên ra đi. Tất cả khoảng 2,000 người di tản trước hết là tới phi cảng Utapao ở Thái lan. Mục đích của việc này là để giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ với lực lượng Mỹ.

Trình bày cho Quốc Hội về việc này, ông Martin cho rằng nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ trên đầu những người Mỹ còn lại:

“Tình báo của chúng tôi đã có rất nhiều những báo cáo chính xác là nếu chúng ta mang số đông TQLC vào để di tản người Mỹ, chúng ta sẽ phải chiến đấu để mở đường tháo chạy; Không Quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình, khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt” (14).

Ông Martin cho rằng phi công là những phần tử trong quân đội VNCH bị uất hận nhiều nhất nên có thể phản ứng:

“Tôi có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày cuối cùng của cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Miền Nam đã được bay sang căn cứ Utapao ở Thái Lan. Như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu) của một số phi công chống đối trên bầu trời, họ có lẽ là phần tử uất hận nhất trong các quân chủng. Và để trả thù, họ sẽ ngăn chặn cuộc di tản cuối cùng của chúng ta” (15).

Nếu phi công VNCH bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ, chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6,000 người Mỹ phải chết. Thêm vào đấy là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên. Dĩ nhiên là không lực từ Ðệ Thất Hạm Ðội sẽ vào uy hiếp, dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng Sàigòn sẽ đổ nát như Baghdad, và bao nhiêu người dân sẽ là nạn nhân?

Về điểm này, Ðại sứ Martin đã trình bày với Quốc Hội hết sức dứt khoát. Ông nói rằng nhân dân Mỹ đều “biết đếm,” họ đếm được những kết quả việc ông đã làm, đó là (16):

Giúp cho bất cứ người Mỹ nào muốn di tản đều đã đi được;

Tránh khỏi sự hoảng hốt lúc Mỹ ra đi;

Sự chuyển tiếp qua ba chính phủ trong mười ngày ở Miền Nam đã không bị lộn xộn, và vì vậy, đã vớt vát được chút đỉnh tính cách hợp hiến, hợp pháp ở Miền Nam;

Sàigòn đã không bị tàn phá, “chúng ta đã không bị đồng minh trước đây của chúng ta (VNCH) tấn công khi rút đi”; và

Cuộc triệt thoái đã được diễn ra tương đối với đôi chút phẩm cách.

Trong tình huống có xô xát lớn giữa quân đội của hai đồng minh vào những ngày cuối cùng, thì ngay tức khắc VNCH sẽ trở thành thù địch của Hoa Kỳ. Trong trường hợp này thì đã không một người nào trong chúng ta được di tản.

Và nếu đã là thù địch, nếu đã không có di tản đợt đầu thì làm sao có đợt hai, đợt ba, làm gì có chương trình “Ra đi có trật tự” (ODP), và chương trình “Chiến dịch nhân đạo” (HO). Chắc chắn là đã không có “Little Saigon” ở Nam Cali hay “Eden Center” ở vùng Washington D.C. Lịch sử Hoa Kỳ sẽ ghi lại: “Chính Miền Nam là kẻ phản bội, sát hại một đồng minh đã tiêu phí 150 tỷ đôla, hy sinh trên 53,000 mạng người để yểm trợ họ ròng rã hai mươi năm trời.” Ngày nay, người Mỹ sẽ nhìn người Miền Nam với con mắt như thế nào? Nghĩ lại mà rùng mình! Như ông Martin đã đánh giá tình hình lúc đó: “nếu chỉ có một việc gì bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi tới đâu, thì cũng có thể gây ra tình trạng vô cùng hỗn loạn!” Thử tưởng tượng: đang khi TQLC Mỹ ào ào túa vào, dân chúng chen lấn trước cổng Tòa Ðại sứ, đường phố Sàigòn bế tắc, phi trường Tân Sơn Nhất lộn xộn, chỉ một quả lựu đạn nổ, làm chết vài người lính Mỹ là tan vỡ rồi, chứ đừng nói tới không quân bắn rơi máy bay vận tải Mỹ.


Hủy bỏ “kế hoạch điên rồ”

Trước sự phản đối liên tục và mạnh mẽ của Ðại sứ Martin, ông Ford sau cùng đã được thuyết phục. Ông lập luận theo ông Martin và cảnh cáo các thượng nghị sĩ của Ủy Ban Ngoại Giao trong một cuộc họp kín tại Bạch Cung (17):

“Nếu quý vị tuyên bố là sẽ không di tản người Việt Nam, quý vị sẽ có khó khăn lớn để đưa 6,000 người Mỹ ra.”

Về cuộc họp này, Ron Nessen kể lại như sau (18): Kissinger, với vẻ mặt mệt mỏi và phiền muộn, đã báo cáo rằng một quan chức Sàigòn có nói với ông:

“Nếu các Ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các Ngài có thể sẽ phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội Miền Nam để có lối ra.”

Trong hồi ký của ông xuất bản năm 1979, TT Ford cũng đã kết luận về cuộc di tản đúng như nhận xét của ông Martin hồi đó (19).

“Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại thủ đô miền Nam sẽ có thể phát sinh, và trong sự chua cay là đã bị ‘phản bội,’ quân đội miền Nam có thể quay súng vào người Mỹ.”

Cảnh cáo các Nghị sĩ xong, cũng theo Nessen, ông Ford vẫn tiếp tục yêu cầu cấp $722 triệu quân viện mà tướng Weyand đã đề nghị. Ford và Kissinger nghĩ rằng đối với chính phủ VNCH, yêu cầu Quốc Hội khoản tiền này sẽ có tác động “hối lộ.” TT Ford cảnh cáo quý vị nghị sĩ: “Tôi không thể đảm bảo được rằng nếu chúng ta nói 'không cấp tiền nữa', mà ông Thiệu... lại không có thể làm một chuyện gì đó là hoàn toàn phi lý.”

Nói rõ hơn, ông Ford còn thêm: “Nếu rút hầu hết người Mỹ ra cùng một lúc sẽ làm cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy, sẽ có thể gây ra hoảng hốt, rồi những cuộc tấn công vào những người Mỹ còn lại.”

Sau cuộc họp, Ford còn dặn các nghị sĩ là chớ có để cho báo chí biết là tất cả phiên họp chỉ toàn bàn tới chuyện di tản. Quý vị hãy nói: “Chúng tôi chỉ bàn chuyện làm thế nào để ổn định tình hình tại Miền Nam.”


Cầu cứu Nga Xô

Ðó là tác động về phía Miền Nam. Còn đối với Bắc Việt thì sao? Trong cuốn sách vừa xuất bản năm 2003 về “Kết Thúc Chiến Tranh Việt Nam” (Ending the Vietnam War), Kissinger có tiết lộ rằng, tác động duy nhất mà Mỹ có thể làm được về chính trị vào lúc đó là tiếp xúc với Liên Xô. Ông cho rằng mặc dù có những đình trệ trong cuộc thương thuyết về nhiều vấn đề, Nga Xô vẫn tiếp tục thấy quyền lợi của mình trong mối bang giao giữa hai nước. Bởi vậy, Kissinger viết (20): “Ngày 19 tháng 4, tôi gửi một 'lời nhắn miệng' của Tổng Thống Ford cho Tổng Bí Thư Brezhnev qua Ðại sứ Dobrynin rằng “Chúng tôi cần có một cuộc đình chiến để 'di tản công dân Mỹ và những người Miền Nam có liên hệ trực tiếp và đặc biệt với Mỹ.” “Chúng tôi đã liên lạc với Moscow vì, dựa trên quyền lợi hỗ tương và lâu dài giữa hai nước, tình hình phải được kết thúc mà không gây phương hại tới quan hệ Mỹ-Nga, hoặc có ảnh hưởng tới thái độ của dân chúng Mỹ đối với các vấn đề quốc tế khác.”

Ông còn thêm rằng để làm cho giải pháp cầu cứu phía Nga Xô có hiệu quả,”chúng tôi đã nhấn mạnh thiện chí chúng tôi muốn thảo luận về những tình huống đặc biệt cần thiết cho cuộc đình chiến - nói cách khác, tới một sự thay đổi về tình thế chính trị ở Sàigòn”.

Về “thay đổi tình thế chính trị”, ý Kissinger muốn nói về nhượng bộ chính trị, đó là thay đổi chính phủ Thiệu. Ông bình luận thêm trong cuốn sách: “Chúng tôi giả bộ nêu ra những hậu quả nguy hiểm nếu phi trường hay phi cơ dân sự bị tấn công - tuy nhiên, một người quá chuyên môn về những cuộc tranh luận tại Quốc Hội Hoa Kỳ như ông Dobrynin thì cũng chẳng thấy một chút trọng lượng nào trong lời hăm dọa ấy.”


Hà Nội không cản thiệp di tản

Sau này, khi được hỏi về vai trò của Nga Xô trong những cuộc thương thuyết từ trung tuần tháng 4, 1975, Ðại sứ Martin có xác định lại là: “Phía Nga Xô có cho phía Hoa Kỳ hay rằng Hà Nội sẽ không làm trở ngại cuộc di tản của chúng ta” (21).

Về thái độ của Liên Xô, Kissinger kể lại:

“Ngày 24 tháng 4, Ông Dobrynin gọi điện thoại cho tôi lúc 4 giờ chiều và đọc cho tôi nghe lời phúc đáp về đề nghị ngày 19 tháng 4 của Mỹ. Lời phúc đáp này có vẻ đã bật đèn xanh cho cuộc di tản người Mỹ, và cũng nói rằng Hà Nội muốn tìm một giải pháp chính trị theo hướng Hiệp Ðịnh Paris. Hà Nội còn nhắn với Moscow là 'họ không có ý định làm tổn thương tới uy tín của Mỹ...” Và như vậy, Brezhnev đã cố ngăn cản Mỹ can thiệp bằng quân sự:

“Ông ta đã mạnh dạn hơn để kềm hãm cái bản chất phiêu lưu mà thực sự đã không có của Hoa Kỳ lúc đó, bằng cách bày tỏ hy vọng là Mỹ sẽ không có những hành động có thể làm cho tình hình tại Ðông Dương thêm trầm trọng hơn” (22).

Trong khi chờ đợi Liên Xô tham khảo với Hà Nội để trả lời, ngày 24 tháng 8, lúc 8:25 phút, Mỹ đáp lại lời nhắn của họ:”Theo như phúc đáp xây dựng của phía Nga Xô, phía Hoa Kỳ dang tiến hành cuộc di tản với tin tưởng là điều kiện sẽ tiếp tục thuận lợi.”

Kissinger còn thêm:

“Tổng Thống Ford trấn an Brezhnev là... bao lâu cuộc di tản không bị cản trở thì Hoa Kỳ sẽ không có hành động gì có thể làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn.” (tức không can thiệp trở lại).

Tại Sàigòn, ÐS Martin lại không mấy lo về phía Hà Nội. Kissinger cũng xác nhận điều này: “Tin rằng, ngay trước mắt, sự hoảng hốt ở Sài Gòn còn đáng lo ngại hơn những kế hoạch tấn công của Hà Nội, ông phấn đấu để cho cuộc di tản chậm nhiều hơn là chính Tổng Thống Ford, Scowcroft, hay là tôi - con diều hâu trong chính phủ- đã cho là thích ứng” (xem Chương 14).

Ông Martin trình bày lại cho Quốc Hội: “Vì phải được bảo mật, tôi là người duy nhất ở Sàigòn nhận được thông tin do Bắc Việt chuyển qua phía Liên xô cho hay rằng họ sẽ không can thiệp bằng quân sự vào cuộc di tản của chúng ta” (23). Ông còn tin rằng sở dĩ BV vẫn muốn điều đình một giải pháp chính trị, vì “họ cũng không muốn bước vào Sàigòn trên một đống gạch vụn.” Lý do khác, theo ông: “Hà Nội còn muốn nhận được viện trợ quốc tế nữa” (24).

Nhưng nếu Hà Nội không can thiệp vào di tản thì tại sao lại có vụ pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhất ngày 29 tháng 4? Ông Martin trả lời: “Theo sự suy nghĩ của tôi, lý do có pháo kích vào phi trường sáng ngày 29 tháng 4, là vì ngày hôm trước đó, chúng tôi bắt đầu cho một số Không Quân Việt Nam đưa máy bay ra ngoại quốc; tôi nghĩ rằng vụ pháo kích nhằm mục đích chỉ là để ngăn chận việc di chuyển này mà thôi (chứ không vì muốn chặn cuộc di tản) (25).


(Còn tiếp)

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Giải pháp chính trị

Mười ngày cuối cùng của cuộc chiến là những ngày cực kỳ khó khăn, nguy hiểm. Trong những ngày đó, phía Hoa Kỳ, đặc biệt là ông Martin đã cố gắng sắp xếp một giải pháp chính trị cho Miền Nam. Kết quả là trong mười ngày, có tới ba chính phủ. Nhưng rồi kết cuộc cũng là hoàn toàn thất bại.

Về hành động sắp xếp đằng sau hậu trường thì trong khi tại Washington, các ông Ford và Kissinger đi qua ngả Dobrynin để nhờ Nga Sô áp lực Hà Nội, thì ở Sài gòn, hai ông Martin và Polgar liên lạc qua ngả đại diện Hung Gia Lợi trong Phái Ðoàn Kiểm Soát Ðình Chiến và Ðại Sứ Pháp Merillon.

Về mục tiêu của giải pháp chính trị cũng có tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Trong khi Ford-Kissinger chỉ mong có một giải pháp tình thế, 'một tình huống trong tầm kiểm soát' để Mỹ có thể rút ra cho yên ổn, thì Martin lại muốn theo đuổi một mục tiêu lâu dài hơn: Ðó là có được một giai đoạn chuyển tiếp để:

Thứ nhất, giúp Mỹ ra đi từ từ, chứ không vội vã và mất mặt;

Thứ hai, di tản một số người Việt nhiều hơn là Washington đã dự tính; và

Thứ ba, như đã đề cập ở trên, để tránh xung đột Mỹ-Việt.

Tại Washington: Trong cả hai thông điệp cho Nga Xô, Tổng Thống Mỹ đều nói tới một giải pháp chính trị. Về thông điệp ngày 19 tháng 4, Kissinger viết (26):

“Chúng tôi nhấn mạnh thiện chí của chúng tôi muốn thảo luận về tình huống cần thiết đặc biệt cho việc đình chiến - nói cách khác, một sự thay đổi về tình hình chính trị ở Sài gòn.”

Ðây là sự mập mờ bắn tiếng về việc áp lực ông Thiệu phải từ chức. Một tuần trước khi sụp đổ, trong thông điệp ngày 24 tháng 4 gửi Brezhnev, Kissinger lại nhắc tới giải pháp chính trị:

“Lời đáp của Hoa Kỳ cũng khích lệ quan điểm của Hà Nội về cách thức thi hành Hiệp Ðịnh Paris để đi tới một giải pháp chính trị.”

Dù từ Washington hay Sài gòn, đòi hỏi đầu tiên của giải pháp chính trị là việc ông Thiệu phải từ chức. Ở đây, tôi còn nhớ, khi tạm biệt ÐS Martin để lên đường đi công tác Washington ngày 15 tháng 4, tự nhiên ông hỏi tôi:

“Nhân tiện tôi muốn hỏi ông bao giờ thì Tổng Thống của ông từ chức?”

Hết sức ngạc nhiên: “Tôi không hiểu ông Ðại Sứ muốn nói gì cả!”, tôi đáp. Tôi để ý đây là lần đầu tiên thấy ông Martin dùng từ ngữ “Tổng Thống của ông” thay vì “Ông Tổng thống” hay là “Tổng thống Thiệu.” Tôi thông báo cho ông Thiệu ngay về câu hỏi trớ trêu này trước khi lên máy bay.

Hai ngày sau, 17 tháng 4, ông Martin đã đề nghị với Kissinger trong một công điện tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức (27):

“Nếu QH bỏ phiếu chống (viện trợ cho VNCH) thì địa vị ông Thiệu là hết rồi... Bởi vậy trừ khi có chỉ thị không đồng ý, tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông Thiệu và cho ông ta biết rõ rằng đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi với tư cách là người bạn chân thật. Sau khi suy nghĩ mọi đàng, tôi đã đi đến kết luận là chỗ đứng của ông ta trong lịch sử sẽ được bảo đảm hơn nếu xét tất cả những gì ông đã làm cho đất nước này. Nếu ông ta không chịu mà cứ tham quyền cố vị, thì cơ hội cuối cùng để cứu vãn miền Nam Việt Nam như một quốc gia còn chút tự do sẽ không còn nữa.”

“Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này. Có một cách rút lui êm đẹp và trang trọng nhất là tự ý ông từ chức, và nói cho đồng bào biết rằng ông phải làm như vậy để bảo vệ hiến pháp và để chính phủ kế vị có thể dễ dàng điều đình cứu vãn nước Việt Nam tự do...”

Kissinger đồng ý. Ông thuật lại là vào ngày 20 tháng 4 (21 tháng 4, Sài gòn), chỉ một ngày sau thông điệp của Ford gửi Brezhnev, và trong khi chờ đợi Nga Xô trả lời: “Ðại sứ Martin đã bắn tiếng cho ông Thiệu, khuyến cáo vị Tổng Thống VNCH nên từ chức. Ông Martin đã cố nói như đây chỉ là theo ý riêng cá nhân của ông, nhưng thực ra thì sự vận động này đã được TT Ford và tôi chấp thuận trước rồi” (28).

Theo Ðại tá Cầm, Chánh Văn Phòng TT, ông Martin đã đưa cho ông Thiệu xem những bản đồ về tình hình quân sự rất bi quan do CIA soạn để khuyến dụ ông Thiệu.

Ông Thiệu hỏi Martin: “Nếu tôi từ chức thì liệu viện trợ Mỹ có đến không?”

Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng cũng có thể.”

Trước khi ông Ðại sứ ra về, ông Thiệu hứa: “Tôi sẽ làm điều gì có lợi nhất cho nước tôi.”

Mọi việc dàn xếp vừa xong thì ông Ðại sứ lại nhận được một mật điện rất lạ do Kissinger gửi. Bây giờ Kissinger lại muốn hoãn việc ông Thiệu từ chức lại, có lẽ là để dùng việc này thương thuyết với phía Nga Sô (Hà Nội) và để lấy điểm là chính ông ta là người ép ông Thiệu từ chức. Nhưng ông Martin không chịu chơi cái trò bỉ ổi ấy nữa. Ðọc xong công điện, ông bực tức và gấp ngay nó lại: “Công điện đó được xếp ngay vào hồ sơ và tôi lờ đi, không thi hành” (29).

Ông Thiệu kể lại cho tôi (năm 1984) là ngày hôm sau khi gặp ông Martin, ông đã mời các tướng lãnh đến Dinh Ðộc Lập. Trong buổi họp, ông cho họ biết về những chuyện ÐS Martin đề cập tới. Ông Thiệu nói nếu các tướng lãnh cho ông là một chướng ngại vật cho hòa bình của đất nước thì ông sẽ từ chức. Không ai phát biểu gì cả. Thế là đã rõ họ không muốn ông ngồi lại ghế Tổng Thống nữa. Giữa lúc đó ông tuyên bố từ chức và để Phó TT Trần Văn Hương lên thay.

Họp xong, ông lên đài truyền hình thông báo quyết định từ chức. Lòng đầy cay đắng với đồng minh, ông đọc một bài diễn văn rất dài, tuy rời rạc, thiếu mạch lạc, nhưng căng thẳng và xúc động:

“Các ông để chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Ðó là một hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo. Ðó cũng là một lý do tại sao, khi phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi đã nói với họ rằng đây không còn phải là vấn đề 300 triệu nữa mà là vấn đề Hoa Kỳ có còn giữ lời hứa giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ nền độc lập và tự do của họ hay không?”

“Hoa Kỳ hãnh diện là một quốc gia bảo vệ đến cùng chánh nghĩa và lý tưởng tự do trên thế giới, và sẽ ăn mừng lễ Ðộc Lập năm thứ 200 vào năm tới. Tôi hỏi họ rằng: “Lời nói của Hoa Kỳ có còn giá trị gì nữa không? Những cam kết của Hoa Kỳ có còn hiệu lực không?”

“Ba trăm triệu không phải là món tiền lớn đối với các ông. Từ chối món tiền này, các ông còn muốn chúng tôi thắng Cộng sản hay ngăn chận làn sóng xâm lăng của Cộng sản - là công việc mà các ông đã không làm nổi trong suốt sáu năm trường với quân đội và chi phí khổng lồ của Hoa Kỳ. Thật là phi lý.”


Bắc Việt đổi ý đêm 27 tháng 4

Tại Sài gòn, theo Ðại sứ Martin, tuy là hồi tháng Ba, ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự, nhưng cả ông và Polgar không đặt nặng sự chính xác của bản tin này. Theo ông, lý do là vì cũng cùng một lúc đó, lại có thông tin từ phía đại diện của Mặt Trận Giải Phóng bên Âu châu, một từ Stockholm (Thụy Ðiển), và một từ Paris, cả hai đều cho biết rằng họ cũng muốn có một giải pháp chính trị (30). Ngoài ra, Martin còn suy luận, như đã trình bày ở trên, là chính Hà Nội cũng muốn một giải pháp chính trị để kết thúc một cách êm đẹp vì họ còn muốn nhận được viện trợ của quốc tế sau này.

Thế nhưng, theo ông, “Không hiểu vì một lý do nào đó, đêm ngày 27 tháng 4, Bắc Việt đã bất chợt thay đổi tín hiệu, quyết định chọn giải pháp hoàn toàn quân sự, và như vậy, giải pháp chính trị đã không còn nữa” (31). Về điểm này, chính Kissinger cũng đã xác nhận trong cuộc họp báo ngày 5 tháng 5, 1975 rằng cho tới ngày 27 tháng 4, Hoa Kỳ vẫn có nhiều hy vọng Hà Nội không định đi tới một chiến thắng hoàn toàn quân sự, và còn muốn điều đình với ông Dương Văn Minh (32).


Một chính phủ Thiệu không có Thiệu

Sau khi được trao quyền Tổng Thống, Ông Hương e ngại rằng vì ông đã là Phó Tổng Thống, nên người ta cho rằng bây giờ ông chỉ điều hành một chính phủ theo ý ông Thiệu. Ông liền yêu cầu Ðại sứ Martin nên cố vấn ông Thiệu ra ngoại quốc và dàn xếp giùm chuyến đi này (33). Sau đó ông Hương gọi cho ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Việt Nam, vì “Nếu không, Cộng sản sẽ nói tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu”(34).

Lúc đó có một cơ hội thuận tiện. Ðể cho việc ra đi được hợp pháp, ông Hương ký nghị định đề cử ông Thiệu làm đặc sứ VNCH đi Ðài Bắc phúng điếu Tổng Thống Tưởng Giới Thạch vừa qua đời ngày 5 tháng 4. Theo Frank Snepp, cả ông Minh cũng đã yêu cầu tướng Timmes tìm cách đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam (35).

Chiếc máy bay DC-6 dưới quyền sử dụng của Ðại sứ Hoa Kỳ từ Thái Lan bay qua Sài gòn trong đêm 25 tháng 4. Ông Polgar, trùm CIA ở Sài gòn và tướng Timmes gặp ông Thiệu và đoàn tùy tùng ở nhà Thủ Tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Polgar chuẩn bị ba chiếc công xa màu đen chở mọi người ra phi trường. Ðoàn xe lướt qua đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong của đồng minh gần phi trường, với ba hàng chữ nổi bật trên bảng: “Những hy sinh cao quý của các chiến sĩ Ðồng Minh sẽ không bao giờ bị quên lãng.” Ông Thiệu ngồi giữa ông Polgar và tướng Timmes. Nhìn thấy bảng, ông thở dài và quay mặt đi (36).

Ðoàn xe chạy vút về phía sân bay của hãng Air America. Ðại sứ Martin đã đợi sẵn ở đó để tiễn đưa. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin đã dàn xếp chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lễ:

“Thưa Tổng Thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn”(37).


Danh chính ngôn thuận

Ở phi trường về, Ðại sứ Martin, cùng với Ðại sứ Pháp Jean Marie Merillon, lại tiếp tục công việc sắp xếp giải pháp chính trị. Ông gửi cho ông Kissinger một điện văn cho biết vẫn còn có thể điều đình giữa chính phủ Sài gòn và Việt Cộng. Ngày 26 tháng 4, Kissinger gửi mật điện gạt đi liền:

“Ông Ðại sứ đã hiểu lầm ý kiến của tôi về các cuộc điều đình với Việt Cộng. Tôi đã không nói đến dàn xếp giữa chính phủ Sài gòn và Việt Cộng mà đến thương lượng giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng. Tôi muốn bất cứ cuộc thảo luận nào giữa HK và Việt Cộng cũng phải được diễn ra tại Paris.”

Vào giờ chót, Kissinger vẫn không muốn hai miền Bắc và Nam trực tiếp điều đình với nhau mà không có sự kiểm soát của ông (38).

Tổng Thống Hương mời tướng Dương Văn Minh lên làm Thủ Tướng trong chính phủ mới. Tướng Minh không chịu, nhất định đòi giữ chức Tổng Thống. Ông Thiệu kể lại cho tôi rằng: “Tôi đã đề nghị với cụ Hương nên mời tướng Trần Văn Ðôn để 'neutraliser' (vô hiệu hóa) ông Minh nhưng cụ Hương bị quá nhiều áp lực!”

Ông Minh chính thức lên giữ chức Tổng Thống chiều ngày 28 tháng 4 (sáng ngày 27 tháng 4, Washington). Việc đầu tiên ông làm là viết một công hàm cho Ðại sứ Martin. Văn bản được chuyển giao sáng ngày 29 tháng 4. Ông Kissinger bình luận về Ông Minh (39):

“Ông Minh giữ chức Tổng Thống được không tới 72 giờ, chỉ đủ để làm được hai việc quan trọng: Một là yêu cầu Hà nội ngưng chiến và thương thuyết chính trị - điều mà Hà nội đã từ chối thẳng thừng - và hai là, ngày 29 tháng 4 (28 tháng 4, giờ Washington, ông yêu cầu tất cả người Mỹ ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ.”

Mười năm sau ngày sụp đổ, Ðại sứ Martin cho tôi xem bản công hàm của Tổng Thống Minh. Tài liệu này có tính cách lịch sử vì nó là văn kiện cuối cùng của chính phủ VNCH gửi chính phủ Hoa Kỳ:

“Thưa Ông Ðại Sứ,

“Tôi trân trọng yêu cầu ông Ðại Sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề Hòa Bình Việt Nam sớm được giải quyết.”

Trân trọng kính chào Ông Ðại Sứ.

Sài gòn, ngày 28 tháng 4 năm 1975

Ðại Tướng Dương Văn Minh


Bình luận về thư này, Kissinger nói thẳng ra: “Vì lịch trình này trùng hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi, nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình” (40).

Nhận được thư, Ðại Sứ Martin vội vã gọi cô Eva Kim vào đánh thư trả lời TT Minh (41). Nhân dịp này, ông cũng yêu cầu phía quân đội VNCH giúp cho cuộc di tản người Mỹ được thực hiện an toàn. Và như vậy, nguy cơ “ra đi lại bắn nhau” đã không còn nữa.

“Kính thưa Tổng Thống,

“Tôi vừa nhận được thư của Ngài đề ngày 28 tháng 4 yêu cầu tôi ra chỉ thị ngay cho các nhân viên của Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ đồng hồ.

“Tôi xin thông báo để Ngài hay là tôi đã ra chỉ thị như Ngài yêu cầu. Tôi tin rằng Ngài sẽ ra lệnh cho quân đội của Chính phủ Ngài cộng tác bằng mọi cách để làm dễ dàng cho việc di chuyển các nhân viên DAO.

“Tôi cũng hy vọng Ngài sẽ can thiệp với phía bên kia (phía BV) để Tùy Viên Quốc Phòng và nhân viên của ông ta được ra đi an toàn và trật tự.”

Trân Trọng

Graham Martin

Ðại Sứ Hoa Kỳ


Câu cuối cùng chắc là để gợi ý khéo với ông Minh là từ lúc này ông đã có thể nói với phía Hà Nội là chính ông đã yêu cầu Mỹ rời khỏi Việt Nam cho dễ bề thương thuyết.

Nhưng yêu cầu như vậy là đã cho Mỹ cái ‘danh chính ngôn thuận’ để ra đi. Như Kissinger bình luận, thư ông Minh: “Ðã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình.”

Nếu bây giờ, ông Minh giúp cho Mỹ ra, thì mười hai năm về trước, ông cũng đã giúp cho Mỹ vào, khi ông lật đổ TT Diệm.

Lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, TT Minh ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng đầu hàng.

Miền Nam Việt Nam có hai nền Cộng Hòa, vô tình hay hữu ý, ông Minh đã trở nên người chấm dứt cả hai.

Bức thư của ông đã cho Mỹ cái ‘danh chính ngôn thuận’ một cách giả tạo: Mỹ bị yêu cầu ra đi chứ đâu có tháo chạy, đâu có phản bội! Giả tạo vì Mỹ đã và đang tháo chạy gần hết rồi. Vào giờ phút chót chỉ còn có một số vài chục người, gồm ông đại sứ và mấy nhân viên của cơ quan DAO: Họ cũng sắp được bốc đi vì đã có lệnh phải rút ra ngay.

Ðúng 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, tức là gần 24 giờ kể từ khi một sĩ quan trẻ tuổi phóng xe từ Dinh Ðộc Lập đến Tòa Ðại Sứ Mỹ trao thông điệp của Tổng Thống Minh cho Ðại sứ Martin, một chiếc trực thăng Chinook-46 đáp trên nóc tòa Ðại Sứ Mỹ để bốc đi số 11 vệ binh còn ở lại canh gác. Họ được hộ tống bằng sáu chiếc cobra có võ trang để bay ra khỏi không phận Việt Nam.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Hồi Ký nhà văn Phan Nhật Nam

Post by phu_de »

.

Những ngày cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ miền Nam Việt Nam là những ngày cực kỳ bi thảm cho nhiều gia đình sống từ Quảng Trị trở xuống.

Đã có nhiều bút ký viết về những chuyện đau lòng xảy ra tại Đà Nẵng, Ban Mê Thuộc, Phan Rang, Phước Long v.v… nhưng có lẽ bút ký được nhiều người tâm đắc nhất, có lẽ là bút ký chiến tranh của Phan Nhật Nam.

Bút ký là thể loại kể lại người thật, việc thật; không cường điệu, không hư cấu.

Theo lời yêu cầu của ban Việt ngữ, nhà văn, nhà báo quân đội Phan Nhật Nam đã kể lại những gì anh nghe và thấy trong những ngày cuối cùng dẫn đến ngày 30 tháng Tư năm 1975.


Chương trình nầy đã được phát sóng trên toàn cầu, kể cả Việt Nam
Mời quý vị lắng nghe



[ram]http://www.voanews.com/mediaassets/viet ... %20nam.mp3[/ram]

(File lớn 5.4MB, Nếu dùng modem 56K, xin download về máy để nghe không bị đứt quãng:

Ức Ký Phan Nhật Nam

.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: 30/4 Đen

Post by linhgia »

Tin Úc Châu

Những Điều Trông Thấy:

Tâm tình ngày Quốc Hận

Phạm Thanh Phương

Nói đến ngày Quốc Hận 30-4-1975, chắc chắn không ai có thể phủ nhận đó là ngày tang thương của toàn đất nước nói chung và miền Nam VN nói riêng. Cũng từ ngày đó, biết bao nhiêu thảm cảnh xẩy ra trên đại dương, trong rừng thẳm và ngay chính tại quê hương mình như một đêm dài vô tận.

Nhìn vào đất nước hôm nay, có một số người cho rằng, VC đã và đang thay đổi từ hình thức đến nội dung. Trên hình thức, không ai phủ nhận những xa hoa phù phiếm mà VC đã xây dựng được tại những thành phố lớn như khách sạn, phòng trà và những tụ điểm du hí để phục vụ khách du lịch. Nhưng bên trong cái lớp "thay đổi" ấy là cả một địa ngục trần gian đầy rẫy những băng hoại, khốn cùng của dân tộc. Từ những đói rách tang thương cho đến khủng bố lọc lừa đã đưa người dân lún sâu trong cái vũng lầy thối tha của thế kỷ. Thành trì cuối cùng để bảo vệ và phát triển đạo đức là tôn giáo, cũng đã và đang bị khủng bố, chính trị hoá, làm công cụ cho mưu đồ phát triển thú tính của Đảng và làm nhược đi ý thức cùng lòng tự hào của dân tộc. Còn lại, những nhà tu chân chính hoặc thành phần ý thức nhân bản, can đảm nói lên những khao khát quyền làm người đều đã trở thành "tội nhân" của cái gọi là "Thiên Đường XHCN". Tuy nhiên, cái đau đớn nhất của người dân VN còn ý thức dân tộc là sự nô lệ của tập đoàn CSVN trước kẻ thù truyền kiếp phương bắc, để đưa đến những uất nhục cho non sông.

Đã 75 năm qua, CSVN chỉ đóng một vai trò tôi tớ trung thành với Trung Cộng, để đưa đất nước vào lạc hậu, ngược dòng tiến hóa của nhân loại bằng những lừa bịp, khủng bố dã man. Giờ đây, một phần đất biển đã bị cắt xén và đẩy dân đi làm đầy tớ khắp thiên hạ với mỹ từ "xuất khẩu lao động". Ngay đến cái quyền làm người căn bản của người dân cũng đã bị tước đoạt một cách trắng trợn, những chữ tự do, dân chủ, nhân quyền đáng lẽ là một sự hiển nhiên phải có nơi tất cả mọi người trên thế giới, nhưng đối với 82 trtiệu người VN thì nó vẫn còn nằm co quắp trong viễn mộng.

Tổ Quốc, mây đen, hận ngút trời
Tự do dân chủ đọng đầu môi
Đất nước tan hoang, chìm uất nhục
Hờn căm trải rộng mãi ngàn khơi

Ngày nay, VC đang cố gắng thổi phồng những khẩu hiệu "dân chủ, tự do", mong qua mặt Quốc Tế để kiếm thêm cho nặng cái túi tham không đáy. Chúng đã và đang rêu rao chiêu bài "dân chủ độc đảng". Theo nhận định chung, trong những ngày sắp tới, chúng ta sẽ thấy có những cuộc bầu cử "dân chủ", nhưng chỉ trong nội bộ đảng, còn đối với người dân thì chẳng có gì thay đổi. Người dân vẫn không được quyền lựa chọn người lãnh đạo đất nước, không được quyền giám sát guồng máy nhà nước như các quốc gia tiến bộ trên thế giới và họ cũng không có quyền lên tiếng khi thấy những sai trái có hại đến quốc gia, dân tộc. Nhóm từ "đại đoàn kết dân tộc" chỉ là chiếc bánh vẽ mà CSVN xử dụng để lừa bịp. Theo kinh nghiệm chung, mỗi lần CSVN phát động chiêu bài "đại đoàn kết dân tộc" là một lần giăng bẫy, nhằm thủ tiêu những thành phần có tâm huyết với Quốc Dân.

Riêng đối với người Việt Hải Ngoại, sau ba mươi năm định cư và hội nhập, chúng ta đã có một cuộc sống tương đối sung túc kể cả vật chất lẫn tài nguyên trí tuệ. Chính vì vậy mà CSVN đã vội vã xóa bỏ nhóm từ "lũ phản quốc, bám chân đế quốc" và gán cho chúng ta một danh xưng rất "trân trọïng" là "Khúc ruột ngàn dặm". Ngoài ra, CSVN cũng mua chuộc những tên "khiếm khuyết lương tri" tại hải ngoại, tuyên truyền và len lỏi vào tất cả những cơ cấu Cộng Đồng, lũng loạn, gây phân hóa. Mặt khác, chúng chiêu dụ người Việt hải ngoại "khép lại qúa khứ", bắt tay với CS để cùng xây dựng Quê Hương. Tất cả không ngoài mục đích, triệt tiêu những nỗ lực đấu tranh đòi tự do dân chủ và nhân quyền cho 82 triệu đồng bào quốc nội.

Quốc loạn, nẩy sinh lũ cuồng si
Bất nhân, bất trí, lại bất nghì
Vô hậu, vô nhân cùng vô lại
Muôn đời lưu xú, tiếng thị phi

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày Quốc hận, chúng ta hãy đốt lên ngọn lửa của qúa khứ để soi sáng tương lai trong đấu tranh, bằng cách tham dự hai cuộc biểu tình tại Sydney và Canberra cho thật đông đảo. Đây là dịp để chúng ta nói lên ý chí và chính nghĩa. Nó cũng là lúc tốt nhất để vạch trần tội ác và âm mưu điếm đàng, dã man của CSVN trước dư luận Quốc Tế, hầu có thể làm hậu thuẫn cho các công cuộc tranh đấu của toàn dân một cách tích cực hơn trong mục tiêu giải thể chế độ CSVN. Bởi đây cũng là lúc CSVN đang nỗ lực lừa bịp Quốc Tế bằng chiêu bài tự do, dân chủ và nhân quyền, mở đường cho việc gia nhập khối Mậu Dịch Quốc Tế (WTO).
Sau cùng, trong hoàn cảnh chính trị phức tạp của hiện tại, lúc nào chúng ta cũng cần cảnh giác những phường vô lại "ăn cơm quốc gia thờ ma CS" đang lởn vởn chung quanh. Hãy nhìn vào chặng đường đấu tranh lâu dài của một người, đừng bao giờ vội vã cả tin vào những lời nói hoa mỹ nhất thời mà lầm lẫn để ân hận về sau. Cổ nhân thường nói "Thức lâu mới biết đêm dài. Ở lâu mới biết lòng người có nhân" là vậy.



Phạm Thanh Phương
Last edited by linhgia on Fri Apr 29, 2005 10:47 pm, edited 2 times in total.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: 30/4 Đen

Post by linhgia »

TƯỞNG NHỚ


Ngô Minh Hằng



(Nén hương lòng, kính dâng những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà
đã anh dũng hy sinh cho chính nghĩa, cho Tổ Quốc Việt Nam)


Lòng tôi, một nén hương, thành kính
Xin thắp và xin tưởng nhớ Người
Hỡi những Anh Hùng dân tộc Việt
Máu xương Anh hiến dựng xây đời

Vì yêu dân, nước nên Anh nhận
Trách nhiệm người trai buổi nhiễu nhương
Tôi cảm ơn Anh, tôi ngưỡng phục
Tấm lòng son sắt với quê hương!

Anh đem dũng cảm, đem kinh lược
Chiến đấu, Anh ngăn bước giặc thù
Nguy hiểm không sờn, không nhụt chí
Cho dầu gục ngã giữa âm u ...

Dakto, An Lộc hay Rừng Sát
Quảng Trị, Pleime hoặc Hạ Lào
Anh đã hào hùng trong chiến thắng
Hào hùng trong cả bước gian lao!

Từ bờ Bến Hải xuôi Đồng Tháp
Có dấu chân Anh khắp bốn vùng
Xương máu Anh trong từng mạch đất
Trong từng nhịp thở của non sông!

Hồn Anh hoà với hồn sông núi
Dẫu chẳng bia xanh, chẳng sử vàng
Nhưng đã muôn đơì dân tộc Việt
Nhớ ơn bồi đắp, giữ giang san!

Trong từng giọt nước, từng thân cỏ
Phảng phất như Anh đã mỉm cười
Có tháng Tư nào loang máu đỏ
Quê buồn như mắt lệ Anh rơi !!!

Tháng Tư, ôi tháng Tư oan nghiệt
Ai xé mà tan những mảnh đời
Những gói poncho không đất phủ
Những đau buồn muôn kiếp khôn nguôi

Tháng Tư, ôi tháng Tư đau xót
Có những người trai chết vội vàng
Và có những người không sống nhục
Chọn cho mình cái chết vinh quang!

Anh hy sinh thế vì dân, nước
Tôi biết ơn và thương tiếc anh
Anh, đã Anh Hùng dân tộc Việt
Cho dù hoang mộ có VÔ DANH !


Ngô Minh Hằng

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Mời quý vị xem lại 1 số hình cũ của tháng 4 đen

Tháng 4 đen (SlideShow)

.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Kissinger Đã Bán Đứng VNCH Qua Hòa Ước Paris 27-1-1973
Mường Giang


Mấy tháng trước, tiến sỹ Henry Kissinger, nguyên phụ tá an ninh quốc gia tòa Bạch Cung thời Tổng Thống Nixon, đã từ chối chức Chủ Tịch Uỷ Ban Điều Tra vụ khủng bố, đã làm sụp đổ hai tòa cao ốc thương mại tại Nữu Ước ngày 9-11-2001. Nguyên nhân có sự cố trên, là ông đã bị nhiều người tại nước Mỹ cũng như khắp thế giới, từng là nạn nhân do Hoa Kỳ phản bội, chống đối kịch liệt. Thậm chí nhiều tổ chức nhân quyền còn đòi lôi cổ tên đại bịp lừa đảo chính trị ra trước Tòa Án Quốc Tế, để đền tội đã làm cho nhiều chục triệu người Trung Đông và Đông Dương, tan nhà mất nước. Theo các sử gia cận đại, thì cái hệ lụy bi thảm mà Hoa Kỳ hứng chịu hôm nay khi phải đối đầu với Hồi giáo cực đoan, Iraq, Iran, Trung Cộng, Bắc Hàn..cũng như sự phản bội trắng trợn của các đồng minh trung thành lâu đời như Pháp, Đức, Arab Saudi, Thổ nhỉ Kỳ, Nam Hàn, Phi luật Tân, Nam Dương..phần lớn đều do chính sách sai lầm có chủ ý của Kissinger khi nắm quyền, hoàn toàn chỉ nghĩ tới Do Thái và bọn siêu quyền lực tư bản, thời nào cũng nắm quyền sinh sát nhân loại. Tóm lại người miền nam VN sau ngày 30-4-1975, vẫn luôn quy trách nhiệm một cách trung thực, về tội đã làm cho đất nước lâm cảnh cùng khốn và nhục hận như hôm nay, cho một số lãnh đạo VNCH gây ra, vì hèn kém, tham nhũng và ham sống sợ chết. Ngoài ra cũng không bao giờ quên được hai biến cố lớn, đã góp phần tạo nên chiến thắng cho CSBV, trong chiến tranh Đông Dương lần thứ ba 1955-1975, đó là hiệp định Genève 1954 và Ba Lê 1973. Cả hai đều giả mạo do ngoại bang dàn dựng trước cái gọi là tố chức Liên Hiệp Quốc, bất xứng vô thực. Đây mới chính là một trong những yếu tố then chốt, đã dẫn tới thảm kịch VN mà theo các sử gia , đều quy cho Kissinger, tội bán đứng VNCH cho cọng sản Bắc Việt, khi bằng đủ mọi cách ,dàn dựng lên một hiệp định hòa bình giả mạo, được ký ngày 27-1-1973 tại Ba Lê. Tất cả vở hài kịch trên từ đầu tới cuối chỉ do Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội tự soạn tự diễn mà không hề đếm xỉa tới dân tộc VN.

Sau năm 1975, tất cả âm mưu đen tối trên lần lượt bị lột trần ra ánh sáng, qua các tác phẩm do chính những nhân vật có liên hệ kể lại trong :" Bí mật Dinh Độc Lập của tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng", " Những lá thư của Tổng Thống Nixon gởi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu", " Tài liệu của Giáo Sư Stephen Young, chuyên gia tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ", " Hồ sơ mật của Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng trưởng Dân Vận Chiêu Hồi kiêm Bí Thư của TT.Thiệu" và mới nhất là tác phẩm " No peace no honor của Sử gia Larry Berman ".

Tất cả đều đồng thanh gay gắt lên án và luận tội Nixon-Kissinger, đã lường gạt cũng như phản bội dân chúng Hoa Kỳ và VNCH. Tuy nhiên xác thực hơn hết cũng vẫn là những lời tuyên bố huênh hoang sau năm 1975 của Lê Đức Thọ, Nguyễn thị Bình, Lưu văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ..và chính miệng Kissinger qua những hồi ký đã xuất bản như Năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) thế nhưng mai mỉa nhất vẫn là Bí Lục Kissinger (The Kissinger Transcripts), trong đó ngoài Đông Dương bị bán đứng, cả Liên Xô cũng là nạn nhân bi thảm trong canh bạc thời chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Trung-Nga. Ngày nay qua sự sụp đổ của chủ nghĩa cọng sản, mặt thật của Bắc Việt đang đô hộ VN và cái liêm sỉ của đống núi sách vở trong và ngoài nước viết về cuộc chiến VN, phần lớn nhắm mắt theo tài liệu tuyên truyền của Việt Cộng có sẵn khắp các thư viện quốc tế. Bao nhiêu đó cũng đủ cho ta thẩm định về tính chất phiến diện thiếu công bằng của một số trí thức có bằng cấp cao nhưng cạn kiệt hồn nước và tình người. Cũng từ đó để chúng ta, những người dân đen đến lúc phải tỉnh mộng, chấm dứt việc giao phó trách nhiệm đối với non nước và sinh mệnh mình cho bất cứ ai không xứng đáng và tín nhiệm, dù họ đang nhân danh bất cứ một thứ gì.

Càng nhớ càng thêm thê thảm tủi nhục cho chính bản thân mình, một dân tộc nhược tiểu, luôn bị bán đứng và dầy vò trong suốt thế kỷ, qua hai cái vỏ quốc gia rồi cọng sản. Hăm tám năm rồi nhưng không bao giờ quên được lời tuyên bố chát chua máu lệ của ông Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn ngay lúc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập, khi Dương văn Minh đầu hàng giặc: "Làm đồng minh với Mỹ chỉ có chết, tốt hơn nên làm bạn với cọng sản , ít ra còn được che chở và giúp đỡ ". Đây là lời cảnh tỉnh tha thiết nhất cho những ai còn muốn nhờ ngoại bang để quang phục đất nước.

NGƯỜI MỸ LÀM GÌ TẠI VNCH ?

Tuy chiến tranh đã kết thúc từ lâu và cọng sản Bắc Việt ngay từ ngày 1-5-1975 qua Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng...đã công khai xác nhận XÂM LƯỢC MIỀN NAM, còn Mặt Trận Giải Phóng chỉ là một phần Đảng Bộ Trung Ương nối dài, một thứ công cụ bịp để che mặt và đánh lừa bọn trí thức ngây thơ da vàng da trắng mà thôi. Thế nhưng đến nay vẩn còn nhiều người chưa chịu trả lại công lý cho người VN mỗi khi đề cập hay nhắc tới cuộc chiến đó. Thật ra đây cũng chỉ là một cách chạy tội của những người trước kia tay lở nhúng vào tội ác, hoặc cố ý hay vô tình khi đứng về phía cọng sản, thân thiện, giúp đỡ chúng một cách mù quáng, không cần biết tới lẽ phải và lương tâm. Do trên họ cứ tự mình tuỳ tiện áp đặt cho cuộc chiến đó, nhiều cái tên nghe qua thật khôi hài, cũng may đến nay không còn được mấy ai chấp nhận. Tóm lại, dù có gọi là cuộc chiến ủy nhiệm, nội chiến hay là chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc gì gì chăng nửa, thì đó cũng là một cuộc chiến xâm lược, do cọng sản quốc tế chủ động, nhằm nhuộm đỏ Đông Dường và Đông Nam Á. Cọng sản Hà Nội hay VC miền nam chỉ là kẻ thừa hành sứ mạng quốc tế trên, đã khiến dân chúng VNCH trở thành nạn nhân, phải đem máu xương ra chống lại để sống còn.


Từ đầu thế kỷ XX tới nay, Hoa Kỳ vẫn là một quốc gia vô địch. Chính Họ đã giúp đồng minh thắng phe trục qua hai cuộc thế chiến. Trong chiến tranh lạnh giữa khối tự do và cọng sản, Hoa Kỳ đã chiến thắng Liên Xô vẽ vang, giựt sập bức tường Bá Linh, giải thề Xô Viết, giải phóng Đông Âu và nhiều quốc gia cọng sản khác trong đó có Đông Đức , Nga La Tư vĩnh viễn thaót khỏi gông cùm đỏ trong mấy thập niên qua. Mới đây quân Mỹ như sấm sét, trong vòng không đầy một tháng, bình định xong A Phú Hãn và Iraq là hai cõi được coi như bất khả xâm phạm. Nhờ những chiến công trời biển này, ít ra hiện tại cũng đã làm Trung Cộng vỡ mật khi muốn làm trùm thế giới, làm bá chủ Á Châu và vua biển Thái Bình Dương. Nhưng tại VNCH thuở đó, Hoa Kỳ lại bị sa lầy dù thực tế tự chạy khi đã đạt được ba mục đích chiến lược quốc sách : Tạo được sự mâu thuân chia rẽ giữa Liên Xô-Trung Cộng, thành công trên chiến trường VN về sự thử thách vũ khí và quân đội với khối cọng sản quốc tế qua bộ đôi bắc việt và trên hết là ngăn chặn được Trung Công không cho tràn xuống Đông Nam Á ít nhất là lúc đó. Tóm lại người Mỹ tới VN lúc đó không phải để chiến đấu thật sự như họ đã làm tại hai cuộc thế chiến hay mới đây ở A Phú Hãn và Iraq, mà đến để nướng quân dụ địch. Tất cả những cái được gọi là Rules of Engagement hay là luật chiến đấu dành cho quân đội Hoa Kỳ tại VN và Nam Hàn.

Tài liệu này được giải mật một phần từ năm 1985 bởi Congressional record, nhờ đó ta mới biết được lý do tại sao quân đội Hoa Kỳ, Đồng Minh và QLVNCH bị Hoa Thịnh Đốn trói chặt tay khi đang chiến đấu. Bởi vậy cứ không tập, đổ bom liên tục xuống núi, xuống biển nên Hà Nội, Hải Phòng đâu có hề hấn gì củng như không thấy có bất cứ một cán bộ nào kể cả cán thấp tại xã huyện bị thương vong. Rõ ràng đây là một trò chơi mèo bắt chuột mà rõ ràng nhất là đợt Mỹ oanh tạc Bắc Việt lần cuối cùng, bằng B52 liên tiếp, khủng khiếp suốt 12 ngày đêm và chỉ cần thêm MỘT NGÀY là toàn bộ chóp bu Hà Nội trốn dưới hầm thép ra đầu hàng, giúp dân chúng VN ngày nay thoát được ách nô lệ cọng sản . Thế nhưng Hoa Kỳ đã ngưng và Bắc Việt đã ngoan ngoãn hối hả ngồi vào bàn nghị sự.

Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975 miền nam sắp mất, trong lúc Hoa Kỳ với một lực lượng hải quân hùng hậu có đầy máy bay và bom đạn, kể luôn bom nguyên tử, nếu muốn dù có Trung Cộng và Liên Sô can thiệp, vẫn thừa sức đánh tan bộ đội Bắc Việt trong chớp nhoáng để cứu QLVNCH. Mặt trận Xuân Lộc tháng 4-1975 là một thí dụ điển hình, chỉ cần thêm vài chục trái bom tiểu nguyên tử, tình hình chiến sự đã thay đổi nhưng Mỹ cho bom mà không viện trợ ngòi nổ, ba trái bỏ tại ngã ba Dầu Giây chỉ để mua thêm thời gian giúp người Mỹ chạy được an toàn thế thôi.Tóm lại, họ không bao giờ làm vậy và còn được lệnh di chuyển hết các mẫu hạm khỏi bờ đông hải. Đó là chiến thuật để thua vừa nuôi dưỡng chiến tranh sắp tới nên không thể bắt Hà Nội tan rã. Thế giới ghét cái trò lừa bịp của Hoa Kỳ, nên mặc dù đã nhìn rõ sự láo dóc tàn khốc của việt cộng nhưng cứ giả vờ nhắm mắt hoan hô cổ võ trò hề trên, làm hại cho một số người VN nhẹ dạ tưởng thiệt, lại cứ theo giặc, tiếp tay hãm hại đồng bào mình trong lúc khốn cùng.

Cũng vì vậy nên dù chiến tranh đã chấm dứt từ xa lắc nhưng VC chứng nào tật ấy, một mình một chợ, độc quyền thao túng lịch sử, dành quyền làm chủ đất nước, bịa đặt những huyền thoại vu vơ để làm dao động các thế hệ mới lớn, mục đích chạy trốn tội ác thiên cổ đã gây ra trong mấy chục năm máu lệ hận trường. Riêng Hoa Kỳ trong màn kịch giả bộ thua đau, đã không ngớt biện minh để tìm cách thoát ra cái hội chứng Vietnam syndrom, trong đó chính họ là kẻ phản bội và thủ phạm tấn tuồng trên là Nixon-Kissinger.

Một điều tàn nhẫn khác của người Mỹ, đó là sự vu cáo trắng trợn, đổ tội cho đồng minh hèn nhát không chịu chiến đấu nên phải mất nước. Thật sự trong giờ 25, nếu không có sự chiến đấu can trường của QLVNCH trên khắp các chiến địa, liệu một số người Mỹ , kể luôn ông Đại sứ có còn mạng thoát được Sài Gòn ?như vụ Ba Tư bắt con tin Mỹ năm 1983.

Ngày nay nhờ tài liệu mật từ văn khố của LX củ cũng như tại thư viện chiến tranh Hoa Kỳ ở Texas gọi tắt là ISAW, đã chấm dứt các huyền thoại dỏm của VC trong mấy chục năm qua, tốn công dàn dựng bóp méo và đưa ra ánh sáng rằng những xáo trộn chính trị tại VNCH, dù do ai cũng chỉ là cớ để Bắc Việt cưởng chiếm miền nam. Ý đồ trên, theo J.Race trong The lost revolution, đã manh nha từ năm 1958 khi Hà Nội ra lệnh khui lại các hầm vũ khí được chôn giấu tại miền nam trước khi tập kết, để trang bị cho cán binh cơ sở nằm vùng. Cũng trong năm này, Lê Duẩn theo lệnh Hồ đã lén lút vào Nam lượng giá tình hình và trở về bắc họp Trung ương đảng lần thứ 15, nghị quyết lập đảng bộ miền nam, tức là VC hay mặt trận giải phóng, tấn công VNCH bằng vũ trang. Chiến tranh được phát động chính thức bằng hai cuộc nổi loạn gọi là đồng khởi nhưng đã bị dập tắt ngay tại Trà Bồng (Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959 và Bến Tre ngày 17-1-1960.

Chính Thủ Tướng Nga Nikita Khrushchev đã phất ngọn cờ tiến quân ngày 6-1-1961 để mở màn cuộc chiến VN sau khi vở tuồng mặt trận trình diễn ra mắt tại một khu rừng già kế biên giới Việt Miên trong liên ranh hai tỉnh Hậu Nghĩa-Tây Ninh cuối tháng 12-1960 với nhân sự nòng cốt gồm hơn 25.000 cán binh từ bắc hồi kết.

Tháng 5-1962, Bộ Trưởng quốc phòng Hoa Kỳ thời Tông thống J.Kennedy là McNamara thăm viếng VNCH, cũng để mở màn cái thảm kịch chiến tranh phải thua, khiến hơn 60.000 quân nhân các cấp Hoa Kỳ, Úc,Tân Tây Lan, Nam Hàn,Phi, Thái và mấy triệu người VN cả hai miền nam bắc phải chết oan khiên trong bom đạn tàn bạo của một cuộc chiến bẩn thỉu có một không hai trong dòng sử nhân loại.

Ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đạo diễn biến cố lật đổ nhà Ngô, một mặt tạo sự vô chính phủ tại miền nam trong ba năm xáo trộn 1963-1967, vừa có cớ đem quân vào giúp đánh VC ổn định chính trị nhưng trên hết là thực hiện cái chiến lược, hy sinh con chốt VNCH để bắt nhốt con cọp ngủ Trung Cộng, rảnh tay tiêu diệt Liên Xô nhưng thả Hà Nội để lại tiếp tục làm con chốt thí mạng vời Tàu đỏ khi cần. Chiến tranh cứ thế leo thang, tại miền nam Mỹ thêm quân, giội bom oanh tạc, thì miền bắc càng nhận được thêm nhiều quân viện gạo vải từ khối cọng sản quốc tế, cũng như sự hiện diện của mấy trăm ngàn đồng chí Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba, Đông Đức..do Hồ lãnh tụ mời tới tham chiến, đóng đầy từ vỹ tuyến 20 ở Thanh Hóa cho tới biên giới Việt Hoa.

Ngày 4-9-1967 mở đầu nền đệ nhị cọng hòa cho tới ngày tàn cuộc 30-4-1975. Cũng từ đó QLVNCH trên khắp chiến trường trong nước cũng như tại Kampuchia và Hạ Lào, đã chứng tỏ cho thế giới là một đạo quân thiện chiến và có kỷ cương nhất vùng Đông Nam Á, qua các chiến thắng lừng lẫy trong Tết Mậu Thân 1968, vượt biên đánh thẳng vào căn cứ địa của R tại Kampuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971, mùa hè đỏ lửa 1972..tạo nên một niềm tin tất thắng trong lòng quân nhân các cấp, nhất là những sĩ quan chỉ huy trẻ tuổi trung cấp và tuyệt đai quân sĩ thanh niên dưới quyền. Thế nhưng giữa lúc chiến thắng gần kề thì cũng là lúc Kissinger công khai thái độ bán đứng đồng minh qua cái hiệp định quái đản ngày 27-1-1973.

Thì ra tất cả đều là xảo thuật, đóng kịch từ cuộc họp thượng đỉnh Midway ngày 8-6-1969 giữa Nixon-Nguyễn văn Thiệu với cam kết bảo vệ và quân viện cho VNCH..chỉ là lời hứa cuội trên văn bản. Thật sự Kissinger đã đi đêm với cọng sản Hà Nội từ khuya, để rút quân, lấy tù binh về nước. Để đạt được trò bịp trên, Hoa Kỳ dùng thủ đoạn chèn ép chính phủ VNCH bằng cái thòng lọng VIỆN TRỢ, chụp mũ làm mất chính nghĩa quốc gia của người miền nam, qua truyền thông truyền hình và hăm dọa ám sát thủ tiêu lãnh đạo nếu không chịu ký nhận cái hiệp định phi lý vô nhân đạo, mà VC đã đem liệng ngay vào thùng rác sau đó. Cái hài hước của lịch sử là ai cũng biết được mặt thật nhưng vẫn phải cắn răng nuốt lệ thi hành. Và cũng kể từ đó, người Mỹ hân hoan rút hết về nước, trước sự thắng cử vinh quang thêm một nhiệm kỳ của tổng thống Nixon. Bộ đội Bắc Việt thế chân Hoa Kỳ, công khai ở lại lãnh thổ độc lập tự do của người miền nam theo tinh thần hiệp định hai nước, hai chính thể ký năm 1954. Cũng qua sự toa rập ký kết từ trước, quốc hội Hoa Kỳ chấm dứt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH, đưa đến sự sụp đổ toàn diện của một quốc gia chỉ vì tin cậy vào sự giúp đỡ của đồng minh..vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975.

Trong suốt bao chục năm qua, cọng sản đã ký bao nhiêu hiệp định ngày 6-3 và 14-9-1946, 20-7-1954 rồi 27-1-1973 nhưng chẳng bao giờ thực hiện. Bởi vậy đừng tin những gì cọng sản nói mà hãy nhìn những gì chúng làm. Chí lý thay lời nhận định của cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu, vậy mà tới nay còn không ít người không chịu tin vào sự thật.


KISSINGER VÀ HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH GIẢ MẠO:

Cái khôi hài cười ra nước mắt của người Mỹ là ngay trong lúc một mặt đổ quân ào ạt vào nam VN năm 1965, cũng đồng thời bí mật đi đêm với Bắc Việt gọi là. mưu tìm một giải pháp hòa bình, chính Pháp và Tòa Thánh La Mã khởi động đầu tiên dàn xếp để hai phiá ngồi vào bàn hội nghi bàn chuyện ngưng bắn theo kế hoạch Mayflower nhưng bất thành. Ngày 17-6-1965, Anh và Liên Xô nhập cuộc, mở hội nghị 4 nước Anh-Ghana-Nigeria-Tobago với sự ủng hộ công khai của hai nghị sĩ dân chủ là Mike Mansfield và Fullbright, muốn Mỹ ngưng oanh tạc Hà Nội và ngược lại Bắc Việt ngừng chuyển bộ đội vào nam nhưng bị cọng sản bác bỏ vì lập trường đối nghịch của hai đàn anh Nga-Tàu. Tháng 7/1965 tổng thư ký LHQ là U Thant muốn mở lại hội nghị Geneve 1954. Tháng 10/1965 ngoại trưởng Ý là Amintore Fanfani và Giáo Hoàng Paul VI cũng nhập cuộc, bằng cách liên lạc thẳng với Hà Nội , Mặt Trận GPMN và Tổng Thống Johnson nhưng cũng bất thành vì Hồ đòi công nhận Ma mặt trân là một chánh phủ giống như VNCH. Tóm lại những kế hoạch kể trên đều khởi động nhịp nhàng theo các phong trào phản chiến tại nội địa Mỹ do Luther King, Hoffman,Larson xách động, biến các trường đại học Mỹ thành căn cứ du kích Bắc Việt ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ.

Chiến tranh dữ dội khắp VNCH nhịp nhàng với các biến động chính trị tại Huế-Sài Gòn. Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền bắc nhưng Hồ vẫn không nhượng bộ vì đang leo dây giữa Nga-Tàu, nên chỉ biết ậm ờ trước các đề nghị hòa bình. Tại Mỹ, ngày 20-2-1966, Robert F.Kennedy công khai đòi cho MT/GPMN tham gia chính phủ nhưng bị chống đối kịch liệt. U Thant và De Gaulle là hai nhân vật hung hăng nhất trong việc kêu gào phải hòa bình tức khắc tại VN bằng cách ngưng oanh tạc miền bắc, Mỹ rút quân và để MT/GPMN tham chính. Sở dĩ cả hai làm như vậy vì U Thant tuy là tổng thư ký LHQ nhưng lại thân cộng ra mặt, còn De Gaulle với dụng tâm đạo đức giả, thù Mỹ đã phỏng tay trên Đông Dương, nên nhỏ mọn trả thù vặt. Rốt cục cả thế giới lẩn Vatican đều trúng kế Hồ Chí Minh, càng lúc càng chia rẽ và phân hóa trầm trọng.

Năm 1967 phong trào phản chiến lên cao tại Hoa Kỳ làm phân hoá đảng dân chủ vì là mùa bầu cử, nên tổng thống Johnson tuyên bố trong cuộc hội nghi với TT Nguyễn văn Thiệu tại Guam, là sẽ thương thuyết thẳng với Bắc Việt .Tất cả chỉ là màn hỏa mù ngoại giao vì Mỹ và Hà Nội đã đi đêm từ cuối năm 1966, do sự dàn xếp của Thụy Điển nhưng phải đợi tới ngày 31/3/1968 khi Johnson tuyên bố không tái tranh cử và bộ đội của Bắc Việt cũng như VC bị tan nát tại miền nam trong trận tết mậu thân, cọng sản mới chính thức ngồi lại với Mỹ . Rồi Nixon thắng cử tống thống, Kissinger được giao trách nhiệm đi đêm với Lê Đức Thọ, tự quyết định số phận của VNCH, mà không cần đếm xỉa gì tới chủ quyền của miền nam lúc đó.
Theo giáo sư tiến sĩ Stephen Young, từng phục vụ nhiều năm trong bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì Kissinger, trưởng phái đoàn thương thuyết Mỹ đã bán đứng VNCH cho Bắc Việt khi chấp thuận cho Hà Nội được lưu giữ đạo quân xâm lăng ở miên nam VN.
Hậu quả tạo ưu thế quân sự cho địch cưỡng chiếm VNCH khi Hoa Kỳ rút toàn bộ quân lực về nước và cắt giảm quân viện năm 1973 rối cắt đứt năm 1975. Tổng thống Nixon ngay khi làm TT năm 1969 đã tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh, đem hết quân Mỹ về bằng một kế hoạch bí mật. Vấn đề chính là NVN chẳng hề biết tới kế hoạch đó là gì và nói là VN hóa chiến tranh nhưng QLVNCH tới đầu năm 1972 mới được cải tiến trang bị, trong lúc bộ đội miền bắc đã sử dụng những vũ khí cá nhân và cộng đồng tối tân của khối cộng từ khi Mỹ còn hiện diện.Năm 1972 Nixon đả đạt được những thỏa uớc lịch sử với Nga lẫn Trung Cộng. Chính điểm này để Nixon thắng Mc.Govern làm TT nhiệm kỳ 2.
Tuy nhiên việc oanh kích Hà Nội trong 12 ngày liên tiếp và thả mìn phong tỏa Hải Phòng, suýt làm Bắc Việt đầu hàng vô điều kiện, nếu không bị đảng dân chủ và phe phản chiến chống đối dữ dội. Giữa lúc TT Nixon trong tình thế khó xử, thì Kissinger đưa sáng kiến phản bội VNCH để đổi lấy sự ủng hộ của quốc Mỹ, trong việc làm thăng bằng cán cân chiến tranh lạnh, nói thẳng là giúp Do Thái đương đầu với khối Ả Rập. Do nhận thức sai lầm trên, đã khiến Kissinger thành kẻ chủ bại, hèn nhát, bất nhân đẩy VN vào định mệnh oan nghiệt. Thực tế còn gian ác hơn ta nghĩ, vì Kissinger chẳng những muốn Hoa Kỳ rut khỏi VN mà còn làm cho dân chúng Mỹ không còn nhớ tới cuộc chiến đó trong tiềm thức. Hậu quả cay nguyệt này khiến cho các quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại VN trở về bị đối xử tàn tệ, tẻ nhạt cho tới mấy năm sau này mới được hồi phục lại danh dự. Trong thâm tâm của Kissinger, đưa quân đội Mỹ về chưa đủ, mà phải làm sao thọc quốc hội cắt đứt mọi nguồn viện trợ cần thiết, thì mới chấm dứt được chế độ miền nam. Do trên ông ta tự đẻ ra sáng kiến riêng, chủ đích làm hỏng chương trình VN hoá của Nixon. Theo tài liệu của đại sứ Bunker, thì bí mật lớn nhất của Kissiger là sự xuống thang chiến tranh. Đây là sáng kiến tàn nhẫn nhất vì để đổi một thắng lợi ngoại giao cho Mỹ và VNCH, Kissinger cho lại Bắc Việt MỘT CHIẾN THẮNG QUÂN SỰ, tức là Y đã tiết lộ bí mật quốc phòng cho địch. Nhưng sự kiện này không bao giờ Kissinger dám nhận và chính trong hồi ký của TT. Nixon đã viết là chẳng bao giờ ông cho phép làm chuyện đó khi thương thuyết với Hà Nội. Tóm lại để kết thúc chến tranh VN theo ý mình, kissinger không bao giờ trình bày sự thật khi thương thuyết với Hà Nội, cho TT.Nixon biết.

Từ ngày 13-4-1971, Kissinger đã manh nha trò phản bội và lộng quyền, khi tự sử dụng đường dây nóng đặc biệt không qua Bộ Ngoại Giao và Tổng Thống Mỹ, để ra lệnh cho Đại Sứ Bunker và Bắc Việt. Theo các tài liệu lịch sử đã giải mật, những lộ đồ đề nghị hòa bình VN của các giới chức Mỹ từ tổng thống Nixon tới đại sứ Bunker hoàn toàn trái ngược với ý riêng của Kissinger. Theo bản dự thảo chiến lược chính thống, thì sự ký kết hòa bình chỉ xảy ra sau khi QLVNCH đạt được chiến thắng tại Hạ Lào qua cuộc hành quân Lam Sơn 719, phá vỡ toàn bộ các căn cứ hậu cần của Bắc Việt tại đây nhằm cắt đứt đường tiếp vận cho bộ đội miền bắc qua đường mòn Hồ chí Minh. Về rút quân thì bắt đầu năm 1971-1972, bộ binh về trước khi đã chứng thật rằng QLVNCH được VN hoá chiến tranh, đủ mạnh để thay thế quân lực Hoa Kỳ đương đầu với Bắc Việt. Riêng Không quân-Hải quân vẫn duy trì cho tới khi thấy Hà Nội thật sự tôn trọng hòa bình của Nam VN.
Một điều quan trọng nhất mà đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Bunker, mong muốn Hoa Thịnh Đốn phải chứng tỏ vai trò hợp hiên của CHÍNH PHỦ VNCH tại bàn hội nghị và cái sự Hoa Kỳ ngồi nói chuyện với Hà Nội đã là một nhượng bộ, vì rõ ràng lúc đó Bắc Việt đang thảm bại quân sự trên khắp các chiến trường, chiến dịch ở miền nam. Một sự kiện khác cũng không kém phần quan trọng tại Hoa Kỳ, là mặc dù bị đảng dân chủ đánh phá kịch liệt, đòi rút quân về tức khắc để đổi tù binh nhưng TT Nixon lúc đó, vẫn cương quyết không tiết lộ lộ trình triệt thoái và giữ nguyên ý định không giải kết với VNCH vì quyền lợi Mỹ. Theo các sử gia, nếu Kissinger thật sự là một nhà thương thuyết giỏi và có lương tâm, ông ta đã vượt qua được những sóng gío trùng trùng lúc đó, mang lại vinh dự cho nước Mỹ và công lý cho VNCH. Lịch sử đã chúng nhận điều này chỉ mới đây trong việc TTG.W.Bush trước khi tiến quân đánh Iraq. Nhưng Kissiger chỉ là một học giả chứ không phải là một nhà ngoại giao, một người Do Thái thuần tuý nên không hề biết tới quyền lợi và danh dự của Hoa Kỳ. Trước tiên, về việc cho phép BỘ ĐỘI BẮC VIỆT ở lại miền nam, Kampuchia, Lào. Đây là điều kiện tiên quyết để quân Mỹ rút quân thế nhưng Kissinger nơi trang 1488 đã tự sử lại la : " người VN và các dân tộc khác ở Đông Dương, sẽ tự thảo luận để tất cả quân đội ngoại nhập rút ra khỏi Đông Dương ". Như vậy muốn Hoa Kỳ ngưng oanh kích rút quân, mà không có một đòi hỏi gì cho đối phương, thậm chí còn cho chúng ở lại để tiếp tục làm giặc, thì thương thuyết để làm gì, cho nên sau này Hà Nội và thế giới khinh khi, cười chê Hoa Kỳ là vậy. Ngoài ra chẳng bao giờ Kissinger coi VNCH là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nên ông ta đã có cái nhìn là chỉ có Hà Nội mới đại diện để thương thuyết với Mỹ. Đây là một sự phản bội trắng trợn của lời cam kết từ các chính quyền Hoa Kỳ như TT. Kennedy, Johnson, Nixon.. luôn tuyên bố tôn trọng nền độc lập của quốc gia đồng minh. Tóm lại với luận điệu lừng khừng, chủ bại, đầu óc lắt léo.. Kissinger đi phó hội trong một tư thế hèn yếu, rẻ mạt, nên chỉ còn bán đứng VNCH mời mong lấy lại tù binh về.

Ngày 25-5-1971, để tránh bị thưa gởi vào phút chót, Kissinger đã điện thoại gạt Bunker là chương trình nghị sự sẽ theo đúng bản dự thảo của TT.Nixon và tòa đại sứ Mỹ-Sài Gòn.
Cũng do lòng tin tưởng trên, nên ngày 3-6-1971, Đại sứ Bunker đã tường trình với TT.Nguyễn văn Thiệu có Kissiger hiện diện, kết quả thương thuyết theo bản dự thảo của TT.Nixon và Toà đại sứ. Trong khi trình bày, Bunker xác quyết là BỘ ĐỘI BẮC VIỆT cùng rút về Bắc khi Quân Mỹ Hoa Kỳ triệt thoái. Việc tréo cẳng ngổng này cho thấy, TT Thiệu và Chính phủ VNCH hoàn toàn không được Hoa Kỳ cũng như Kissiger hỏi han hay cho biết một chút gì về vận mệnh tương lai của xứ sở mình. Trước sự kiện trên, Kissimger chẵng những không đính chính mà còn lợi dụng sự không biết gì, để ép TT Thiệu không được tiếp tục đòi hỏi ông ta, khi việc BỘ ĐỘI MIỀN BẮC đã được giải quyết. Tháng 10/1972 giai đoạn cuối cùng trong bàn hội nghị, Kissinger thay vì cố gắng đạt được những ưu thế cho HoaKỳ và đồng minh Nam VN, Kissinger lại tấn công tới tấp TT Nguyễn văn Thiệu và gọi đó là lý do chính trở ngại cho cuộc hoà đàm. Ngày nay dựa vào những tài liệu mật và ngay chính hồi ký của Kissiger, chúng ta mới thấu hiệu sự dối trá và bất lương của ông ta đối với VNCH. Đó là sự hiểu biết quá kém cỏi về lịch sử VN dù ông ta luôn tự hào về cái trường đại học luật khoa danh tiếng Havard nay chỉ còn là cái mốt thời thượng. Hèn nhát trước phong trào phản chiến do cọng sản quốc tế dàn dựng, Kissinger đã đánh mất sự thông minh của một nhà ngoại giao, qua mặt dân chúng và chính quyền Hoa Kỳ, phản bội đồng minh đang chiến đấu dũng liệt trước làn sóng đỏ.

Ngày 1-8-1972, trong cuộc họp mật, Hà Nội bảo với Kissinger là ngoài việc BỘ ĐỘi Ở LẠI, TT Thiệu phải từ chức để thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Từ tháng 8-1972, sự chống đối từ chính phủ VNCh đã lên tới cao điểm như không cần đếm xỉa tới thời hạn mà Kissinger ấn định, TT Thiệu không tiếp chuyện với TT.Nixon gọi từ Honolulu cũng như tuyên bố là sẽ không bao giờ từ chức, Chính phủ liên hiệp không bao giờ có..20-9-1972 sau chuyến thanh sát tại Quảng Trị điêu tàn đổ nát, vừa được QLVNCH chiếm lại, TT Thiệu về Sài Gòn tuyên bố " vận mệnh của DÂN TỘC VN phải do đồng bào VN quyết định " và ông đả tố cáo Kissinger chỉ biết tự mình quyết định tất cả mà không coi VNCH ra gì.

Ngày 19-10-1972, Kissinger, Bunker họp với TT Thiệu, PTT Hương và HD/ANQG. Theo các tài liệu ghi nhận, cuộc họp đầy căng thẳng và thái độ cuả TT.Thiệu khinh bỉ Kissinger ai cũng thấy rõ khi tuyên bố ông ta chỉ là một người trung gian không hơn không kém, quyết định hòa hay chiến là của Sài Gòn-Hà Nội, chứ không phải Hoa Kỳ. Phiên họp chấm dứt nhưng phút chót TT.Thiệu không biết vì một lý do nào đó, lại tin lời Kissinger là BỘ ĐỘI MIỀN BẮC phải rút nên ông ký nhận hiệp định. Một bí mật khác vô cùng quan trọng cũng vừa được ra ánh sáng, là khi biết được TT.Thiệu thà mất quyền chứ không để cho Hoa Kỳ qua Kissinger thao túng, uy tín chính phủ VNCH lại lên cao. Dân chúng miền nam hài lòng, Hạ Viện ủng hộ, các vị lãnh đạo Phật Giáo trong phong trào tranh đấu tuyên bố chấm dứt đem chính trị vào chùa chiền nhưng quan trọng nhất là tuyệt đại phật tử tuyên bố dù không đồng ý cá nhân TT.Thiệu, họ vẫn hợp tác với chính phủ để đạt được nền hòa bình thật sự cho miền nam độc lập, tự do. Tại Thượng Viện, ngoài 4 phiếu chống, số nghị sĩ còn lại ủng hộ kế hoạch hòa bình của chính phủ VNCH. Từ đó khắp nơi, kể cả Đà Nẳng biểu tình ủng hộ, chống lại sự thống trị của cọng sản.
Nhưng ngày 26-11-1972, Bunker chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng lại Hoa Kỳ thì VIỆN TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn giữ, phải KÝ KẾT.Để tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon ra lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Phòng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt một cách sấm sét dã mang, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó. Đến lúc này, thì TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa của Nixon trong mấy chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay bằng quân sự nếu Hà Nội phản thùng, tấn công VNCH.

Ngày 30-4-1975, Miền nam bị bức tử vì Kissinger, một tên trí thức xuẩn động ngây thơ, có đầu óc thực dân kiêu căng thời Trung cổ. Oâng ta vì muốn thoả mãn nhu cầu cho bọn siêu quyền lực mà phần lớn gốc Do Thái đang thao túng nước Mỹ và thế giới, cho lũ phản chiến đa số bị bệnh tâm thần vì đồng tình luyến ái, hút sách, ảo vọng , nên đã hại không biết bao nhiêu người đã chết, tan nhà, mất nước trong suốt hăm tám năm qua.


Trước khi vào Sài Gòn, Hà Nội đã soạn thảo một kế hoạch tắm máu VNCH như Polpot đã làm tại xưa Chùa Tháp, do Đổ Mười cùng các cán bộ trung kiên miền bắc (không có thân nhân tại miền nam) phụ trách như sau :

TQLC, BDQ (ám số VCA) tử hình không bịt mắt.
Cán bộ xã ấp, XDNT, chiêu hồi (ám số VDA) tử hình ngay.
Không quân, An ninh QD (ám số VAA) tử hình.
Cảnh sát, tình báo, Nhảy Dù, cán bộ Phượng Hoàng ( ám số VBA) tử hình, tước đoạt quyền sống của luôn vợ con.
SĐ trưởng, Trung Đoàn , Tiểu Đoàn (ám số VEA) tử hình.
Tỉnh, quận, xã trưởng ( ám số VFA) tử hình.
Trưởng Ty sở ( ám số VGA) lao động khổ sai chung thân.
Tóm lại Quân, công, cán, cảnh VNCH các cấp nếu không tử hình thì chung thân, kể luôn vợ con, gia đình liên hệ.

Tuy nhiên sau đó vì không dám trước khí thế miền nam, nên cọng sản thay đổi chính sách , thay vì tắm máu bằng học tập cải tạo, để giết dần mòn quân dân miền nam. Cũng từ đó, cọng sản mở nhà tù khắp nước, 36 tỉnh và thành phố có 193 khám đường và trại lao động khổ sai., 17 khám mang bí số AOI-HT 150-166, 35 trại cải tạo nằm trong rừng sâu núi cao mang bì số B-15 HT 6321-6389. Tại miền bắc có 17 trại tù lao động khổ sai mang bí số A20HTZC7340-7372 tại Lai Châu, Sơn La, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn,Cao Lạng, Bắc Thái, Quảng Ninh, Vĩnh Phú,Hà Sơn Bình, Hải Hưng,Hà Nam Ninh, Thanh Hoá,Nghệ Tĩnh và Bình trị Thiên.


Cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba 1955-1975 kết thúc là thế đó, hơn 60.000 quân nhân Mỹ và Đồng Minh bỏ mạng, nhiều người khác bị thương, một trăm năm mươi tỷ mỹ kim tiền thuế của dân chúng Mỹ , đổi lấy sự sụp đổ của VNCH bằng một hiệp định chẳng danh dự, do chính Kissinger đạt được. -/-


TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-văn kiện của UB Liên lạc phục hồi thể chế VNCH
-Bí mật Dinh Độc Lập của TS.Nguyễn Tấn Hưng
-Kissinger đã bán đứng VNCH cho Hà Nội của TS Stephen Young
-Không hòa bình, chẳng danh dự của Larry Berman, Nguyễn Mạnh Hùng dịch
Xóm Cồn 2004
Mường Giang

.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

CỰU NGOẠI TRƯỞNG TRẦN VĂN LẮM TIẾT LỘ VỀ HIỆP ĐỊNH PARIS VÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA VNCH
LÂM LỄ TRINH


Mổi năm khi tiết trời bắt đầu lập đông, ông bạn Trần Văn Lám thường rời tạm vài tháng ngôi nhà xinh xắn tại Elvire Place, Palmerston, Úc Đại Lợi để bay qua New York thăm gia đình trưởng nữ và đi đây đó viếng một số thân hữu và bạn đồng viện củ . Trong dịp tái ngộ lần chót tại Orange County đầu tháng giêng 1999, tác giả bài này được nguyên Ngoại trưởng và Chủ tịch Thượng Viện Việt Nam Cộng hoà , lúc đó 86 tuổi nhưng vẩn còn minh mẩn, cho biết nhiều chi tiết mới lạ về Hoà đàm Paris và trường hợp trao quyền cho Dương Văn Minh.

[1]Trong cương vị người đứng đầu ngành Ngọai giao và Lập pháp những năm chót của VNCH ,cụ Trấn .Văn .Lắm đã đóng một vai trò then chốt trong chính trường Miền Nam .Tóm lược sau đây những câu trả lời có ghi âm của Chủ tịch Lắm về một số điểm :

1- Hoà đàm Paris. Suy ngẩm về một sự phản trắc .

Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger phải vận động đôn đáo suốt ba năm trời, từ 25.3.1965 ( là ngày Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố sẳn sàng nói chuyện hoà bình với Bắc Việt) , mới tổ chức được cuộc họp mặt đầu tiên 10.5.1968 giữa Averell Harriman, đại diện Hoa kỳ,và Xuân Thủy , có Hà Văn Lâu phụ tá và Lê Đức Thọ cố vấn . Ông Trần Văn Lắm thay Trần Chánh Thành – cả hai thuộc Liên danh Bạch tượng tại Thượng viện – trong chức vụ Ngoại trưởng sau cuộc hội kiến Johnson – Thiệu tại Honolulu. Thọ thường eo xách khó dể và lắm lúc đối xử với Kissinger, theo lời của chính Kissinger, như “một thầy giáo nghiêm khắc rầy la đứa học trò kém khả năng”. [1][2] Kissinger, mặt khác, gây nhức đầu cho Chính phủ Sàigòn không ít. Ngày 21.10.1972, Tổng Thống Thiệu yêu cầu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm và Cố vấn tại Phủ Tổng thống Nguyễn Phú Đức nhóm riêng với Kissinger tại tư thất của ông Lắm tại 57 đường Hồng Thập Tự Sàigòn về vấn đề VNCH đòi Hànội rút binh khỏi Miền Nam đồng một lúc với Mỹ sau khi ban hành lệnh dình chiến tại chổ. Phiên họp thất bại vì hai bên bất đồng ý kiến. Trong lúc Kissinger chưa rời khỏi thủ đô Sàigòn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ độc thủ bằng cách tiết lộ với phóng viên Newsweek rằng Kissinger đã chấp nhận nguyên tắc lập tại Miền Nam “ một Chính phủ 3 thành phần : Việt Nam Cộng hoà, Mặt Trận Giải phóng Miền Nam và nhóm Trung lập” thay vì một Hội đồng Hoà Hợp Hoà Giải có tính cách hành chính như Kissinger đả từng nói với Thiệu.



Để chận đứng mưu toan của Kissinger xuyên tạc sự thực, Thiệu gởi Nguyễn Phú Đức cuối tháng 10. 1972 qua Phnom Penh, Bangkok, Vientiane va Jakarta, để giải thích quan điểm của Chính phủ Sàigòn. Bên cạnh phái đoàn Miền Nam do Đại sứ Phạm Đăng Lâm và Nguyễn Xuân Phong phụ trách, có một ban cố vấn gồm Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Luật sư Nguyễn Thị Vui (từng quen biết với Nguyễn Thị Bình), ,Gs Nguyễn Ngọc Huy, Đăïng Đức Khôi (rể của ông Lắm)....Vợ chồng ông Kỳ gây tai tiếng tại Paris với những lời tuyên bố bị báo giới quốc tế phê bình bất lợi. Phó Thủ tướøng Nguyễn Lưu Viên , anh rể của Nguyễn Phú Đức, là người có trách vụ thảo kế hoạch bầu cử tại Miền Nam với Chính phủ Cách Mạng Lâm thời của MTGP . Điều chua cay là kế hoạch này không được đối phương lưu ý thảo luận tại La Celle Saint Cloud .



Thường sau các phiên họp ở Paris, Nguyễn Thị Bình, trưởng phái đoàn MTGPMN, gặp riêng ông Lắm để trao đổi ý kiến . Bà Bình là cháu ngoại của cụ Phan Châu Trinh. Quen với ông Lắm từ trước thời chiến tranh. Bà Bình tỏ ra cởi mở nhưng về chính trị, không dám vượt qua chỉ thị của Lê Đức Thọ. Quê muà những ngày đầu, bà Bình lên tinh thần nhờ các báo và nhóm phản chiến Pháp ở Paris cổ vỏ và tiếp hơi . Bà lần hồi trang sức khá hơn trong các phiên họp kế tiếp và “ dùng cả nước hoa Chanel thơm phức” (Trần Văn Lắm nguyên văn!).



Ngày 27.1.1973, Ngoại trưởng Lắm bay trở qua Paris, đón Kissinger tại phi trường, cả hai về thẳng sứ quán VNCH và tại nơi đây, theo lời yêu cầu của Sàigòn, Kissinger tái xác nhận Hoa kỳ sẽ trả đủa nếu CS vi phạm Hiệp ước. Dinh Độc lập liền được phúc trình mọi việc. Với sự cho phép của TT Thiệu và Hội đồng An ninh, Ngoại trưởng Lắm ký Hiệp ước nhân danh VNCH vào ba bản tiếng Anh, Việt và Pháp.



Đầu tháng 4.1973, Nixon mời vợ chồng Thiệu – có Trần Văn Lắm và Nguyễn Phú Đức [1][3]tháp tùng - qua tư thất Casa Pacifica tại San Clemente, Californie, để vổ về an ủi. Không khí phản chiến sôi nổi không cho phép tiếp chính thức TT Thiệu ở Hoa Thịnh Đốn . Theo ông Lắm, Nixon chỉ cho biết lơ là “ cho có chuyện” vấn đề viện trợ còn tuỳ thuộc Quốc hội Mỹ định đọat. Tác giả bài này có hỏi từ lúc nào Ngoại trưởng Lắm mới biết Hoa kỳ bỏ rơi Miền Nam thì ông thở dài trả lời vắn tắc:” Mọi việc có thể đổi khác nếu không có vụ Watergate!”. Trùng hợp lạ kỳ thay, đây củng là câu phúc đáp của TT Thiệu ngày 24.4.1995 trong dịp nói chuyện với chúng tôi . Đi Mỹ về, ông Lắm từ chức Ngoại trưởng để tái ứng cử tại Thượng viện và sau đó, được bầu vào chức Chủ tịch. Cơ Trời sắp xếp hay...Chính trị sắp đặt?



2- Vài kỷ niệm về Miền Nam thất thủ.



Chủ tịch Trần Văn Lắm kể lại: Trung tuần tháng 3.1975, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, TT Thiệu có mời ông và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẫn vào Dinh Độc lập thông báo lệnh rút quân khỏi Cao nguyên “ vì địch quá mạnh và Hoa kỳ không chiụ oanh tac!” (lời Thiệu). Tại chiến trường Quảng trị, tướng Ngô Quang Trưởng than với ông Lắm rằng “pháo kích đối phương mà không đủ đạn dược là tự sát” vì lúc đó, CS binh đông hơn gắp bội và được vỏ trang hùng mạnh .



Gặp Chủ tịch Lắm trong một cuộc tiếp tân, sau khi Cao Nguyên và Miền Trung bị mất thảm hại, Tướng Westmoreland kéo ông Lắm vào một góc phòng, lắc đầu than:” Tôi chưa từng thấy một quân đội nào thối lui hổn lọan và không có kế hoạch như vậy!”. Cùng với Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện, ông Lắm đi Hoa Thịnh Đốn để thử vận động với Quốc hội lần chót. Những chính khách lúc trước bênh vực nhiệt liệt Miền Nam như Phó Tổng thống Nelson Rockkefeller, nghị sĩ Fullbright...đều tránh né và “ xem vấn đề Việt Nam thuộc về dỉ vảng”.



Tác giả bài này củng có hỏi Chủ tịch Lắm vì sao Đệ nhị Cộng hoà không rút kinh nghiệm nguy hại của chế độ Ngô Đình Diệm để tổ chức sau 1964, một khối áp lực lobby tại Hoa Thịnh Đốn với nhân lực và phương tiện sẳn có? . Ông Lắm giải thích miển cưởng: “ Giới cầm quyền ở nước mình quá nặng tình cảm”, ngụ ý họ (lầm) tưởng nói chuyện thẳng với Toà Bạch Ốc tức Tổng thống Hoa kỳ là đủø. Bất chấp ngành Lập pháp, Công luận và giới Truyền thông Mỹ. Quan niệm cục bộ này là nguồn gốc của sự lủng củng bang giao giữa Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn.



Điểm cần ghi là Quốc hội Hoa Kỳ không bao giờ có công khai tuyên chiến theo hiến định với Bắc Việt mặc dù trong suốt mấy chục năm chiến tranh, Quốc hội vẫn nhóm dài dài cấp ngân khoản để đánh giặc. Bởi thế một số “thức giả (cà chớn) ” tại xứ này đã không ngượng miệng cải rằng Hoa Kỳ .“không chính thức bại trận tại VN” (!) . Điểm khác là Toà Bạch ốc không có thông báo cho các ủy ban liên hệ và nhân viên Hội đồng Nội các Mỹ hay biết những điều mà Nixon và Ford cam kết riêng với Thiệu . Có lần TT Thiệu đã điềm nhiên nói với tác giả bài này :” Nếu không tin lời cam kết bằng miệng và được xác nhận bằng thơ riêng của Tổng thống Mỹ thì còn tin được ai?”. Sau hết, Hiệp ước Paris củng không hề được trình cho Thượng viện phê chuẩn theo luật. Đây là một trường hợp hi hữu và duy nhất trong lịch sử bang giao Hoa kỳ với một đồng minh . Một đồng minh từng được đềø cao là “ thành trì bảo vệ tự do ở Á châu”. Cay đắng thay cho VNCH ! Xấu hổ thay cho Đại cường lảnh tụ của Thế giới Dân chủ!



Lạ hơn nữa, khi Cố vấn Nguyễn Tiến Hưng đề nghị phổ biến rộng rải trong báo giới và chính quyền Mỹ xấp thỏ mật dày cộm trao đổi giữa Dinh Độc lập và Toà Bạch ốc để gây áp lực dư luận, ông Thiệu một mực từ chối:” Tôi không muốn bội ước bảo mật với các Tổng thống Mỹ . Tôi không muốn người Mỹ có prétexte để trỏ ngón tay vào mặt tôi!” [1][4]



3 – Câu chuyện bàn giao giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh.



Ngày 21.4.1975 – ông bạnï Trần Văn Lắm kể lại- Thiệu từ chức và Trần Văn Hương thay thế. Được hỏi về những áp lực khiến ông Trần Văn Hương rút lui và Quốc hội ngày 28 tháng tư sửa Hiến pháp để dâng chức Tổng thống cho Dương Văn Minh , chủ tịch Lắm cho biết: Quốc hội VNCH nhóm trong bối cảnh rối loạn để nghe Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn , Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hão và Tổng Giám đốc Cảnh sát Công an Nguyễn Khắc Bình tường trình về tình trạng quân sự ,an ninh và tài chính trong nước đang bị CS bao vây. Ba nhân vật này vẽ ra một bức tranh khẩn trương và tuyệt vọng. Nên ghi lại rằng tướng Trần Văn Đôn trước đó vài ngày đôn đáo vận động với Mỹ, Pháp, MTGPMN và CS Hànội để lập một Chính phủ hoà hợp hoà giải nhưng thất bại. Trong lúc Quốc hội thảo luận, các dân biểu em út của Dương Văn Minh như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức...ồn ào cổ vỏ cho người đàn anh. Đại sứ Graham Martin cho ông Lắm biết riêng “bên kia” (tức MTGPMN) không chấp nhận nói chuyện với một Chính phủ do Đôn hay Lắm cầm đầu . Ông Lắm cảm thấy,,,,”nhẹ nhỏm ”! (nguyên văn) . Đại sứ Pháp Mérillon ủng hộ Minh, thúc Quốc hội sớm biểu quyết, để tránh cho thủ đô Sàigòn khỏi bị “ bom đạn tiêu hủy”.



Sau khi Quốc hội bầu Dương Văn Minh vào ghế Tổng thống, Chủ tịch Lắm đích thân viếng cụ Hương cho hay kết quả để chuẩn bị diển văn bàn giao. Ông Hương viện lẻ yếu mệt nên sẽ chỉ “nói qua loa vài lời, không dài dòng văn tự” và phú cho ông Lắm lo các chi tiết. Trưởng ban Nghi lể Tôn Thất Ân phụ trách mọi việc. Chủ tịch Lắm liền đi gặp Dương Văn Minh tại biệt thự Hoa lan , đường Hồng Thập Tự. Ông ôn lại: “ Tôi đề nghị lể bàn giao cử hành 9 giờ sáng hôm sau. Tướng Minh bảo tôi đợi và bước qua phòng bên cạnh. Tôi thấy ông phụ nhĩ với hai cố vấn Mai Hữu Xuân và Lý Chánh Trung., xong trở ra nói vắn tắc :” Không được! 9 giờ sáng không tốt. Xin định vào 5 giờ rưởi chiều”. Ngày 29 tháng 4, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu viết thơ dục Graham Martin đóng cửa Toà Đại sứ Hoa kỳ và rời VN với kiều dân Mỹ trong 24 tiếng đồng hồ.



Được hỏi nghĩ gì về TT Thiệu trong giai đoạn hoà đàm, ông Lắm mỉm cười:” Xin cho tôi miển phê bình”. Về tin đồn CS mời Dương Văn Minh trở về VN và Dương Văn Minh tuyên bố sẳn sàng đấu tranh cho dân chủ, cụ Lắm nói:” Tôi quen với ông Minh hồi y còn là adjudant ở trường Tong ra, đến thăm tôi tại nhà đường Võ Tánh, Sàigòn. Trop paresseux! Thiếu văn hoá. Sẽ bị Hànội dùng làm ballon d’essai”. Về câu hỏi của chúng tôi “ Nghị sĩ Trần Văn Tuyên đề nghị giải pháp gì trong những ngày cuối cùng của Miền Nam, chủ tịch Lắm trả lời:” Tôi không biết vì không gần ông Tuyên nhiều. Ông Tuyên chống chế độ Thiệu và nặng về đảng phái”



Để kết thúc cuộc mạn đàm, cụ Trần Văn Lắm .có một mong nguyện thiết tha: “ Dân tộc Việt chân thành hoà giải hòa hợp trong tình thương và tha thứ. Nhưng không giải bằng súng đạn và hợp bằng thủù đoạn”. Ông tin rằng ở phiá “ bên kia”, mổi ngày có thêm đông những phần tử “ vở mộng, giác ngộ và hối cải” như Nguyễn Văn Trấn, người bạn học đồng lớp với ông tại trường Pétrus Ký và vẫn giử liên lạc sau 1975 cho đến khi qua đời.



Ngày 28.4.1975, cụ Lắm đến Toà Đại sứ Hoa kỳ tại Sàigòn và từ đó, được chuyển bằng tàu Pioneer Contender với gia đình cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đổ và hai nghị sĩ Đặng Văn Sung - Lê Văn Đồng qua Subic Bay, Phi luật tân.



Vì sao CS thắng chiến tranh nhưng sẽ thua hoà bình tại Việt Nam?


Tiếng súng đã ngưng 25 năm nhưng đến nay, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời thoả đáng: Vì sao có chiến tranh VN? Chiến tranh có cần thiết, có thể tránh được chăng? Lý do nào khiến Mỹ không thắng được? Chừng nào VN mới an bình, dân chủ và dân Việt mới hoà giải hoà hợp thực sự? Biện pháp để chấm dứt độc đảng tại VN ?..vv..và vv.. Ít nửa củng có hai điều thấy rỏ:



1- 1- Miền Nam thua vì lảnh đạo kém và bị Hoa kỳ chèn ép, bỏ rơi. Nam và Bắc Việt đều tuyên bố đấu tranh Độc Lập và Tự do cho đất nước nhưng mổi bên theo đường lối va ødựa vào thế lực khác nhau. Chế độ Sàigòn sụp đổ vì vọng ngoại và quá ỷ lại vào Hoa kỳ, đồng minh duy nhất trong khi Hànội biết xoay trở giữa hai đàn anh Nga – Tàu tranh chấp ảnh hưởng. Độc tài, chia rẻ và tham nhủng làm cho Miền Nam mất dần hậu thuẩn quần chúng. Tại Miền Bắc, với chính sách lộng ngôn và bịp bợm, Hồ Chí Minh đã đánh lừa lòng yêu nước của dân để đưa xứ sở vào quỷ đạo CS quốc tế. Về quân sự, Quân lực VNCH không thua kém bộ đội bắc Việt vì đã đẩy lui đối phương Tết Mậu Thân 1968 và trong các vụ tấn công Mùa Phục sinh năm 1972 tại Kontum, Quảng trị, Huế và An lộc khi Mỹ rút quân gần hết. Quân Miền Nam sau đó bị đồng minh đâm sau lưng và Tư lệnh tối cao của họ phản bội. Cách đây vài năm, gặp tướng Ngô Quang Trưởng ,tác giả bài này được ông xác nhận rằng vào tháng ba 1975, lực lượng của ta không yếu đến nổi cần tháo chạy gắp tại Miền Trung nhưng ông phải tuân lệnh của thượng cấp khi thì bảo cố thủ ,khi lại hối rút quân khỏi Huế [1][5].



2- 2- CS thắng nhờ chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng và tiêu hao. Nhưng họ đang thua vì không xây dựng được hoà bình, không thống nhất nhân tâm, đặt đảng trên đất nước, dùng chính sách ngu dân để cai trị, bóp chẹt tự do và càng ngày thêm hủ hoá. Đổi mới kinh tế chỉ để làm giàu cấp chỉ huy thay vì phục vụ đại chúng. Xin bang giao và giao thương với Hoa kỳ không ngoài mục tiêu này.



**********





Thập niên 60, tướng độc nhãn Moshe Dayan , nhà chiến thuật gia Do Thái, qua viếng Miên Nam VN . Khi trở về, báo chí hỏi cảm tưởng. Ông trả lời:” Bắc Việt sẽ thua chiến tranh ngày họ chiếm được Miền Nam”. Lời tiên tri này có vẻ sắp thành sự thực. Có một điều chắc chắn là Benjamin Franklin đã nói không sai:” Trong những chế độ xấu củng như ở các giòng sông, rác rưới nổi lên trên mặt ”. Con sông Việt Nam hiện bị ô nhiểm trầm trọng vì quốc nạn tham nhủng cộng sản.

LÂM LỄ TRINH
Thuỷ Hoa Trang
Huntington Beach, Californie

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Lời phi lộ: Bây giờ dã là tháng năm, bài viết này của nhà văn Nguyễn Thụy Long đến đây hơi muộn nhưng cũng xin được dán lên. Như một tấm lòng kính ngưỡng các người anh hùng nhà văn đã viết và cũng như một lời trân trọng tới cái ngon lành vô úy của nhà văn.

30 Tháng Tư


Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi người ta kỷ niệm ì xèo ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc, phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không, cũng ngày ấy cộng đồng người Việt trên thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau, ngày quốc hận, hay gì gì đó còn tùy. Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tư liệu về ngày hôm ấy, nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại trận ấy. Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại cải tạo, tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong, có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu quý giá, tôi đã dược xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất. Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con người Việt Nam đáng thương.


Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa 30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam. Tôi không có gì ca tụng về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo Sống bị giết chết lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới chạy ra được đến cửa biển Cần Giờ. Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày 30-4-1975), có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không, vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, vì ông mới qua đời. Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu Tử, nay cũng đã vắng bóng anh, một đàn em thân thiết như Đông con tuổi còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông Chu Tử để tưởng nhớ ông.


Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa VN”, kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng phái nào đó.
Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?


Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo, đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra lúc mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt, tôi không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy, với lời kết án thật mơ hồ. Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết. Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lạo là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đơàn Quyết Thắng này ở đâu. Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng, nên tôi cũng phải phì cười sau những trận đòn tra tấn thừa sống thiếu chết. Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị”. Một trung đoàn không có quân số, không doanh trại không có cả chiến khu kháng chiến. Bản lấy cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:

-Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao, tao biết ngay các anh độc lắm, lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.


Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới đưa lên trại học tập trên rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế. Chúng tôi ngắc ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong các trại tù. Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập. Nhiều lần đào cuốc trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối, nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân, bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông” thôi, chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn nghèo. Đồi nghĩa địa chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi. Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.
Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại. Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều được phép trở về thăm quê hương, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi quên chuyện cũ nên đóng góp tất cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang cai trị. Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng những Việt kiều trở về thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương, và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa yêu đảng cầm quyền.


Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em chúng tôi gọi là ngày “đứt phim”, từ ba giờ sáng một số trại viên có tay nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là gì đâu, sức lao động vị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được mấy năm. Mà nay phải thèm và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có quá không? Nhưng cũng không xa sự thật là mấy.


Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt, chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm của chúng tôi vào ngày ấy. Buổi trưa chúng tôi được ăn một chén cơm, miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn tiết canh mang lên nhà khung cho ban giám hiệu và thủ trưởng đon vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của đảng vô biên, không thể nói hết được.
Về phía các học viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống ấy,
không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30 tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối, phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch, phe thứ ba ăn ráo những gì được ban phát với lý luận: “Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta. Lý luận nào cũng đúng cả, không ai đụng chạm tới ai. Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện của anh, tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể các anh cải tạo chịu ăn cơm muối lắm,các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá thái độ ấy là sai hay đúng.


Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.


Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh. Và sau đó hàng loạt tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền. Tôi chắc chắn rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân”. Chính sử không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ. Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy, anh mù cõng anh què, anh đổ ruột vịn vai anh cụt tay họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát, suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được một tí ân huệ bố thí. Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm đau thương ấy, những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bi đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà, họ đi về đâu, mắt tôi nhìn thấy có những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù giắt anh què hát rong ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống, họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt này. Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên Biên Hòa. Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần 30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có người thân đã chôn xác ở đó, nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận. Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không, sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì cho phải đạo làm người, mồ mả còn không, tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm, nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai được quyến thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng”. Tôi chỉ mong muốn được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.


Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán báo. Không biết anh bán báo ở đó đã bao nhiêu năm.
Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vỉ sáng nay tôi đã mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:
- Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.
Tôi hỏi anh:
- Vậy tôi mua báo
- Vâng ông chọn tờ nào?
Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh ta, nói:
- Thôi anh khỏi phải thối lại.
- Vâng cám ơn ông.
Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh.
Anh ta nói:
- Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà
Tôi hỏi tiếp:
- Anh thuộc binh chủng nào hồi trước?
Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:
- Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long họ làm cho tôi hai cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán báo để sinh sống.

Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình nhưng khi tôi nói tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng, tôi không ngờ đã mấy chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân thành, tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy. Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này “cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ. bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá chán.Tôi nói với anh:
- Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.
Anh cười nhũn nhặn:
- Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi.

Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30 tháng Tư sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.

Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời, ghi nhận được đúng ngày hôm đó.
Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng, kẻ nào không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố, có những xác người dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.

Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ giấy, và anh “cách mạng" đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không nhiệt tình vẫy cờ chào đón anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái, ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy cẫng lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô tưng bừng. Thế cũng là quá đủ, tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà, ngoài kia những dòng người dầy đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn, họ không chịu tin vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.

Đầu xuân năm Ất Dậu 2005
Nguyễn Thụy Long

Dactrung
.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Thơ Bác Hồ

Post by linhgia »

Năm điều Bác Hồ dạy

Hai nghèo


Yêu tổ quốc giang sơn đem phá

Yêu đồng bào cải tạo chẳng tha

Học tập tốt giáo điều độc ác

Bắt lao động đa`o kinh phờ phạc

Rồi đoàn kết cắt cổ quần chúng

Mang kỷ luật đập đầu nhân dân

Giữ vệ sinh iả chùi bằng lá

Lòng khiêm tốn hạch sách muôn nhà

Tính thật thà tham nhũng, ba hoa

Còn dũng cảm ? …sợ Tàu dâng đất !

Hai nghèo

Post Reply