Chân Dung Bác Hồ

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chân Dung Bác Hồ

Post by linhgia »

Lãnh Tụ



Sơn Nghị

Thời loạn ly thường sinh những anh hùng. Họ xuất hiện giữa đám đông, làm những việc không ai dám làm hoặc không có khả năng làm. May mắn cho một dân tộc khi có những anh hùng như thế vươn lên đứng sừng sững giữa thời đại nhiễu nhương. Và thật bất hạnh nếu không có họ, vì dân tộc đó sẽ mãi mãi đắm chìm trong nỗi xót xa của một kiếp người.

Cuộc sống hàng ngày cũng sản sinh nhiều anh hùng. Có người xông vào đám cháy để cứu một em bé bị kẹt bên trong. Có kẻ bênh đỡ những người thế cô bị chèn ép, ức hiếp. Họ hành động và bất chấp hiểm nguy cho chính mạng sống mình. Anh hùng thời nào cũng thế, họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Anh hùng xuất hiện ở một thời điểm nhất định, giải quyết xong một mâu thuẫn, rồi lặng lẽ biến trôi theo dòng đời. Hành động anh hùng vẫn được mọi người nhắc nhở nhưng anh hùng thì không màng được gọi tên. Người đời ngưỡng mộ gọi họ là anh hùng vì chứ bản thân họ không hề nghĩ đến việc được phong vương nhận tước hoặc lời khen tặng. Chính tình trạng xã hội hoặc tình huống dầu sôi lửa bỏng xảy ra vào một thời điểm nhất định đã thúc đẩy họ phải làm một cái gì để thay đổi, đem lại một cái gì mới hơn, tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa cao cả nhất của nghĩa cử anh hùng.

Thời Bắc thuộc lần thứ nhất (111 trước TCGS - 39 sau TCGS), quan thái thú Tô Định nổi tiếng tàn ác, khiến lòng dân uất ức oán hận. Nhân vì thù chồng, Trưng Trắc và Trưng Nhị nổi dậy cầm quân đánh đuổi Tô Định quyết giành lại độc lập cho nước nhà thoát ách đô hộ của phương Bắc. Hai bà là vị nữ lưu anh hùng đầu tiên của nước Việt. Sau này vì thua quân Mã Viện nên hai bà đành phải nhảy xuống sông Hát giang trầm mình tự tận.

Khi làm xong những việc phi thường, người anh hùng âm thầm quay trở lại nếp sống bình thường nếu có cơ may còn sống sót. Nếu không, sẽ có những ngậm ngùi thương tiếc quyện với khói hương và những khuôn mặt nhạt nhòe nước mắt ẩn khuất sau tấm vải sô màu tang trắng.

Có ai xuôi vạn lý,
Nhắn đôi câu giúp nàng,
Lấy cây hương thật quý,
Thắp lên thương tiếc chàng...

Lê Thương (Hòn Vọng Phu)

Anh hùng đích thực chỉ có thế! Họ xuất hiện để kéo đám mây đen, trả lại cho nhân gian một ngày rực sáng. Hình ảnh dũng cảm của chàng trai áo vải Lam Sơn xông phá vòng vây ở rừng Chí Linh đánh dấu mười năm gian khổ, để bẻ gãy xiềng xích nô lệ của giặc Minh vẫn còn ghi đậm nét trong sử sách. Anh hùng luôn có những hành động anh hùng. Lê Lai chấp nhận hy sinh để cuộc khởi nghĩa còn có vị minh chủ chỉ huy, giữ lấy chính nghĩa. Cái chết của Lê Lai thật đơn giản; mặc áo ngự bào giả làm Lê Lợi để quân nhà Minh vây giết nhưng để lại một triều đại nhà Lê kéo dài đến 360 năm, đánh dấu một thời nước nhà độc lập. Quyết định tự vẫn để chết theo miền Nam của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam sau ngày mất nước cũng là một hành động anh hùng. Cái chết của ông luôn nằm trong tâm tưởng những người lính hy sinh một đời ôm súng bảo vệ quê hương.

Thuở xa xưa, nét phác họa của anh hùng là một chàng trai xếp bút nghiên theo việc kiếm cung, sẵn sàng lấy da ngựa bọc thây, với ý chí sắt đá xuống Đông Đông tĩnh lên Đoài Đoài tan. Chàng đứng hiên ngang, trầm mặc dưới bóng chiều tà, tay nắm chặt đốc kiếm, mắt đăm chiêu nhìn về phía chân trời, mong một ngày quê hương độc lập, hưởng thanh bình. Bóng chàng vẽ lên khung trời đỏ ối như dáng hình một phiến đá đen xám. Trông buồn nhưng thật bi tráng. Thời đại tân tiến này, ở thế kỷ 20 vừa qua và vẫn còn tiếp diễn sang thiên niên kỷ mới, lại có những lãnh tụ tự hào xưng tên nhập nhằng với hai chữ anh hùng.

Thật ra, lãnh tụ là một danh xưng thơm. Lãnh tụ là người đứng ra lãnh đạo một nhóm người, có thể vài người, có thể hàng trăm nghìn người để thực hiện một mục tiêu nào đó. Như Martin Luther King, Jr., vị mục sư da đen dùng phương pháp bất bạo động để tranh đấu quyền bình đẳng cho người da đen. Ngày 28/8/1963, hơn 250 nghìn người tụ họp tại thủ đô Washington, D.C., cùng nhau đi bộ đến điện Capitol để ủng hộ đạo luật bình đẳng (Civil Rights Act). Mục sư King bước đi lẫn trong đoàn người đông đảo, cùng nắm tay nhau, hát vang trên đường phố. Ngày hôm đó, ông bắt đầu bài diễn văn hùng hồn bằng câu: tôi có một giấc mơ. Giấc mơ bình dị của ông là muốn được mọi người bình đẳng, sống an bình trong một quốc gia phồn thịnh.

Không lãnh tụ nào mà không có ước mơ. Họ mơ ước nước nhà độc lập, có tự do và người dân hạnh phúc. Đó là giấc mơ lớn. Nhưng đôi khi lãnh tụ bắt đầu bằng một ước mơ thật bình thường.. cho riêng mình. Năm 1911, chàng trai Nguyễn Tất Thành xuống tàu Admiral Latouche-Tréville đi Tây để tìm kiếm tương lai. Vốn liếng tiếng Tây của chàng được dăm ba chữ, thế mà cũng cầy cục xin được chân làm việc dưới tàu để bôn ba sang Tây miễn phí. Tài xoay xở, khôn lanh của Nguyễn Tất Thành đã lộ ra ngay từ khi mới 19 tuổi (nếu năm sinh 1892 là đúng). Bức thư gửi cho Bộ trưởng Thuộc địa đề ngày 15/9/1911 nói rõ ước mơ của cậu con trai út của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Trong thư cậu nói thẳng là muốn được nhận vào trường thuộc địa để học thành tài phục vụ cho mẫu quốc. Ước mơ của Paul Thành thật đơn giản thế mà lại bị từ chối. Có thể vì lúc đó cậu vô danh tiểu tốt nên không được ai chú ý đến, trừ tên cai trên tàu Tréville nơi cậu giúp việc, hoặc ông Bộ trưởng có chuyện buồn nên chẳng hề đọc hết lá đơn, vung tay phóng bút gạch ngang một cái. Buồn cho cậu Thành lúc đó và khốn khổ cho dân tộc Việt kéo dài cả hơn nửa thế kỷ sau này. Chính vì bị từ chối nên cậu Thành dứt khoát đem hết tâm huyết học hỏi lý thuyết cộng sản, và đem du nhập vào đất nước nông nghiệp lạc hậu Việt Nam thời bấy giờ, mở đầu cho những trang sử kinh hoàng triền miên không hề thấy dấu chấm hết.

Thật không ngờ tiền đồ của dân tộc lại tùy thuộc vào một lá đơn con con gửi cho tên Bộ trưởng thực dân. Giá hôm đó ông Tây phê ngay cho tiếng “oui” thì đỡ cho hơn 80 triệu người dân biết mấy! Không chừng tiếng “oui” hôm đó lại biến một nước Việt Nam thành phú cường, thịnh vượng trong cộng đồng châu Á hôm nay; vì không bị họa cộng sản làm trì hoãn bước tiến của dân tộc. Cái vận mạng của con cháu Lạc Hồng quá xui xẻo nên ông “non, non” luôn miệng rồi xếp xó lá đơn.

Trở lại cuộc tranh đấu bình quyền của vị mục sư da đen Martin Luther King, Jr.. Khởi đầu từ cuộc đấu tranh bất bạo động, các sắc dân da màu gọi ông là lãnh tụ, và sau khi ông bị ám sát chết, người da đen gọi ông là anh hùng. Như thế có những anh hùng xứng đáng làm lãnh tụ, và ngược lại có những lãnh tụ bắt đầu sự nghiệp bằng những hành động anh hùng.

Nhưng cũng không thiếu những tay gian hùng trở thành lãnh tụ. Họ ngoi lên địa vị độc tôn bằng mưu mô quỷ quyệt; bằng máu của bạn bè đồng chí, và bằng nước mắt của rất nhiều người.

Tào Tháo là một tay gian hùng. Nghe ở đất Nhữ Nam có Hứa Thiệu nổi danh là biết người, Tháo đến hỏi vận mệnh tương lai. Thiệu trả lời:

- Thời trị, anh là bề tôi giỏi. Thời loạn, anh là kẻ gian hùng. Sau này, Tháo tiếm ngôi và trở thành “hoàng đế” nước Ngụy, mở đầu thế chân vạc chia đều nước Tàu với Lưu Bị của Thục và Tôn Quyền của Ngô. Nguyễn Tất Thành sau một thời gian bôn ba, học hỏi và say mê chủ thuyết cộng sản, trở về nước lập phong trào Việt Minh, cùng với các đảng phái khác quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp. Lúc này Nguyễn Tất Thành đã cải danh là Hồ Chí Minh sau nhiều lần thay đổi tên họ vì lý do an ninh, tránh mật thám Pháp. Có lần đi ngang đền thờ Trần Hưng Đạo (1213-1300), ông Hồ gật gù làm một bài thơ so sánh sự nghiệp đánh đuổi quân Mông Cổ của ngài và sự nghiệp chống quân Pháp của ông. Bài thơ mở đầu bằng câu: Bác anh hùng tôi cũng anh hùng..

Mặc dù ông Hồ lúc đó đã trở thành lãnh tụ nhưng không thể so sánh với sự nghiệp quân sự lẫy lừng của viên đại tướng đã từng đánh bại chúa tể miền đồng cỏ Thành Cát Tư Hãn. Trần Hưng Đạo là một vĩ nhân, ông Hồ cũng tự thấy mình xứng đáng là vĩ nhân nên gật gù vỗ vai viên đại tướng họ Trần, cảm khái bằng một bài thơ. Khẩu khí thật cao ngạo và hỗn, quá hỗn. Tôi không dám nghĩ cụ đồ nho Nguyễn Sinh Huy quên dạy cho cậu con út thế nào là Lễ trong lẽ cương thường của Nho bản nhưng tôi nghĩ đến lòng tự tôn tự đại đã bốc hào khí của ông đến tận mây xanh.

Ông Hồ lập lờ quên đi một sự kiện trong lịch sử nhân loại: gian hùng cũng trở thành lãnh tụ. Và ông đã cố tình lạm dụng từ ngữ anh hùng. Danh xưng “anh hùng” phải ở các ngôi vị khác, không thể ở ngôi thứ nhất số ít hoặc số nhiều. Một người có thể nói: “anh là anh hùng” nhưng không thể vỗ ngực tự khoe: “tôi là anh hùng”. Khi vỗ ngực tự xưng tụng, chính người đó đã đánh mất vẻ đẹp truyền thống của “anh hùng” vì đơn giản đó phải là một danh xưng ban tặng chứ không thể là một danh xưng chọn lựa. Và không gì hợm hĩnh cho bằng tự khen chính mình.

Đành rằng làm chính trị phải mưu mô quỷ quyệt, phải lừa đảo, phải gian manh nhưng kiểu làm chính trị của ông Hồ vẫn mang một sắc thái đỏ riêng biệt. Phải nói là đỏ vì nó dính máu của rất nhiều người. Năm 1940, ông bán đứng cụ Phan Bội Châu, một nhà cách mạng, cho mật thám Pháp ở Hương Cảng để lấy mười nghìn đô-la HK. Cái chết của cụ Huỳnh Thúc Kháng (bị máy bay Pháp bỏ bom) cũng là một bí ẩn. Và còn nhiều cái chết của các đồng chí khác đảng phái nhưng cùng một chí hướng đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập cho nước nhà.

Phong trào chống Pháp bừng bừng khí thế, nhất quyết đánh đuổi thực dân ra khỏi bờ cõi. Chưa bao giờ toàn dân lại cùng chung một lý tưởng đến thế. Người ta nghĩ đến một Hội nghị Bình Than của Trần Quốc Toản, một Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, một Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương. Bên cạnh Việt Minh, các đảng phái khác cũng sát cánh chiến đấu bên ông, thế nhưng ông không muốn chia sẻ vinh quang của một nước Việt Nam độc lập với một người nào khác. Vai trò lãnh tụ độc tôn của ông cần được đánh bóng cấp bách hơn bao giờ vì vai trò Nhật sắp bị cáo chung ở Á Châu khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt. Và đúng như ông mơ ước, ngày tuyên bố độc lập mùng 2-9-1945, chỉ một mình ông đứng ở quảng trường Ba-Đình, cất giọng hỏi đồng bào bằng một câu hết sức bình thường: đồng bào nghe tôi rõ không? Tôi không tin ông tình cờ hỏi đồng bào một câu như thế nhưng tôi tin chắc ông đã chuẩn bị kỹ càng từng chữ, từng lời nói, từng hành động... nhất nhất đều nằm trong kế hoạch huyền thoại hóa con người của ông. Vì thế, sau này người ta thấy ông thường cầm khăn tay màu đỏ, và lấy khăn chậm chậm nước mắt vì ông có thể khóc bất cứ lúc nào. Những giọt nước mắt ông rơi rớt trên khuôn mặt gân guốc, khắc khổ đáng lẽ nên khóc thương cho số phận hàng trăm nghìn người chết oan trong cuộc cải cách ruộng đất thì hơn.

Ở chốn đông người, nhất là những lúc quay phim, ông thận trọng về cách ăn mặc - thường một màu chàm giản dị - ngay cả đến đôi dép râu làm bằng vỏ lốp của ông cũng không nằm ngoài kế hoạch bình dị hóa hình ảnh một vị Chủ tịch có nhiều tham vọng, đôi khi cuồng vọng. Vì thế người ta không lạ gì có thật nhiều huyền thoại thêu dệt chung quanh hình ảnh một ông già râu bạc trắng, đôi mắt sáng, trán cao, vươn mình đứng lớn hơn mọi vĩ nhân của nước Việt. Khi một nhân vật có quá nhiều huyền thoại, lẽ tất nhiên mặt trái của “vĩ nhân” rất khó bị lộ tẩy. Vậy mà mặt trái của ông Hồ vẫn bị lộ tẩy theo thời gian. Và đây là một trong những góc cạnh chân thực nhất của bản chất ông Hồ.

Hãy tưởng tượng đến một ông già ngồi ở căn nhà gọi là Phủ Chủ tịch, khoan thai đốt một điếu thuốc Dunhill, loại thượng hạng của Anh. Ngòi bút của ông phóng xuống mặt giấy, chỉ một loáng là có ngay phần phi lộ của cuốn sách nổi tiếng: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” như thế này; nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc đến thân thế của mình. Ông thở ra một hơi khói, đọc lại hàng chữ, mỉm cười gật gù thỏa mãn. Nhưng rồi trán ông cau lại, tỏ vẻ chưa vừa ý. Ngòi bút phóng vội xuống mặt giấy, ông có ngay một đoạn phi lộ nữa; một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của người được?

Mặc dù ông già viết không muốn nhắc đến thân thế của Hồ Chí Minh, nhưng sau đó toàn bộ cuốn sách đều nói đến thân thế sự nghiệp của vị Chủ tịch qua lối phỏng vấn. Ở trang cuối của cuốn sách, ông già ký tên Trần Dân Tiên.

Và ông già ngồi viết những dòng chữ “khiêm tốn” đó không ai khác hơn là ông Hồ. Vâng, chính ông. Ông tự thuật nhưng lại ký bút hiệu nên ai cũng nghĩ cái khách quan của anh nhà báo Trần Dân Tiên. Ngay khi cuốn sách phát hành năm 1948, và nhiều lần sau này, huyền thoại lại càng có dịp vây bủa quanh hình ảnh ông như một đám mây dày đặc. Các chính khách khi về hưu thường viết hồi ký, chuyện đó hiển nhiên. Viết hồi ký chỉ nói đến cái hay của mình và phớt lờ những khuyết điểm đã vấp, điều đó cũng dễ hiểu nữa vì ít ai có can đảm soi bóng mình trong gương. Nhưng lối viết “khiêm tốn” của ông Hồ quả thật có một không hai, không một nhà lãnh tụ nào trên thế gian này có thể nghĩ đến. Tự cổ chí kim chưa có một ai, từ nay về sau có lẽ cũng không thấy một người.

Cái gian hùng của ông Hồ thật hiếm có, có lẽ Tào Tháo phải chào thua, Hitler cũng phải lắc đầu khâm phục. Và chính vì sợ cái gian hùng của ông mà cha mẹ tôi đành phải bỏ mồ mả tổ tiên di cư vào Nam năm 1954. Thế hệ chúng tôi sinh ra trong khung cảnh cha mẹ bồng bế dắt díu con cái, gạt nước mắt bước lên tàu há mồm ra đi. Chúng tôi lại lớn lên trong một cuộc chiến Nam Bắc tương tàn, và rồi sau năm 1975 cũng sợ cái gian hùng của đám lãnh tụ đàn em ông nên đành phải tha phương cầu thực ở xứ người, bỏ lại một nước Việt đầy dẫy hình ảnh ông Hồ qua những hình tượng bán thân đắp nổi, bức hoành tráng treo trong đại sảnh, chân dung lồng khung gỗ trong mọi căn nhà, tượng toàn thân dựng sừng sững ở các công viên.

Saddam Hussein rất giống ông Hồ ở điểm này. Hình ảnh của Saddam được dựng lên khắp toàn cõi nước Iraq: đúc đồng, vẽ tranh, khắc gỗ. Stalin - thần tượng của Saddam - cũng không thoát khỏi căn bệnh tự suy tôn. Một bức tượng toàn thân của Stalin dựng bên bờ sông Volga to lớn đến nỗi chỉ mỗi cái mũ nằm ngửa ông cầm trên tay đủ để lọt 3 chiếc xe hơi. Nghệ thuật đánh bóng lãnh tụ trở thành một căn bệnh liệt kháng trong các chế độ độc tài. Nếu Saddam tự xưng là “cha của dân tộc” (father of the nation) thì ông Hồ cũng tự phong cho mình cái tên tương tự: “cha già của dân tộc”. Ông khôn ngoan thêm chữ “già” vào danh xưng cho trang trọng. Một thời người miền Bắc không ai được dùng chữ “bác” để xưng hô trong sinh hoạt hàng ngày, và chữ “bác” trân quý này chỉ được dùng riêng cho ông Hồ, mặc dù lúc đó ông mới 55 tuổi. Kim Nhật Thành, một vị “cha già của dân tộc” khác của Bắc Hàn cũng mắc cùng một căn bệnh kinh niên. Ở đường phố Bắc Hàn, người ta chỉ thấy hình ảnh của vị lãnh tụ họ Kim nhan nhản khắp đường phố, in hệt như hình ảnh ông Hồ ở nước Việt Nam khốn khổ. Những bài ca suy tôn, có những lời ca tụng chói tai nghe đến xấu hổ vẫn vang vang trong khắp hang cùng ngõ hẻm. Các trẻ em thiếu dinh dưỡng mỗi ngày vẫn tập đi đứng diễu hành trước bức tượng của vị lãnh tụ họ Kim, miệng không ngớt la to những khẩu hiệu chống đế quốc tư bản. Ông Kim không hề đếm xỉa gì đến hàng triệu đồng bào ruột ruột thịt của ông xanh xao, gầy còm, hàng ngày bị cơn đói hành hạ; thậm chí có người phải ăn cỏ rồi chết, trong khi khuôn mặt của vị lãnh tụ vẫn hồng hào, mỡ chảy quyện thành nọng vấn quanh cổ...

Khuôn mặt ông Hồ cũng vậy, phương phi, hồng hào, chỉ khác với lãnh tụ Mao và Kim là không có nọng.

Bác Hồ cùng với bác Tôn,
Hai bác rất thích ôm hôn nhi đồng
Khuôn mặt hai bác thì hồng,
Khuôn mặt các cháu nhi đồng thì xanh
Giữa hai cái mặt bành bành,
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.

Bất cứ đất nước nào có những lãnh tụ đánh bóng mình thái quá đều lạc hậu, nghèo nàn, bước chân rùa trên con đường dẫn nước nhà đến ấm no, hạnh phúc. Họ sống trong mộng tưởng chính họ là “vĩ nhân” duy nhất của đất nước và mỗi ngày đứng chiêm ngưỡng bóng mình trong gương, họ tự ban những danh hiệu không tưởng, tự phong những tước hiệu hão huyền. Từ đó sinh ra độc tôn và độc tài.

Đất nước Iraq bị họa lãnh tụ độc tôn ngay từ ngày đầu khi Saddam lên nắm chính quyền, năm 1979. Saddam xây dựng ngai vàng bằng cách khủng bố, ám sát theo đúng chính sách của các lãnh tụ cộng sản. Ngay chính con rể, Saddam cũng không tha. Cái giá đem vợ con đào tẩu là cái chết. Ông dứt khoát bắt đứa con gái phải chịu cảnh góa bụa, và không hiểu khi đứa cháu ngoại lớn lên nghĩ gì về ông ngoại, người đã nhẫn tâm giết bố mình? Và người ta cũng không lạ gì khi Saddam luôn gối đầu cuốn sách về những bài viết của Stalin, người đã đày ít nhất 7 triệu người Nga vào các gulags trong vùng sa mạc tuyết Siberia mênh mông, ở đó nhiệt độ luôn luôn dưới không độ. Vì thế hiếm thấy ai trở về từ vùng đất hoang vu lạnh lẽo chết người đó.

Lãnh tụ cần phải có trái tim bằng sắt. Nước mắt thật hiếm hoi rơi rớt trên những khuôn mặt lạnh lùng, không hề biết thương xót. Theo bản tin Reuters ngày 18/3/2003 của Alan Elsner và Nadim Ladki, 60% của 24 triệu dân Iraq (14.4 triệu) hiện đang sống nhờ vào lương thực tiếp tế của Liên Hiệp Quốc, hàng ngày. Con dân khổ cực đến vậy mà Saddam vẫn sống xa hoa trong chín biệt thự, nghe đâu mọi đồ vật trong nhà đều mạ vàng. Thằng con trưởng Uday cũng sống xa hoa không kém. Một mình cậu làm chủ mấy chiếc Roll-Royce, giá cỡ 250 nghìn một chiếc. Thế mà hơn một nửa dân số Iraq mỗi đêm đi ngủ với cái bụng lép kẹp, da liền lưng. Từ lãnh tụ đến con lãnh tụ đều hưởng thụ trên xương máu người dân như nhau. Cứ ngỡ chuyện xảy ra ở một thời đại tiền sử xa xăm nào đó, chứ không ngờ những chuyện đau thương như thế vẫn đang tiếp diễn xảy ra trong bối cảnh của một thế giới văn minh hiện nay.

Đêm 20/3/2003, đặc phái viên đài truyền hình ABC, phỏng vấn hai nhân vật có một thời gần gũi với Uday; một là vệ sĩ, một là hóa thân (double body) của thằng con trưởng. Cả hai hiện đang sống lưu vong ở Anh. Họ cho biết Uday có thú tiêu khiển (hobby) thật lạ lùng, đó là hiếp dâm. Bệnh hoạn hơn nữa, hắn còn quay phim cảnh hiếp dâm rồi gửi cho chồng của người đàn bà xấu số; một hình thức tỏ uy quyền tuyệt đối của thái tử Uday, người chắc chắn sẽ kế vị Saddam để cai trị xứ Ba Tư ngàn đêm lẻ.

Ở nước Việt Nam hiện nay cũng có những ông trời con hống hách như thế; không ai khác hơn là con của những lãnh tụ, một thời là đàn em ông Hồ. Những “thái tử” này vừa giàu có, vừa có uy quyền tuyệt đối, tiêu tiền không hề chép miệng. Một người bạn của tôi quê ở Long-An vừa về thăm nhà cho biết, công ruộng một ngày đáng giá 15 nghìn, nghĩa là được một đô-la. Nói rõ thêm định nghĩa của một ngày công ruộng là phải làm từ sáng đến chiều, dầm sương dãi nắng, chân lấm tay bùn, mồ hôi ướt đẫm. Trong khi các cậu ấm chỉ một đêm thôi, ngồi vung tiền ở các hộp đêm cho các em gái nhảy có thể lên đến cả nghìn đô-la; vì chỉ riêng chai rượu SOP cậu vừa uống vừa đổ đã ngốn mất 250 đô, bằng sức lao động gần cả năm của một người. Đây là sự thật đau xót xảy ra mỗi ngày ở Việt Nam. Chưa bao giờ trong lịch sử nước Việt cái khoảng cách giữa các lãnh tụ và con dân lại cách biệt đến thế. Nó còn biểu hiện cái khoảng cách của tình người, của lương tâm và tri thức.

Số tiền mà những “khúc ruột ngàn dậm” gửi về hàng năm lên đến cả tỷ bạc. Theo báo cáo của Bộ Tài chánh Hoa Kỳ, năm 2002 Việt kiều đã gửi về 2 tỷ 4, năm trước là 2 tỷ 2. Đây là số tiền chính quyền kiểm soát được, còn nếu kể những đồng bạc xanh gói kỹ giấu trong ruột tượng, hoặc gửi lén lút thì số tiền đổ về nước phải gấp rưỡi mới đúng. Làm một con toán nhỏ, cứ tính khoảng 70%-80% tổng số tiền lọt vào tay các lãnh tụ thì con số đã ngót nghét 2 tỷ. Thảo nào các công tử Bạc Liêu tân thời cứ việc vung tiền tiêu pha cho thỏa thích.

Để biết thêm gia tài các cậu ấm hiện nay ra sao, xin trích dẫn tin tức của một tờ báo (tôi quên mất tên):

- Cậu ấm Võ Nam, con trai riêng của ông Kiệt với bà Hồ Thị Minh làm áp phe cho các công ty xây dựng nước ngoài, kiếm trên 30 triệu USD.

- Cậu ấm Phương, con rể ông Đỗ Mười, hiện nay là tay mánh mung nổi tiếng nhất nước, gia tài cậu có lẽ chỉ kém bà Phan Lương Cầm, vợ ông Võ Văn Kiệt.

- Cậu ấm Hoàn Ty, con trai ông Phan Văn Khải, ăn chơi, đàng điếm, dính líu vào cả một vụ giết người, phá của thẳng tay, có những đêm đánh bạc thua vài chục nghìn đô, nhưng vẫn giàu sụ, làm chủ nhiều khách sạn, trong đó có hai khách sạn Hoàng Gia và Planet.

- Cậu ấm Quang, con ông phó thủ tướng Ngô Xuân Lộc, nhờ thế lực cha mấy năm nay đã khá lắm nhờ áp phe xây cất. Cậu đã có vài triệu đô, sự nghiệp chỉ mới bắt đầu.

- Cậu ấm Vịnh, ông ấm Vịnh thì đúng hơn vì đã ngoài 40, con cựu đại tướng Nguyễn Chí Thanh, hiện làm giám đốc công ty du lịch TOSECO của quân đội, chuyên môn bán súng, lấy từ kho quân đội, cho bọn mafia quốc tế. Gia tài cậu không ai biết được, nhưng vài chục triệu đô đối với Vịnh chỉ là chuyện đùa.

- Một cậu ấm khác vừa mới xuất hiện nhưng đầy hứa hẹn là cậu Diễn, con trai lớn của ông Lê Khả Phiêu, dắt mối đủ loại áp phe, mới xuất hiện trên chốn giang hồ chưa được một năm mà đã có vài triệu đô.

- Trẻ con thì như thế còn các vị lão thành thì sao? Ông Đỗ Mười vài năm trước bỗng nhiên nỗi lòng bác ái móc túi bố thí cho một công tác từ thiện một triệu đô la. Ông thản nhiên nói đó là số tiền ông lấy từ khoản tiền mà các công ty nước ngoài tặng ông.

- Ông trung tướng về hưu Phạm Hồng Sơn, bạn thân của ông Lê Khả Phiêu, từng được đề cao vì một bài tham luận đanh thép chống tham ô lãng phí, có con trai ly dị vợ, cô vợ có bồ khác. Ông bà Sơn ngứa mắt vì hai nhà lại ở kế nhau và cái nhà cô đang ở lại là nhà xây trên miếng đất ông đã cho hai vợ chồng trước đây. Ông kiện đòi đuổi cô đi nhưng thua kiện, ông bèn hối lộ 200 triệu đồng cho quan tòa và thắng kiện trở lại. Tội nghiệp mẹ con mất nhà phải bồng bế nhau đi. Chuyện này đã là đầu đề bàn tán tại Hà Nội.

Các lãnh tụ lập thành tích thi đua hút máu của dân, miệng đỏ choét nhưng bụng lại xanh lè (đôla xanh). Nhìn quả thì biết cây. Tương lai các cậu ấm lại thay thế cha làm lãnh tụ, vẫn i tờ không tri thức, cứ hống hách, cửa quyền, tham ô như bố thì thật tội cho nước Việt Nam quá, biết bao giờ mới thoát khỏi cảnh diệt vong trí tuệ và nhân phẩm đây.

Hậu quả thảm khốc hiện nay của một nước Việt Nam đều bắt nguồn từ việc ông Hồ du nhập cái lý thuyết cộng sản bệnh hoạn không hề suy nghĩ. Ông chỉ nghĩ đến ông, đánh bóng những huyền thoại để ông trở thành một nhân vật như trong chuyện cổ tích. Bởi thế nên mới có bài: đêm qua em mơ gặp bác Hồ. Ở các nước tiên tiến, con nít đi ngủ mơ thấy được quà, hoặc sung sướng hơn mơ gặp được bà tiên có đôi đũa thần như cô bé Lọ Lem thần thoại. Còn những đứa con nít Việt Nam, cả tuổi thơ chỉ thấy ông Hồ vì ông hiện diện từ trong nhà cho đến ngoài ngõ, kể cả trong lớp học. Ngay đến giấc ngủ mà ông cũng lững thững bước vào đòi ban phát “mộng lành” cho các em nữa thì quả thật tội cho các cô cậu Lọ Lem ở nước Việt Nam quá!

Và điều này giải thích tại sao phần lớn thế hệ sinh sau năm 1975 vẫn nể trọng ông Hồ, mặc dù trong số đó vẫn có người không ưa thích chế độ đương thời. Lý do là với lối giáo dục nhồi sọ trong học đường, cố bưng bít tất cả sự thật nên hình ảnh ông Hồ không lạ gì vẫn chiếm một vị trí đáng kể. Năm 1969, tình cờ tôi thấy hình bìa tờ báo Times của cậu tôi, chụp hình một chị nhà quê tay cầm nón lá khóc nức nở. Chị lả người gần như không đứng vững, nước dãi chảy thành dòng một bên mép. Tôi hình dung được nỗi đau đớn của chị qua những giọt nước mắt lăn trên gò má. Nhìn lên phía trên, tôi thấy dòng chữ: Ho Chi Minh died. Quả thật lúc đó tôi không hiểu ông Hồ chết mà có người khóc thương đến vậy sao? Tôi nghĩ thầm nếu cha tôi có chết ngay bây giờ, có lẽ tôi cũng không khóc lóc sướt mướt đến vậy. Lớn lên một chút tôi chợt hiểu ra cả một guồng máy có hệ thống bóp nặn lên hình ảnh ông Hồ tuyệt vời đến nỗi khi ông chết, cả nước phải để tang, thương khóc. Ông Hồ và đám đàn em ông rất thành công về điểm này. Ôi! Tội cho những giọt nước mắt thật xót xa rơi trên thân xác của một lãnh tụ giả.

Vì thế ông Hồ đi sầm sập vào sinh hoạt của người dân miền Bắc với vóc dáng của một vị lãnh tụ tuyệt luân, một người cha khoan dung, một người ông hiền lành mặc dù cả nước chưa hề thấy ông lấy vợ sinh con đẻ cái. Người ta vẫn tin vào hình ảnh một ông già cả đời hiến thân vì độc lập nước nhà, không màng đến hạnh phúc cho riêng mình (sic!) chứ không ngờ rằng ông vẫn có những đòi hỏi sinh lý như một người bình thường. Những tài liệu khám phá được vào khoảng đầu thập niên 90 đã thổi bay những đám mây huyền thoại của con người ông Hồ, để lộ một ông già thường thở dài nằm trằn trọc mỗi đêm, bứt rứt khó ngủ.

Tôi có người bạn Tàu, làm chung sở hơn 10 năm nay, quê cũng ở Quảng Châu. Nhân bàn về chuyện ông Hồ có vợ, anh ta xác định bà Tuyết Minh ở ngay thành phố nơi anh ta cư ngụ. Và chuyện bà lập gia đình với ông Hồ, cả thành phố ai mà không biết. Tôi nói thêm là chính quyền cộng sản Việt Nam phủ nhận sự kiện này và cấm trích dịch và lưu hành cuốn “Hồ Chí Minh với Trung Quốc” của Hoàng Tranh ở trong nước, anh ta chỉ cười cười nói: that’s the truth, man. He’s (Hồ) just an ordinary person, like you and me...

- Khi ở Hương Cảng năm 1930, ông Hồ nẩy sinh tình cảm với cô Nguyễn Thị Minh Khai, lúc đó cô mới 20 tuổi. Tên thật Minh Khai là Nguyễn Thị Vịnh, cũng gốc Nghệ An; một đồng chí, một học trò chính trị của ông Hồ. Năm 1935, lúc đến Moscow dự đại hội đảng cộng sản quốc tế, Minh Khai khai báo đã có chồng tên là Lin (bí danh của ông Hồ lúc đó). Họ đã sống chung ở nhà tập thể trong suốt thời gian đại hội.

- Sau khi ở Tàu một thời gian, ông Hồ về nước cùng với một số cán bộ đã được huấn luyện. Trong số đoàn tùy tùng có một người đàn bà tên Đỗ Thị Lạc. Về đến hang Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với ông Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm, một làng gần đó. Sử gia Trần Trọng Kim cho biết Đỗ Thị Lạc có một đứa con gái với ông Hồ.

- Theo Vũ Thư Hiên, trong cuốn Đêm Giữa Ban Ngày có viết lại lời kể của bố ông là Vũ Đình Huỳnh (bí thư của ông Hồ) một chuyện thật thương tâm. Qua câu chuyện, người ta lại càng hiểu rõ thêm bộ mặt thật của lãnh tụ.

Sau ngày chia đôi đất nước, ông Hồ trở thành lãnh tụ miền Bắc. Để giữ tình trạng tâm sinh lý bình thường cho ông, ban bảo vệ sức khỏe của các nhân vật cao cấp tuyển một cô gái sắc tộc Nùng, tên Nông Thị Xuân quê ở Cao Bằng về Hà Nội để chăm lo sức khỏe của ông Hồ. Năm 1955, cô Xuân cùng với người cô em ruột tên Vàng về cư trú ở ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông và chính thức ra vào Phủ Chủ tịch (dĩ nhiên vào ban đêm và ra về khi tờ mờ sáng và chỉ bằng xe hơi do Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn đích thân đưa đón). Lúc này ông Hồ đã 65 tuổi, cô Xuân 22 tuổi. Ông Hồ rất thích cô Xuân và có một đứa con trai với cô, sinh năm 1956 và đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Bà Xuân lúc này đòi ăn ở công khai vì đã có con, (giấy khai sinh của con phải có tên cha chứ!) nhưng ông Hồ không chịu viện lẽ phải tùy thuộc đảng nữa. Thế rồi một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy xác của một người đàn bà bị xe hơi đụng chết ở Cổ Ngư. Người đàn bà đó là bà Xuân. Theo hồ sơ khám nghiệm tử thi của bác sĩ tại bệnh viện Hà Nội thì bà Xuân chết vì nứt sọ; có thể bị búa đánh vào đầu. Ông Huỳnh (bố ông Hiên) còn xác nhận là tên bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp dày vò bà Xuân chán chê rồi mới quăng xác ra ở Cổ Ngư dàn cảnh tai nạn xe hơi. Cô Vàng chứng kiến cảnh chị mình bị hãm hiếp rồi bị đem đi giết nên khoảng 9 tháng sau cũng bị giết chết tại Cao Bằng. Bé Trung về sau được Vũ Kỳ, thư ký của ông Hồ, đem về nuôi và đổi thành Vũ Trung.

Tôi bâng khuâng tự hỏi, ngay đến con ruột mà ông Hồ không hề rơi một giọt nước mắt, lại giao cho người khác nuôi. Thằng bé mới sinh chưa được 2 tháng thì mồ côi mẹ, mà cái chết của mẹ nó không hiểu có bàn tay của bố nó dính vào không? Giọt máu của chính mình, ông cũng không màng, trước sau vẫn chỉ lo đến uy tín của ông, uy tín của đảng. Rõ ràng ông chẳng thương yêu gì bé Trung. Chính con ruột của mình mà không hề yêu thương, thì nói gì đến con người khác. Qua sự kiện này, chưa bao giờ tôi lại ghê tởm những bài hát ca tụng lòng yêu thương của ông Hồ đối với các em nhi đồng đến thế!

- Trước vụ cô Xuân, ban lãnh đạo đảng Cộng sản Hà Nội đề cử cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Thanh Hóa, sống chung với ông Hồ. Khi gặp ông Hồ, cô Phương Mai đồng ý lấy ông nhưng với điều kiện là phải làm lễ cưới đàng hoàng. Chuyện bất thành vì đảng Cộng sản muốn huyền thoại hóa hình ảnh ông Hồ như một nhân vật hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng. Rất may cho cô Mai, chứ nếu ăn ở trước rồi mới xin công khai hóa thì chắc chắn chốn thâm cung sẽ có thêm một xác người đàn bà nữa. Không bằng lòng cưới hỏi danh chính ngôn thuận nên cô bỏ. Sau này, cô Mai du học ở Nga và về nước làm đến chức thứ trưởng bộ Thương binh.

Như thế cuộc đời tình cảm của ông Hồ khá long đong; có tình lớn, tình nhỏ, tình si, tình lỡ, tình hờ, tình chết. Ông Hồ sẵn sàng giải quyết sinh lý ở cửa sau, nhưng không hề muốn đón nhận một người đàn bà nào bằng cửa trước. Đàn bà vẫn là một món đồ chơi để ông thỏa mãn những cơn thèm khát nhất thời như những hôn quân trong thời phong kiến.

Đàn bà là một trong những bí mật của các lãnh tụ, nhất là lãnh tụ độc tài. Nổi bật nhất trong các lãnh tụ đỏ trên thế giới là đời sống tình dục của Mao. Theo lời bác sĩ Li, người chăm sóc sức khỏe cho Mao trong suốt 22 năm, từ 1954-1976, viết trong cuốn: The Private Life of Chairman Mao tiết lộ rằng Mao hàng đêm lên giường với nhiều cô gái trẻ, có thể 2, 3, đến 5 cô cùng một lúc. Mỗi lần đi công tác ở các địa phương bằng xe lửa, Mao dành riêng một toa xe để giải trítình dục. Đến một nơi công tác, các nhân vật cao cấp địa phương đều dâng hiến cho Mao những cô gái trẻ đẹp để cung phụng. Mao có thể cả tuần không tắm, biếng đánh răng thích nằm dài trên giường để làm tình liên tiếp nhiều ngày.

Bác Mao cân một tạ hai,
Thịt đùn lên mặt những hai ba cằm
Bà con Trung Quốc thì thầm,
Nó là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều.

Điểm tốt trong đời sống tình dục của ông Hồ là không mang tính chất hoang dâm thác loạn như Mao nhưng lại khẳng định rõ ràng một điểm là ông Hồ cũng có những ham muốn đòi hỏi tình dục bình thường như mọi người vậy. Điều này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh thần thánh của ông Hồ mà đảng Cộng sản đã dày công tô vẽ. Thật ra, có một đời sống tình dục như thế là điều bình thường, không có gì sai trái cả nếu không nói là hợp lẽ tự nhiên. Trừ những vị tu hành dâng hiến đời sống mình vào những mục đích cao thượng hơn, còn hầu hết chúng ta đều có một nếp sống gia đình trong khuôn khổ của xã hội.

Ông Hồ trong lúc sinh tiền hãnh diện về con người siêu phàm của mình bằng những bài tự viết, qua sách vở và những lời lẽ ca tụng thật chướng tai của đám đàn em sẵn sàng lạm dụng chữ nghĩa để suy tôn lãnh tụ. Có thể ban đầu ông không nghĩ mình là siêu nhân nhưng khi đám lãnh tụ đàn em thúc giục cả nước hồ hởi tung hô thì một lúc nào đó ông Hồ cũng ngồi rung đùi nghĩ mình là siêu nhân thật. Nghe mãi đâm quen thành nghiện, nên ông hoàn toàn đắm chìm trong hào quang được vẽ vời một cách vụng về của tầng lớp văn nghệ sĩ nô bộc và bằng lòng với hình ảnh siêu thực đó. Nền điện ảnh Hollywood đã đẻ ra một nhân vật “Superman” trên màn bạc trong khi ở Việt Nam đảng Cộng sản đương thời lại đẻ ra một hình ảnh siêu phàm là ông Hồ, và vẫn hì hục đánh bóng hình ảnh một ông già sống mãi trong lòng dân tộc. Nếu Superman của Hollywood vẫn còn ăn khách thì hiện nay hình ảnh ông Hồ đã mất lớp sơn mỹ lệ bên ngoài, và để lộ nguyên hình một con người có đầy đủ hỉ nộ ái ưu ai ố dục, như mọi người bình thường khác trên cõi đời ô trọc này.

Ngày 24 tháng 2 năm 1956, trong Đại hội đảng Cộng sản Nga lần thứ 20, Khrushev đọc bài diễn văn trước một số đồng chí được tuyển chọn. Bài diễn văn nẩy lửa mang tên secret speech (diễn văn bí mật). Qua bài này, Khrushev đã lên tiếng tố cáo Stalin, một kẻ độc tài, tàn ác đã giết hại hàng triệu đồng chí và đưa Liên bang Sô viết đến chỗ lụn bại. Khi những lời tố cáo của Khrushev vang rền trong đại sảnh thì câu thơ “thương cha thương một thương ông (Stalin) thương mười” của Tố Hữu lại trở nên trơ trẽn và sống sượng hơn bao giờ. Cuối cùng, Khrushev cũng trả lại bản chất tầm thường cho con người Stalin.

Một ngày nào đó, lịch sử sẽ trả lại bản chất đích thực của ông Hồ. Nói cho cùng, cuộc đời của ông có cái hơn người, có cái kém người; và tựu trung ông cũng là một người bình thường như chúng ta. Và việc đầu tiên để phục hồi bản chất đích thực cho ông Hồ là nên trả lại tên Sàigòn cho Hòn ngọc Viễn đông, một danh hiệu đã đi vào lòng người và lịch sử thế giới. Ngày 10/11/1961, thành phố Stalin được hồi phục tên cũ Volgograd (thành phố bên bờ sông Volga). Năm 1991, thành phố Lênin cũng được mang lại tên cũ St. Petersburg. Chỉ còn một thành phố duy nhất trên thế giới mang tên ông Hồ, nằm chơ vơ, lạc điệu giữa những quốc gia tân tiến chung quanh.

Qua tìm tòi và hiểu biết được mặt trái cuộc đời của những lãnh tụ, chưa bao giờ thế hệ chúng tôi lại chán chường hình ảnh lãnh tụ đến thế. Nó vẽ lên một khuôn mặt sắt máu, háo thắng, tự kiêu, độc ác, có đầy đủ tham sân si, và nhiều cuồng vọng.

Hãy chấp nhận giới hạn của một con người, cho dù là vĩ nhân. Và xin đừng bao giờ lạm dụng hai chữ “lãnh tụ” để lừa bịp chúng tôi nữa.

Xin thành thật cảm ơn.



Sơn Nghị

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chân Dung Bác Hồ

Post by linhgia »

Những Phát Hiện Thêm Về Hồ Chí Minh

Nguyễn Thái Hoàng, Hà Nội, 21.08.2005


Trong dịp kỷ niệm "60 năm đất nước nở hoa độc lập" (1945-2005) 600 đầu báo của Việt Nam, báo nào cũng nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh - người Cha già dân tộc - người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đồng thời là người sáng lập ra những tờ báo cách mạng Việt Nam. Đại loại, các báo viết: Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt tình, đầy biến động và vinh quang của mình, Bác Hồ luôn gắn bó với báo chí, bác coi báo chí là phương tiện để vận động tập hợp lực lượng cách mạng, tổ chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách nhanh chóng, sâu rộng, hiệu quả nhất. Chính vì vậy dù trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu và vào bất cứ giai đoạn tình thế nào, Bác cũng vẫn quyết sáng lập, chỉ đạo, phát hành những tờ báo cách mạng (Từ tháng 3-1922 lúc còn ở Pháp đến khi về nước (tháng 1-1941).... Tờ báo đầu tiên do Bác sáng lập là tờ Le Paria (người cùng khổ). Năm 1921, Bác lấy tên Nguyễn ái Quốc cùng một số chính khách thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và năm 1922 ra tờ Le Paria. Tờ Le Paria là cơ quan ngôn luận của hội, nhằm thực thi tinh thần giải phóng con người. Số đầu đầu tiên xuất bản ngày 010/4/1922. Nguyễn ái Quốc trở thành trụ cột của tờ báo, vừa là phóng viên, nhiếp ảnh viên, vừa là biên tập viên chính, kiêm việc quản lý phát hành và Bác đã viết tới 38 bài cho báo này...

Tất nhiên đây chỉ là một trích dẫn nhỏ, mang tính khái quát điển hình trong cả trăm nghìn các trích dẫn mang tính bốc thơm, ca tụng khác. Nếu có ý định làm một tuyển tập về sự trích dẫn này, hẳn số trang in gấp trăm, nghìn lần cuốn Hồ Chí Minh toàn tập (10 quyển). Bước chân vào bất cứ thư viện nào, dù quốc gia hay địa phương, số sách viết về ông cũng đồ sộ, rầm rộ nhất, chiếm kín một góc lớn của nhà sách hay thư viện... Từ "Búp sen xanh" (Sơn Tùng); "Sáng tháng năm" (Tố Hữu). "Khóc trước lăng người" (Chế lan Viên), Ca ngợi Hồ Chí Minh (Hồi ký Nhiều tác giả), Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người (Thơ - Nhiều tác giả), Bác Hồ - Người cho em tất cả - (Nhạc - nhiều tác giả) v.v và v.v.

Tuy nhiên thế hệ trẻ - những người một thời đã phải nhai nhải hát bài hát "Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng, ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em Việt Nam" nay đã thành thanh niên, trung niên ưa tìm tòi khám phá, thích vượt qua những bức tường lửa ken dày để lướt trên mạng, đọc lại các tác phẩm của người, lại không dễ dàng bị thuyết phục, nếu không nói là quá thất vọng về thần tượng của dân tộc mình.

Trong hàng ngũ “công thần, lập quốc” của lãnh đạo Việt Nam, người được đào tạo cơ bản nhất là đại tướng Võ Nguyên Giáp, từng là giáo viên trường tiểu học Thăng Long, còn lại đúng như nhận định của nhà văn Vũ Thư Hiên: "Người dân thất học, còn lãnh đạo khinh học". Không kể đến thành phần bất hảo như Đỗ Mười là dân nhà quê cục cằn, chuyên nghề hoạn lợn, đã từng bị dân làng vác đòn gánh đuổi theo đánh cho chí chết... Gã chột Lê Đức Anh vốn là cai đồn điền, đã nhiều lần đánh đập anh em công nhân, mật báo quan thầy lĩnh thưởng, nhờ khai man lý lịch mà leo cao, luồn sâu... lên tận chức chủ tịch nước. Bộ trưởng bộ công an Trần Quốc Hoàn xuất thân từ kẻ trộm vặt, khi bị bắt, nhờ trà trộn vào đám tù chính trị, phục dịch Lê Đức Thọ trong tù, mà trở thành tay sai của đảng, được cất nhắc, đề bạt...

Cụ Hồ - ngôi sao sáng giá nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam lại chỉ tốt nghiệp tiểu học Pháp Việt Đông Ba (Huế) năm học 1906-1907, khi 17 tuổi. Chưa đầy một năm sau đó tháng 5-1908 đã bị đuổi khỏi trường Quốc học Huế... Nói như ngôn ngữ dân gian: Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng. Quả thực sự học của cụ “chưa đầy một vốc chữ”, viết những bài báo đơn giản, mang tính chất độn, tàm tạm còn được, chứ làm sao viết ra nổi những tư tưởng to lớn như báo chí cộng sản bốc thơm. Nào sáng lập ra tờ Le Paria (Người cùng khổ). Nào thành lập hội người Việt Nam yêu nước. Nào soạn thảo bản yêu sách tám điểm gửi hội nghị Véc Xây. Nào viết bản án chế độ thực dân Pháp v.v và v.v (Theo Trần Dân Tiên: "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Bác Hồ” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia-1985)

Chính vì nền tảng học vấn thấp, khó tạo ra tư tưởng của chính mình, nên ngày nay ta bắt gặp nhan nhản các câu đạo trích của cụ trong các tư liệu để lại. Ngay điều quan trọng nhất là tuyên ngôn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc vào ngày 02/09/1945 - sau khi “cướp” được chính quyền ( nhờ Nhật, Pháp bắn nhau và cơ hội của chúng ta) cũng ăn cắp lộ liễu ở bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...

Sau khi bị đám con cháu "chôn nổi", các phương tiện thông tin đại chúng trong nước vẫn leo lẻo nhắc đi nhắc lại câu tuyên ngôn bất hủ của thời đại Hồ Chí Minh: "Chính quyền là của dân, được lập ra do dân, và vì dân”. Thực chất câu này là của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865). Hiện còn khắc trên mộ ông.

Trước đó, trong bài viết về Hồ Chủ Tịch, tác giả Phương Nam (tức Đỗ Nam Hải) cũng đưa ra rất nhiều chi tiết có tính thuyết phục. Cụ thể tờ báo Người Cùng khổ (Le Paria) năm 1922, do người Pháp sáng lập, chứ không phải người Việt. Vậy mà theo lời Trần Dân Tiên kể lại trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" và báo chí cộng sản tuyên truyền thì Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa (năm 1914) và năm 1922 ra “Le Paria” là cơ quan ngôn luận của hội, nhằm thực thi tinh thần giải phóng con người. Ban biên tập do Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút, mọi việc còn lại giao cho Nguyễn Thế Truyền đảm nhiệm. Quả là sự lạ, vì kẻ chưa đỗ ông nghè lại “đe” được chính các ông nghè còn lại, vừa vượt trình độ, bằng cấp, nghiệp vụ văn chương lại ở Pháp trước ông. (Nguyễn Thế Truyền vốn là cử nhân với hai bằng văn chương và hoá học, vợ là người Pháp chính gốc, ông sang Pháp từ 1910). Ấy thế lại là người được "anh Nguyễn" trực tiếp nâng đỡ dìu dắt giới thiệu vào hiệp hội và đảm nhiệm công việc làm báo dưới quyền anh?

Trong yêu sách tám điểm gửi hội nghị Véc Xây, 1919 người ta cũng dễ dàng nhận thấy rất nhiều điểm trong "Bản yêu sách gửi Khâm sứ Trung Kỳ, gửi Toàn quyền Đông Dương và gửi Chính phủ Pháp" của nhà cách mạng Phan Chu Trinh (1872 -1926) bị anh Nguyễn đạo trích. Cho dù anh Nguyễn có nói thật trong khi kể lại chuyện đời mình (Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch (sđd), là: "Ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra, nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp" cũng không thể coi là do anh Nguyễn soạn thảo được. Chính cụ Phan Chu Trinh (sang năm 1911) và Phan Văn Trường (sang năm 1908) mới là người có mặt và hoạt động liên tục ở Pháp trước đó. Cả hai đều là sáng lập viên của Hội đồng bào thân ái (1914). Hơn nữa các cụ còn là người có lòng yêu nước ngang với trình độ của mình, cái tâm có thể theo kịp cái trí. (Cụ Trinh thi đậu phó bảng cùng khoá với Nguyễn Sinh Sắc (1901) bố đẻ Hồ Chủ Tịch). Cụ Trường là người đầu tiên đỗ tiến sĩ tại Pháp. Vì vậy anh Nguyễn với trình độ tiểu học, lại sang sau, làm sao vượt mặt các cụ được? Trong khi tiếng Pháp còn ngọng nghịu, võ vẽ? Thành thử đã ăn cắp tư tưởng của người khác, phải nhờ người giỏi tiếng Pháp viết hộ lại dám ngộ nhận là của mình? Điều này vốn khó tin vì cụ Phan văn Trường là tiên chỉ của làng văn hoá Đông Ngạc. Cuốn "Xã Đông Ngạc" do ban nghiên cứu văn hoá Lịch sử xã Đông Ngạc viết, nhà Xuất bản Hà Nội in 1994 nói rõ: Năm 1917, Nguyễn ái Quốc hoạt động chính trị tại Paris. Lúc này ở Pháp có khoảng 3 vạn người Việt Nam, phần lớn là binh lính bị đưa sang Pháp trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Ông Phan văn Trường, người làng Đông Ngạc, là một trong những người Việt Nam đầu tiên cùng cụ Phan Châu Trinh giúp đỡ và cùng hoạt động yêu nước với Nguyễn.

Phan văn Trường thuộc dòng dõi tiến sĩ Phan Phù Tiên. Ông đến nước Pháp từ năm 1908, với truyền thống thông minh hiếu học và yêu nước, chỉ vài năm ở Pháp ông đã đỗ tiến sĩ luật học, và là người đầu tiên đỗ tiến sĩ tại Pháp. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, ông cùng cụ Phan Châu Trinh (đang bị quản chế tại Paris) lập các tổ chức "Đồng bào thân ái", "Người An Nam yêu nước", hoạt động trong binh lính người Việt. Khi Nguyễn ái Quốc đến Paris, với lòng mến phục người thanh niên yêu nước nồng nàn, Phan văn Trường trân trọng đón tiếp Nguyễn, nhường nhà ở, giúp đỡ Nguyễn nâng cao trình độ tiếng Pháp, vào Đảng xã hội Pháp, tiếp xúc với nhiều chính khách tiến bộ của nước Pháp, giúp Nguyễn sưu tầm sách của Các Mác và Ăngen, giúp Nguyễn tiến hành những bước đầu tiên trong việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận họp tại Véc-xây (Pháp) để phân chia lại thế giới, Nguyễn đã gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách tám điểm nổi tiếng đòi quyền tự quyết cho các dân tộc Đông Dương, Phan Văn Trường đã cùng Nguyễn soạn thảo văn kiện này. Khi Nguyễn ra báo "Người cùng khổ", Phan là người cộng tác tích cực, ông đã viết trước sau 20 bài lên án chế độ thuộc địa vạch tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa.

Năm 1923 Nguyễn ái Quốc rời Paris đi mạc Tư Khoa. Năm sau Phan Văn Trường trở về Việt Nam. Tại sài gòn ông cộng tác với tờ “Tiếng chuông rè”, tiếp đó ông ra báo “Nước Nam” (L' An Nam)... (trang 45,46 sđd) Nghĩa là vào thời điểm ấy ông may mắn được gặp hai nhà yêu nước họ Phan và đón nhận sự giúp đỡ của họ, chứ không phải ngược lại ông sáng lập “Hội đồng bào tương ái”, nghĩ ra tám điểm yêu sách để Phan văn Trường viết hộ...

Ngay cuốn sách duy nhất là "Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) cũng không thể là của anh Nguyễn viết - vì với bút lực thấp như vậy. Nguyễn kém nhất trong nhóm Ngũ long cùng lấy tên là Nguyễn ái Quốc, gồm 5 nhà yêu nước vừa kể trên: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn An Ninh (sinh viên năm thứ 2 trường luật), vì vậy viết báo đã khó, huống hồ viết sách? Điều này chính Trần Dân Tiên khẳng định: Quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện Quốc gia" (trang 34 sđd). Nghĩa là anh Nguyễn chỉ có công lục lọi từ tủ sách trong thư viện, rồi trích dẫn và chép lại mà thôi. Sao lại biến một "thợ chép" thành tác giả đại tài được?

Sau này trong công việc điều hành đất nước, người dân Việt Nam cũng bắt gặp nhan nhản những điều đạo trích của cụ trong văn thơ cổ. Cụ thể bài "Khuyên thanh niên" người viết:

Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.

Có nguồn gốc từ sách ấu học ngũ ngôn thi (Thơ 5 chữ cho trẻ em) nội dung như sau:

Tạc sơn thông đại hải
Luyện thạch bổ thanh thiên
Thế thường vô nhân sự
Nhân tâm tự bất kiên.

Dịch sang tiếng Việt là:

Đục đá thông ra biển
Đội đá, vá trời xanh
Trên đời không việc khó
Chỉ sợ lòng không kiên.

Quả là với vốn liếng tiểu học mà bắt chước được như thế cũng đã là siêu (!) Tiếc thay gần như cả dân tộc Việt Nam, các nhà báo nhà văn hễ trích dẫn câu này đều khẳng định là thơ Bác Hồ khuyên thanh niên Việt Nam (1).

Câu nói của Quản Trọng thời Đông Chu Liệt Quốc: Kế hoạch một năm phải trồng lúa. Kế hoạch mười năm phải trồng cây, 100 năm phải trồng người, đã được cụ khéo léo gạt bỏ ý đầu tiên đi, coi như việc ăn không quan trọng, không có thực vẫn cứ vực được đạo, để sửa lại: “ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.

Thế là trong lĩnh vực giáo dục nước nhà, hễ mở miệng là người ta lấy câu này của cụ ra như một bảo bối quốc gia để căn dặn lớp trẻ.

Ngay cuốn "Ngục trung nhật ký" (hay Nhật ký trong tù) của cụ, đọc lên rất nhiều người nghi ngờ, thậm chí cả tác giả hải ngoại với cái tên "Từ Mục" đã để công nghiền ngẫm và khẳng định là tác giả tập thơ ấy là của một người khác, cũng hoạt động cách mạng và bị bắt trước cụ. Trước khi mất, muốn gửi gắm lại tư tưởng của mình cho hậu thế nên đã nhờ cụ cất giữ". Sau 1945, tình cờ, lục lọi lại trong đống tư liệu cũ, cụ đã tìm lại được và vì sự "vĩ đại", toàn tài của mình mà cho công bố tên tác giả là Hồ Chí Minh. Theo Từ Mục, ngay cả thời điểm cụ bị cảnh sát của quân Tưởng Giới Thạch bắt (28/08/1942) cũng không trùng với thời điểm ghi “Dưới hai cánh tay bị xích” (1931).

Lời lẽ trong thơ của “Ngục trung nhật ký” uyển chuyển, uyên thâm, sâu sắc, rõ ràng là của một người giỏi tiếng Hán. Còn cụ, dù có lấy vợ Tàu (Tăng Tuyết Minh), như tài liệu củaTrung Quốc công bố, viết tiếng Việt còn đầy lỗi chính tả, sao có thể sử dụng tiếng Hán nhuần nhuyễn mà làm thơ theo kiểu thơ Đường được?

Suy xét thơ cụ sau thời buổi nước nhà được độc lập, thấy rất rõ trình độ học vấn cấp tiểu học của cụ, ví dụ bài thơ "Hòn Đá" kêu gọi mọi người đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật:

Hòn đá to,
Hòn đá nặng
Một người nhắc
Nhắc không đặng

Hòn đá nặng
Hòn đá bền
Nhiều người nhắc,
Nhắc lên đặng.

Hay "Bài ca du kích":

Ào ào ào
Già nào
Trẻ nào
Lính nào
dân nào,
đàn ông nào,
đàn bà nào
Ai có súng dùng súng
Ai có dao dùng dao
Người có cào dùng cào
Không có gươm thì dùng cuốc, xẻng gậy gộc...

Những bài như thế này, nếu xếp vào danh mục thơ, quả là một sự xúc phạm ngôn từ lớn, trên thực tế nó chỉ là thứ văn xuôi ghép lại cho vần mà thôi.

Một loạt các bài thơ chúc Tết của cụ cũng vậy, lổn nhổn những khẩu hiệu, lời chúc gói trong nền cờ cách mạng, từ 1942 đến 1966, năm nảo năm nào cũng na ná giống nhau về giọng điệu, thủ pháp, ngôn từ, đọc một bài là thấy cả chục bài. Cho dù viết giữa bầu trời xuân, song chỉ gợi lên sự nhàm chán, đơn điệu, tẻ nhạt:

Tháng ngày thấm thoắt chóng như thoi,
Năm cũ qua rồi chúc năm mới
Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi,
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau
Chúc Việt Minh ta càng tiến tới
Chúc toàn quân ta trong năm này
Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới
Năm này là năm Tết vẻ vang
Cách Mạng thành công khắp thế giới.
v.v và v.v.

Ba bài chúc cuối cùng của cụ được coi là tiêu biểu nhất, thực chất cũng chỉ là một sự dự báo thời cuộc trong thơ, cho nên lượng thơ hầu như không đáng kể và tầm nhìn xa không quá bản thân người.

Xuân về xin có một bài ca
Gửi chúc đồng bào cả nước ta
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.
(1967)
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta!
(1968)
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to...
(1969)

Thơ cụ viết cho các cháu thiếu nhi cũng vậy, vẫn là bút pháp dễ dãi, thấp tay và đơn giản, chẳng có vẻ gì là của một lãnh tụ thi nhân cả:

Bác được tin rằng
Cháu làm liên lạc
Bị giặc bắt được
Lại trốn thoát ngay
Mang hai lính tây
Theo về bộ đội...
(Tặng cháu Phạm Đỗ Hải, chiến khu II)

Một trong số những bài thơ được coi là tiêu biểu, đưa vào sách giáo khoa lớp 2 cho toàn thế học sinh học là bài "Con cáo và tổ ong":

Tổ ong lủng lẳng trên cành
Trong đầy mật nhộng ngon lành lắm thay
Cáo già nhè nhẹ lên cây
Định rằng lấy được ăn ngay cho giòn...

lại bị xem là giống thơ ngụ ngôn của La Phong Ten.

Bài "Tặng đồng chí Trần Canh" - cố vấn quân sự Đảng cộng sản Trung Quốc, làm 1950 trong chiến dịch biên giới, chỉ khác bài "Lương Châu Từ " của Vương Hàn đời Đường có mấy chữ, đọc là nhận ra ngay.Thơ Vương Hàn viết:

Bồ đào rượu ngọt chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
Say khướt sa trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?

Được cụ sửa thành:

Sâm banh, rượu ngọt, chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà ngựa giục đi
Say khướt sa trường cười chớ vội
Chẳng cho địch thoát một tên về.

18 ngày điều dưỡng ở Hoàng Sơn, khu du lịch nổi tiếng của Trung Quốc với những đỉnh núi nguy nga kì vĩ, những cây thông xanh ngắt, khoẻ khoắn hiên ngang, những suối nước trong veo in bóng những tảng mây cuồn cuộn trên bầu trời, được người dân đặt tên là Hoàng Sơn tứ tuyệt gồm: kỳ tùng, quái thạch, vân hải (biển mây), ôn tuyền (suối ấm)... tưởng tâm hồn cụ phải lộng gió thi ca, ai ngờ cụ chỉ viết được 6 bài, hệt chuyện nhân quả sắp xếp của các đầng thân linh, chỉ sự mạt vận, điểm chết: 4 tấm dài, 2 tấm ngắn, trong đó 2 "tấm" ngắn còn tàm tạm ở mức trung bình, còn 4 dài thì thật vô cùng ngớ ngẩn, như thể sự lộng gió trên núi cao đã thay bằng sự "phải gió" trong cơ thể cụ vậy.

Hoàng sơn các cháu thật là ngoan
Hễ gặp tôi: cháu chào bác ạ
Má như táo chín, miệng như hoa
Tình cảm với tôi nồng thắm quá

II

Cụ Đổng tặng tôi bài thơ dài
Tôi muốn làm thơ hoạ lại người
Nhưng việc nước nhà đang chống Mỹ
Hoàn toàn chiếm trọn trái tim tôi

III

An huy tự cổ bao hào kiệt
Hào kiệt ai tháng tân tứ quân
Theo Đảng khắp nơi trừ cường bạo
Làm chủ từ nay là công nhân

IV

Đồng chí địa phương thật quý khách
Với chúng tôi chu đáo hết cách
Ngày nào cũng được đi tham quan
Tối tối lại còn mời xem kịch

Đành rằng trong khi làm chính trị cũng nên có những lời thơ mộc mạc giúp nhân dân hiểu mọi việc dễ dàng hơn, vì dân tộc Việt Nam mấy nghìn năm chìm trong đêm trường nô lệ, dân đâu có được học hành nhiều... Nhưng nếu là con người có sự biệt hoá cao độ, có tầm hiểu biết sâu rộng hơn hẳn số đông như báo chí vẫn ca ngợi, thì sự "lóe sáng" phải được thể hiện nhiều lần, trong nhiều trường hợp. Ngược lại suốt từ thời điểm 1945, cho đến 1969, suốt nhiều năm ông bị cánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ vô hiệu hoá, cho theo dõi phong trào "Người tốt việc tốt" của các tỉnh thành, bị cấm vận về tình cảm lứa đôi, phải hạn chế từ ý kiến đóng góp đến các tư tưởng, đường lối, kế hoạch, quan điểm, v.v., rồi sang Bắc Kinh chữa bệnh. Không ít phút nhàn tản, rỗi rãi, bao nỗi niềm, tâm tư cháy bỏng mà cụ cũng không hề làm nổi bài thơ nào ra hồn? Khi được người khác tặng thơ mời hoạ lại thì thoái thác "nước nhà đang chống Mỹ" để tránh phải bộc lộ khả năng nghệ thuật cấp tiểu học của mình.

Sự thật, nếu đã là nhà thơ, là danh nhân văn hoá, hẳn gia tài thơ văn không chỉ vỏn vẹn thế được, càng không chọn cách lấy tư tưởng người khác làm tư tưởng của mình. Danh ngôn thế giới nhận định: "Nhai lại của mình thì chóng chán, nhai lại của người khác thì mất vệ sinh". Cả tư tưởng của Khổng Tử, cách cụ vài trăm năm bốc mùi lạc hậu cũng được cụ nhai lại một cách ngon lành: “Chúng ta không sợ ít, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng", mà không hiểu một điều đơn giản là đã thiếu, đã ít, thì tránh sao khỏi sự không công bằng?

Ngay cả câu cụ dạy thanh niên (1942): Người quân tử phải có đức, nền của đức là nhân, Nhân có 12 chữ: Nhân ái (Nhân Tình, Nhân tính, Nhân văn, Nhân Bản, Nhân đạo, Nhân luân, Nhân Cách, Nhân Phẩm, Nhân Hậu, Nhân Từ, Nhân Chính)... Muốn thực hiện đầy đủ phải có trí có dũng... Thế nhưng các bậc túc nho lại khề khà mà rằng: "Chắc cụ lại bệ từ sách Tàu mà ra thôi, nếu không nhầm thì người ta nói rõ tới 13 chữ “Nhân”, nghiã là cả “Nhân mạng”, hay là “Nhân vật” kìa. Không hiểu sao cụ lại cắt béng chữ “Nhân” thứ 13 tối quan trọng như vậy nhỉ, vì bản lĩnh cao cả, đạo đức sáng ngời trong tư tưởng, biến cụ thành thiên sứ (sư thiến?) hay vì cụ bị Đảng thiến béng chất đàn ông đi rồi. Có lẽ mới vỏn vẹn 46 tuổi đã buộc phải làm "Cha già dân tộc" nên cụ vứt béng chữ “Vật” của chữ “Nhân” thứ 13 đi ?!

Tóm lại nếu một người có học vấn cao, tầm nhìn xa, hiểu biết rộng đã không đẩy đất nước vào thảm cảnh đau thương khốn cùng mà lịch sử Việt Nam đã từng có như "Cải cách ruộng đất”, “cải tạo thương nghiệp”, “chỉnh huấn chỉnh quân”, “hợp tác hoá nông nghiệp",… v.v. Song song là sự phá hoại đến tận cùng nền tảng đạo lý truyền thống của dân tộc, vừa phản bội nông dân về ruộng đất, bơm máu đen vào cơ thể Đảng. Chưa đủ. Còn trấn áp, chà đạp lên tri thức, văn nghệ sĩ theo chủ nghĩa thành phần và nạn chứng lý lịch cuồng.

Việc cụ cố tình đưa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, lấy tư tưởng Mác Lê Nin làm “kim chỉ nam”, hướng dẫn mọi hành động tư tưởng của triệu triệu đồng bào Việt Nam, thực sự là vật cản cho sự phát triển tự nhiên của đất nước hôm nay, bắt đất nước đi vòng trên đường thẳng mà kết quả nhỡn tiền là sau 30 năm kết thúc chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam vẫn không tiến bằng mức mà người Mỹ bỏ lại từ thập kỷ 70 tại miền Nam.

Giữa hai gạch nối của hai năm ất Dậu 1945-2005 Đảng tung hô, bịa đặt bao nhiêu điều, tưởng chừng không triều đại lịch sử nào có thể đạt được. Thần kỳ về Cách mạng tháng Tám 1945, thần kỳ về kháng chiến chống Pháp, thần kỳ về kháng chống Mỹ đến thần kỳ về đổi mới v.v. , cũng không thể bỏ qua thực tế của nước nhà, sự nhận thức của người dân. Đặc biệt là thế hệ trẻ, khi biết vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mình quyết định đưa đất nước đi theo con đường của Lê -Nin.

Không biết rằng, Lê-Nin là một tội đồ của lịch sử, một nhà lãnh đạo dốt nát, bị tướng lĩnh quân đội Liên xô đánh giá là "hành xử vô cùng điên khùng, rồ dại và vô văn hoá". Một kẻ mà ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, trung tướng Volkognov đã phải tuyên bố: "Đảng cộng Sản Liên xô đã phanh phui những tài liệu tuyệt mật ở văn phòng Lê Nin gồm rất nhiều bút tích, đủ để kết luận rằng: chính Lê -Nin đã từng giết oan, bỏ tù không xét xử tới 70% uỷ viên trung ương - đều là những đồng chí thân tín của mình...”.

Ngoài ra theo vết xe tồi tệ của Mác(2), coi tôn giáo là một trong những thứ đê tiện nhất từng có trên trái đất, Lê-Nin đã tự xác định thái độ: "Chúng ta phải đấu tranh với tôn giáo. Đó là điều sơ đẳng của toàn bộ chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa Mác". Vì thế chỉ trong năm 1917, riêng trong khu vực Matxcơva người ta đã phá huỷ 426 nhà thờ, đóng cửa và làm hư hỏng nặng nề 340 ngôi trong tổng số 846 ngôi, chưa kể hàng nghìn nhà thờ trong toàn quốc bị phá trong suốt thời gian chính quyền Xô Viết trị vì.

Cũng bởi những hành động tội ác này, nguyên uỷ viên bộ chính trị (thời Gorbachov) Alexandre Yakovlia phát biểu: "Chủ nghĩa cộng sản Nga không thể nào trốn thoát được trách nhiệm trước nhân dân vì đã thiết lập một nền chuyên chính thù ghét con người, đã khiến 60 triệu người phải bỏ mạng". Người dân Liên Xô đại đa số là hiền lành và yêu kính Chúa lòng lành của mình, khi biết tin này đã phải biểu tình đòi dẹp bỏ lăng tẩm của Lê - Nin (3).

Ấy thế, khi viết chuyện mình để hậu thế tôn vinh, Hồ Chí Minh còn mạo phạm tới liệt tổ, liệt tông khi dám so sánh mình với những người anh hùng dân tộc: "Bác Hồ được nhân dân ta coi là Cha già dân tộc, bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa". (Trần Dân Tiên, sđd).

Quả là không còn lời gì để nói về con ngườì "huyền thoại," "lỗi lạc", đồng nghĩa với lỗi thời, lạc hậu này.

Hà Nội 21-8-2005

3G sưu tầm

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Tổ Chức UNESCO Không Vinh Danh Hồ Chí Minh

ImageImage


Trần Gia Phụng

Theo tài liệu được đưa lên Internet vào cuối tháng 5-2005 của tiến sĩ Phan Văn Song, hiện cư ngụ tại Paris, thì vào năm 1987, do sự vận động của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và những thành phần thiên tả trong UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc), ông Hồ Chí Minh (1890-1969) được đề cử vào „Danh sách danh nhân văn hóa thế giới“ của tổ chức UNESCO, nhân dịp kỷ niệm một trăm năm sinh niên nhà chính trị nầy (1990). Lúc đó, Tổng giám đốc UNESCO là ông M'Bow, người Phi Châu.




Quyết định đề cử Hồ Chí Minh vào „Danh sách danh nhân văn hóa thế giới“ bị cộng đồng người Việt hải ngoại phản đối khắp nơi trên thế giới. Riêng tại Paris, nơi đặt trụ sở của UNESCO, Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh được thành lập, do ông Nguyễn Văn Trần làm Tổng thư ký. Uỷ ban nầy đã hoạt động tích cực như sau:

1) Vận động người Việt và báo chí Việt ngữ ở hải ngoại (Bắc Mỹ, Úc Châu, Âu Châu, Nhật Bản) viết thư cho UNESCO vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản trong nước, đồng thời phản đối việc đề cử Hồ Chí Minh vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới. Ý kiến phản đối lên đến khoảng 20,000 thư, đều được Giám đốc phụ trách vùng Đông Nam Á của UNESCO chuyển cho Đại diện của Hà Nội tại UNESCO. Ngoài ra, có người còn viết sách tố cáo ông Hồ đã ăn cắp thơ (đạo thơ) của người khác làm thơ của mình trong sách Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). (Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả „Ngục trung nhật ký“, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990.)

2) Liên lạc và kêu gọi Uỷ Ban Tương Trợ Việt-Miên-Lào và Hội Cựu Chiến Binh Đông Dương lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã vi phạm nhân quyền đối với tù binh Pháp sau chiến tranh Đông Dương.

3) Liên hệ với Thị xã Paris và một số dân biểu, nghị sĩ Pháp để đề nghị họ đưa vấn đề ra trước Quốc hội Pháp, nhắm yêu cầu chính phủ Pháp có ý kiến với UNESCO về đề nghị vinh danh HCM, vì trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Paris.

Trong lúc cuộc vận động đang diễn tiến, thì vào cuối thập niên 80, có ba sự kiện quan trọng xảy ra:

1) Trong nội bộ UNESCO, ông tổng thư ký M'Bow, thôi giữ chức tổng giám đốc, và ông Frédéric Mayer, người Tây Ban Nha đắc cử chức Tổng giám đốc. Ông Mayer không ủng hộ nhóm thiên tả, và không ủng hộ việc đề cử Hồ Chí Minh vào „Danh sách danh nhân văn hóa thế giới“.

2) Tại Việt Nam, số người vượt biên càng ngày càng cao. Từ năm 1975 đến năm 1989 (trước thời điểm Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn, không nhận người vượt biên), số người vượt biên đến được nơi tạm dung lên đến khoảng 900,000 người, không kể số người tử nạn trên đường vượt biên.(theo thống kê do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, được nhà báo Giao Chỉ ghi lại trong bài „Lịch sử 30 năm định cư tỵ nạn 1975-2005“, nhật báo Người Việt Online, ngày 1-4-2005.)

3) Các nước cộng sản Đông Âu bắt đầu lung lay và sụp đổ từ cuối năm 1989.

Cuộc vận động của Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh, phản ứng của Cộng đồng người Việt khắp thế giới, và ba sự kiện trên đây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến UNESCO và cuối cùng UNESCO quyết định không thi hành việc đề cử Hồ Chí Minh vào „Danh sách danh nhân văn hóa thế giới“. UNESCO cũng thông báo cho nhà cầm quyền Hà Nội biết, đại để như sau:

- UNESCO không tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh niên của Hồ Chí Minh tại Paris, cũng thư tại Hà Nội.

- Thuận cho Tòa Đại sứ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở Paris thuê một phòng tại trụ sở UNESCO để tự tổ chức, nhưng UNESCO không cử đại diện tham dự lễ.

- Trong buổi lễ, ban Tổ chức không được tuyên truyền rằng UNESCO đã đề cao Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, không được treo ảnh Hồ Chí Minh trong hội trường.

- Thiệp mời chỉ được ghi là "tham dự buổi văn nghệ".

Tuy UNESCO quy định như vậy, nhưng theo cung cách cộng sản, tòa Đại sứ CHXHCNVN vẫn lén lút làm giấy mời có nội dung vinh danh Hồ Chí Minh để gởi cho người Việt, còn in 100 giấy mời chính thức đề là "tham dự buổi văn nghệ" để gởi người ngoại quốc, nhắm tránh bị UNESCO khiển trách.

Trong cuộc nói chuyện trước Cộng đồng Việt Nam tại Montreal, vào ngày Chủ nhật 25-4-2004, bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, một nhà hoạt động chính trị kỳ cựu tại Paris, đã cho biết rằng sau khi UNESCO quyết định như trên, để vớt vát, tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Paris đã thuê một phòng tại trụ sở UNESCO ở Paris để tổ chức buổi trình diễn văn nghệ vào ngày 12-5-1989, đúng một tuần lễ trước sinh nhật của Hồ Chí Minh. Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, có khoảng 70 người hiện diện, bao gồm cả ban tổ chức và nhóm "Việt kiều Yêu nước" là tổ chức do CSVN lập ra. UNESCO và Pháp không cử đại diện đến dự. Chỉ có hai nước gởi người đến tham dự là Cambodia và Lào.

Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, ông Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp là Phạm Bình không đọc diễn văn, mà chỉ có ông Nguyễn Kinh Tài, đại diện CHXHCNVN tại UNESCO đọc bài viết ngắn về ý nghĩa buổi lễ, ca tụng sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhưng theo đúng tinh thần quyết định sau cùng của UNESCO, là không đề cập gì đến vấn đề danh nhân văn hóa thế giới.

Trong lúc đó, trong khi phía CSVN đang trình diễn văn nghệ, thì phái đoàn của Uỷ Ban Quốc Tế Trần Văn Bá do ông Trần Văn Tòng, Chủ tịch UBQTTVB, cùng với các học giả Olivier Todd, Jean Francois Revel, thành viên sáng lập UBQTTVB và bà Anne Marie Goussard, Tổng thư ký Hội Quốc tế Nhân quyền, đến gặp ban Giám đốc UNESCO để hỏi rõ mục đích và ý nghĩa của buổi sinh hoạt văn nghệ nầy tại một phòng họp của UNESCO.

Đại diện UNESCO xác nhận với phái đoàn Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá rằng, đây là buổi văn nghệ do Tòa Đại sứ CHXHCNVN tổ chức, chứ không phải là lễ vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO. Sau khi ban Giám đốc UNESCO xác nhận như trên, trong cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá tại trung tâm Maubert Mutualité (Paris 5ème) vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày 12-5-1989, ông Olivier Todd đã lên diễn đàn tường trình lại cuộc tiếp xúc với Ban Giám đốc UNESCO. Trong khi tường trình, ít nhất ông Olivier Todd đã hai lần nói rõ rằng Ban Giám đốc UNESCO xác nhận rằng UNESCO không tổ chức vinh danh Hồ Chí Minh, và cũng cho biết buổi trình diễn văn nghệ nhân kỷ niệm một trăm năm sinh niên Hồ Chí Minh vào chiều hôm đó, là do sáng kiến của Tòa Đại sứ CHXHCNVN mà thôi.

Sự kiện UNESCO không tổ chức lễ vinh danh Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới là thành quả của những vận động của cộng đồng Việt Nam hải ngoại và nhất là Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh tại Paris. Điều nầy cho thấy cộng đồng người Việt hải ngoại là một đối lực chính trị quan trọng đối với chế độ cộng sản hiện nay ở trong nước. Chỉ tiếc là sau khi thành công trong việc vận động UNESCO không thi hành việc vinh danh Hồ Chí Minh, cộng đồng người Việt hải ngoại và Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh không trình thuật toàn bộ nội vụ và kết quả, thật rõ ràng và thật rộng rãi trên khắp thế giới, để tránh việc tuyên truyền mờ ám và đánh lận con đen của CSVN.

Như thế, tổ chức UNESCO chưa bao giờ vinh danh Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới. Đó là sự thật của câu chuyện được các người tham dự tại chỗ kể lại. Nếu ai chưa tin, thì có thể liên lạc thẳng với những người trong cuộc, đã từng chứng kiến tại chỗ việc nầy, hiện còn sống ở Paris để hỏi cho rõ. Ngoài ra, hồ sơ của UNESCO vẫn còn đó, rộng mở cho tất cả những nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu của CHXHCNVN. Thời đại nầy là thời đại khoa học kỹ thuật thông tin tiến bộ, mọi dữ kiện đều được ghi nhận cụ thể, nên mọi người có thể sưu tra dễ dàng trong các văn khố, nhất là những nguồn tin không thuộc loại bí mật quốc gia như việc vinh danh một nhà hoạt động chính trị, chẳng cần gì phải để thời hạn lâu ngày mới công bố.

Nói thêm cho rõ: Nếu UNESCO quả thật có vinh danh ông Hồ Chí Minh, thì phải có văn bản vinh danh cụ thể, chứ không phải bằng lời nói suông. Trong trường hợp đó, chắc chắn nhà nước CHXHCNVN sẽ tổ chức lễ tiếp nhận văn bản nầy rất long trọng, chứ không im tiếng như lâu nay, và chắc chắn nhà cầm quyền CHXHCNVN sẽ làm ảnh sao (photocopy) văn bản nầy, công bố lên khắp mạng lưới thông tin toàn cầu để thu phục lòng người khắp trên thế giới. Hơn nữa, ảnh sao nầy sẽ được treo khắp hang cùng ngõ hẻm tại Việt Nam, kể cả bắt treo kèm với hình ông Hồ tại nhà của mỗi người dân. Người Việt Nam còn nhớ rõ, mỗi khi một di tích ở Việt Nam được UNESCO thừa nhận là di sản văn hóa thế giới như Mỹ Sơn (Quảng Nam), cổ thành Huế, Vịnh Hạ Long..., nhà nước CHXHCNVN đã làm lễ đón nhận sắc bằng của UNESCO ồn ào cờ trống suốt cả tháng trời, quảng cáo khắp thế giới, huống gì là chuyện ông Hồ.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Hồ Chí Minh Cấu Kết Với Pháp Tiêu Diệt Các Đảng Quốc Gia



Hứa Hoành


Thỏa hiệp án 14/9/1946: ông Hồ cấu kết với Pháp để tiêu diệt các đảng quốc gia

Kéo rốc sang Pháp làm gì?

Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay, còn nhiều bí ẩn chưa được giải tỏa. Người bàng quan, các thế hệ sau, sẽ không thấy được những âm mưu thầm kín của ông Hồ đã tiêu diệt người quốc gia, nếu như chúng ta không phát hiện được những bí mật lịch sử đọ Chúng tôi may mắn được nhà sử học Chính Ðạo, tức tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu, cho phép sử dụng nhiều tài liệu quý giá mà ông sao lục từ các văn khố, thư viện của bộ Thuộc Ðịa, bộ Ngoại Giao Pháp....để làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc lịch sử, vốn bị CS che giấu, nhiễu loạn từ hơn nửa thế kỷ qua. Chúng tôi chân thành cảm tạ Tiến sĩ Chiêu. Trong loạt bài nầy, chúng tôi sẽ trưng bằng chứng về những hành vi phản bội quyền lợi dân tộc của ông Hộ Nổi thao thức của ông Hồ lúc nầy là Việt Minh phải mắm chính quyền, không chia xẻ, nhượng bộ cho bất cứ đảng phái nào. Ðó là đường lối nhất quán, trước sau như một của đảng cộng sản. Ðây cũng là dự mưu, từ khi ngoài rừng núi Tân Trào kéo về Hà Nội. Căn cứ vào kết quả của cuộc thảo luận của ông Hồ cùng các cán bộ, thấy rằng công cuộc phát triển cách mạng của họ sẽ dẫn đến 2 trường hợp.

- Một là đủ sức cướp chính quyền, bản thân họ có đủ điều kiện để đàm phán bình đẳng các vấn đề với các nước Ðồng minh.
- Hai là lực lượng bản thân (Việt Minh) còn yếu kém... Việt Minh phải suy nghĩ đến việc cùng với nước Pháp tiến hành đàm phán, để tranh thủ một số quyền lợi và tự do dân chủ. Sau đó sẽ dùng những quyền lợi nầy làm vốn liếng để tuyên truyền, rồi tiến thêm một bước, đẩy tới cuộc vận động cách mạng, để tiếp tục đấu tranh với Pháp....’ (TưởngVĩnh Kính, Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, Thượng Huyền dịch, trang 339).

Hiểu rõ chiến lược của ông Hồ, cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi đối với kẻ thù chính là Pháp, thì ông Hồ tiếp tục nhân nhượng từ quyền lợi nầy đến quyền lợi khác. Ðang tuyên bố là một quốc gia độc lập, tự do (2/9/ 45), vài tháng sau, ông Hồ xin làm một ‘quốc gia tự do trong Liên Hiệp Pháp’ (tức đế quốc trá hình), và cho Pháp mọi quyền lợi đầy đủ tại Việt Nam như thời thuộc địa. (Xem nội dung thỏa hiệp án 14/9/46). Chủ trương của ông Hồ lúc nầy (1946) là dựa vào Pháp, cấu kết với Pháp để tiêu diệt các đảng quốc gia anh em, đang chia xẻ quyền hành với ông trong ‘chính phủ liên hiệp’, mà ông đã vật vã van nàị Cấu kết với Pháp để tiêu diệt người quốc gia tức là chủ trương ‘liên kết với A đánh B’

Ông Hồ thà nhường cho Pháp thống trị VN thêm một thời gian nữa, chứ không muốn các đảng phái quốc gia đứng ra lãnh đạo một nước VN độc lập, hoặc chỉ tham gia với Việt Minh để ‘đoàn kết chống Pháp’ như ông đã hùng hổ kêu gọi. Tất cả hành động của ông Hồ đều trước sau như một, nhằm giành lấy sự độc quyền lãnh đạo đất nước, đặng mấy năm sau tiến hành cuộc cách mạng vô sản, đưa toàn dân vào quỹ đạo cộng sản quốc tệ Vấn đề VN có sớm được độc lập hay không chỉ là thứ yếu. Quyền lợi dân tộc cũng chỉ là bình phong để ông Hồ thực hiện âm mưu nắm chặt chính quyền. Người quốc gia có thể nhìn thấy thủ đoạn của ông Hồ, hoặc nóng lòng vì độc lập tự do, nên đã ‘đoàn kết trong mặt trận Việt Minh’, để rồi tất cả chịu chung số phận oan nghiệt.

Sau ngày 2/9/45. VN trở thành quốc gia độc lập thật sự, mà kẻ thù chính là thực dân Pháp còn ở xa. Với Hiệp ước sơ bộ (6/3/1946), ông Hồ mời quân Pháp vào chiếm đóng Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc. Ðó là một trọng tội trong lịch sử. Ông cần rảnh tay để đối phó với các đảng theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc. Ðể che giấu chủ trương bắt tay với kẻ thù, ông Hồ tuyên bố chính sách ‘văn hóa Pháp Việt đề huề’ (điều 3 Thỏa hiệp án), ca tụng ‘nước Pháp mới’ (nước Pháp của thực dân) và Liên Hiệp Pháp, tức đế quốc trá hình. Nổi thao thức của ông Hồ lúc này (1946) là không muốn bất cứ một tổ chức hay cá nhân nào ngoài Việt Minh nắm quyền, hay chia xẻ quyền hành với Việt Minh. Hiểu như thế nên chúng ta mới không ngạc nhiên khi đối với kẻ thù chính là Pháp, thì ông ta đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Vừa mới tuyên bố độc lập, ông Hồ lại chịu nép mình trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, và cho Pháp có đầy đủ quyền lợi như thời thuộc địạ Thái độ của ông Hồ lúc nầy là dựa hẳn vào Pháp, cấu kết với Pháp, để tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Nếu thực tâm yêu nước và chiến đấu vì quyền lợi quốc gia dân tộc, ông Hồ và mặt trận Việt Minh đã tích cực chuẩn bị kháng chiến khi Pháp chưa trở lại VN. Ông đã bỏ phí thời gian (15 tháng, năm 1945 - 1946) mà còn phá nát thế đoàn kết chiến đấu của những đảng quốc gia đang ‘liên hiệp’ với ông trong cái chính phủ do ông làm chủ tịch. Ðiều này có nghĩa vì sự độc quyền lãnh đạo của Việt Minh, mà ông Hồ đã phá nát thế đoàn kết kháng chiến chống Pháp, làm cho thế lực Việt Nam yếu đi, nhưng ông vẫn làm, vì sự độc quyền lãnh đạo của Việt Minh.

Giữa lúc tình thế đất nước rối ren, chính cá nhân ông Hồ cùng mấy chục bộ trưởng dân biểu không thuộc CS, kéo rốc sang Pháp để tham quan, để thăm thiện chí, mà thực sự tình thế nước Pháp cũng lâm cảnh tang gia bối rối (chính phủ Gouin vừa mới đổ, còn chính phủ mới Bidault chưa thành lập), lại phải đón tiếp một vị khách bất đắc dĩ trong khi tình thế nội bộ chưa ổn định. Phái đoàn thiện chí của Hà Nội gồm 10 vị, do Phạm Văn Ðồng cầm đầu, gồm có: Phạm Văn Ðồng, (bộ trưởng) Trần Ngọc Danh (dân biểu Cần Thơ do CS chỉ định), Ðỗ Ðức Dục (bộ trưởng), Nguyễn Mạnh Hà (bộ trưởng), Nguyễn Văn Luân (dân biểu), Trình Quốc Quang, Tôn Ðức Thắng, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Tấn Di- Trọng. Rồi phái đoàn tham dự hội nghị Fontainebleau gồm trên 20 vị vừa bộ trưởng, vừa dân biểu. Giữa lúc đó, Pháp đã đưa quân vào Hà Nội, kéo đi chiếm đóng Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hải Dương, tích cực chuẩn bị đè bẹp kháng chiến. Tình hình kháng chiến Nam Bộ gần như bị đè bẹp hoàn toàn. Ðầu tháng 2/1946, Pháp kiểm soát hoàn toàn tất cả 21 tỉnh Nam Bộ và mấy tỉnh Nam Trung Bô Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhà Nho nổi tiếng yêu nước, ngay thật, không biết thủ đoạn chính trị, được ông Hồ cử làm quyền chủ tịch nước, chỉ để tượng trưng. Mọi việc đều được trung ương đảng gồm Trường Chinh, Trần Ðăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Kháng.....cùng với Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, cứ theo kế hoạch bí mật của ông Hồ mà thi hành. Chính Trung ương đảng thảo kế hoạch bí mật để khủng bố, tàn sát đẫm máu các đảng quốc gia, mới ‘liên hiệp’ với Việt Minh.

Có người binh vực cho rằng khi ông Hồ sang Pháp, không chịu trách nhiệm về tình hình xảy ra tại quê nhạ Lý luận như thế là sai lầm. Ông Hồ ra chỉ thị mật, nhận báo cáo của Trung ương đảng hàng đêm. Ðây là bí mật lịch sử tới nay ít ai biết. Pierre Celérier viết trong ‘Menace sur le Vietnam’ (1950): ‘Phái đoàn VN đi dự hội nghị Fontainebleau có đem theo chuyên viên vô tuyến điện, để đánh tin và bắt tin từ VN. Nhà chức trách tại Paris biết được bằng cớ về sự chuyển tin và báo tin, nhưng không thể phá vỡ được trên đất Pháp’ Hơn nữa, người Pháp biết ông Hồ chỉ khủng bố người quốc gia, chớ không tấn công quân Pháp, nên làm ngơ, vui mừng là khác. Ngày 1/6/46 ông Hồ nhận tin Việt Minh tấn công quân Ðồng Minh Hội tại Phủ Lạng Thương, Ðồng Mỏ, Lạng Sơn. Hạ tuần tháng 6/46, các cơ sở Quốc Dân Ðảng tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Tho(Xem thêm Hoàng Tường, Việt Nam Ðấu Tranh’ từ trang 89 - 101). Bị tập kích với lực lượng đông gấp 10 lần, bị Việt Minh bao vây, tuyệt lương, rồi tỉa dần từng toán nhọ Quá tuyệt vọng, các ông Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng ngoại giao), Nguyễn Hải Thần (Phó chủ tịch chính phủ), Vũ Hồng Khanh, phó chủ tịch Quân Ủy hộiđều bôn đào sang Trung Hoa lần nữa. Các đơn vị do Vũ Hồng Khanh, bị tập kích từ Lào Cay, Phong Thổ, khiến cho khoảng 600 quân VN Quốc Dân Ðảng tan rã, cuối cùng, rút theo ngả Vân Nam. Ðó là ‘thế đoàn kết’, ‘liên hiệp’ với Việt Minh, một kinh nghiệm máu xương trong lịch sự Ngoài ra, hàng ngày, tại Hà Nội, Việt Minh khủng bố, bắt cóc, thủ tiêu đối lập như đảng mafia: Hoàng Ngọc Bách, Nguyễn Bạch Vân, Trần Quốc Lạc, Hoàng Tử Quy đều bị ám sát chết.

Ðọc lịch sử giai đoạn nầy, nhiều người không hiểu tại sao Việt Minh lại tiêu diệt những người quốc gia trong chính phủ của họ. Lý do thứ nhứt, Việt Minh là CS trá hình. Lý thuyết cách mạng của Mác xít đã dạy: ‘Cuộc đấu tranh cho giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu phải mang hình thức đấu tranh dân tộc... Ðương nhiên và trước hết, giai cấp vô sản phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình trước đã’ (Mác Angen tuyển tập, NXB Sự Thật Mátcơva 1978, trang 555, tập 1. Dẫn lại của LS Nguyễn Văn Chức). Thứ hai, để thực hiện con đường cách mạng vô sản, ông Hồ phải làm sao cho đảng CS (tức Việt Minh) phải nắm được chính quyền hoàn toàn, để lần lượt đưa dân tộc và đất nước đi vào quỹ đạo cộng sản quốc tệ Ông Hồ đã nói với cán bộ: ‘Lúc nầy nước Pháp không phải là kẻ thù trước mắt. Bọn Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, Ðồng Minh Hội, Cao Ðài, Hòa Hảo trong Nam... mới là kẻ thù không đội trời chung. Người quốc gia không hiểu sách lược của CS nên trở thành nạn nhơn của CS.

Việt Minh mở chiến dịch ‘tổng ruồng, vét sạch’ từ Nam chí Bắc. Họ lùng sục bắt giam, tra tấn, thủ tiêu những người quốc gia, kể cả những đại biểu quốc hội mà họ chia ghế như Lê Khang (Lê Nin), nhà văn Khái Hưng, Nguyễn Mạnh Côn.....(bị bắt, sắp giết......) Lê Khang, chủ nhiệm đệ tam khu bộ VNQD, nằm bệnh viện Ðặng Vũ Lạc trước ga Hàng Cỏ, bị VM đến bắt đem đi, rồi giết ở Vĩnh Yên. Còn các ông Phạm Tất Thắng, Nguyễn Tắc Chung, Nguyễn Quỳnh (dân biểu Nam Ðịnh), đảng trưởng Ðại Việt Trương Tử Anh.... đều bị Việt Minh sát hại. Nhà văn Khái Hưng bị bắt ở Liên khu 3, rồi bị trấn nước chết tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, vào năm 1947. Ðó là ‘đoàn kết trong mặt trận Việt Minh’ Tại miền Trung và Nam Bộ, đều thi hành một chính sách khủng bố man rợ như vậỵ Những năm đó, Việt Minh tung công an chìm rình rập, bắt bớ những phần tử mà họ cho là nguy hiểm, đem giam ‘để điều tra’, hoặc thủ tiêu trong đêm bằng hình thức chặt đầu, mổ bụng, trói thúc ké thả trôi sông.

Về chính trị, Việt Minh nhân danh chính phủ liên hiệp, buộc các báo của các đảng quốc gia như ‘Việt Nam’, ‘Thiết Thực’ phải nạp bản kiểm duyệt trước khi phát hành. Tóm lại, chủ trương của Việt Minh là tận diệt đối lập, là bịt miệng, trói tay, bí mật thanh toán, rồi ngụy tạo bản án ‘Việt gian’, ‘phản quốc’, ‘thổ phỉ’ như vụ án Ôn Như Hầu, vụ án Cầu Chiêm Sơn (xem thêm Hoàng Văn Ðào, VN Quốc Dân Ðảng trang 362 - 363). Ðó là chủ trương thầm kín để tiêu diệt các đảng phái quốc gia, của ông Hồ khi kéo rốc qua Pháp để tránh tiếng. Cũng xin nhắc thêm về hành động ‘hợp tác rồi khủng bố’, trở mặt như trở bàn tay của Việt Minh tại Hà Nội.

Ngày 18/6/46, Việt Minh hợp tác với VN Quốc Dân Ðảng để tổ chức lễ kỷ niệm Phạm Hồng Thái (19/6) và Nguyễn Thái Học (17/6). Qua ngày 11/7/ 46, Việt Minh đem quân bao vây tiêu diệt các thành phần mới vừa hợp tác mấy hôm trước. Lúc 6 giờ chiều Việt Minh bố ráp trụ sở VNQD tại trường Tiểu Học Ðỗ Hữu Vị, bắt hết đối lập, lục soát báo quán ‘Việt Nam’ kế đó tới vụ dàn cảnh ‘vụ án Ôn Như Hầu’ Ông Hồ biết rõ Việt Minh đã để lộ chân tướng CS, nên không được Anh, Mỹ cảm tình. Nếu tiếp tục giữ mặt trận Việt Minh, sẽ thất bại trong hội nghị sắp tới tại Fontainebleau, vì thế ông Hồ ra lịnh gấp rút tổ chức một mặt trận khác, để gom hết nhân dân vào một khối, do ông ta và đảng CS nắm chặt, nhưng bên ngoài có tính ‘quốc gia’ hơn. Trần Huy Liệu được căn dặn tổ chức ‘Hội Liên Hiệp Quốc Dân VN’, gọi tắt là ‘Liên Việt’ nhằm mục đích trên. Còn Võ Nguyên Giáp được lịnh ở lại với nhiệm vụ bí mật là khủng bố tất cả người quốc gia. Ông còn ra lịnh cho Giáp ‘hãy hy sinh tất cả để mua thật nhiều súng của quân đội Trung Hoa sắp rút đi’ Thứ hai là vận dụng tất cả khả năng để tiêu diệt những người quốc gia.

Thời gian hơn 4 tháng, ông Hồ qua Pháp (chưa có một chuyến công du, thăm viếng thiện chí của bất cứ nguyên thủ quốc gia nào quá lâu như vậy), Trung ương đảng thi hành kế hoạch mật khủng bố, ám sát, thủ tiêu, hoặc bao vây tiêu diệt quân đội QD, Ðồng Minh Hộị Các việc làm nầy phải báo cáo với ông Hồ tại Pháp hàng đêm. Còn ‘Hội Liên Việt’ tức hội ‘Liên Hiệp Quốc Dân VN’, thì ông Hồ quỷ quyệt rút tên ra, chỉ làm chủ tịch danh dự. Ông lừa nhà Nho yêu nước Huỳnh Thúc Kháng làm chủ tịch, để lôi kéo những thành phần quốc gia vào mặt trận. Phó chủ tịch là Tôn Ðức Thắng (CS). Tổng thơ ký là Cù Huy Cận (CS). Các ủy viên là BS Phạm Ngọc Thạch, trước ở Sàigòn là quốc gia, sau ra Hà Nội bi nhuộm đỏ! (Hồi ký Nam Ðình, trang 341). Trần Huy Liệu, ủy viên tổ chức (CS), chỉ một nhân vật không CS, thuộc Công giáo là Ngô Tử Hạ, bị đưa vào làm bình phong và tay sai. Tại mỗi làng, mỗi tổng, mỗi tỉnh đều có một ủy ban lãnh đạo mặt trận ‘Liên Việt’ do CS nắm giữ.

Ngày 12/6/46, ông Hồ và phái đoàn tới Biarritz, phía nam nước Pháp, chờ đợi Pháp thành lập chính phủ mới, vì chính phủ Gouin đã độ Tình hình nước Pháp đang rối ren mà ông Hồ nhứt định công du, điều đó chứng tỏ ý đồ thầm kín của ông là muốn lánh mặt khỏi VN, để bọn đàn em tiêu diệt Quốc Dân Ðảng và Ðồng Minh Hội. Gần hai tuần sau, tân chính phủ Bidault được tấn phong. Sainteny đưa ông Hồ lên Paris. Trong hồi ký ‘Histoire d'une paix manquée’, tác giả Sainteny kể lại: ‘Hồ Chí Minh hai tay run, nói bên tai tôi:
- Anh đừng rời tôi! Thiên hạ đông quá!
-
Sử gia Philippe Devillers phê bình: ‘23 năm trước, Hồ Chí Minh từ giả Paris như một người bị trục xuất, nay ông ta trở lại đây với tư cách chủ tịch một chính phủ (do quốc hậu bầu cử gian lận tấn phong), quả thật là một định mệnh’ Ðây cũng là lý do thầm kín để ông Hồ công du qua Pháp, như trả thù lúc ông ta làm bồi tàu, làm bếp khách sạn, bị bạc đãi. Rồi các cuộc đón tiếp diễn ra theo nghi thức quốc trưởng: ông đến thăm Khải Hoàn Môn, đền Versailles, Tòa Thị Chính, L'Opera, đài chiến sĩ trận vong... đi tới đâu cũng có đoàn xe mô tô hộ tống và dẫn đường.

Bí mật thương thuyết thỏa hiệp án, Hội nghị Fontainebleau thất bại

Trong khi chuẩn bị hội nghị Fontainebleau, và trong lúc tiếp diễn (từ 6/7/46 tới 10/9/46), ông Hồ cử người đi đêm thương thuyết với Pháp, chấp thuận nhiều nhượng bộ về quyền lợi cho Pháp, nên tại hội nghị, Pháp giữ lập trường cứng rắn. Hai bên về mặt công khai, không thỏa thuận điều gì, nên thất bạị Lý do là tại ông Hồ muốn dựa vào Pháp, nhưng lại sợ dư luận công khai biết. Mãi đến khi hội nghị sắp kết thúc, đêm 10/9/46, ông Hồ thương thuyết bí mật với các phái viên của văn phòng chính phủ Bidault. Hai bên đã thỏa thuận trên căn bản nhiều vấn đề, ngoại trừ vấn đề Nam Bô (Chính Ðạo ‘VN Niên Biểu, Tập 1A, trang 347).

Xin nhắc lại chương trình nghị sự của hội nghị Fontainebleau gồm 4 điểm:

1. Thống nhứt VN (Hội nghị đồng ý để có cuộc trưng cầu dân ý quyết định).
2. Vấn đề quan thuế
3. Ðại diện ngoại giao.
4. Văn hóa.
Ba vấn đề sau, đã được ông Hồ chấp thuận hoàn toàn theo đề nghị của Pháp. Tài liệu lích sử của ông Nam Ðình Nguyễn Kỳ Nam, trang 350 ghi lại như sau: ‘Ngày 11/7/46, phái đoàn Pháp đưa cho phái đoàn VN một văn kiện giải thích ‘Liên Hiệp Pháp’ là một tổ hợp có nhiều xứ liên quan với Pháp mà thôị Còn Liên bang Ðông Dương là một ‘Hiệp chủng quốc’ Phái đoàn VN phúc đáp ngày 12/7/46: ‘VN nằm trong Liên Hiệp Pháp là một sự hợp tác tự do, bằng nhau về mọi phương diện và quyền lợi Còn VN trong liên bang Ðông Dương tức là VN trong phạm vi kinh tế, tài chánh. ‘Như vậy, về công khai giữa hội nghị, hai phái đoàn khác nhau về lập trường đối với Liên Bang Ðông Dương và Liên Hiệp Pháp, nhưng trong bí mật, ông Hồ đã chấp thuận tất cả. Như vậy làm sao Pháp nhượng bộ điều gì. Cùng ngày 12/7/46, để trấn an dư luận, Hồ Chí Minh họp báo, giải thích: ‘Giữa Pháp và VN sẽ có một hiệp ước riêng (tức thỏa hiệp án 14/9/46) mà Pháp phải nhìn nhận nguyên tắc ‘Dân tộc tự quyết’. ‘Còn vấn đề Liên bang Ðông Dương, là vì Ðông Dương gồm có Miên và Lào, nên cơ quan nầy đang hợp tác nhau về mặt kinh tế thôi, chớ đừng lập lại chế độ Toàn quyền trá hình. (sự thật là như vậy).

......Về ngoại giao, Pháp muốn VN chỉ biết có Pháp mà thôi. Còn VN thì bảo rằng ‘đã là một nước độc lập, thì VN phải có bộ ngoại giao riêng, trực tiếp với các nước khác. Về chính trị, phái đoàn Pháp bảo rằng ‘đó thuộc về thẩm quyền của chính phủ Pháp, phái đoàn Pháp chỉ biết chuyển nghị án của VN lên chính phủ Pháp mà thôi. Trong lúc lập trường hai phái đoàn không đồng ý điểm nào, thì Cao Ủy d'Argenlieu phá hội nghị bằng cách mở hội nghị Liên Bang Ðông Dương tại Ðà Lạt, từ ngày 23/7/46, nhưng mãi đến 1/8/46 mới khai mạc. Phái đoàn VN gồm 3 phần: Nam Kỳ quốc với Ðại tá Nguyễn Văn Xuân làm trưởng đoàn. Ông Nguyễn Văn Xuân bị ông Hồ lấy tên để trong ‘chính phủ lâm thời tự phong’ từ rừng sâu, mà không hỏi ý kiến, cũng chưa từng gặp gỡ, quen biết (Buổi họp kín của 8 đảng viên CS, ngụy tạo là ‘Quốc dân đại hội Tân Trào’). Thủ đoạn này cũng giống như trường hợp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ông Hồ chỉ nghe mang máng là thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong, liền ‘chộp’ đại tên ‘Phạm Văn Thạch’ lồng trong danh sách thành viên ‘chính phủ’ Thêm một nhân vật khác là Lê Văn Hiến, mặc dù là CS, nhưng cũng không thuộc phe ông Hồ, đang ở miền Trung, được ông Hồ mượn tên, gọi Lê Quốc Hiến’, để trong danh sách ‘chính phủ lâm thời’, để dư luận hiểu lầm rằng những vị này có vô rừng Tân Trào họp ‘quốc dân đại hội’ Ðó là những sự kiện dối trá, cho tới nay rất ít người biết.

Phái đoàn VN thứ hai là của sắc tộc Chàm, do ông Lưu Ái cầm đầu. Phái đoàn thứ ba của đồng bào Thượng ở vùng Ban Mê Thuột, do Ma Krong (tù trưởng Ê Ðê) và y sĩ Djac Ayun (Chính Ðạo ‘VN Niên Biểu, tập 1A, trang 345). Như vậy, vùng rừng núi VN, bị Pháp xẻ làm nhiều ‘nước tự trị’, không kể Miên, Lào. Mãi đến ngày 7/9/46, theo hồi ký của Nam Ðình, phái đoàn VN yêu cầu phái đoàn Pháp tạm ngưng những điểm khác, để thảo luận lại các vấn đề ‘kinh tế tài chính, quan thuệ hai phái đoàn trao đổi văn kiện, cùng nhau thảo luận đêm 9 rạng 10/9/46. Hai phái đoàn làm việc suốt đêm, chờ sáng ngày 10/9/46 sẽ thảo ra tạm ước (tức Thỏa Hiệp Án 14/9/ 46).

Ðến khi tái nhóm, phái đoàn VN yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề khác, như yêu cầu Pháp hứa chắc chắn và rõ rệt về ngày giờ và cách thức trưng cầu dân ý ở Nam Bô Pháp không chịu cam kết, VN không chịu ký ‘tạm ước về tài chính, quan thuê’ Thế là hội nghị tan vỡ. Phái đoàn xuống tàu Pasteur về nước ngày 16/9/46....

Còn Hồ Chí Minh...Sainteny kể lại rằng: ‘HCM rời khách sạn Royal Monceau, xuống Soisy Sous Montmorency, tạm trú tại biệt thự của Aubrac, viện lẽ nên xa Paris vài ngày cho không khí bớt căng thẳng... Nhưng trước khi rời Paris, ngày 14/9/46, Hồ đến viếng Marius Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, trao đổi thêm về bản Tạm ước. Hồ Chí Minh cũng có đến thủ tướng Bidault tâm tình rằng: ‘Tôi làm sao ăn nói với các đảng đối lập với tôi, khi tôi về tay không?’ ‘Mãi đến nửa đêm ngày 14 rạng 15/9/46, Hồ Chí Minh gõ cửa Moutet ở số 19 đường Courcelles, nhằm lúc Moutet còn thức.

- Tôi đến đây bằng lòng ký Tạm Ước (Thỏa Hiệp Án). Thế là Tạm ước được ký kết giữa Moutet và Hồ Chí Minh trong phòng ngủ của Moutet. ‘Hồ Chí Minh ra về, cùng đi với một thanh tra Pháp, đã đi theo hộ tống từ trước đến naỵ Trong lúc đêm khuya lạnh lẽo, ông Hồ than với viên thanh tra mật thám Pháp:

- Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi! Dưới đây là nguyên văn ‘Thỏa hiệp án’ hay Tạm ước 14/9/46, được tờ báo Nam Kỳ số ra ngày 23/9/46, đăng lại như sau:

Nguyên văn bản Thỏa Hiệp Án:
Làm tại Paris ngày 14 Septembre 1946:
Thay mặt chính phủ lâm thời Pháp: Tổng trưởng Pháp quốc hải ngoại. Ký tên: Marius Moutet
Thay mặt chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam: Chủ tịch chính phủ. Ký tên: Hồ Chí Minh.
Công nhận đúng theo bản thảo. Tổng thơ ký Ủy ban Ðông Dương. Ký tên: Messmer
‘Toàn thể các điều dự định trong bản thỏa hiệp án nầy, làm thành hai bản, sẽ được đem ra thi hành vào ngày 30 Oct 1946.
Ðiều thứ I:
Kiều dân VN ở Pháp và kiều dân Pháp ở VN, sẽ được tự do sanh cư y như người bổn quốc, cùng những quyền tự do phát biểu, giáo dục, thương mại, thông hành. Tóm lại là tất cả tự do dân chủ
Ðiều thứ II:
Sản nghiệp và xí nghiệp Pháp ở VN, sẽ không đặt dưới một chế độ gắt gao hơn chế độ dành cho sản nghiệp và xí nghiệp của người VN, nhứt là về thuế vụ và lao động pháp chế. Sự bình đẳng về quy điều này, sẽ được nhìn nhận bằng danh nghĩa đãi ngộ lẫn nhau, cho sản nghiệp và xí nghiệp của kiển dân VN, trong các lãnh thổ Pháp quốc hải ngoại. Quy điều sản nghiệp và xí nghiệp Pháp ở VN, chỉ được sửa đổi bằng sự thỏa hiệp chung giữa Cộng hòa Pháp và Cộng hòa dân chủ VN. Tất cả sản nghiệp Pháp bị chính phủ VN trưng thâu mà những tài chủ, hoặc những xí nghiệp bị nhà cầm quyền VN làm cho họ trở nên trắng tay, sẽ được quy hoàn cho những chủ nhơn và những người có quyền nhận lãnh.

Một ủy ban Pháp Việt sẽ được đề cử để quy định các thể thức quy hoàn nầỵ
Ðiều thứ III:

Cho được phục hồi ngay bây giờ cuộc văn hóa giao tế mà Pháp Việt đồng muốn khuếch trương, các học đường Pháp, một vài đẳng cấp sẽ được tự do dạy ở VN. Những học đường ấy sẽ áp dụng các chương trình chính thức Pháp. Về sau sẽ do hiệp định riêng mà chọn lựa những tòa nhà thích ứng cho sự dạy học của các học đường, những trường, những khoa học viện ở toàn cõi VN. Kiều dân VN ở Pháp cũng được hưởng y đặc quyền nàỵ Y viện Pasteur sẽ được phục hồi quyền lực và sản nghiệp của mình. Một ủy ban Pháp Việt sẽ quy định những điều kiện cho trường Viễn Ðông Bác Cổ hoạt động lại.

Ðiều thứ IV:
Mỗi khi có cần dùng những nhà cố vấn kỹ thuật và chuyên môn, thì chính phủ Cộng hòa Dân Chủ VN, phải gọi đến Pháp kiều trước nhứt. Ðặc quyền ban cho Pháp kiều chỉ không có hiệu lực là khi nào nước Pháp không thể cung ứng nhân viên mà VN yêu cầu.

Ðiều thứ V:
Liền sau khi giải quyết vấn đề điều chỉnh tiền tệ, hiện thời chỉ có một thứ bạc chung đem ra xài trong các lãnh thổ thuộc quyền chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ VN, và các lãnh thổ khác ở Ðông Dương. Thứ bạc ấy, chính là đồng bạc Ðông Dương, do nhà băng Ðông Dương phát hành hiện thời, để chờ lập ra một phát ngân viện. Ðiều lệ của cơ quan phát hành viện, sẽ do một Ủy ban Pháp Việt nghiên cứụ Các nước có chơn trong liên bang, sẽ có đại biểu trong đọ Ủy ban nầy còn có phận sự liên lạc tiền tệ và các sự mậu dịch. Ðồng bạc Ðông Dương được xài trong khu vực đồng phật lăng (francs).

Ðiều thứ VI:
VN sẽ cùng các xứ khác trong liên bang Ðông Dương, tạo thành một liên hiệp quan thuệ Tuy vậy, trong xứ sẽ không có một bức tường quan thuế nào cả. Việc xuất nhập lãnh thổ Ðông Dương đều dùng chung định giá. Một ủy ban liên lạc thương chánh và ngoại thương, cũng giống như ủy ban liên lạc tiền tệ và mậu dịch, sẽ nghiên cứu các biện pháp thi hành cần thiết và chuẩn bị tổ chức thương chánh ở Ðông Dương.

Ðiều thứ VII:
Một ủy ban Pháp Việt liên lạc về giao thông, sẽ nghiên cứu các biện pháp chánh để khôi phục và cải thiện cuộc thông thương giữa VN và các xứ khác trong liên bang Ðông Dương và Liên hiệp Pháp: vận tải đường bộ, đường biển, đường hàng không, sự thông gởi bằng bưu chánh, dây nói, điện tuyến và vô tuyến điện.

Ðiều thứ VIII:
Trong khi chờ đợi sự thành lập của bản hiệp ước hoàn toàn giải quyết xong vấn đề ngoại giao của nước VN với những nước khác, một ủy ban Pháp Việt sẽ định đoạt những điều giải hầu bảo đảm việc VN đặt lãnh sự ở các lân bang, và cuộc giao thiệp giữa lãnh sự ấy với các lãnh sự ngoại quốc.

Ðiều thứ IX:
Tha thiết bảo đảm càng sớm chừng nào càng hay chừng ấy, ở Nam Bộ và miền Nam Trung Kỳ, sự khôi phục một trật tự công cộng vừa cần thiết cho nguyện vọng tự do về các quyền tự do dân chủ vừa vãn hồi, và nhận định những phản động lực may mắn phát do sự ngưng những hành động xung đột và bạo động của đôi bên. Chính phủ Pháp và chính phủ Cộng Hòa Việt Nam, đồng thảo các biện pháp sau đây:

a. Ðôi bên chấm dứt tất cả những hành động xung đột và bạo động.
b. Những hiệp định của các bộ tham mưu Pháp Việt, sẽ quy định các điều kiện thi hành và kiểm soát những biện pháp quyết định chung.
c. Những tội phạm hiện còn bị giam cầm về nguyên do chính trị, sẽ được thả ra, chỉ trừ những kẻ bị truy tố về hình sự và thường phạm (droit commun). Với những tù binh bắt được trong các cuộc hành quân, cũng sẽ quy định y như thệ Việt Nam đảm bảo không truy tố bất cứ người nào đã cộng tác hoặc trung thành với Pháp quốc, và chẳng dung tha bất cứ bạo hành nào chống những kẻ ấy. Bù lại, chính phủ Pháp cũng đảm bảo không truy tố bất cứ người nào cộng tác với Việt Nam, và không dung tha bất cứ bạo hành nào chống lại kẽ ấy.
d. Việc hưởng các quyền tự do dân chủ giải thích ở điều khoản thứ I, sẽ được đôi bên đảm bảo lẫn nhau.
e. Sẽ chấm dứt những sự tuyên truyền bất hữu ái của đôi bên.
f. Chính phủ Pháp và chính phủ Cộng hòa Dân Chủ Việt Nam, sẽ cộng tác với nhau, để làm cho kiều dân các nước nghịch cũ, không làm hại gì được nữa.
g. Một nhân vật do chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam đề cử, và được chính phủ Pháp công nhận, sẽ được gởi tới bên Thượng sứ Pháp, để cộng tác và thi hành những điều thỏa thuận nầy.

Ðiều thứ X:
Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, đồng ý chung tìm cách ký kết những hiệp định riêng về tất cả vấn đề có thể đưa ra hầu thắt chặt tình hữu nghị, và dọn đường để ký kết một hiệp ước chung vĩnh viễn.Cuộc thương thuyết sẽ tiếp tục về mục đích nầy sớm chừng nào càng hay, và trễ lắm là vào tháng Janvier 1947.

Ðiều thứ XI:
Toàn thể những điều khoản trong “Thỏa hiệp án” nầy chia làm hai bản, sẽ được thi hành vào ngày 30 Octobre 1946.”

Ðọc qua nội dung, chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh nhượng bộ Pháp gần như đầy đủ các quyền lợi như hồi Việt Nam còn là thuộc địa của nước Pháp. Ở vào hoàn cảnh lúc đó, người ta mới thấy sự thiệt thòi của Việt Nam. Với hiệp ước tạm 14/9/46 hay “Tạm ước” nầy, nước ta chỉ hưởng được những từ ngữ mới “Nước Việt Nam Cộng Hòa Dân Chủ”, được tự dọ, còn sự thật, người Pháp nắm tất cả mọi ngành, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, quan thuế, tiền tệ. Lý do thầm kín là ông Hồ cần dựa vào Pháp, cần cộng tác với Pháp, để có thì giờ tận diệt người quốc gia. Với đảng Cộng Sản Ðông Dương lúc đó (dù trên danh nghĩa giả bộ giải tán từ 11/45), nước Pháp không phải là kẻ thù trước mắt. Các đảng Ðại Việt, Quốc Dân Ðảng, Ðồng Minh Hội, Cao Ðài, Hòa Hảo, Trotkyst.... tuy là đồng bào ruột thịt, cùng một mục đích tranh đấu giành độc lập, nhưng bị ông Hồ và Việt Minh coi như thù địch không đội trời chung. Ðó là chính sách, đường lối của ông Hồ và mặt trận Việt Minh, rồi Liên Việt. Vì cần bảo vệ sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản, ông Hồ phải bí mật tiêu diệt tả hữu, từ Trotkyst đến người quốc gia, không cho một mầm mống nào tồn tại.

Trong con mắt của ông Hồ thời đó, nước Pháp bấy giờ là “nước Pháp mới”, vì có tổng bí thư đảng Cộng Sản Pháp Maurice Thorez làm phó thủ tướng chính phủ. Trong chuyến đi Pháp lần này, ông Hồ còn đem theo 20 kg vàng, tặng cho báo l“Humanité, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Pháp, để họ làm cái loa ủng hộ ông ta và Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Vì thế khi vừa đặt chân lên Paris, ký giả Simonne Terry của l“Humanité liền viết một bài “l“Oncle Hồ” (Bác Hồ), để ca ngợi ông ta. Sự thật chính cái “nước Pháp mới” đã đổ bộ vào miền Bắc Việt Nam, đưa quân chiếm các vị trí hiểm yếu, đang sẵn sàng đè bẹp các cuộc chống đối của kháng chiến VM. Ðiều này có hại cho dân tộc Việt Nam, nhưng có lợi cho riêng ông Hồ và đảng Cộng Sản của ông ta.

Hồi các năm 1945 - 46, Việt kiều tại Pháp có đoàn kết, nhưng không suy tôn, thờ phụng Hồ Chí Minh như thần thánh, không làm lễ sinh nhựt của ông ta như đảng Cộng Sản Việt Nam mong muốn. Họ ủng hộ Việt Minh trong chừng mực nào đó, và phản đối ông Hồ trong “Thỏa hiệp án 14/9/46”, cũng như Hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/46.

Xin nhắc lại tình hình của người Việt tại Pháp hồi năm 1946. Khi ông Hồ sang Pháp, thì cộng đồng Việt kiều ở đây khoảng 14.000 người, gồm lính thợ, công binh, một số ít gia đình, du học sinh có mặt ở Pháp. Cộng đồng Việt kiều có đoàn kết, nhưng không“đoàn kết trong mặt trận VM, không chịu nhận sự lãnh đạo của Việt Minh (Xem thêm Ðặng Văn Long “Người Việt ở Pháp, trang VIII đến IX). Cần phân biệt có hai thứ đoàn kết: Một là “đoàn kết trong mặt trận VM”, “đoàn kết chung quanh bác Hồ” Còn đoàn kết theo nghĩa thông thường, để gây sức mạnh, thì lúc đó không còn nữa. Một người có nhiều kinh nghiệm về “đoàn kết” là ông Bùi Tín, viết: “Ðoàn kết trong mặt trận Việt Minh, trong mặt trận Liên Việt, hay trong mặt trận Tổ Quốc... có nghĩa là theo sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, vâng lời đảng Cộng Sản, chịu mọi sự áp đặt của đảng Cộng Sản. Nói khác với đảng, cãi lại đảng là “vi phạm tinh thần đoàn kết”, là nhằm cách phá vỡ khối đoàn kết, là có tội, có khi tội rất nặng” (Mặt thật, trang 120). Dù chưa có kinh nghiệm với VM, Việt kiều có lẽ cũng thấy rõ những âm mưu thầm kín của họ Việt kiều chỉ đoàn kết để tranh giành độc lập cho nước Việt Nam, nhưng không tranh đấu dưới ngọn cờ của VM, của Cộng Sản.

Vì lẽ đó, khi vừa tới Pháp, ông Hồ tìm cách phá vỡ khối đoàn kết (không chịu theo VM). Ông tìm cách phá hoại sự đoàn kết của người theo chủ nghĩa quốc gia với những người Trotkyst, tức Cộng Sản đệ tứ, kẻ thù không đội trời chung của ông Hồ, tức Cộng Sản đệ tam. Tại Pháp, ông Hồ không thể dùng chính sách khủng bố để tiêu diệt những kẻ “không chịu đoàn kết trong mặt trận VM” Ông Hồ sử dụng âm mưu về chính trị “kêu gọi công binh, Việt kiều” hãy đoàn kết chung quanh bác Hồ“

Sống lâu trên đất Pháp, người Việt nhiễm tư tưởng tự do, không bị gò bó như dưới chế độ thuộc địa. Họ tố cáo ông Hồ khi thấy ông để lộ gian ý “ủng hộ nước Pháp mới”, tức nước Pháp thực dân, chỉ vì có lãnh tụ Cộng Sản Pháp làm phó thủ tướng chính phụ Việt kiều cũng tố cáo “Liên hiệp Pháp” chính là đế quốc trá hình mà ông Hồ không ngớt ca tụng.... Bây giờ, ông Hồ đường đường chính chính là chủ tịch nước, do quốc hội bầu cử gian lận (xem “Trần Trọng Kim” Một cơn gió

bụi, trang 104) tấn phong. Ông Hồ tìm mọi cách dựa vào đảng Cộng Sản Pháp để nhờ họ giúp đỡ. Khốn nỗi, khi chưa chiếm được chính quyền, đảng Cộng Sản kêu gọi “hãy giải phóng các dân tộc thuộc địa”, giải phóng giai cấp bị bốc lột. Ðến khi Maurice Thorez trở thành phó thủ tướng chính phủ, còn nhiều đảng viên trở thành bộ trưởng, thì Cộng Sản Phap liền trở mặt: “Cỡ đại Pháp phải được cắm lại trên các thuộc địa” (Thorez). Báo l“Humanité, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Pháp, số ra ngày 3/8/44, ủy viên trung ương đảng Cộng Sản Pháp tuyên bố: “Nhân dân Pháp muốn rằng xứ Ðông Dương, cũng như các đại thuộc địa khác, sẽ trở về nước Pháp đầy đủ, không mất một tấc đất nào, để xây dựng một cộng đồng Liên bang Ðại Pháp” Tháng 1/45, tờ nhựt báo “Ce Soir”, cơ quan của đảng Cộng Sản nhấn mạnh: “Là một đại cường quốc, nước Pháp phải được tham gia vào cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Là một đại cường quốc có thuộc địa, nó (Pháp) phải giữ lấy thuộc địa ở khắp nơi và tái chiếm Ðông Dương” (Ðặng Văn Long, Người Việt ở Pháp 1940 - 1954, trang XII).

Hồ Chí Minh cử ông Trần Ngọc Danh (em ruột Trần Phú) làm đại diện chính thức cho chính phủ tại Pháp từ năm 1946. Ðể lôi kéo những người không thích Cộng Sản, Danh tuyên bố “Hồ Chí Minh không phải là người Cộng Sản” Chưa hết, Danh còn cho in lại bài phỏng vấn của nhà báo Thụy Sĩ, trong đó Hồ Chí Minh nói: “Các bạn của Việt Nam đừng quá lo ngại, chủ nghĩa Cộng Sản không thể nào du nhập được ở xứ tôi”. Rõ ràng chính ông là cán bộ quốc tế cộng sản, đã đem chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam từ thập niên 1920, mà bây giờ ông lại phủ nhận điều đọ Quả thật, đây là thủ đoạn của ông Hồ. Ông nói láo không ngượng miệng. Nên nhớ khi, còn ở Tân Trào, ông tâm sự với mấy người Mỹ trong toán OSS, đang huấn luyện cho du kích của ông: “Những cán bộ lãnh đạo VM, đã bị mật thám Pháp vu cáo là Cộng Sản” (Chính Ðạo “HCM: Con người. Huyền thoại”, trang 357). Còn trong báo “Ðộc Lập” (tức Cộng Sản trá hình) xuất bản ngày thứ ba 4/9/45, trong danh sách chính phủ “quốc gia” liên hiệp, ông Hồ: chủ tịch kiêm ngoại giao “đảng quốc gia”. (Xin xem tờ báo đính kèm với bài nầy).

Qua thỏa hiệp án nầy, cũng như trong Hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/46, Hồ Chí Minh đã bán rẻ quyền lợi quốc gia dân tộc, kéo dài thêm cuộc kháng chiến, để củng cố quyền lãnh đạo của Cộng Sản. Chiêu bài “độc lập”, “tự do” cũng chỉ là những công cụ tuyên truyền lừa dối. Mặt trận Việt Minh, cũng như người sáng lập ra nó (ông Hồ), chỉ là một cái công ty chuyên môn lừa bịp, khủng bố, đàn áp, nhưng lại ngụy trang trong bộ mặt đấu tranh “giải phóng dân tộc” Ngoài một số trí thức có nghiên cứu về chính trị, biết rõ thủ đoạn của Cộng Sản, còn đại đa số người dân, hay quần chúng Việt Nam, vì chưa có kinh nghiệm, lại nóng lòng vì độc lập, tự do, nên trở thành viên gạch lót đường cho Việt Minh Cộng Sản tiến tới mục đích cuối cùng của họ.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Xin mời các bạn đọc báo Người Việt của Nam California:


Xin click vào đây:

Người Việt

Than mến

Giang già

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Lũ con buôn vịt trời

Việt Thường

Từ lễ Vu Lan đến Trung Thu của năm Ất Dậu (2005), biết bao nhiêu chuyện xảy ra ở cả trong nước Việt Nam và trong cộng đồng người Việt tỵ nạn (cộng sản), nhất là ở bên Mỹ!

Chuyện thứ nhất

Phan văn Khải, thủ tướng tập đoàn Việt gian Pắc-Bó, cùng lâu la lếch thếch sang Mỹ. Hắn đã tận mắt nhìn thấy rừng quốc kỳ Việt Nam Công hòa chói chang trước Nhà Trắng, hoàn toàn ngược với những gì tên đặc công đỏ Bùi Tín đã viết nơi trang 95 trong cuốn “Mây mù thế kỷ”, rằng:

“… Có người tuy biết rõ sự thật, hiểu tình hình đất nước, nếu phải lựa chọn, họ vẫn lựa chọn những người “cộng sản” hơn là người “quốc gia””.

Cho dù trên Người Việt Online, ngày thứ sáu, 2-9-2005, họ cố tình tô son cho tên đặc công đỏ Bùi Tín, qua bài “Ông Bùi Tín có mặt tại Nam California”, kẻ đưa tin đã rất bất lương khi trắng trợn hạ bút:

“Nhà báo Bùi Tín, người đã rời bỏ hàng ngũ CSVN vào năm 1979, được báo chí thế giới rất chú tâm về công cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam hiện nay, đang có mặt tại Little Saigon, Hoa Kỳ để tham dự một số các buổi họp vận động dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam và cũng là dịp để gặp gỡ lại với ông Hoàng minh Chính vừa tới Hoa Kỳ chữa bệnh.”

Hai cái đại bất lương của Người Việt Online là:

Thứ nhất: Năm 1979, Bùi Tín trong cuốn “Hoa xuyên tuyết” còn cho in tấm ảnh đứng ở Chùa Tháp Angkor Thom (Căm-bốt) (tháng 11-1979), theo bước chân lũ Việt gian ngụy quân sang xâm lược “nước bạn Căm-bốt”. Và, thời kỳ đó Bùi Tín vẫn còn khoác áo lính ngụy cộng sản, chưa về tờ báo cuội đỏ “Nhân dân” nữa kia. Và, Bùi Tín cũng chưa dám lấy lại cái họ Bùi mà Bùi Tín từ bỏ từ cái gọi là “cải cách ruộng đất”, để chứng tỏ một lòng một dạ trung thành với cộng sản Việt Nam, cắt bỏ cái đuôi giòng dõi quan lại, phong kiến. Năm 1990 ra đến hải ngoại, tận “Hoa xuyên tuyết” còn giữ tên Thành Tín, chưa dám nhận họ Bùi.

Thứ hai: Khi còn ở trong nước, Bùi Tín là một bút nô đỏ được tin cẩn, đệ tử ruột của Nguyễn chí Thanh, một tên Mao-ít chính tông, làm sao lại gặp hoặc dám gặp Hoàng minh Chính, tên Việt gian thờ Nga-xô, để bây giờ “gặp gỡ lại” như Người Việt Online đưa tin???!!!

Đây là kiểu đưa tin theo “phong cách” Thông luận. Nghĩa là theo kiểu Bùi Tín, Vũ thư Hiên, mà trong cuốn “Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam” chúng tôi đã trưng dẫn bằng cớ.

Chuyện thứ hai

Những anh chị làm nghề báo chí, truyền thông, theo môn phái “thày bói sờ voi”, hệ “thổi ống đu đủ” ở hải ngoại, bị ê mặt qua việc nhà văn “không nổi tiếng về văn chương” là Hoàng Tiến, viết bài “bóc mẽ Nguyễn thanh Giang”, người đã được nhóm “thổi ống đu đủ” nâng lên là… “đại trí tuệ”, là “đại trí sỹ”, là “nhà trí thức hàng đầu” vân vân và vân vân, mới dzô tù cộng sản có chưa đầy hai tháng đã… đầu hàng thành… viện sỹ, tiến sỹ đại hèn!!!

Nguyễn thanh Giang đáp lại cũng chẳng vừa. Chứng minh rằng Hoàng minh Chính là kẻ độc tài, tự ý chỉ định tác giả “chủ nghĩa Hồ chí Minh” và cụm từ “đức thánh Hồ”, là Trần Khuê, làm người phát ngôn của nhóm… “dân chủ cuội”. Nghĩa là một thứ người… kế vị Hoàng minh Chính; giống kiểu Lê khả Phiêu kế vị Đỗ Mười vậy.

Hai chú cuội dân chủ đỏ, đấu nhau như trâu trọi ở lễ hội Đồ Sơn, mặc dù đều ở tuổi “cổ lai hi”, đã cưa sừng làm nghé, để dùng “uy tín” của “Ma-đam” Dương thu Hương, chứng minh xem ai là “dân chủ cuội” và ai là “dân chửi thiệt”!!! Trò này “hơi” bị yếu!!!

Mấy anh thày bàn tào lao, sau cú sốc – như kiểu Quốc Hưng ở Đàn Chim Việt thú nhận – vội lu loa rằng… thì… là… mà… như thế là dân chủ, công khai, dấu hiệu trưởng thành. Và, một thành viên trong cái tiểu đội cuội đó, là Tiêu dao Bảo Cự, vội viết bài… ca ngợi cả đôi bên, theo điệu kèn đu đủ. Nào là, Hoàng Tiến thì… “chừng mực, khúc chiết nhưng kiên quyết, khí phách”. Còn Nguyễn thanh Giang thì… “uyên bác, sắc sảo và mạnh mẽ”. Và, kết luận thật là… tiêu dao: “Các bài viết của hai ông thể hiện trí tuệ, nhân cách, bản lĩnh…” Nghĩa là, Tiêu dao Bảo Cự cũng thủ võ, chỉ nhận xét rằng bài viết của Hoàng Tiến, Nguyễn thanh Giang thì tỏ ra là “trí tuệ, nhân cách, bản lĩnh”, còn khi hành động thì “đếch” (như chữ Hoàng Tiến dùng) trí tuệ, đếch nhân cách, đếch bản lĩnh tý teo nào cả!

Và đây là kết quả:

1) Người phát ngôn của tiểu đội dân chủ cuội, do chỉ định, là Trần Khuê thì cùng vợ, mặt mũi hơn hớn, qua tấm ảnh trên Việt Báo Online, thì thấy ngả đầu bên phải khi được chụp với viên lãnh sự Mỹ ở Sài-gòn, và ngả đầu bên trái khi chụp với… một lãnh sự nước khác. Và, ngực thì đeo cả cờ Mỹ lẫn cờ Việt gian, nền đỏ sao vàng!!!

2) Còn Hoàng minh Chính được visa qua Mỹ chữa bệnh ung thư tuyến tiền liệt, kể lể bị tù đày tra tấn nhiều năm. Nhưng chắc chắn tù đày và tra tấn không phải là nguyên nhân bị ung thư tuyến tiền liệt.

Cái bản lãnh của nhà “đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam”, Hoàng minh Chính, bộc lộ rõ nhất qua giọng nói vui sướng khi đặt chân lên nước Mỹ, mà nhiều năm về trước Chính vẫn chửi Mỹ là “tên đế quốc tàn bạo nhất, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới”, ở cái thời huy hoàng khi còn đứng trên bục giảng khóa chính trị trung cấp tại cái trường có tên Nguyễn ái Quốc, rằng: “chờ đợi cái ngày này cả 20 năm nay”!!!

Thì ra là thế! Nếu không, ở cái tuổi đã “quá cổ lai hi” rồi, lại bệnh tật, thính lực bị giảm 40%, Hoàng minh Chính, tỏ ra có tý ty bản lãnh thì, nên nhường chuyến đi này cho Lê chí Quang, một người tuổi còn rất trẻ, rất can đảm dấn thân thực sự cho quyền lợi của nhân dân và Tổ quốc Việt Nam.

Tóm lại, cuội Hoàng minh Chính cũng không vượt qua được cái bã danh và lợi. Và, tuy làm nghề chính trị từ cái thuở đeo lon thiếu tá ngụy quân cộng sản, phụ trách chính ủy trung đoàn, với thành tích cổ vũ, cưỡng ép một số thanh niên ngụy quân cộng sản bị lừa vì cái bánh vẽ “chống thực dân Pháp”, để sẵn sàng hy sinh trong trận đánh cảm tử vào sân bay Bạch Mai, nên được lên lon trung tá. Rồi, nhờ là một đảng viên cộng sản cuồng tín, nên được tập đoàn Hồ Việt gian trao cho nhiệm vụ tẩy não thế hệ thanh niên Việt Nam, cũng như được cài vào lòng đảng Dân chủ với cái chức Tổng thư ký, phá từ trong ra, từ trên xuống cho toàn Đảng Dân chủ Việt Nam thành… bù nhìn thứ thiệt.

Được cho qua Nga-xô học về triết học Marx-Lénine. Tuy chẳng đoạt được học vị nào, nhưng về lại Việt Nam vẫn được giữ cái ghế Viện trưởng Viện triết học Marx-Lénine, kiêm phó hiệu trưởng trường đảng (cộng sản) Nguyễn ái Quốc; giảng viên các khóa chính trị tập trung ngắn hạn (loại 3 tháng hoặc 6 tháng) cho cán bộ trung cấp của guồng máy Việt gian đang cai trị phía Bắc Việt Nam.

Với cái gốc gác như thế, nên đương nhiên Hoàng minh Chính một lòng một dạ trung thành với mẫu quốc đỏ là Nga-xô.

Là cán bộ lý luận Marx-Lénine, chưa phải diện trung ương, nên Hoàng minh Chính còn là một thứ “thư ký lý luận” của Trường Chinh. Nghĩa là, một quân cờ trong tay Trường Chinh dùng đối phó lại với những bộ mặt lý luận có nanh có mỏ, trong trung ương như Nguyễn khánh Toàn, Bùi công Trừng, Dương bạch Mai v.v… và ngoài trung ương như Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Trần đức Thảo… Nhưng, Hoàng minh Chính vẫn giữ nguyên căn cốt của kẻ “cuồng tín” và “rất cận thị về cả lý luận lẫn hành động”. Đó là một con vẹt trong lốt người.

Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh dựa vào sự thành công của Mao ở Tàu lục địa, nhanh chóng ra mặt tay sai của thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng. Chúng vẫn giữ ngọn cờ “tự do cho dân tộc và độc lập cho Tổ quốc” để che đậy bộ mặt bán nước. Nhưng thực chất cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng dùng xương máu Việt Nam chống thực dân Pháp, nhằm biến 3 nước Đông dương thành thuộc địa đỏ, như Bộ thuộc địa Nga-xô (núp dưới cái tên Quốc tế 3) đã trao nhiệm vụ cho Hồ và cái gọi là đảng cộng sản Đông dương, từ 1930!

Mẹ đẻ Nga-xô thì ở xa, mẹ ghẻ Tàu cộng thì “núi liền núi, sông liền sông”, nên tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, trong nội bộ bị phân hóa làm hai. Một bộ phận thờ Nga-xô, bộ phận khác thì thờ Tàu cộng. Còn tên cáo già, trong bản chất hắn thờ Nga-xô, nhưng mẹ ghẻ Tàu cộng lại ở gần và “vĩ đại” nên hắn phải mềm mỏng, sao cho không mếch lòng mẹ nào, không bị ảnh hưởng đến quyền lực. Vì thế Hồ đã lèo lái hai bộ phận đối lập nhau đó, trong tổ chức Việt gian của hắn, để đu giây giữa mẹ đẻ và mẹ ghẻ. Tất nhiên mẹ đẻ vẫn phải hơn mẹ ghẻ!

Cuộc đấu đá giữa hai tên thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng ra công khai thì đương nhiên từng phe trong các đảng tay sai cũng ra công khai triệt phá nhau, tiêu diệt nhau không khoan nhượng, như phe Lénine và phe Trosky của Nga-xô xưa vậy.

Phe theo Tàu cộng gọi phe Nga-xô là xét lại hiện đại.

Phe theo Nga-xô gọi phe Tàu cộng là giáo điều.

Các cụm từ “xét lại hiện đại” và “giáo điều” không mang nghĩa đen cũng như nghĩa bóng khác nhau. Hệt như hai tên lưu manh chửi nhau:

- Mày là thằng ăn cắp!

- Mày là thằng ăn trộm!

Dù bị chụp mũ là giáo điều hay xét lại hiện đại, thì, thực tế bằng chứng lịch sử cho thấy: cả Nga-xô và Tàu cộng đều là những tên thực dân đỏ, hay thực dân mới, để phân biệt với thực dân Pháp, Anh, Bồ đào nha… là thực dân cũ.

Sợ thế giới lật mặt nạ nên cả Nga-xô và Tàu cộng đều đi võ “vừa đánh trống vừa ăn cướp”, vu vạ Mỹ là thực dân mới!!!(?)

Còn trong nội bộ tập đoàn Hồ chí Minh, hai phe thờ Nga-xô (hay xét lại hiện đại) và thơ Tàu cộng (hay giáo điều) trên thực tế, đối với người dân Việt Nam không là đảng viên cộng sản, cả hai bọn đều là Việt gian. Chưa ai trong bọn chúng nghĩ đến thôi, chứ chưa nói đến là có hành động cụ thể, là trả lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam cho nhân dân Việt Nam. Bọn chúng tranh luận nhau xem phải theo Nga-xô 100% hay Tàu cộng 100%, chưa bọn nào nghĩ đến nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam; tự do hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam; bảo toàn bầu trời, vùng biển và lãnh thổ của Việt Nam.

Xin được dẫn chứng:

1) Ung văn Khiêm, ủy viên trung ương chính thức cộng đảng, bộ trưởng ngoại giao của ngụy quyền Hồ chí Minh, là kẻ đầu tiên “hồ hởi” thay mặt ngụy quyền Hồ chí Minh gửi thư hoan nghênh Tàu cộng đã chiếm… đất và biển của Việt Nam. Nên nhớ Ung văn Khiêm là đồng bọn với tụi Hoàng minh Chính, Vũ đình Huỳnh v.v… Đến nay Chính và Hiên vẫn ca ngợi Khiêm!!!

Ung văn Khiêm không hề phản đối vụ dâng đất dâng biển đó mà còn đồng lõa.

Bọn Hoàng minh Chính, Vũ đình Huỳnh, Dương bạch Mai, Lê Liêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn… cũng vậy. Chưa bao giờ chúng dám phê phán hành động Việt gian đó. Chúng vẫn tự hào là đảng viên của cái đảng Việt gian đó; vẫn thổi phồng công lao phịa của cái đảng Việt gian đó. Cho dù sau này một số trong bọn chúng như Nguyễn văn Trấn, Trần Độ, cho đến Hoàng minh Chính, nhất là Bùi Tín và Vũ thư Hiên… viết sách, hồi ký nhưng nội dung chỉ là trả thù những kẻ đã thắng bọn chúng trong cuộc đấu đá giành cái ghế làm chủ dân và độc quyền bán nước cho Nga-xô mà thôi!

Qua cuộc phỏng vấn của Đàn Chim Việt, Vũ thư Hiên còn kể rằng, mới điện thoại cho tên đặc công đỏ Nguyễn thanh Giang, ở trong nước. Và, cả hai đứa đều đau lòng khi thấy một số người Việt (ở hải ngoại) đã phủ nhận sạch trơn công của đảng cộng sản Việt Nam!!!

Chúng kể lể công ơn của đảng cộng sản Việt Nam (nghĩa là có cha con bọn chúng) đã làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945; đã đánh thắng thực dân Pháp tạo nên trận Điện-biên lẫy lừng; đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào”, và chiến dịch Hồ chí Minh đã đưa đến “giải phóng” cả nước và đất nước được thống nhất!!!(?)

Ngay khi bị đá đít về vườn, Trần Độ vẫn còn tự hào là đệ tử trung thành của tên đại Việt gian Hồ chí Minh; tự hào về các hành động giết dân, bán nước đó. Còn tên đầu hàng, phản bội Nguyễn thanh Giang (như Hoàng Tiến bóc mẽ) thì phong cho Trần Độ 2 lần anh hùng, nghĩa là việc giết nhân dân Việt Nam Cộng hòa là anh hùng! Và, một nhóm gọi là “trí thức trẻ” ở Canada, trong đó có bác sĩ Lâm thu Vân, đã làm lễ tưởng niệm, khóc than khi Trần Độ chết, và tiếc là không được đi theo “Cụ Trần Độ” trên con đường… Việt gian. Vì thế, được anh chàng cơ hội Nguyễn minh Cần ca ngợi nhóm “trí ngủ” đó là tiên tiến! Tổ tiên ta đã dạy: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là như vậy!

2) ở trong nước Việt Nam hiện nay, cái nhóm tự nhận là “đấu tranh cho dân chủ”, lèo tèo độ hơn chục mống mà sinh hoạt với nhau, vào cái lúc chẳng có chút quyền hành nào, còn không có dân chủ – như thư của Nguyễn thanh Giang trả lời Hoàng Tiến – thì hỏi rằng bọn chúng nhặt “dân chủ” ở xó nào mang đến cho… nhân dân Việt Nam???

Hoàng minh Chính cũng tự cho mình cái quyền chỉ định Trần Khuê là người phát ngôn của nhóm “dân chủ” cuội.

Tuy không quyền, nhưng tên nào cũng nhăm nhe danh và lợi. Tên nào cũng muốn được giàn kèn đu đủ ở hải ngoại “bốc thơm”, được quốc tế biết đến; được những Việt kiều tỵ nạn cộng sản do thiếu thông tin, bị lũ truyền thông hải ngoại bất lương sản xuất tin giả, khiến động lòng giúp đỡ tiền bạc. Bọn chúng cũng hy vọng được những giải quốc tế qui thành đô-la Mỹ và v.v… Đấy mới đích thực là động cơ để chúng trở thành đối lập cuội.

Lấy Trần Khuê ra làm một thí dụ:

Trần Khuê chưa hề có nổi một cái bằng tương đương tú tài 1, bỗng dưng được lũ truyền thông bất lương dán cho cái nhãn giáo sư, có lúc còn nâng lên thành viện trưởng (viện hán nôm) để gây ấn tượng với người Việt ở hải ngoại và quốc tế.

Trần Khuê cũng hỗn láo theo cung cách của Hồ chí Minh. Hắn đã nâng Hồ lên thành “thánh Hồ”, xếp ngang với “Đức Thánh Trần Hưng Đạo”. Hắn đã xếp Hồ còn trên cả tổ Hùng Vương, khi hắn hạ bút trên giấy trắng mực đen rằng:

“Đức tổ Hùng Vương có công lớn khai sáng nên nhà nước đầu tiên và đó là nhà nước của giai cấp quý tộc”

“Còn Đức thánh Hồ chí Minh khai sáng ra một nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ và có một hiến pháp dân chủ sánh ngang được với bản hiến pháp trên thế giới.” (Trích trong Đối thoại, phần Dân chủ: vần đề của dân tộc và thời đại (a), (trang 2) – Trần Khuê)

Trần Khuê lớn lên và già đi trong lòng chế độ nô lệ đỏ của tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh. Hắn không là nông dân, cũng không là công nhân mà là một cán bộ nghiên cứu, cho nên khi hắn cố tình mù, điếc để không biết đến cái nhà nước mà Hồ khai sáng là của dân, do nhân dân làm chủ hay là của tập đoàn Hồ chí Minh, do Nga-xô và Tàu cộng làm chủ. Nếu hắn thực tình không biết thì là đồ ngu, chẳng cần ngó tới. Còn nếu hắn cố tình mù không biết thì tự thân việc đó đã bóc cái mặt nạ “đấu tranh” cho “dân chủ” của hắn xuống rồi.

“Đức thánh” Hồ, của Trần Khuê, còn dùng cái nhà nước mà hắn “khai sáng” đó để lèo lái biến Quân đội Quốc gia với tôn chỉ “Trung với nước, hiếu với dân” thành Quân đội Nhân dân (hoặc bộ đội cụ Hồ) và tôn chỉ là “trung với đảng (cộng sản), hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù (của cộng sản) nào cũng đánh thắng!” Và, “Đức Thánh” Hồ của Trần Khuê đã dùng cái quân đội ngụy cộng sản đó vào việc tranh giành thuộc địa cho Nga-xô – Tàu cộng trên bán đảo Đông dương. Hắn cũng sử dụng cái nhà nước đó để đập tan truyền thống văn hóa của nhân dân Việt Nam, đập tan cơ cấu tổ chức gia đình, xã hội v.v… để nhân dân Việt Nam thành nô lệ đỏ trên mọi bình diện, cả chính trị, kinh tế, văn hóa và sinh hoạt xã hội. Nô lệ đỏ tức là nô lệ cho Nga-xô và Tàu cộng. Cái thân phận nô lệ đỏ của người Việt Nam còn thảm hại gấp cả triệu lần dưới sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp!!!

Cũng “Đức thánh” Hồ của Trần Khuê dùng cái nhà nước mà hắn khai sáng để tiêu diệt mọi thành phần người Việt Nam yêu nước qua cái gọi là: cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cũng như công khai dâng đất, dâng biển, dâng lao động, dâng tài nguyên, hải cảng… của Việt Nam cho Nga-xô và Tàu cộng!

Trần Khuê cố tình bỏ qua những tội ác Việt gian bán nước, giết dân đó của tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh để bịa ra cái gọi là “Chủ nghĩa Hồ chí Minh” như hắn viết trong Đối thoại, phần nhận diện chủ nghĩa xã hội, rằng:

“Trong sự hiểu biết thiển cận của chúng tôi thì chúng ta chỉ có thể theo chủ nghĩa xã hội của Hồ chí Minh” (trang 7). Và ở trang 12, Trần Khuê viết:

“Chúng tôi xin được phép nói thẳng thắn rằng những ai không hiểu hoặc không muốn công nhân học thuyết duy vật lịch sử của Marx, cụ thể là không chấp nhận 5 phương thức sản xuất trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại thì xin miễn đối thoại.”

Có thể có người, ngoài PGS-Ts Phạm duy Nghĩa, cho rằng hiến Pháp 1946 chưa kịp thực thi thì xảy ra chiến tranh!!!(?)

Xin quý bạn đọc nhớ lại rằng, cuối năm 1954 khi hòa bình đã được thiết lập trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam thì tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh chẳng những không thực thi Hiến pháp 1946, những điều trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, mà chúng còn ném tất cả vào thùng rác, không thèm trưng cầu dân ý như quy định trong Hiến pháp 1946. Và cái nhà nước mà Trần Khuê viết rằng do “Đức thánh” Hồ khai sáng là “nhà nước của dân do nhân dân làm chủ” đó đã tự ý nặn ra Hiến pháp 1959, cai trị bằng sắc lệnh vì đã hủy bỏ bộ tư pháp và khoa luật ở trường đại học Hà-nội. Cái nhà nước mà Trần Khuê ca ngợi là “của dân và do nhân dân làm chủ” đó đã đẻ ra đủ sắc lệnh ăn cướp của dân, trong đó có Nghị quyết 49/NQ/TVQH, ngày 20-6-1961, cho phép Hồ đưa… các ông bà chủ nhà nước (tức nhân dân) đi cải tạo (tức tù khổ sai) không thời hạn!!!

Sau này, khi Hồ bị đưa đi hỏa ngục ở âm ty, thì những đệ tử trung thành của Hồ cũng vẫn dùng cái nhà nước mà Trần Khuê ca ngợi là do “Đức thánh” Hồ khai sáng để mở rộng nhà tù bằng cách biến nhà tư của nhân dân cũng thành nhà tù, dựa vào Nghị định 31/CP do tên Việt gian đại dâm ô, đại tham nhũng là Võ văn Kiệt ký và tên Việt gian cũng nổi tiếng ăn cắp của công là Phan văn Khải bổ sung cho hoàn chỉnh hơn, để cho nhân dân vào tù dài dài.

Chính là những tên bất lương làm truyền thông ở hải ngoại và một vài tên cơ hội, có căn cốt “theo voi ăn bã mía” như tổ tiên ta đã cảnh giác, bỏ qua những phần phản dân chủ, xuyên tạc lịch sử theo lối tô hồng của bút nô Việt gian cộng sản, thổi Trần Khuê thành “Sao Khuê” (Nguyễn thanh Giang thì thành “dòng sông xanh”), rồi “giáo sư”, rồi “viện trưởng”, rồi “nhà đấu tranh nổi tiếng cho dân chủ hóa Việt Nam, v.v… và v.v… lừa đảo lòng chân thật của quốc tế và cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.

Không chỉ ở trường hợp với Trần Khuê mà cả đối với Bùi Tín, Vũ thư Hiên cũng vậy.

Phan văn Khải qua Mỹ vừa xong, không thấy mặt Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn chí Thiện, Nguyễn gia Kiểng và v.v… ở đâu hết. Còn Hoàng minh Chính chưa tới Mỹ thì cả đám đã từ các hang cua dân chủ cuội chui ra đàn đúm bàn những chuyện… buôn vịt trời, bán da gấu!!!

Vũ thư Hiên kêu gọi hải ngoại chữa giúp cái bệnh ung thư tuyến tiền liệt của Hoàng minh Chính, nhưng chưa hề có một chữ vì anh hùng Lý Tống, chưa hề kêu gọi nhóm gọi là “dân chủ” ở trong nước ủng hộ vụ án của anh hùng Lý Tống, hoặc kêu gọi giúp đỡ thương phế binh QLVNCH còn ở trong nước!!!

Anh hùng Lý Tống là một sỹ quan Quân lực VNCH. Trong chiến đấu bảo vệ đất đai và đời sống cho nhân dân VNCH, anh đã bị ngụy quân cộng sản Việt Nam, tay sai của thực dân đỏ, xâm lược VNCH bắt làm tù binh. Anh đã vượt ngục tù và đi bộ xuyên qua Lào, Thái lan… để tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ đất nước VNCH. Anh hùng Lý Tống đã hai lần dùng máy bay rải truyền đơn ở miền Nam Việt Nam là đất của VNCH mà cả hiệp định Genève 1954 về Việt Nam lẫn Hiệp ước Paris 1973 về Việt Nam đều thừa nhận.

Do tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển, trong người Việt chúng ta có thể có những người không tán thành phương pháp phục quốc của anh hùng Lý Tống; cũng có thể có người tán thành nhưng không đủ can đảm hoặc có khó khăn này khác. Tuy nhiên, dù tán thành hay không thì một điều hiển nhiên là anh hùng Lý Tống đã thực thi đúng lời thề của người quân nhân là bảo vệ Tổ quốc. Anh không vi phạm và rải truyền đơn ở phía Bắc vĩ tuyến 17 của Việt Nam. Cho nên nếu để cho tập đoàn Việt gian cộng sản Pắc-bó kết tội anh, thì có lẽ đến một lúc nào đó sẽ có cây bút, như kiểu Nguyễn gia Kiểng, sẽ kết tội Phan đình Phùng, Nguyễn thiện Thuật, Hoàng hoa Thám v.v… chăng?

Đây là dịp để đồng bào hải ngoại nhận diện Bùi Tín, Vũ thư Hiên… và lũ theo đóm ăn tàn ở hải ngoại, cũng như sự hợp đồng đấu tranh của nhóm gọi là “dân chủ” ở trong nước với những người tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại như thế nào?

Bảo vệ Tổ quốc là bước đầu tiên không thể thiếu được trong quá trình đấu tranh cho dân chủ. Anh hùng Lý Tống đã và đang làm điều đó. Chúng ta hãy chờ xem hành động của những người tự đeo nhãn “đấu tranh cho dân chủ”, từ trước tới nay chỉ thích phối hợp một chiều với hải ngoại!!!???

3) Như trên chúng tôi đã trình bày, rằng đặc thù địa lý của Việt Nam nên Việt Nam dưới chế độ nô lệ đỏ có hai mẫu quốc là Nga-xô và Tàu cộng.

Nội bộ Việt gian cộng sản Việt Nam chia làm hai phe. Bọn thờ mẫu quốc Nga-xô và bọn thờ Tàu cộng. Dù nhìn dưới góc độ nào thì cả hai bọn đều là Việt gian 100%.

Ngay từ 1930, Bộ thuộc địa của Nga-xô (núp dưới cái tên Quốc tế 3) đã có kế hoạch nhuộm đỏ Đông dương, nghĩa là chiếm Đông dương thuộc địa trong tay thực dân Pháp. Cho nên Hồ đã tuân lệnh để đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông dương, mà lúc đó trong đảng cộng sản Đông dương chưa hề có một người Lào và Căm bốt nào.

Thông qua Bộ thuộc địa (tức Quốc tế 3), Nga-xô đã tuyển dụng nhân sự người Việt, đào tạo thành chuyên viên lật đổ, cướp chính quyền bằng bạo lực, cung cấp tiền, mọi phương tiện cần thiết và hoạch định cả đường lối ngắn hạn lẫn dài hạn. Đấy là những sự thật đã và đang tồn tại.

Thời Nga hoàng, nước Nga cũng là thực dân, nhưng chậm chân hơn các nước thực dân khác như Anh, Pháp, Ý, Tây-ban-nha, Hà lan, Bồ-đào-nha, Đức và thuộc loại yếu. Nước Nga trong tay Lénine, dù núp dưới đủ các thứ danh xưng cách mạng nổ như bắp rang, thì sự thưc vẫn tiếp bước chân thực dân của Nga hoàng, có điều theo một mánh khóe tinh vi như núp dưới những cái bánh vẽ thế giới đại đồng, cách mạng vô sản v.v… và triệt để hơn vì nó có tham vọng làm mẫu quốc của toàn thế giới, biến nhân dân mọi tầng lớp trên toàn thế giới thành nô lệ cho Kremlin.

Thời đại nào, xã hội nào, đất nước nào cũng vẫn có những loại người hoang tưởng, nhẹ dạ hàm hồ; có những loại lưu manh, du đãng đầy dục vọng; có những kẻ vì danh vì lợi sẵn sàng bán cả cha mẹ, vợ con, bàn bè và ngay cả tổ quốc. Lại có loại chỉ thích được làm lãnh tụ dù to, dù nhỏ bằng bất kể giá nào, cho nên phải có loại cộng sinh đi theo, chỉ thích được cầm cờ, vác quạt, thổi loa, bợ đỡ nịnh hót. Một sự thật tưởng như đùa, là loại thứ hai này thường xuất hiện ở hạng người có bằng cấp, quì lưng uốn gối làm một thứ thư lại. (Cứ nhìn vào các nước Đức thời Hitler; Nga thời Stalin; Tàu thời Mao, Việt Nam thời Hồ, Cuba trong tay Fidel Castro; Bắc hàn trong tay cha con Kim chính Nhất; I-rắc dưới thời Saddam Hussein v.v…)

Có thể nói rằng, chế độ độc tài nào cũng đào tạo ra lũ trí thức hèn. Và, lũ trí thức hèn là công cụ đắc lực giúp những tên độc tài trưởng thành, tác yêu tác quái và tồn tại đến mức vô lý. (Xin lưu ý rằng đa số là thế chứ không phải toàn bộ trí thức đều như vậy).

Vì thế, chế độ thực dân đỏ, độc tài toàn chế ở Nga-xô cũng như ở các nước thuộc địa đỏ, đều cho ra đời hàng loạt trí thức hèn họ nhà vẹt. Bọn này hầu hết nằm trong cái gọi là các cơ quan lý luận về chủ nghĩa bánh vẽ hoang tưởng Marx-Lénine-Stalin. Chúng sản xuất ra một khối lượng công trình nghiên cứu đồ sộ về cái chủ nghĩa hoang tưởng đó, khiến những người quen cái gọi là nghiên cứu theo kiểu “hàn lâm”, vừa xa thực tế, vừa không có gan nhìn vào sự thật cuộc sống, đã tốn bao thời gian, tiền của để phân tích, thày bàn về cái thứ “không không vô ảnh” đó, trong lúc chủ nghĩa thực dân đỏ, tích cực lợi dụng thời gian hoang mang của nhân loại, để tỏa ra khắp thế giới cái vòi bạch tuộc đỏ, có sự tiếp sức của lũ tay sai bản địa, xì xụp uống máu nhân loại. Và, nực cười nhất là chính nhân dân lao động (tức công nhân và nông dân) là hai giai cấp xã hội được thực dân đỏ cho đi tàu bay giấy lại là những người bị hút máu, bóc lột tàn bạo nhất. Xin cứ nhìn vào xã hội hiện nay ở các nước Việt Nam, Tàu cộng, Bắc hàn, Cuba thì rõ trắng đen.

Hoàng minh Chính là một trong những tên đảng viên cộng sản được tập đoàn Việt gian độc tài toàn trị Hồ chí Minh cho qua mẫu quốc đỏ Nga-xô để đào tạo thành “trí thức hèn” trở về làm tay sai cho bọn thống trị, giúp chúng tẩy não hàng ngũ cán bộ, đảng viên cộng sản, phải hoàn toàn thành nô lệ đỏ 100% với đúng nghĩa nô lệ về mặt tư tưởng.

Bản chất là một con vẹt trong lốt người, vừa cuồng tín thần phục mẫu quốc đỏ Nga-sô, vừa đầy tham vọng về danh lợi và quyền lực, nên Chính đã quên mất thân phận tay sai của mấy đầu nậu Việt gian trong tập đoàn Hồ chí Minh.

Khi cuộc đấu khẩu giữa Nga-xô và Tàu cộng ra công khai, có nghĩa là con bò đực Tàu cộng nay đã cường tráng, nó không chấp nhận vị thế đầu đàn của con bò đực Nga-xô, đã đẩy lũ bò Việt gian Hồ chí Minh vào thế khó xử. Một mặt Hồ luôn ghi nhớ hắn được đào tạo, được hỗ trợ mọi mặt từ kinh tế đến chính trị, tổ chức… để làm nhiệm vụ xây dựng các tổ chức tay sai bản xứ trong vùng Đông-Nam-á nhằm bao vây đảng Tàu cộng. Vì trong con mắt Kremlin, trong tương lai Tàu cộng sẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ngôi vị mẫu quốc đỏ trên toàn thế giới của Nga-xô. Thêm nữa, Hồ còn có nhiệm vụ làm cái gạch nối giữa Bộ thuộc địa Nga-xô (Quốc tế 3) với đảng Việt gian, để đôn đốc việc nhuộm đỏ Đông dương với cái mặt mạ chống thực dân Pháp. Nghĩa là để hoàn toàn trở thành thuộc địa của Nga-xô.

Cuộc đảo chánh cung đình ở Nga-xô đã đưa Khrút-xốp lên cầm quyền và chủ trương chung sống hòa bình. Cái chủ trương chung sống hòa bình chỉ là một lối nói trong lúc bị hụt hơi vì lực bất tòng tâm trong tham vọng làm mẫu quốc toàn thế giới. Những quan điểm chính như chuyên chính vô sản; bạo lực cách mạng; phát triển hệ thống XHCN hãy còn đó thì làm sao có thể chung sống hòa bình lâu dài được. Đó chỉ là thay đổi chiến lược trong điều kiện cụ thể của Nga-xô trong thực thi chính sách bành trướng đỏ ra toàn thế giới mà thôi.

Lợi dụng thời cơ đó, con bò đực Tàu cộng lao ra giành ngôi vị đầu đàn.

Còn Hồ, một tên gián điệp chuyên nghiệp của Bộ thuộc địa Nga-xô, một tên KGB chính hiệu, cố lèo lái để tránh cơn điên của con bò đực Tàu cộng mà vẫn không lệch mục tiêu nhiệm vụ mà mẫu quốc Nga-xô đã lệnh cho hắn toàn quyền hành động từ năm 1930.

Cho nên, trong điều lệ đảng Việt gian cộng sản của khóa 2 (năm 1951), hoàn toàn phải dựa vào sự trợ giúp của Tàu cộng, nên Hồ cho ghi như sau:

“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-ăngghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng.” (Văn kiện đảng toàn tập – Tập 12 – Trang 444)

Và:

“Đảng Lao động Việt Nam nhận định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên-xô lãnh đạo.” (Sách đã dẫn – Trang 445)

Về đảng viên, Hồ cho ghi như sau:

“… đ) Luôn luôn cố gắng nâng cao trình độ chính trị, trau dồi tư tưởng của mình bằng cách học tập chủ nghĩa Mác-ăngghen-Lênin-Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông.” (Sách đã dẫn – Trang 447)

Khi đã đặt xong ách nô lệ đỏ lên toàn phía Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra, và khi bên cạnh phủ chủ tịch của Hồ là phủ toàn quyền Nga-xô, núp dưới tên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, có viên toàn quyền là thiếu tướng an ninh Nga-xô mang tên Serbakốp, thì trong cương lĩnh chung của đại hội kỳ 3 (1960), Hồ cho viết lại như sau:

“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng rất coi trọng việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong Đảng, trong nhân dân một cách rộng rãi và thường xuyên, coi đó là điểm mấu chốt đầu tiên trong công tác xây dựng Đảng và là một trong những điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.” (Văn kiện đảng toàn tập – Tập 21 – Trang 777)

Như vậy là Hồ đã quăng cái gọi là tư tưởng Mao vào sọt rác.

Hồ còn cho rõ hơn trong đoạn văn:

“Đảng áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đứng đắn và sáng tạo, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm và của chủ nghĩa giáo điều. Đảng bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, chống mọi luận điệu của chủ nghĩa xét lại.” (Sách đã dẫn – Trang 777-778).

Đoạn văn này biểu lộ Hồ muốn đứng giữa cuộc tranh luận của giáo điều (tức Mao) và xét lại (tức Khờ-rút-xốp), vì cuộc vũ trang bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ vào VNCH, Lào và Căm-bốt, nên không thể thẳng thừng chống Mao, mà cũng không thể tạo sự sơ hở để bị xuyên tạc là phản bội mẫu quốc đỏ Nga-xô, nên Hồ cho thong vào một câu rất ma giáo của kỹ thuật đu dây, rằng:

“… nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một thành viên của phe XHCN hùng mạnh do Liên-xô vĩ đại đứng đầu.” (Sách đã dẫn – Trang 780).

Chính vì bản chất là một con vẹt, nên Hoàng minh Chính, khi được Trường Chinh giao nhiệm vụ soạn thảo đề cương cho hội nghị trung ương lần 9 (khóa 3), thì cứ bê nguyên si cái tinh thần nô lệ cho Nga-xô đó vào đề cương, tấn công vào quan điểm thân Mao, làm gì có cái gọi là “đòi hỏi dân chủ” như Hoàng minh Chính và Vũ thư Hiên sau này bịa ra, để tô lại bộ mặt Việt gian, tay sai của Nga-xô, cho đỡ nhơ nhớp!!!

Dựa vào đề cương đó, Trường Chinh báo cáo cho Hồ. Sau khi được Hồ chỉ cho nước cờ phải đu dây để vừa lòng cả hai mẫu quốc, cũng như cho thấy tính ngu xuẩn và óc cơ hội của Hoàng minh Chính, Trường Chinh quăng cái “tác phẩm” con vẹt đó vào sọt rác và Hoàng minh Chính tất nhiên làm sao còn giữ được cái ghế Viện trưởng Marx-Lénine và hiệu phó trường Nguyễn ái Quốc. Ngỡ rằng mẫu quốc có thể dựa được để giữ ghế, Hoàng minh Chính đã nhờ người quen ở sứ quán Nga-xô in ra nhiều phiên bản cái dự thảo đề cương đó (một lối báo cáo khéo cho Nga-xô) và chẳng biết ai xui hay tự ý, đã đem phân phối cho những tên có gốc gác thờ Nga-xô, như Dương bạch Mai, Bùi cộng Trừng, Nguyễn văn Trấn, Lê Liêm, Trần văn Giàu v.v… hy vọng họ sẽ hậu thuẫn cho.

Cũng xin lưu ý rằng, thời kỳ đó, ở Hà-nội, những người thạo tin đều biết Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao là Vũ đình Huỳnh bất mãnh vì bị coi là thua chị kém em trong bậc thang quan lại đỏ. Con trai Vũ đình Huỳnh là Vũ thư Hiên, ỷ y vào cái quá khứ của thời kỳ 1945-1946, rằng cha được làm trong ban thư ký của Hồ; mẹ thì được Hồ “đặc biệt” tặng ảnh cá nhân có bút tích và chữ ký, và theo như Hiên khoe là Hiên đã được ngủ chung với Hồ, nên khi được qua Nga-xô học cũng như khi về nước, luôn luôn bắng nhắng ra vẻ quan trọng.

Hiên hay thì thọt với sứ quán Nga-xô và như chính Hiên cũng tự thú, là hay đi theo tên phó đại sứ của Nga-xô. Không biết từ cha đẻ hay từ sứ quán Nga-xô, hay do cả hai mà Vũ thư Hiên biến thành “liên lạc viên” – cái gạch nối – giữa những tên Việt gian trung thành với Nga-xô.

Trong “Đêm giữa ban ngày”, Vũ thư Hiên tự cho mình là “không làm chính trị”, nhưng lại lòi đuôi khi kể lể về sự thậm thụt với những Trần huy Liệu, Đặng kim Giang, Lê Liêm v.v… Và, những tên đó đều bộc lộ sự bất mãn hoặc nội dung những cuộc họp mà chúng được tham dự. Tại sao lại lạ vậy? Tại sao họ phải kể cho chú “nhí con” 30 tuổi cái thứ nguy hiểm đó?

Người viết những dòng này xin nhận là “nhân chứng” về nhiệm vụ của Vũ thư Hiên, là móc nối những người có chút tiếng tăm vào cái nhóm thân Nga-xô. Đó là một lần chúng tôi lại thăm cố nhạc sỹ Văn Cao thì gặp Vũ thư Hiên từ trên gác nhà Văn Cao hấp tấp chạy xuống. Tuy ở cùng phố và hai nhà chỉ cách nhau một đầu đường, tức là độ hơn 100 mét, nhưng tôi và Hiên hoàn toàn không muốn quen biết, dù cùng sinh hoạt chung trong một Hội nhà báo.

Vào đến nhà, thấy trên bàn có một chai rượu tây, cố nhạc sỹ Văn Cao, vẻ mặt quan trọng, bảo tôi: “Thằng Hiên đem chai rượu của Huỳnh (tức Vũ đình Huỳnh) đến biếu. Bao nhiêu năm nay mình và Huỳnh chẳng có quan hệ gì.”

Tôi cảnh giác Văn Cao: “Anh cẩn thận” “thằng tây con” đấy. Nó bắng nhắng và hay khoe khoang ra vẻ ta đây quan trọng, lại còn cái miệng ba hoa nữa. Tay Trần Hỗ, tổ trưởng của nó ở Báo ảnh, quen tôi, thường cười rằng lúc nào nó cũng hoang tưởng tự cho là con ông cháu cha và quan hệ toàn với cấp trung ương nên coi thường tổ chức.”

Văn Cao nói: “Nó đi thay Huỳnh thôi, vì “lủy” (lui) muốn quan hệ với mình.”

Tôi khuyên Văn Cao: “Anh đang bị bao vây đừng có dại mà cầm cờ cho bọn chúng. Ẩn mình mà xem khỉ vặt lông khỉ là hơn.”

Sau này khi nhóm cha con Vũ thư Hiên bị đi tù, cố nhạc sỹ Văn Cao vẫn luôn luôn cảm ơn tôi về “một lời khuyên sáng suốt” như chữ của Văn Cao dùng.

Cho đến bây giờ, ở hải ngoại, Vũ thư Hiên có làm chính trị hay không thì quá rõ ràng. Chẳng những Hiên làm chính trị mà còn say mê làm chính trị và có tài tổ chức là đằng khác. Chẳng thế đã có những kẻ cúi đầu nghe Hiên, moi tiền gửi về dâng các bạn của Hiên. Tiền đó đáng ra nên giúp cho phế binh QLVNCH còn bị đày đọa ở trong nước, vì đó là đồng đội và là đồng bào. Kẻ khác thì cúc cung theo hầu Hiên cho ra đời “chi nhánh của Mặt trận tổ quốc” nhằm gom người hải ngoại vào tổ chức. Đó là “văn phòng Hội chống tham nhũng” ở hải ngoại, có “lãnh tụ” là Trần Khuê và Phạm quế Dương.

So với Bùi Tín thì Vũ thư Hiên cao hơn một cái đầu. Hiên láu cá hơn và cũng qua kinh nghiệm khi bị tù nên cẩn thận hơn và ẩn náu kỹ hơn. Và, về thông tin trong lòng Việt gian cộng sản, cũng hơn Bùi Tín hàng chục lần. Cái sơ hở của Hiên là bệnh ba hoa còn nặng nên giấu đầu hở đuôi. Hơn nữa, đã nói láo, viết láo, nghĩa là với động cơ xấu, thì thời gian cũng làm cho bộ mặt thật lòi ra, như chúng tôi đã đưa bằng chứng trong cuốn “Những tên đặc công đỏ…”

Trong cuốn “Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam”, chúng tôi đã giành nhiều trang “bóc mẽ” Vũ thư Hiên, là tên trước khi đi tù vì làm Việt gian cho Nga-xô, được mệnh danh là “tây con bắng nhắng” và hay “nói phét như cuội”.

Từ khi “Đêm giữa ban ngày” của Vũ thư Hiên ra lò, thì mới có trò đánh tráo là tụi Việt gian thờ Nga-xô bị tập đoàn Hồ chí Minh kết tội là “xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài” biến thành “những người đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam”.

Xin đưa một dẫn chứng nữa để xem bọn chúng đấu tranh kiểu gì?

Cuối năm 1987, ngụy quyền cộng sản Pắc-bó cho tôi ra tù. Chẳng biết ai cho địa chỉ, Vũ thư Hiên đến làm quen với tôi, cũng tâm sự này nọ. (Sau này nghe nói là do Văn Cao, Dương Tường và Đỗ Hải (tức Hải béo) giới thiệu). Hiên mang tặng tôi cuốn hồi ký “Miền thơ ấu”, sau ngày Dương Tường tặng tôi tập thơ in chung với Lê Đạt. Báo Nhân dân giành 1 trang đánh Dương Tường. Sợ quá, Dương Tường chạy lại hỏi tôi: “Ông ơi! Làm sao bây giờ?”. Tôi bảo Dương Tường: “Sợ cái đ… gì! Ông trên răng dưới dế. Cùng lắm là đi tù như tôi, càng đỡ phải “nuôi vợ nuôi con”, đỡ phải bán máu. Cụ Phan Khôi đã dạy rồi:

“Làm sao thì mặc làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…”

Dương Tường hoàn hồn, ngồi một lúc bảo tôi: “Thằng Hiên (Vũ thư Hiên) sắp ra Hà-nội cùng Hoàng minh Chính được Lê đức Thọ cho gặp. Nó muốn lại hỏi ý kiến của ông, nhưng nó hơi ngại vì thấy ông… làm sao ấy.”

Tôi nói: “Xưa tôi vốn ghét cái bắng nhắng ra cái điều ta đây lá cốt cán cách mạng của nó. Nhưng nay nó thất thế ai còn chấp nhất làm gì.”

Mấy ngày sau, Vũ thư Hiên đến cho tôi biết là phải ra Hà-nội gặp Lê đức Thọ, mặt hớn hở có vẻ hy vọng lắm. Hiên nói: “Chính (Hoàng minh Chính) nhắn vào là kỳ này chắc chắn Thọ (Lê đức Thọ) phục hồi cho bọn mình, kể cả đảng tịch.” Tôi cười: “Ông cả tin thế, còn Chính, già rồi mà cũng ngây thơ!” Hiên lại gặng hỏi: “Ông cho một lời khuyên.” Tôi bảo Hiên: “Tôi hiện không biết ông đang làm gì, cùng Chính âm mưu gì, và cũng không muốn biết. Ông thân tình hỏi thì xin gợi ý với ông thôi chứ đâu dám khuyên, nghe nó quan trọng quá đi. Tôi chỉ xin lưu ý với ông rằng, cả nhóm của ông xưa kia cộng lại, gồm Dương bạch Mai, Lê Liêm, Ung văn khiêm, Bùi công Trừng v.v… cũng không được một phần trăm cái thủ đoạn, cao tay ấn của Lê đức Thọ. Còn Hoàng minh Chính, tay này là một tên “prosovietique” (thân Nga-xô) đến mức “fanatique” (cuồng tín) như Nguyễn khắc Viện vậy. Ông muốn yên thân chờ thời cuộc, nuôi vợ con thì nên giữ khoảng cách với Chính, nếu không sẽ mất cả chì lẫn chài.” Hiên lại hỏi: “Vậy ông bảo tôi nên cư xử với Thọ ra sao?” Tôi nói: “Ông cũng hay đọc sách lắm mà cứ làm như Lưu Bị khi ở với Tào Tháo, trong Tam quốc ấy.”

Từ Hà-nội vào lại Sài-gòn, Hiên thăm tôi ngay và khoe: Thọ, lủy (lui) tiếp mình và Chính cởi mở lắm. Bọn này nghĩ hắn thành thật đấy, nếu không ở cương vị ấy hắn cần gì phải đóng kịch.” Tôi nhìn Hiên và thấy tội nghiệp cho anh ta: ngây thơ, mơ hồ, háo danh đến hết thuốc chữa. Tôi hỏi lại: “Lão ta bù đắp cho Chính và ông như thế nào?” Hiên tươi nét mặt: “Kỳ này sẽ cải tổ chính phủ. Trước hết là bỏ cái danh xưng “chủ tịch hội đồng bộ trưởng”, trở lại là thủ tướng như cũ. Vũ Oanh sẽ làm thủ tướng và Thọ có ý cho Hoàng minh Chính một trong các ghế phó thủ tướng. Thọ có hỏi mình muốn giữ bộ nào. Mình nói xin được về suy nghĩ. Khi về, Chính gợi ý mình là phải nắm lấy Bộ công an, mình nghĩ Chính nói có lý. Nhờ ông phân tích xem có được không?”

Nghe Vũ thư Hiên nói, tôi không tin vào lỗ tai của mình. Nếu bỏ cái tính bắng nhắng hay khoe là đi và đứng lúc nào cũng cặp kè với mấy thằng Nga, nhất là thằng phó đại sứ, đi đường vác mặt lên như ta đây quan trọng thì quả thực Vũ thư Hiên cũng không đáng ghét. Tôi không thân với Hiên và thực lòng không muốn thân với Hiên, nhưng không thể nhìn hiên một lần nữa đâm đầu vào đá. Tôi nói: “Chuyện Vũ Oanh có thể làm thủ tướng, bạn học và rất thân với Vũ Oanh là Thiết Vũ mới kể cho tôi nghe tuần trước. Còn Thọ mà tha cho Chính về với vợ là may lắm rồi, chắc chắn không bao giờ Thọ dùng Chính nữa đâu, đừng có nằm mơ. Còn Thọ cho ông làm bộ trưởng mà lại làm bộ công an thì chắc phải kiếp sau ông Hiên ạ. Ông vốn là kẻ bị thất sủng và Thọ là người đã làm cho gia đình ông tan nát, giả dụ lão ta có nhớ đến tình đồng chí với ông cụ nhà ông thì cao lắm là cho ông cái chức Cục trưởng cục điện ảnh hoặc Giám đốc Nhà xuất bản ngoại văn là cùng. Làm gì có chuyện lão ta trao cho ông cái công cụ chuyên chính đó, mà nhờ nó lão đã cho cả bọn ông đi “tu huyền”!!!”

Nghe tôi nói, Hiên ngẩn mặt ra, rồi hỏi: “Vậy tôi phải trả lời Thọ và Chính ra sao?” Tôi nói: “Chính thì mặc kệ hắn. Hắn còn là trưởng bối của ông, sống bên cạnh trung ương mà còn ngu lâu đến mức tin tưởng rằng Thọ cho một lũ đệ tử thân cận đang là ủy viên trung ương vào tủ, cất đi, để mời Chính làm phó thủ tướng!!! Đúng là chuyện Phong thần còn dễ tin hơn. Nếu ông đã nghe mấy người cố vấn đến hỏi tôi, thì xin chân tình nói với ông là ông nên xin với Thọ là ông chỉ muốn làm kinh tế. Và vì nhu cầu con nhỏ, vợ ốm đau, ông xin Thọ tạo điều kiện để công an cho phép ông làm việc cho một công ty nước ngoài nào đó để có đồng lương khá hơn làm cho quốc doanh. Như thế ông sẽ yên thân và sau đó ra sao, phải làm gì thì ông tự lo lấy mà phải dẹp cái, ông đừng giận, háo danh thích người ta thờ mình.”

Không biết có phải do tôi không, cho đến trước khi tôi ra hải ngoại, Vũ thư Hiên lại chơi cho biết đang xin, nhưng chắc được, vì không sợ công an làm khó dễ, để giúp việc cho một công ty Đài loan.


Việt Thường
Last edited by linhgia on Wed Aug 09, 2006 4:22 am, edited 1 time in total.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chân Dung Bác Hồ

Post by linhgia »

Chân Dung “Bác” Hồ (tặc)


Xin mời các bạn thưởng thức 2 bài Thơ họa của anh-em HNC 58-65

Nhân đọc bài thơ lời lẽ xúc phạm đến bậc anh hùng Trần Hưng Đạo của Hồ ác tặc :.

Bác anh hùng tôi cũng anh hùng,
Tôi bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác thắng quan Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi xua giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ,
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Mừng tôi cách mạng đã thành công.

Khiến cho bạn HNC 58-65 Trần Chương Lương, hậu duệ nhà TRẦN của chúng ta nổi giận, dậy cho Hồ chí Minh và đảng cướp cạn y một bài học để đời:



Láo toét cu li dám tưởng hùng
Huyênh hoang lừa mị việc đao cung
Bạch Đằng Hưng Đạo danh muôn thuở
Tổ Quốc,Chính Mi nhuộm máu hồng.
Hạnh phúc toàn dân trong cấm cố !
Tự do cả nước bị cùm đồng
Suốt đời tự hiến thân trâu chó
Thờ phụng Tầu Nga lại muốn công.

Hai câu kết của bạn LƯƠNG hay quá khiến tôi cũng không ngăn được nỗi tức hận.

Lại nhân đọc Vũ thư Hiên,Nguyền Minh Cần và người em rể của cô Nồng Thị Xuân[người bị Hồ Chí Minh bức tử sau khi cho đàn em là Trần Quốc Hoàn dầy vòdù trong bụng đang mang giòng máu của Hồ dâm tặc].

Xin đáp lời,chung ý phụ hoạ với bạn Lương :

Lão cẩu hùng đại dâm tặc.
Mi Chính Hồ gian,lão cẩu hùng!
Con rơi con rớt, Nguyễn Sinh Cung
Dối gian ác đức, lừa con trẻ,
Xoen xoét lưu manh, gạt má hồng.
Hắn quặp gái tơ,bồ bạn Phú.[1]
Y quằm gà mái, vợ thằng Đồng.[2]
Xuân nồng, y rủ thêm con chó,
Hoàn Quốc,Chính Mi chơi giáp công![3]

Ánh Đỗ
HNC 58-65

[1]Giết Trần Phú, dụ Minh Khaị
[2]Làm vợ Phạm văn Đồng ngơ ngẩn, đổ dại xem Vũ thư Hiên, đêm giữa ban ngày!
[3]Thơ tố giác Hồ Chí Minh cho Bộ trưởng NV & CA CSVN là Trần Quốc Hoàn giết vợ như nói trên.



3G giói thiệu HNC 58-65

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chân Dung Bác Hồ

Post by linhgia »

Nhân ngày 19-8:
Đọc thơ Hồ Xuân Hương thấy nhớ Bác Hồ quá!




Nguyễn Nại Dương




Đến chơi nhà chị, thấy chị đang nằm dài đọc cuốn"khúc khích Xuân Hương"*, tôi bèn trêu:
ái chà, đang nghiên cứu Hồ Xuân Hương cơ đấy, có khúc khích tí nào như đầu đề của cuốn sách không?
Chị ngồi thẳng dạy, mắt xa xăm bí ẩn, giọng buồn buồn bảo:
Đọc lại Hồ Xuân Hương thấy nhớ bác Hồ quá!
Cái gì, tôi phóng thẳng toàn bộ tinh lực vào cặp mắt âm u bí ẩn của chị, đầy ngạc nhiên:
Chị mê ngủ, mộng du, hay đang loạn ngôn đấy, hai con người ấy thì liên quan gì đến nhau?
Chị chép miệng, bảo thủ:
Thì đều là những bậc "kỳ tài, cao thủ" của đất nước mà lại, Hồ Xuân Hương là bà chúa thơ Nôm, còn bác Hồ của chúng ta cũng đã từng "mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới" còn gì?
Tưởng gì, tôi chép miệng: - Ai lại so sánh khập khiễng như thế bao giờ.
Chị cự nự:
Ơ hay vua với chúa không phải là ngang bằng phải lứa à? Bí lời, tôi phải đọc hai câu truyền khẩu nổi tiếng trong tập "cửa mở" của Việt Phương để thuyết phục chị... nhằm chặn đứng cuộc tranh luận vô tiền khoáng hậu này:
Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Đồng hồ Liên xô quý hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ...
Thế mà cũng đòi so với sánh
Chị cười như nắc nẻ:
Em chỉ biết có một mà không biết đến hai, đọc tiếp đi. Đến lượt tôi ngơ ngác:
Đọc tiếp à, nhưng sách đã bị cấm, cửa mở đã biến thành cửa đóng từ lâu rồi mà? Đọc sao được nữa?
Thì thế, chị bảo: Chỉ biết nghe đài ta, đọc báo Đảng làm gì chả tối như hũ nút, rồi chị đọc như thể chặn họng tôi:
Cửa mở rồi mới biết mình tối tăm
Nghe đài địch thêm tin tưởng ở tương lai
Ra thế, tôi bật cười khoái chí. Từ lúc ấy dẫu không muốn để chị ấn thành tượng tôi cũng bị chất giọng đầy ấn tượng của chị bắt vít xuống giường.
Em còn nhớ chuyện "hỏi nhà sư mượn lược" của bác không?
Ôi chuyện liên quan đến bác thì người dân Hà Nội ai chẳng phải nhớ, thậm chí em còn thuộc lòng như cháo nhuyễn ấy chứ.
Để chứng tỏ tấm lòng của tôi với bác Hồ, tôi kể lại vanh vách cho chị nghe, không xót một dấu chấm phẩy: "Tại lớp chỉnh Đảng trung ương khoá I, khi ấy đang là giờ nghỉ giải lao giữa hai tiết học, tất cả chúng tôi quây quần quanh Bác trò chuyện vui vẻ, trẻ trung đầm ấm như thể một gia đình thực sự... Chợt, từ cuối lớp, hai chị phụ nữ dắt tay nhau len qua giữa những hàng người, hàng ghế, chen vào bên cạnh, hỏi Bác:
Thưa Bác! Trong đời sống gia đình, khi người vợ đã góp ý nhiều lần với anh chồng mà anh ta vẫn cứ chứng nào tật ấy thì phải xử sự thế nào ạ?
Bác nhìn hai chị hóm hỉnh đáp:
Cô nên hỏi các chú có vợ này. Chuyện quan hệ vợ chồng mà cô hỏi Bác thế có khác gì hỏi nhà sư mượn lược"
Chị cười, đôi mắt lá răm nheo lại:
Em thấy chưa, rõ ràng bác tự nhận mình là sư nhé. Tôi ngơ ngác:
Thì có sao, Bác Hồ của chúng ta một lòng vì nước quên thân, vì dân phục vụ mà...
Chị sì một tiếng - nụ cười tủm tỉm đáng trăm quan tiền biến mất:
Đúng là chị phải mở cửa cuộc đời, mở cửa thế giới, mở khắp các kho lưu trữ tư liệu về người, để chỉ rõ sự tối tăm, dốt nát cho em
Thế nghiã là thế nào, tôi cố bảo vệ ý mình, rõ ràng em đọc trong tất cả các loại sách từ nhà xuất bản chính trị quốc gia đến nhà xuất bản Thanh niên, quân đội, Hà Nội đều nói rõ là bác không có vợ mà. Chính bác khi nói chuyên với Thanh niên cũng thật lòng khuyên nhủ:-Các chú học gì ở bác thì học, chứ không nên không lấy vợ và hút thuốc lá như bác đấy nhé.
Chị nói lại câu nhân xét ban đầu của mình:
Thì thế chị mới bảo đọc thơ Hồ Xuân Hương nhớ Bác Hồ của chúng mình quá!
Tôi thở dài chán nản:
Thật em chả hiểu gì cả, đành rằng bác baỏ bác là sư cũng chỉ là một sự ví von so sánh theo nghĩa bóng, mang tính trìu tượng, chứ đâu phải là thật, bác có biết nói dối bao giờ đâu?
Chị khẳng định, giọng chắc nịch:
Đúng là sư thật đấy em ạ, có điều không phải sư thiến, thiên sứ như Đảng thổi phồng, ca ngợi, thần thánh hoá đâu, mà là sư hổ mang, sư "trái gió" như thơ bà chúa thơ Nôm miêu tả ấy. Không để tôi được phép hoàn hồn, chị mở miệng đọc như mở máy.
Chẳng phải ngô chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Chẳng hiểu mô tê răng rứa gì, tôi cãi văng tê:
Thì bà chúa thơ Nôm chỉ tả nhà sư cùng gốc gác xuất thân của nhà sư này thôi, có liên quan gì đến bác đâu?
Phải! Chị bảo: - Nguồn gốc của nhà sư này rất không rõ ràng, chẳng phải Tàu phù, cũng chẳng phải An Nam... nghiã là lang thang tận chân mây cuối trời nào mà tìm đến tá túc tại đây, đói quá phải đóng giả sư, mượn sự uy nghi, phép màu của nhà chùa để ăn mày cửa phật, mong được thụ lộc của tín chủ mười phương...
Thì sao nào? Chẳng biết chị định dẫn dắt câu chuyện đến đâu, trong khi chỉ thấy mỗi một cái đầu sư trọc lốc, tôi cật vấn:- Chị đừng vòng vo tam quốc nữa, hãy đi thẳng vào vấn đề đi.
Ô hay chị vô cớ nổi cáu, vặc lại tôi: - Thế em không biết nguồn gốc xuất thân của bác à? Chẳng phải Bác Hồ nhà mình cũng rất nhập nhằng sao, chẳng phải họ Hồ, cũng chẳng phải họ Nguyễn, đầu thì chật cứng bóng đàn bà.
Chị nói linh tinh vớ vẩn gì thế? Tôi nổi cáu, chẳng cần biết ý nghĩ tư tưởng của mình bị dạt trôi tới đâu nữa? Chả phải tiểu sử của bác ghi rõ trong sách rồi sao: Mẹ là Hoàng thị Loan, sinh năm 1866 mất 1901, còn bố là Nguyễn sinh Sắc, sinh 1863, mất 1929. Một gia đình nông dân thuần chủng. Yêu nước, thương nòi, được chính phủ bảo hộ cung phụng chiều chuộng vời ra làm quan to, hưởng quyền cao chức trọng và bổng lộc triều đình mà vì ghét cảnh quan trường ô trọc, dân đen phải làm nô lệ, nên đã bày tỏ thái độ bất hợp tác, bỏ quan để về làm thầy lang. Chính tính cách cương trực khiêm nhường của người cha đã hình thành đạo đức, tư cách bác còn gì?
Phải chị bảo, giọng cứ ngọt như không: - Nhưng chị lại thích nghe "đài địch" đặt trong lòng quần chúng nhân dân do ông giáo sư Trần Quốc Vượng "loa loa" cơ. Chính xác, ông nội của bác là Hồ sĩ Tạo, vì gian díu với bà nội của bác là bà Hà thị Hy mà sinh ra ông Nguyễn Sinh Sắc. Nghiã là bố của bác chỉ mượn cửa họ Nguyễn, người của họ Nguyễn, tức ông nông dân già yếu, goá vợ, gia cảnh nghèo hèn là Nguyễn Sinh Nhậm để vào thôi, chứ thực ra bác là con rơi, cháu vãi đích thực của dòng họ Hồ.
Nghe chị nói, tôi tưởng tim rơi ra ngoài:
Giời ơi là giời, chả lẽ ông Trần Quốc Vượng ăn lương Đảng, sống giữa lòng Đảng lại dám thoá mạ cả vong linh bố đảng sao?
Đâu phải thoá mạ, chị bảo: - Sự thực muôn đời vẫn là sự thực chứ, em cứ nghe lời Đảng dạy, sẽ chết đứng như cây ngay có ngày.
Tôi láng máng nhìn thấy khoảng sáng, nhờ sự he hé tài tình của chị: - Hoá ra râu ông Sĩ Tạo lại cắm nhầm vào... đùi bà thị Hy, đẻ ra ngài phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Sinh Huy) chẳng liên quan gì đến ông lão đánh dậm Nguyễn sinh Nhậm ư? Giời ơi là giời?
Không lẽ cứ đứng như...trời trồng mãi, tôi đành nói lảng: "Em rất ghét những gì có nguồn gốc mập mờ không minh bạch như cái ông nhà sư mà bà chúa thơ Nôm tả... Phàm đã không có gốc gác dân tộc, quê hương bản xứ gì thì tư cách, học vấn, đạo đức chẳng ra gì, tất cả chỉ là đạo đức giả thôi".
Điều ấy thì rõ như ban ngày rồi, chị túm lấy câu nói của tôi đay đả: -Xuất thân đã thế thì hành xử làm gì chả lạm dụng giả dối đến khinh ghét? Mượn cõi chân tu để u mê dân chúng, đưa mình lên bậc thiên sứ thánh nhân.
Chút phản kháng trong tôi trỗi dạy, tôi cự nự:
Nhưng sao chị lại áp đặt khiên cưỡng thế, chị không nhớ câu bác trả lời nhà báo nước ngoài sao: - Từ 13 tuổi thấy cảnh dân khốn khổ đã mong đánh Pháp đuổi Nhật rồi
Điều này thì em lại nhầm rồi, chị dẫn chứng: - Bác luôn... bám Pháp để đạt được điều mình mong muốn... là xin một chức quan nhỏ để nuôi sống bản thân, gia đình đấy chứ. Nếu 2 lá thư của bác xin vào học trường thuộc địa được nhà nước đại Pháp chọn duyệt thì bác đâu đến nỗi phải chịu đựng khổ sở trong những căn phòng trọ chật hẹp, tồi tài, thiếu cả đồ đạc lẫn lò sưởi với đủ thứ nghề tạp dịch, khốn khổ, ấy chứ?
Nhưng thế thì sao nào, tôi bực bội phản đối: - dù sao giữa bác và nhà sư hoang dâm, sư hồi tục, sư chó giái ấy chẳng có liên quan chó gì đến nhau cả. Nhà sư kia tìm mọi cách để vào được chùa, đánh lừa người đời, bắt họ phải coi ông ta như một thánh nhân, thần phật, đặt mọi đức tin phép mầu nhiệm vào nơi chùa chiền, sư sãi, dâng oản, xôi hoa quả đầy thương yêu tin tưởng, biến chốn thiêng liêng chay tịnh thành chốn loạn luân, ô trọc, còn bác của chúng ta thì liên quan gì nào?
Bỏ qua thái độ cố cùng liều thân của tôi, chị bảo, giọng thon lỏn:
Để chị đọc tiếp hai câu sau cho em nghe, xem cái lão sư hoang dâm của bà chúa thơ Nôm miêu tả có giống bác không?
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà.
Dán mắt vào trang sách, chị đọc lời bình của tác giả: "Vãi chẳng qua cũng là một thứ..."oản. thịt" của nhà sư đấy thôi. Lưng của vị sư hổ mang này chắc phải to hơn hẳn tấm lưng tròn đứng giữ am của Tiểu vì che được những sáu bảy bà lúc ban ngày - và "sài" được sáu bảy "oản thịt cái" lúc ban đêm. Nhiều oản xôi, oản thịt như thế hẳn nhà sư tha hồ hành sự và chén đẫy chuối xôi của tín chủ dâng tặng.
Thế thì sao nào? Tôi quyết tấn công dứt điểm, nhằm hạ gục đối phương nhanh gọn là chị...
Thì...chị trả lời, những ý nghĩ loang loáng trong đầu, trên mặt, rồi chị đọc:
Khẩu hiệu "cha già" che trước mặt
Gái núp sau lưng 6, 7 nàng
Chứ còn gì nữa?
Tôi chưa kịp phản thùng, còn chị, như không dễ dàng dập tắt những ý nghĩ chất chứa trong đàu, liền nói tiếp:
Nào "đi tìm út Huệ (Sài gòn), nào đi tìm Bourdon (Pháp), nào Nguyễn thị Minh Khai (Nga) Tăng Tuyết Minh ở Tàu, Li Sam (Thái Lan) Nông thị Trưng (hang Pắc Bó, Nguyễn thị Xuân (ở phủ chủ tịch) v.v
Trời đất, đến lượt tôi tưởng đất dưới chân mình sụt xuống, toàn thân rơi vào lòng hang tăm tối, kín mít, tôi bất lực kêu lên: - Chả lẽ cha già dân tộc mà còn giả dối hơn cả lão sư hoang dâm kia sao? Chị lấy tư liệu ở đâu ra vậy?
Không trả lời câu hỏi của tôi chị dán mắt vào trang sách bảo:
Nghe chị đọc tiếp này:
Khi cảnh khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ giọng hi ha
Chất giọng tụng kinh lê thê sầu não cũng bị biến tấu thành bản nhạc chập cheng rất đời mà lạc đạo... vì cả đêm mải xơi cùng lúc sáu bảy cái "oản thịt" dâng trước mặt, còn chòng ghẹo sáu bảy bà vãi núp sau lưng, nên sư mệt, khiến ban ngày sư cứ lim dim gà gật, lúc có người vào lại giật mình đánh thót, bèn làm ra vẻ tỉnh táo, dướn người đánh gỡ một cách đầy hú họa vào ba thứ nhạc khí bằng đồng đặt trước mặt, tạo nên những âm thanh lạc điệu, nực cười. Lập tức bị bà chúa thơ Nôm lật tẩy, tóm chặt hồn vía của sư bằng mấy chữ tài tình đó.
Có nghiã là cả tòa sen của phật - vốn là chỗ linh thiêng nhất trong chùa cũng đã bị nhiễm mầu tục luỵ, tôi hỏi giọng nghi ngờ?
Chứ còn gì nữa, Cả sư cụ - chủ nhân của ngôi chùa - lẽ ra phải là người có uy tín nhất chùa vì cao tuổi đời, tuổi nghề hơn cả (thường có mặt trong các buổi lễ linh thiêng trang trọng của nhà chùa) lại làm những trò bậy bạ, tầm thường, nấp bóng nhà sư mà hưởng thụ. Chả phải trò chúng đang làm "oản dâng trước mặt, vãi nấp sau lưng", rồi: "Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ, giọng hì giọng hả giọng hi ha..." là trò dâm ô, truỵ lạc hoặc "trò chơi vợ chồng" mà lão trời già khéo dở dom ban cho muôn loài nhằm truyền giống đấy ư?
Nhưng... Tôi không chịu: -Sư tụng kinh ở chùa, còn bác làm việc trong phủ chủ tịch, hai thời điểm, hai thế giới, hai môi trường, hai nghề nghiệp, hai tính cách, có liên quan gì đến nhau đâu.
Thì bác lúc cần thì cũng đổi được giọng chứ sao. Sư...bỏ kình còn bác cũng...kinh bỏ sừ, em tưởng à. Và chị đọc tiếp:
Rõ ràng ta thua mà địch thắng
Lại bảo rằng: Ta thắng, địch thua
(Giết 63 vạn quân xâm lược
Có cả chục vạn là nhân dân )**
Ôi tôi thú nhận, nói chuyện với chị mệt mỏi quá, thật không biết chị định sỏ mũi em lôi đi đâu nữa:
Chị buồn rầu bảo:
Em cứ đọc nốt 2 câu kết mà xem bà chúa thơ nôm lột trái bộ mặt của sư hoang dâm, hồi tục này ra sao? Sẽ hiểu ý chị muốn nói gì? Tôi đọc;
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.
Và lập tức ngẩn ra như trời trồng: -Chỉ vì ham sống, năng động, xông xáo, lại coi trọng chất lượng cũng như giá trị thực của cuộc sống nên khi thấy những kẻ "mắt tinh tai thính, lưng dài" nấp trong chùa phật làm những trò ẩm ương, suy đốn, bại hoại, Bà chúa thơ Nôm ghét, nên chộp ngay cơ hội có một không hai nào để nguyền rủa đay nghiến chúng chứ sao đâu, liên quan gì đến Hồ Chí Minh?
Em không thấy hai câu này sự trào lộng lên đến đỉnh điểm à? Chị hỏi, đôi mắt lá răm chợt đầy bí ẩn, suy tư: Phải dùng thủ pháp nói lái: sư cụ thành... cu sự, rồi thử xem cái nghĩa ngầm bà muốn nói ở đây là gì? Tòa sen có còn ý nghĩa thiêng liêng nơi chùa phật không hay đã bị tầm thường, dung tục hóa thành "toà sen" mà Thợ trời nửa tò mò, nửa dâm dục đã nặn tạo tại nơi hạ tầng phồn thực của các ni cô, vãi bà? Người ta tu thành phật, còn chúng tu thành hổ, chuyên vồ đàn bà con gái? Người ta tu hành còn chúng tu sướng. Một sự ngất ngểu của một thằng cha căng chú kiết nào đó có tên... cu Sự - trên toà sen (nơi hạ tầng phồn thực) của các ni cô, vãi bà nơi cảnh chùa bí ẩn, linh thiêng.
Thôi thôi em hiểu rồi, tôi buông vũ khí, phục tài sự sắc sảo trong lập luận của chị, thật đáng mặt làm con cháu Hồ Xuân Hương, ý chị muốn nói là bác chúng ta, ở địa vì làm cha mà cũng có lúc ăn thịt con đúng không?
Chứ còn gì nữa, sư cụ lúc hứng lên thì lập tức biến ngay thành một thằng có tên là cu sự, ngất ngểu trên toà sen bằng da, bằng thịt của các ni cô, vãi bà, còn cha già dân tộc lúc chán làm cha thì cũng từ địa vị của Hồ Chí Minh thành địa vị của hồ chính mi... để ngất ngểu trên cả chục toà sen nọ đó mà của các cô, các bà khắp thế giới chứ sao? Nếu không sao lắm con rơi, con vãi đến thế? Nào con lai tại Pháp (trong di chúc để lại), con lai tại Tàu (Lý Sảo Vân?) con rơi tại lòng hang Pắc Bó (Nông Đức Mạnh), con oan giữa lòng Đảng (Nguyễn Tất Trung). Chưa kể các kiểu rơi vãi trên khắp các toà nhà, "toà sen" khác mà người đời không thể biết được, vì ai biết... cha ăn cỗ lúc nào?
Dù sao, tôi thành thật bộc lộ suy nghĩ của mình - chị cũng không nên ám chỉ điều gì phạm thượng như vậy, chả lẽ chị luôn coi bác là một thứ... "sư cụ" trong chùa sao?
ừ, chị bảo, giọng chắc nịch: Sư cụ là người có địa vị cao nhất trong chùa, còn bác chúng ta là người có địa vị cao nhất nước, được Đảng và nhà nước tôn vinh như một vị cha già dân tộc, một đấng cứu thế của muôn triệu người Việt Nam nhưng thực chất có phải đấng cứu thế đâu mà là đấng...nuốt thế đấy chứ, còn chuyện đời tư thì dù đã ở địa vị cha già người vẫn cứ tiếp tục vung vãi đám con trong dân gian, đến mức dân gian phải mượn thơ Tố Hữu mà tả:
Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là bố
Cuộc đời người là của...nhố nhăng.
Bỏ qua chất giọng chất chưởng của chị, tôi cố cùng liều thân một lần chót:
Dù sao em vẫn cứ thích nghe thơ Tố Hữu viết về bác:
Từ đó người đi những bước đường,
Lênh đênh bốn biển một con tàu.. . Cuộc đời người rộng rãi, mênh mông lắm, đâu có nhét chật mình trong ngôi chùa hẹp như cái lão sư kia.
Thì chùa càng rộng càng dễ che mắt thiên hạ chứ sao?
ừ nhỉ...Đến lượt tôi ngẩn người, không phải trời trồng mà bị chị... trồng thành...dáng đứng bến tre luôn: Tôi đứng như bóng dừa, tóc dài bay trên trán... hói (!)
Quán sứ 12-8- 2006
NND
***
*Khúc khích Xuân Hương: - Tác giả Trần Khải Thanh Thuỷ. Nhà Xuất bản Văn hoá Dân tộc 2005.
** Theo thông cáo ngày 20/12/1968 của Bộ chỉ huy các lực lượng nhân dân giải phóng, Tết Mậu Thân ta đã tiêu diệt 63 vạn tên địch trong khi toàn thể quân lực VNCH chỉ khoảng 1/2 triệu người (tức là 50 vạn) kể cả "lính ma, lính kiểng". Vì vậy, nếu căn cứ vào nguồn tin trên của phóng viên Phúc Thành (báo Quân đội Nhân Dân) thì 13 vạn còn lại là dân thường Việt Nam bị đảng ta tiêu diệt.


3G suu-tam tren Internet

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chân Dung Bác Hồ

Post by linhgia »

Trò lường gạt mới của việt gian cộng sản:
lá bài Nguyễn Tấn Dũng
Trần Thanh
Nguồn: www.tinparis.net



Trong thời gian qua, sự kiện một số tướng lãnh việt cộng ở quân khu thủ đô Hà Nội bị Nguyễn Tấn Dũng thuyên chuyển và cho nghỉ hưu, đã tạo ra một làn sóng bình luận sôi nổi. (Một số người cho là "cách chức" nhưng chưa hẳn là như vậy) Đa số những bình luận gia đều cho rằng đó là "tin mừng" vì phe thân Mỹ đã lấn lướt phe thân Trung Cộng. Chỉ có một số rất ít người còn dè dặt cho rằng đó là cạm bẫy lưu manh của bọn việt gian cộng sản. Sau đây chúng ta thử nhận định về sự kiện đó xem thế nào. Phải chăng đó là tin mừng hay chỉ là cạm bẫy? Chúng ta nhận định bằng cách tự đặt câu hỏi và tự trả lời:

Câu hỏi một: - Có phe thân Mỹ và phe thân Trung Cộng trong băng đảng việt gian cộng sản hay không?

Đáp: - Không có phe thân Mỹ mà cũng không có phe thân Trung Cộng. Chỉ có một "phe" duy nhất, đó là "phe" làm CHÓ SĂN CHO TRUNG CỘNG, hay còn có một tên gọi khác, đó là phe ăn cướp! Trung Cộng chỉ coi bọn việt gian cộng sản như là những con chó săn, chớ đâu có coi bọn này ngang hàng như bạn bè mà gọi là "thân"! Ví dụ, ta nói: - Tôi thân với anh vì anh là bạn của tôi, chớ không ai nói ông chủ thân với thằng nô lệ! Đã là chủ rồi thì hoặc là bóp cổ nô lệ hoặc là đối xử nhẹ tay với nó, chớ đời nào coi thằng nô lệ là bạn!

Câu hỏi hai: - Nếu không có phe thân Mỹ thì tại sao có bình luận gia ở hải ngoại đã nhận xét rất nhiều lần là Mỹ đã, đang và sẽ giúp cho việt cộng xuống cọp được an toàn, hạ cánh được an toàn?

Đáp: - Đây là sự nhận định bố láo của "bình loạn gia", cứ làm y như Mỹ đã kiểm soát được đảng cộng sản Việt Nam 100 phần trăm! Sự thật thì ngược lại! Hiện nay Trung Cộng đang kề hai ba con dao rất bén vào cổ cả băng đảng Việt Gian cộng sản. Thằng chó đẻ nào mà hó hé, có ý chống đối là nó cắt cổ liền! Trung Cộng nó sát liền một bên nách còn thằng Mỹ thì ở tuốt bên kia quả địa cầu, cách nửa vòng trái đất, ai có lợi thế hơn? Khi cần đánh chiếm Việt Nam, nó chỉ cần chừng vài ba tiếng đồng hồ là chiếm xong Hà Nội và chỉ cần chừng hai ngày là nó chiếm hết nước Việt Nam!

Câu hỏi ba: - Như vậy thì cái nhóm chữ "xuống cọp được an toàn và hạ cánh được an toàn" là nhằm ý nghĩa gì?

Đáp: - Nó có ý muốn gián tiếp ngụ ý hai chữ "THA THỨ" = "đầu hàng việt cộng". Tức là muốn kêu gọi toàn thể người Việt trong và ngoài nước HÃY THA THỨ CHO BỌN VIỆT GIAN CỘNG SẢN! Tụi nó đã lỡ làm chết .... MƯỜI TRIỆU NGƯỜI rồi thì bây giờ nên THA THỨ(!), quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù để cùng nhau .... hưởng thụ tương lai! Tuy nhiên, những thằng "đầy tớ" thì hưởng thụ khoái lạc trong những lâu đài sang trọng có chó bẹc giê canh gác, còn 80 triệu "ông chủ" thì hì hục .... húp CHÁO ĐỘN KHOAI MÌ và nằm lăn lóc ở ngoài đường vì mất mẹ nó nhà rồi!!!

Câu hỏi bốn: - Nhưng nếu chúng ta không muốn tha thứ thì sao?

Đáp: - Đó là lý do vì sao mà bình luận gia bưng bô cho việt cộng thường xuyên nhắc đi nhắc lại cái câu "NGƯỜI MỸ đã, đang và sẽ giúp việt cộng xuống cọp/hạ cánh được an toàn" Người Mỹ coi như là "thầy" của Việt Nam Cộng Hòa mà ông thầy đã quyết định tha thứ cho kẻ thù thì lý do gì người học trò không chịu tha thứ? Thêm nữa, cộng đồng người Việt tại hải ngoại hiện nay là linh hồn chống cộng của những đồng bào ở trong nước. Một khi đồng bào ở trong nước thấy cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã đầu hàng việt cộng ("tha thứ") thì họ đâm ra mất hết tinh thần, nhiều người sẽ buông xuôi bỏ cuộc, phó mặc số phận cho kiếp nô lệ vĩnh viễn! Riêng đối với những người đang chống cộng ở hải ngoại mà nghe những bài nói chuyện của "bình loạn gia" này thì cũng nản chí. Ờ nhỉ, thằng Mỹ nó là "sư phụ" của mình mà nó đã quyết định tha tội cho việt cộng thì mình còn đánh đấm gì nữa, có chống đối cũng vô ích! Thôi thì ..... đầu hàng cho xong! Thế là tan rã hết đội ngũ!

Cái mất dạy và chó đẻ của mấy thằng bình loạn gia đi bưng bô cho việt cộng là ở chỗ đó. Bọn chúng nó núp đằng sau tấm bình phong "người quốc GIAN chống cộng", ban ngày thì "chống" còn ban đêm thì lén lút đi quỳ lạy, xin được bưng bô cho việt cộng!!! Những nhát dao đâm vào sau lưng chúng ta của bọn này hết sức hiểm độc! Thằng nào cũng đội trên đầu lá cờ vàng để làm bùa hộ mệnh nhưng trong ruột của tụi nó toàn là cờ đỏ sao vàng của việt cộng!!!

Bởi vậy cho nên chúng ta phải có cái TRÍ để nhận định tình hình. Cho dù người Mỹ có "tha thứ" đi chăng nữa thì chúng ta vẫn cứ giữ vững lập trường của chúng ta: nhất định phải đấu tranh để tiêu diệt bọn việt gian cộng sản. Mà chưa chắc gì sự việc đã đúng như bình loạn gia bưng bô đã nói. Có ai thấy trên giấy trắng mực đen những văn bản "tha thứ" mà thằng Mỹ đã ký với việt gian cộng sản chưa? Thằng Trung Cộng liệu có để yên cho những thằng đã đi ký giấy "hôn thú" với thằng ma cô khác không, trong khi nó đã chính thức là thằng ma cô làm chủ thân xác con điếm một trăm phần trăm?

Câu hỏi năm: - Bình loạn gia bưng bô đã nhận xét " .... Mỹ cam kết sẽ bảo vệ lãnh thổ cho Việt Nam. Mỹ sẽ rót tiền cho việt cộng để cứu việt cộng qua cơn khủng hoảng tài chánh, cụ thể là vừa rồi Mỹ đã cho việt cộng vài trăm triệu đô la để tùy nghi sử dụng"

Đáp: - Có ai thấy cái văn bản "cam kết" chưa? Những ai là đại diện cho hai bên đã ký? Mà giả sử là có thật đi chăng nữa thì chúng ta hãy nhớ lại việc Mỹ đã "cam kết" bảo vệ Đài Loan để rồi sau đó nó đá đít Đài Loan ra khỏi hội đồng thường trực của Liên Hiệp quốc hồi năm 1971. Mỹ cũng đã "cam kết" bảo vệ lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, để rồi bây giờ hơn ba triệu người Việt đang sống khắp nơi trên thế giới!

Cho nên cái gọi là "CAM KẾT" của thằng Mỹ cũng giống như lời hứa chung thủy của những bọn ma cô và đĩ điếm thường đùa giỡn với nhau hàng ngày!!!

Còn việc Mỹ rót tiền cho việt cộng? Bộ tiền chùa hay sao mà nó rót? Bình loạn gia muốn nổ thì đó là quyền của bình loạn gia, còn việc của chúng ta là cần phải kiểm chứng lại!

.Câu hỏi sáu: - Nếu Mỹ không chiếm được thế thượng phong ở Việt Nam so với Trung Cộng thì tại sao các bình loạn gia cứ nói là "việt gian cộng sản đang đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ"?

Đáp: - Mấy thằng bưng bô, mấy thằng cò mồi chính trị, mấy cái đảng phái ma trơi ở Mỹ và hải ngoại lúc nào cũng mong cho Mỹ xía vô Việt Nam thì tụi nó mới có cơ hội .... trây máu ăn phần! Ví dụ như cái đảng lưu manh Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, chỉ toàn là những thằng lưu manh, chuyên đi lường gạt đồng bào, lập chiến khu ma, kháng chiến dỏm với MƯỜI NGÀN .... ÂM BINH ở biên giới Thái Lan! Đồng bào ở hải ngoại cứ tưởng thiệt, móc hầu bao ra ủng hộ "kháng chiến" tới mấy chục triệu đô la, bây giờ sáng mắt ra, ai cũng .KHIẾN CHÁN!!!

Ngoài ra, cái gọi là Cao Trào Nhân Bản của ông Nguyễn Đan Quế cũng chỉ là một con rối chính trị, làm cò mồi cho việt cộng mà hiện nay đang được các ủy ban yểm trợ cố thổi phồng lên nhưng nó chỉ cương lên được có một chút xíu rồi lại xẹp lép như con rệp và đang nằm gọn trong ... sọt rác của quốc hội Mỹ!

Nên nhớ, nhất cử nhất động của bọn việt gian cộng sản trong việc giao thiệp với Mỹ đều phải được ông chủ nô lệ Trung Cộng cho phép. Cho nên sự bình luận "việt cộng đang đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ" cũng là một dạng bùa phép giống như "Mỹ đã, đang và sẽ giúp việt cộng được xuống cọp được an toàn" Ý của bình loạn gia bưng bô muốn nói rằng: - Đấy, thấy chưa, việt cộng nó CÀNG NGÀY CÀNG CHƠI THÂN VỚI MỸ! Chúng ta, Việt Nam Cộng Hòa là "bạn" của Mỹ, mà Mỹ lại chơi thân với việt cộng, vậy thì việt cộng cũng là "BẠN" của chúng ta!!! Suy luận một cách toán học và "lô dzích" đấy nhé!

Cái bùa phép này nhằm gián tiếp xúi dục cộng đồng người Việt tại hải ngoại bớt chống đối những phái đoàn của việt cộng khi chúng đi sang Mỹ ăn mày. Các "ngài" Triết và Dũng bây giờ đã là "bạn" của Mỹ, mà bạn của Mỹ tức là "bạn" của ta, thôi thì đừng có đi biểu tình chống họ nữa! Những tên có mồi chính trị đã cấy sinh tử phù từng bước một vào đầu óc của các độc giả và khán thính giả. Bọn chúng làm dần từng bước một bằng những thứ bùa mê, ngải lú như : "Mỹ đã, đang và sẽ giúp việt cộng xuống cọp/hạ cánh được an toàn. Việt cộng càng ngày càng đi sâu vào quỹ đạo của Mỹ. Mỹ đã cho việt cộng ăn quá nhiều củ cà rốt mà đánh việt cộng thì đánh bằng gậy rơm ...."

Nhiều lần bị tiêm thuốc độc như vậy vào trong đầu thì đến một lúc nào đó những người chống cộng ở trong và ngoài nước sẽ nản lòng và bỏ cuộc! Một số người đâm ra muốn đi du lịch Việt Nam để ăn chơi thì sẵn có tờ báo điện tử con Tắc Kè nhảy Xì Lô giới thiệu đủ món ăn chơi ở Việt Nam. Những tên tay sai cho cộng sản đã hoạt động một cách rất ăn khớp và nhịp nhàng, kẻ tung người hứng!

Câu hỏi bảy: - Các bình loạn gia trên đài truyền hình còn nói: "kẻ thù của kẻ thù là bạn", như vậy là sao?

Đáp: - Trung Cộng là kẻ thù của chúng ta. Việt gian cộng sản cũng là kẻ thù của chúng ta. Bây giờ bỗng nhiên việt gian cộng sản trở cờ, theo Mỹ chống lại Trung Cộng, "cách chức" mười tướng lãnh "thân" Trung Cộng thì đó là "có lợi" cho chúng ta. Như vậy thì chúng ta phải trải thảm đỏ xem các "ngài" việt cộng như là bạn của chúng ta! Ý của các ngài bình loạn gia là như vậy!

Thật ra, đó chỉ là một trò hề do bọn việt gian cộng sản dựng lên để dọn đường cho lũ cò mồi ở hải ngoại thổi kèn, đánh trống ca ngợi "công lao" của "ngài" Nguyễn Tấn Dũng. Bọn chúng sẽ nói đi nói lại thật nhiều lần cho đến một lúc nào đó cái điều giả dối nó biến thành .... "sự thật"!

Câu hỏi tám: - Một nhân vật cao cấp -xin được giấu tên- ( Có thật vậy hay không ??) trong quân khu thủ đô đã ca ngợi hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chống cuộc xâm lăng của Trung Cộng năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa, và ông này cũng ca ngợi 55 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc. Như vậy là hiện nay việt cộng đã trở thành bạn của chúng ta, nếu không thì tại sao chúng lại ca ngợi chúng ta, nghe sướng lỗ tai quá!

Đáp: - Đúng rồi, việt cộng đã trở thành "bạn" của chúng ta nhưng nhớ là phải luôn luôn mặc áo giáp cho thật dày kẻo bị chúng đâm cho mấy nhát dao lút cán! Nghe cho sướng lỗ tai nhưng coi chừng bị bọn chúng đâm cây đũa vót nhọn xuyên từ tai này sang tai kia! Hì hì hì, nói đùa chút thôi!

Việt cộng thường nói rằng năm 1980, bọn chúng cũng "đánh nhau" với hải quân Trung Cộng tại quần đảo Trường Sa. Sự thật thì bọn chúng bỏ chạy vắt giò lên cổ, vãi cứt vãi đái ra quần và bị hải quân Trung Cộng rượt theo bắn chìm hai chiếc tàu, làm hơn 100 tên việt cộng bị toi mạng! Nếu có đánh nhau thì hai bên phải có thiệt hại chứ, ít ra cũng phải bắn chìm được một chiếc tàu của Trung Cộng và chiếc tàu đó tên là gì, số hiệu của tàu là gì? Đằng này ta chỉ thấy bên việt cộng bị chìm tàu và bộ đội bị chết, .như vậy chứng tỏ là bọn chúng chỉ có bỏ chạy thôi mà cũng không nên thân! Vậy mà bọn chúng cứ mặt dày ca ngợi "chiến công" bảo vệ hải đảo Trường Sa chống Trung Cộng!

Khi bị quá nhiều người lên án là dâng quần đảo Hoàng/Trường Sa cho Trung Cộng và hèn nhát không bảo vệ được lãnh thổ của tổ quốc thì việt cộng đã láu cá ."mượn đỡ" chiến công của hải quân Việt Nam Cộng Hòa làm chiến công của chúng! Bây giờ hai bên đã hòa hợp hòa giải rồi, hai bên đã trở thành "bạn", vậy thì chiến công của anh cũng là của tôi, tụi mình xài chung! Cái trò này tên Hồ tặc đã từng sử dụng hồi mới lên nắm chính quyền. Toàn bộ những trí thức của các đảng phái quốc gia đều bị hắn lợi dụng để làm bình phong lòe bịp nhân dân và thế giới, sau đó khi hết xôi rồi việc thì .hắn tỉa lần từng người, cho đi mò tôm!

Tưởng cũng nên nhắc lại, trong trận hải chiến năm 1974 giữa hải quân VNCH và Trung Cộng thì .sơ sơ Trung Cộng phải bỏ xác lại quần đảo Hoàng Sa ba chiếc tàu, còn sĩ quan của bọn chúng từ đại tá trở xuống bị toi mạng khoảng hai chục tên! ..Tự hào lắm chứ, hơn xa lắc cái gọi là quân đội nhân dân cực kỳ hèn nhát, chỉ biết đi buôn lậu thuốc phiện và ăn cắp cây rừng!!!

.Câu hỏi chín: - Một vài bình loạn gia đã nói rằng mong sao cho hai ông Triết và Dũng chơi thân với Mỹ thì toàn dân Việt Nam sẽ được nhờ! Có đúng như vậy không?

Đáp: - Đây là sự đi đêm giữa những bọn lưu manh với nhau nhằm mua bán đổi chác xương máu của 83 triệu đồng bào Việt Nam! Khi xét một vấn đề gì có lợi hay có hại, luôn luôn ta .PHẢI ĐỨNG TRÊN QUYỀN LỢI CỦA 83 TRIỆU DÂN MÀ XÉT chớ không vì quyền lợi của ba triệu thằng đảng viên cộng sản hoặc những thằng đón gió trở cờ, đi làm tay sai cho cộng sản và những thằng tư bản Mỹ bẩn thỉu!

Việt cộng mà chơi thân với Mỹ thì chỉ có tập đoàn bóc lột của bọn chúng càng giàu thêm, còn người dân nghèo thì vẫn nghèo. Vào thời bạo chúa Lê Duẩn, người dân phải ăn cơm độn với khoai mì và bo bo thì thời nay, khi thằng Triết và thằng Dũng chơi thân với Mỹ, người dân phải ăn cháo độn với khoai mì và ngủ ở ngoài đường vì nhà đã bị bọn chúng cướp mất mẹ nó rồi! Dưới thời tên bạo chúa Lê Duẩn, người dân nghèo dù sao cũng vẫn còn "một túp lều tranh và hai quả tim vàng" để chui ra rúc vào, còn thời nay Võ Văn Kiệt "đổi mới", Triết-Dũng thân Mỹ thì người dân ngủ ở đầu đường xó chợ!

Đó, chơi thân với Mỹ là "sướng" như vậy đó!

Câu hỏi mười: - Như vậy chắc là phải chờ cái đảng dân Chủ 21 của "cụ" Hoàng Minh Chính lên nắm chính quyền thì đời sống người dân mới khá lên được? Bởi vì dầu sao, chúng tôi thấy trong bản cương lĩnh của đảng Dân Chủ 21 có xác định rõ là sẽ đấu tranh cho 1001 quyền lợi của dân nghèo? Có đúng như vậy không?

Đáp: - Giả sử như bọn cộng sản bị lật đổ và cái đảng Dân Chủ 21 của ông "thánh dưa hấu" Hoàng Minh Chính lên nắm quyền thì .đời sống của người dân sẽ bị khốn nạn hơn gấp MỘT NGÀN LẦN! Có nghĩa là những tên đảng viên của đảng Dân Chủ 21 sẽ ăn cắp, ăn cướp và tham nhũng nhiều hơn bọn việt gian cộng sản GẤP MỘT NGÀN LẦN! Vì sao vậy? Có hai lý do:

- Lý do một: - Bọn việt cộng nó đã hút máu người dân liên tục trong 60 năm nay, cho tới nay tụi nó đã tạm no. (Tất nhiên lòng tham không đáy thì không bao giờ thỏa mãn dù bọn chúng biết chắc khi chết xuống địa ngục cũng không thể nào đem theo số tiền ăn cướp xuống dưới đó) Thằng nghèo hạng bét cũng có bạc triệu đô la. Trong khi đó thì những đảng viên của đảng Dân Chủ 21, thằng nào thằng nấy đều đang đói xanh mắt cuốc, giống như một thửa ruộng khô bị nứt nẻ, bị hạn hán trong nhiều năm, có tưới bao nhiêu nước cũng không đủ. Vậy thì bây giờ nếu được nắm chính quyền thì bọn chúng sẽ phải tranh thủ ăn cắp, ăn cướp và tham nhũng gấp ngàn lần đảng cộng sản, để đi theo kịp .... bước tiến của đàn anh! Đó là lý do vì sao có câu chuyện ngụ ngôn hài hước Tây phương nói về một bà lão thường xuyên đi nhà thờ để cầu cho baọ chúa được sống lâu!

- Lý do hai: Đây là lý do quan trọng bậc nhất. Đảng Dân Chủ 21 sẽ ăn cắp, ăn cướp và tham nhũng gấp một ngàn lần cái đảng việt cộng bởi vì TOÀN BỘ CÁI BỘ MÁY GIẾT NGƯỜI CỦA THẰNG HỒ TẶC VẪN CÒN NGUYÊN ĐÓ. Hay nói cho rõ hơn, cái chế độ độc tài cộng sản, với bộ máy đàn áp chuyên chính vô sản vẫn còn nguyên và nó được điều hành trên nguyên lý: ĐẢNG LÃNH ĐẠO, ĐẢNG QUẢN LÝ VÀ ĐẢNG LÀM CHỦ. (Câu chơi chữ và bịp người dân là "Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ") Đảng Dân Chủ 21 chỉ muốn CANH TÂN cái bộ máy đó chớ không muốn xóa bỏ. NGU GÌ XÓA BỎ, UỔNG LẮM!!!

Phải xóa bỏ toàn bộ cái chế độ chớ không phải chỉ xóa bỏ cái chính quyền đang điều hành cái chế độ đó. Bất cứ thằng nào lên thay thế, cũng sẽ đi vào cái vết xe cũ của bọn việt gian cộng sản, bởi vì bộ máy điều hành chế độ vẫn như cũ.

Không những đảng Dân Chủ lên thay thế sẽ ăn cắp, ăn cướp mà bất cứ đảng phái ( Cộng Sản nào )nào thay thế cũng sẽ tệ hại giống như vậy. Cái chế độ nó làm hư hỏng con người. Dù là người rất lương thiện mà ở trong một môi trường xấu thì bắt buộc người đó sẽ trở thành xấu! Một em bé gái mà sống trong động đĩ thì khi lớn lên chắc chắn sẽ trở thành gái điếm! Sau đây, tôi xin đưa thêm một ví dụ khác:

Giả sử như có một người mang tên là "Ông Liêm Khiết" là vị lãnh đạo một quốc gia. Hàng ngày có hàng triệu tiền thuế - tiền mặt- do nhân viên cấp dưới đi thâu từ người dân, đem về bỏ trên bàn làm việc của ông ta. Không có thủ quỹ, không có kế toán, không có người an ninh canh giữ tiền. Nói tóm lại là không có bất cứ một biện pháp nào để quản trị và bảo vệ số tiền đó. Nếu cao hứng, ông Liêm Khiết có thể lượm một bó tiền bỏ túi xài chơi cũng được. Không có bất cứ một nhân viên hay đồng sự nào dám theo dõi hay kiểm soát ông ta. Như vậy thì sau một thời gian, người lãnh đạo đó có còn là người liêm khiết hay không?

Đọc đến đây, sẽ có người kêu lên: - Chuyện hoang đường! Làm gì có cái bộ máy của quốc gia nào mà kỳ khôi như vậy? Cứ y như là sống ở trên thiên đàng!

Ấy vậy mà có đấy! Đó chính là cái bộ máy cai trị của cái quốc gia gọi là nước Cộng Hòa Xã Nghĩa Việt Nam! Đó là lý do vì sao mà có nhiều đảng phái, tổ chức đấu tranh chỉ muốn "CANH TÂN" bộ máy chớ không muốn xóa bỏ cái bộ máy xay thịt hamburger đó! Biết đâu mai mốt đến phiên họ lên nắm quyền cai trị thì SƯỚNG CHO HỌ biết chừng nào! Giàu có mấy hồi!

Câu hỏi mười một: - Nếu như vậy thì chắc phải là đảng Việt Tân lên nắm chính quyền thì đời sống người dân Việt Nam mới khá được?
Đáp: - Đảng Việt Tân ( vì Vịt Tiềm chỉ là công cụ Cộng Sản ) mà lên nắm chính quyền thì họ SẼ THÂU THUẾ HÍT THỞ KHÔNG KHÍ! Có nghĩa là họ sẽ tính toán một người dân, tùy theo số tuổi, sức khỏe và hình dạng cơ thể để họ đánh thuế hít thở không khí. Ví dụ một người trung bình trong một ngày hít thở hết năm mét khối không khí thì họ sẽ đánh thuế năm mét khối đó! Không khí là tài sản của nhà nước, người dân hít thở phải đóng thuế! Nói như vậy thì quý vị có thể hình dung ra sự tàn bạo và khủng khiếp, tai họa cho người dân sẽ như thế nào nếu họ phải sống dưới sự cai trị của đảng Việt Tân! Những ai ủng hộ Việt Tân, mong cho bọn chúng lên nắm chính quyền thì cứ việc ủng hộ. Xin mời!

Câu hỏi mười hai: - Có bình loạn gia cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ là một Boris Yeltsin của Việt Nam. Ông ta là người thanh liêm, ghét giả dối, chống tham nhũng. Sở dĩ bây giờ ông ta chưa chống được tham nhũng là vì ông ta bị cô đơn! Có đúng như vậy không?

Đáp: - Cứ nhìn vào thực tế thì ta sẽ thấy câu trả lời: Nguyễn Tấn Dũng "thanh liêm" mà tài sản của hắn có khoảng .... hai tỷ đô la!!! Hắn và giòng họ của hắn độc quyền kinh doanh khách sạn và xe tắc xi từ Sài Gòn về tới Cà Mau. Hắn ra lệnh bắt toàn dân đi xe gắn máy phải đội mũ cứng và hắn cũng độc quyền sản xuất loại mũ cứng, bán cho toàn dân! Con gái của hắn đi du học tại Thụy Sĩ, khi về nước giữ chức vụ tổng giám đốc ngân hàng kiêm luôn chức vụ đồng chủ tịch hội đồng quản trị của công ty liên doanh Thụy Sĩ và Việt Nam tại Cà Mau! Bàn tay tham nhũng và làm tiền của hắn cùng giòng họ còn thò vào nhiều lãnh vực khác, chỗ nào cũng hái ra bạc, khạc ra tiền! Và còn nhiều lắm, cho nên tài sản của hắn tích lũy được hai tỷ đô la cũng là .... bình thường!

Nếu hắn chỉ sống chân chính nhờ vào đồng lương thủ tướng như thủ tướng Gandhi của Ấn độ thì cho dù hắn có làm thủ tướng tới một ngàn năm cũng không bao giờ để dành được số tiền hai tỷ đô la!

Còn chống tham nhũng? Hắn chống cái bản thân của hắn còn chưa được thì chống ai? $Bl.. Nếu có ngon và chứng tỏ thiện chí thì hắn cứ đem cái tài sản hai tỷ đô la ra mà chia hết cho số dân oan đang sống vất vưởng ở ngoài đường, lúc ấy người dân sẽ tin hắn!

Hiện nay có một số bọn tay sai việt gian cộng sản, làm chó săn cho giặc đã thi nhau đánh bóng và lắp ống đu đủ vào đít tên Nguyễn Tấn Dũng để thổi, tâng bốc hắn sẽ là Yeltsin Việt Nam! Cái tài sản hai tỷ đô la là một trở lực rất lớn $R.. làm cho tên Dũng không bao giờ muốn dân chủ hóa đất nước, chưa kể còn rất nhiều yếu tố phức tạp khác! Hắn không bao giờ cô đơn trong việc ăn cắp, ăn cướp và tham nhũng!

Câu hỏi mười ba: - Giả sử Nguyễn Tấn Dũng muốn là người hùng "Yeltsin" cứu nguy đất nước thì các nước cờ của hắn sẽ đi như thế nào?

Đáp: - Nước cờ của hắn thì chỉ có hắn và bọn tay sai ở hải ngoại biết. Tuy nhiên chúng ta có thể đoán là bọn chúng sẽ làm như thế này, giả sử như bọn chúng muốn phản Tàu để theo Mỹ:

a. Đi đêm với Mỹ, hứa với Mỹ là tụi tao sẽ đi theo mày để chống thằng Tàu nhưng .TỤI MÀY PHẢI YỂM TRỢ CHO TỤI TAO VẪN TIẾP TỤC ĐƯỜNG LỐI CAI TRỊ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ. Nghĩa là đi theo Mỹ để kiếm chác đô la, dự trù con đường bỏ chạy sống nương thân ở bên Mỹ nếu chế độ bị sụp đổ, và đồng thời vẫn tiếp tục được đè đầu cưỡi cổ, bóc lột người dân!

b. Bố thí cho bọn tay sai, cò mồi ở Mỹ một chút xương thừa, canh cặn, ví dụ cho bọn chúng một số ghế trong chính quyền từ bộ trưởng xuống chủ tịch xã, hoặc các ghế đại biểu quốc hội! Những tên tay sai hạng bét trên các báo điện tử chỉ cần được bố thí cho cái ghế chủ tịch xã là mừng lắm rồi! Chỉ cần làm chủ tịch xã cũng đủ uy quyền để đi cướp nhà, cướp đất của dân!

c. Để lừa bịp người dân trong nước và cả thế giới thì bọn chúng sẽ đổi tên một số chức vụ và tên đảng:

- Tổng thống ( chức vụ cũ là chủ tịch nước và tổng bí thư đảng)
- Thủ tướng ( chức vụ cũ là thủ tướng)
- Đảng Cộng Sản đổi tên thành đảng Cộng Hòa
- Lá cờ máu vẫn lá cờ máu nhưng thay thế cái ngôi sao bằng cái lá đa ở chính giữa!

Nói tóm lại, bọn chúng có đi theo Mỹ hay theo Tàu, toàn dân Việt Nam cũng chỉ làm nô lệ! Tất cả chỉ là những sự điếm đàng và bịp bợm nhờ sự tiếp tay của những tên chó săn đi bưng bô cho việt cộng và bọn tư bản bất lương!

Câu hỏi mười bốn: - Việt cộng có tiền, tụi nó sẽ hối lộ chính quyền Mỹ và giới tư bản Mỹ. Mình là những người đấu tranh chân chính nhưng không có tiền thì sẽ bị thua trong trận chiến này?

Đáp: - Rất khó để hối lộ chính phủ Mỹ. Các chức vụ bên hành pháp đều làm theo nhiệm kỳ. Tổng thống là bốn năm, anh nào giỏi lắm thì tám năm thì chấm hết chớ không phải làm thủ tướng suốt 33 năm như tên răng hô Phạm Văn Đồng! Truyền thông của Mỹ rất mạnh. Họ luôn luôn theo dõi những người có chức quyền rất kỹ. Trước khi nhậm chức phải kê khai tài sản, sau khi rời chức vụ phải kê khai tài sản. Hơi có một điều gì mờ ám là báo chí và quốc hội có quyền chất vấn những người đang giữ những chức vụ cao trong hành pháp và bắt buộc phải trả lời, trả lời không xong thì liệu hồn!

Làm "đầy tớ" ở bên Mỹ rất khó: vi phạm luật pháp một điều gì dù là nhỏ cũng có thể bị bãi chức. Có vị thống đốc một tiểu bang bên Mỹ chỉ ăn hối lộ có vài chục ngàn đô la mà bị bãi chức, bị đưa ra tòa, bị phạt tù treo và bị phạt lao động công ích bốn tháng, phải đi quét dọn trong nhà tù! Trong khi đó, đối với những quan lớn việt cộng thì vài chục ngàn đô chỉ là một bữa nhậu!

Ngành lập pháp của Mỹ thì cứ hai năm được bầu lại một phần ba số dân biểu hoặc nghị sĩ. Như vậy là họ thay đổi nhân sự luôn luôn, việt gian cộng sản có tài thánh cũng không thể nào mua chuộc được hết tất cả! Nếu bọn chúng là thần thánh, cái gì cũng làm được thì bọn chúng đã .... giải phóng cả nước Tàu hoặc nước Mỹ rồi! Có đâu lại đi vác những bộ mặt chó sang Mỹ đi ăn mày rất nhục nhã, nhục hơn triệu lần những người bị bại trận!

Nếu chính phủ Mỹ dễ bị hối lộ thì bọn khủng bố đã hoàn toàn làm chủ nước Mỹ hoặc phá nát nước Mỹ rồi! Bọn khủng bố bán dầu hỏa thì có thiếu gì tiền! Vậy mà bây giờ tên khủng bố Osama Bin Laden, tỷ phú đô la vẫn đang phải trốn chui trốn nhủi như con chó!

Không phải giới tư bản nào của Mỹ cũng thích làm giàu trên xương máu của nô lệ. Họ có nhiều cách để làm giàu. Đối với những người biết nhìn xa, họ thấy phương pháp giàu sổi bằng cách vắt kiệt máu và mồ hôi của những người nô lệ, hoặc buôn bán nô lệ sẽ đem lại hậu quả rất xấu cho chính họ và cho thế giới. Máu của những nô lệ trên toàn thế giới, đặc biệt là tại Việt Nam và Trung Cộng càng bị ép vắt ra thật nhiều thì càng làm cho trái đất này mau bị tàn lụi. Bằng cớ là đã có tập đoàn tài chính của Mỹ rất lớn quyết định rút ra khỏi thị trường Việt Nam, sau khi họ khảo sát nhiều mặt, thấy nhiều tội ác của bọn việt gian cộng sản.

Câu hỏi cuối cùng: - Như vậy tổng kết lại, lá bài Nguyễn Tấn Dũng là gì? Và thái độ của chúng ta cần phải có?

.Đáp: - Nói một cách vắn tắt: đó là ĐẠI BỊP, ĐẠI BỊP, ĐẠI ĐẠI BỊP! Sau khi xảy ra vụ "cách chức" thì đài ở hải ngoại đã phỏng vấn một giới chức quân sự tại quân khu thủ đô mà ông này không muốn nêu tên. Tất cả những gì mà tên việt cộng này phát biểu đều đã có sự chuẩn bị trước, được nói cái gì và được tiết lộ cái gì! Nó cũng gần giống như cái trò hề ĐIỀU BỐN HIẾN PHÁP của việt cộng trước đây!

Thái độ của chúng ta là vẫn giữ vững lập trường chính trị, tiếp tục đấu tranh để XÓA BỎ CÁI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN TÀN ÁC ;và tiêu diệt toàn bộ những tên tội đồ dân tộc. Toàn bộ những đất đai, những lâu đài biệt thự của bọn chúng phải bị tịch thu và trả lại cho những người dân bị chúng cướp bóc. Bọn chúng không thể hóa phép thần thông để đem những nhà và đất đó sang nước Mỹ! Tám mươi ba triệu dân trong và ngoài nước phải thực sự là những người chủ đất nước, phải hiên ngang ngồi trên bàn để giao thiệp với thế giới, chớ không phải chỉ mong được làm những con chó ngồi dưới gầm bàn, chỉ mong cho việt cộng và thằng tư bản Mỹ ngồi ở trên quăng xương xuống rồi tranh nhau dành dựt và gặm! Tiếc thay, những tên tay sai, bưng bô cho việt cộng chỉ mong được có thế Bọn chúng vẫn nghĩ rằng đi làm nô lệ cho thằng nhà giàu Mỹ thì chỉ cần đi bới thùng rác của chúng cũng đủ sống sung sướng!

Chúng ta đấu tranh là để đòi lại toàn bộ đất nước và thực sự làm chủ đất nước chớ không phải là để đi kiếm một ông chủ mới nào đó để đội lên đầu, để tiếp tục đi làm nô lệ! Đây là tinh thần mà cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã nói rất rõ ràng. Tiếc thay những người kế tục sự nghiệp của giáo sư đã phản bội lại lý tưởng cao đẹp. Họ chỉ mong được việt cộng cho làm .... chủ tịch xã hoặc làm những con chó ngồi dưới gậm bàn để lượm những mẩu xương do bọn việt gian cộng sản và tư bản Mỹ quăng xuống!


Trần Thanh

Ngày 10 tháng 8 năm 2008


Nguon: www.tinparis.net
band4 3G McKeno

Post Reply