MÁU LỬA... CHARLIE

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

THƯ GỞI NGƯỜi LÍNH NĂM XƯA
Duy Nhân


Duy Nhân là một tác giả đã được trao tặng giải thưởng Viết Về Nước Mỹ năm trước và vẫn liên tiếp góp thêm những bài mới. ghi lại nhiều kinh nghiệm và suy nghĩ trên đất Mỹ của một cưu sĩ quan, cựu tù nhân Cộng sản. Tác giả hiện sống tại Chicago và sau đây là bài viết mới nhất của ông.

*

Bây giờ là mùa đông. Ở Chicago nầy mùa đông rất lạnh. Mỗi khi trời lạnh như thế nầy thì hắn thấy nhức ở đùi bên phải, nơi vẫn còn ghim những mảnh đạn trong một lần chạm súng với địch ở miền Tây năm 1972.
Vết thương chiến tranh của 32 năm trước tuy có nhức, nhưng vẫn không bằng cái nhức nhối trong hồn mà hắn cảm thấy mấy ngày nay khi đọc báo biết được cộng đồng người Việt khắp nơi đồng loạt phản ứng chống lại một ông tướng mới về Việt Nam ca tụng chế độ Cộng sản, hô hào hòa hợp, hòa giải, tìm cơ hội làm ăn với Cộng sản.

Nghĩ về ông tứơng, hắn lại nhớ đến một thương binh VNCH cụt một chân và hư một mắt tại chiến trừơng An lộc năm 1972, vừa mới gửi từ Việt nam cho hắn một lá thư nhờ chuyển tới các cấp chỉ huy ngày xưa.Thư đựơc phổ biến trên tuần báo Trách nhiệm số 107. Thư nầy có ý hờn trách những sĩ quan QL.VNCH mặc áo gấm về làng, ngồi nhà hàng, ở khách sạn năm sao, tung tiền ra để chứng tỏ là Việt kiều yêu nứơc, đồng thời tính chuyện hòa hợp, hòa giải với Cộng sản. Thư có đoạn viết “những ngừơi lính QL.VNCH đang lê lết ngòai cửa nhà hàng mà các anh đang ăn uống, vui chơi. Hận thù lớn nhất của ngừơi lính là sự bội bạc.” Thư có nhắc đến những tổ chức, hội đoàn của cựu quân nhân lập ra thì nhiều mà không thống nhất mục tiêu tranh đấu, phương pháp thực hiện, nhiều lúc còn đối đầu, chống phá lẫn nhau. Thư cũng nhắc đến những sự kiện bát nháo trên xứ ngừơi. Đó là những tổ chức kháng chiến ma, những mặt trận dỏm, những chánh phủ tự phong v ...v. Thư viết tiếp, xin cám ơn các anh về những đồng đô la mà các anh đã gửi về cho chúng tôi trong những chương trình giúp đỡ thương phế binh QL.VNCH. Những đồng tiền đó, dầu có giúp cho chúng tôi trong một thời gian ngắn, dầu có an ủi cho những đớn đau vật chất được đôi phần, nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên đi nỗi nhục mất nước. Đọan kết thư viết : Chúng tôi là những ngừơi lính năm xưa của các anh đây. Toàn thể quân nhân và đồng bào đang tin tưởng vào các anh, tin tưởng vào ngày về rửa nhục để mẹ Việt Nam không còn cất lên tiếng than ai oán, để chúng ta cùng nhau trở lại kiếp làm ngừơi, chấm dứt đêm trừơng u tối đã phủ trùm lên Tổ quốc ngót 29 năm dài.
Một ông tứơng và một người lính! Hai hình ảnh hoàn tòan trái ngược. Ông tứơng thì ngừơi ta đã nhắc tới qúa nhiều, còn người lính thì không ai nhắc đến. Hắn không thể nào chịu được. Cuối cùng thì hắn quyết định viết cho ngừơi lính năm xưa:



Thân gửi Anh,
người lính năm xưa,
Tôi là một sĩ quan QL.VNCH, từng là cấp chỉ huy của các anh đây. Tôi thấy thật là lúng túng, khó khăn, không biết phải mở đầu lá thư nầy như thế nào cho suông sẻ, nhất là cách xưng hô.
Thật là ngựơng ngùng khi phải nghe lại những danh từ Hải Long, Hắc Báo, Đại Bàng, Bắc Đẩu mà ngày xưa các anh đã gọi chúng tôi một cách thân thương và kính trọng của môt binh sĩ đối với cấp chỉ huy của mình. Danh từ Sĩ quan tôi dùng là muốn xác định trách nhiệm của chúng tôi đối với các anh, ngày trứơc cũng như bây giờ, vậy thôi. Cấp bực và chức vụ nào có nghĩa lý gì trong lúc nầy, khi mà tất cả chúng ta đều là người bại trận. Vậy thì, tôi đề nghị, mình hãy nói chuyện với nhau như những ngừơi lính đã từng sát cánh, chiến đãu bên nhau trong môt trận tuyến, cùng chung mục đích, lý tửơng là chống Cộng sản xâm lược. Còn những ai cho rằng cuộc chiến vừa qua là bẩn thỉu thì chắc là lý tửơng của họ khác chúng ta.
Đã 29 năm qua, nhưng tôi có cảm tửơng như mới ngày nào đây thôi. Cái ngày chia tay có rựơu nồng chan hòa nứơc mắt, ngày các anh tiển chúng tôi ra đi định cư tại nứơc Mỹ nầy, để chúng tôi có điều kiện thuận lợi trong cuộc chiến đãu mới và thầm mong ngày về vinh quang.
Trong thư, anh bày tỏ mối lo sợ là chúng tôi đã quên các anh, quên những chiến sĩ của mình đã nằm xuống vĩnh viển trên đất mẹ thiêng liêng, quên những đồng đội còn sống sót trong tấm thân tật nguyền, đau khổ, lây lất nơi đầu đừơng, xó chợ, đi vá xe đạp, đi bán vé số, thậm chí, đi ăn xin, kiếm sống qua ngày. Không! Chúng tôi không bao giờ quên các anh. Ngoài các anh, chúng tôi còn nhớ những ngừơi bạn của mình đã ngả gục ở các trại tập trung trong Nam, ngòai Bắc, hoặc đã bỏ mình nơi rừng sâu hay đã nằm im dứơi lòng đại dương khi cố gắng vượt biên, hoăc còn đang khoắc khoải với kếp sống lưu đày ở đâu đó nơi xứ lạ, quê ngừơi.
Hỡi anh, ngừơi lính năm xưa!
Làm sao mà chúng tôi quên được hình ảnh của các anh trên khắp 4 vùng chiến thuật, trên mọi nẻo đường đất nứơc. Lúc thì Năm Căn, Cà Mau, Kiến phong, Kiến từơng, Rạch gía...
Ở đó, từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối không có lúc nào mà bộ đồ trận anh mặc trên ngừơi đựơc khô ráo. Hết hành quân truy lùng, đến hành quân giải dây, tiếp tế. Hết lội ruộng, anh lại băng rừng. Nào rừng đước, rừng tràm, rừng lá...
Có lúc anh hợp đồng chiến đãu, có lúc anh chiến đãu một mình trong rừng cả tháng không thấy ánh mặt trời. Giả từ miền Tây, anh lại ra Trung, nơi địa đầu giới tuyến, nơi hoàn toàn xa lạ, để rồi bỏ thây nơi đó để cho nơi nầy thành ra nỗi tiếng, nào Cổ thành Quảng trị, Tống lê Chân, Bình Long, An Lộc, Khe Sanh, Hạ Lào...
Có lúc các anh phải sống ở địa đạo, chịu đựng mỗi ngày từ 8000 đến 10000 qủa đạn pháo. Nào ai có biết? Các anh uống nước rễ cây, ăn hoa lá, côn trùng để cầm cự với địch là chuyện bình thường. Trong khi đó, có một số ngừơi thành phố vẫn sống trong nhà cao, cửa rộng, nệm ấm, chăn êm, ném tiền qua cửa sổ, ăn chơi, trụy lạc, thâu đêm suốt sáng nơi vũ trường, phòng trà, tửu quán. Họ không hề biết chiến tranh là gì, làm như chiến tranh là chuyện riêng của các anh, không liên quan gì tới họ. Đã thế, lâu lâu họ còn bày trò biểu tình để đòi 'quyền sống' xuống đừơng đòi Tự do Dân chủ, tự do Tôn giáo... Nếu những ngừơi nầy còn có lương tâm để phản tỉnh, chắc họ thương các anh lắm. Nhưng rất tiếc, điều đó đã quá muộn màng.

Trong hơn 20 năm dài, kể từ lúc ngừơi anh em phương Bắc theo chủ nghĩa ngoại lai cầm vũ khí Nga, Tàu và khối Cộng trao cho để xâm nhập, phát động chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng, hầu nhuộm đỏ miền Nam, thì các anh chưa hề có một giấc ngủ bình yên. Vì có ngày nào mà bom không nổ, đạn không rơi trên lảnh thổ miền Nam? Các anh cũng là những ngừơi không có mùa Xuân. Nhiệm vụ các anh là phải ôm súng, đứng gác nơi tiền đồn để canh giử mùa Xuân cho đồng bào, cho mọi người, mọi nhà. Mùa Xuân chỉ đế với các anh bằng cánh mai rừng nở muộn. Chỉ có mùa Xuân năm 1968 vì qúa tin vào thỏa hiệp hưu chiến của phía bên kia mà các anh buông lơi tay sung. Lợi dụng dịp đó, giặc bất ngờ, đồng loạt tấn công vào các thành phố, thị xã miền Nam, gây tang thương, chết chóc cho biết bao dân lành vô tội. Các anh phải chịu nhiều hy sinh, mất mát và phải vất vả lắm mới giành lại thế chủ động. đẩy lùi địch ra khỏi các đô thị miền Nam, cắm lại ngọn cờ chánh nghĩa quốc gia trên thành phố Huế sau 25 ngày đêm bị địch chiếm và gây ta tội ác trời không dung ,đất không tha, khiến cho vạn vật phải ngậm ngùi, qũy thần phải rơi lệ : 5000 quân dân cán chính bị hành hình và vùi thây ở những hố chôn tập thể.

Thật ra, các anh đâu chỉ biết có mỗi một việc là cầm súng. Có nhiều lúc các anh còn phải tay súng tay cày, hoặc vai mang súng, tay cầm liềm gặt lúa phụ giúp ngừơi nông dân trong việc đồng áng. Lúc thì các anh khám bệnh, phát thuốc cho đồng bào, lúc làm thày giáo dạy học. Tất cả đã tạo nên một hình ảnh rất đẹp trong lòng ngừơi dân, khiến cho, anh đến dân mừng, anh đi dân nhớ. Những lúc giặc tràn về thôm xóm thì ngừơi dân bỏ chạy, tìm về phía các anh để được bảo vệ chở che, thắm đượm tình quân dân cá nước.

Thế rồi mùa hè đỏ lửa lại đến. Tháng 5 năm1972 giặc chiếm Quảng Trị. Lần nầy thì cả dân và quân cùng chạy. Quốc lộ 1 Nam Quảng trị đã biến thành đại lộ kinh hoàng, xa lộ tử thần. Hàng ngàn trái pháo 130 ly, hỏa tiển 122 ly như mưa rơi rãi trên đầu ngừơi dân. Hàng hàng lớp lớp dân chúng bị đốn ngã như thân chuối trong cơn bão lửa. Trong cơn hoảng loạn, các anh vẫn bình tỉnh, tay bồng em bé, tay dắc cụ gìa chạy trong mưa pháo, dùng chính thân xác của mình che chở cho dân.
Một phóng viên ngoại quốc đã tả sự chết trên con lộ tử thần nầy như trời cũng chết, đất cũng chết, chết trên từng hạt cát, chết trên đầu ngọn lúa, chết tan tác, rã rời. Thế mà chỉ 14 ngày sau, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại ngạo nghễ bay trên cổ thành Quảng trị! Nó đã được các anh tái chiếm. Thử hỏi, trên thế giới nầy có ngừơi lính nào hào hùng như các anh, lại chịu nhiều hy sinh, gian khổ, đắng cay, tủi nhục như các anh?


Hởi anh, ngừơi linh năm xưa!

Nhờ các anh mà đồng bào miền Nam được sống trong 20 năm thanh bình thịnh vựơng, Tự do, Dân chủ. Nhưng thật bất ngờ, từ tháng 3 năm 1975, anh như ngừơi mộng du, cầm súng chết trân, nhìn đất nứơc từ từ bị nhuộm đỏ: từ Ban mê thuột đến Huế, Đà Nẳng, Komtum, Cam ranh, Nha trang...
Đến 10 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì lảnh đạo tối cao của các anh ra lệnh cho các anh buông súng.Trước đó, các anh đã nghe thấy các danh từ rút lui chiến thuật, tái phối trí mà không hiểu gì cả. Các anh chỉ thấy cấp chỉ huy trực tiếp của mình bỏ vị trí lui về phía sau, khiến các anh hoang mang, kinh ngạc, mất phương hướng, mất hàng ngủ, nhưng vẫn còn cầm súng, làm chậm bước tiến quân thù để cho cấp chỉ huy của anh an toàn trên đường trốn chạy.
Vậy mà những kẻ không có lương tri lại phê phán các anh không chịu chiến đãu. Nếu các anh không chịu chiến đãu thì ngừơi nông dân đâu có đất đề cày, ngừơi công nhân đâu còn nhà máy, xí nghiệp, người thành thị đâu có không khí tự do để thở, những kẻ cơ hội đâu có dân chủ để mè nheo, ăn vạ, làm trận làm thượng với nó.
Nếu các anh không chịu chiến đãu thì các bà lớn đâu còn môi trường để áp phe, mua quan bán chức, các ông tướng đâu đựơc bình yên để tham nhũng, buôn lậu, cắt xén tiền viện trợ nứơc ngoài, ăn chận tiền lương của lính, liên tục đảo chánh lẫn nhau để tranh quyền, đoạt lợi, cho đến khi đất nứơc tiêu điều, kiệt quệ, viện trợ bị cắt, không còn gì để họ tranh giành với nhau nữa thì họ cùng nhau bỏ chạy ra nước ngoài, vứt lại cho các anh, cho chúng ta các tín niệm Danh dự- Tổ quốc- Trách nhiệm mà họ đã tuyên thệ trung thành.

Trong thế hoàn toàn tuyệt vọng, các anh vẫn tiếp tục cầm súng đánh địch những trận cuối cùng. Chỉ bằng M16, lưu đạn, chai xăng châm lửa, các anh xung phong tiêu diệt chiến xa T54 của địch khi chúng tiến đến cầu Thị nghè để tìm đừơng vào thành phố. Thay vì buông súng cởi bỏ áo lính, trở về gia đình thì nhiều người trong các anh đã chọn cho mình cái chết lãng mạn, hào hùng để đền nợ nước mà không cần ai truy thăng cấp bậc, truy tặng bảo quốc huân chương.


Hởi anh, ngừơi linh năm xưa!

Nhắc lại một đoạn đường lịch sử để chứng tỏ chúng tôi, những Sĩ quan quân lực VNCH không bao giờ quên các anh. Chắc các anh còn nhớ, trong lúc ngừơi bạn đồng minh và địch hớn hở nhận giải thửơng Nobel về hòa bình Việt Nam, trong lúc ngừơi ta nhảy múa, mở tiệc ăn mừng Hoà Bình thống nhất, thì chúng tôi lặng lẽ gỉa từ bạn bè, ngừơi yêu, cha mẹ, vợ con để đi ' học tập'.
Hành trang chúng tôi lên đừơng lần nầy chỉ ít thức ăn, năm ba bộ đồ cho 10 ngày hoặc một tháng. Vậy mà chúng tôi đã ra đi biền biệt, từ vài ba năm, đến cả chục năm, có người đã phải cần đến 17 năm trời mới tiến bộ, mới tiếp thu được ý nghĩa một danh từ đơn giản nhất mà cả loài ngừơi thông minh không nghỉ ra, học tập nghĩa là tù khổ sai!
Ngày cầm được giấy ra trại thì đầu chúng tôi bạc trắng, bứơc đi xiêu vẹo, trở về thành phố. Mọi người nhìn chúng tôi như kẻ xa lạ từ hành tinh nào đó trở về trái đất. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được căn nhà của mình. Đau đớn thay, người ra đón chúng tôi không phải là vợ, con mà là một anh Bắc kỳ, nón cối, xua đuổi chúng tôi như những kẻ ăn mày. Thì ra, nhà của chúng tôi, đã bị ngừơi ta chiếm đoạt, vợ con bị đuổi đi 'kinh tế mới ', lại một danh từ lạ nữa. Kinh tế mới là nơi khô cằn sỏi đá, hoặc nơi rừng núi, thăm u, hay đầm lầy, nước đọng, nơi chưa từng in dấu chân người. Vợ con chúng tôi phải tới đó, bản thân chúng tôi phải tới đó như cha ông ta từ ngàn năm trứơc, khi mới bắt đầu mở cỏi, phải đi khai hoang lấy đất, xẻ gỗ làm nhà, đốt rừng làm rẩy, lắp đồng sâu làm ruộng, để hiểu 'câu lao động là vinh quang.'
Thành phố chỉ dành cho những kẻ trong rừng chui ra hoặc từ miền Bắc tràn vào. Với tấm giấy ra trại. và nhãn hiệu ngụy quân, chúng tôi không xin việc ở đâu được cả. Chúng tôi chỉ còn cách đạp xích lô chui để nuôi vợ, nuôi con, kiếm sống qua ngày. Chui có nghĩa là lén lút, là bất hợp pháp, vì chúng tôi đã mất quyền công dân, quyền làm ngừơi, nhất là người thành phố. Giữa thành phố thân yêu, chúng tôi ngơ ngơ, ngác ngác vì chúng tôi ở rừng mới về, còn những con đường thành phố thì đã thay tên lạ quắc. Chúng tôi đã sống như những kẻ lưu đày, cho đến ngày các anh tiễn chúng tôi lên đường sang Mỹ để tiếp tục kiếp sống lưu vong.

Hởi anh, ngừơi lính năm xưa!

Cho đến nay, các chánh khách, các giới truyền thông, báo chí ở Mỹ và Châu âu đã viết hàng ngàn quyển sách, bài báo, kể cả phim ảnh, kịch bản sân khấu để ca ngợi, vinh danh chúng ta cũng có, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cuộc chiến đãu chánh nghĩa của chúng ta cũng có.
Đời sống ở xứ tự do phức tạp là vậy đó anh, nó có khả năng biến đổi từng cá nhân một cách sâu sắc. Vì vậy, mới có thêm một ông tướng nổi danh một thời, đã từng lảnh đạo nội các, gọi là nội các chiến tranh, nay lại gọi đó là cuộc chiến tranh bẩn thỉu, từng đứng đầu chánh phủ gọi là chánh phủ của ngừơi nghèo, vậy mà giờ đây ông chỉ muốn làm ăn với tư bản, lại là tư bản đỏ... Những người như thế đã phản bội chính họ, nếu họ có quên các anh, có quên chúng ta, thì cũng không phải là điều lạ .

Cơ duyên thay đổi, đất nước phải chịu cơn bỉ cực, nhân dân lầm than, người lính chúng ta mỗi người mỗi ngả. Chúng ta đã thua một trận chiến, nhưng hãy xác định với nhau, chúng ta chưa thua cuộc chiến nầy! Chúng ta đã phải gỉa từ vũ khí nhưng mỗi người chúng ta vẫn còn tại ngũ, it ra là trong thâm tâm, trong ý chí. Dầu ở hoàn cảnh, cương vị, nơi chốn khác nhau, anh hãy tin rằng mỗi chiến sĩ quân lực VNCH vẫn tiếp tục con đường chiến đãu dang dở dưới hình thức thích hợp khác nhau. Những kẻ mặc áo gấm về làng, ngồi nhà hàng, ở khách sạn năm sao như anh nói, chỉ là thiểu số, không có chỗ đứng trong hàng ngủ chúng ta, anh hãy an tâm.
Giờ, tôi muốn gửi đến anh những tín hiệu vui, những sự kiện nói lên ý chí quyết tâm, và sự đòan kết một lòng một dạ của anh em mình cùng đồng bào tị nạn trong việc chống Cộng tai quê người và những âm mưu xâm nhập, lũng đoạn cộng đồng chúng ta của Cộng sản dưới nhiều hình thức. Hy vọng những tin nầy sẽ làm anh phấn khởi và tin tưởng hơn vào tập thể chúng ta. Trước đây có nhiều nhóm, nhiều mặt trận, phong trào thực hiện ước mơ giải phóng quê hương bằng vỏ trang cách mạng, nhưng không thành. Nhiều người bị bắt, bị kết án và tù đày. Những người khác thì bỏ xác nơi rừng sâu, biên giới.

Kế tiếp là những cuộc đãu tranh chánh trị với các chiến dịch tố cáo bạo quyền Cộng sản qua vụ thuyền nhân, chuyển lửa về quê nhà, yểm trợ các phong trào đối kháng, đãu tranh đòi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho đồng bào quốc nội. Bên cạnh đó còn có những hành động yêu nước dũng cảm, chống Cộng ngoạn mục như dùng máy bay về Sài gòn thả truyền đơn, kêu gọi đồng bào đứng lên lật đổ bạo quyền, dùng xe ủi đất tấn công vào toà đại sứ Việt cộng ở Paris để treo cho được lá cờ chánh nghĩa quốc gia.

Trong khi đó thì Cộng sản ở đây cũng không vừa. Lợi dụng chế độ Tự do, Dân chủ và quyền tự do phát biểu có ghi trong hiến pháp của Mỹ ở tu chánh án thứ nhất, Trần Trường đem hình Hồ Chí Minh và cờ đỏ sao vàng treo trong cửa hiệu cho thuê băng nhạc của y tại Quận Cam, tiểu bang California để thăm dò phản ứng và thách thức cộng đồng người Việt hải ngoại. Đồng bào và chiến sĩ ta từ các nơi đổ về cũng dùng phương thức đãu tranh bất bạo động, biểu tình suốt 53 ngày đêm. Cuối cùng tên tai sai Cộng sản phải chịu thua, đành gở bỏ hình ảnh và biểu tượng của tôi ác. Bản thân sự việc đã mang nhiều ý nghĩa, còn đối với quốc tế, đây là một thắng lợi vang vội của lý tưởng Quốc gia.
Image
Một công trình có ý nghĩa đã được thực hiện tại công viên Tự do, thành phố West minster, thủ đô của người Việt tị nạn tiểu bang Cali. Đó là việc khánh thành tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ ngày 27-04-03 lúc 11 giờ để ghi ơn các chiến sĩ VNCH và Hoa kỳ, những anh hùng đã hy sinh xương máu bảo vệ miền Nam tự do chống Cộng sản xâm lược.Trước đó là một cuộc tập hợp hơn 25 ngàn trong số 135 ngàn người Việt ở quận Cam đi biểu tình ủng hộ trong một thời điểm, là một tỉ lệ lớn kỷ lục chưa từng có (tương đương 50 triệu trong số 270 triệu người Mỹ ).
Hiện nay, ở nhiều quốc hội các tiểu bang cũng như ở các hội đồng thành phố, các quận hạt ở nước Mỹ đã ra nhiều nghị quyết, chánh thức công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, là biểu tượng của khối người Việt hải ngoại. Các nghị quyết có tính pháp lý nầy không chỉ giới hạn trong ý nghĩa chiến thuật hay trong phạm vi địa phương mà còn ảnh hưởng vang dội vào từng con tim của mỗi người Việt Nam tại quê nhà và hải ngoại, cùng những người yêu chuộng Tự do, Dân chủ trên thế giới.


Thưa anh, người lính năm xưa.

Chắc chắn, càng ngày chúng ta càng nhìn thấy nhiều lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới ở nước Mỹ nầy, cũng như ở nơi nào có người Việt sinh sống. Đến ngày nào đó, chắc không lâu, mọi người chúng ta sẽ được chào lá quốc kỳ trên quê hương yêu dấu.
Chicago, đầu năm 2004.
Một sĩ quan QL. VNCH
DUY NHÂN

KHương
Posts: 152
Joined: Sun Mar 20, 2005 2:44 am

Post by KHương »

Anh PD ơi !có hình thương binh nào high resolution có thể in ra thành poster được không?

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Chị KH ơi
Có tấm nầy hay nhưng không rõ, để tui ráng tìm xem sao?

Image

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Phim ca nhạc nhân cho ngày 19/6 (có phần diễn hành ngày Quân Lực 19/6/72
Movie nặng ký: 250MB, dài hơn 1 giờ


Xin click vô link đê/ d/l
Phim ca nhạc, tài liệu

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Cám Ơn Anh
Người Thương Binh VNCH

Phạm Phong Dinh và Trần Việt Hải, May 28, 2006


[left]http://img.photobucket.com/albums/v283/ ... ngbinh.jpg[/left]Chiến tranh đến người lính không muốn bởi vì bản chất dân tộc Việt Nam không hiếu chiến. Chiến tranh đi vào căn nguyên cội nguồn là do sự tham lam của chủ thuyết Cộng Sản, bởi một thiểu số lãnh đạo sống với giấc mơ hoang tưởng ban đầu khi mang ý tưởng quốc hữu hóa cuộc sống người dân để mọi người được bình đẳng, cho một thế giới vô sản, không giai cấp. Và từ đó qua những nhà lãnh đạo tham lam và cuồng tín tại miền Bắc Việt Nam đã xua quân xâm chiếm Miền Nam. Miền Nam phải tự vệ, người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mang vai trò bảo vệ từng tất đất quê hương.

Sở dĩ chúng tôi phải nhập đề về vai trò của người lính VNCH là vì Miền Nam đã có chánh nghĩa như thế ngay từ nguyên thủy của vấn đề, tức họ có tư thế tự vệ chính đáng. Trong cuộc chiến tự vệ bảo vệ bờ cõi, khi chúng ta nhìn về những thiệt thòi, những khổ đau của người lính VNCH trải qua trong cuộc chiến và cũng như sau cuộc chiến, chúng ta sẽ phải ngậm ngùi cho những điều phi lý nhất đã theo đuổi, ám ảnh cuộc sống đầy gian truân của họ, đặc biệt là số phận người thương phế binh VNCH. Trong thời chiến, nói về khía cạnh kinh tế đời sống thì mức lương của người lính tác chiến đuợc trả theo thời giá bằng con số phụ cấp 4.500 đồng VNCH cộng thêm vào mức lương căn bản (quân nhân không tác chiến không có phụ cấp này). Lương trung bình một người Binh Nhì khoảng 18,000 đồng, phụ cấp vợ 2,000 đồng, mỗi con 1,000, nếu tác chiến được nhận thêm 4,500 đồng. Nếu tính hối xuất mỹ kim thời đó thì thật sự lương người lính cộng phụ cấp các thứ kế cả tiền gộp lại tất cả không quá 20 mỹ kim một tháng. Người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dĩ nhiên chấp nhận túng thiếu đến đỗi mức ăn của một chiến sĩ không thể cứ mỗi ngày mua nỗi một tô phở như chúng ta đang sống tại Mỹ, Úc hay Canada.

Để các bạn trẻ ra đời khi còn quá nhỏ hay sau cuộc chiến có thể có một ý niệm về sự so sánh đơn giản mức sống nghèo khổ của người lính và gia đình so với thời giá lúc đó, chúng ta định tiêu chuẩn bằng mỹ kim. Nếu là hai vợ chồng người lính chưa có con, thì mỗi ngày họ chỉ được phép “ăn xài” tối đa là 1 mỹ kim cho tất cả các khoản thực phẩm tối thiểu như gạo, muối, đường, nước mắm,... và linh tinh, thông thường ăn rau ăn độn với cơm, vì thường đến thăm những gia đình quân nhân quen chúng tôi thấy họ ăn đạm bạc như rau chấm với nước mắm kho quẹt hay cơm chấm muối mè. Nếu là một gia đình 4 người thì mức tiêu xài là 1,5 mỹ kim. Như vậy với đồng lương 20 mỹ kim một tháng chỉ có thể sống sót được tối đa có 20 ngày, còn 10 ngày cuối cùng kia thì chính người vợ và đàn con phải xông pha ra ngoài chợ đời làm lụng thật vất vả để bù đắp vào. Cuộc đời đen tối cứ thế kéo dài mãi, giá sinh hoạt ngày càng tăng vọt vì nạn lạm phát. Một đô la Mỹ đổi được 500 đồng VN trong những năm cuối cùng của thập niên 1970, nhất là năm 1975 nó đã leo lên đến 1,800 đồng VN. Đó là chưa kể đến những nhu cầu cần thiết khác cho đời sống như thuốc men, quần áo, thuốc hút, nhu cầu cho con cái đi học,… đòi hỏi phải chi tiêu rất nhiều tiền bạc. Người lính sẽ thiếu thốn triền miên. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy mà những người chiến sĩ vô danh khiêm nhường ấy vẫn đánh giặc, vẫn ôm ấp lý tưởng bảo vệ giang san bờ cõi quốc gia, và họ đã đánh thắng những trận thật lớn và thật lừng lẫy, rúng động thế giới và cả quân thù cũng phải khiếp vía run sợ. Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam ấy đã câm nín, nhẫn nhục, không kêu ca nề hà, bản thân họ gánh vác trên vai cả một trách nhiệm nặng nề, nhiều khổ ải và triền miên chất chứa trong lòng nhiều nỗi lo lắng khôn cùng cho gia đình ở quê nhà. Họ dũng cảm xông vào những cơn bão lửa tàn khốc nhất của chiến tranh từ Bình Giả, Đồng Xoài đến Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa, và trong cuộc chiến như vậy, chúng ta thấy rằng người lính đã chia một nửa trái tim hiến dâng bảo vệ Tổ Quốc, một nửa trái tim gửi về hậu phương cho gia đình vợ con.


Bài viết này chúng tôi muốn nghĩ đến những anh em thương phế binh (TPB) VNCH, hiện còn ở quê nhà chịu những ngậm ngùi đắng cay nhất sau biến cố đau thương 1975. Những cựu quân nhân bị thương phế còn một chút may mắn đuợc trở về với vợ con hay cha mẹ, sống chuỗi đời còn lại vá víu trong quên lãng của đời nghiệt ngã bằng đủ thứ nghề quá vất vả, nếu được như vậy họ cũng tìm thấy một chút niềm vui của mái ấm gia đình. Nhưng đối với những chiến sĩ thương phế kém may mắn hơn, họ đã chịu những bất hạnh, cô đơn vì gia đình ly tán, xã hội ruồng bỏ và rồi họ không còn nơi để trở về, hoặc không muốn trở về để trở thành gánh nặng cho những người mà họ yêu thương, hoặc bị chính gia đình bỏ rơi. Các anh lính TPB không có niềm vui nào để từ đó gắng gượng sống một cuộc sống lây lất bao phủ bởi những tủi thân, mặc cảm tật nguyền bị lãng quên. Các anh sống hiện tại mà cũng không có, thì nói đến tương lai làm gì? Các anh sống lang thang vất vưởng dưới những mái hiên, gầm cầu, ống cống, bãi tha ma, mái chợ, v.v.. Tiếng hát nấc nghẹn tủi nhục của các anh vang lên trên những chiếc xe đò ầm ĩ lao xao tiếng rao hàng của những người cũng nghèo như các anh, trên những lối chợ sình bùn, trước những quán ăn đông đảo những khuôn mặt mập bóng, đỏ au thừa thãi rượu và thịt, hay trên những đuờng phố nghìn nghịt xe cộ và đầy dẫy màu sắc ăn chơi. Một xã hội vô lý do nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gây ra và xã hội như vậy, chẳng những bạc đãi chính các anh, mà còn buôn bán cả tương lai vợ con các anh cho ngoại nhân.

Chúng ta còn nhớ trong và sau ngày 30.4.1975, những chiến sĩ mang thương tích hay các thương bệnh binh nằm điều trị trong các quân y viện bị quân giặc xua đuổi đi một cách tàn nhẫn. Xã hội văn minh như trong Thế Chiến Thứ II khi quân Đức Quốc Xã bao vây Quân Đồng Minh, họ tôn trọng qui ước chiến tranh, họ cho tải thương các thương bệnh binh. Còn đối với CSVN như bản chất của sách lược nuôi sự trả thù nhỏ mọn, họ có những hành vi thú tính, man rợ nhất được áp dụng. Có thể nói không ngoa họ không cần biết gì đến hành vi nhân đạo hay đạo lý của tình người, hay tình dân tộc đồng chủng với nhau. Dưới mắt người CSVN, những người ở bên kia chiến tuyến luôn luôn là kẻ thù cần phải bị tiêu diệt. Nếu vì lý do gì đó mà họ chưa hủy diệt được hết một lúc trong thời chiến, thì ngay từ những giây phút ngừng chiến này, họ sẽ tiếp tục giết dần mòn người lính Việt Nam Cộng Hòa, quá khứ cho thấy bằng nhiều phương cách hèn hạ nhất, nhiều cách thức khác nhau. Những tài liệu báo chí quốc tế ghi nhận khi CSVN bắt đầu xâm chiếm Sài Gòn từ các chiến sĩ bị thương tại các quân y viện, không cần biết tình trạng nguy kịch hay không nguy kịch đến tính mạng bệnh nhân, bị thương nhẹ hay thương nặng, các chiến sĩ VNCH bị xua đuổi phải ra khỏi giường bệnh, dắt díu nhau lê la trên các hè phố tìm đuờng về quê nhà. Những chiến sĩ bị thương quá nặng chỉ có thể nằm hấp hối bên vệ đường chờ chết. Những nhân chứng kể lại những túi nylon bọc lấy những mẫu ruột đã đen sậm và đầy bụi đất, hay những vết cắt lở lói ở những cánh tay hay ống chân có thể cho phép người thương phế binh lê về được đến nhà, dù là để chết trong tay vợ con hay trước sự chứng kiến của người thân.

Tôi là người lính Việt không may
Xếp bút nghiên theo cuộc chiến dài
Nào ai đoán biết được ngày mai
Phần số thương binh sau cuộc chiến
Lết cuộc đời lê nẻo tương lai
Ngậm ngùi vợ con sao tan vở?
Ngẩng mặt nhìn đời ngày lại ngày
Ai ơi có thấu lời bi ai?
TPB Cần Đước

Những anh thương phế binh may mắn sống sót sau cơn bão đỏ kinh khiếp này, may mắn được gia đình tìm ra và tiếp cứu kịp lúc đem trở về quê nhà, tiếp tục sống một cuộc sống mờ mịt, hẩm hiu vì không có hiện tại, không cả tương lai. Trước năm 1975, thương phế binh cam chịu sự thờ ơ của người hậu phương. Sau năm 1975, thương phế binh bị ném ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, là thành phần tang thương cùng cực nhất trong hệ thống bậc thang trị giá con người, mà lại là con người trong chế độ cộng sản. Các anh vẫn tiếp tục sống cuộc sống thầm lặng khổ đau trong tối tăm, trong đói rách bao nghịch cảnh ở những chỗ hạ đẳng tận cùng: từ ống cống, gầm cầu, hay đến những bãi tha ma. Niềm mơ ước duy nhất và rất nhỏ bé của các anh, là xin thượng đế nhủ lòng thương cho các anh kiếm đuợc đủ hay xin được thức ăn sống mỗi ngày. Có những anh lê lết những phần thân thể trên mặt đường lâu ngày những phần thân thể bị nhiễm trùng ung mủ lở loét. Nhìn những chiến hữu của chúng ta tang thương như vậy, chúng ta không thể không xót xa đau lòng. Nhưng thân tàn ma dại dó đã lê lết trên quê hương chúng ta, họ sống vô vọng. Những TPB có gia đình khá hơn thì có xe lăn, họ góp được chút vốn thì lăn xe đi bán vé số hay ngồi bán thuốc lá lẻ, đan sọt đan thúng, làm hàng thủ công, hoặc nuôi gà nuôi heo. Ngay cả chuyện nuôi con heo cũng là một mơ ước vô cùng lớn lao, tưởng không thể nào có thể thực hiện nỗi, nếu không có một phép lạ nào đó. Trong những hoàn cảnh cùng cực như vậy mà các anh vẫn cứ đều đặn chống nạng hay lăn xe lên Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa để chăm sóc mồ mả của những chiến hữu trong đó. Có còn nghĩa cử nào cao qúi hơn nữa không, để những người còn sống như chúng ta phải cúi đầu chào kính các anh?

Sống cuộc đời tủi cực, làm những người sống ngoài lề xã hội ngay trên đất nước của mình, nhưng những chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa vẫn an ủi nhau, vẫn nuôi dưỡng một niềm tin. Có nhiều anh chịu không nỗi nhục nhã đã nhảy sông, thắt cổ, hay bất cứ cách nào để chết. Nhưng nhiều anh đã cắn răng khuyên nhau cố gắng sống. Sống để chờ một phép nhiệm mầu nào đó cứu giúp cuộc đời khốn cùng. Thật kỳ diệu, mà cũng thật nghẹn ngào, các anh đã sống vật vờ và nuôi dưỡng niềm tin ấy đến hơn một phần tư thế kỷ. Cái điều được chờ đợi ấy đã bắt đầu hiện đến với các anh, dù mới chỉ là những đóm lửa còn le lói. Những người chiến hữu của các anh bên kia bờ Thái Bình Dương bắt đầu dấy lên những phong trào vận động quyên góp gửi quà và tiền về giúp đỡ cho các anh, dù rằng có người được, người chưa.

Từ những năm 1990 cho đến nay, đã có nhiều hội đoàn cựu quân nhân QLVNCH hay ngay cả nhiều hội đoàn dân sự, cá nhân, truyền thanh, báo chí ở Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu đã tổ chức những cuộc gây qũy và tích cực cổ động cho việc gửi tiền tương trợ cho các anh thương phế binh ở quê nhà. Những đóm lửa nhỏ này có thể một ngày không xa lắm sẽ bùng lên thành một ánh lửa lớn quy tụ đuợc nhiều tài lực, thêm nhiều phương tiện, từ đó có thể giúp đỡ chiến hữu bên nhà tích cực hơn. Hầu như là các hội đoàn của những quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều có chương trình tương trợ cho các anh thương phế binh. Các bạn hãy cùng lắng nghe vài đoạn thư của Biệt Cách Dù Nguyễn Chí Linh từ Việt Nam, để thấy được nỗi niềm của những người anh em chúng ta, đẩ cảm nhận được ý nghĩa về việc làm của chúng ta: "... gia đình tôi, vợ và các con vui mừng, đứa nào cũng rơi nước mắt, riêng tôi thì vô cùng xúc động... số tiền quá lớn, tôi mua được hai con heo để nuôi, mỗi con 400.000 đồng Việt Nam. Tôi hy vọng là sau sáu tháng, heo bán sẽ có lời, tôi sẽ mua gà Tam Hoàng nuôi, có thu nhập thêm, chứ đời sống còn thiếu thốn lắm... Thành thật cám ơn Thầy và quí hội đã cùng nhau giúp đỡ cho đứa em còn ở lại Việt Nam nghèo khổ này".


Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp do ông Nguyễn Quang Hạnh làm Hội Trưởng cùng một số hội viên trong Ban Chấp Hành đã hoạt động rất tích cực trong công tác tương trợ các anh thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ hơn mười năm qua. Hoạt động của Hội ngày nay đã được biết đến trong cộng đồng người Việt ở châu Âu nhờ Ban Chấp Hành đã cho lưu hành những đặc san NẠNG GỖ để gởi đến đồng bào những bài viết, những hình ảnh tàn phế của những người thương binh ở quê nhà, danh sách thương phế binh xin được giúp đỡ, những lời kêu cứu và hình ảnh thảm thương trong cuộc sống bị vất bên lề xã hội của các anh. Ông Hội Trưởng Nguyễn Quang Hạnh cùng những vị có cùng tấm lòng nhân ái hướng về các anh thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã luôn dằn vặt trong lòng nỗi xốn xang:


Khẳng định rằng ngày 30.4.1975 là ngày đại họa, một cái tang lớn phủ trùm xuống đồng bào Miền Nam. Quyền sống của con người không còn nữa, tiếp theo là sự trả thù của chế độ mới tiến hành đối với những người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đau thương và tủi nhục hơn hết, tột cùng đau khổ nhiều hơn hết là những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Đó là những người lính chiến đã từng hy sinh và chịu nhiều gian khổ ngoài chiến trường bởi lý tưởng tự do, vì sự sống an bình cho đồng bào ở hậu phương. Các anh đã không may bị súng đạn cướp mất một phần thân thể, lại bị chế độ kỳ thị, phân biệt đối xử, cuộc sống của các anh bị đặt ra ngoài lề xã hội thực tại. Từ hơn 30 năm qua, đối với gần ba triệu người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại này, sự kềm kẹp, kiểm soát của CSVN về mọi biện pháp giúp đỡ các anh TPB, và chính vì thiếu sự nhân đạo đã gây khó khăn cho việc giúp đở TPB của VNCH một cách công khai.


Trong tình thế mới khi đảng CSVN càng o bế quốc tế, sự chấp nhận cho giúp đỡ các anh em TPB có phần khá hơn, Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa đã kêu gọi và đã nhận được rất nhiều sự hưởng ứng nồng nhiệt của người Việt ở Pháp và nhiều nước châu Âu. Nhờ sự giúp đỡ này, Hội đã có thể gởi về các anh thương binh ở quê nhà những món tiền tình nghĩa, nhiều chiếc xe lăn tay. Những đồng tiền của đồng bào hải ngoại gởi về cho các anh thương phế binh và gia đình đâu đã là nhiều, nhưng khi nó đến đúng lúc thì cũng có thể giúp cho các anh một niềm vui nhỏ và vượt qua được hoàn cảnh thắt ngặt. Thư cảm ơn của các anh gởi sang rất nhiều với những giòng chữ đơn sơ diễn tả những lời chân thành mộc mạc từ tận đáy lòng của các anh. Có còn cảnh ngộ tuyệt vọng tận cùng nào hơn nữa không đối với anh Võ Văn Huề như trong bức thư này:


"Tôi ký tên dưới đây là Võ Văn Huề, hiện ở tại số 97, Khối 5. Thị trấn Kiến Đức – Dak Rlăp – Đăk Lak – Việt Nam

Kính gởi: Hội cùng Ân Nhân.

Tôi nhận được thư của Hội ngày 21.7.2002, còn tiền vào ngày 27.7.2002. Nay tôi viết thư này để Hội biết lòng biết ơn sâu nặng của tôi. Đối với bản thân, tôi phải khóc, không thể nói hay viết hết lời cho Hội và ân nhân, hội đã hiểu nên tôi không viết thêm. Hiện gia đình tôi có 6 con, đứa đầu đi không vững, nói không rõ, không lớn được và không biết chữ. Còn 5 cháu sau vì đông nên việc học rất khó khăn. Nếu bên đó ai có nhu cầu xin con nuôi, gia đình đồng ý cho không điều kiện,
Một lần nữa xin nói lên lòng biết ơn sâu nặng của gia đình tôi đến với Hội và ân nhân đã cho gia đình tôi có sự sống lẫn tinh thần. Xin chúc Hội và ân nhân được nhiều ơn riêng của trời đất.
Kính thư.
Huề."

Mẹ Việt Nam ơi, đồng bào ruột thịt ta ơi hãy cùng cứu lấy những linh hồn cô đơn bị lãng quên! Anh em chúng tôi viết bài này vì mùa Xuân 2006 những tổ chức khắp nơi Âu châu, Úc và Bắc Mỹ đã gia tăng nỗ lực cứu giúp. Những đoàn thể tại Nam và Bắc Cali đã gây quỹ lạc quyên cho các anh em Thương Phế Binh. Chúng tôi vừa được biết sẽ có một Đại Nhạc Hội tại Nam Cali, ngay thủ đô của người tị nạn Việt Nam, Đại Nhạc Hội mang tên: "CÁM ƠN ANH - NGƯỜI THƯƠNG BINH VNCH".

Cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến cho các anh Thương Binh VNCH. Đồng bào tại hải ngoại sẽ không quên các anh, chúng ta sẽ gặp nhau một ngày không xa, cầu mong các anh sẽ tiếp tục hiện hữu chứng kiến sự cáo chung của những người đi ngược lại ý nguyện của dân tộc Việt Nam. Sau cùng anh em chúng tôi xin kết thúc bằng bài thơ dành cho các anh:

“Xưa đồng đội như rừng
Gót giầy vang mặt phố
Nay xa cách muôn trùng
Một thân nơi xó chợ
Những người ba mươi năm
Thoảng như cơn mộng dữ
Còn một khúc thân tàn

Vinh danh ngày tháng cũ"
(Trích “Tạ Ơn Anh”, thơ Đỗ Tiến Đức)

Post Reply