Những Mảnh Đời Rách Nát

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Nỗi bàng hoàng và thất vọng càng lớn khi sáng ngày 30-4-1975 nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Thu mình trên chiếc xe lăn, tôi ngồi bên cửa sổ ở hàng hiên, suy nghĩ miên man từ chuyện này sang chuyện nọ. Tôi không còn nước mắt để khóc cho quê hương và cho chính tôi. Mọi chuyện rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng lần này chúng kết thúc trong bi thương. Anh em phế binh chỉ buồn cho thân phận không may của mình. Thôi, đã mất tất cả rồi. Quốc gia này còn mất sá gì thân phận hèn mọn của mình, tôi gượng gạo mỉm cười khi bất chợt gặp một vài người thân quen. Anh em trong trại không ai buồn nói với ai lời nào, mỗi người đều có những ưu tư riêng. Phải sống như thế nào đây trong những ngày sắp tới? Đó là câu hỏi mà mọi anh em chúng tôi đều đặt ra cho chính mình.

"Hòa bình" đã đến rồi. Thật là cay đắng. Ngoài đường, người ta qua lại bàn tán huyên thuyên không như những ngày bình thường khác. Tiếng xe cộ, tiếng cười, tiếng nói nổi lên ồn ào giữa những đoàn quân xa của bộ đội cộng sản. Tôi thấy cuộc chiến này sao thật vô nghĩa. Không biết bao nhiêu người đã ngã gục trên chiến trường, hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do bỗng chốc phải cúi đầu nhường chỗ cho quân địch bước qua. Sự thực đã rõ ràng, miền Nam đã mất và lịch sử đã sang trang. Thật là lạ khi gặp lại một số bạn bè thân quen đồng cảnh ngộ, họ vui mừng cười nói huyên thuyên vì cuộc chiến đã chấm dứt, họ tin rằng hòa bình sẽ trở lại vĩnh viễn và đất nước sẽ không còn những thảm cảnh đau buồn. Cho dù đó là sự thật đi, thân hình tàn phế của họ có gì khá hơn hay cũng chỉ là những kẻ thừa thải đứng hờ bên lề cuộc sống.

Vui mừng chưa được bao lâu, một đoàn xe Molotova chạy thẳng vào trại. Viên sĩ quan chỉ huy bộ đội kêu gọi tất cả anh em trong trại ra trình diện. Anh em phế binh kẻ chống nạn, người đẩy xe lăn, người thì được thân nhân dìu ra bãi cỏ trước trại ngồi nghe "huấn lệnh". Viên sĩ quan này cho biết anh em chỉ có 24 giờ để rời khỏi nơi đây, ai ở quê nào thì trở về quê đó, ủy ban quân quản sẽ trưng dụng trung tâm này làm căn cứ quân sự. Nói xong, bộ đội miền Bắc chiếm đóng tất cả các ngõ ngách, kiểm soát mọi người. Thế là mạnh ai nấy tìm đường rời khỏi nơi đây. Tôi đón xe Honda ôm về làng phế binh cạnh cầu Rạch Chiếc ở tạm với gia đình thằng bạn thân. Tôi cứ thắc mắc là tại sao gia đình tôi không ai vào đây đón tôi về nhà và cũng rất buồn vì không có tin tức của Nam. Nhưng rồi những biến cố dồn dập vừa mới xảy ra làm tôi quên bẵng.

Ngày đầu tháng 5-1975, giông tố nổi lên dữ dội. Lợi dụng khí trời mát mẽ, tôi rủ thằng bạn thân lấy chiếc xe đạp chở tôi về Sài Gòn, trước hết là để xem sự tình, sau là tôi về thăm mẹ tôi. Chắc là mẹ tôi đang mong chờ tôi trở về lắm. Trước đó hơn hai tuần, mẹ tôi cho người nhắn bảo tôi về nhà ở lại với mẹ vìà không an lòng chút nào khi thấy tôi sống ở đây một mình. Nhưng lúc đó tôi hy vọng sẽ được chính phủ đưa đi nơi khá an toàn hơn vì chúng tôi là những người tàn phế phải được ưu tiên giúp đỡ. Tất cả chỉ là viễn mơ, trong lúc loạn lạc mạnh ai nấy lo, cụt què như chúng tôi chỉ có thua thiệt.

Thằng bạn bị cụt một tay, hai chân còn nguyên vẹn. Nó đạp, tôi lái. Xa lộ Biên Hòa giờ này không đông người qua lại. Tôi thấy rơi vãi đó đây những bộ quần áo lính đủ loại binh chủng. Những cái nón sắt, những cây súng, băng đạn cùng những quân trang, quân dụng, thuốc men và giấy tờ vung vãi trên đường. Những chiếc giày vải, giày bốt, ba lô, bao bị văng tứ tung trên mặt đất. Trong những giây phút hốt hoảng tinh thần khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng, chắc những người này sợ bị bắt làm tù binh và sẽ chịu những cuộc trả thù đẫm máu nên đã vứt bỏ những vật dụng liên quan tới cuộc đời chiến binh. Tôi thấy từng đoàn người đàn ông ăn mặc lếch thếch đi dọc hai bên xa lộ, có người chỉ mặc chiếc áo bên dưới là quần thun ngắn, có người đi chân đất và nhiều người chỉ mặc cái quần dân sự đi mình trần. Có lẽ họ đã vào nhà dân xin đại một bộ áo quần nào đó để mặc rồi đi bộ về Sài Gòn. Thật là buồn, một quân đội hùng mạnh được xếp vào hàng thứ năm trên thế giới nay ra nông nỗi này. Thất bại nào nhục nhã hơn.

Đi lần về phía nhà máy xi-măng Hà Tiên, tôi thấy xác một chiến xa M48 bị bắn cháy đen thùi, hai khẩu pháo 105 ly nằm trước sân nhà máy, nòng súng hướng thẳng lên trời, vỏ đạn lăn lóc đầy mặt đất. Xác nhiều chiến sĩ Địa Phương Quân nằm rải rác đó đây, ruồi bu đen kịt. Bên kia xa lộ, dưới bờ mương và trong bụi dừa nước cạnh bờ sông Rạch Chiếc, xác một vài chiến binh nằm chết úp mặt. Tiếng súng cuối cùng vừa chấm dứt, trận chiến đã kết liễu, xác thân các chiến sĩ hai bên thù địch nằm phơi ra đó không ai buồn đến nhận diện, thật là đau xót. Chết trong giờ thứ 25 này không gì bất hạnh cho bằng. Giờ này đây chắc mẹ cha, vợ con, anh em các anh đang ở nhà trông ngóng, mong các anh đoàn tụ gia đình.
Đứng trước thảm cảnh này, tôi không ngăn được xúc động, xót thương cho kiếp người phù du, ngắn ngủi. Tôi chỉ biết thầm cầu nguyện và thúc bạn tôi đạp xe nhanh hơn. Lòng mong muốn được gặp mẹ càng nung nấu trong tôi. Càng đi về gần Sài Gòn, xác các đoàn quân xa choáng cả đường đi, súng đạn, áo quần và đồ đạc nằm la liệt trên mặt đường.
Cuối cùng chúng tôi cũng vào đến Sài Gòn. Trên đường xe cộ qua lại đông đúc hơn bình thường, không còn ai tôn trọng luật đi đường gì nữa. Từng toán bộ đội thân hình gầy gò, đầu đội nón cối, mặc áo quần màu xanh lá rộng thụng thịnh mang dép râu vác súng đi tuần ở khắp các nẻo đường. Xe tăng, xe Molotova đậu ngổn ngang hai bên lề đường. Một không khí ngột ngạt bao trùm Sài Gòn. Chúng tôi đi về phía Chợ Lớn. Vào con hẻm cũ, mẹ tôi đã đi vắng từ hồi nào. Hỏi thăm bà con lối xóm, họ cho biết vào những ngày cuối tháng tư chị hai tôi xuống dẫn mẹ tôi đi. Đi đâu thì không ai biết. Đứng trước căn nhà đóng kín cửa, tôi buồn bã rủ anh bạn ra ngoài quán cóc uống một ly cà phê, ăn qua loa một tô mì rồi đạp xe về lại làng phế binh. Tôi nhớ thương mẹ già nhưng cũng lo lắng cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới. Ai trả tiền cấp dưỡng cho tôi và ở nơi đâu, đó là hai câu hỏi luôn luôn ám ảnh tôi khi rời khỏi con hẻm. Cũng may, vì ở trong trung tâm tôi ít tiêu xài nên cũng dành dụm được chút đỉnh nên cũng đủ để tiêu xài ít ra trong một vài tháng.

* * *
Giữa tháng 6-1975, dân chúng trong làng phế binh Rạch Chiếc lại một phen kinh hoàng. Tin đồn ủy ban quân quản sẽ đuổi tất cả dân cư ở tại đây ra đi và bộ đội cộng sản vào chiếm giữ khu cư xá này làm tinh thần mọi người dao động mạnh. Làm sao không tin được, những người từ các tỉnh đã mắc kẹt trong các ngày cuối cùng về đây cho biết làng phế binh tại các tỉnh đều đã bị bộ đội cộng sản chiếm đóng. Dân chúng bàn tán xôn xao. Cũng nên nhắc lại là dân cư trong làng là những người phế binh từ khắp nơi đã về đây sinh cơ lập nghiệp. Sau những tranh đấu chính đáng, chính quyền miền Nam đã cho xây dựng ngôi làng này và cấp phát miễn phí cho phế binh. Tùy theo hoàn cảnh, mỗi người làm chủ một căn nhà lớn nhỏ để an tâm vui hưởng số ngày còn lại của đời phế binh.
Giờ đây trong tình cảnh này, ai nấy đều bồn chồn lo lắng, ít nhiều chán nản trước những loại tin đồn như thế. Người này hỏi người kia, chừng nào về quê hay dọn đi nơi khác. Phước Thợ Hàn nắm tay tôi thân mật giã từ, anh vừa mướn được xe chở đồ đạc về quê. "Tôi về chợ Thầy Phó Vĩnh Long, khi nào có dịp về Sài Gòn tôi sẽ ghé thăm anh". Anh Ba Hải Quân thì không muốn đi đâu cả nhưng bà vợ cứ cằn nhằn hoài anh phải nghe theo, gia đình anh đi về quê ở Bến Lức. Dù muốn dù không thằng Năm Què cũng phải về ở với cha mẹ. Năm là con trai một, cha mẹ tuổi già trên bảy mươi, gia đình có bảy mẫu ruộng nếu nó không về thì nhà nước sẽ tịch thu hết ruộng. Riêng anh Chín Lắc thì không còn quê để về, chính phủ cấp phát cho anh một căn nhà tại làng này thì chính nơi này là quê hương. Anh nói phải quyết giữ lấy, không đi đâu cả, dù có bị bắt buộc, chết thì thôi. Anh Sáu Lưu là cựu sĩ quan, đã di tản từ miền Trung về đây hồi tháng 3-1975 cùng với gia đình và vợ con, ở chưa được bao lâu thì đã chuẩn bị lên đường vào trại tập trung học tập cải tạo mười ngày. Sự thực thì anh bị tập trung cải tạo gần mười năm mới được thả về mặc dù là phế binh bị cụt một chân. Mọi người trong lúc này, tùy hoàn cảnh, tùy cuộc sống mà quyết định đi hay ở lại trong làng.
Cuối cùng tin đồn bị đuổi ra khỏi làng phế binh trở thành sự thật. Khoảng cuối tháng sáu, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức cử một toán bộ đội và du kích vào đây triệu tập bà con ra giữa sân rồi tuyên bố mọi người phải dọn ra khỏi nơi này trong vòng một tuần lễ. Trong thời gian đó, ủy ban quân quản dành ưu tiên cho những gia đình tình nguyện đi lập nghiệp trên vùng kinh tế mới ở Sông Bé.
Đầu tháng 7-1975, khoảng 3 giờ khuya, dân chúng trong làng đã tụ tập trước sân cùng với đồ đạc để chờ đoàn xe vận tải chở đi lên vùng kinh tế. Quang cảnh thật ồn ào, nhộn nhịp. Chẳng ai ngủ được bao nhiêu kể cả con nít, mọi người đều lo lắng cho tương lai với cuộc sống mới. Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết cả. Nhà nước biểu đi thì đi. Người ta đi thì mình cũng đi. Một số gia đình nghèo đã bán hết đồ gia dụng, bàn ghế, tủ giường... với giá rẻ để có tiền dằn túi khi đến nơi mà tiêu xài.
Những cái bắt tay, những câu giã từ cùng những lời nói vội vàng của các bạn bè, hàng xóm để bước lên xe cùng với gia đình đi vùng kinh tế mới vang lên liên tục. Đoàn xe lăn bánh. Chiếc xe cuối cùng vừa khuất nẽo, tôi miên man liên tưởng khi đến nơi các bạn tôi sẽ làm việc gì để sinh sống với tấm thân què cụt. Trong khi đó, có anh bạn bị mù hai mắt, có anh bị cụt hai tay cũng xin đi vùng kinh tế mới, các anh có cày cuốc được gì đâu mà cũng xin đi về vùng đất chết. Họ tình nguyện đi vì không muốn sống chung với kẻ thù hay vì hy vọng có một cuộc sống khá hơn?
Những người còn ở lại trong làng phế binh phải đương đầu với hoàn cảnh mới. Gia đình anh Bảy Ca, người cho tôi tạm trú đã giao hẳn căn nhà cho tôi cùng với giấy tờ, đã đăng ký đi vùng kinh tế mới hồi sáng nay. Anh Bảy dặn là tôi cứ ở lại giữ nhà, khi nào yên thì anh sẽ về lại đây, tôi ừ à cho qua chuyện. Thật ra tôi cũng chẳng thiết giữ căn nhà này làm gì vì không đủ sức trang trải những chi phí điện nước và ăn uống hằng ngày. Tôi có ý định rủ Nam cùng đứa con về đây ở chung, nhưng Nam cũng đã được cấp một căn nhà ở làng phế binh lớn nhất trên Thủ Đức rồi. Tôi chỉ biết thở dài lo âu.
Tin đồn nhà nước cộng sản lấy hết nhà trong làng trở thành sự thực, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức đã chính thức vào tiếp thu và chia khu vực, lấy những khu nhà vắng chủ cấp phát cho một số đơn vị bộ đội vào ở. Dân cư lại một lần nữa phải sắp xếp đồ đạc dọn nhà. Những gia đình ở trong khu vực bị lấy nhà được hoán đổi sang những căn nhà bỏ trống ở các con đường khác. Có người phải đổi nhà, dọn nhà tới hai lần. Trong làng, không khí im lìm vắng vẻ. Chỉ còn một vài gia đình quyết định ở lì trong làng phế binh, trong đó có tôi vì không có thân nhân. Mẹ và chị hai tôi giờ này không biết ở đâu.

Cuộc sống trở nên khó khăn. Một hôm Nam cùng thằng con nhỏ từ Làng Phế Binh Thủ Đức tìm đến thăm tôi, cùng sống chung với tôi mấy ngày. Làng phế binh nơi Nam ở cũng đang bị giải tỏa, Nam cho biết sẽ về lại quê cũ ở nhờ nhà người chị thứ ba, người thương Nam nhất. Mặc dù không thấy đường, Nam kể lại cho tôi nghe những mẫu chuyện thương tâm mà Nam đã nghe và chứng kiến.

Ngày sau khi tôi rời Trại B Trung Tâm 3 Hồi Lực, Nam vào lại trại thăm tôi cùng bạn bè và định ở lại chơi vài hôm. Nhưng bộ đội gác cửa không cho ai vô, Nam đành dẫn con ra ngoài quán nước bên cạnh ngồi nghỉ. Tại đây Nam được một anh bạn phế binh cũ đến chào hỏi thăm. Anh bạn này bị cụt một tay không có thân nhân nên được gia đình chủ quán tốt bụng cho ở tạm, hằng ngày anh ra đây phụ lau chùi bàn ghế và phụ bếp. Nam hỏi thăm thì biết tôi đã về làng phế binh Rạch Chiếc và hôm nay đến thăm tôi.

Theo lời Nam kể lại, vào xế chiều ngày 1-5-1975, sau khi những người cuối cùng trong trại thu xếp đồ đạc chuẩn bị về nhà, một tiếng nổ vang ầm từ ngoài sân vọng vào, ai nấy đều giật mình. Một phế binh mếu máo chạy vào báo tin hai anh bạn cụt hai chân ngồi chung trong chiếc xe lăn đã ôm một trái lựu đạn tự sát. Lúc đó Nam có nghe người bạn phế binh nhắc đến tên hai anh đó nhưng vì tâm thần bất an nên đã quên tên. Có người nghe lời trăn trối cuối cùng của hai anh trước khi tự sát kể lại rằng các anh quá thất vọng và chán chường vì đã mất tất cả, các anh không muốn sống chung với cộng sản nên đã quyết định bung chốt lựu đạn cùng nhau đi vào cõi chết. Nam nói họ đúng là những con người đầy nghĩa khí, bất khuất không muốn đầu hàng quân địch. Toán bộ đội gác cửa chạy vào, mắng chửi những anh em còn lại và xô đẩy tất cả mọi người ra ngoài để lục soát, truy tìm vũ khí. Từ đó phòng nào cũng có một bộ đội đứng gác và thúc dục những người còn lại thu dọn đồ ra đi.
Nam cũng cho tôi biết ca sĩ Vân Sơn đã tự sát. Trước đó tôi đã có nghe nhiều tin đồn về anh, mỗi người thêu dệt một cách, có người nói lộn cả tên anh. Thực là ca sĩ Vân Sơn trong ban nhạc AVT đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự vẫn. Ban nhạc AVT gồm có ba người là Vân Sơn, Tuấn Đăng, Lữ Liên, đó là ban tam ca nổi tiếng về những ca khúc châm biếm sâu sắc nhẹ nhàng.

Sau vài ngày ở chơi với tôi, Nam và đứa con trai giã từ tôi về lại quê cũ sống nhờ người chị thứ ba chờ thời. Đời sống vùng quê Nam lúc ấy còn thấp kém lắm. Tất cả ruộng rẫy đều phải vào hợp tác xã, làm ăn tập thể chứ không được làm cá nhân. Gia đình chị Ba của Nam cũng như bao gia đình nghèo khó khác lâm vào hoàn cảnh khó khăn, phải ăn độn. Cả nhà làm quần quật suốt ngày mới có miếng ăn. Nam cảm thấy không khí ở đây ngột ngất khó chịu vô cùng. Mặc dù là người tàn tật, Nam vẫn không được chính quyền cho mua gạo giá chính thức, phải mua gạo giá chợ đen. Biết ở nơi này khó sống, không thích hợp với hoàn cảnh của mình, Nam xin phép chị dẫn con trở về thành phố sinh sống.
Ban đầu Nam có ý định điđi lậu vé để đỡ tốn tiền, bớt đồng nào hay đồng nấy. Trong túi Nam chỉ còn chút ít tiền, không đủ chi dụng khi vào đến Sài Gòn. Hàng ngày, thằng con nhỏ dẫn Năm đi xin ăn từ làng này sang làng nọ dọc theo quốc lộ. Cứ như thế, ban ngày đi ăn xin, chiều về hai cha con kiếm các sạp chợ, hoặc các hàng hiên tạm ngủ qua đêm. Đi đường mệt nhọc, Nam dừng lại ở một vùng nào đó để nghỉ ngơi, có khi kéo dài khoảng một tuần lễ, vì vậy ròng rã hơn cả hai tháng Nam cùng con mới về đến Sài Gòn.

Trở về căn nhà cũ ở làng phế binh, bộ đội gác cửa đuổi hai cha con đi. Nam sực nhớ tới một người bạn ở một xóm nhỏ trong khu ổ chuột gần cầu Chữ Y, quận 8. Gặp lại bạn cũ, gia đình anh vui vẻ chia sẻ với Nam căn nhà chật hẹp. Đời sống dân chúng ngày càng khó khăn, một số dân trong xóm đã đi vùng kinh tế mới, những người còn lại sống khắc khoải trong cảnh nghèo khó, ngày hai bữa ăn độn bobo. Mặc dù thiếu thốn, tinh thần đùm bọc chòm xóm vẫn mặn mà.

Với thân phận mù lòa và con còn nhỏ dại, Nam phải làm nghề gì đây để mưu cầu cuộc sống, trong khi đó ngoài xã hội biết bao nhiêu người lành lặn kiếm việc không ra. Tiền cấp đưỡng phế binh đã bị cúp từ lâu, Nam đành chấp nhận số kiếp ăn xin. Mỗi lần đi xin là mỗi lần tủi hổ, sáng sáng hai cha con lê lết từ quận này sang quận nọ, từ ngày này sang tháng nọ, van xin người dưng bố thí. Ròng rã hơn mười năm đi ăn xin cùng với cha, vui buồn lẫn lộn có nhau, thằng con Nam nay đã lớn. Tội nghiệp cho nó, vừa mới ra đời chưa được bao lâu thì bị mẹ bỏ rơi, cha thì tàn phế. Đáng lẽ nó phải được hưởng sự hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò, hăng hái chạy nhảy tung tăng vui đùa cùng chúng bạn bè đồng trang lứa, nhưng nó không có may mắn đó. Tuổi thơ của nó chỉ biết nghèo hèn và tủi nhục, cuộc đời trẻ thơ đã sớm trải qua gió bụi phong trần, chưa bao giờ biết đến mộng mơ. Cũng chính nhờ đó đứa con của Nam đã hiểu cuộc đời sớm hơn những đứa trẻ cùng trang lứa.

Thấy con nhiều lần biết ngập ngừng trong lời ăn tiếng nói khi gặp người quen thấy nó dẫn cha đi ăn xin, Nam biết con mình đã lớn. Không thể dẫn con đi theo mình như vậy được nữa, chỉ làm cho nó thêm mặc cảm, Nam gởi con vào nhà người anh họ, nhờ giúp tìm cho nó học một nghề để tự lập tiến thân. Hàng ngày Nam dong ruỗi một mình, cầm gậy đi qua các đường phố rao bán vé số để dành tiền cho con học nghề. Nam chỉ mong sao cho tương lai của con được tốt đẹp vinh hiển để bù đắp những ngày thơ ấu, xa mẹ, thiếu thốn và khổ nhọc, và nhất là không phải sống tủi nhục như cha nó.

Về phần tôi, hơn hai năm qua vì mãi bận rộn với miếng cơm manh áo, tôi chưa có dịp vào thăm anh Nhứt Mù, nhà ở Thủ Đức cách nơi tôi ở không xa. Một ngày nọ nắng trời dịu xuống, tôi rủ thằng bạn cùng vào thăm anh Nhứt Mù. Anh Nhứt là bạn thân của Nam cùng nằm chung phòng trong bệnh viện ở miền Trung và cũng là thân quen với tôi từ nhiều năm qua. Trong lần từ giã trước biến cố 30-4-1975, Nam chí tình dặn bảo tôi thỉnh thoảng phải tới thăm anh Nhứt cùng gia đình, nếu giúp được gì thì cứ giúp, đời sống gia đình anh rất khó khăn. Đón xe Lam tới nhà anh, chúng tôi mất hơn nửa tiếng. Tới đầu con xóm nhỏ hỏi thăm gia đình anh Nhứt Mù ai cũng biết. Nhà của anh cách nghĩa địa không xa bao nhiêu, đứng ngoài đường cái nhìn vào những chòm mả thấy được căn nhà của anh thấp thoáng sau mấy hàng cây khuynh diệp.

Đường đi vào nhà anh Nhứt Mù quanh co, gập ghềnh mô đất và ổ gà. Vào những ngày trời mưa, đường đi càng trơn trợt, lầy lội và bùn sình. Chúng tôi đi lần vào tới trước nhà, cỏ mọc hoang dại, tràn lan ở phía ngoài sân vì không có ai phát cỏ. Căn nhà của anh Nhứt từ lâu lắm rồi không được tu sửa nên có phần xiêu vẹo. Vách nhà bằng lá đã mục nát, mấy miếng nẹp cây cột bị lệch lạc vì sút dây kẽm. Mái nhà lợp bằng tôn thiếc, nhiều tấm đã rỉ sét, có tấm lũng lỗ chỗ. Mỗi khi trời mưa, căn nhà bị ngập ướt nước. Nhà anh Nhứt bây giờ trống trước trống sau, không có tủ thờ, bàn ghế và bộ ván ngựa như năm xưa. Anh đã bán lần hồi những đồ đạc có giá để lấy tiền mua gạo nuôi đàn con thơ dại. Hai ba chiếc ghế sút gọng, gãy chân được chấp vá bằng mảnh cây tạp nhạp, đặt dựa vách nhà. Một cái giường cũ kỹ, giát giường kêu cọt kẹt lúc lắc mỗi khi ngồi lên, được để nằm sát cửa sổ, đây là nơi duy nhất để đón tiếp khách, bè bạn. Ngoài ra căn nhà không còn một vật dụng gì nữa. Đỡ một chút là nền nhà được tô láng bằng xi-măng, tối đến cả nhà trải chiếu trên nền nằm lăn ra ngủ.
Anh Nhứt là lính Sư Đoàn 25 Bộ Binh, bị mù hai mắt vì mảnh đạn B40. Sau khi giải ngũ, anh được chính phủ cấp dưỡng chu đáo, về sau có người bà con cảm thương tình cảnh bảo anh về đây cất nhà mà ở thay vì vào làng phế binh. Từ đó gia đình anh về trong căn nhà vách lá, mái tôn trong mảnh đất đầy ao vũng. Dân cư trong xóm lúc đó còn thưa thớt, nhà ở cách khoảng, mọi người đều thương mến gia đình anh vì anh ăn ở hết lòng với họ. Anh Nhứt trước khi bị trọng thương có ba đứa con được sinh ra trong một trại gia binh, khi giải ngũ về xóm này ở thì sinh thêm ba đứa khác, như vậy anh có cả thảy sáu đứa con.

Nghe tiếng tôi gọi oang oang ngoài cửa, anh Nhứt lăng xăng bước ra ngoài cửa mà không cần ai dẫn dắt, y như một người sáng mắt. Anh mừng rỡ, nói năng liền miệng, tay dẫn tôi vào nhà, sai con nấu nước rồi tự tay pha trà, rót ra chén một cách thành thạo, vừa đủ không tràn nước. Bạn tôi khẽ mỉm cười rồi ngó tôi gật đầu tỏ ý phục. Anh Nhứt nói từ lâu không có ai vô thăm nên có hơi buồn, nay có chúng tôi đến lòng anh vui lắm, quyết giữ chúng tôi ở lại chơi thật lâu không cho về sớm. Nét mặt anh rạng rỡ, cười nói nhiều hơn mọi ngày.

Mái tóc anh Nhứt Mù đã trỗ màu muối tiêu, gương mặt anh sạm đen vì nắng gió, vầng trán in hằn nhiều nếp nhăn, cuộc đời khổ cực lam lũ đã làm anh già trước tuổi. Từ bao năm qua anh không đầu hàng hoàn cảnh, đã làm đủ mọi việc để có tiền nuôi sống vợ con, mặc dù bản thân bị mù lòa. Anh vói lấy cái túi để sẵn trên đầu giường, bóc mở mấy lớp bao ny lông, đưa cho tôi cuộn giấy mà anh cất giữ. Anh cầm khoe với tôi xấp giấy màu trắng đục bằng giọng tự hào: "Nè, coi đi. Giấy tờ chứng thương của tui vẫn còn nguyên đây nè". Anh kể có lần chính quyền xã bảo anh là lính chế độ ngụy phải nộp tất cả giấy tờ liên hệ, anh khước từ khéo léo và lờ đi nên bây giờ mới còn đầy đủ giấy tờ: nào là giấy giãi ngũ, giấy cáo tri, giấy khen thưởng, bằng Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng, anh còn giữ cả sổ cấp dưỡng phế binh nữa. Tôi có biết một số anh ở những vùng xa đã bị bắt buộc nộp các loại giấy tờ lính tráng, phế binh ngày xưa và tất cả đã bị thiêu hủy.
Anh Nhứt bùi ngùi kể lại cuộc đời của anh, về những năm tháng nhọc nhằn lao khổ trong chế độ mới cho chúng tôi nghe. Vào những ngày mùng một và ngày rằm, anh được một anh bạn tốt bụng hướng dẫn anh cùng thằng con nhỏ đến trước các cổng chùa, cổng đình bày nhang đèn để bán cho khách thập phương vào chiêm bái. Những ngày còn lại thì anh đi tha phương cầu thực, hay cùng một số anh em mang bao nhang đèn trên vai đến từng nhà ở các làng, các quận mời mọc người mua ủng hộ. Đi như vậy chừng vài ba hôm anh mới về nhà. Có những hôm đi mỏi cả chân, bán chưa được đồng nào, bụng thì đói các anh đánh liều vào chùa xin cơm lạt mà ăn. Anh Nhứt đi bán nhang như vậy đã hơn ba năm.
Vợ anh Nhứt cũng bận rộn suốt ngày, buổi chiều lội xuống ao cắt rau muống mướn để sáng sớm hôm sau chị gánh rau muống đi bán dạo dọc đường. Vợ chồng anh cần cù bận rộn suốt ngày mới đủ tiền nuôi đàn con còn thơ dại. Con cái anh Nhứt chẳng có đứa nào được đi đến trường, đến lớp học hành như con người khác. Hai đứa lớn chỉ cắp sách đến lớp hai thì đã ngưng học ở nhà phụ giúp mẹ cha. Vợ chồng anh bận suốt ngày nên giao cho đứa con gái kế trông chừng các em nhỏ. Mãi mê lo chụm lửa nấu cơm, nó quên phứt đứa em út. Thằng nhỏ này chạy ra nhà sân để lén chị đi chơi, chẳng may té nhào xuống ao mà không ai hay biết. Đến lúc chợt nhớ đến em, đứa con gái chạy đi tìm khắp nơi không thấy, mới tri hô lên cho mọi người hàng xóm biết. Được tin, có vài người vội vàng lội xuống ao gần nhà, mò một hồi mới vớt được đứa nhỏ đem lên bờ, mặt mày nhợt nhạt, nó đã tắt thở từ lâu. Buồn vì đứa con trai ba tuổi mà anh thương nhất đã chết, anh Nhứt nghĩ ở nhà cả tuần lễ, suốt ngày thơ thẩn buồn nhớ đứa con. Thấy vậy bạn bè rủ anh đi buôn củi.
Lúc đó thành phố đang khan hiếm củi, than, chất đốt, đi buôn củi dễ kiếm lời. Thế là anh đi buôn củi. Sáng sớm anh đi cùng thằng con lớn đi ra ga xe lửa Thủ Đức chờ đón chuyến xe lửa địa phương và không quên mang theo hai bình dầu hôi khoảng ba, bốn chục lít làm hàng trao đổi. Từng bó củi, từng thước củi được bày bán khắp nơi dọc các ga xe lửa. Đến các ga Xuân Lộc và Trảng Bom, hai cha con xuống xe đi dọ hỏi, ngã giá củi xong, cha con anh bỏ củi vào bao bố rồi vác ra ngồi chờ cách ga xe lửa độ vài trăm mét, khi xe lửa bắt đầu khởi hành hai cha con cùng nhiều người khác vội vàng quăng hàng và nhảy lên toa xe. Lượt đi đem bán dầu hôi, lượt về đem củi bán cho bọn đầu mối, như vậy lợi cả hai đầu. Bảy tám tháng trời đi buôn củi kiếm được chút đỉnh tiền, anh Nhứt được hai người bạn rủ đi buôn khô mực, cá khô ở Bình Tuy. Khô mực, cá khô bán có lời nhiều hơn củi, nhưng cũng đòi hỏi một số vốn lớn. Thấy có lời nhiều, anh Nhứt cũng ham nhưng anh không có vốn nhiều nên đóng vai người chở hàng. Bạn anh đi xuống tận chợ La Gì, lựa mua khô mực, cá khô, bỏ vô túi xách, hoặc bao cát nhỏ, cột chặt cẩn thận để đeo trên vai. Bận về bạn anh luồn lách tránh né, đi theo con đường tắt để tránh kiểm soát kinh tế, công an. Khi ấy khô mực, cá khô còn là mặt hàng quốc cấm, nên bị bắt hàng sẽ bị tịch thâu tức khắc và còn bị làm khó dễ. Tránh được các chốt kiểm tra, bạn anh đi về phía nhà dân cạnh sân ga, nơi đã có anh Nhứt chực sẵn trong nhà một người quen. Sau đó hai người men theo con đường tắt vào sân ga, mua vé chợ đen của một viên kiểm soát xe lửa rồi lên toa.
Khi xe lửa chạy chầm chậm về gần tới ga Sóng Thần, Thủ Đức, đây là thời điểm để những người đi buôn tuông hàng xuống. Sau khi quăng xong các bao khô mực, cá khô xuống đường, bạn anh ôm xốc một bên vai anh Nhứt rồi cả hai cùng nhảy một lượt xuống bãi cỏ ở đường rày trong lúc xe vẫn còn chạy thật chậm. Có lần cả hai nhảy xuống xe an toàn êm thấm, cũng có lúc lật đật nhảy xuống đụng nhầm đá xanh làm hai anh bị bong gân, trầy xước cả chân tay và mặt mũi.
Ba chuyến trôi qua êm thấm, kiếm lời cũng khá, hai anh hăng hái tính làm một chuyến nữa rồi nghỉ xả hơi. Chuyến đi lần sau cũng là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời đi buôn nhảy xe lửa của anh Nhứt Mù. Hôm đó, xe lửa đang từ hướng Dầu Giây chạy về Sài Gòn, bạn anh Nhứt được tin báo cho biết ga Sóng Thần bị động, công an lập nút chận kiểm soát một số nơi. Liền tức thì một số tay buôn ôm hàng nhảy xuống ga Trảng Bom trốn tránh. Anh Nhứt cùng bạn bàn tán và quyết định sẽ nhảy xuống ga Dĩ An. Nhưng xui cho hai anh, ga Dĩ An cũng đang bị công an bao vây kiểm soát, một chốt phục kích được thành lập vài trăm thước trước khi đoàn xe vào bến. Đoàn xe chay chậm lại, anh Nhứt và bạn cùng một số con buôn còn lại nhảy xuống bãi cỏ nhưng... lại rơi đúng ngay vào chốt phục kích. Tiếng hô "Đứng lại!" của toán công an phục kích làm mọi người chạy tán loạn, các bao hàng hóa bị vứt bỏ lung tung. Công an rượt nã, anh Nhứt cùng anh bạn bỏ hàng chạy thoát thân, cả hai hớt ha hớt hãi chạy vào những lùm cây hai bên đường trốn. Thế là mất hết cả chài lẫn chì, hai anh về lại Thủ Đức, hai bàn tay trắng.
Anh Nhứt buồn quá định nghỉ ở nhà chừng năm, mười ngày rồi tìm việc mới. Vợ anh Nhứt, người bạn đường chung thủy đã theo anh trong suốt tháng năm, chịu bao nỗi đắng cay nhọc nhằn, đã tắt thở trên tay anh Nhứt. Suốt cuộc đời, chị vợ anh Nhứt đã dày nắng dầm sương lo cho chồng, cho con có cơm ăn, áo mặc mà không một lời than van hay nghĩ đến thân mình. Chị đã chết có lẽ do suy dinh dưỡng và không có thuốc men chữa trị. Chị đã ngã bệnh trong lúc anh Nhứt chưa có việc làm, anh phải đi vay mượn tiền bạc khắp nơi, chạy chữa thuốc men cho chị nhưng cũng đành bất lực. Đau buồn tột độ, anh Nhứt như kẻ mất hồn, tối ngày cứ ngồi thơ thẩn than thân trách phận, làm sao nuôi năm đứa con còn nhỏ dại. Anh cứ bán lần hồi những đồ đạc có giá trong nhà. Giờ đây căn nhà của anh Nhứt Mù trống trơn. Mấy đứa con trai lớn ngày ngày đón xe lửa vào Sài Gòn lượm rác, bao ny lông giặt rửa lại cho sạch bán lại cho các vựa ve chai. Những đứa con gái vừa mới phải đi ở đợ cho những nhà khác để được nuôi ăn. Mỗi khi nghĩ tới số phận bạc bẽo của mình, anh Nhứt buồn muốn đứt ruột, anh không còn nước mắt để khóc nữa.
* * *
- Chán quá, cuộc đời này ôi thật là đáng chán! - Nam ngẫn mặt lên trời thở dài. Cuộc đời của anh chỉ toàn màu đen tối.
- Thôi, tụi mình đi nghỉ đi Nam - tôi nhìn bạn lòng đầy phiền muộn.
Đêm đã gần tàn, tiếng gà xóm trên đang rộn tiếng gáy. Hai chúng tôi đi vào nhà trong cảnh tối tăm. Ngày hôm đó tôi mơ thấy một bình minh tươi sáng cho mọi người, trong đó có chúng tôi. Chúng tôi muốn thấy cuộc đời không còn những người phải sống trong nỗi đau thương chồng chất.

Viết lại theo lời kể của Bùi Anh Sáu

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển


Chương 7: Quê hương này thật là bất hạnh

Nghĩ lại cuộc chiến đã qua, xương máu của những chiến sĩ và thường dân đã đổ ra trên đất nước này để rồi được gì? Những năm sau đó là tiếng khóc than do những thiên tai bão lụt, hạn hán gây nên, nạn đói đe dọa,đời sống người dân Việt Nam chỉ là đau khổ. Quê hương này thật là bất hạnh.
Người Việt Nam cứ im lặng bước tới, dẫm đạp lên quá khứ, giành giật nhau từng miếng sống, mạnh được yếu thua, bất chấp những qui luật sơ đẳng của một xã hội văn minh. Người trong guồng máy chính quyền như những rô bô chỉ biết làm theo mệnh lệnh của cấp trên ban ra ra. Tại sao cũng là con người mà người ta đối xử với nhau tệ hơn loài thú? Những thế hệ thanh niên ngày hôm nay, còn gọi là "thế hệ Hồ Chí Minh", không còn biết kính nễ những bậc đàn anh, những người sa cơ thất thế, nhất là những người đã từng một thời cầm súng bảo vệ quê hương của họ. Tôi muốn nói đến tập thể những thương phế binh hiện nay, tất cả đều đã lớn tuổi và yếu kém mọi mặt, đang sống những ngày đen tối trong xã hội mới.
Mỗi lần đi ngang qua những "nghĩa trang liệt sĩ", tôi không khỏi đau buồn cho những "nghĩa trang ngụy quân, ngụy quyền". Đều là người chết nhưng người chết phía bên này thì được tôn vinh, người chết phía bên kia thì bị chà đạp. Đất nước này từ bao năm qua vẫn chưa vượt khỏi tâm lý "được thì làm vua, thua thì làm giặc". Đọc lại sử ký nước nhà mà buồn cho dân tộc. Các triều vua mới luôn tìm cách dày mồ đạp mả các vị vua trước. Ngày nay không ai biết mộ phần các vị vua Đinh, Lý, Trần, Hồ, Mạc hay Lê chôn cất ở đâu. Khi Tây Sơn vừa lên ngôi, họ liền đào mồ tổ tiên các chúa Nguyễn, rồi khi nhà Nguyễn vừa lên thay họ lại đào mộ các vua Tây Sơn, cái vòng lẩn quẩn ấy cứ lặp đi lặp lại. Chế độ cộng sản cũng vậy, vừa cướp chính quyền xong họ liền cho đập phá các bia mộ những người thua cuộc. Các "nghĩa trang quân đội ngụy quân, ngụy quyền" bị cày phá lên để xây dựng những "cung văn hóa". Văn hóa gì khi không tôn trọng những người đã khuất? Chế độ cộng sản được gì khi đào mồ, phá mả những người đã chết. Ai bảo đảm mồ mả tổ tiên, gia đình con cái của họ, những "nghĩa trang liệt sĩ" của họ sẽ còn được giữ nguyên sau này? Nếu không tôn vinh sự hy sinh của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thì hãy để yên cho họ nằm nghỉ.

Nhưng những người cộng sản cầm quyền không nghĩ như vậy, tâm địa của họ rất là thâm hiểm. Họ không những đào mồ, bới mả những người bại trận để trả thù mà còn đem bêu xác Hồ Chí Minh ở giữa quản trường. Hành động bêu xác người chết ngày xưa chỉ dành cho những tên tội đồ hung ác, có lẽ tội ác của Hồ Chí Minh quá lớn đối với đất nước nên chính những người đã từng theo ông phải cảnh bêu xác cho người đời nguyền rủa. Mặc dù rất căm hận tội ác của Hồ Chí Minh nhưng chúng tôi không có dã tâm nhìn người chết bị nhục mạ thêm nữa, đây là tinh thần cao thượng tối thiểu của những người biết suy nghĩ. Tại sao những người cầm quyền ngày hôm nay dám hỗn xược với cả lãnh tụ của họ? Chúng tôi là những người bại trận và đang trả giá cho sự thất bại đó, nhưng vì lòng nhân đạo yêu cầu chế độ cộng sản hãy đem chôn cất xác chết Hồ Chí Minh.
Hãy để yên cho người chết chết hẳn trong lòng đất lạnh. Tội lỗi của ông Hồ Chí Minh hãy để lịch sử phán xét, hơn nữa chính ông là người đã khai sinh ra chế độ cộng sản trên đất nước Việt Nam, vây yêu cầu những người đã từng tôn thờ Hồ Chí Minh trao trả xác ông cho gia đình chôn cất. Chế độ hiện nay còn dành những vùng đất tốt bán cho ngoại nhân xây nhà cất xưởng, tiếc gì một mảnh đất nhỏ dành cho một người đã chết. Tục lệ Việt Nam ngày xưa thường dành những miếng đất tốt cho người quá cố, nhiều gia đình còn phải đi tìm những vùng địa linh để chôn cất thân nhân. Vậy chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản không được xâm phạm đến mồ mả những người đã chết vì tổ quốc miền Nam.

Tôi chỉ cầu mong sau này, bất cứ phe nào lên cầm quyền hãy để yên những người đã khuất. Nếu chúng ta không tu sửa những mộ phần bỏ hoang thì cũng đừng nên dẫm đạp lên nó. Tội này nặng lắm. Việc thiện ít ai nhớ tới, việc ác khó có người quên. Bài học về cuộc chiến vừa qua đã không vinh quang cho người thất trận và cũng không vinh danh người chiến thắng. Chỉ có dân tộc Việt Nam là nạn nhân của chính sự độc ác của người Việt Nam. Trả thù báo oán chỉ chuốc lại trả oán báo thù, phải vượt ra cái vòng luẩn quẩn của hận thù và tâm địa nhỏ nhen. Đất nước Việt Nam đã ngập tràn tiếng khóc than của trẻ thơ và các bà mẹ, không nên khơi lại vết thương chưa lành và để nước mắt chảy thêm trên những gương mặt thương đau.

Những người có tham vọng lãnh đạo đất nước Việt Nam sau này phải nhớ bài học ngày hôm nay, hãyngước mắt lên nhìn vào thế giới, các dân tộc khác đang sống trong tự do, hòa bình và sung túc. Nhưng Việt Nam không có may mắn đó. Không ai kỳ vọng gì nơi những người cộng sản, họ đã làm tất cả để nước mắt và hận thù tràn ngập trong lòng mọi người. Không nơi đâu không có tiếng than van vì những chèn ép và áp bức của những người đại diện chế độ. Có lẽ những người lãnh đạo cộng sản nghĩ rằng chế độ của họ sẽ còn kéo dài mãi mãi nên không cần nghĩ tới hậu quả. Các chính sách của chế độ cộng sản hôm nay đang đào sâu hố cách biệt giữa họ với nhân dân. Phải nói gì khi có biến động, ai sẽ bênh vực cho họ và cho con cháu họ không đền nợ máu?

Không! Quê hương Việt Nam bất hạnh như vậy đã đủ rồi. Chúng ta nên nhìn về phía trước, cùng nắm tay nhau đi trong tình anh em tìm lại. Chúng ta cầu mong những người cộng sản ngày hôm nay trở lại tính người, san sớt nỗi đau của người khác, chia sẻ cái khổ của người khác. Nếu Trời còn có mắt, hãy mở mắt cho những người này, giúp họ trở về đường ngay nẻo chính, dẫn dắt họ ra khỏi sai lầm và tội ác. Nợ máu xương này có thể chuộc lại, hãy giúp họ xây dựng lại tình người. Nhìn lại lịch sử các dân tộc trên thế giới, chỉ những dân tộc nào có lòng bao dung mới tiến xa về phía trước, những dân tộc nào chìm đắm trong hận thù cuối cùng chỉ là những nô lệ của ngoại bang. Ngoại bang cung cấp súng đạn cho các dân tộc kém may mắn tiếp tục cấu xé lẫn nhau, và như thế chỉ nghèo nàn và kiệt quệ đi, trong khi tất cả tài nguyên đất nước bị họ khai thác. Dân tộc Việt Nam xứng đáng có một chỗ đứng vinh quang hơn trước mặt nhân loại.
Người Việt chúng ta kính trọng tổ tiên và người đã khuất, hãy tổ chức mỗi năm ngày tưởng nhớ tổ tiên. Con không cha như nhà không nóc, tục ngữ Việt Nam thường nói như vậy. Đừng để những người cộng sản đánh mất linh hồn của chúng ta. Dân tộc Việt Nam đâu có hèn mọn, chúng ta đã dám đương đầu với bất cứ bạo lực nào. Nếu hôm nay bạo lực vẫn còn mạnh ngày mai nó sẽ yếu đi. Không bạo lực nào tồn tại mãi với thời gian, chỉ có tình người mới là vĩnh cửu. Nhưng rất tiếc ngày nay trên đất nước này lòng thù hận chất chứa đầy trong tâm khảm mỗi người, chỉ cần một ngòi nổ. Bất cứ vì lý do gì và vào bất cứ thời điểm nào nồi thuốc súng này cũng sẽ bùng nổ, lúc đó quê hương chúng ta chỉ sản xuất quan tài.
Nhiều lúc quá bực mình trước thế thái nhân tình, tôi trở nên quẩn trí. Lý luận nhiều quá làm tôi điên loạn. Tôi nghĩ đến những trẻ thơ vô tội, sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ đang đi lượm từng bao rác hay đang đứng rình rập ở một gùóc chợ chờ một khách hàng khờ khạo đi qua chụp lấy bóp tiền mang về cho những tay đầu nậu để được miếng ăn. Tương lai gì ở những em này, nếu không vào nhà giam thì cũng sẽ gục chết trước bạo lực hè phố. Tôi nghĩ đến những người mẹ đã từng mang nặng đẻ đau, thương xót đứa con vừa mới lớn lên đã vội nằm xuống cho một lý tưởng ngoại lai. Nếu không có những lý tưởng này, con bà đã không chết non và mẹ con bà có lẽ được sống những ngày đầm ấm. Tôi nghĩ đến những đoàn người đã bồng bế nhau trên đường chạy loạn, chạy đi đâu cho thoát kiếp làm người, nhất là kiếp người Việt Nam. Là người Việt Nam sao mỗi chúng ta không có tình người, chúng ta dễ dàng qui kết những người không có cùng suy nghĩ với chúng ta là những kẻ thù. Lý luận này quá đơn giản, kẻ thù ở đâu mà nhiều đến thế, nó chỉ dẫn đến xung đột. Thật sự thì đã có xung đột, hơn bốn triệu người chết và sáu trăm ngàn người bị tàn phế suốt đời, trong đó có tôi. Những người tàn phế như chúng tôi đâu có muốn ăn bám vào xã hội, chúng tôi cũng muốn được sống bình thường như mọi người khác, nhưng làm người Việt Nam trong xã hội ngày hôm nay thật là tủi nhục.

Muốn được yên thân, chúng tôi phải cúi đầu lẫn tránh những người quyền chức. Thật sự chúng tôi cũng muốn lẫn tránh lắm chớ, nhưng rồi ai cho chúng tôi ăn, ai cho chúng tôi mặc. Chúng tôi cũng là người, không những người như mọi người khác mà chúng tôi đã cống hiến một phần thân thể này cho đất nước được trường tồn. Chẳng may chúng tôi đứng bên này chiến tuyến, bị thua trận nên phải chịu cảnh bất công. Còn những anh em phía bên kia chiến tuyến, gia đình các anh cũng đã chịu nhiều mất mát, thân thể các anh cũng bị thương tật như chúng tôi, chúng ta hơn nhau để rồi được gì. Người Mỹ đã ra đi, chỉ còn lại người Việt Nam với nhau, tại sao các anh lại hà hiếp chúng tôi đến thế? Có lẽ các anh muốn bảo vệ chế độ để hưởng chút quyền lợi nên cứ che mặt hiếp đáp chúng tôi. Làm người ai biết đau, biết đói như nhau và cũng có những ước muốn như nhau. Chúng tôi chỉ ước mong xã hội này tôn trọng nhân cách của mọi người và để chúng tôi được sống bình yên. Vinh dự gì kiếp sống ăn xin, vậy mà cũng chẳng được yên. Nhiều lúc nghĩ đến thân phận làm người, làm người Việt Nam ngày hôm nay thật là bất hạnh. Người ta có thể tàn ác đối với kẻ thù nhưng ở đây người ta tàn ác cả với những người tàn tật. Chỉ tiếc là chúng tôi đã không chết để làm vừa lòng nhiều người, chúng tôi vẫn sống và sự sống của chúng tôi không có lối thoát.

Nhớ lại những năm tháng còn sống với mẹ cha, đời sống thật là bình yên. Chúng tôi gã là những đứa con bình thường như mọi đứa con trong mỗi gia đình. Chúng tôi đã biết thế nào là "tiên học lễ hậu học văn", hoặc là "công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", thế nào là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín... Chúng tôi cũng không quên những lần bị roi vọt hay đùa giỡn, giành giật giữa anh chị em trong nhà. Chúng tôi cũng không quên những tiếng mèo nhe: "Mẹ ơi, Ba ơi" hoặc những câu lễ giáo gia phong: "Thưa Ba con đi học, thưa Mẹ con đi học về". Ôi, còn đâu những kỷ niệm êm đềm trong mái ấm hạnh phúc khi thực trạng của ngày hôm nay chỉ là một đống tro tàn xác xơ. Ôi không biết còn bao nhiêu là thảm trạng, sự sống và cái chết không còn làn ranh, những người trong nước đối xử với nhau như những con dã thú. Nói về dã thú, ít ra chúng cũng còn tình đồng loại, không bao giờ cắn xé, giết chóc lẫn nhau khi một con thú chấp nhận thua thiệt. Đằng này những người thắng đang muốn dày xéo cuộc đời chúng tôi dù đang ở dưới lớp bùn. Thật là đau đớn.

Nỗi đau này đã kéo dài gần ba mươi năm qua. Nhớ lại năm 1972, từ Quân Y Viện 3 Dã Chiến (Mỹ Tho), tôi khập khiểng bước đi trên cặp nạng chống, đầu cúi xuống đất. Tôi đau cho thân phận mình. Một tháng trước đây tôi vẫn còn là một người bình thường, giờ thì đã trở thành người tàn phế. Chân trái tôi đã không còn nữa. Nhưng tôi tự an ủi là mình vẫn còn may vì chung quanh những chiến hữu khác ngồi, nằm la liệt, trên cơ thể đầy những vết thương còn kinh khủng hơn tôi. Ôi, sao tôi ghét chiến tranh đến thế, nó không những làm tan nát biết bao gia đình mà còn lấy đi những gì tạo hóa đã cho. Con người thật là tàn ác. Chiến tranh có lẽ là trò chơi ác độc nhất do con người sáng tạo ra, nó là sản phẩm của những con người ích kỷ chỉ lo nghĩ đến chuyện buộc kẻ khác phải tùng phục. Trong thế giới loài vật không bao giờ có chiến tranh, qui luật mạnh được yếu thua chỉ xảy ra cho những loài vật yếu đuối nhưng những loài thú dữ chỉ săn mồi khi đói, ăn đủ rồi thì thôi. Con người không phải thế, cho dù có được ăn mặc đầy đủ cũng vẫn thích hành hạ kẻ khác.

Đi ngang qua những căn phòng nhỏ hẹp, tiếng rên siết của những chiến hữu vọng ra vì sự đau nhức do những vết thương gây nên, lòng tôi càng xót xa. Tôi thương những người bạn chưa quen biết đó, họ còn đau khổ hơn tôi. Tự nhiên tôi căm thù luôn những viên đạn vô tri, những mảnh đạn pháo cùng mảnh vụn của mìn, tôi thương cho những thớ thịt bầy nhầy, lỡ loét trên cơ thể của những chiến binh như tôi đang bị đám ruồi muỗi bu quanh. Đám ruồi muỗi này dường như chỉ thích mùi hôi của máu, mùi tanh của thịt.

Những ngày nằm điều trị trong quân y viện đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong lòng chúng tôi. Đây là nơi không ai muốn hẹn đến, nhưng đến rồi thì không muốn rời đi. Những câu vui đùa, những mẫu chuyện lâm tiếu đã đem đến sự êm ái làm dịu bớt nỗi đau trong tâm hồn và trên thể xác. Vì thiếu vắng tình thương của mẹ hiền, chúng tôi thường vòi vĩnh những "bà mẹ" điều dưỡng lo cho chúng tôi từng chén cơm ly nước. Thật là cảm động khi thấy những "bà mẹ" đổ từng bịch nước tiểu và phân của những anh em bị thương nặng, săn sóc vết thương của những anh em vừa được trực thăng chuyển từ chiến trường về. Có khi chúng tôi reo hò vui vẻ khi có một trong người bạn được gia đình đến thăm nuôi. Thật là cảm động khi nghe những tiếng mời mọc vang lên các phòng sau đó.
- Anh em qua đây ăn với tôi cho vui, một miếng thôi cũng được mà. Còn đây là vợ tôi, đây là em gái tôi.
Những buổi tiệc không được dự trù trước làm ấm bầu không khí huynh đệ chi binh, khó mà quên được. Nhìn những thân thể còn băng bó chia sẻ với nhau những món quà mọn, nhìn những cử chỉ âu yếm của người vợ nhún khăn lau chùi từng giọt mồ hôi cho chồng và nhìn những cánh quạt giấy của những bà mẹ xua đuổi sự nóng bức và ruồi muỗi cho con, tôi thấy tình người thật vĩ đại. Trong sự khốn khổ người ta dễ chia sẻ cho nhau từng nỗi bất hạnh. Ngày mai khi ra khỏi trại, trở về cuộc sống bình thường liệu chúng tôi còn bắt gặp những cử chỉ này không? Không ai dám nghĩ tới, chúng tôi cứ tiếp tục hưởng thụ những giây phút êm đềm trong hoàn cảnh khó khăn này.

Khi thời gian thăm nuôi đã hết, những người thân ra về, anh em chúng tôi chia ra từng tốp ngồi xoay những lá bài tây hay cùng nhau hợp xướng với tiếng khua của chén muỗng, ghế bàn cho qua ngày tháng. Ban giám đốc thường xuống khiển trách anh em chúng tôi làm ồn không cho những anh em bị thương nặng khác được nằm nghỉ, nhưng trong lúc tuyệt vọng chúng tôi vẫn cứ làm ồn. Nghĩ lại thật là xấu hổ. Cuộc sống vô vọng khiến chúng tôi trở nên lì lợm, nhiều buổi hợp ca kéo dài gần tới sáng.
Lúc mới vào trại tôi rất ghét những tiếng ồn ào này, rồi với thời gian tôi không những là thành viên tích cực của các ban hợp xướng mà còn là hoạt náo viên của các chương trình. Tôi huyên thuyên giới thiệu các trò chơi và "ca sĩ" mới. Mỗi khi hát xong là tiếng vỗ tay, tiếng đập bàn vang lên cả trại. Vui nhất là thấy những cặp nạng gỗ đưa lên đưa xuống theo từng nhịp ca như những bức tranh hoạt họa. Những anh em nào còn đứng được thì dìu những bạn khác xoay qua xoay lại giữa phòng như trên sàn nhảy. Sống trong cảnh tuyệt vọng, những giây phút đó đã giúp chúng tôi vơi đi nỗi đau trên cơ thể và làm quên đi nỗi đau tinh thần. Chúng tôi rất sợ tiếp cận với tương lai. Ngày được xuất trại là ám ảnh lớn nhất trong đời phế binh. Chúng tôi rất sợ là vì phải đơn thương độc mã đi vào cuộc sống của những người bình thường với một cơ thể không còn bình thường, sự thua thiệt đã trông thấy rõ.

Thời gian cứ tiếp tục trôi. Người ta có thể cản bất cứ vật gì nhưng không ai cản được thời gian. Nó cứ lạnh lùng đi tới, bất chấp ý muốn của con người. Chúng tôi bất lực đi theo bước tiến của thời gian và tự thích nghi với hoàn cảnh mới. Nỗi đau thể xác vơi dần và tinh thần cũng lần hồi ổn định. Mỗi ngày đều có người ra đi và có thêm người vào. Những chiếc giường cũ được thay ra để đón người mới tới. Không bao giờ quân y viện vắng vẻ tiếng kêu than và tiếng cười của những người không còn gì để mất. Kẻ ra người vào cứ thế liên tục. "Vòng tròn vẫn là vòng tròn". Từ tâm điểm xuất phát, bánh xe vẵn lăn quay. Tiếng còi hụ của xe cấp cứu ra vào tấp nập.
Tôi liếc nhìn qua khung cửa sổ của trại, đoàn người áo blouse trắng qua lại không ngừng. Đó là những cán sự trợ y, những y sĩ đeo trên cổ áo những cành hoa mai vàng đủ các cấp, trung úy, đại úy và thiếu tá. Những vị lương y này làm việc không có giờ giấc, bất cứ lúc nào họ cũng có mặt, bước chân luôn luôn vội vã, nét mặt lúc nào cũng khẩn trương. Những cánh tay của các vị này lúc nào cũng lem luốc máu tươi, hằng ngày họ đã mổ và giải phẫu không biết bao nhiêu bệnh nhân và đã chứng kiến bao nhiều cái chết trước mặt.

Nhân dịp này chúng tôi muốn vinh danh những vị y sĩ vô danh đã cứu sống hay làm địu đi nỗi đau của hàng ngàn chiến sĩ, mặc dù không tham gia trực tiếp chiến trường nhưng họ đã can đảm giật lại trên tay thần chết biết bao mạng người. Phải chứng kiến cách làm việc của những vị lương y này mới hiểu thế nào là sự tận tụy. Thật vui mừng khi thấy trên những khuôn mặt đầy lo âu này một nụ cười kín đáo sau những ca phẫu thuật khó khăn, nhiều người đã đứng hằng giờ, ngày cũng như đêm bên bàn mổ để cứu một mạng người. Thay vì tỏ ra hách dịch với những binh sĩ cấp thấp hơn mình, những vị y sĩ này luôn luôn chăm chú nghe lời than van của kẻ bị thương và dặn dò ân cần từng người nằm bệnh. Sự kiên nhẫn và lòng tận tụy khó ai bì kịp. Tôi cũng đã từng thấy nét mặt lo âu của người thầy thuốc khi chạy theo từng chiếc băng ca chuyên chở thân thể của người lính trẻ, tay bấu mạnh vào cạnh băng ca để trấn áp cơn đau hay tiếng rên rỉ, tiếng hét la của những người bị thương nặng. Phải thật bình tĩnh mới không bị choáng váng trước cảnh đổ ruột, đổ gan ra ngoài.
Tôi cũng nhân dịp này ghi ơn những cán sự trợ y đã không quản ngại dơ bẩn, tanh hôi, chăm sóc tận tình từng anh em chúng tôi khi được chuyển vào phòng cấp cứu hay trong những phòng hồi sinh. Nếu không yêu người và yêu nghề thì không ai có thể vào làm việc trong những điều kiện nghiệt ngã như ở đây. Những vị này đã săn sóc tận tình từng người lính chiến, đã để lại bao nỗi quyến luyến cho mỗi anh em khi phải chia tay. Các "bà mẹ" điều dưỡng đã thay thế thân nhân đút cơm đút cháo cho những người thương tật nặng, đã an ủi và vui vẻ trò chuyện với anh em trong những ngày buồn chán nhất. Sự lành lặn của chúng tôi đã một phần lớn nhờ tình thương của những người này.

Biết bao kỷ niệm vui buồn trong quân y viện. Có một lần tôi nghe những tiếng chân chạy dồn dập trong hàng lang, nhìn lại thì thấy hai cán sự trợ y tay cầm bịch máu và chai nước biển, hối hả chạy lên lầu một. Vừa đến ngưỡng cửa phòng hồi sinh thì hay tin người thương binh đã chết. Nhìn những ánh mắt của các y sĩ và y tá cùng các cán sự trợ y bước ra từ phòng hồi sinh, tôi nhận thấy họ đã bất lực trước cái chết mặc dù đã cố gắng hết sức để giành lại sự sống trên tay thần chết. Anh chiến sĩ này được đưa về cấp cứu từ chiến trường An Lộc, anh là lính Biệt Cách Dù, bị trúng đạn pháo, thân thể bị mảnh đạn cắt đứt ngang người, ruột gan lòi hẳn ra ngoài. Anh chết vì mất quá nhiều máu, và nếu có sống thì cũng bị liệt vì cột xương sống đã gãy.

Tôi được biết anh đó là một anh hùng đã ở lại với tướng Lê Văn Hưng tử thủ An Lộc. Một mình anh đã bắn cháy hai chiếc T54 bằng súng M72. Đang lúc nhắm bắn chiếc thứ ba thì anh bị pháo từ chiếc xe tăng khác của địch bắn trực xạ vào chỗ nấp. Y tá chỉ kịp bơm thuốc cầm máu và chờ trực thăng đến chở anh về hậu cứ. Mạng sống của anh như chỉ mành treo chuông, hơi thở của anh gần như đứt khoảng, sự tiếp trợ bằng phương pháp hô hấp nhân tạo trong thời gian này cũng rất khó vì tất cả xương ngực của anh đều bị dập nát, khi đến y viện thì lực đã tàn, tim anh ngưng đập. Quân Y Viện Cộng Hòa lúc này đã đầy nên anh được trực thăng chở về Quân Y Viện Dã Chiến 3.
Các bạn tôi lần lượt rời trại, riêng tôi thì phải ở thêm quân y viện một thời gian nữa để chữa trị thêm. Thật nghiệt ngã khi đang còn điều trị nghe những tin tức chiến trường càng ngày càng tồi tệ, tôi không còn đủ kiên nhẫn để nghe nữa. Những tin này chỉ gây hoang mang trong lòng những người đang nằm điều trị và ban giám đốc trại. Thế rồi điều không ngờ đã xảy đến, ngày 30-4-1975 miền Nam đầu hàng. Cái tin không thể tưởng tượng được: toàn đất nước đã lọt vào tay quân cộng sản. Sự hy sinh của những người lính như chúng tôi như vậy còn ý nghĩa nào. Tất cả chỉ còn lại con số không. Số không có thể lớn đối với nhiều người nhưng đối với những thương phế binh như chúng tôi, số không đó bao trùm cả cuộc đời. Đối phó với kẻ thù người ta còn đủ tay chân nhưng chúng tôi không có may mắn đó.

Thật ra chúng tôi đã đoán biết "sự việc" trước đó vài ngày. Chung quanh chúng tôi thật là vắng lặng, quân y việnim lìm, không còn tiếng xe cấp cứu ra vào tấp nập như trước. Những vị y sĩ cũng đã vắng mặt, chỉ còn lại những màu xanh và trắng của những bức tường và những người bán căn tin, ai nấy đều lo âu. Thế rồi cái ngày đó đã đến. Ngày đầu tháng 5-1975, một toán bộ đội tiến vào quân y viện buộc chúng tôi phải rời y viện ngay tức khắc. Bọn người này chửi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc, v.v... Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị họ xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn của Nga Tàu gây thương tích. Những chiếc "nón cối" này đại diện cho ai mà dám la hét:
- Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy quân chúng mày không được nằm tại đây. Đồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước...

Chúng tôi khập khểnh ra đi, lòng ngổn ngang trăm mối. Vừa hận mất nước vừa thương cho bản thân mình, chúng tôi không biết phải đi về đâu. Về nhà cha mẹ vợ con với thân thể què cụt này còn gì nhục nhã cho bằng, nhưng không về lại nhà thì biết đi đâu. Nhiều lúc muốn tự sát cho rãnh nợ đời, nhưng chết trong giờ thứ 25 này có lợi cho ai. Chung quanh tôi có những chiến hữu trên cơ thể mang đầy vết thương còn đang rỉ máu, thế mà cũng bị lạnh lùng đuổi đi. Thật đáng thương cho những huynh đệ lúc đó.

Riêng tôi thì vết thương nơi khúc chân bị cưa cũng đã lành, gan ruột và phổi đã trở lại bình thường. Nếu không có gì trở ngại thì tôi sẽ được xuất viện về nhà hay ra trại an dưỡng nửa tháng sau đó. Mặc dù đi đùứng còn khó khăn, tôi còn tự túc chống nạng đi được. Có một anh lính trẻ, nhỏ hơn tôi vài tuổi mới nhập viện vừa hơn mười ngày, anh bị cưa mất chân phải và trên người còn băng bó nhiều vết thương. Thấy anh đi đứng khó khăn, tôi đến gần an ủi rồi đề nghị cầm giùm đồ đạc. Anh bạn trẻ nhìn tôi cảm động rồi chống nạng theo tôi cùng đoàn người ra cổng. Trên đường ra cổng tôi chào từ giã từng người quen biết, chúng tôi chia tay nhưng không ai hẹn ngày gặp lại. Có lẽ đây là lời chào vĩnh biệt. Tôi vừa suy nghĩ lung tung, vừa bước rời khỏi quân y viện.

* * *
Hai chúng tôi bước từng bước một trên đoạn đường mà hằng ngày tôi thấy quen thuộc, tưởng là ngắn ngủi nhưng sao hôm nay nó thật là dài. Chúng tôi khập khểnh đi ra ngoài cổng không buồn quay lại nhìn lần cuối quân y viện, kể từ nay nó chỉ còn là một kỷ niệm đau buồn. Chúng tôi chống nạng âm thầm đi trong phố vắng. Công viên của thị xã Mỹ Tho đã hiện ra trước mắt, gần đó là bến xe. Trên một khoảng trống của khu nhà khách, tôi dìu chiến hữu trẻ ngồi xuống từ từ tựa lưng vào tường nghỉ mệt. Mặt anh ta tái mét, hai cánh tay run lên bần bật. Tôi lo âu nhìn anh bất lực. Làm sao đây? Làm sao san sẻ bớt những nỗi đau đang cấu xé thân thể người bạn kia? Tôi cũng lo âu cho chính thân tôi, nhưng với tư cách người lớn tuổi hơn tôi giữ im lặng và chỉ hỏi han tình trạng sức khỏe của chiến hữu kia.

Tới được bến xe, tôi liền móc túi lấy số tiền lương vừa lãnh hồi cuối tháng 4-1975 chia cho chiến hữu kia một nửa làm lộ phí đi về quê cũ. Bạn tôi về Cai Lậy, còn tôi về Sài Gòn. Tôi nhờ hành khách đỡ anh bạn tôi lên xe và tìm chỗ ngồi, tôi giơ tay vẫy chào khi chuyến xe bạn tôi đã chạy. Tôi đón xe khác về lại Sài Gòn. Ngã đầu trên ghế, tôi cứ thắc mắc không biết bạn mình có về đến nơi đến chốn hay không, lỡ xảy ra chuyện gì thì ai chăm sóc, lòng tôi bất an cho số phận của người bạn trẻ. Khả năng của tôi có giới hạn, tôi chỉ có thể giúp tới đó thôi vì còn phải lo cho số phận của mình, tôi chỉ cầu xin ơn trên ban phước lành cho chiến hữu tré đó được bình yên về tới quê nhà. Cầu nguyện xong tôi mới yên tâm chợp mắt một chút, những giây phút này thể xác và tâm hồn tôi mới được thư giản.
Những luồn gió thổi qua cửa kiếng, sự mát mẽ của cơn gió làm dịu đi một phần nào phiền muộn. Nhìn những cánh đồng xanh bát ngát, những nông dân đang cày ruộng, tôi thấy lòng thư thái, nhẹ nhàng. Trầm tư trong sự suy nghĩ, không biết rồi đây cuộc đời mình sẽ ra sao khi lịch sử đã sang trang, máu và nước mắt có còn chảy nữa trên quê hương này không... Về đến nhà tôi mới thật yên tâm. Phố xá Quận 4 vẫn như ngày nào, nhưng nó có vẻ phẳng lặng hơn, không như những ngày nào tôi còn ở nhà. Trước kia đường phố rất ồn ào do sự la hét của trẻ thơ nô đùa, sự phẳng lặng ngày hôm nay báo động một cơn giông sắp đến. Tôi sợ sự yên lặng bất bình thường này. Chung quanh tôi chỉ toàn cờ đỏ.
Gia đình mừng rỡ khi thấy tôi về, nhưng trong bối cảnh mới này ai cũng lo âu cho tương lai của gia đình. Hàng ngày tôi thấy trước mắt tôi từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho của chế độ cũ để lại. Trong số đó có cả người thân của tôi, đúng ra là những đứa em tôi, bởi vì những ngày này không có họp chợ, nếu không làm như thế lấy gì mà ăn. Gia đình tôi không giàu nên không bao giờ trữ sẵn gạo và thức ăn, mỗi ngày phải mua gạo và thức ăn ngoài chợ vì nhà tôi gần chợ.
Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ, nhưng dưới chân cầu Tân Thuận bất chợt có tiếng súng nổ. Những người đội nón cối mặc áo xanh và áo vàng, "bò điên" và "chó sói", sả súng bắn thẳng vào đám người đói khát trước những nhà kho. Nhiều người nằm dãy dụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản mát trốn, nhưng sau vài phút họ lại tràn vào các nhà kho, đông hơn và bất kể súng đạn. Ai bị bắn trúng thì té nằm xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa các kho gạo. Cứ thế những chuyến xe ba gác cứ nhào đến chất đầy những bao gạo cùng những thùng đồ hộp; chuyến này ra chuyến khác vào, luân phiên tấp nập.
Trong những ngày này, một dòng người khác ngược xuôi chạy giặc, tay bồng tay dắt con cái và bao bị chạy ra bến Bạch Đằng đón tàu ra biển. Gia đình tôi cũng có mặt trong đoàn người này vì nhà ở gần cầu Tân Thuận. Ôi thôi, người đông đếm không xiết, trên những chuyến tàu nhỏ chật ních người. Bến cảng lúc này chật đầy ghe thuyền, dòng người cứ đổ xô về bến cảng nhảy đại lên những chiếc tàu để ra cửa biển. Trên các bong tàu toàn người với người.

Người trên tàu nhắn vọng với người còn kẹt trên bến cảng, tiếng la hét vang vọng một góc trời. Những chiếc tàu đi sông lừ lừ nổ máy chạy ra cửa Cần Giờ, bỏ lại sau lưng thành phố Sài Gòn. Những đám "chó sói" đứng nhìn căm hận đoàn tàu lướt đi mà chính họ cố tình đẩy những người này ra khỏi đất nước. Tôi vì thương tật, không chen lấn được với dòng người xô đẩy nên bị bỏ lại một mình trên bến cảng, gia đình tôi không biết đã đi trên chuyến tàu nào. Lúc đó quang cảnh rất là hỗn loạn, mạnh ai nấy chen lấn tìm một chỗ đứng trên bong tàu.
Tôi không buồn và cũng không tiếc, vì biết số phận mình hẫm hiu. Về lại nhà, đồ đạc đã bị ai đó chở đi đâu mất, chỉ còn lại bốn vách tường không. Tôi buồn bã ngồi bệt xuống sàn nhà ngẫm nghĩ về thân phận mình. Tôi chợp mắt ngủ đi lúc nào không hiết. Tôi mơ thấy tôi có lại hai chân, đi ra bờ sông ngắm nhìn mây nước. Đến giữa khuya, tôi giật mình thức dậy, trong nhà có tiếng động lạ. Tôi lồm cồm chống tay nhìn ra ngoài cửa thì thấy hai bóng đen đang cạy cửa vào nhà. Tôi hỏi ai đó thì hai bóng đen liền vụt mất. Thời buổi loạn ly này nhiều người lợi dụng vào nhà ăn cắp. Trên đường tôi thấy nhiều xe ba gác chở tủ lạnh, tivi, bàn ghế chạy khắp nơi trên đường phố. Lúc đầu cứ ngỡ là người ta chạy giặc nhưng sau này mới biết đó là đồ đạc ăn cắp trong những nhà vắng chủ.
Suốt đêm tôi không chợp mắt nổi, cứ nghĩ miên man không biết những chuyến tàu đó có những đứa em và cha mẹ tôi không. Tôi tin tưởng rằng sáng mai thế nào họ cũng về lại. Nhưng tôi cũng thầm khấn vái cầu cho mọi người được an toàn thoát đi. Đi đâu thì tôi không biết. Tôi cầu cho các đoàn tàu thoát khỏi Việt Nam an toàn, không bị quân cộng sản nã đạn pháo vào như họ vẫn thường làm hồi chiến tranh. Trước kia quân cộng sản thường pháo kích vào các trường học và khu dân cư rồi đổ thừa cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ để kích động lòng căm thù. Chiến thuật này một thời được nhiều người tin theo, mong rằng nó không xảy ra cho những người thân trong gia đình tôi. Cầu mong đoàn người vượt trùng dương bao la trên những chiếc tàu đi sông an toàn.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Vài ngày sau tin đồn có những xác người trôi dọc lòng sông Nhà Bè càng làm tôi lo ngại. Rồi cũng có những tin đồn những chiếc tàu đầy ắp người đó được Hạm Đội 7 của Mỹ ngoài khơi Vũng Tàu cứu vớt, mọi người đều được đưa qua đảo Guam rồi cho qua Mỹ. Tôi cũng hy vọng gia đình tôi có mặt trong những người may mắn đó. Hơn hai mươi bốn qua tôi đã cố gắng chờ đợi mà không thấy tin tức gì cả. Sau này tôi được biết có những tàu bị công an chặn lại ngoài cửa biển, bắn chìm cả tàu, tất cả những người trên tàu đều bị chết. Những xác người trôi bồng bềnh, những dòng máu đỏ chan hòa cùng biển cả.

* * *
Những tháng đầu tiên trong một xã hội đã thay ngôi đổi chủ đầy rẫy biến động. Tôi bây giờ chỉ có một mình, phải tự túc mưu sinh. Ngày ngày tôi lầm lủi chống nạng ra đi, trên vai đeo lũng lẵng thùng đồ nghề đựng lon keo, bàn bào, bàn ép, cái thau nhỏ và cái bơm tay để vá xe, tối về tham gia những buổi họp tổ dân phố vô vị. Hôm đầu tiên khi đến ngã tư Đồng Khởi, gần nhà hàng Maxim's, đường Tự Do, tôi ngồi bệt dưới gốc cây me chờ khách bị "thũng" bánh xe. Tôi ngồi như một kẻ ăn xin, thời gian cứ trôi qua, căng mắt nhìn về ngã tư, tôi rất bàng hoàng xót xa khi thấy một ông già cùng hai đứa bé ì ạch đẩy bộ chiếc xe đạp nặng chịch, hai bánh xe xẹp lép. Trên xe chất lỉnh kỉnh hành trang của những người tha phương cầu thực, không nhà không cửa. Hai đứa bé thì tóc rối, thân hình dính đầy bụi đất, gương mặt nhễ nhãi mồ hôi. Khi thấy mấy cháu lấy tay quẹt những giọt mồ hôi chảy vào mắt, tôi động lòng từ tâm kêu gọi:
- Bác ơi, bác đẩy xe lại đây cháu bơm cho.

Ông già quay lại nhìn tôi một hồi rồi không nói lời nào, tiếp tục đẩy xe đi. Mặt trời đã gần đứng bóng mà tôi vẫn chưa có người khách nào, bụng thì đói cồn cào, tiền thì không có. Mùi thơm của xe bán mùi hủ tiếu mì gần bên bay thoang thoảng làm cho cơn đói càng mãnh liệt, bụng tôi cứ sôi lên ùn ục. Bất chợt tôi nghe tiếng kêu vá xe, nhìn lại thì thấy hai người lớn tuổi đang dựng chiếc Honda đam lên trước mặt. Tôi vội vàng lấy đồ nghề ra để vá. Thật là vụng về, công việc không dễ như tôi tưởng. Cạy tới, cạy lui, khoảng 10 phút sau tôi mới mở được vỏ xe để vá.

Thật ngỡ ngàng. Bụng thì đói, tay thì run, mồ hôi cứ nhỏ giọt trên màng tang. Khi vừa hoàn tất, tôi nhận tiền cùng với ánh mắt không mấy thân thiện. Thế là có một bữa ăn. Tôi vội vàng gói ghém đồ nghề lại rồi băng qua đường Nguyễn Huệ mua cơm. Nhưng đâu phải có tiền là có bữa ăn ngay đâu, phải sắp hàng mua phiếu rồi đưa cho các nhân viên cửa hàng ăn uống và ngồi chờ để nhận phần cơm. Rồi những ngày kế tiếp cứ tuần tự như vậy. Gạo càng ngày càng hiếm hoi do bọn "chó sói" đã chở gạo tồn kho về Bắc, số ít còn lại trả nợ cho "đồng minh" để đền ơn về sự giúp đỡ vũ khí trong chiến tranh và nhận lại những bao bột mì mốc và bobo mà "đồng minh" dành cho súc vật.

Bắt đầu từ đây trong cuộc sống hàng ngày tất cả mọi người đều ăn bột mì mốc cùng bobo sơ cứng, rất ít khi mua được gạo. Chỉ khi nào có lễ hội thì các hợp tác xã mới bán cho mỗi người một kí gạo kèm theo khoai lang hoặc khoai mì để trộn vào, gọi là "ăn độn". Mặc cho thế sự thay đổi, đổi thay như thế nào, cuộc sống vẫn đều đặn như vậy. Bột mì thường được chế biến thành bánh tầm bì, bánh canh hoặc có thể đổi lấy bánh mì để đắp đổi qua ngày. Có những lúc tôi phải nhịn đói vì không có khách, phải uốn nước lã thay cơm, chính vì vậy mà sức khỏe càng ngày càng suy yếu, đôi khi đứng không vững.

Đói quá tôi quyết định đi xa, sáng sớm tôi ra ngã tư Hàng Xanh tìm chỗ để hành nghề vá xe. Nơi "làm việc" của tôi sát ngay chốt giao thông của đám công an. Những ngày đầu tôi chịu áp lực nặng nề của những người này. Có những lần vừa đặt đồ nghề xuống thì bị chúng đá văng và cấm tôi không được đến gần nơi bọn chúng đóng chốt. Tay lượm đồ nghề, tôi đưa ánh mắt căm hận nhìn. Bọn chúng biết tôi không thể làm gì được nên cứ tỉnh bơ. Tôi phải ngồi cách đó khoảng 300 mét. Từ khi tôi làm cách xa ngã tư, công việc rất bấp bênh. Cứ thế, có những lúc tôi được no nê để rồi những ngày kế tiếp phải nhịn đói, và khi đói quá thì ăn cháo bobo.
Người đời thường nói "đói thì đầu gối phải bò", hoặc là "cùi không sợ lở". Từ những câu ngạn ngữ, thế là tôi đánh liều trở lại ngã tư để làm, cứ mặc cho bọn "chó sói" muốn đá, muốn quăng như thế nào đi chăng nữa. Một khi đã liều tôi không còn sợ gì nữa, ngang nhiên đối mặt cùng bọn "chó sói". Có lúc tôi và bọn chúng lớn tiếng chửi nhau, nhưng vì chung quanh có rất nhiều người tò mò đứng nghe bọn chúng im lặng. Đôi khi tôi bị bọn chúng phối hợp cùng một lũ "chó sói" khác bắt giam tôi vào nhà đá vài ngày, khi ra khỏi tù tôi vẫn về ngồi lại ngã tư vì đó là điểm tựa mà tôi phải bám, mất chỗ đó tôi sẽ bị đói. Tôi quyết chí bám chặt nơi này và ngày này qua ngày nọ tôi cứ ngồi lì ở đây. Cũng vì chỗ này tôi đã vào tù ra khám năm lần, cơm tù đối với tôi như cơm bữa. Nhưng cũng từ đó bọn chúng không thèm đả động đến việc tôi làm nữa.

Ngày qua ngày, đêm qua đêm, tôi tận mắt chứng kiến thấy những con "chó sói" sách nhiễu đồng bào, chúng nói năng với những bác tài xế, bất kể tuổi tác như thế nào, lời lẽ hổn láo và xấc xược. Bọn chúng tìm đủ mọi cách để kết tội những bác tài xế để làm tiền, nào là đèn cháy bóng, thắng không ăn, chở quá tải và quá nhiều khách, chạy quá tốc độ qui định, xe tung ra nhiều khói bụi và nhiều thứ hạch hỏi khác. Nghĩ cho cùng, mục đích của chúng chỉ là làm tiền mà thôi. Kể từ đó bọn chúng tạo một thông lệ, khi các xe đò hay xe tải chạy gần đến chốt lập tức lơ xe nhảy xuống chạy tới trạm trình giấy, trong đó có kẹp sẵn số tiền đúng theo thủ tục "đầu tiên". Bọn chúng lanh tay đút tiền vào túi, liếc mắt lấy lệ qua cuốn sổ rồi vẫy tay cho xe đi. Nếu xe nào không làm đúng thủ tục "đầu tiên" sẽ bị lập biên bản phạt ngay. Tiền đóng lệ phí "đầu tiên" thì ít mà tiền đóng phạt thì gấp mười lần, đôi khi còn bị giam xe, do đó không bác tài nào để bị phạt. Chính vì lý do đó mà bọn chúng không muốn để tôi ngồi gần chốt để hành nghề. Đúng là một lũ chó sói, đứng núp sau bộ đồ để làm tiền thiên hạ. Tâm địa chúng rất là gian manh, chỉ chực chờ cơ hội cướp cơm thiên hạ.

Những người dân lương thiện, chắt chiu từng đồng từng cắc bạc để có miếng ăn, vì công việc làm ăn phải dâng lên miệng chúng số tiền góp nhặt để được yên thân. Đó là tâm trạng của những bác tài xế lái xe đò, xe tải, vì sự sống và miếng ăn đành phải im lặng cúi đầu đưa tiền cho chúng ăn. Cảnh đời thật là trớ trêu. Bọn công an này biết rấr rõ hoàn cảnh của những chủ xe, chỉ khi nào xe lăn bánh gia đình mới có cơm, xe mà bị giam cuộc sống sẽ lâm vào bế tắc. Thôi thì đành phải chấp nhận nuốt hận mà thôi.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, những tháng ngày cơ cực cứ đeo bám cuộc đời của tôi. Chính quyền cộng sản cứ biểu quyết điều này, ban hành điều nọ hạn chế việc sinh sống của nhân dân, tuyển chọn thêm những thành phần ác ôn vào bộ máy để kềm chế nhân dân. Những điều luật mới khắc khe hơn những điều luật trước, cứ thế chúng siết chặt bụng, bóp chặt cổ chúng tôi, kinh khủng nhất là sắc lệnh về "lòng và lề đường". Từ xưa đến nay, những người dân nghèo tay lấm chân bùn, vì nghèo khó và thất học phải ra ngồi lề đường buôn bán, họ có cướp giật, hà hiếp ai đâu mà bây giờ phải chịu muôn vàn đắng cay. Xã hội mới tưởng đâu đem lại cơm no áo ấm cho mọi nhà, nào ngờ chỉ đem nghèo đói, rách rưới đến khắp mọi nơi. Nay lại ban thêm sắc lệnh về "lòng và lề đường" vượt quá mức chịu đựng, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống và quyền sinh kế của con người.

Tổ tiên của chúng ta, "con Rồng cháu Tiên", từ buổi sơ khai đã phải tự lực cánh sinh kiếm sống, mỗi người phải tự lo cho bản thân mình. Mỗi bộ tộc, mỗi làng đều phải lên rừng săn thú, xuống biển bắt tôm mới có miếng ăn, cho nên mới có câu: "tay làm hàm nhai". Nói về lịch sử đấu tranh, dân tộc ta không thiếu gì những thí dụ. Dân tộc Việt Nam đã thoát ra cảnh "ngàn năm nô lệ giặc Tàu, trăm năm đô hộ giặc Tây", tổ tiên chúng ta đã tranh đấu để có một nước tự do độc lập, không phải làm nô lệ cho ai và bị ai đô hộ. Tuy nghèo nhưng không ai ăn cắp của ai, mọi người đều biết tích trữ phòng cơ, lấy cây rừng xây dựng thành lũy, lợi dụng núi non ngăn cản quân thù, sử dụng sông biển làm nguồn tiếp tế và giao thông. Nói chung, tất cả mọi người chung lưng cật lực bảo vệ núi sông và xây dựng đất nước, có đâu như ngày nay những người cầm quyền chỉ sống trong lợi dụng. Trong thời chiến họ lợi dụng xương máu chiến sĩ để chiếm chính quyền, trong thời bình họ lợi dụng lao lực của đồng bào để được phì gia. Trả những người trong bộ máy cầm quyền cộng sản hiện nay về đời sống dân sự, chắc chắn không ai biết làm ăn lương thiện. Vì quen ăn bám, chắc chắn họ sẽ không làm được gì cả, họ chỉ muốn ăn mà không muốn làm. Ai chịu làm mọi cho họ cưỡi đầu, cưỡi cổ mãi mãi?

Dân ăn không đủ no, bệnh không có thuốc, lấy gì để dâng cho các quan cách mạng ăn mãi. Bởi có câu: "có thực mới vực được đạo", không đủ ăn thì không còn đạo nghĩa gì nữa, người ta cướp cơm thì phải chống lại, đó là qui luật của thiên nhiên có từ ngàn đời trước và sẽ trường tồn mãi mãi đến ngàn đời sau. Lịch sử vẫn còn in đậm những tấm gương anh dũng chống trả sự hà hiếp bóc lột của tằng lớp cường hào ác bá, luôn thôi thúc những con người can đảm đứng lên tranh đấu cho lẽ phải, bảo vệ kẻ yếu. Không còn gì để bào chữa cho chế độ này, một chế độ nhẫn tâm tước đi sự sống của người dân. Thử hỏi nếu không có những người dân tay lấm chân bùn tiếp tế, lo lắng, che chỡ, bảo vệ từng nẻo đường, từng tất đất, nếu không có những người đào hầm, lo từng miếng ăn giấc ngủ và cung cấp thuốc men trong cuộc chiến vừa qua, làm sao những người cộng sản có ngày hôm nay. Những người đó là ai, nếu không phải là những con người nghèo hèn đang ngồi trên các lòng lề đường kia tự túc sinh nhai, không hề van xin sự bố thí của chính quyền? Người cộng sản ăn trái quên kẻ trồng cây, sự vô ơn bạc nghĩa này khó bị tẩy quên.

Xã hội đang cơn biến động, nhà cao tầng mọc lên như nấm, đông kẻ quần thoa áo gấm qua lại trên đường, càng ngày càng có nhiều lễ hội. Thay vì giúp đỡ những người nghèo khó có cuộc sống xứng đáng hơn, chính quyền cộng sản bóp cổ, xiết bụng nhân dân. Những cuộc truy quét, thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động nghèo, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân được quăng đầy trên những xe cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe đẩy trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng, thúng trùái cây. Chưa phải hết, bên cạnh những chiếc xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy cụ già, người tàn tật; những bà mẹ cùng với đám con thơ đều được đẩy lên xe đưa về trại tập trung; tất cả bị kết tội lấn chiếm lề đường. Các đường lớn, cơ quan nhà nước chiếm hết, chỉ còn lề đường để dân chúng sinh nhai mà cũng không được. Còn đâu lẽ sống của người cô thế?

Nhớ lại ngày nào còn sinh sống dưới chế độ cũ, tuy cũng có cảnh nghèo giàu, mạnh được yếu thua nhưng có đâu quá quắc và vô nhân đạo như ngày nay. Người ta lúc nào cũng linh động chừa một lối thoát cho người sa cơ. Đã không giúp được ai thì làm ngơ đi cho người khác sống, đằng này không những chính quyền cộng sản không cho người dân sinh sống mà còn bắt cả ông già, bà lão, đàn bà, con nít và người tàn tật vài các trại tù. Còn gì trớ trêu cho bằng. Những ai đã từng sống trong chế độ trước không khỏi bùi ngùi tiếc thương cho ngày tháng cũ, ngày nay chỉ có những cảnh xô đẩy, giành giựt, đá đổ, la hét, thu gom chở về chất đầy kho nhà nước. Họ muốn giết dân nghèo mà. Đồ vật tịch thu đem về chất đống, phơi nắng, phơi mưa, phơi gió, để cho rỉ sét, mục nát theo thời gian những của cải, tài sản của người nghèo.
Ngụy ngôn "làm đẹp thành phố" là khẩu hiệu tiêu diệt dân nghèo thành thị. Dân lao động nghèo là ai nếu không phải là những người đã từng một thời hy sinh xương máu giúp họ lên cướp chính quyền? Đúng là một bọn ăn cướp, ăn cướp công lao xương máu của các chiến sĩ cũ của họ, nay muốn ăn cướp luôn mạng sống của con người bần cố. Nếu có cuộc đổi đời, hậu quả không biết sẽ như thế nào.
Một hôm như thường lệ, trời vừa sáng tôi mang đồ nghề ra ngã tư Hàng Xanh làm việc. Chưa kịp đặt bao đồ xuống đất, tôi nghe tiếng la ơi ới: "Chạy, chạy, bà con ơi, "chó sói" đến kia rồi". Trước mắt tôi là những tiếng la hét, tiếng chân chạy thình thịch, tiếng ly chén vỡ và tiếng khóc than vang một góc trời. Người ta rầm rập đẩy những chiếc xe bán nước mía, bán bánh mì chạy trốn. Những người phụ nữ, kẻ gánh người gồng chạy trong hỗn loạn. Ôi thôi, nào là bánh mì, tủ thuốc lá, mâm trà đá văng đổ tứ tung. Bỗng đâu bốn chiếc xe công an chạy tới thắng cái kịt, nhiều toán công an và dân quân nhảy xuống, chạy tới chụp giật phương tiện buôn bán của bà con, tiếng kêu la ơi ới. Trước mắt tôi một con "chó sói" mặc áo xanh, tay chỉ chõ, miệng la hét một người bán thuốc lá lẻ trên lề đường cạnh đó. Tên này ngoác to mồm, rống hết gân cổ tuôn ra những từ khó nghe và rất mất dạy. "Đ.m, đã cấm buôn bán, lấn chiếm lề đường mà cứ ngoan cố. Mày có lỗ tai không? Mày là con trâu hay con người?". Thế là đồ đạc bị tịch thu, nạn nhân chỉ biết nhìn theo ánh mắt buồn bã. Đám công an cùng những dân quân khác, mặt mày hùng hổ, lăng xăng lít xít chạy tới chạy lui chụp giật đồ đạc của những người bán buôn trên lề đường quăng lên xe.
Tôi không may cũng lọt vào ổ phục kích này. Chưa biết phải làm gì trước tình huống này thì một công an ở đâu từ phía sau chạy tới giật thùng đồ nghề của tôi quăng lên xe. Tôi chỉ biết nhìn theo, lòng nặng trĩu. Vừa cay đắng vừa đau xót, tôi ngậm bồ hòn nhìn "chén cơm" bị cướp. Thế là trắng tay. Hướng tầm mắt về những nơi khác của ngã tư, cảnh la hét, tiếng khóc la vang lên liên tục. Chợt đâu đó có tiếng hét thất thanh của một phụ nữ làm tôi giật mình. Chị ta đang giằng co với một tên dân quân cái thúng đựng trái cây. Cạnh một bên chị là hai cháu bé, đứa lớn khoảng 5 tuổi, đứa nhỏ chừng 3 tuổi. Ánh mắt chúng thật là ngây thơ, bé nhỏ hơn chợt khóc thét lên khi nó thấy mẹ nó bị người ta xô té, ổi và mận văng tứ tung. Chị ta vẫn cương quyết giữ chặt cái thúng về phía mình, cuối cùng đành phải buôn xuôi vì không chống nổi với hai tên khác nhào tới xô chị té xuống đất. Mắt chị rực lửa căm hờn nhưng chị đành bất lực nhìn cái thúng, "nồi cơm", bị lũ "chó sói" quăng lên xe. Cùng lúc đó, hai đứa bé chạy lại ôm chầm lấy mẹ. Chị lồm cồm ngồi dậy, ôm hai đứa bé vào lòng rồi vỗ về: "Nín đi con, mẹ con mình kiếm chỗ khác để bán". Lúc này lũ "chó sói" đã đi xa vì đã hoàn thành sứ mạng. Bà con đổ xô lại an ủi ba mẹ con, những tiếng nói chan chứa tình thương của người cùng khổ thật là xúc động. Chỉ trong nỗi khổ mới biết thế nào là tình người. Tôi móc trong túi ra một ít tiền chia cho ba mẹ con. Chị phụ nữ nhìn tôi ngại ngùng, nhưng tôi cứ dúi tiền vào tay con chị. Chị phụ nữ cất tiếng cám ơn rồi ôm hai con khóc, hai đứa nhỏ cũng khóc theo. Thật là tội nghiệp, thật là oan trái. "Trời xanh ơi, hãy ngó xuống những kẻ khốn khổ trong tình cảnh hoạn nạn này". Tôi hậm hực chửi thầm: "Lũ khốn nạn chúng bay rồi có ngày sẽ lãnh hậu quả". Sống trong những phút giây căng thẳng này, khó mà giữ được bình tĩnh.
Trong những bố ráp khác, bọn công an bắt luôn cả người. Những cụ già, những chị phụ nữ bồng bế con nhỏ, những người tàn tật bị bắt đưa lên những chuyến xe đầy ắp chở vào những trại cải tạo. Tiếng khóc la, chửi bới của những người bị đưa lên xe mà bọn chúng cho là đối tượng lang thang kêu vang suốt cả đoạn đường về trại. Bà con hai bên đường chỉ biết vẫy gọi những số phận hẫm hiu và cầu mong cho họ được bình yên. Cuộc sống vẫn tiếp tục, người nghèo khổ vẫn ra lề đường buôn bán. Họ biết đi đâu bây giờ, ai nuôi gia đình họ nếu không được buôn bán, chính quyền này có làm gì để giúp họ đâu. Đã không giúp đỡ mà còn bắt bớ, chế độ này là một chế độ tàn bạo, họ muốn giết chết cuộc sống của những người nghèo khó.

Trong công việc bơm vá bánh xe hàng ngày, tôi vừa làm vừa lo âu. Con người lúc nào cũng di động, hễ thấy động một chút là lò cò cất giấu đồ đạc trốn đi nơi khác. Vì lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, công việc trở nên khó khăn, lúc được lúc không, khách khứa vắng dần. Từ chỗ quá lo lắng tôi đâm sinh bệnh, cơ thể ngày gầy ốm hơn. Những cơn ho cứ kéo dài, có lúc vừa chống nạng đứng lên tôi choáng váng cả mặt mày té ngồi xuống đất. Tôi cảm thấy thân hình nặng nhọc, uể oải, đầu óc cứ quay cuồng không còn tập trung được nữa. Có lúc tôi phải từ chối nhận khách vì bị chóng mặt, lợi tức càng bị teo hẹp. Mặc dầu vậy tôi vẫn tự an ủi: "Mình có thần hộ mạng, khó khăn chỉ thoáng qua thôi, ông bà còn thương số phận mình". Thật đúng vậy, những cơn ho và chóng mặt chỉ thoáng qua thôi, độ nửa giờ tôi khỏe trở lại.

Những đợt truy quét và thu gom cứ liên tục, công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tôi phải nghỉ vài ngày chống nạng lang thang vào Sài Gòn, Chợ Lớn quan sát cảnh đời thay đổi. Khi nào đói quá thì sà đại vào những hàng quán "ăn xin" lây lất qua ngày và để dành tiền sắm lại đồ nghề đã bị tịch thu. Tôi sống những ngày không định hướng.
Một hôm mỏi quá, tôi dừng chân nghỉ mệt tại một công viên. Bỗng nhiên một cơn mưa ào ào trút xuống, tôi nép mình vào thân cây đa. Cùng lúc đó một phụ nữ tay cầm giỏ xách chạy về hướng cây đa nơi tôi đang trú mưa, cùng đứng trú. Chúng tôi đối diện cùng nhau. Cơn mưa càng lúc càng nặng hạt, trời đầt tối sầm lại. Hơi lạnh bắt đầu thấm vào da thịt. Tôi thấy cô ta dùng giỏ xách ép sát vào người để cho bớt run. Để tránh đi sự im lặng và cái lạnh, tôi lên tiếng hỏi thăm. Đại khái về công ăn việc làm và gia đình. Thỉnh thoảng những tia chớp lóe lên, tiếng nổ ầm ầm làm chúng tôi xích lại gần hơn. Cô ta cho tôi biết từ kinh tế mới trở về, không gia đình không nhà cửa. Mỗi ngày cô vào các chợ xin làm những việc vặt vãnh để sống qua ngày, tối về ngủ đại ở đâu đó để sáng hôm sau ra chợ tìm việc khác. Có nơi làm được một tuần, có nơi một hai ngày như giặt quần áo, phụ khiêng hàng hóa. Lúc này kiếm việc rất khó khăn vì chiến dịch dọn dẹp lòng lề đường. Nói chung cuộc sống của cô ta không lấy gì sung sướng, làm lụng cực nhọc đôi bàn tay chai sạn mà vẫn không đủ ăn. Thật là không may cho kiếp "hồng nhan bạc phận", cô đi hết nơi này đến nơi khác tìm việc mà vẫn không ra, như hôm nay chẳng hạn.
Thế là chúng tôi quen nhau. Cùng chung cảnh ngộ, chúng tôi thông cảm và chia sẻ niềm vui nỗi buồn của nhau. Chúng tôi tâm đầu ý hợp nên quyết định cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Kể ra đời tôi cũng còn chút may mắn, với tấm thân tàn phế mà vẫn lập được gia đình. Cô ta trở thành vợ của tôi và sinh ra một bé trai. Con trai của tôi không có giấy khai sinh vì sinh đẻ ở nhà, tôi phải nhờ một bà hàng xóm sang cắt rún giùm. Tôi đặt tên con là Nhơn vì muốn nó sau này biết yêu thương đồng loại. Nó vừa là đứa con trai đầu lòng vừa là sợi dây thắt chặt tình nghĩa vợ chồng chúng tôi. Nhờ vào người bạn đồng hành mới mà công việc vá xe của tôi bớt đi phần cực nhọc, vợ tôi thôi đi xin việc trong các chợ và ra ngả tư phụ giúp tôi trong việc vá vỏ ruột xe. Căn nhà nghèo hèn trở nên ấm cúng, tiếng khóc tiếng cười của trẻ con mang lại niềm vui trong lòng. Bệnh lao của tôi cũng giảm cường độ, những cơn ho dai dẳng cũng thưa dần. Tôi đang sống trong hạnh phúc.

* * *
Cuộc sống mới tuy thật hạnh phúc nhưng đầy âu lo. Chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối vì sống trong một chế độ thối nát. Vì kế mưu sinh, tôi phải trực diện hằng ngày với lũ "chó sói". Chúng tiến tôi tiến, chúng lùi tôi lùi, tánh tôi lúc nào cũng cương trực, không chịu cúi đầu nên bị chúng bắt nhốt nhiều lần. Những lần như thế, vợ con tôi phải tha phương cầu thực để có tiền thăm nuôi tôi. Tội nghiệp con tôi, một đứa bé chưa ráo máu đầu vì tôi đã phải ăn xin ngoài đường. Mỗi lần vào thăm, thấy mặt nó lem luốc, mũi chảy lòng thòng, lòng tôi quặn lại. Tôi chỉ biết nghẹn ngào nhìn vợ nhìn con lòng đầy hối hận. Thế là từ đó tôi quyết định đóng vai "câm điếc" trước đám công an "chó sói" khi có chiến dịch.
Ngày ra khỏi tù, mặc dù cơ thể tôi vì bệnh lao phổi, tôi phấn đấu tới cùng, hy sinh tất cả để cho vợ và con được bình yên. Tôi cố che giấu cơn đau để rồi đêm đêm khóc thầm cho số phận bi đát. Tôi muốn vượt thoát mặc cảm tàn phế để hòa mình vào cuộc sống, nhưng số phận cứ tiếp tục khắc khe với chính tôi. Thời gian này là thời gian tôi tranh đấu gian nan cho sự sống của bản thân vàcủa gia đình, nhưng làm sao có chỗ đứng khi chỉ biết trốn chạy. Mỗi ngày tôi cứ bày hàng ra và ôm hàng chạy trốn, cuộc sống như thế tiếp diễn đều đặn. Tôi chỉ mong được yên phận nhưng người ta không cho tôi cơ hội đó.
Ngày tháng cứ trôi qua, anh em chúng tôi sống triền miên trong cảnh đói khổ. Chính quyền cộng sản bố ráp một thời gian rồi lại buông thỏng, những người đói khổ như chúng tôi may mắn không bị bắt đưa vào các trại tập trung cải tạo lao động được dịp bày hàng ra hè phố buôn bán. Mãi lo làm ăn, không ai nghĩ tới chuyện đề phòng công an bố ráp. Khoảng thời gian này, tôi ngỡ như là cây khô được tưới nước mưa và cảm thấy yên tâm. Tôi hăng say công việc bơm vá ruột xe. Nhưng nỗi hạnh phúc nhỏ này không kéo dài lâu, độ một hai tháng sau chiến dịch dẹp lòng lề đường lại tái diễn, cuộc sống bất ổn trở lại.

Không thể hình dung được cuộc sống trong xã hội này, người dân là chuột, chính quyền là mèo, mèo muốn vờn chuột lúc nào cũng được. Khi no thì mèo nghỉ, khi đói mèo rình bắt chuột. Nhân phẩm con người không có trong xã hội này. Sự đau khổ là dấu ấn của "thời đại xã hội chủ nghĩa", nó in sâu vào tâm trạng người dân nghèo khó như giấy thông hành đi vào thiên đường cộng sản. Nhiều lúc tôi cố quên nỗi đau thương và tủi hận hôm nay để tìm về quá khứ, tiếc thương một thời vàng son trong xã hội cũ, nơi đó con người biết sống với luật "nhân quả", ăn lành ở hiền, tôn trọng nhân phẩm của nhau và cư xử như những con người.
Bản nhạc "Tình khúc thứ nhất" có một đoạn như sau: "có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai". Đúng Đức Phật đã nói: "Cuộc đời này quả là biển khổ", nhận thức được nó là đã giác ngộ, phải tìm cách thoát ra và quên đi nỗi khổ. Taylor nhận định: "Chẳng có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trái đất này mà không trĩu nặng những thương đau. Chẳng có hạnh phúc nào lên đến tột đỉnh mà không bị đổ nhào vì những tai ương". Byron cho rằng: "Con người là cái quả lắc giữa nụ cười và nước mắt. Ai chưa biết khóc thì chưa hẳn là người. Người ta chào đời bằng tiếng khóc và lìa đời cũng bằng nước mắt. Đời người tuy ngắn ngủi, nhưng cũng rất dài. Chúng ta không dừng ở một điểm nào vì không biết điểm nào là điểm cuối cùng. Đời sống là một cuộc chiến đấu liên tục, chiến đấu với ngoại cảnh và chiến đấu với bản thân, do đó cần phải vượt lên nỗi đau bằng cách chấp nhận nó để sống. Vấp ngã sẽ giúp chúng ta vững tiến trên đường đi tới, đừng vì nó mà thối chí và chùn chân trong vũng lầy tuyệt vọng vì không có gì tuyệt đối trong cuộc đời, con người phải đánh đổi mạng sống hằng ngày để tìm đường sống". La Rochefoucault nói: "Chưa bao giờ chúng ta hạnh phúc hay khổ đau như chúng ta tưởng", v.v...
Những nhà tư tưởng lớn đã nói như vậy sá gì cuộc sống hèn mọn của tôi. Hiểu được điều này, tôi cảm thấy bớt bị dằn vặt và an phận với số mạng của mình. Những khi buồn khổ, tôi thường ngồi tịnh tâm suy ngẫm triết lý của đạo Phật hay những câu triết lý của những bậc vĩ nhân, đó là những tia nắng sưỡi ấm hồn tôi. Từ đó tâm thần tôi được yên ổn, những hành hạ thể xác và tinh thần của những người cộng sản không còn làm tôi bận tâm. Hôm nay có ăn, tôi vui vẻ hưởng thụ, ngày mai bị đói tôi chấp nhận một cách khoang dung. Tôi tin vào luật nhân quả, ăn lành ở hiền sẽ có ngày gặp quả tốt. Tôi tha thứ cho những ai đã hành hạ tôi ngày hôm nay.
Nhưng đó không phải là tâm trạng của những người khác, họ vẫn còn căm hận lũ "chó săn". Đối với họ, những đám công an là một bầy "chó sói", trước kia chúng sống chui rút trong rừng chỉ biết cào bới những nấm mộ hoang để tìm mảnh xương vụn trong lòng đất lạnh, hôm nay chúng về thành phố, nắm giữ quyền uy và biết gậm nhấm những đĩa thịt cao sang, bản chất không hề thay đổi. Chúng được nằm ngủ trong những nhà cao tầng, những ngôi biệt thự, uống những thứ rượu ngon, đi chơi trên những chiếc xe lộng lẫy, ngủ với những thiếu nữ trẻ đẹp, nhưng vẫn không giã từ bản chất gian manh. Cho dù có mặc áo thụng, sửa đổi dáng đi, hình hài và bản chất của chúng vẫn là "chó sói". Nhưng tôi không muốn bận tâm những chuyện đó nữa, cuộc đời này đã đủ khổ đau để không còn nghĩ đến chuyện khác.

Bầu trời trở nên đen tối, những cơn gió ào ạt rít vang từng hồi. Mưa bắt đầu trút xuống, những giọt nước tung toé trên khắp nẻo đường, gây lụt lội sình lầy khắp nơi. Đài truyền thanh loan báo cơn bão cấp 9, cấp 10, đã tràn vào Việt Nam. Dân chúng lo âu tìm cách tránh né, nơi đâu cũng bị cơn bão hành hạ. Tội nghiệp nhất là đám dân lành, nhà cửa đã nghèo lại còn bị sụp. Mọi người trông ngóng ánh mặt trời trở lại.
Những ngày này cả nhà tôi phải nghỉ làm. Cái lạnh cứ ray rứt. Nhưng cái lạnh ngoài da có thấm gì cái lạnh trong tâm hồn. Chúng tôi đang chờ bàn tay nóng ấm tình người từ hải ngoại bay về kéo vực chúng tôi ra khỏi cảnh lầm than, giúp đỡ con cái chúng tôi đi về ánh nắng mặt trời.
"Mưa ơi, hãy trút xuống những cuộn sóng khổng lồ và những ngọn cuồng phong mãnh liệt xóa tan nỗi đau trên những thể xác không toàn vẹn. Nắng ơi, nắng hỡi, hãy chiếu những tia dịu hiền mang lại niềm vui cho khắp mọi nhà, xóa tan màu đen tối vây quanh. Xin ánh sáng tình thương soi sáng những tâm hồn mê muội chỉ biết hành hạ người đồng hương. Xin ánh sáng tình thương thay đổi tâm linh loài lang sói. Cầu mong sự tha thứ chiếm ngự con tim để cho thù hận chìm vào quên lãng".

* * *
May mắn đã đến với tôi khi được biết tại hải ngoại vẫn còn nhiều người nhớ đến chúng tôi. Tôi được bạn bè phế binh cho biết địa chỉ bác sĩ Phan Minh Hiển ở Pháp, người đang tích cực vận động giúp đỡ chúng tôi. Thế là tôi dẫn con đi chụp hình và làm giấy tờ xin bác sĩ Hiển trợ cấp nhân đạo. Con tôi may mắn được một ân nhân hải ngoại nhận làm con nuôi và giúp tôi tiền để điều trị bệnh lao.

Viết lại theo lời kể của Bất Hạnh,
một phế binh cụt chân trái hiện ở Khánh Hội, Sài Gòn

KHương
Posts: 152
Joined: Sun Mar 20, 2005 2:44 am

Post by KHương »

Những Mảnh Đời Rách Nát

Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển



Chương 8: Tâm tư và cuộc sống quả phụ



"Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người, Việt Nam hai tiếng nói trên vành môi Việt Nam nước tôi..."

Việt Nam hai tiếng gọi linh thiêng, Việt Nam quê hương của người Việt. Mỗi lần hát lại bài hát này lòng tôi không khỏi gợn lên những hùng khí từ lâu im tiếng. Nhiều người yêu quê hương này vì còn mẹ còn cha, còn nhà còn cửa; người khác yêu quê hương chỉ vì thương nhớ những kỷ niệm đẹp: lũy tre xanh, bờ ruộng, trường xưa lớp cũ, một cuộc tình tình lãng mạn... Riêng tôi, tôi yêu đất nước này như yêu người tình, người mẹ, người cha. Tôi yêu đất nước này vì được sinh ra và lớn lên trong tinh thần bất khuất, tôi đã chia sẻ với nó nỗi đau, niềm vui của một thời son trẻ, và sẽ còn tiếp tục chia sẻ để nhìn thấy nó vươn lên. Nhưng quê hương ngày nay chỉ toàn bất hạnh, tôi vẫn yêu nồng nàn vì có nhiều người đã hy sinh bảo vệ, trong đó có chồng tôi.

Là góa phụ ở lứa tuổi thanh xuân trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến, tôi còn quá trẻ, mới 24 tuổi, để phải chống chọi với những gian lao cuộc đời. Tôi đã phải giữ mình trước biết bao cám dỗ để trân trọng mối tình với người chồng mà tôi hằng yêu quí. Cưới nhau vừa được tám tháng anh đã đi vào lòng đất lạnh, để lại tôi một mình chơ vơ trên cõi đời với tấm hình treo trên vách.

Phạm Văn Tân, tên anh, 25 tuổi, thiếu úy Sư Đoàn 18 bộ binh, người tình và là người chồng của tôi, tử trận ngày 28-4-1975 tại cửa ngõ Sài Gòn. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến thật là kinh hoàng. Vào lúc sáng sớm, một đồng đội của anh Tân chạy đến nhà tôi trong khu gia binh thị xã Xuân Lộc báo tin anh vừa tử trận, rồi xin một bộ đồ dân sự để tìm đường về Sài Gòn. Trời đất bỗng nhiên quay cuồng chóng mặt. Tôi gượng đứng cạnh cửa bếp thở khó khăn, mẹ chồng tôi mặt mũi trắng bệch nhìn người đó ra đi tim như ngừng đập. Nói sao được nỗi bàng hoàng lúc đó. Anh Tân, chồng tôi đã chết. Theo lời người lính thuật lại, xác anh còn nằm ở đâu đó trong rừng cao su, gần ngã ba Dầu Giây. Phải đi tìm gấp nếu không người ta sẽ lấp xác anh vào một hố chôn tập thể, lúc đó thì quá muộn. Sau vài phút định thần, tôi lấy lại bình tĩnh. Không còn sợ gì nữa, đời người chỉ một lần chết, tôi cùng mẹ chồng bàn nhau ra đường đón xe đi tìm xác anh Tân mang về chôn.

Hai mẹ con vừa khóc vừa đón được một chiếc xe Lam đi đến nơi vừa xảy ra chiến trận. Tiếng đạn bom vẫn còn nổ vang rền ở phía xa xa. Vào lúc giữa trưa, hai chúng tôi mới tìm đúng địa điểm mà người lính mô tả. Nơi đây mùi thuốc súng còn nặng, nhà cửa tan hoang, cây cỏ dập nát, quân trang, quân dụng, ba lô, đạn dược và lương khô rơi vãi đầy mặt đất. Vài khẩu pháo 105 ly mất bánh xe nằm ngã nghiêng; xác mấy chiến xa M113 và M40 thuộc Lữ Đoàn 5, một đơn vị thiết giáp đóng cạnh khu gia binh, bị thủng đạn cháy đen ngòm, mùi khét của thịt xương và ma duốt còn bốc ra nồng nặc; vài chiếc GMC đầy vết đạn lật chỏng gọng hai bên đường để trơ những bánh xe dính đầy bùn. Xác các binh sĩ chết trận đen đủi nằm rải rác dọc đường, hình thù biến dạng, có người chỉ còn một khúc mình, người khác thân hình bị gãy làm đôi trông thật khủng khiếp. Một vài khúc tay, khúc chân tím đen cùng những chiếc giầy nằm giữa đám cỏ vô tri. Ruồi nhặng từ đâu bay đến bu đen các xác chết. Khu vực này âm u đến rợn người. Hai mẹ con vừa bịt mũi vừa giở những mảnh vải dơ bẩn phủ trên mặt người chết. Không biết ai đó còn đủ thì giờ để làm việc nhân đạo này trước khi bỏ đi, dầu sao chúng tôi cũng thầm cảm ơn những người đó.

Sau khi giở khoảng bốn năm mảnh vải trên mặt người chết, chúng tôi nhận diện được xác anh Tân. Trời đất bỗng như tối lại, tôi muốn ngất xỉu, mẹ chồng cũng thế. Anh nằm ngữa mặt chết trên một miệng hố cá nhân, ngực bị dập nát, áo trận dính đầy máu bầm. Có lẽ ai đó đã lôi xác anh lên khỏi hố cá nhân vì hai tay anh buôn xuôi theo thân hình, hai chân còn lòng thòng trên miệng hố. Khẩu súng ngắn mà anh thường mang bên người không còn, chỉ còn lại bao da đeo ở lưng quần. Cây M16 hằng ngày anh mang bên mình cũng bị ai lấy mất, có lẽ anh đã bắn trả dữ dội lắm trước khi chết nên vỏ đạn rải đầy dưới hố.

Không khí chung quanh vắng lặng như không có chuyện gì xảy ra. Tiếng ve sầu ồn ào mọi khi cũng im bặt. Lúc này hai mẹ con chúng tôi không còn nước mắt để khóc, và cũng không phải là lúc để khóc. Phải bình tĩnh, tôi tự nhủ lòng. Tôi phụ mẹ chồng khiêng xác anh Tân ra khỏi miệng hố và lau khô các vết máu trên mặt và trên da thịt anh. Máu đã khô nên chùi rất khó, cũng may bi đông nước của anh còn nằm bên cạnh nên tôi nhúng khăn cho ước để mẹ chồng chùi cho dễ. Tay bà run run, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài xuống má. Tôi mò tìm trong túi áo anh những giấy tờ hay vật dụng cá nhân nhưng không còn gì hết. Các túi áo của anh đã bị ai đó xé rách. Tôi chỉ thấy tấm thẻ bài còn đeo ở cổ nên vội vàng tháo nó ra cất vào túi, rồi xé lớp áo trận rách nát trước ngực dính đầy máu khô. Lòng ngực của anh bốc lên mùi hôi khó chịu, để lộ cả tim phổi trổ màu tím bầm khiến tôi muốn nôn mửa, phải nín thở và không dám nhìn vào mới xé bỏ được mảnh áo bỏ qua một bên. Tôi vội cởi chiếc áo len mỏng mang trên người để bọc ngực anh. Lau chùi xong, mẹ chồng tôi ngồi chồm hổm xuống đất, thẩn thờ sửa lại đôi chân anh Tân cho ngay ngắn trên mặt đất.

Hai mẹ con trao đổi với nhau vài lời vô nghĩa, tôi không còn nhớ rõ là gì. Sau cùng hai chúng tôi phân chia công việc: bà ra đường lộ đón xe, tôi ngồi lại giữ xác. Lúc này tôi mới khám phá chiếc đồng hồ Seiko tôi tặng anh sau ngày cưới đ^ã bị ai lột mất, để lộ một khoảng da trắng tái quanh cổ tay trái đã trổ màu xám. Tôi vừa đuổi ruồi vừa im lặng ngồi khóc bên cạnh xác anh. Độ nửa giờ sau, mẹ chồng đi đến trên chiếc xe Lam đậu ngoài bìa rừng. Anh tài xế phụ hai mẹ con tôi khiêng xác anh Tân bỏ trên xe. Anh tài xế này là phúc đức, anh lặng lẽ đến từng xác chết cắm vài cây nhang, vái mấy cái rồi mới chịu ra đi. Anh nói người ta lúc còn sống có làm điều gì ác đức thì chết cũng phải được tôn trọng, huống gì đây những chiến sĩ đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ xứ sở. Anh còn nói sẽ vận động một số anh em khác đến chở những xác này ra nghĩa địa chôn và liên lạc với gia đình người quá cố nếu tìm được một địa chỉ nào đó trên người.

Thế là chồng tôi chết không ai hay biết. Chế độ miền Nam đang bị đe dọa nên không ai có đủ thì giờ để quan tâm đến người quá cố, ai cũng lo cho bản thân mình. Nhiều chiến sĩ khác chắc cũng chết vô thừa nhận ở đâu đó như chồng tôi trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến này, nhưng các anh đó không có cái may được thân nhân đến tìm xác mang về nhà chôn như chồng tôi. Các anh đã hy sinh cho cái gì? Thật tội nghiệp cho những người hy sinh vào giờ thứ 25. Cuộc chiến diễn ra nhanh quá nên những ai ngã xuống đều bị bỏ rơi. Quân địch cũng không có thì giờ chôn xác các anh, đồng đội các anh thì đang tìm đường trốn thoát nên xác các anh vẫn còn nằm đây.

Trên đường về nhà, tôi thấy nhiều thanh niên mặt mũi sạm nắng, tóc hớt cao, mặc thường phục đón xe dọc đường, có lẽ đó là những người lính Việt Nam Cộng Hòa trong giờ thứ 25. Nét mặt của ai cũng lộ vẻ sợ hãi. Xe Lam chúng tôi chở xác chết nên không ai đeo lên, những xe khác người ta bám đầy. Quốc lộ 1 lúc này thật là chật hẹp và hỗn loạn. Người đi bộ và xe dân sự chen lấn nhau trên đường. Thêm vào đó là những đoàn xe tăng và những chiếc xe quân sự ngụy trang dưới đám lá rừng của quân cộng sản đậu dọc hai bên đường, bộ đội miền Bắc mặt mũi non choẹt đứng ngồi chật cả đường lộ, chỉa súng vào đám người đi bộ hai bên đường, gương mặt cũng lộ đầy nét lo âu. Tôi không còn tâm trí để quan sát đoàn quân xâm lăng này, chỉ mong sao sớm về nhà. Người ta cũng chẳng ai thèm quan tâm đến chiếc xe Lam chở xác chết nên chúng tôi được yên ổn chạy tiếp. Đến chiều xác anh Tân được đưa về nhà. Thật là buồn nhưng lòng cũng nhẹ nhỏm, anh Tân đã vĩnh viễn về với gia đình. Vài người hàng xóm tò mò đến xem, hỏi han sự tình và chia buồn.

Lệ hoen mi, nước mắt tủi nhục

Người nuối tiếc thưởng thức năm canh

Chôn cất anh xong, tôi cùng mẹ chồng sống những ngày đen tối. Vài nhà hàng xóm vui mừng đón chồng, đón con là lính vừa rã ngũ trở về bình an. Thật là đau đớn. Phải làm gì đây những ngày sắp tới, hai người đàn bà chân yếu tay mềm? Là điều may và cũng là nỗi buồn, hai chúng tôi vừa mới cưới nhau nên chưa có con, nếu không chúng sẽ lâm vào cảnh mồ côi. Mẹ chồng tôi có hai người con, người con gái lớn lấy chồng, cũng là lính đóng ở Vĩnh Long, hai tháng nay không có tin tức gì. Bà ở với chúng tôi với hy vọng sớm có cháu nội để bồng bế, nay thì hy vọng của bà tiêu tan trong đau khổ. Đầu tháng 5, bộ đội cộng sản vào khu gia binh xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi nơi cư ngụ. Tôi dẫn mẹ chồng về xóm đạo Phát Diệm, Hố Nai, quận Trảng Bom (nay là huyện Thống Nhất), tỉnh Đồng Nai, ở với cha mẹ tôi.

Tôi là con gái thứ ba trong một gia đình công giáo di cư, hai anh trai của tôi đều là quân nhân đã có gia đình và đóng quân ở xa. Cha tôi là sĩ quan cảnh sát, cấp bậc thiếu tá ngành tuần lưu xa lộ Biên Hòa. Gặp lại gia đình thật là sung sướng, tôi cảm thấy được che chỡ và được an ủi.

Mẹ chồng tôi trước kia cũng ở Hố Nai, xóm Bùi Chu phía trên, nên về lại đây không mấy lạc lỏng. Thỉnh thoảng bà lên xóm trên thăm hỏi bà con và lại trên đó vài ngày. Ở với tôi độ ba tháng, bà tỏ ý muốn về Vĩnh Long ở với người con gái lớn và là chị dâu của tôi tên Thanh Kỳ. Chị Thanh Kỳ có chồng là lính hải quân, thuộc Giang Đoàn 27 xung phong, có hai con còn nhỏ. Tôi bùi ngùi chia tay bà vì phải ở lại giúp đỡ gia đình.

Cha tôi như mọi người khác phải đi học tập cải tạo, lúc đầu ở Bình Long, sau đó bị chuyển ra Bắc. Việc thăm nuôi càng lúc càng khó khăn vì đường sá xa xôi và khả năng tài chánh gia đình ngày cang eo hẹp. Tôi còn sáu đứa em còn nhỏ phải nuôi ăn học. Hai anh trai của tôi, một là huấn luyện viên trường Lam Sơn, một là sĩ quan võ bị Đà Lạt, cũng đi học tập cải tạo. Cũng may là hai anh đã có gia đình nên việc thăm nuôi có gia đình bên vợ lo nên gia đình tôi cũng bớt gánh nặng. Mẹ tội, một phụ nữ gương mẫu, chỉ biết đảm đang việc nhà, phục vụ chồng con và đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, ngoài ra không biết gì khác, sinh kế gia đình vì vậy từ nay do tôi đảm nhiệm.

Nơi làng công giáo này, cuộc sống rất là khó khăn. Nhờ nằm trên quốc lộ 1, trục lộ giao thông chính về Sài Gòn, bà con nơi đây kiếm sống bằng cách bán đồ ăn thức uống cho hành khách trên xe đò ở các trạm kiểm soát. Tôi cùng mẹ ra chợ ngồi bán quần áo và vật dụng cũ, các em tôi đứa nào đi học sáng thì bán mía lau và trà đá ở các trạm kiểm soát buổi trưa, đứa đi học chiều thì bán thuốc lá và xăng lẻ buổi tối ở dọc đường. Nhờ cả nhà buôn bán nên cũng tạm đủ ăn. Nhưng vì quá đông người bán, lợi tức ngày càng giảm, việc ăn uống phải hạn chế lại. Nhiều lúc cực quá, tôi gắt gỏng với các em vì chúng đòi sắm áo quần và sách vở mới. Kể cũng tội nghiệp, bạn bè chúng thuộc những gia đình khá giả ăn mặc tươm tất, còn chúng thì mặc những quần áo cũ, có nhiều dấu vá vì một năm chỉ được một bộ quần áo mới.

Nỗi cực thể xác và vật chất còn chịu đựng được, nhưng sự dằn vặt tinh thần thì không chịu nổi. Mỗi ngày loa phóng thanh ở các chợ và đường phố cứ hô hào dân chúng thi đua lao động, chửi bới ngụy quân ngụy quyền, đề cao chủ nghĩa xã hội (chẳng ai thèm để ý). Thêm vào đó là những buổi họp ở các tổ dân phố, toàn là người quen không mà cứ phải lôi nhau ra phê bình kiểm thảo. Tự nhiên tôi đâm ra lo sợ mọi người, sợ những người quen hôm qua trở mặt đấu tố gia đình tôi hôm nay.

Có lúc tôi so sánh cuộc sống trước kia và cuộc sống hiện tại, đúng là hai thái cực, một bên là Thiên Đàng, một bên là Địa Ngục. Tôi chợt nhớ lại tuổi ấu thơ ngày xưa khi còn là một cô gái nhỏ, chúng tôi thường hay chia phe chơi trò Thiên Đàng - Địa Ngục. "Thiên Đàng Địa Ngục hai bên, ai khôn thì dại, ai dại thì khôn, đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn, linh hồn phải giữ linh hồn đến khi gần chết được lên Thiên Đàng". Bài hát này không biết ai đặt ra, chắc chắn phải do một người có ưu tư nhiều về việc giữ đạo nên đã sáng tác để trẻ nhỏ vừa vui chơi vừa giữ đạo, trước mặt Chúa không có kẻ khôn và người dại.

Phong trào đi vùng kinh tế mới được phát động trong các tổ dân phố, loa phóng thanh ngoài chợ hô hào mạnh mẽ. Những gia đình thuộc diện "ngụy quân ngụy quyền" như chúng tôi được "ưu tiên" giải quyết. Một vài nhà đã tình nguyện "đăng ký", chúng tôi cứ chần chừ ở lì, cuối cùng không ai thèm nhắc tới. Gần một năm sau, những gia đình đi vùng kinh tế mới ở Sông Bé trở về lại vì không chịu đựng nổi cảnh núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đông đủ như lúc ra đi vì đã để lại vài thân xác trong rừng sâu, những gia đình khác thì đông người hơn vì sinh thêm con, tất cả đều ốm yếy, bệnh hoạn, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chóc. Họ không còn nhà cửa nên cất tạm những căn nhà lá trên những mảnh đất hoang cạnh bìa rừng để ở. Con cái thất học là điều dĩ nhiên nhưng được yên tâm vì dầu sao cũng còn được ánh sáng văn minh chiếu tới, mỗi khi bệnh đau còn có nơi mua thuốc chữa trị và việc sinh kế thì cứ ra chợ hay dọc quốc lộ 1 buôn bán. Ngoài ra họ còn canh tác thêm rau đậu ăn thêm, phần còn dư mang ra chợ bán. Cuộc sống nói chung rất khổ nhưng ai nấy đều chấp nhận để tồn tại.

Năm 1979, chiến cuộc tại vùng biên giới Tây Nam đến hồi sôi động. Chính quyền địa phương hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Bốn em trai tôi đã lớn, đứa lớn nhất 19 tuổi, đứa thứ nhì 17. Chúng thuộc diện gia đình "ngụy quân ngụy quyền" nên không được "kết nạp" vào bộ đội, tôi rất mừng. Nhưng nỗi mừng không kéo dài lâu, công an khu vực đến nhà nói Bình và Khánh (hai em trai lớn của tôi) đã tới tuổi trưởng thành phải thi hành nghĩa vụ "lao động quốc tế", tức đi "lao động tại chiến trường Kampuchia". Tôi không muốn các em tôi hy sinh cho cuộc chiến mới này nên tình nguyện đăng ký đi vùng kinh tế mới. Thanh niên thuộc các gia đình "ngụy quân và ngụy quyền" và các gia đình nghèo phải gia nhập lực lượng thanh niên xung phong, "nghĩa vụ" của họ tại Kampuchia là phá rừng, dựng nhà, làm đường và gỡ mìn bẫy do bọn Khmer đỏ gài thay cho bộ đội.

Trở lại việc đi "xây dựng vùng kinh tế mới", cả gia đình tôi đi hết chỉ để đứa em gái lớn, Xuân Tiên (18 tuổi), ở lại giữ nhà. Nhờ người hàng xóm giới thiệu, mẹ tôi mua lại một miếng đất nhỏ ở vùng kinh tế mới Tân Uyên đã khai hoang sẵn để lập nghiệp. Nơi đây không xa Hố Nai cho lắm nên có thể lui về thường xuyên. Tôi muốn chắc ăn nên giữ hai em lên chốn rừng sâu lánh nạn, mục đích là để chúng không chết thay cho những người đang hành hạ gia đình tôi. Năm 1981, nhiều thanh niên trong xóm bị đưa sang Kampuchia trở về, đứa thì thương tật, đứa thì què cụt. Nhiều đứa bị mất tích, có đứa trốn sang Thái Lan tị nạn. Những thanh niên khác bị giữ lại tiếp tục làm nghĩa vụ "lao động quốc tế". Lao động cái gì? Họ bị đưa sang chiến trường Kampuchia để làm bia đỡ đạn; rất nhiều người đã chết.

Vùng kinh tế mới trong rừng Tân Uyên không phải là nơi dễ sống. Đất đai chưa khai hoang hoàn toàn nên cỏ cây còn mọc um tùm. Nơi đây có nhiều đồng bào Thượng cư ngụ, chỉ một vài gia đình người Thượng khá giả ở lại giữ đất và làm trung gian trao đổi hàng hóa giữa Kinh và Thượng, số còn lại rút về chốn rừng sâu hơn để canh tác, tránh tiếp xúc với người Việt. Quen sống với những tiện nghi ở chốn thành thị, chúng tôi phải cố gắng lắm mới chống chọi với sương gió, khí độc của rừng sâu. Mỗi lần các em trai tôi vào rừng kiếm củi trở về, mẹ tôi phải ngồi hằng giờ kẹp gắp những mũi gai nhọn đâm vào các ngón chân, chúng can đảm không khóc nhưng nước mắt chảy ra ràn rụa. Những ngày mưa gió thật là buồn thảm, nước mưa dột ướt cả nền nhà bằng đất nện, các thau chậu không đủ để hứng, sự đi lại trong nhà trở nên khó khăn và dơ bẩn. Bữa cơm gia đình thật là thiếu thốn, cả nhà phải ăn độn bo bo với khoai lang, lát sắn khô, bắp mọi, rau đắng và muối ớt để dằn bụng. Chất dinh dưỡng duy nhất là cá khô và mắm tôm, họa hoằn lắm các em tôi bẫy được con chim, con nhím hay câu vài con cá nhỏ tăng cường bữa ăn, lâu lâu mới được ăn miếng thịt heo và cá biển. Đường tán là xa xỉ phẩm, lâu lâu mới có dịp nếm một lần. Giếng nước gần nhà khô cạn vào mùa khô, các em trai phải đi gánh nước ở bờ suối cách nhà hơn trăm mét. Nước phải đun kỹ trước khi uống vì sợ mắc các chứng bệnh đường ruột và sốt rét. Đỡ một cái là củi rừng không thiếu nên mẹ tôi sản xuất măng khô hong khói để mỗi tuần tôi mang về Hố Nai bán lại. Măng tre vào mùa mưa mọc rất nhiều nên các em tôi tha hồ cắt về cho mẹ. Cuộc sống cũng tạm ổn định mặc dù còn rất thiếu thốn. Chúng tôi an phận với đời sống ẩn dật này chờ ngày cha tôi trở về.

Với thời gian gia đình tôi thích nghi dần với cuộc sống mới và chia sẻ buồn vui với những người hàng xóm, phần lớn là những gia đình thương binh, tất cả đều dầm mưa dãi nắng phụ giúp gia đình làm việc. Có anh chỉ cụt một tay, có anh mất một khúc chân nhưng ngày ngày chống nạn gieo trồng, chăm sóc thực vật giúp đỡ gia đình. Có anh bị mất cùả hai chân, xe lăn không có, đi lại khó khăn, chỉ biết ngồi ôm tủi nhục nhìn người thân lao động. Con cái họ, những thanh niên thiếu nữ "thành phố" ngày đêm phải cầm xẻng cuốc đất, cầm dao phát cỏ, chặt cây đốn củi, vết chai đá để lại nhiều dấu ấn trên người.

Càng bị bạc đãi bao nhiêu, tinh thần đồng cam cộng khổ phát triển bấy nhiêu. Mọi người vui vẻ chia sẻ với nhau những miếng ăn vật lạ. Nơi đây sự cùng khổ liên kết chúng tôi với nhau. Các em tôi có thêm bạn mới, ngày tháng cũng bớt phần cô liêu. Trường học không có, thầy dạy cũng không, tối đến các em nhỏ đến nhà một anh phế binh, hình như là sĩ quan công binh thì phải, học chữ dưới ánh đèn dầu. Nhà anh chập hẹp, bàn ghế thiếu thốn nên các em nhỏ ngồi dưới đất tập viết, tập làm toán. Tuy vậy không khí rất là đầm ấm, tiếng trẻ thơ tập đọc vang dội cả một góc rừng.

Mẹ tôi cũng quen dần với nếp sống mới, bà có nhiều bà bạn cùng lứa tuổi theo con đi vùng kinh tế mới đến nhà chơi. Bà rất được các bà bạn kính nễ vì có chồng là sĩ quan trung cấp đang đi học tập. Nhiều bà hay tin mẹ tôi sắp đi thăm nuôi chồng đã mang đến muối vừng, khô nai, khô heo rừng thân tặng. Món quà tuy nhỏ nhưng tấm lòng thật lớn. Gia đình tôi cũng vậy, mỗi lần có bà mẹ nào đi thăm con học tập cải tạo cũng mang đến tặng măng khô hong khói và một vài thứ bánh mức khác. Mẹ tôi hay làm bánh khúc nhân chuối để biếu.

Riêng về gia đình tôi, mỗi lần chuẩn bị đi thăm nuôi người cha ở tận miền Bắc, cả nhà đều lo âu. Thăm nuôi ít quá thì sợ ông buồn và uổng công lặn lội đường xa, thăm nuôi nhiều quá thì cả nhà thiếu thốn, thật là nan giải. Đó là chưa kể những thứ lặt vặt khác như bảo các em viết thư, lập danh sách mua đồ, mua vé tàu hỏa, cân và đóng gói.... Mỗi lần như thế tôi phải ở nhà chăm sóc các em, mẹ tôi về Hố Nai mua sắm hàng hóa, đóng gói gọn gàng rồi đón tàu ra miền Bắc.

Em gái thứ tư, XuânTrang, bây giờ đã 16 tuổi được về Hố Nai ở với chị là Xuân Tiên nên nó rất mừng. Được thấy lại cảnh phố phường không gì vui hơn. Cả hai chị em bây giờ đều xinh đẹp, nhiều thanh niên trong xóm thường xuyên đến nhà ngấp nghé. Ghét nhất là những cán bộ xã và đám công an trẻ, cùng là người địa phương với nhau mà bây giờ lại trở mặt, người ta gọi chúng là "thành phần 30". Chúng hay lợi dụng cơ hội mời gọi hai em gái tôi lên đồn hạch sách, dò hỏi tin tức của hai em trai và cha tôi. Mục đích là để chọc ghẹo hơn là tra hỏi, chúng lợi dụng bộ áo công quyền để dọa dân. Chúng tôi rất ghét nhưng đành cam chịu. Những lần mẹ tôi ra Bắc, tôi phải về Hố Nai chờ đợi và cũng nhân dịp giúp hai em gái dọn dẹp nhà cửa, mua sắm thêm đồ đạc cho cả hai nhà.

Từ lâu rồi không còn dịp chăm sóc dung nhan, nhìn lại mình trong gương tôi thấy xấu hổ. Còn đâu là một thiếu nữ từng là hoa khôi của trường Nữ Vương xóm Phát Diệm ngày nào, còn đâu là thiếu phụ duyên dáng trong khu gia binh Xuân Lộc. Gương mặt sạm nắng đen ngòm, hai gò má lồi lõm in đầy vết nhăn khiến tôi già đi, những ngón tay khô cứng đầy vết chai, thân hình gầy còm và giọng nói khô khan. Dạo này tôi la nhiều hơn nói, các em tôi đều phải ngạc nhiên nhưng không dám cãi lại.

Tội nghiệp thân tôi, chồng mất sớm, cha đi học tập, một thân một mình phải cáng đáng cả gánh nặng gia đình. Chúng tôi sống trong cảnh túng quẩn, khổ cực như mọi gia đình khác nhưng ít ra họ còn có người chồng, người cha làm điểm tựa, đằng này chỉ có mình tôi. Mẹ tôi ngày càng già yếu, trí nhớ có phần kém đi, việc gì cũng phải đợi tôi quyết định. Bà luôn sống trong lo âu và sợ hãi, nhất là mỗi khi hàng xóm thuật lại những biện pháp mới đe dọa cuộc sống. Từ lâu rồi bà cũng không còn chăm sóc dung nhan, bà thường mặc những bộ quần áo cũ, chắp vá nhiều nơi đôi khi khiến tôi phải lên tiếng phản đối. Chiếc xe đạp cũ kỹ có lẽ là phương tiện duy nhất của gia đình, các em tôi thay phiên nhau đạp từ vùng kinh tế mới về nhà và ngược lại. Chiếc xe ọp ẹp phải chở nào là củi rừng, măng khô về lại nhà cũ và chở hàng hóa từ nhà cũ về vùng kinh tế mới. Mỗi lần xe bị đứt sên hay bị xì lốp là rất tốn tiền.

Mỗi lần mẹ tôi trở về từ miền Bắc, tôi đưa cả gia đình về Hố Nai chờ đón. Thường phải mất một tuần cả đi và về, nhanh nhất là năm ngày. Ngày hội tụ thật là hạnh phúc, cả nhà được dịp ăn cơm trắng có thịt cá và rau muống xào. Mẹ tôi trông già hẳn đi, nét mặt mệt mỏi nhưng khi về lại nhà nhìn đàn con đông đủ mặt bà cũng tươi lại. Trong bữa cơm bà kể lại đoạn đường đã đi và trại cải tạo nơi cha tôi bị giam giữ. Lúc này ông đã được đưa về trại Ba Sao ở Hà Nam Ninh nên việc thăm nuôi có phần dễ dàng. Có lần ông được đưa vào nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội, để "tra khảo", sau đó bị đưa lên Thái Nguyên rồi trở về Hà Nam Ninh. Tóc ông bạc phơ, thân hình gầy ốm, bệnh thấp khớp hành hạ thường xuyên, có điều tinh thần ông rất vững. Ngày trở về không xa vì đã có nhiều người cùng cấp bậc với ông trong quân đội được th%ả về. Ngành cảnh sát phải ở lâu hơn những người khác vì bị liệt vào hạng "nợ máu", dù là cảnh sát tuần lưu.

Từ khi cha tôi được về trại Ba Sao, mẹ tôi thường về thăm quê cũ, huyện Phát Diệm nơi bà đã sinh ra. Bà con gần không còn bao nhiêu vì phần lớn đã lên tàu vào Nam năm 1954 nên chỉ còn lại bà con xa. Cảnh vật tại đây không khác gì trước năm 1954, có điều tan tác và nghèo khó hơn. Dân chúng vẫn lam lũ như ngày nào, các nhà thờ đều hoen ố, nhà cửa mục nát. Gia đình nào cũng than van đời sống khó khăn và bị nhà nước ngược đãi. Một vài cha cố, tuổi đã già, cũng phải đi làm ruộng như bao người khác. Lễ lạc chỉ được tổ chức một lần mỗi sáng chủ nhật, việc học giáo lý bị cấm, các hội đoàn công giáo không được hoạt động. Tuy vậy dân chúng vẫn sinh hoạt chui với nhau, cán bộ nhà nước có biết nhưng cũng làm ngơ miễn các sinh hoạt này không mang tính chính trị. Nhiều gia đình đã vào Nam tìm người quen rồi định cư luôn, mặc dù vậy dân cư vẫn đông đúc vì số người được sinh ra nhanh hơn số người đã chết hoặc đã ra đi.

Tôi nghe một cách hững hờ về vùng quê mẹ, đầu óc lúc này chỉ nghĩ đến những khó khăn trong cuộc sống, ngược lại mẹ tôi thì ứa nước mắt mỗi khi nhắc lại quê cũ. Thật vậy, bà yêu quê hương vì yêu kỷ niệm thời ấu thơ. Cũng như tôi yêu xóm đạo Hố Nai này vì thương nhớ kỷ niệm ấu thơ, cho dù hiện nay tôi có bị khổ sở hay hành hạ, tình yêu tôi dành cho nó vẫn dạt dào như lần đầu tiên được rước mình thánh Chúa. Tình yêu quê hương giống như tình mẹ yêu con, dù con mình có hung hăn hay tàn tật tình thương của mẹ không hề thay đổi, mẹ chỉ buồn khi đứa con bạc tình bạc nghĩa và bất hiếu.

Cho đến năm 1982, cuộc sống của gia đình tôi tiếp diễn như vừa kể. Nhưng lần này tôi quyết định bán miếng đất trên Tân Uyên dẫn cả gia đình về lại Hố Nai và sang một vuông bán vải ngoài chợ làm kế sinh nhai. Cuộc sống trong rừng núi chỉ là tạm thời để hai em trai tôi lánh nạn. Bây giờ mọi việc đã yên, cán bộ nhà nước và công an khu vực chịu ăn hối lộ nên việc gì cũng dễ dàng, cứ đút lót tiền là xong. Chúng tôi chạy tiền để có lại hộ khẩu. Lần này các em tôi đều đã khôn lớn nên tôi cũng nhẹ gánh gia đình. Xuân Tiên sắp sửa lập gia đình với một thanh niên cùng xóm, Xuân Trang đang có bồ. Bình bây giờ to con hẳn, đẹp trai, tướng tá phương phi như cha, bắt đầu vắng nhà nhiều hơn, có khi tối khuya mới về. Còn Khánh thì ghi tên đi học lại, nó vừa đi làm vừa học thêm ở Sài Gòn nên thỉnh thoảng mới về nhà thăm mẹ và gia đình. Các em sau này đều đã lớn, đứa em trai nhỏ nhất cũng đã 15 tuổi, biết phụ giúp chúng tôi làm việc nhà.

Lúc này tôi cũng già đi nhiều, mới 31 tuổi mà nhiều người tưởng đã 40. Kể cũng buồn nhưng không sao, gia đình tôi vẫn còn đầy đủ, không ai bị thương tật hay mắc bệnh hiểm nghèo là tôi mừng rồi. Mẹ tôi dạo này già yếu hẳn đi nên phải ở nhà, ba đứa con gái lớn trong nhà thay phiên nhau ra chợ buôn bán. Lúc này kinh tế có phần cởi mở nên việc mua bán ở chợ dễ thở hơn. Tôi sang được một căn sạp ở chợ Thống Nhất để các em thay phiên nhau ra chợ đứng bán ở quầy vải và áo quần may sẵn, tôi chỉ vào Bình Tây và chợ An Đông mua sỉ mang về cho các em bán lẻ. Thỉnh thoảng tôi dẫn Xuân Tiên hay Xuân Trang đi theo để làm quen với bạn hàng phòng hờ những lúc phải thay thế tôi. Những người bán sỉ ở hai chợ này đều là người gốc Hoa, họ dành mọi dễ dãi cho khách hàng quen, nhiều lúc không biết tôi ở nơi đâu họ cũng cho mua chịu với số lượng nhỏ, nhưng tôi luôn tìm cách thanh toán nhanh nhất để không mắc nợ. Việc nhà giải quyết tạm xong, tôi có ý định về Miền Tây buôn chuyến.

Nghe nói ở miền Tây lúa gạo và cá mắm nhiều, việc ngăn sông cấm chợ cũng đã giảm, tôi muốn về quan sát tình hình và nhân dịp thăm lại mẹ chồng ở Vĩnh Long, vì gần bảy năm qua tôi chưa gặp lại bà, không biết bây giờ bà ra sao. Hơn nữa những anh em phế binh mà tôi có dịp quen biết ở vùng kinh tế mới Tân Uyên về chợ Thống Nhất gặp tôi nhờ giúp đỡ, họ nói lúc này đi buôn củi không còn lời nữa vì có quá nhiều trạm kiểm soát. Đi buôn cá khô về Sài Gòn cũng khó ăn nên họ có ý định buôn gạo từ Hố Nai về Phan Thiết. Gạo là hàng hóa ít bị hư nên có bị kẹt cũng không hư hỏng, vả lại nếu có kẹt thì bán ở đâu cũng được. Tôi rất muốn giúp những anh em này vì lúc còn ở kinh tế mới, mặc dù thân thể tàn tật họ luôn luôn tận tình giúp đỡ gia đình chúng tôi. Thêm vào đó Khánh, em trai thứ nhì của tôi, cũng muốn đi theo những anh em này đi buôn chuyến nên tôi cấp cho ít vốn làm ăn. Sắp xếp xong việc nhà, tôi chuẩn bị đi về miền Tây.

Trên chuyến xe đi về Vĩnh Long, đi qua những cánh đồng ruộng lúa chín vàng chẳng khác gì một thảm lụa xanh biếc kéo dài suốt tận chân trời, tôi thấy miền Nam thật đẹp. Mặc dù là một người miền Bắc, tôi là dân di cư nên không nhớ gì quê hương miền Bắc. Đối với tôi quê hương là miền Nam, miền đất của tự do và hạnh phúc nay đã mất. Cảnh vật miền Nam thật dịu hiền, khác hẳn với khu Hố Nai tôi đang ở mặc dù cũng có những thửa ruộng bông lúa chín vàng nhưng không đẹp bằng nơi đây. Thôn xóm miền Nam được bao bọc bởi những lũy tre xanh cao ngập trời, lẫn lộn giữa những đọt dừa ngã nghiêng theo chiều gió. Lúc này cuộc sống ở thôn quê cũng bớt vất vả, máy móc thay thế dần sức người, ghe xuồng máy chạy tấp nập trên các nhánh sông. Nụ cười nở đầy trên mặt mọi người, lời ăn tiếng nói cũng hiền hòa, ấm áp hơn. Có lẽ do cư trú trên một vùng địa lý kinh tế dễ dàng nên tâm hồn con người trở nên bình dị, phản ánh ra bên ngoài sự thành thật. Tình trạng lúa gạo dồi dào như thế này mà tôi tự hỏi tại sao nhiều nơi dân chúng vẫn thiếu gạo ăn? Có một cái gì không ổn.

Xe vừa đổ bắc Mỹ Thuận, mọi người ùa xuống đi lên phà và đứng tản mác hai bên hông. Sông Tiền Giang nước chảy siết, đẩy những đám lục bình dọc theo mạng phà. Tôi ra đứng ở lan can ở tầng trên nhìn xuống dòng nước, mơ màng nhớ tới lần đầu tiên anh Tân đưa tôi về quê chồng. Tôi chợt mỉm cười nhớ tới giọng nói miền Nam của Tân giải thích công cuộc khai khẩn miền Tây. Gia đình anh Tân là những công bộc thời chúa Nguyễn di cư vào Nam hồi cuối thế kỷ 17, lập nghiệp tại Tiền Giang. Ông tổ của anh theo hầu Nguyễn Hữu Kính năm 1698, có công dẹp loạn tại Gia Định và được cấp đất tại Định Tường canh tác. Theo thời gian gia đình Tân đông thêm, đất đai canh tác không đủ nên đã tản mác đi những nơi khác lập nghiệp. Đến đầu thế kỷ 20, gia đình anh có mặt tại khắp nơi tại đồng bằng sông Cửu Long, tất cả đều sốg bằng nghề nông, chỉ một vài bà con cô bác mở tiệm buôn bán tại các thành phố lớn như Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Long Xuyên và Sài Gòn. Gia đình anh Tân ở trong những số đó. Mẹ anh Tân là người gốc Hoa năm đời nên bà không còn nói được tiếng Hoa, nhưng máu buôn bán của bà rất mạnh. Sở dĩ bà theo Tân lên Xuân Lộc vì anh Tân là con trai duy nhất, cha chồng tôi đã bị quân cộng sản bắn chìm xuồng chết đuối khi chúng đột nhập vào thành phố Vĩnh Long năm 1968, từ đó bà ở luôn với anh Tân với hy vọng sớm có cháu nội bồng bế.

Đang thả hồn theo mây nước và những ngày tháng cũ, một tia sáng gãy khúc xẹt ngang bầu trời kèm theo tiếng nổ kinh hồn làm tôi giật mình. Trời đất bỗng nhiên tối lại, mây đen vần vũ, gió thổi mạnh, tôi thấy lành lạnh. Khác hẳn nơi vùng núi rừng Đồng Nai, mỗi lần trời chuyển cơn giông tôi có đủ thời giừ trốn tránh, nhưng tại đây thì không kịp làm gì cả. Cơn mưa trút xuống ào ào như thác nước, tôi vội lấy chiếc khăn quấng vào cổ đi xuống tầng dưới tiến vào một chỗ đông người đứng cho bớt lạnh. Chiếc phà vẫn bình thản băng sóng tiến về phía bên kia bờ. Thị xã Vĩnh Long loáng thoáng hiện ra trước mặt.

Trong những chỗ đông người như thế này, sợ nhất là bị móc túi. Tôi cẩn thận giữ chặt chiếc túi xách và quan sát chung quanh tìm một chỗ đứng an toàn. Nơi đây ồn ào tiếng người và tiếng máy. Tôi nghe vang vẳng bên tai tiếng đàn ghi ta đệm theo một giọng ca vừa bi thương, vừa hùng tráng. Sao lời bài hát diễn tả đúng tâm trạng của tôi thế này, lâu rồi tôi chưa được dịp nghe lại. Lúc trước tôi rất ghét nghe những bài hát này vì mỗi lần nghe tôi chỉ biết khóc. Bây giờ nỗi đau đã nguôi nên nghe lại những lời này tôi không khỏi rùn mình hãnh diện vì đó là tâm trạng của tôi.

Lời ca ấm áp, truyền cảm của người hát làm lòng tôi xúc động, lâu rồi không còn ai nhắc đến những người đã hy sinh trong cuộc chiến đã qua. Tôi nhớ anh Tân quay quắc và tiếc nhớ thời son trẻ chưa kịp hưởng hạnh phúc được bao nhiêu.

"Đợi anh về chỉ còn trơ vầng trán đứa bé thơ tấm khăn sô, người quả phụ cầu được sống trong mơ. Tumơrông, Đắctô, Krek, Snoul, trưa Khe Sanh gió mù, đêm Hạ Lào thức sâu... Anh, cũng anh vừa ở lại một mình. Charlie tên vẫn chưa quen người dân thị thành".

Tiếng hát vừa dứt những tràng pháo tay nổ ran một góc bến phà, tiếng người yêu cầu người ca sĩ hát thêm bản nữa vang lên liên tục. Tôi tò mò xen vào đám đông, ghé mắt nhìn vào. Quét mắt nhìn đám người đứng quanh vòng tròn, tôi chẳng thấy ai là ca sĩ cả. Cố gắng chen vào và cúi nhìn vào khoảng trống ở giữa thì thấy một người trung niên, tay cầm đàn ngồi dưới đất. À, thì ra một anh nhạc sĩ lang thang, một phế binh cụt sát hai chân. Anh ca sĩ có khuôn mặt sạm nắng, nét mặt phong sương chứng tỏ cuộc đời của anh đã từng dầm mưa giăng nắng, nhưng đầy phúc hậu. Tóc anh đã điểm bạc. Anh mặc chiếc áo kaki màu xanh lá rừng nhầu nát với nhiều mảnh vá vụng về và chiếc quần tây mà hai ống quần đã được cột thắt lại xếp gọn trong lòng. Anh cúi đầu vuốt ve cây đàn gỗ cũ kỹ bóng láng mồ hôi, rồi ngước mắt nhìn từng thính giả đứng chung quanh. Anh từ từ lết trên hai mảnh vỏ xe đã mòn láng đáy để lộ cả lớp bố, đi một vòng chìa chiếc lon đựng tiền. Những người đứng nghe đặt tiền vào lon với vẻ quí mến, đa số là thanh niên đứng tuổi, có một vài em bé được cha mẹ báo cầm tiền tới cho.

Tinh thần đùm bọc thật là cảm động. Nhìn những người cho tiền, tôi có cảm tưởng họ là những người đã từng liên quan đến cuộc chiến đã qua. Có thể họ là những binh lính cũ đã trở về đời sống dân sự, đang làm ăn, cũng có thể họ là anh em, con cháu những người lính chiến cũ. Tất cả chia sẻ với nhau nỗi đau của người thất trận trên chiếc phà này. Tôi ở trong đám người đó, lặng lẽ nhìn anh phế binh rồi bỏ tiền vào lon. Tôi muốn nói với anh vài lời khen thưởng nhưng cổ họng nghẹn lại. Theo lời yêu cầu dồn dập của khách thập phương, anh phế binh chuẩn bị hát thêm một bài khác. Có lẽ anh là người nghệ sĩ được ngưỡng mộ nhất trên chiếc phà ngày hôm nay. Uống một ngụm nước, sửa lại dây đàn, anh cầm phiếm dạo nhạc và hát:

"Anh không chết đâu em... Anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương. Tôi vẫn thấy đêm đêm một bông dù sáng trên đồi máu... Và tiếng súng, tiếng súng thay nhạc chiêu hồn đưa anh đi... anh đi. Anh không chết đâu em. Anh chỉ về với mẹ mong con. Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương ngươi lính. Anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua... Trên khăn tang cô phụ còn...".

Những lời ca não nuột khiến lòng tôi tê tái. Không ai bảo ai, mọi người cùng im lặng và bùi ngùi thương tiếc cho thân phận của anh phế binh, thương tiếc cho quê hương đã mất đi biết bao nhiêu người anh hùng mũ đỏ... tên Đương, những phi công oanh dũng, những chiến sĩ thuộc các binh chủng đã ngã gục hy sinh cho tổ quốc, để lại những góa phụ với vành khăn sô, những trẻ thơ mồ côi cha. Bài hát vừa chấm dứt, tiếng vổ tay, huýt sáo miệng vang rền. Hứng chí, anh phế binh run tay dạo sang bản khác.

"Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về. Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime, hay Dắctô, Đồng Xoài, Bình Giả... Anh trở về có thể bằng một chiếc vòng hoa, chiếc khăn tang ngăn dòng lệ ướt, em ơi... Đây kỷ vật viên đạn đồng đen, em sang sông cho làm kỷ niệm. Anh trở về, người đã bị thương... Anh trở về trên đôi nạn gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân... Em một chiều dạo phố mùa xuân bên người yêu tật nguyền chai đá...".

Tiếng ca vừa dứt, tiếng pháo tay lại thi nhau nổ rang. Mặt anh phế binh lộ vẻ vui mừng vì chia sẻ được những ẩn khúc chất chừa từ lâu trong lòng anh và trong lòng mọi người. Lần này người ta tự động lấy tiền tặng anh. Chiếc lon guigoz méo mó tràn đầy bạc lẻ. Anh phế binh gật đầu lia lịa, nghẹn ngào cất tiếng cảm ơn. Đám người tự giải tán vì phà đã cập bến, tất cả lật đật tuôn chạy lên phà, bỏ lại sau lưng anh phế binh lúc này cũng đang mắc cây đàn và chiếc lon guigoz vào người chuẩn bị xuống phà. Giây phút tình cờ gặp nhau trên chiếc phà đến đây chấm dứt, cuộc sống chụp giật lại bắt đầu. Anh phế binh ngước mắt nhìn trời. Trời tiếp tục mưa, gió lạnh từ xa cùng mây đen ồ ạt kéo tới, mưa mỗi lúc thêm nặng hạt.

Anh phế binh lướt mình trên hai lốp xe theo dòng người xuống bến. Tôi xót xa nhìn anh ướt sũng nước mưa trường người đi trong mưa gió. Đời người sống như gió thoảng mây trôi. Tội nghiệp những phế binh không cửa không nhà, sống kiếp lang thang không bờ không bến. Tôi giựt mình lo sợ cho chính mình, ai sẽ lo cho tôi trong những ngày tháng tới? Cuộc đời này thật là bạc bẽo, chưa hưởng bao nhiêu hạnh phúc đã vội khổ đau, không còn gì để mơ tưởng, tâm hồn tôi cằn cỗi, trái tim chai lạnh. Hình ảnh anh phế binh làm tôi trở về những kỷ niệm cũ, quá khứ êm đềm đó quá ngắn ngủi để giờ đây đối diện với nỗi lo thường trực là cơm áo. Tôi buồn cho thân phận, tôi mong có những tia sáng chiếu rọi vào con tim, tôi cũng khát khao có một cuộc sống bình thường trong một nước Việt Nam tự do dân chủ, trong đó mọi người có quyền chọn cuộc sống mà mình mong muốn.

KHương
Posts: 152
Joined: Sun Mar 20, 2005 2:44 am

Post by KHương »

Gặp lại mẹ chồng, tôi vô cùng vui sướng. Bà già yếu hẳn đi nhưng nét mặt thanh bình. Bà buồn vì mất con trai nhưng với đàn cháu ngoại năm đứa nên cũng nguôi ngoa phần nào. Nhưng bà rất ngạc nhiên khi thấy tôi vẫn ở vậy với gia đình, bà nói phần lớn phụ nữ hoàn cảnh như tôi đều đã tái giá. Tôi chỉ cười giã lã cho qua chuyện, tái giá gì nữa khi gánh gia đình còn nặng trên vai? Chồng chị dâu tôi nói nếu cần anh tìm người cho, tôi từ chối. Mặc dù vậy anh sốt sắn dẫn tôi đi dạo khắp thành phố Vĩnh Long.

Cuộc sống ở đồng bằng sông Cửu Long thật bình dị. Đời sống tuy có khó khăn nhưng không ai để lộ ra ngoài, nơi đây chính quyền địa phương cũng dễ dãi nên thỉnh thoảng chồng chị dâu tôi. Mặc dầu là "ngụy quân ngụy quyền" đi học tập về, đêm đêm chồng chị dâu thường đi uống rượu với công an phường khóm. Nơi tôi ở, công an phường khóm luôn luôn rình mò làm khó dễ bà con. Người miền Nam có khác, lúc chiến tranh thì thù địch nhau, hết chiến tranh thì cùng nhau đi ăn nhậu. Ở đây lâu lâu mới có một vài tên "cường hào ác bá" hà hiếp dân lành nhưng chúng cũng sớm bị loại vì bà con lối xóm tố cáo ăn hối lộ và tham nhũng.

Tôi thuật lại cho gia đình bên chồng ý định buôn gạo của tôi, mọi người đều vui vẻ chỉ dẫn. Gạo miền Tây có đủ loại. Chưa bao giờ tôi thấy những hạt gạo vừa thơm vừa trắng tinh đến như vậy. Mãi mê những hạt gạo tốt, tôi mua mỗi thứ một tạ đem về bán thử. Chuyến buôn gạo này không được như ý vì lần đầu tiên mua bán gạo tôi chưa có kinh nghiệm nên bị lỗ vốn. Gạo trắng thơm dễ bán ở Sài Gòn nhưng không bán được ở Hố Nai. Không phải dân chúng không biết ăn gạo ngon nhưng vì nghèo quá nên không dám mua. Giá mười lít (mỗi lít bằng 1/2 ký) gạo trắng thơm bằng giá mười sáu lít gạo thường. Ngâm hàng lâu quá tôi gần như phải bán huề vốn và lỗ tiền xe, các anh phế binh cũng không dám nhận mang gạo đi Phan Thiết vì ở đây dân chúng còn nghèo hơn. Dân thành thị dám ăn gạo ngon nhưng dân thôn quê chỉ ăn gạo thường, đôi khi ăn cả gạo mục.

Nhờ có gia đình bên chồng ở Vĩnh Long, tôi vào Chợ Lớn mua hàng vải và đồ nhựa mang về bán và mua gạo trắng thường bán lại ở Hố Nai và Phan Thiết. Công việc mua bán cũng tiến bộ dần, tiền lời đủ ăn uống và còn dư để sắm sửa thêm trong nhà. Các em gái tôi cũng tự đảm đương việc mua bán ở chợ Thống Nhất và mỗi đứa đều để dành một chút vốn riêng. Những đứa con trai thì cũng chạy manh chạy mối kiếm đủ ăn qua ngày, chúng không nghiện ngập rượu chè và ma túy là tôi mừng rồi. Đứa em út học hành rất khá.

Vào cuối năm 1986 cha tôi được thả về. Ông rất mừng vì thấy gia đình còn đông đủ nhưng một thời gian ngắn sau ông tỏ ra chán đời và chỉ đi lang thang nhìn cảnh vật suốt ngày. Ông ít nói nhưng quan sát rất kỹ mọi sinh hoạt chung quanh. Ông quá chán ngán lòng người thay trắng đổi đen, nhất là khi ở trong tù, có nhiều công chức và quân nhân cũ thiếu bản lãnh làm nhiều người rất buồn phiền. Để thay đổi không khí buồn tẻ trong nhà, tôi mang cha mẹ về Vĩnh Long ở chơi với gia đình bên chồng một tháng, nhờ vậy cha tôi mới tìm lại niềm sống bình thường. Cha tôi muốn ở luôn tại Vĩnh Long vì đời sống ở đây dễ chịu, tôi phải bán một số vật dụng trong nhà để mua một căn nhà nhỏ gần chợ Vĩnh Long cho gia đình buôn bán. Một thời gian sau mẹ tôi cũng về hẳn nơi đây cùng với hai đứa em út. Tôi thì đi đi về về hai nơi, tuy có cực nhọc nhưng tâm thần cũng được bình yên.

Mọi người bàn với tôi về chuyện gia đạo, kể cả mẹ chồng, nhưng tôi chỉ biết lắc đầu. Qua lại thường xuyên bến phà Mỹ Thuận, tôi có dịp nói chuyện với anh Trần Văn Xích, tên người "phế binh ca sĩ" với giọng ca vừa bi thương vừa hùng tráng. Anh Xích cho biết anh là lính thủy quân lục chiến, bị cụt hai chân trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Đạn pháo của địch quân rơi trúng chỗ tiểu đội anh đang nằm. Các đồng đội anh đều chết, riêng anh thì bị thương nặng và bị cưa hai chân. Trước kia anh ở làng phế binh Định Tường, sau bị đuổi ra khỏi làng anh phải lang thang hát dạo kiếm tiền. Anh cùng ba người bạn lập thành ban tam ca, có một anh qua đời vì bệnh nặng, người bạn kia bỏ về Nha Trang mất tích, chỉ còn mỗi mình anh trên bến phà Mỹ Thuận. Thương cảm hoàn cảnh anh Xích, mỗi lần qua đò, tôi mời anh ăn cơm ở một quán bên đường và cho anh ít tiền. Điều làm tôi ngạc nhiên là anh Xích không những không nhận tiền mà còn trách móc tôi khi dễ anh. Tôi phải giải thích dài dòng, kể lại cuộc đời của tôi, góa phụ năm 24 tuổi, một mình gánh vác cả gia đình sau 1975 nay đi buôn gạo anh mới thông cảm. Từ đó Xích và tôi trở thành đôi bạn thân tình, nhưng tình cảm của chúng tôi dừng lại ở đó.

Hình ảnh hào hùng chàng "nhạc sĩ lang thang" làm tôi nhớ lại anh Tân. Vào lứa tuổi 25 anh Tân cũng hào hùng không kém, anh đã chinh phục trái tim của tôi khi đơn vị của anh về đóng quân tại quận Trảng Bom. Năm 1973 tôi đi trong phái đoàn nữ sinh Biên Hòa ủy lạo chiến sĩ Sư Đoàn 18 bộ binh. Thiếu úy Phạm Văn Tân trong bộ quân phục chỉnh tề hướng dẫn phái đoàn đi thăm các thương bệnh binh nằm trong bệnh viện dã chiến của sư đoàn. Vào lúc giữa trưa, sau khi trình diễn xong phần văn nghệ, anh Tân mang đến cho tôi một lon nước ngọt và mời tôi ăn cơm. Bữa ăn hôm ấy toàn là đồ hộp và cơm sấy nhưng thật là ngon. Từ đó tôi yêu anh Tân và chúng tôi đã cưới nhau theo nghi lễ công giáo mặc dù gia đình anh Tân theo đạo Phật. Chúng tôi sống trong hạnh phúc. Chưa được tám tháng anh đã lìa đời.

Không hiểu sao sống trong một đất nước bạc bẽo như vậy mà lòng yêu nước của tôi vẫn còn nồng nàn đến thế. Tổ quốc này có bù đắp cho tôi cái gì đâu mà tôi phải yêu quí nó? Tôi chưa có dịp làm quen với những người giàu có nên không hiểu tâm tư của họ như thế nào đối với đất nước. Nhưng có một điều tôi chắc chắn là những thành phần giàu có mới, những kẻ chiến thắng đang cầm quyền ngày hôm nay không có lòng yêu nước này. Vì nếu yêu nước và có đầy đủ quyền lực trong tay người ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời nghiệt ngã của những người thua thiệt. Riêng tôi, tôi yêu những mảnh đời đau khổ, yêu những xóm làng xác xơ, thương những con người nghèo khó. Tôi thương miền đất này vì chính tôi đã chôn cất người mà tôi thương yêu nhất và chia sẻ nỗi khổ nhọc của người cùng khốn.

Tại Vĩnh Long, ngay những thương phế binh trẻ từ Kampuchia trở về cũng bị bạc đãi, họ hoặc bị đưa vào sống trong một trại cấm hoặc bị trả về gia đình tự túc tìm kế sinh nhai. Tiền cấp dưỡng của họ mỗi tháng không đáng kể, do đó một số gia nhập vào đời sống cái bang. Phản ứng của những phế binh trẻ từ Kampuchia trở về rất dữ dội, họ không kiêng nễ bất cứ một ai, kể cả công an và bộ đội. Mỗi lần họ gây rối là tập thể các anh em phế binh cũ bị chính quyền cộng sản trả đủa, họ không dám trừng phạt phề binh từ Kampuchia trở về mà hành hạ phế binh miền Nam cũ như cấm đi ăn xin, hát dạo, bán vé số hay bán nhang.

Những cụ phế binh cộng sản thời Pháp thuộc và trong cuộc chiến với miền Nam được chế độ chú ý hơn nhưng so với những gì họ đã gánh chịu và phần thưởng nhận lãnh được thật là tủi nhục. Nhiều cụ già lớn tuổi đứng trước các ty thương binh xã hội lớn tiếng chửi bới "cách mạng" bạc đãi họ. Những người đại diện chế độ là ai, tất cả đều là con cháu họ nhưng không có quyền giải quyết hơn những gì được cấp trên cho phép. Đất nước này phải thay đổi, phải để những người có tài đức hơn ra lãnh đạo xã hội. Lúc đó mới có thể nói là xứng đáng hay không xứng đáng, còn bây giờ chỉ là láo khoét.

Đời quả phụ của tôi đến đây xin tạm chấm dứt.

* * *

Tôi xin kể lại đoạn đời của một quả phụ khác mà tôi hằng kính mến. Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, vợ cố đại úy Trần Văn Công. Bà Tuyết Nhung sinh năm 1944 tại Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Phước Tuy. Năm 18 tuổi (1961), như mọi cô gái quê khác, bà lên xe hoa về nhà chồng. Anh Trần Văn Công là một giáo viên gương mẫu, anh đã kiêm nhiệm nhiều chức vụ như xử lý thường vụ thay thế trưởng Ty Tiểu Học, hiệu trưởng Trường Tiểu Học La Gì. Vợ chồng sống trong hạnh phúc và có sáu mặt con. Cả gia đình đi chùa lễ Phật đều đặn và thường giúp đỡ những người lầm đường lạc bước hay bị túng quẫn. Hai vợ chồng rất là tâm đắc, chồng bảo vợ nghe, con cái đề huề. Thực là một mối tình thơ mộng. Dòng đời cứ êm ả trôi qua những tưởng như được sống mãi trong hạnh phúc, nào ngờ chiến cuộc leo thang, tang thương bao trùm khắp mọi miền đất nước, hàng hàng lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ.

Năm 1968, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ban hành lệnh tổng động viên. Như mọi công dân khác, anh Trần Văn Công lên đường và thụ huấn tại trường huấn luyện sĩ quan Thủ Đức. Sau khi mãn khóa, được gắn cấp bậc chuẩn úy, anh Công được đưa về Sa Đéc phục vụ ở KBC 3013. Đến năm 1973, chiến cuộc lan rộng, ngày nào cũng có giao tranh ác liệt, làng mạc xóm làng điêu tàn, đường sá luôn bị cộng sản ngăn chặn. Mỗi lần đi thăm chồng là một khó khăn.

Trong lần đi thăm chồng hồi đầu tháng 4-1973, xe đò chở bà bị Việt cộng chận lại, họ đuổi mọi hành khách xuống xe và xét hỏi từng người ở bìa Rừng Lá, đoàn xe đậu dài suốt mấy cây số với hàng ngàn hành khách. Có nhiều đàn ông mặc quân phục và thường phục bị bắt trói ngồi ở bên đường. Cũng may là bà Tuyết Nhung nói là đi thăm bà con ở Sài Gòn lúc bị xét hỏi nên không bị làm khó dễ. Sau một hồi thuyết giảng, nào là "tội ác của Mỹ Ngụy", ai có bà con, thân nhân hoặc chồng con đi lính "hãy động viên kêu gọi chồng con trở về với đồng bào dân tộc", nhóm người này lặng lẽ rút vào rừng cùng với những người bị trói. Không ai dám lên xe vì không biết có được phép hay không. Tài xế và lơ xe bảo phải chờ lệnh và không ai dám đi trước.

Thình lình, tiếng đạn cối và đại pháo từ xa bắn tới nổ ầm ầm chung quanh, mọi người hốt hoảng rạp mình xuống hai bên bờ đường tránh đạn. Tiếng khấn vái râm ran hòa lẫn tiếng kêu rên thảm thiết của người bị thương làm bầu không khí trở nên ghê rợn. Con nít khóc ré, tiếng đàn bà gọi con vang khắp một chốn rừng. Đến khi thấy bóng quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiến tới, mọi người mới hoàn hồn. Xe cứu thương từ Long Đất chạy tới chở những người bị thương vào bệnh viện. Hành khách lần lượt lên xe, lòng vẫn còn lo sợ. Thật là hãi hùng. Tội cho những người bị trọng thương, không biết thân nhân họ là ai. Cuối cùng mọi người vội vã vơ vét vài món đồ rơi vãi dưới đất bước lên xe đi tiếp.

Đến Sa Đéc không gặp được chồng, bà Tuyết Nhung hỏi thăm mới biết chồng bà đã đổi về Định Tường được năm hôm rồi, hiện đồn trú ở Sầm Giang (gần Mỹ Tho), một đồn nhỏ hẻo lánh, muốn vào phải có quân xa chạy trước mở đường vì đoạn đường này thường bị gài mìn và phục kích. Người quen cho biết anh Công nhắn bà hãy lo cho anh ấy được về Sài Gòn.

Sáng hôm sau, bà đón xe đò về Sài Gòn. Nhờ quen biết, bà gặp được các thượng cấp của anh ở Nha Động Viên và Bộ Giáo Dục. Thấy bà khóc lóc nài xin, thượng cấp hứa giúp đỡ. Bà yên tâm về lại Xuyên Mộc, đi ngang qua Rừng Lá lòng không khỏi lo âu. Về đến nhà đứa con gái út lâm bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện cứu cấp, nó bị xuất huyết não. Hơn một tháng trời chữa trị, bác sĩ cho con bà xuất viện. Ngày hôm sau bà cùng đứa con gái lớn về Sài Gòn đến Bộ Giáo Dục, cơ quan chủ quản của anh Công, hỏi thăm tin tức. Tối về hai mẹ con về gia đình người em gái tạm trú. Nói chuyện đến giữa khuya, bà nhìn con ngủ say sưa và thuận tay vặn chiếc radio ở đầu bàn nghe tin tức. Tiếng xướng ngôn viên phát ra đều đặn. Chợt có tin đánh lớn ở Mỹ Tho, bà Tuyết Nhung chăm chú nghe.

"Tối hôm 11-5-1973, lúc 2 giờ sáng, một tiểu đoàn Việt cộng tấn công đồn Sầm Giang, một tiền đồn quan trọng của tỉnh Định Tường. Quân trú phòng đã chống trả kịch liệt. Sau hai giờ giao tranh, quân trú phòng đã đẩy lui các đợt tấn công. Địch quân rút lui, bỏ lại bên vòng rào nhiều xác chết, ta tịch thu 2 súng cộng đồng và nhiều vũ khí cá nhân, phía ta hoàn toàn vô sự".

Bà thở phào nhẹ nhỏm, như vậy là anh Công vô sự. Rồi đến phần tin tức khắp nơi, nơi nào quân ta cũng toàn thắng. Sau đó là mục nhắn tin chia buồn. Ủa, có ai nhắn tin gì mà kỳ cục vậy?

"Cán bộ quân dân cán chính tỉnh Định Tường vô cùng thương tiếc cố đại úy Trần Văn Công đã anh dũng hy sinh tại Sầm Giang, Mỹ Tho, ngày 11-5-1973...".

Làm sao có chuyện này được. Chắc họ đọc lầm, bà Tuyết Nhung mặt mày tái xanh. Phe ta vô sự mà. Không, không thể có chuyện này được, bà bàng hoàng ngơ ngác rồi khóc rống lên. Nghe tiếng khóc than vật vã trong phòng, cô em gái chạy vào, ngỡ đứa con gái lớn của bà mắc bệnh. Chừng hỏi ra mới biết, người em gái bùi ngùi lặng im, mọi người xúm lại an ủi bà. Ai đó lại lên tiếng chắc là "họ" đưa tin lầm, bà cũng mong như vậy. Tờ mờ sáng hôm sau, bà gởi đứa con nhờ dì chăm sóc rồi tức tốc đón xe xuống Mỹ Tho, tìm bộ chỉ huy hành quân tỉnh Định Tường hỏi cho ra lẽ.

Trên đường, bà Tuyết Nhung cứ thầm cầu mong mình nghe lầm, nhưng khi đến nơi thì sự thực quá rõ ràng. Chồng bà đã ra đi vĩnh viễn thật rồi. Anh Trần Văn Công đã bị chết trong đợt pháo kích đầu tiên, đồn Sầm Giang đã bị thất thủ, quân địch đã tràn vào đốt phá đồn và mang theo nhiều quân trang và quân dụng. Mãi trưa hôm sau 12-5, quân tiếp viện mới tiến vào đồn đã bỏ trống, thu nhặt xác chết. Gia đình bên chồng cũng hay tin từ Sa Đéc chạy xuống, tất cả chỉ biết ôm nhau khóc lóc. Chồng bà chết đi để lại sáu đứa con, hai trai và bốn gái. Chồng bà được an táng tại nghĩa trang Hòa Long, thị xã Sa Đéc. Nhìn những nấm mộ nằm ngay hàng thẳng lối, nước vôi còn mới, lòng bà se lại. Tang thương này đâu chỉ riêng ai, cả đất nước này đều đau khổ. Nơi đây nằm xuống biết bao chiến sĩ, những người hy sinh cho tổ quốc.

Bà Tuyết Nhung về Xuyên Mộc bán nhà, dẫn con vào Sài Gòn sinh sống. Bà thuê được một căn nhà nhỏ ở xóm Vườn Chuối bán buôn. Từ dó bà tảo tần nuôi con ăn học, sáu đứa con là một gánh nặng. Đứa con đầu mới lên 11 tuổi. Thân cò lặn lội chạy vại nuôi con, biết bao cay đắng. Tưởng đâu được yên phận "thờ chồng, nuôi con", nào ngờ biến cố 30-4-1975 ập đến. Chế độ miền Nam sụp đổ. Bà cùng các trở về quê cũ La Gì, Bình Tuy, che dấu tông tích có chồng có cha là sĩ quan "ngụy". Cứ cách vài đêm một lần, bà Tuyết Nhung cùng bà con lối xóm đi họp, nghe cán bộ cộng sản giảng thuyết về sự "bách chiến bách thắng của đảng cộng sản" ngộp cả lỗ tai. Tuy vậy mỗi tháng bà vẫn đánh hàng về Sài Gòn và Bình Tuy đều đặn.

Thấy sống không nổi, bà tổ chức vượt biên trốn ra nước ngoài cùng với đàn con vì có quen biết một vài chủ ghe đánh bắt hải sản tại Bình Tuy. Chuyến vượt biên lần đầu, chủ ghe quá bộp chộp nên thất bại phải bỏ trốn. Cũng may tông tích của bà chưa bại lộ, nhà cửa vẫn còn nguyên. Chuyến thứ nhì, rút kinh nghiệm lần trước, chủ ghe tổ chức chu đáo hơn. Buổi chiều đám đứa trẻ giả bộ rong chơi trên bờ biển, chờ lúc vắng người mới vội vàng chui xuống thuyền. Trong thuyền thức ăn đã có sẵn, gia đình chủ ghe cho con nít ăn uống, khuyên chúng không được khóc hay gây tiếng động. Vào lúc chạng vạng, từng tốp thanh niên tiến dần tới bến cảng, quan sát không có ai rồi nhảy xuống khoang thuyền. Sắp đến lượt người lớn, nhưng không may tối hôm ấy công an khu vực mời bà con trong tổ dân phố họp đột xuất. Trong cuộc họp, cán bộ công an nói về chuyện vượt biên, khuyên bà con cô bác hãy cảnh giác. Những người có chân trong tổ chức, trong đó có bà Tuyết Nhung, đưa mắt lo âu nhìn nhau, không ai nói ra nhưng đều biết là có triệu chứng bất thường. Buổi họp kéo dài tới 23 giờ đêm mới giải tán. Ra về mọi người trong ban tổ chức quyết định tạm hoãn chuyến đi, ai nấy vội vàng tìm cách đưa con cháu về nhà. Bao nhiêu công sức dành dụm bấy lâu nay tiêu tan theo mây khói. Thế là chuyến vượt biên kỳ hai này không thành.

Từ đó bà Tuyết Nhung lăn xả vào công việc, bà mua bán dành dụm tiền lo cho chuyến vượt biên kế tiếp. Con cái trong nhà cũng phải bỏ học ngồi nhà chờ đợi. Đến cuối năm 1978, bà cùng các con mới có dịp ra đi. Trên thuyền, gia đình bà gồm tám người, gia đình chú Thuận bốn người, gia đình chủ thuyền bảy người, với người anh thứ chín của bà làm tài công, tổng cộng là hai mươi người. Đàn bà, con nít bị nhốt dưới hầm, trên thuyền chỉ có sáu người đàn ông. Thuyền xuất bến trong đêm nên trên bờ không ai hay biết. Đi được hai ngày một đêm, ngỡ rằng đã thoát nạn mọi người thở phào nhẹ nhõm, đám con nít vui mừng lên bong thuyền cười đùa hét vang. Hải phận quốc tế đã kề gần, ai nấy đều cất cao đầu ngóng tìm tàu buôn quốc tế đi ngang với hy vọng được vớt.

Một lần nữa, số phận không may lại đến với gia đình bà. Thuyền đột nhiên chết máy, ba người đàn ông trên thuyền tích cực sửa máy nhưng vẫn không nổ. Sau một đêm hai ngày, con thuyền cứ nhấp nhô trên sóng nước trôi dần vào bờ. Mọi người lo âu khấn vái cho máy nổ trở lại, nhưng không. Máy tàu đã phản bội, nó im lìm không lên tiếng. Tuyệt vọng quá, bà Tuyết Nhung muốn xô các con xuống biển rồi nhảy theo luôn, nhưng không biết nghĩ sao bà đành phó mặc. Thuyền cứ trôi dạt vào đất liền, dãy núi xuất hiện mỗi lúc một rõ. Mọi người thấy từ trong bờ xuất hiện hai chấm trắng, càng lúc càng rõ dần. Đoàn người cầu mong đó là thuyền của ngư dân ra cứu, đàn bà con nít bị đuổi xuống hầm tàu. Ai cũng tháo vàng và lấy tiền ra sẵn sàng đưa cho người cứu để được dẫn vào bờ an toàn. Nhưng hỡi ơi, đó là hai thuyền của công an biên phòng chạy ra bắt, thế là tiêu tan hy vọng. Hai chiếc thuyền công an chạy đảo quanh thuyền vượt biên hai ba vòng, bắn mấy loạt súng thị uy. Thấy thuyền vượt biên không phản ứng, thuyền công an cặp vào hai bên hông. Hai toán công an nhảy lên tàu chỉa súng bắt mọi người trong buồng lái giơ cao hai tay, hỏi ai là chủ thuyền và tài công rồi bắt trói lại.

Tội nghiệp anh chủ thuyền và chú tài công, hai người bị công an tống cho mấy báng súng vào bụng và đầu, máu chảy đầm đìa. Trói xong chúng kêu đàn bà con nít dưới khoang tàu lên bong xếp hàng, trói từng người một, con nít thì được miễn. Công an cột dây thừng vào đầu mũi thuyền vượt biên kéo vào bờ. Chủ thuyền và tài công bị đưa qua thuyền công an, chỉ để lại trên tàu vượt biên hai công an đứng canh chừng đám đàn bà con nít.

Sự hành hạ những người tổ chức vượt biên thật khủng khiếp, tội "phản quốc" là tội nặng nhất trong lúc này. Đàn bà con nít còn đỡ, riêng chú Thuận, anh Chín và chủ thuyền bị công an chấp pháp và cán bộ trại giam đánh đến thừa chết thiếu sống. Ngồi ngoài nghe tiếng huỳnh huỵch, rồi tiếng rên xiết của người bị tra tấn trong phòng chấp pháp vọng ra ai cũng đau lòng. Họ hăm dọa bắn bỏ những người tổ chức, họ muốn biết thêm những ai dính líu đến đường dây để bắt. Tội nghiệp cho anh Chín, chú Thuận và chủ thuyền, vì muốn tìm tự do mà phải chịu bao nỗi trầm kha.

Khi vào bờ, đồng bào hay tin có thuyền vượt biên bị bắt đã kéo ra xem đông đảo, có người tràn vào giữa đám người bị bắt cố ý cản trở sự kiểm soát của cộng sản để ai muốn trốn thì trốn, nhưng đoàn người chỉ toàn là đàn bà, trẻ con. Mấy người đàn ông bị bắt trói ngồi một góc nên không ai nghĩ đến chuyện trốn tránh, tất cả đều chán nản, lo sợ. Mãi suy nghĩ và bàn luận những điều ấy với người trong cuộc, bà Tuyết Nhung cảm thấy được an ủi vì ít ra dân chúng cũng còn tình người. Đối với bà, vượt biên đưa con cái trốn ra nước ngoài không phải là kẻ phản quốc như cán bộ cộng sản gán cho bà.

Tàu bị tịch thu, nhà cửa những người trong cuộc đều bị niêm phong. Sau mấy ngày bị hành hạ tại đồn, họ đưa cả đoàn đi cải tạo ở trại Z30C Bình Tuy. Trong thời gian tập trung cải tạo, bà Tuyết Nhung ôn lại những gì đã trải qua và chuẩn bị những việc sẽ làm trong thời gian tới. Tại sao mình đi mấy chuyến không thành? Tại sao thuyền chết máy? Đó là những câu hỏi thường đặt ra giữa những người cùng chung số phận tại trại giam Bình Tuy này. Được biết ngư dân trên thuyền bị công an biên phòng trưng dụng để ra bắt tàu vượt biên cố ý trùng trình, họ cho thuyền chạy chầm chậm cố ý để thuyền vượt biên chạy thoát nhưng vì chết máy nên mới bị bắt. Sau gần một năm trời cải tạo, lao động nặng nhọc, mẹ con bà được tha về. Nhờ Trời Phật con cái bà vẫn được bình yên.

Về lại nhà cũ thì than ôi, gia đình một cán bộ cộng sản đang ở. Người ta đã tịch thu nhà của bà. Mất nhà mất cửa, mối lái làm ăn cũng không còn, điều kiện sinh sống tại địa phương quá khó, mẹ con bà đi về Sài Gòn tá túc nhà người em gái, sống lây lất qua ngày nhờ sự tiếp trợ của gia đình gần xa. Sau một thời gian ăn nhờ ở đậu, bà đánh liều dẫn sáu đứa con nhỏ vào Long Hải sinh sống. Nhờ người chị thứ hai thương tình thuê giùm bà một căn nhà ở cạnh một ngôi chùa để ở và thường lui tới chăm sóc mấy cháu nhỏ, bà rảnh rang buôn bán. Chân ướt chân ráo, lạ nước lạ cái, cuộc sống rất là gian truân, chỉ được cái là ở địa phương không ai biết bà đã bị bắt vì tội "vượt biên", ngoại trừ những người thân thích. Công việc làm ăn, buôn bán của bà dần dần phục hồi, có phần phát đạt.

Đến giữa năm 1981, anh Chín mãn hạn tù được tha về. Nhờ dò hỏi bà con lối xóm, anh về Sài Gìn rồi ra Long Hải thăm mẹ con bà Tuyết Nhung. Nói sao hết được sự mừng vui trong lúc ấy, bà nhìn anh nghẹn ngào không thốt được nên lời. Anh ở lại với mẹ con bà, phụ giúp mẹ con bà kiếm một căn nhà rộng hơn để ở và tham gia buôn bán. Anh Chín sau mấy chuyến đi không thành cũng rất chán nản, quyết định ở lại. Mộng ra đi nước ngoài của bà Tuyết Nhung cũng không còn, khả năng tiền bạc không cho phép.

Con cái cứ lớn dần theo thời gian. Đứa con gái đầu lòng đã qui y cửa Phật, nếu gia đình có đi chắc nó cũng không đi. Ngày nó xuống tóc đi tu, lúc đó vừa 17 tuổi, bà không cầm được nước mắt. Tâm con đã quyết, bà đành chìu theo. Sau 18 năm trau dồi Phật pháp, con gái bà hiện đang trụ trì tịnh thất Linh Quang, bà con Phật tử đến chùa cầu nguyện rất đông. Dòng đời cứ trôi chảy, các con bà lần lượt cưới vợ, lấy chồng. Tuy không khá giả hơn ai, nhưng được cái chúng rất hiếu hạnh. Biết bà suốt đời hy sinh cho con cái nên chúng đối xử với bà hết mực lễ phép, ít khi làm bà phiền lòng. Những đứa có gia đình ở xa vẫn thường xuyên tới lui, thăm viếng bà, những đứa có gia đình ở gần thường giúp đỡ, săn sóc bà mỗi khi đau yếu.

Giờ đây tâm hồn bà đã yên tịnh. Suốt gần 35 năm lăn lộn với đời, có chồng rồi mất chồng, vượt biên thất bại, ở tù, biết bao đau thương, bao cảnh xé lòng diễn ra trước mắt, bà đều xem là hư ảo, mọi tị hiềm trên đời đều quên. Giờ đây sớm khuya kinh kệ, vui trong tiếng mõ hồi chuông, mong cầu sao cho quốc thái dân an, cảnh bất công không còn nữa để nhân loại chúng sinh cùng nhau toại hưởng. Thỉnh thoảng bà cùng với mấy chị em Phật tử thuê xe đến những đình chùa linh hiển cầu nguyện. Ước vọng cuối cùng của đời bà là các hội đoàn thiện nguyện ở khắp nơi trên thế giới mở lòng từ bi, bác ái và nhân ái, mở rộng vòng tay cứu vớt những nạn nhân đã chịu nhiều thương đau, mất mát trong cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước Việt Nam, và những trẻ em bất hạnh đang sống lang thang khắp đầu đường xó chợ được có nơi nương tựa và có được bàn tay chăm sóc.

* * *

Bà Tuyết Nhung với tôi tuy không cùng tôn giáo nhưng đã chia sẻ với nhau niềm vui chung là lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ những anh em thương phế binh và trẻ mồ côi trong các chùa và nhà thờ. Hai chúng tôi quen nhau tại bắc Mỹ Thuận, qua trung gian anh Xích. Chúng tôi đã ngồi ăn với nhau những bữa ăn đầm ấm tình người. Anh Xích, bà Tuyết Nhung và tôi đã lập danh sách những anh em thương phế binh và trẻ mồ côi cần được cứu giúp gởi ra hải ngoại nhờ bác sĩ Phan Minh Hiển cùng các hội đoàn thiện nguyện giúp đỡ.

Xin gởi đến quí vị ân nhân nơi đây lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi, những người bất hạnh trong cuộc chiến vừa qua và cầu chúc Ơn Trên phù hộ cho gia đình cùng cá nhân quí vị.


Viết lại theo lời thuật của chị Xuân Lan,
một góa phụ hiện cư ngụ tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển



Chương 9: Bạo tàn và nhân nghĩa

Kính dâng hương hồn
người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa
trong cơn đại họa đã chiến đấu đến cùng,
và chết gục trên cầu Rạch Chiếc,
để bảo vệ thành phố Sài Gòn thân yêu.
Và, cũng xin dâng tặng
tất cả những bạn bè đã quen,
hay chưa bao giờ quen,
đã nằm xuống vì đất nước.




Trong đời người, không có gì quý bằng tự do và nhân quyền. Sống mà không có được những điều ấy thì con người cũng như một thể xác vô hồn mà thôi.


Vì bảo vệ lý tưởng tự do và nhân quyền cho miền Nam, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng sáng ngày 30-4-1975. Nhiều anh chết gục ở lùm cây, bụi cỏ bên đường... Thân xác anh đã yên nghỉ dưới lòng đất lạnh, mồ các anh đà trở thành hoang dã trong suốt bao năm qua. Từ nỗi đau mất nước, lá cờ vàng ba sọc đỏ, hồn thiêng sông núi Việt Nam Cộng Hòa, đã biến thành giải khăn tang chung cho quê hương dân tộc Việt Nam. Hơn hai mươi bốn năm qua, cơn đại họa ấy tưởng như đã qua đi trong lòng mọi người nhưng dư âm của những tiếng khóc than và nỗi đau thương thống khổ của dân tộc vẫn còn vang vọng.


Tôi còn nhớ buổi sáng đầu tháng 5 năm ấy, gia đình tôi còn người anh đi lính không quân ở sân bay Tân Sơn Nhứt. Chờ mãi mà không thấy anh về, cha tôi đã khóc và bảo tôi đi vào phi trường để may ra tìm được xác anh mang về chôn cất. Đi dọc theo xa lộ Biên Hòa, tôi để mắt tìm kiếm khắp nơi, mỗi khi nhìn thấy một xác người nằm chết là tôi vội vàng chạy đến coi. Mỗi lần lật xác lên coi là mỗi lần thất sắc. Có người lính trẻ chết nằm ngữa, có người chết úp mặt, có người chết giữa lòng cầu Rạch Chiếc xác nổi lềnh bềnh trên dòng nước cạn, tất cả là lính bộ binh hay địa phương quân. Xa hơn, phía ngã ba Cát Lái, là xác chết của mấy người lính mặc áo hoa dù đã sình trương, bốc mùi khó chịu, ruồi nhặng bu đầy. Vì mãi đi tìm anh, tôi để lại sau lưng hình ảnh những người lính vô danh chết gục hai bên đường. Tôi ứa nước mắt hình dung nỗi mong chờ của thân nhân những người lính đang nằm kia, không biết trong giờ phút lịch sử này có bao nhiêu gia đình đang mong đợi những người con không bao giờ trở lại.


Tôi cứ đi tới. Trong đám cháy đã tàn ở sân bay Tân Sơn Nhứt, tôi vẫn còn ngửi thấy mùi mỡ cháy khét bốc ra từ thi thể đen xì của hai nữ quân nhân. Dân chúng nhớn nhác ngược xuôi đi lại, hoang mang, lo lắng khi nhìn thấy những lá cờ nửa xanh nửa đỏ và một ngôi sao vàng chóe (về sau mới hiểu đó là công cụ xâm lược của quân cộng sản Bắc Việt). Từng đoàn xe Motolova chở đầy bộ đội cộng sản đi vào thành phố Sài Gòn. Tôi thẫn thờ nhìn họ. Cùng là người Việt Nam mà sao cảm giác về họ xa lạ quá, cứ như là một dân tộc nước ngoài nào đó đến xâm lược quê hương tôi. Đau đớn và buồn tủi.


Miền Nam đã bị nhuộm đỏ cả rồi. Chính thể vàng son của Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Một chế độ độc tài đảng trị đè nặng lên đời sống người dân. Xã hội cũ nhào đổ khiến đời sống trở nên xô bồ. Ủy ban quân quản thành phố áp đặt lối sống mới, cách làm việc mới rập theo khuôn mẫu nước Trung Hoa cộng sản. Một chủ nghĩa mới làm đảo lộn nề nếp suy tư cũ.


Trên đường phố người dân thường bắt gặp những biểu ngữ hô hào, những cụm từ ca tụng Đảng và Nhà nước. Hàng ngày, trong những sinh hoạt tiếp cận quần chúng, các cán bộ cộng sản nhồi nhét những khẩu hiệu đó vào đầu óc mọi người. Họ khẳng định đó là "chân lý" duy nhất đem lại hạnh phúc, no ấm cho con người và còn quyết xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tức nhuộm đỏ thêm Việt Nam. Họ đã tìm cách phân tán dân cư, lập nhiều tổ phố nhỏ, đặt công an khu vực đôn đốc, khuyến khích, phê bình và báo cáo lẫn nhau để định xem ai là "người tốt", "có tinh thần cách mạng". Người nào bị tình nghi bất mãn thì bị coi là "kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của giai cấp".


Trong cách sống không còn tình người đó, đất nước dường như mất đi linh hồn. Để tránh không bị "nhân dân" coi là "phản động chống phá cách mạng", là "ngụy", người ta hoặc phải khôn khéo gìn giữ lời ăn tiếng nói, phải tự thích nghi với các đại diện "giai cấp", hoặc phải lặng câm. Nhà cầm quyền còn cho người trá hình trà trộn vào đời sống dân gian, giả bộ lập nhiều "tổ chức chống phá cách mạng" để gài rồi bắt trọn ổ "những phần tử phản cách mạng", do đó không ai dám nói chuyện hay liên lạc gì với nhau nữa. Bởi vì không ai còn tin ai, không ai kể cho nhau những suy tư chân thật trong đời sống. Những người còn chút tiền bạc không thể tiếp tục sống trong bức màn sắt, đã tìm cách vượt biên, thoát ly kiếp sống đày đọa mà chính quyền mới áp đặt trên gia đình họ với hy vọng tìm thấy bên kia bến bờ đại dương tự do và hạnh phúc. Nhiều người không may đã để lại xác thân trong lòng biển cả.


Đời sống trong nước nói chung không còn các thần linh. Trong cuộc tranh giành biểu tượng, đâu đâu các cán bộ cộng sản cũng cho dựng tượng, vẽ hình lãnh tụ Hồ Chí Minh, để dân không còn nhớ gì khác nữa ngoài những điều mà Đảng tuyên truyền. Bức Tượng Thương Tiếc, linh hồn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, ở Nghĩa Trang Quân Đội Thủ Đức đã bị kéo ngã, mồ mả của chiến sĩ bị đào bới, san bằng để rồi ít lâu sau nhà cầm quyền cộng sản cho xây dựng một nghĩa trang liệt sĩ màu mè và khang trang hơn ở phía đối diện, bên kia bờ xa lộ. Những ngôi chùa tuyên úy của quân đội bị tịch thu và biến thành khu "văn hóa cách mạng". Tượng Đức Phật A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ Tát bị xe ủi đổ ngả nghiêng, vỡ nát. Những chú tiểu thì bị buộc phải hoàn tục, ngơ ngác đi vào cuộc sống mới. Nhà nước cộng sản đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa của Nha Tuyên Úy Tin Lành trong khu gia binh gần Trường Bộ Binh Thủ Đức thành kho chứa lương thực mà vẫn chưa vừa lòng, họ còn cho người leo lên gác chuông đập gãy thánh giá.


Người cộng sản có rất nhiều khả năng vì họ dám làm những điều mà người khác không dám làm. Để đề phòng và uốn nắn dân chúng dễ dàng hơn, nhà nước cộng sản ra lệnh tập trung những sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đưa đi "học tập cải tạo" ở những vùng xa xôi. Trong dân chúng, sự đi lại bị hạn chế, từ xã này qua xã kia phải xin giấy chứng nhận đi lại. Chính sách ngăn sông cấm chợ làm cho lương thực dần dần trở nên khan hiếm, thiếu gạo người ta phải ăn độn bo bo và khoai sắn. Để di dời những người dân cũ ra khỏi thành phố, nhà nước phát động phong trào đi "kinh tế mới", đưa dân vào những vùng sâu hoang dại. Những binh lính, hạ sĩ quan muốn yên thân, không bị dòm ngó, đã đem cả gia đình đi theo, đã lao tác đến kiệt lực vì đói, và chết dần vì dịch bệnh sốt rét và kiết lỵ.


Bánh xe lịch sử quay nhanh quá làm người dân chóng mặt. Những thương phế binh sống sót sau cuộc chiến cảm thấy bơ vơ, không con biết xoay sở làm sao để bảo toàn mạng sống. Chúng tôi có cảm tưởng như những đứa trẻ bị tật nguyền vừa mới sinh ra đã mồ côi cha mẹ. Những phế binh Việt Nam Công Hòa, đã hy sinh một phần thân thể bảo vệ quê hương, chỉ biết im lặng chịu đựng trong cuộc sống mới, hoàn cảnh sinh nhai cực kỳ khốn khó. Là những chiến binh được huấn luyện để đối phó với quân thù, chiến thắng hoặc hy sinh, nay phải cúi đầu trước đám thanh niên xấc láo và hổn xược.


Mỗi khi nhớ lại tiếng nói của "chuẩn tướng" tham mưu phó Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng quân địch, chúng tôi không khỏi kinh hoàng. Nhiều lúc bạch biện để tìm chiếc phao hy vọng, người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi cho đó là một kế dụng binh đánh lạc hướng quân địch để tập trung lực lượng tái phản công chứ không ngờ cấp "chỉ huy" của chúng tôi làm công tác địch vận cho quân cộng sản tiến chiếm thủ đô Sài Gòn. Giờ đây, các cấp chỉ huy của chúng tôi một số hợp tác với quân thù, một số bỏ đi nước ngoài, những người còn lại phải đi "học tập cải tạo" và tập thể anh em phế binh chúng tôi bị bị kết tội là phế binh "ngụy" làm bẩn thành phố.


Ở những vùng xa đô thành Sài Gòn, những người cộng sản không nễ nang gì nữa. Họ ra lệnh tịch thu những căn nhà cứu tế của phế binh do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp. Ơ? làng Mỹ Thới, anh em phế binh phải đi ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Vì không còn nơi nương tựa, nhiều người đã bỏ miền Tây lên Sài Gòn sống lang thang trên các đường phố, đêm ngủ ở các sân ga, bến xe, sạp chợ và những nghĩa địa bỏ hoang...


Anh em chúng tôi đã gặp nhau, hỏi thăm và thông cảm lẫn nhau. Chúng tôi họp nhau thành những nhóm nhỏ và hàng ngày đến các đình chùa để lãnh nhang đi bán dạo khắp các phố phường. Chúng tôi đã gõ cửa từng nhà, thậm chí từng tâm hồn, để bày tỏ nỗi niềm, hoàn cảnh... Cũng may là chúng tôi đã gặp được nhiều người vẫn còn nặng lòng với quê hương, đã ân cần giúp đỡ chúng tôi và khuyên chúng tôi nên vững lòng chờ một ngày mai tươi sáng. Ngày mai đó chưa đến, nhiều anh phế binh bị tàn phế nặng, gia cảnh lại nghèo không đi bán nhang nổi, đã phải đi ăn xin. Chúng tôi cố kéo dài đời sống để chờ đợi, vốn liếng và sức sống vơi cạn dần theo năm tháng, ý chí phản kháng, chút hào khí còn lại của một chiến binh, bị cạn kiệt dần.


Trí óc chúng tôi trở nên chậm chạp vì hoàn cảnh khắc nghiệt của cơm áo dày vò. Cảm giác về cái đói lúc nào cũng canh cánh bên lòng. Chúng tôi thụ động trước hệ thống tuyên truyền trên các loa đài và báo chí cộng sản và không hy vọng gì ở các đài phát thanh Việt ngữ từ hải ngoại vọng về. Chúng tôi buôn "thỏng tay" đi vào cuộc sống như những xác không hồn, tự do và nhân quyền không có trong xã hội này. Sự lải nhải đến độ nhàm chán của các khẩu hiệu cộng sản cứ lặp đi lặp lại hoài, hết năm này qua tháng nọ, làm cho đầu óc chúng tôi mệt mỏi . Chúng tôi nhục nhã, bất lực chìm trong cuộc sống không có ngày mai. Con người trở nên đểu cán, sẵn sàng lừa dối nhau vì sợ đói, những bi kịch về sự phản bội xảy ra hàng ngày trong cuộc sống.


Hoàng Thụy là một phế binh cụt một chân ở Long Khánh, vợ anh còn chút nhan sắc đi mua bán than lậu. Trong một chuyến đi buôn vợ anh Hoàng Thụy bị bắt, vì muốn cứu lấy số hàng ấy nên chị đã chiều là làm... "vừa lòng" người cán bộ kiểm lâm. Sau đó cuộc sống vợ chồng hai anh chị trở nên khó thở, cuối cùng rồi hai người bỏ nhau. Chị đã dẫn đứa con gái nhỏ đi theo người cán bộ, còn anh Thụy thì lên Sài Gòn đi bán nhang dạo, hy vọng gầy dựng được ít vốn liếng về quê làm lại cuộc đời. Nhưng sau một thời gian lăn lóc, Hoàng Thụy tiêu dần số vốn, việc mua bán cũng tàn lụi theo thời gian. Anh gặp anh Nguyễn Văn Sơn, một phế binh cụt hai chân, hai người hợp nhau lại thành cặp "ca sĩ" bất đắc dĩ trên các hè phố.


Có lẽ đời sống hai anh sẽ khá hơn nếu như thành phố không có những "chiến dịch thu gom người già và tàn tật". Vào thời điểm Ba Nhiệm làm trưởng ban "truy quét tệ nạn xã hội" của thành phố, các anh em phế binh sống những ngày thật là kinh hoàng. Chỉ cần nghe hai tiếng Ba Nhiệm là tay chân anh em đã... rụng rời. Trong dịp mừng ngày "chiến thắng 30-4", nhà nào cũng treo cờ, đường phố giăng đầy những biểu ngữ hô hào những điều tốt đẹp, hai anh đã bị bắt khi đang hát: "Mặt trời mọc ở hướng Đông, nhưng ở đây, quê hương tôi, hướng Tây mặt trời vẫn mọc..." ("Mặt trời mọc ở hướng Tây", lời và nhạc của cố nhạc sĩ Nguyễn Trung Can sáng tác khi bị giam ở Khu Fatima, Bình Triệu. Anh bị phạt cách ly với các bạn tù một tháng).


Hai anh bị toán dân quân và công an có nhiệm vụ truy quét trói và quăng lên xe chở về Nhà Nuôi số 3 ở Thị Nghè. Tại đây, anh Sơn và anh Thụy đã tỏ ra bướng bĩnh khi làm "tờ nhận tội" liền bị cho là "ngoan cố", cán bộ chấp pháp đi vòng ra sau lưng co chân đá vào lưng khiến hai anh bị văng xuống nền xi-măng và đạp vào đầu nên cả hai bất tỉnh. Ở Thị Nghè được vài ngày thì hai anh bị đưa đi "lao động cải tạo" ở Nhà Nuôi số 4 Phú Giăng, Sông Bé.


Tuy gọi là "nhà nuôi" nhưng thật ra đó là những nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là "tội phạm" hình sự, do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên; hơn nữa điều kiện giam giữ cũng nghiệt ngã không thua gì những trại giam nổi tiếng khác. "Tội phạm" là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lòng lề đường, sau một thời gian bị tạm giữ ở các "nhà nuôi" trong thành phốtất cả bị phân loại và đưa về các "nhà nuôi" khác rộng rãi hơn để lao động. Khác với các nhà giam, tại đây không ai có quyền khiếu nại là bị giam giữ trái phép hay không có án phạt rõ ràng; thời gian ở nơi đây được coi là để "nuôi dạy" nên có thể ở vô thời hạn, nhiều người đã ở lại vĩnh viễn. Thời gian bị giam giữ tùy thuộc ban quản giáo trại, những hung thần có quyền sinh sát trên số phận tù nhân; sự hiện diện của công an cũng có phần kín đáo hơn vì tất cả đều mặc thường phực nhưng cấp bậc vẫn theo nghạch công an.


Ai đã ở Nhà Nuôi số 4, Phú Giăng Sông Bé thì sẽ nhớ mãi những nỗi kinh hoàng trải qua. Mỗi nhà nuôi có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 mét vuông với khoảng 100 người bị giam trong đó. Tối về mọi người phân chia chỗ nằm và thay phiên nhau ngồi quạt cho nhau. Sáng đến, khi nghe tiếng kẻn điểm danh và lao động, người này lay gọi người kia, ai nằm im không cục cựa nữa thì đem đi... hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo, ai còn sống thì đi lao động.


Tại đây mọi người đều phải làm việc, người mù thì ngồi lặt đậu phọng, người cụt hai chân thì đan rổ, người cụt hai tay ra giếng đạp trục bơm nước cho người cụt một chân hay cụt một tay thì xới đất, tưới cây. Ai cũng có việc làm để sinh lợi cho "nhà nuôi" và các cán bộ quản trại. Thân nhân những người bị giam giữ chỉ được vào thăm nuôi mỗi tháng một lần, quà cáp thăm nuôi bị kiểm soát rất kỹ. Anh em nào được thăm nuôi thường chia sẻ với những người mới bị bắt vào từng cục đường, trái chuối. Nhiều người quá đói ăn luôn cả vỏ chuối và xin luôn cả vỏ chuối của người khác để ăn, có khi còn nhấm nháp cả cùi bẹ chuối.

Ở "nhà nuôi", anh em thường hay chết vì những nguyên nhân "không đáng kể". Ai bị bệnh nặng phải chờ qua hôm sau, có khi qua hôm sau nữa mới được khám và cấp thuốc, nhiều người đã không chờ được "ngày hôm sau" đó. Bệnh tiêu chảy và kiết lỵ đã giết chết nhiều anh em. Những cuộc trả thù báo oán giữa các phe phái trong việc tranh giành chức đàn anh để hưởng một vài quyền lợi cũng đã làm nhiều người thiệt mạng. Khu đất canh tác sau "nhà nuôi" ngày xưa lưa thưa mồ mả, nhưng từ khi có anh em phế binh về đây thì số lượng mồ mả đầy kín cả khu vực. Xác những người bất hạnh được bó sơ sài trong mảnh chiếu tre rồi được chôn cất vội vàng phía sau trại, làm phân bón cho cỏ cây. Nơi đây cây mì, củ lang mọc rất xanh tốt, nuôi sống những người còn lại.


Sự đời cái gì cùng quá thường hay sinh biến, "cùng tắc biến, biến tắc thông". Trong số các anh em phế binh có anh Năm, một phế binh cụt cả hai chân, già nhưng có nhiều kinh nghiệm. Trong lần đi bán nhang xa bị ế không về nhà kịp nên anh phải ngủ "bụi". Xui cho anh là lúc đó đang có chiến dịch, người ta đã xúc anh lên xe và đưa vào "nhà nuôi". Anh nhớ lại một câu nói: "Khi người cộng sản đã nói là thương và giúp đỡ cái gì thì cái đó sẽ mất", và anh không khỏi rùng mình mỗi khi nghe hai tiếng "nhà nuôi" và "cải tạo".


Cùng cực quá hóa liều, anh Năm nghĩ là ở lại đây chỉ có chết thôi nên đã rủ một bạn khác tìm cách trốn trại. Anh nhờ anh Xuyến mù hai mắt cõng trốn. Nhưng chẳng may hai anh đi lạc đường, lọt trúng ổ phục kích của công an trên tuyến đường từ Phú Giáo về Tân Uyên chận bắt dân buôn lậu than. Cả hai anh bị bắt lại và bị trói ngồi vào một góc rừng chờ giải giao về lại Phú Giăng. Trong đêm tối hai anh lén cởi được dây trói trốn được vào rừng, rồi từ đó đi dọc theo tuyến xe về Tân Uyên. Đêm đi ngày nghỉ, hai anh đi suốt đêm và bới trộm khoai ăn. Đi được ba hôm, hai anh quyết định ra lộ đón xe về lại Sài Gòn. Hành khách trên xe hiểu chuyện đã chung góp nhau một số tiền giúp đỡ hai anh mua nhang bán tiếp.


Anh Thụy và những anh em phế binh khác thì không có cơ may như thế nên đã ở lại "nhà nuôi", chịu đói đến xanh da, mỗi bữa chỉ được ăn chưa đầy hai chén cơm và một khoanh củ mì. Mỗi tuần lễ các anh em được ăn mắm ruốc một lần, những ngày thường thì ăn cá khô hay cá ươn, loại dùng để nuôi heo và bón cây. Vì ăn quá mặn và uống nước nhiều có cảm giác no, lâu ngày nhiều anh em mắc các loại bệnh đường ruột.


Tiêu chuẩn được đi vệ sinh của mỗi trại viên mỗi ngày hai lần, muốn đi phải "đăng ký" trước và cho cán bộ rảnh rỗi mới dẫn cả đoàn đi. Nếu anh em nào bị "chột" bụng, mắc bệnh kiết lị, lỡ "ị" ra quần hay xin đi quá "tiêu chuẩn" thì bị phạt roi. Người bị phạt phải nằm xuống chịu cho cán bộ quản giáo quất hai roi vào lưng hay vào đít cho mỗi lần "vi phạm nội qui" của trại. Cho nên anh em rất sợ mắc bệnh kiết lắm, cán bộ phụ trách "hình luật" không nương tay với bất cứ ai.


Kể cũng nhục thật, mặt những thằng nhỏ cán bộ quản giáo đáng tuổi con cháu mà dám cầm roi quất vào thân hình tật nguyền của những người đáng tuổi cha chú nó. Không biết sau khi hành hạ người già yếu và tật nguyền như vậy chúng nó có sung sướng gì hơn không. Nhiều thằng còn văng tục chửi bới những anh em nào né đòn hay kêu đau. Mỗi lần mang ai ra quất, thường là buổi chiều tối, ban quản giáo triệu tập tất cả trại viên lại rồi "thi hành kỷ luật" ngay trước mặt mọi người. Nhiều anh em đau tức quá chửi lại thì bị quất nhiều hơn, có anh nằm luôn tại chỗ, những trại viên khác phải khiêng vào phòng xức dầu cù là và hái lá cây rừng xoa vào vết thương cho chóng lành. Trong lúc hoạn nạn mới biết tình người thật đúng.


Anh Hoàng Thụy, sau một thời gian bị giam giữ đã kiệt sức, mắc bệnh lao nên được thả về. Về lại Sài Gòn, anh gặp lại anh Sơn ở ngoài đời. Anh Sơn vì sức yếu và cụt hai chân không làm gì nên chỉ ở một thời gian ngắn và được thả về trước. Lần này hai anh không còn dám đi ăn xin nữa, thường là nằm nghỉ trong các nghĩa địa chịu trận, "ăn xin" bà con trong "cộng đồng nghĩa địa" cho ăn.


Anh Năm Huệ, một lão tướng trong nghĩa địa, bày cho các anh em cách che mắt những người có nhiệm vụ truy quét tệ nạn xã hội trên các lòng lề đường bằng cáchsắm sẵn vài bó nhang mang theo trong người, lỡ khi bị chận bắt thì chìa ra làm bằng chứng: "...Tụi tui đâu có đi xin, tui đi bán nhang cho nhân dân thờ kính ông bà mà", và anh còn dặn thêm:

- Phải cãi cho đến cùng, đừng hy vọng họ sẽ cảm thông. Nếu cãi không được thì phải tìm cách chạy trốn.

- Thôi, tôi không còn gì nữa - Sơn ngao ngán thở dài. Tôi để thành phố này lại cho cộng sản ở, để họ ăn cơm và thở hít không khí được nhiều hơn. Tôi tìm đường về các miền quê xa.

Nhưng hai anh Thụy và Sơn thì đã thất chí nên không còn nghe gì nữa cả. Năm Huệ cố tìm lời khuyến khích:

- Sao mà bỏ cuộc sớm quá vậy, chúng ta cần phải hiểu cách nghĩ nhìn của người cộng sản, phải "diệu dụng" trí xảo mà kéo dài đời sống chớ!

- Sống để mà làm gì? - Sơn hỏi lơ đãng.

- Để chờ đợi - Năm Huệ trả lời.

- Chờ đợi cái gì! - Hoàng Thụy thở ra, mắt nhìn xa xăm. Chúng ta đã chờ đợi... hơn hai mươi năm rồi, đầu nay đã mọc hai thứ tóc. Cái mà anh em mình chờ đợi có bao giờ đến đâu?

Năm Huệ nhìn họ:

- Thật ra điều chờ đợi và hy vọng của chúng ta là... tình thương, khi tình thương trở lại thì mọi sự sẽ khác thôi.

- Tình thương! Rời rạc quá anh Năm à. Tình thương làm gì có trên đời này? Nói để cho có nói mà thôi.

- Vậy những năm tháng đã qua anh em sống bằng gì? Nếu như không có tình thương thì chúng ta đã chết cả rồi. Có điều là chúng ta cần phải áp dụng câu ngạn ngữ của người Tây hay nói đó: "Mày hãy tự giúp mày đi, trời sẽ giúp lại". Mấy chú còn nhớ không?

- Là sao? - Sơn chẳng hiểu gì cả, mệt mỏi hỏi lại.

- Là... là mình hãy tự cứu mình đi, rồi trời sẽ cứu mình lại.

- Què cụt như chúng mình lo cho mình còn chưa xong thì còn hơi đâu làm được cái gì khác nữa - Thụy ngao ngán nhìn Sơn.

Sau lần nói chuyện đó, Thụy và Sơn không còn tiếp xúc với anh em nữa. Họ thường im lặng, nên anh em chúng tôi cũng không hiểu họ cảm giác ra sao về cuộc sống.

Một buổi chiều kia, hai anh Thụy và Sơn ra bến Bạch Đằng nhảy xuống sông Sài Gòn tự tử. Những người dạo mát ở gần đấy kể lại rằng: "Hai người ấy ngước mắt nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo chỉ tay xuống dòng sông một lúc lâu rồi mới nắm tay nhau nhảy ủm xuống dòng nước đang chảy xiếc...".

Xác hai anh được vớt lên. Cha anh Sơn, một ông già còm cõi đang bán bánh ú và bánh tét quanh chợ Bến Thành, hay tin đến nhìn xác con. Nhưng ông im lặng đứng chung vào với những người hiếu kỳ, ông không dám đứng ra nhận là thân nhân của người xấu số. Ông không có tiền để mai táng con ông. Ông đứng thẩn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc. Những giọt nước mắt từ lâu bị đè nén đã tuôn trào như mưa.

Sau khi hay tin hai anh Sơn - Thụy cùng nhau tự tử, cảm giác bấp bênh về một cuộc sống vô vọng ở ngày mai đè nặng lên tâm trí các anh em phế binh còn đang lang thang khắp thành phố kiếm sống. Hai chữ "tự tử" lờn vờn trong tâm trí của anh em, mỗi người suy nghĩ cách từ bỏ cuộc sống của mình.

Anh Thơm nhìn đứa con nhỏ chết từ từ vì suy dinh dưỡng, anh không có điều kiện để cứu con nên cứ cho rằng đáng lẽ ra nó chưa phải chết nếu được mẹ nó quan tâm đúng mức. Anh buồn quá không đi bán nhang nổi nữa. Anh mệt nhoài nằm nghỉ dưới chân cầu sắt bắc ngang qua sông Sài Gòn gần Ngân Hàng Quốc Gia cũ, nghĩ lại lời bạn bè kể lại thấy vợ anh ra bùng binh chợ Bến Thành "đi khách" để dành tiền cho anh làm vốn đi bán nhang. Anh mở nút hai típ thuốc ngủ trút hết vào miệng. Bị say thuốc, anh ộc mửa đầy cả áo quần, thân hình anh dẫy dụa mấy cái rồi "ngủ" luôn dưới chân cầu.

Lộc què mắc bệnh ho lao thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hòa. Quý "đốc tưa Zivago" không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ già cầm lon ra chợ xin thức ăn nên cũng thắt cổ chết lè cả lưỡi ra. Thanh "Liệt" thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau đâm ra bực mình liền chỉa mũi dao đâm một cái phọt thẳng vào tim. Anh chỉ kịp la lên một tiếng "ỐI" rồi buông dao ôm ngực ngã xuống đất, dãy đành đạch mấy cái rồi chết. Máu chảy ra lai láng, ruồi nhặng bu đầy làm nhiều người không dám đi ngang qua chỗ anh chết.

Anh Xuyến mù thì "tự chết" bằng cách cứ tiếp tục đi xin. Nghe đâu anh đã bị bắt trở lại rồi bị đưa lên "nhà nuôi" ở Núi Bà Đen Tây Ninh. Nhiều người trong trại đó trở về cho biết xác anh Xuyên chết cứng từ hồi nào trong đêm, sáng ra người ta mới phát giác, không biết anh Xuyên chết vì lý do gì.

Những anh em phế binh khác gặp may hơn vì nghe theo lời Năm Huệ cố phấn đấu từng ngày, thậm chí từng bữa, nên tiếp tục sống cho đến ngày hôm nay. Điều mà anh em phế binh chúng tôi chờ đợi từ lâu đã đến, đó là những cộng đồng người Việt tha hương ở khắp nơi trên thế giới đang nghe và hiểu được hoàn cảnh khắc nghiệt của chúng tôi nên đã quyên tiền góp bạc nhờ các hội đoàn thiện nguyện tìm cách gởi về giúp đỡ những người phế binh khốn khổ chúng tôi.

* * *

Cho đến hôm nay những điều suy nghĩ và dự đoán của anh Năm, người phế binh già, đã gần thành tựu vì cộng đồng người Việt hải ngoại sau bao năm xa cách quê nhà còn tưởng nhớ, yêu thương và đùm bọc anh em phế binh trong nước. Cảm ơn lòng tốt của các vị hảo tâm, nhờ sự giúp đỡ của quí ân nhân mà cuộc sống các anh em phế binh trong nước đang được hồi sinh.

Phế binh Trần Ngọc Tiến nhờ mua bán nhang giỏi và gặp hên nên đã cưu mang được anh mình là phế binh Trần Ngọc Tân, cụt một chân, mù một mắt, khỏi phải đi xin. Anh Tân sống được đến ngày nay là nhờ bác sĩ Phan Minh Hiển đã tặng cho chiếc xe lăn có lắc tay làm phương tiện đi lại và được cấp cho một số vốn để đi bán vé số dạo. Hành động của bác sĩ Hiển như là ngọn đuốc thắp sáng cuộc đời đen tối của anh em phế binh chúng tôi trong nước.

Những hành động cụ thể này đã làm những anh em phế binh còn lại phấn khởi hẳn lên. Anh em chuyền tai nhau những tên và địa chỉ của các hội đoàn và ân nhân ở hải ngoại. Niềm tin đang trở lại với chúng tôi, nhiều anh em đã nhận được những sự giúp đỡ một cách tận tình, có người còn nhận được nhiều lần do những hội đoàn khác nhau gởi tới. Khát khao tìm lại cuộc sống có nhân cách trổi dậy. Các anh em giúp nhau viết thơ đến các ân nhân và hội đoàn xin được giúp đỡ và tiếng kêu của chúng tôi đã được nghe.

Ôi không còn gì sung sướng cho bằng! Anh em chúng tôi được... cấp vốn làm ăn nên thôi hành nghề ăn xin. Nhiều người vợ trẻ và con gái của những phế binh già cũng thôi ra "đứng" ở các bùng binh buổi tối mang tiền về nuôi sống gia đình. Con cái anh em phế binh cũng thôi đi bới các đống rác moi tìm các bao ny lông cũ và giấy vụn, các em bây giờ phụ cha mẹ đi bán vé số và bán nhang. Nhân phẩm mỗi người đã được tìm lại.

* * *


Trời Đất dường như đã hiểu và chiều lòng người nên đã có nhiều tấm lòng nhân đạo đáp lời giúp đỡ. Từ cái hộp quẹt hiệu Zippo của vị đại tá Vũ Ngọc Hướng bên Tây Úc (Tổng Hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) được đem ra "đấu giá" để lấy tiền giúp đỡ phế binh cho đến những nghĩa tình ấm áp và những nổ lực không mệt mỏi của anh Lê Quang Vinh (báo Phổ Thông), các ký giả Nguyễn Văn Huy, Trọng Kim (báo Ngày Nay), Yên Mô (Thời Báo), Gàn Bát Sách (Tiền Phong), anh em đã được "ăn" những bữa cơm ấm áp tình người. Chúng tôi chỉ biết rưng rưng nước mắt cảm tạ lòng tốt của quí ân nhân.

Những chiếc xe lăn lắc tay của anh Phan Minh Hiển gửi về giúp những anh em phế binh có mức độ tàn phế nặng đi lại dễ dàng trong cuộc sống. Nhiều hội đoàn và ân nhân cảm mến những hành động nhân đạo của bác sĩ Hiển đã chung tiền góp bạc cho bác sĩ Hiển có điều kiện giúp đỡ anh em phế binh nhiều hơn. Những hành động này càng làm anh em chúng tôi vô cùng cảm kích. Bác sĩ Phan Minh Hiển đã không nề hà vị trí xã hội của mình, đã xăn tay áo bước xuống "vũng lầy" xã hội, chịu "lấm lem" như anh em chúng tôi, vực đỡ chúng tôi đứng dậy. Còn biết bao nhiêu hội đoàn khác nữa như các hội Huynh Đệ Chi Binh, Tổng Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức và Nam Định ở Mỹ đã cùng với các ân nhân cứu sống các anh em phế binh ở quê nhà.

Đã lâu rồi, hơn hai mươi năm qua, cuộc đời sống tăm tối của anh em phế binh trong nước thiếu ánh nắng tình thương đã gần như khô cạn, tâm hồn của chúng tôi chai sạn theo gót giầy của những chủ nhân mới. Không ai trong chúng tôi còn tin rằng trên đời này vẫn còn có tình người, tình yêu tự nhiên giữa người với người. Làm sao tin được khi chung quanh chúng tôi chỉ thấy toàn ức hiếp và bất công đối với những người sa cơ thất thế, tàn tật và bần cùng. Mặc dù quê hương vẫn còn đó, hai tiếng gọi Việt Nam vẫn còn đó, nhưng lòng người đã khác xưa rồi. Không ai dám để lộ tình cảm riêng tư đối với hoàn cảnh chúng tôi, không nói đến những người đứng từ phía chính quyền hất hủi chúng tôi là lẽ tự nhiên mà ngay cả những người đã từng đứng chung với nhau trên một chiến tuyến cũ cũng đã ngoảnh mặt làm ngơ khi chúng tôi lỡ bước đi ngang.

Sống trong những hoàn cảnh như vậy làm sao có thể tin tưởng gì được nữa, chung quanh chúng tôi là những người xa lạ. Tuy cùng nói chung một tiếng nói Việt Nam nhưng không ai "hiểu" được nhau. Từ khi chúng tôi được cộng đồng người Việt hải ngoại giúp đỡ, anh em chúng tôi đã tìm được ánh sáng soi bước đường mình đi, thấy được tình người đúng nghĩa, chúng tôi đã thấy được những người Việt Nam chăn chính, biết thương đồng bào đau khổ trên đất nước này. Nói theo cách nói của nhà báo Nguyễn Văn Huy, người Việt đang gặp lại nhau trong tình anh em tìm lại. Cách nói này thật hay và thật đúng với tâm trạng của anh em chúng tôi. Nó vừa tình cảm, vừa bao dung và tràn đầy lý tưởng. Tuy không biết nhau nhưng vẫn tìm lại nhau để xây dựng một tương lai chung, còn gì lý tưởng cho bằng! Xây dựng một đầt nước trong đó mọi người đều có một chỗ đứng như nhau, sẽ không còn người nào bị phân biệt đối xử vì quá khứ chính trị hay vì lý do tàn phế, chúng tôi chỉ biết chia sẻ và cảm ơn.

Việt Nam! Chúng tôi đã gọi quí vị ân nhân và các hội đoàn là như thế. Chúng tôi đã khóc trong niềm vui hoan lạc. Hy vọng một ngày mai tươi sáng đang trở về trong lòng chúng tôi và cũng từ cõi lòng sầu lắng, chúng tôi thân tặng quí vị ân nhân và các hội đoàn khúc hát tình thương, qua đó chúng tôi như đang được thở hít không khí tự do, trong một nước Việt Nam luôn coi trọng sự sống của con người:


Hoan khúc tình thương
Tình thương khai sinh từ chia sớt
Là tình thương khai nguyên từ con tim.
Tình thương cho ta lòng tha thứ,
Tình thương cho ta lòng hy sinh.
Hãy hát lên với tôi các bạn ơi!
Hoan khúc tình thương
Cho nhân loại thôi xa cách,
Cho xa vời cơn phân tranh.
Xích lai gần cuộc sống anh và tôi.
Hãy thiết tha trong khúc tình thương,
Cho nhân loại chuyền nhau hơi ấm,
Cho không còn những mục rữa cơn hoại sinh.
Hãy hát lên hoan khúc tình thương
Cho xa rời đêm tăm tối...


* * *

Thành phố đang mùa lễ hội (2-9-1996), đường phố giăng đầy cờ và biểu ngữ, nhà cửa được sơn phết lại đẹp đẽ. Những khu vực ngoại ô, không khí có phần khí thế hơn. Một buổi sáng trước ngày lễ hội, tôi vừa bước ra khỏi cửa liền gặp hai cán bộ có nhiệm vụ gìn giữ an ninh khu vực. Họ hỏi tôi:

- Cờ đâu? Sao còn chưa treo lên?

Họ đưa mắt nhìn chung quanh vẻ bực dọc:

- Sân nhà để cỏ rác thế này à? Dọn đi!

Tôi ấp úng:

- Dạ... ạ, cha tôi vừa mới qua đời còn nhiều việc lu bu, mấy anh thông cảm. Lát nữa tôi sẽ mua cờ...

Rồi tôi cúi xuống "chấp hành" nhặt cỏ rác. Hai cán bộ vừa đi vừa lải nhải:

- Nhà này cái gì cũng chậm chạp hơn người khác.

Chiều hôm ấy, sau một ngày vất vã mưu sinh, tôi dừng chân ngồi nghỉ trên cầu Rạch Chiếc. Tôi đưa mắt nhìn thửa ruộng dưới chân cầu. Nơi ấy, cách đây hơn hai mươi năm, có nấm mồ chôn xác bốn chiến sĩ chết trận. Dân chúng đã cắm một cây cọc và treo lên đó bốn cái nón sắt để làm dấu thay cho mộ bia. -U đất ngày nay đã mất dấu, cây cọc có lẽ cũng mục theo thời gian và các nón sắt cũng không còn dấu tích. Tôi nghĩ đến chính phủ Mỹ với chương trình MIA đi tìm hài cốt của những người chiến binh Hoa Kỳ chết trận ở Việt Nam mà thương cho những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa bất hạnh, chết vô danh ngay trong ngày tàn của cuộc chiến. Không biết bao giờ các đồng đội của họ mới gom nhặt được những hài cốt ấy đem về an táng trong một nghĩa trang nào đó, để họ được yên nghỉ bình thường dưới bóng cờ của tổ quốc thân yêu.

Trời đang tối dần, ánh đèn trên cầu không đủ để tôi nhìn rõ nơi đã vùi xác thân của bốn người chiến sĩ kia. Tôi quay người nghiêng ngả bước đi. Dưới chân tôi mặt đất dường như chao động. Trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày sắp tắt, tôi như còn thấy nơi ấy bóng cờ vàng hiền hòa theo gió tung bay. Tôi ứa nước mắt ngước nhìn lên trời cao thầm hỏi: "Biết đến bao giờ Việt Nam mới có được dân chủ, tự do, nhân quyền?". Tôi mong chờ những người Việt Nam tha hương, những người có tấm lòng nhân nghĩa, tìm giúp thay tôi câu trả lời.


Viết lại theo lời kể của phế binh Nhất Chi,
hiện cư ngụ cạnh cầu Rạch Chiếc.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển


Chương 10: Kiếp sống gian truân

Quảng Ngãi, miền Trung, quê hương tôi đất cày lên sỏi đá. Quanh năm người dân hứng chịu không biết bao thiên là tai bão lụt, hạn hán và mất mùa nhưng lúc nào cũng sẵn sàng chịu đựng. Nghèo đói tuy gắn liền với số phận của người dân quê, nhưng chúng tôi không bao giờ buông tay đầu hàng định mệnh, chính vì vậy mà người đời thường gọi chúng tôi là "dân cá rô cây". Cụm từ này vừa nói lên sự nghèo khó vừa diễn tả niềm tự hào của người dân đất Quảng.
"Ngày xưa ở Quảng Ngãi có một anh học trò nghèo nhưng hiếu học. Một hôm anh phải khăn gói hành trang như những học trò ở các tỉnh khác ra kinh đô học và chờ kỳ thi hương, vì quê anh không có thầy. Đời sống ở thị thành không giống miền quê nên học trò đến từ khắp nơi thường kết bạn với nhau để giúp đỡ trong việc học hành cũng như trong cảnh hoạn nạn. Anh học trò Quảng Ngãi cũng kết bạn với những người khác nhưng cứ đến mỗi bữa ăn, anh thường ra một góc sân ăn một mình. Anh ăn uống ngon lành, bữa nào cũng có rau luộc, mắm nêm hoặc nước mắm và món cá chiên. Bạn bè cho rằng anh ta ích kỷ, không muốn chia sẻ miếng ăn nên cũng xa lánh dần. Một hôm, muốn biết "người bạn đất Quảng" của mình ăn những thứ gì mà cứ giấu, một số anh em chia nhau đứng rình. Đúng là một "tên ích kỷ", bữa ăn nào cũng có rau và cá chiên trong khi có nhiều người khác ăn uống thiếu thốn hơn nhiều. Tức quá, đợi lúc anh kia đi học, một số bạn bè định vào phòng phá cho bỏ ghét. Sau khi lục soát, một người bất ngờ khám phá một con cá rô cây được đẽo gọt rất khéo giống con cá rô thiệt treo trên thành giường, từ đó mọi người mới thương cảm và quí mến anh bạn kia hơn. Vì nghĩ rằng các bạn bè kia đều là con nhà khá giả, anh bạn Quảng Ngãi kia không muốn tỏ ra thua thiệt nên phải giả bộ ăn uống đầy đủ như họ, nhưng vì sợ bị bắt gặp nên anh phải tìm cách ăn riêng".
Chưa phải hết, người ta còn mai mỉa "học trò xứ Quảng thấy cô gái Huế chân đi không đành". Đúng như vậy, học trò Quảng Ngãi tuy có siêng năng hơn học trò một số tỉnh khác nhưng vì mặc cảm nhà nghèo nên nhút nhát không dám tỏ tình với các cô gái đất Thần Kinh, cho nên mới có lời chọc đó. Thêm nữa cách phát âm của người Quảng Ngãi nếu không phải là người cùng địa phương thì rất khó hiểu. Ông tướng râu kẽm thời đệ nhị cộng hòa đã từng nhại tiếng miền quê tôi để làm trò cười cho thiên hạ: "Lèm en như con kẹt, hễ thấy mẹt là đòi tiền" ("làm ăn như con c..., hễ thấy mặt là đòi tiền", ý muốn nói dân Quảng Ngãi lười biếng không làm gì nên thân lại hay kỳ kèo từng xu từng cắc, con người nhỏ nhen chỉ nghĩ đến vật chất, v.v...).
Nghèo và khổ do đó luôn bị thiệt thòi, những gì xấu nhất đều trút xuống đầu người dân quê tôi. Nhưng dân Quảng Ngãi không phải như vậy. Vì không được thiên nhiên ưu đãi, miền đất này đã tạo cho người dân đức tính cần cù, kiên nhẫn hiếm thấy, chính vì đổ nhiều mồ hôi nước mắt đế có miếng ăn người dân Quảng Ngãi có một lòng yêu nước nồng nàn và một tình quê hương mặn mà. Quê hương tôi tuy không giàu đẹp nhưng nơi ấy đã sinh ra , đùm bọc và dưỡng nuôi tôi nên vóc nên hình, tôi yêu miền đất này như một người mẹ. Mẹ hiền Quảng Ngãi đã sản sinh biết bao người con, đã vui mừng khi thấy đàn con khôn lớn và đã khóc rất nhiều khi những đứa con lần lượt nằm xuống. Đất Quảng Ngãi tuy nghèo nhưng không thiếu gương anh dũng, biết bao người đã đáp lời sông núi, hy sinh tính mạng để bảo vệ quê hương xứ sở, trong đó có tôi. Nhiều người tham gia vào các phong trào đấu tranh chính trị, một số khác gia nhập vào các đơn vị võ trang và nhiều người nắm giữ vai trò then chốt trong các cấp chính quyền và quân đội, nhưng phần lớn còn lại chỉ muốn được hưởng một cuộc sống bình thường như mọi người khác.
* * *
Gia đình tôi ngụ tại xã Bình Giang, gồm cha mẹ và ba người con, một anh trai và hai chị gái, tôi là con út. Cha tôi gia nhập kháng chiến, chống Pháp tại Liên Khu V, chẳng may bị chết trong một trận càng quét tại vùng Ba Tơ, lúc tôi mới vừa 9 tuổi. Mẹ tôi sức yếu không nuôi nổi ba đứa con thơ, nên anh và hai chị phải bỏ học đi làm để nuôi tôi ăn học. Cuộc đời tưởng vậy đã yên, nào ngờ năm 1956 tôi thấy những người kháng chiến như cha tôi mất tích một thời gian (hình như tập kết ra Bắc) xuất hiện bí mật tại nhiều nơi, họ kêu gọi dân chúng đến tụ tập rồi lên án chế độ miền Nam. Lúc đó tôi còn quá nhỏ để hiểu họ muốn nói gì, những buổi họp dưới ánh trăng là dịp để tôi cùng những bạn đồng lứa đi bắt dế để ngày hôm sau mang ra đá. Mỗi lần có buổi họp như thế, quân đội cộng hòa hôm sau vào thôn xóm lục soát, nhiều người bị bắt đưa về tỉnh lỵ. Năm 1958, nơi nơi chốn chốn rầm rộ nổi lên phong trào xây dựng ấp làng chiến lược, bầu bán chính quyền địa phương xã ấp. Phong trào tố cộng được phát động mạnh mẽ khắp nơi, trong đó có nơi tôi ở. Cùng năm ấy, anh cả tôi được bầu vào hội đồng xã Bình Giang.
Chiến tranh bắt đầu lan rộng khắp nơi, cạnh làng tôi xảy ra nhiều cuộc đụng độ võ trang, nhiều người bị chết và bị thương. Thôn xóm mất an ninh, nhiều gia đình dọn ra thành phố lánh nạn. Mẹ tôi không muốn đi vì còn ruộng đất, hơn nữa anh tôi làm trong hội đồng xã nên cả nhà quyết định ở lại. Công việc mua bán của mẹ tôi trở nên khó khăn vì những gia đình khá giả tản cư ra thành phố, đời sống có phần túng thiếu hơn xưa. Trong khi đó thanh niên thi nhau đầu quân vào các binh chủng hải lục không quân cùng các đơn vị địa phương để bảo vệ xóm làng, tránh cho đất nước rơi vào hiểm họa cộng sản.
Đậu xong bằng trung học đệ nhất cấp, tôi bỏ học vì lúc đó cũng vừa 18 tuổi. Tôi tình nguyện gia nhập vào binh chủng hải quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau 6 tháng huấn luyện ở trường hạ sĩ quan hải quân Nha Trang, tôi lần lượt được điều về phục vụ ở các hải cảng Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, rồi Vũng Tàu, Côn Đảo. Lực lượng hải quân tham dự nhiều trận đánh phối hợp với các đơn vị bộ binh hành quân, pháo từ các chiến hạm giáng xuống đầu địch những đòn chí tử, gây nhiều thương vong cho địch quân. Chúng tôi vui say với các chiến thắng Bình Giã, Vũng Rô...
Năm 1963, khi đoàn tàu đang trên đường hành quân, tôi nhận được điện tín khẩn: anh cả tôi ở quê nhà bị cộng quân sát hại. Cầm bức điện tín trong tay, tôi ngỡ mình đang mơ. Tôi chỉ biết khóc thương cho người anh mà tôi yêu mến như một người cha. Tôi được đơn vị cho về phép bôn tang. Ngồi trên chiếc xe đò chở về nhà, tôi hồi tưởng lại khi cha tôi qua đời, anh cả là người cáng đáng, lo toan mọi việc trong gia đình. Bây giờ anh đã vĩnh viễn ra đi. Vừa vào đến cửa, nhìn di ảnh cùng bàn thờ của anh đặt giữa nhà, tôi đứng chết lặng người. Thế là anh đã mất thật rồi. Mỗi lần đứng trước linh vị anh tôi, Hoàng Anh Hùng, tôi không sao cầm được nước mắt. Anh mất đi để lại mẹ già, một vợ và ba con còn thơ dại. Thảm trạng này ai gây ra? Tôi nguyền rũa chiến tranh và quân cộng sản khát máu.
Chị dâu tôi kể lại. Một ngày như mọi ngày, anh Hùng thức dậy sớm, mở các cửa sổ cho sáng cửa sáng nhà. Thay đồ xong, anh dẫn xe đạp tiến ra sân mở cổng đi đến trụ sở xã làm việc. Thình lình từ bên đường một bóng đen nhảy ra chận xe anh lại, hai bóng khác nằm phục kích hai bên đường bắn xối xả vào người anh. Anh Hùng bị trúng đạn té xuống, bóng đen đứng ra chặn xe chạy thẳng tới xác anh chỉa súng trường vào đầu anh Hùng bắn thêm một tràng nữa rồi cả bọn cùng bỏ chạy. Anh Hùng bị bắn bể sọ, khuôn mặt biến dạng, thân hình thủng đầy lỗ đạn. Cả nhà nghe tiếng súng vội vàng chạy ra thì hỡi ơi, xác anh Hùng nằm trên vũng máu. Mẹ và chị dâu tôi mắng chửi quân sát nhân thậm tệ rồi ôm xác anh khóc rống. Một toán dân vệ hay tin từ xã chạy xuống thì đã quá muộn, anh tôi đã chết. Một vài dân làng cho biết đã nhận diện được những tên sát nhân và còn cho biết tên và nơi chúng ở, chúng là những thanh niên ở xóm trên, gần vùng núi.
Thật là buồn, người cùng quê với nhau không làm gì hại nhau mà nỡ tàn sát nhau dã man đến thế. Tôi biết những thằng này, lúc còn nhỏ có lần chúng cùng học chung trường với tôi ở trường tiểu học Bình Giang. Men cộng sản đã biến chúng thành khát máu, khát máu với đồng loại và người cùng quê với mình. Anh tôi có làm gì nên tội nên tình cho cam, anh chỉ làm nhiệm vụ an dân, suốt đời giúp đồng bào nghèo khổ, mở trường mở lớp cho con em trong vùng và đưa ánh sáng đèn điện về thắp miền quê, thế mà vẫn bị chúng ám sát.
Nhưng quân cộng sản vẫn chưa buông tha gia đình tôi. Vài ngày sau, vào lúc giữa khuya, có người gọi cửa. Tiếng chó sủa vang ngoài ngõ. Mẹ tôi chưa kịp hỏi ai thì hai kẻ lạ mặt đã nạy cửa xông thẳng vào nhà. Họ mặc áo quần màu đen, mặt mũi xương xẩu tái nhợt. Người trẻ tuổi cầm khẩu súng trường bá đỏ và người trung niên đeo khẩu súng ngắn ngang lưng quần. Cả hai cùng mang dép râu, mấy ngón chân cái lòi ra đen xì trông thật ghê tởm. Thôi đích thị là cộng sản rồi. Hai người kêu hết cả nhà ra trình diện, họ nói giọng Quảng. Người lớn tuổi tới hỏi giấy tờ của tôi rồi yêu cầu tôi mặc áo quần đi theo họ. Cả nhà cùng khóc. Không khí thật nặng nề. Tôi sợ run cả người, tôi có cảm giác đây là lần cuối cùng nhìn mặt những người thân, lòng không khỏi hối tiếc. Khi hai người lạ mặt dẫn tôi đi lần ra cửa, mẹ tôi chạy tới níu cánh tay tôi năn nỉ hai người kia tha mạng và xin lỗi đã nặng lời trước đó. Người đeo súng ngắn nói nhỏ với người cầm súng trường bá đỏ vài câu, sau đó quay lại nói với mẹ tôi:
- Bà hãy yên tâm, chúng tôi không làm hại ảnh đâu. Chúng tôi chỉ muốn hỏi ảnh vài điều mà thôi, xong rồi sẽ thả về nhà.
Cuộc bắt cóc diễn ra trong im lặng, hàng xóm chung quanh không ai hay biết. Tiếng chó cũng im dần. Tôi suy nghĩ miên man và "hơi yên tâm" khi nghe họ nói "chỉ hỏi vài điều mà thôi". Chắc đây chỉ là một cuộc bắt cóc cảnh cáo. Vừa ra khỏi nhà độ hơn mười thước, người trẻ tuổi bảo tôi đưa hai tay ra phía sau cho họ trói lại, người đeo súng ngắn giữ đầu sợi dây đi sau lưng tôi. Vì không kịp mang giày, tôi xỏ đại đôi dép cao su có quai nên đi vào rừng trong lúc tối đen thật là khó khăn, trợt té liên miên. Dọc đường hai người thay phiên hỏi tôi tới tấp, nào là ai ra lệnh về đây, có nhiệm vụ gì... Vừa hỏi vừa hăm dọa, nhưng tôi vẫn một mực khai tôi chỉ là một người lính hải quân tầm thường thôi, về đây chịu tang anh ngoài ra không có làm chi khác.
Suốt hai ngày đường, hai người tra khảo, khủng bố tinh thần tôi liên tục. Vừa đói, vừa mệt, hơn nữa hai tay bị trói, đôi dép cao su cũng đứt quai nên tôi phải đi chân đất; nhiều lúc đạp phải gai rừng đau điếng người mà vẫn phải cà nhắc bước tới. Những vết gai rừng chích vào lòng bàn chân dần dần làm độc, tôi đi hết nổi muốn xỉu nhiều lần. Cũng may đến một địa điểm giữa rừng, hai người dừng lại làm mật hiệu. Không đầy hai phút sau, một toán gồm ba người trung niên mặc quân phục màu xanh rừng đi ra, vẻ mặt hiền từ hơn, cho chúng tôi thức ăn và nước uống. Cả năm người chụm đầu lại nói rì rầm gì đó, một người đến cởi trói cho tôi ăn cơm nhưng cấm không được ra khỏi khu vực quá 5 thước.
Nhóm người mới mặt mũi hiền từ nói rặt giọng Bắc, hai người bắt cóc tôi là người Quảng. Vừa ăn xong, cả năm người ngồi quanh tôi hỏi về công việc của anh tôi, của tôi và của gia đình. Tôi nói không biết anh tôi làm việc gì, mẹ tôi chỉ biết buôn bán nuôi con cháu và tôi là lính hải quân tối ngày chỉ ở trên tàu. Lời qua tiếng lại nhiều lần, cuối cùng tôi hiểu là họ kết tội anh tôi làm chỉ điểm cho "ngụy quyền" và "đế quốc Mỹ" để tổ chức càng quét "cách mạng" trong chiến dịch "tố cộng", làm nhiều "cán bộ cơ sở" bị bắt. Họ thuyết giảng nào là "ơn Bác và ơn Đảng", nhất là "muốn thống nhất" đất nước sau "cuộc tổng tuyển cử" 1956, nhưng "tên bán nước Ngô Đình Diệm và bè lũ tay sai" đã phản bội, cản trở ý muốn của toàn dân nên họ có nhiệm vụ về đây "giải phóng dân tộc". Giải phóng cái gì? Anh tôi bị chúng giết, biết bao gia đình khác cũng lâm vào cảnh như gia đình tôi, vợ góa con côi.
Tôi còn nhớ rõ ngày đó là ngày 20 tháng 5 năm 1963 vì chúng vừa làm lễ sinh nhật Hồ Chí Minh ngày hôm trước. Sau ba ngày hỏi cung, họ cho tôi một đôi dép râu và một bộ đồ khác rồi đưa tôi vào Núi Rằng giam giữ. Đây là mật khu nổi tiếng có từ thời Pháp thuộc, có lần cha tôi nhắc tới địa danh này và lần đó cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông. Tôi nghĩ cuộc đời mình đến đây là chấm dứt, tôi chỉ buồn là chưa mang lại niềm vui nào cho mẹ già mà đành bỏ mạng tại chốn rừng sâu này, xác vô thừa nhận. Tội nghiệp mẹ tôi, vừa mất đứa con trai đầu lòng, giờ sắp mất thêm đứa con trai út. Vừa đi vừa miên man suy nghĩ, tôi nhìn quanh nhìn quất để nhớ đường về "lỡ" khi có dịp liền tìm cách thoát thân. Nhưng không, đây chỉ là một trạm giao liên giữa rừng, ban ngày không thấy ai canh gác nhưng tôi vẫn chưa dám trốn.
Tôi biết chung quanh có rất nhiều địa hào, họ ẩn núp đâu đó vì đây là mật khu nổi tiếng của Liên Khu V. Có hôm tôi cùng đoàn người vừa Bắc vừa Trung đi làm rẫy trên triền đồi, trồng lúa khô, bắp, đậu phọng và đậu xanh, những hôm khác tôi bị trói ngồi ở một gốc cây. Ban đêm tôi bị trói cả chân lẫn tay nhưng được cho một tấm mền để đắp, những hôm trời mưa thì mọi người cùng ngồi với nhau dưới một tấm bạt nhà binh. Có đêm một vài người ca hát những điệu hát miền Bắc. Những người miền Bắc có vẻ dễ chịu hơn người miền Trung, họ cười nói tự nhiên, cho phép tôi đi tiêu đi tiểu thoải mái, họ còn cho tôi áo quần và đôi dép râu để đi lại trong rừng trong khi những người cùng quê tỏ ra khe khắc. Kể cũng buồn, người cùng quê lại tàn ác hơn người dưng.
Hơn 6 tháng bị giam giữ, nói sao cho được nỗi khổ của một tù binh. Không đêm nào tôi không cầu nguyện cho tôi và gia đình được bình yên. Một đêm nọ, ba người đến trói hai tay ra phía sau rồi dắt đi. Hai người miền Trung và một người miền Bắc. Đến một đoạn đường họ bịt mắt tôi lại. Thôi rồi, chúng khai thác không được, định thủ tiêu tôi đây. Tôi định trong bụng rằng, nếu tình hình xấu lắm tôi sẽ liều mạng thôi. Tôi quyết không chịu chết hèn, ai cũng một lần chết, phải chết hùng cho đáng thân trai. Lòng đã quyết, tôi cảm thấy hơi yên tâm. Hơn nữa tôi quan sát rất kỹ đường đi nước bước, nếu có thoát thân còn biết tìm hướng Đông mà tiến xuống đồng bằng. Nhóm người này dẫn tôi đi quanh co trong rừng suốt hai ngày đêm. Đến một điểm nào đó vào lúc ban đêm, người miền Trung bảo tôi ngồi xuống dưới một gốc cây rồi đe dọa: "Ngồi đây nghỉ giây lát rồi đi tiếp. Phải im lặng nghe chưa, nhúc nhích là tụi tao bắn bỏ". Cả ba cùng bỏ đi. Tôi nghĩ chắc họ đang tìm chỗ ăn hoặc đi tiêu tiện gì đó nên ngồi im, hai mắt vẫn bị bịt kín và hai tay bị trói ngoặc ra sau.
Ngồi thật lâu nghe ngóng tình hình, tôi chỉ nghĩ kế thoát thân. Ngồi mỏi cả lưng, tê cả chân mà vẫn không nghe động tịnh gì của ba người kia. Chung quanh chỉ nghe tiếng côn trùng rả rích, sương đêm thấm hết vào người. Tôi cảm thấy lạnh, thỉnh thoảng hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Đói và lạnh, thân thể mỏi mệt, tôi ngủ thiếp đi một hồi và chỉ sực tỉnh khi nghe tiếng gà gáy sáng. A, thì ra tôi đang gần một xóm làng nào đó và trời đang sắp bình minh. Như vậy thì phải tìm cách thoát thân, tôi nghĩ như thế.
Lắng nghe động tịnh một hồi và biết chắc ba người cộng sản kia đã đi đâu mất. Tôi đánh liều từ từ lòn hai tay dưới đít rồi co hai đầu gối vào sát người đưa hai tay bị trói ra phía trước, gỡ khăn bịt mặt ra. Vừa mở từ từ đôi mắt để làm quen với ánh sáng, vừa lấy răng mở lần dây trói. Tháo dây trói xong tôi liền đứng dậy, co chân co tay, vặn mình cho giãn gân cốt rồi nhìn chung quanh. Ủa, đây chính là làng tôi đây mà. Tôi ngỡ như nằm trong mơ, cố dụi mắt nhìn kỹ. Đúng là làng tôi rồi. Bà con hàng xóm đã thức dậy, có nhà nhen lửa nấu cơm. Sau giây phút ngỡ ngàng, tôi đánh bạo tiến bước vào làng. Tôi vứt bỏ đôi dép râu, đi chân đất về nhà. Dọc đường gặp một vài người quen, tôi cúi đầu đi như chạy trốn. Tôi thấy mọi người đều đáng sợ. Những người bắt cóc tôi là dân Quảng Ngãi, ở làng trên. Tôi như "con chim bị tên, thấy cây cung nào cũng sợ", nghi ngờ mọi người.
Tờ mờ sáng hôm ấy, tôi về đến nhà. Nói sao được nỗi vui mừng của mẹ và ba chị tôi, hai chị ruột và một chị dâu. Sau phút trùng phùng cảm động và nghe tôi thuật lại nỗi cơ cực trong thời gian bị quân cộng sản bắt, cả nhà đều mừng rỡ, ai cũng đinh ninh tôi đã bị giết vì ngay đêm đó, mẹ và các chị tôi âm thầm chia nhau đi các nẻo, hỏi thăm và tìm thi thể tôi đem về chôn nhưng không thấy.
Khoảng gần trưa tôi đến cơ quan an ninh chính quyền xã Bình Giang trình diện. Thông cảm và hiểu rõ gia đình tôi, anh em trong xã thăm hỏi qua loa rồi cho tôi về nhà nghỉ ngơi và làm bản tường trình sự việc. Đến chiều tôi đã làm xong bản tường trình và đem lên xã nộp. Điều làm tôi không vui lòng là bộ tư lệnh hải quân ở Vũng Tàu gởi giấy tầm nã về đây, anh xã trưởng đã trả lời bằng văn thư cho bộ tư lệnh là tôi bị cộng sản bắt cóc ngày 16 tháng 5 năm 1963. Anh xã trưởng hỏi tôi muốn trở lại đơn vị cũ không, tôi trả lời muốn được ở nhà một thời gian và anh chỉ dặn là không nên rời khỏi xã coi chừng bị quân cảnh chận xét bắt lại vì tội trốn lính. Từ đó tôi không bị làm khó dễ gì, mặc dù vậy đêm nào tôi cũng thay đổi chỗ ngủ, lúc thì ngủ ngoài hiên, lúc thì nằm trong vườn, có lúc ngủ nhờ nhà hàng xóm.
Trong suốt thời gian nằm nhà, tôi cố để ý tìm cho ra nơi ở của ba người đã bắn anh tôi. Tôi được biết là chúng theo cộng sản từ năm 1960, hiện ở Sơn Tịnh, cách làng tôi khoảng 12 cây số về phía Tây, và lặng lẽ theo dõi hoạt động của chúng trong vùng. Nhưng tình hình chiến sự ngày một xấu đi, tại một số làng xa xôi ban đêm quân cộng sản về thu thuế và kêu gọi dân chúng nổi dậy rồi rút đi, sáng thì quân quốc gia vào tảo thanh. Tội nghiệp cho đám dân lành, cứ mỗi lần như thế một vài người bị hai bên bắt đi đâu không biết. Thôn xóm ngày một mất an ninh nhưng cả nhà tôi không muốn dời về thành phố. Tôi suốt ngày ra vườn cuốc đồng trồng rau khoai và phụ chuyện vặt vãnh trong nhà, mỗi tối vặn đài quân đội theo dõi tình hình và nghe nhạc. Thỉnh thoảng tôi dạy kèm các cháu nhỏ học hành, mẹ và các chị tôi vẫn ra chợ buôn bán. Không bao lâu sau tôi cưới vợ.
Giữa năm 1967, quân đội Mỹ hành quân ngang qua làng tôi và đóng đồn cạnh làng Sơn Tịnh, địa bàn hoạt động của cộng quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ngày đêm hành quân lùng sục nhưng quân cộng sản vẫn giữ một phần lớn đất đai trong địa bàn xã. Tiếng súng nổ khắp nơi, ngày nào cũng thấy cảnh đau thương, chết chóc. Biết bao thanh niên, trai tráng trong làng lần lượt ngã xuống, tiếng khóc than vang cùng khắp ngõ. Biết bao tổ phụ, quả phụ, đầu chích khăn tang, kẻ khóc thương con, người thương khóc chồng, con khóc cha. Ôi, chiến tranh sao cay nghiệt quá, tàn nhẫn quá, thương tâm quá. Thù nhà nợ nước cứ canh cánh bên lòng.
Ngày 1 tháng 6 năm 1968, tôi gia nhập nghĩa quân, trung đội 19 đóng tại đồn Bình Giang. Hành động này vừa có mục đích trả thù cho anh vừa giữ an ninh cho thôn xóm. Tôi nhiều lần vào sinh ra tử, đối mặt với kẻ thù nhưng vẫn không ngại gian lao nguy hiểm lăn vào cuộc bắn giết. Cuối năm 1968, trung đội tôi phối hợp với quân đội Hoa Kỳ hành quân đưa dân vào ấp, cô lập nguồn tiếp tế của cộng sản. Đây là một kế hoạch qui mô có tầm vóc chiến lược. Xã Bình Giang là một địa điểm trọng yếu vì đây là địa bàn hoạt động chính của quân cộng sản trong vùng nên sự phòng thủ rất chặt chẽ. Đơn vị tôi vừa hành quân tảo thanh quân địch, vừa vận động dân chúng tham gia chương trình di dân lập ấp.
Một hôm đang trên đường hành quân, tôi dẫm phải một trái mìn. Tiếng nổ khô khan làm tôi bất tỉnh. Nghe các đồng đội kể lại, tôi được bộ chỉ huy hành quân gọi trực thăng tức tốc đưa vào Tổng Y Viện Duy Tân cấp cứu. Khi tỉnh dậy thì hỡi ơi, chân trái của tôi đã bị cưa tới đầu gối, thân hình bị băng bó, thương tích khắp người. Thật là tức tối, ý nguyện chưa thành thân hình đã bị tàn phế. Còn trả thù cái gì nữa đây với tấm thân què cụt này, cuộc sống của tôi trở nên vô vị. Ròng rã một năm trời điều trị, tôi được quân y viện cho về với gia đình. Thật là buồn tủi, làm gì với một hình hài không còn nguyên vẹn, tôi đành phải sống nhờ vào đồng lương trợ cấp.
* * *
Nỗi đau tưởng đâu đến đây là hết, nhưng không. Tại họa lại giáng xuống nhà tôi một lần nữa.
Năm 1970, chị dâu tôi ra chợ buôn bán như thường nhật thì bị một tên du kích cộng sản bắn một phát sau lưng. Chị chết liền tại chỗ, viên đạn xuyên qua tim, phá banh lồng ngực, máu đỏ thấm cả một khoảng đường. Xác chị sau đó được đem về nhà tẩm liệm. Mẹ tôi lại khóc hết cả nước mắt, từ ngày anh Hùng mất đến nay, bà xem chị như là con gái cả trong nhà. Chị một lòng hiếu thảo với mẹ chồng và thương yêu các em chồng như ruột thịt. Nhìn thi thể chị dâu cùng ba đứa nhỏ vô tội, cả cha lẫn mẹ đều bị cộng sản sát hại, tim tôi se lại. Sau khi tống táng xong chị dâu, tôi lãnh nhận nuôi dưỡng ba đứa cháu với đồng lương trợ cấp ít oi. Vợ tôi thay chị dâu tần tảo buôn bán phụ giúp gia đình, tôi hành nghề hớt tóc tại gia để có thêm lợi tức vì lúc này trách nhiệm chăm sóc mẹ già, hai con và ba cháu nhỏ đối với vợ chồng là một gánh nặng vật chất.
Chiến cuộc ngày càng lan rộng, khói lửa lan tràn khắp mọi miền đất nước, cộng quân pháo kích vào thôn xóm tôi liên tục, gây chết chóc cho đàn bà trẻ em và ông già bà cả. Ơ? những vùng đồi núi phía xa, cộng quân lấn chiếm phần lớn đất đai và dân số, quân đội Việt Nam Cộng Hòa lâm vào thế thủ. Thế giới đâu thấy được dã tâm của quân cộng sản, chúng muốn nhuộm đỏ cả quê hương này. Các tướng lãnh quân đội của nền đệ nhị cộng hòa chỉ huênh hoang, khoác lác trên các phương tiên truyền thông và truyền hình là chiến thắng cộng sản, nhưng thật ra các cuộc hành quân phe ta đều bị đối phương biết trước và bẽ gãy. Các cuộc hành quân qui mô tiêu diệt địch quân tại Hạ Lào, Lam Sơn 719, Dakto đều thất bại, thi thể các chiến binh thi nhau nằm xuống, đâu đâu cũng thấy chết chóc và thất bại. Từng mảng đất nước lần lần rơi vào tay cộng sản, tôi thấy nao nao trong dạ.
Việc gì phải đến đã đến. Ngày 20-4-1975, Quảng Ngãi thất thủ, gia đình tôi khăn gói theo đoàn người chạy vào Nam lánh nạn. Dọc quốc lộ 1, xác xe và xác người nằm phơi đầy đường, nhà cửa cháy nát tan hoang. Tâm trạng của người chạy loạn thật là hoang mang. Xa làng mạc thân yêu, nương náu xứ lạ quê người, cuộc sống rồi đây sẽ ra sao? Thật không hiểm họa nào bằng hiểm họa cộng sản, chỉ nghe hai tiếng "cộng sản" là mọi người đều bỏ chạy.
Vào đến Sài Gòn cảnh hỗn loạn càng thấy rõ hơn. Dân các tỉnh và thành phố bị cộng sản chiếm đóng, đều đổ xô vào Sài Gòn, không cảnh hỗn loạn nào hơn. Kẻ khóc cha, người khóc chồng, đâu đâu cũng nhuộm màu tang tóc. Tinh thần người lính Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ xuống đến mức chỉ trông chờ rã hàng. Các cửa ngõ vào Sài Gòn đều có quân đội trú đóng nhưng không ai còn tinh thần chiến đấu nữa vì các tướng lãnh đang thu xếp hành trang chuồn ra nước ngoài. Trước tình hình này làm sao không đổ vỡ? Bình Tuy, Long Khánh lần lượt thất thủ, những nơi khác đỗ nhào như những con cờ domino. Rồi đến phiên Sài Gòn.
Ngày 30-4-1975 quân cộng sản tiến vào Dinh Độc Lập, biểu tượng của uy quyền miền Nam. Biểu tượng mà có lần tôi cùng những chiến hữu khác đã đổ máu, hy sinh cả tính mạng để bảo vệ nó. Bây giờ là kẻ chiến bại, còn gì nhục nhã hơn. Nhìn cán binh cộng sản nghễu nghễnh đi trên đường phố, cờ đỏ cùng biểu ngữ trương ra khắp nơi, lòng tôi đau xót. Tôi bỏ qua hết những oán hờn đối với những vị lãnh đạo miền Nam cũ, họ có lý do để ra đi. Tôi thấm thía nỗi hân hoan của người lính trong đoàn quân chiến thắng và thông cảm nỗi đau một người tướng trong đội quân rã hàng.
Trên đời này không có gì tuyệt đối cả. Nay còn mai mất, có cái gì vĩnh cửu đâu. Những gì thân yêu nhất còn mất huống chi những phù phiếm bề ngoài. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tôi vẫn lo âu cho cuộc sống mới. Với tấm thân tàn tật, tôi còn làm được gì cho một gia đình đông con, đông cháu khi mất nguồn trợ cấp phế binh? Chúng tôi sống chật vật trong một căn nhà thuê ở Thủ Đức. Một thời gian sau chính quyền cộng sản ra lệnh cho những người không có sổ gia đình (hộ khẩu) ở Sài Gòn phải trở về quê quán cũ, tôi cùng gia đình khăn gói trở về Quảng Ngãi.
Đoạn đường ra đi chống chọi với cảnh chết chóc và nạn cướp bóc, đoạn đường trở về chống đỡ với nỗi lo âu và một tương lai mù mịt. Đoạn đường nào cũng đầy khổ ải. Căn nhà thân yêu của cha mẹ tôi đã bị du kích địa phương dọn sạch và niêm phong với tờ giấy dán trước cửa: "nhà vắng chủ". Cả nhà phải về nương tựa bên gia đình vợ. Ở chưa nóng chỗ thì tôi bị kêu đi tập trung cải tạo ở trại Bình Khương, bất kể tật nguyền. Chính quyền cộng sản địa phương xếp gia đình tôi vào thành phần "phản cách mạng" nguy hiểm. Họ nói anh tôi làm việc cho CIA, chị dâu tôi làm gián điệp cho "ngụy quyền" trong chiến dịch Phượng Hoàng, còn tôi là "lính ngụy ác ôn có nhiều nợ máu". Thật là tức, chính họ đã giết anh chị tôi, đầy đọa gia đình tôi, bây giờ còn kết tội cả chính tôi. Những người "đồng hương" cộng sản này thật không có tình người, đều là quen biết cả mà chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai đã biến thành thú dữ. Không hiểu khi hành hạ người khác, họ được niềm vui nào, nhất là người đó bị tàn tật và mất hết tất cả.
Sau ba tháng bị giam trong trại Bình Khương, họ cho tôi về nhà cải tạo tại chỗ vì thân thể tàn tật không có ích gì trong lao động. Về đến nơi thì hỡi ơi, người ta cho biết là cả gia đình tôi gồm mẹ, vợ và các con cháu, đã bị đưa lên vùng kinh tế mới Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Tôi xin trở về nhà cũ nhưng không được đành phải về ở tạm nhà cha mẹ vợ. Tôi bị chính quyền xã Bình Giang quản chế một năm, không cho rời khỏi địa phương. Buồn cho thân phận, tôi đi hớt tóc dạo kiếm tiền độ nhật. Khi dò tìm ra tông tích và liên lạc được với gia đình, năm 1977 khi vừa hết hạn quản chế tôi liền đón xe lên Bảo Lộc đưa cả gia đình về Phan Thiết. Ròng rã hơn bảy năm trời lao động nhọc nhằn, và nhờ ơn trên phù hộ, gia đình tôi vẫn được an bình mặc cho cái đói, cái nghèo bám chặt trên lưng.
Đến năm 1985, cả nhà dọn về Vũng Tàu, ở gần Long Hải. Nói sao cho hết nỗi cực lúc này, một gia đình gồm chín miệng ăn, vừa lo xong buổi sáng đã nghĩ tới buổi chiều, biết bao lận đận, thiếu trước hụt sau. Tuy vậy chúng tôi vẫn kiên trì làm lụng, có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít, không có thì nhịn, không ai kêu van lời nào. Tôi dựng được một mái hiên trước nhà để hành nghề hớt tóc, vợ tôi sáng sáng gánh khoai ra chợ bán. Mẹ già lúc này mắt kém, ở nhà giữ đàn cháu thất học, đứa nào cũng phải mua bán ngoài chợ hay đi lượm rác để phụ với vợ tôi. Căn nhà tranh vách đất trống trước trống sau, mái nhà mục nát nắng dọi mưa dột. Mỗi khi trời mưa cả nhà ướt sũng nước không có chỗ ngồi.
* * *
Nhưng định mệnh không dừng lại ở đó. Kẻ xấu muốn lập công, đặt điều vu khống tôi là thành phần nguy hiểm trốn tập trung cải tạo, dời chỗ ở sau 30-4-1975, không trình diện. Kẻ đó không ai xa lạ chính là một người cùng quê, tìm cách tâng công lấy điểm với chế độ vì làm ăn gian dối, tổ chức vượt biên cuội gạt người thành phố lấy tiền. Hắn còn về tận quê tôi mang hồ sơ vào. Thế là tôi bị công an mời lên mời xuống liên tục. Hết công an phường đến công an tỉnh mời tới mời lui, hỏi cung ròng rã suốt hai tuần lễ. Không đi trình diện thì sợ bị kết tội nặng, nhưng nhà nghèo quá lấy tiền đâu đi xe ra thị xã trình diện, tôi phải bán những áo quần, đồ đạc nào còn tốt để làm lộ phí. Tiếc nhất là cái radio, tài sản duy nhất có giá trị trong nhà mà tôi thường dùng để nghe tin tức và nhạc của đài quân đội trước kia, cũng đội mũ ra đi. Bà con hàng xóm đều xa lánh vì sợ liên lụy, người lớn cũng không dám đến nhà tôi hớt tóc. Tôi phải đi hớt tóc dạo ở xa. "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay", khổ nhục lắm. Được cái may là cả gia đình thương yêu, đùm bọc và luôn luôn an ủi nên tôi tiếp tục đứng sửng giữa trời, mặc dù cho gió đời vùi dập tấm thân què cụt.
Số phận tưởng đã an bài, nào ngờ chế độ cộng sản vẫn chưa chịu để cho tôi yên. Ngày 5-4-1992, công an tỉnh Vũng Tàu phối hợp với phòng phản gián PC16 từ Sài Gòn về bắt tôi giam suốt ba năm liền vì đã vi phạm điều 157 bộ Luật Hình Sự về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân". Thật là vô lý, tôi có lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ai đâu. Nhờ có biết chút đỉnh tiếng Anh lúc còn giao thiệp với quân đội Mỹ ở Quảng Ngãi, tôi có viết thư giùm một số anh em thương phế binh trong vùng gởi đơn qua tòa đại sứ Mỹ tại Bangkok, Thái Lan, xin trợ cấp cho những người tàn tật, trong đó có bản thân tôi. Tôi có lấy của ai đồng xu cắc bạc nào đâu. Tôi viết thư trên một tờ giấy mẫu, mỗi đương sự tự chép lại rồi bổ túc tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ, ngày gia nhập quân đội, số quân, ngày giờ bị thương... Sau khi viết xong, tôi đọc lại các thư để dò lỗi chính tả rồi chính mỗi đương sự bỏ thư vào bao, dán lại cẩn thận, đón xe về Sài Gòn đến bưu điện chính gần Nhà Thờ Đức Bà gởi, tiền tem thư do bưu điện tính.
Việc này lúc đầu chỉ có một vài người thân biết, về sau tiếng đồn vang xa anh em phế binh từ khắp nơi mò đến tìm tôi nhờ viết giùm văn thư. Chẳng may anh em đến bưu điện đông quá, gây ồn ào khi xếp hàng chờ cân gởi, công an bảo vệ thấy lạ liền đến xét hỏi và phát giác các phế binh gởi thư bằng tiếng Anh cho tòa đại sứ Mỹ tại Bangkok. Tất cả đều bị bắt giữ và sau khi bị tra khảo, vài người khai là do tôi chủ mưu. Công an phản gián PC16 phối hợp cùng với công an tỉnh Vũng Tàu về địa phương bắt tôi. Chưa thấy xã hội nào như xã hội này, viết đơn giùm những người bất hạnh cũng bị phạt tù ba năm. Đau đớn và oan ức quá!
Suốt 3 năm bị giam giữ, sống trong cảnh nhục nhằn, trải qua nhiều nỗi đắng cay, tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Mặc cho ai hãm hại, thêu dệt, làm tình làm tội đủ điều, trăm phương ngàn kế triệt hạ sinh kế gia đình, tôi luôn vững tâm tin tưởng vào Thượng Đế. Tôi tin vào luật nhân quả, ai làm việc tốt sẽ được đền bù, ai làm điều ác phải gánh chịu hậu quả. Thượng Đế luôn luôn công bằng, không ai qua mặt được Ngài và cũng không ai có quyền tước đoạt nguồn sống của một ai. Cuộc đời của mỗi người là một tác phẩm. Nó là một diễn trình biến chuyển không ngừng với nhiều nỗi thăng trầm, khi thì lên voi, khi thì xuống chó, thành bại, sống còn, thương đau cùng hạnh phúc xảy ra trong phút chốc. Ngày hôm qua còn được tự do, hôm nay ngồi tù, thật là oái ăm. Tôi phải phấn đấu liên tục với chính mình để tồn tại. Mặc dù vậy tôi vẫn nuôi hy vọng có một ngày được trở về với gia đình. Dù nghèo, dù khổ, nghe tiếng cười đùa của con cháu lòng cũng thấy niềm vui.
Tôi bị giam ở Xuân Lộc. Nơi đây có đủ thành phần tù nhân, từ những người tranh đấu chính trị đến những tội phạm hình sự. Riêng tôi vì bị kết tội chính trị nên bị giam chung với những tù nhân chính trị. Kể cũng may, những người này dù phải sống trong cảnh khổ cực nhưng vẫn giữ phong cách, không chửi tục, không co tay giơ chân mỗi khi bất bình. Người nào người nấy đều đứng tuổi, tóc bạc phơ, nụ cười hiền từ lúc nào cũng nở trên môi. Tôi có dịp làm quen với mấy vị linh mục dòng Đồng Công Thủ Đức; nhiều vị đại đức các chùa trong vùng Sài Gòn, Chợ Lớn cũng bị giam ở đây. Nghe đâu có một ông bác sĩ nào đó rất nổi tiếng (bác sĩ Nguyễn Đan Quế, ghi chú thêm) cũng bị giam ở đây, ông ta bị biệt giam ở khu cách ly nên tôi chưa được biết mặt. Mọi người nhắc tới ông với tất cả lòng kính mến, hình như ông đã bị giam hơn 20 năm nay.
Không biết những con người hiền từ và đức độ như vậy có làm gì sai trái mà phải bị giam giữ nơi đây. Nhiều lúc ngồi nghe các vị cao niên nói chuyện chính trị, bình luận thời cuộc khiến tôi rất thích thú, kiến thức của tôi cũng nhờ đó mà mở mang thêm, nhưng thú thật tôi chẳng hiểu gì lắm. Nếu có chuyện gì, ai bảo tôi làm điều gì thì tôi thi hành ngay nhiệm vụ đó chứ tham gia bàn bạc kế hoạch, chiến lược chiến thuật thì chịu. Vốn là một hạ sĩ quan, tôi chỉ là kẻ thừa hành, nghiêm chỉnh chấp hành lệnh trên. Hơn nữa trong suốt thời gian ở ngoài đời tôi chỉ nghĩ tới miếng ăn, miếng sống hằng ngày còn thì giờ đâu mà suy nghĩ, cùng lắm là văng tục vài câu cho hả giận mỗi khi bị hiếp đáp. Thỉnh thoảng tôi được mấy vị cao niên mời ngồi đánh cờ tướng chung thật là vinh hạnh, nhiều lúc tôi chỉ muốn được đứng bên phục vụ trà nước là sung sướng rồi.
Nhưng an ủi nhất là gặp lại nhiều anh em thương phế binh bị giam giữ nơi đây. Anh em chúng tôi thường tụ năm tụm bảy nghe nói chuyện sau một ngày lao động vất vả, tôi kể lại những điều nghe thấy ngoài đời và những lời bình luận của các vị cao niên cho các anh em khác nghe. Nơi đây kỷ luật tương đối dễ chịu, cán bộ trại giam đi tuần liên tục nhưng không cấm anh em nói chuyện. Trong số phế binh bị giam tại đây có trung úy nhảy dù Phạm Tấn Dũng, cụt bàn chân trái. Anh Dũng bị kết tội "âm mưu lật đổ chính quyền" vì đã tập họp anh em phế binh đi bán nhang. Đây là một gương sáng về sự anh dũng, như tên gọi của anh. Những chiến tích của anh Dũng làm tôi nhớ mãi.
Trong một trận đánh ác liệt hồi tháng 10-1974, đại đội của trung úy Phạm Tấn Dũng được lệnh tái chiếm đồi 1062, một cao điểm thuộc quận Thượng Đức, tỉnh Quảng Nam. Cuộc chiến kéo dài suốt hai giờ liền, tiếng pháo, tiếng bom và tiếng lựu đạn nổ rền trời, cây cối ngã gục hết chung quanh. Xác người nằm la liệt dọc triền đồi, những xác đen xì bốc lên mùi máu nồng nặc. Ba trong bốn chốt địch đã bị "đại đội cảm tử" của trung úy Dũng hạ. Chốt còn lại chống trả dữ dội, đúng là chúng muốn tử thủ. Bực mình và tự ái của người chỉ huy, trung úy Dũng dẫn sáu "đệ tử ruột" tiến vào đồn địch dưới màn lửa đạn của đồng đội. Bảy người chỉ mang theo lựu đạn và lưỡi lê để đánh cận chiến. Từng thước địa hào lần lượt bị chiếm. Địch quân gài lựu đạn cản đường, chúng còn gài lựu đạn dưới xác chết. Vì ham thu lượm chiến lợi phẩm nơi các xác chết, hai trong sáu "đệ tử" bị lựu đạn gài nổ gây thương tích nặng. Trung úy Dũng mãi mê tiến vào địa hào, tránh né đạn thù chẳng may đạp trúng lựu đạn gài dưới đất, bàn chân phải bị đứt lìa. Từ đó anh thành phế binh nhưng kiếp sống hùng không bao giờ mất trong anh.
Sau biến cố 30-4-1975, trung úy Dũng cũng như bao chiến sĩ khác phải đi "học tập cải tạo", mặc dù thân thể bị tàn phế. Thay vì ở tù ba năm như mọi người, anh Dũng bị giam gần chín năm vì tội đánh ăng ten trong trại. Cùng là lính với nhau, cũng tù tội như nhau nhưng vẫn có nhiều người yếu hèn làm ăng ten cho trưởng trại, báo cáo mọi câu chuyện và thái độ của từng người cho cán bộ quản giáo, khiến nhiều anh em bị đánh đập và biệt giam, đôi khi còn bị cấm thăm nuôi. Để được gì? Chẳng được gì cả, những tên làm ăng ten không những ở tù lâu như mọi tù nhân khác mà còn bị anh em mắng chửi thậm tệ, không ai muốn nhìn mặt.
* * *
Trở lại kiếp sống cải tạo trong trại Xuân Lộc. Mặc dầu có phần dễ dãi hơn các trại giam khác mà tôi đã trải qua, nơi đây mọi tù nhân phải chấp hành lệnh của trại đến từ bất cứ ai mặc sắc phục. Một nửa thời giờ trong ngày dùng để lao động ngoài đồng hay trong rừng, nửa thời giờ còn lại dọn dẹp trong trại như quét dọn phòng ốc, nhổ cỏ, tưới cây quanh trại. Tối thì được phép nấu nước trà, đánh cờ tướng hay ngồi trò chuyện với nhau, nhưng đến khuya thì phải tắt đèn đi ngủ. Hầu như tất cả mọi người nơi đây đều đã có án tù chính thức, nên mỗi tháng được gia đình đến thăm nuôi một lần. Ai có gia đình khá giả thì ăn uống no đủ, ai khốn khó như tôi thì đành chờ... anh em khác thương tình cho ăn ké. Cứ mỗi chủ nhật cả trại ồn ào, náo nhiệt hẳn lên vì có thăm nuôi. Tiếng cười nói, đi lại của mọi người làm thay đổi bộ mặt buồn thảm của một trại tù.
Ở trong trại được hai năm, tôi quen dần với người và cảnh vật, những người khác chắc cũng vậy. Không bao giờ có chuyện trốn trại ở khu "chính trị" này. Thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài tù hình sự trốn trại. Có người thành công, có kẻ thất bại. Những ai bị bắt trở lại thì chịu những hình phạt dã man nhất: bị đánh bằng báng súng vào đầu và mình mẩy, bị trói ngồi trong thùng phuy ngập nước phơi giữa trời. Vào giữa trưa, một hay hai cán bộ quản giáo cầm một khúc tre hoặc dùng chân đá vào hông thùng để những chấn động của nước ép vào cơ thể khiến tù nhân hộc máu mồm, máu mắt ra. Chưa hết, người trốn trại khi được lôi ra khỏi thùng phuy còn bị trói cả chân và tay rồi treo lơ lửng ở cành cây suốt đêm cho muỗi chích, sáng hôm sau mới đem nhốt trong côn néc không có lỗ thở trong suốt hai ngày liền, không được cho ăn cho uống, tiêu tiện gì cũng tại chỗ, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Hình phạt này là đế cảnh cáo những ai có ý định trốn trại phải sợ. Tù nhân thường được thả ra lúc giữa trưa, đang còn loạng choạng vì bị ánh nắng làm chói mắt thì hai ba cán bộ nhảy tới đá thêm cho mấy cái ngã chúi xuống đất, rồi mới kêu hai ba tù nhân khác khiêng vào phòng tập thể. Các tù nhân thường bị xỉu khi ra khỏi côn néc, những người yếu sức thường chết vài ngày sau đó.
Trong "khu chính trị" cũng xảy ra nhiều chuyện đau buồn. Anh Trần Văn Được, phế binh trung sĩ nhất thủy quân lục chiến, cụt một tay và mù một mắt trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị mùa hè 1972, bị bắt chung với trung úy Phạm Tấn Dũng, cụt một chân, về tội "hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền", đã chết vì bị hành hạ quá đáng. Một hôm cán bộ quản giáo trẻ tuổi, quê ở Nghệ Tĩnh, vừa được chuyển tới ra lệnh cho anh Được quét sân, nhưng vì giọng nói của người này khó nghe nên anh Được vẫn tỉnh bơ ngồi uống nước trà. Cán bộ gốc Nghệ Tĩnh liền tới xỉ vả, anh Được chẳng hiểu gì cả nhìn cười, tức quá nó đá văng chén nước trà khỏi tay anh Được rồi nhào tới tát anh một bạt tai. Nổi sùng, anh Được cầm lon guigoz đựng nước nóng ở dưới đất tạt vào mặt nó rồi chỉ tay nói:
- Mày là giống gì mà mất dạy quá vậy? Bộ tao là súc vật à? Ai dạy mày vô phép dữ vậy? Con thú nào bị đánh đập quá đáng cũng quay lại cắn, tao tuy bị tàn tật cũng không chịu để cho mày sỉ nhục đâu. Đồ quân mất dạy, nói cho mày biết con tao còn lớn hơn mày mà chưa bao giờ dám hổn láo như...
Chưa nói hết câu, tên cán bộ Nghệ Tĩnh nhào tới nắm áo anh Được, thốt ra những lời tục tỉu khó nghe và đánh đá túi bụi vào đầu vào cổ anh. Đúng là quân mất dạy, đã không biết kính nễ người lớn tuổi mà còn dám đánh đập vào người tàn tật. Anh Được té xuống đất liền bị nó đá tới tấp vào đầu vào bụng, anh chỉ biết co chân ôm đầu chịu trận. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can nhưng bị mất thăng bằng anh níu áo tên cán bộ này và cả hai ngã xuống đất. Tức thì bảy tám cán bộ quản giáo khác từ nhà trong chạy ra, lôi anh Dũng đứng lên và đánh hội đồng khiến anh ngã quị xuống đất.
Tức quá, anh Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ. Đang lúc chúng còn đang dụi mắt thì anh Dũng nắm chân một tên giật té sấp xuống đất, rồi nhào tới thúc một cùi chỏ vào mặt làm nó tức điên lên. Tên này vội vàng đứng dậy chạy đi tìm một khúc tre thật lớn dùng làm cột phơi đồ quất tới tấp vào mình, vào đầu anh Dũng. Tiếng "bình bịch" và "bồm bộp" vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương nơi chân cụt của anh Dũng rỉ ra đầy mặt đất. Các trại viên chạy ra can thiệp, năn nỉ xin tha, đám công an chỉa súng vào đám người, tên chỉ huy ra lệnh lùa tất cả trại viên vào phòng giam lại, không cho bất cứ ai ra dòm ngó hay ngồi hóng mát nói chuyện. Riêng hai anh Dũng và Được bị chúng nắm áo lôi lên văn phòng.
Trời vừa bắt đầu tối, không ai còn lòng dạ ngồi xuống đất ăn cơm. Anh em chúng tôi lo âu cho số phận của hai người bạn tù. Phòng tra tấn và phòng giam tập thể không xa nhau lắm nhưng tiếng ồn ào trong phòng giam và tiếng gió rừng lấn át nên chúng tôi chỉ nghe được tiếng mất tiếng còn những gì xảy ra ở đó. Rõ nhất là những tiếng la hét của cán bộ công an, họ đánh đập hai anh suốt buổi chiều và chỉ ngừng khi tất cả bỏ đi ăn cơm chiều, sau đó lại vang lên suốt đêm khuya. Chúng tôi chỉ nghe và hiểu được tiếng la hét của những cán bộ miền Nam hay gốc Hà Nội, còn mấy cán bộ gốc Nghệ Tĩnh la hét cái gì thì chịu, chẳng ai hiểu gì cả. Là người Việt với nhau mà người Nghệ Tĩnh nói như người ngoại quốc, không ai hiểu gì.
Nội dung những tiếng hét tra khảo và trả lời đại khái như sau:
- Mày đeo cái gì tòn ten ở cổ hả thằng kia?
- Thánh giá! - Dũng trả lời (anh Dũng theo đạo công giáo nên luôn cây thánh giá ở cổ bằng nhựa đen đúc bằng những bao ny lông).
- Cỡi nó ra khỏi cổ ngay lập tức! - tên cán bộ miền Nam giận dữ ra lệnh.
- Còn lâu. Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó. Cây thánh giá này sẽ theo tôi xuống lòng đất khi tôi chết. Tín ngưỡng là một quyền thiêng liêng, các ông lấy quyền gì mà bắt tôi từ bỏ. Bộ muốn cấm đạo hả? Cây thánh giá này tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi cỡi ra?
Tức thì mấy tiếng "huỳnh huỵch" vang lên, có lẽ họ đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ miền Nam nghiến răng hằn học:
- Đạo gì hả? - "Bình bịch", tiếng cán bộ đánh đấm vào người anh Dũng vang lên một hồi. Đ... mẹ. Nè đạo...
- Ự.. ự! - Anh Dũng rên lên. Tôi theo đạo gì kệ tôi, mắc mớ gì các người...
- Muốn chết vì đạo hả? - "Bộp bộp" mấy cái. Tao cho mày chết...
Có lẽ chúng đang đánh vào đầu vào mặt của anh Dũng. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng "ự, ự" từ miệng anh Dũng nặng nề vang lên.
- Bớ người ta, chúng đánh người. Họ giết chúng tôi... - tiếng anh Được gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn.
Những tiếng "huỳnh huỵch", "bồm bộp" khác lấn át tiếng la của anh Được. Có lẽ chúng đang đánh hai anh bằng gậy hay vật gì cứng lắm vì những tiếng "thình thịch" vang lên rất khô khan. Tiếng "ự ự" từ cổ họng hai yếu dần. Anh Dũng và anh Được đang bị chúng đánh hội đồng. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng rên rỉ đứt khoảng rồi im bặt. Bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm khắp trại giam. Chúng tôi chỉ thấy một vài tên công an chạy ra chạy vào hớt hải từ phòng tra khảo với nhà trại trưởng.
Đêm hôm đó, trong phòng giam tập thể không ai ngủ được, chúng tôi lo âu cho số phận hai anh. Sáng hôm sau, cán bộ quản trại cho hay hai anh Dũng và Được đã "hành hung cán bộ và cắn lưỡi tự tử chết" vào lúc giữa đêm. Hành hung cái gì? Tự tử cái gì? Hai người tàn tật bị công an quản trại đánh đập tới chết rồi nói là tự tử. Bốn người được lệnh quản trại kêu ra lên văn phòng khiêng xác hai anh chôn ở một góc trại. Những trại viên khác vẫn bị kêu ra điểm danh và đi lao động như thường lệ.
Chiều tối về, anh em chúng tôi chạy xúm lại quanh bốn người hồi sáng được lệnh mang xác hai anh Dũng và Được đi chôn hỏi han. Họ thuật lại rằng xác hai anh mang đầy vết tím bầm, khóe miệng hai anh còn máu rỉ ra, con mắt còn sáng của anh Được bị xưng tím đen, mặt anh Dũng thì dính đầy máu. Máu từ các vết thương cũ ở chân và cánh tay hai anh đều khô đen, dính đầy quần áo. Ngực và lưng của anh Dũng chằng chéo những vết tím đen. Hai anh có lẽ bị chết vì những vết thương ở đầu, dưới tóc hai anh máu khô bám chặt, cạy không ra. Trước khi bó xác hai anh vào hai tấm chiếu, bốn người này phải ký vào biên bản xác nhận hai anh tự tử rồi mới được mang xác đi chôn. Các anh đào lỗ chôn dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của hai cán bộ công an và chỉ được phép cấm một cây cọc ở đầu hai nấm mộ để ghi dấu. Không ai được quyền than khóc và cũng không được khắc tên hai anh trên cọc gỗ để ghi nhớ. Chôn cất xong, bốn anh được phép nghỉ ngơi nửa ngày, sau đó vào phụ nhà bếp.
Từ đó trở đi cuộc sống trong trại trở nên ngột ngạt, quan hệ giữa tù và cán bộ quản trại trở nên gượng gạo. Những cuộc thăm nuôi càng lúc càng bị kiểm soát gắt gao, cán bộ quản trại sợ những trại viên viết thư ra ngoài kể lể sự việc nên gia đình người thăm bị lục soát rất kỹ. Có vài người bị bắt giữ lại suốt một ngày vì lén mang thơ của trại viên ra ngoài, họ phải làm bản tự kiểm thảo trước khi được cho về hôm sau. Trại viên viết thư lén bị cúp thăm nuôi nhiều tháng và còn bị giam vào côn néc ở khu cách ly cùng với ông bác sĩ.
Những cán bộ lớn tuổi miền Bắc còn chút tử tế, chỉ ra lệnh xuông nhưng không chửi bới, những cán bộ trẻ tuổi thì ăn nói rất là vô lễ, chúng gọi tất cả mọi tù nhân bằng "thằng" và hống hách như thời phong kiến. Mỗi lời nói ra là có tiếng "đ... mẹ, đéo bà" đi theo. Tôi nghĩ nếu có vũ khí trong tay có lẽ chúng tôi đã giết chúng từ lâu. Thương gì bọn người này, chúng quên rằng đời người còn dài, trái đất này rất hẹp, có ngày chúng tôi sẽ sẽ gặp lại chúng đòi nợ, chúng không trả món nợ này ngày hôm nay thì con cháu chúng sẽ trả ngày mai. Ác nhân quả bảo, luật nhân quả luôn luôn đúng.
* * *
Ngày ra khỏi tù, tôi về lại với gia đình, trong lòng khắc sâu nỗi hận. Tôi hòa nhập vào kiếp sống phế binh, kiếp sống của những người có miệng nhưng không có tiếng nói, có mắt phải như người mù, có trí khôn giả như lú lẩn. Chúng tôi là thành phần cặn bã không có quyền sống bình thường trong xã hội này.
Hôm nay viết những dòng thô thiển này nói về kiếp sống gian truân của một phế binh Việt Nam Cộng Hòa gởi đến quí vị. Chúng tôi chỉ muốn được sống trong danh dự như mọi người khác nhưng không được. Kính mong quí vị đang sống khắp nơi trên thế giới cứu giúp chúng tôi và dang rộng vòng tay từ thiện cứu vớt những người tàn phế đang sống nhục nhằn trên đất nước đau khổ này.

Viết lại theo lời kể của Khát Vọng,
phế binh cụt chân trái, hiện cư ngụ tại Long Hải, Vũng Tàu

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển


Chương 11: Quê hương tôi, một miền đất khổ


Tôi sinh ra và lớn lên tại xã An Hảo, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, một tỉnh miền Trung nước Việt. Với cái tên hiền hòa Bình Định, quê hương tôi đúng ra là một miền đất khổ. Thời nào cũng vậy, người dân quê làm thì rất nhiều nhưng ăn chẳng được bao nhiêu, đất cày lên sỏi đá, quanh năm làm lụng ăn chẳng đủ no. Thêm vào đó là tai trời ách nước, mỗi năm không biết bao nhiêu cơn bão phủ xuống đầu dân quê, lũ lụt, hạn hán phá hoại mùa màng. Rồi chiến tranh và bệnh tật, trong suốt 500 năm qua vùng đất Bình Định không biết đã trải qua bao nhiêu lần chinh chiến, dân chúng gánh chịu không biết đau thương và tang tóc. Không một gia đình nào, một người Bình Định nào không có một gia phả đau buồn. Mỗi lần thiên tai và chiến tranh đi qua, bệnh tật và chết chóc lại xuất hiện. Sống mãi với bất hạnh, bất hạnh trở thành quen thuộc.


Ngày xưa (1471) vua Lê Thánh Tông mang quân vào đánh Chiêm Thành, rồi chiếm thành Đồ Bàn (Vijaya). Có lẽ đây là vùng đất bất an và loạn lạc nên vua Lê mới đổi tên thành Bình Định, nhưng từ đó đến nay chưa bao giờ Bình Định có được bình yên và ổn định, chiến tranh và loạn lạc là bạn đồng hành của người địa phương. Nhiều người nói dân Bình Định đang trả cái giá về những hận thù mà cha ông ngày trước đã gây ra? Điều này tôi không dám lạm bàn, chỉ xin kể đôi lời về nỗi gian truân trong cuộc sống của tôi.

Sống triền miên trên miền đất khổ, đời sống tuy có nghèo cực nhưng người dân Bình Định luôn luôn bất khuất. Không thời nào không có những người dám đứng lên đương đầu với bạo quyền, trừ gian diệt bạo. Mặc dù vậy, người dân Bình Định rất yêu chuộng công bằng và lẽ phải, luôn luôn đáp lời sông núi, sẵn sàng bảo vệ quê hương và những lý tưởng cao đẹp trong cuộc sống. Trực diện thường xuyên với nỗi hiểm nguy, người dân Bình Định luôn nêu cao tinh thần thượng võ: "Ai về Bình Định mà coi, đàn bà cũng biết cầm roi đi hườn". Tài nguyên duy nhất nơi đây là dừa, những rừng dừa xanh bát ngát trải dài từ Tam Quan đến tận Sa Huỳnh, mang bóng mát cho những làng chài lưới ven duyên. Cho nên đã có câu "Công đâu, công uỗng, công thừa, công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan".
Cha tôi người làng Phú Trung, vì gia đình nghèo khó nên phải rời làng lên lập nghiệp ở xã An Nghĩa, nơi đây ông gặp mẹ tôi cùng lập gia đình. Nhưng rồi chiến cuộc lan tràn, đời sống khó khăn, ông mang cả gia đình về lại quê cũ, rồi theo phong trào Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Trong một trận đánh tại đèo Mang Yang năm 1954, ông chẳng may bị quân Pháp bắn chết, mẹ tôi đau thương buồn tủi dẫn tôi về quận Hoài Nhơn. Đời sống gia đình vốn đã khó khăn nay càng khốn khó, bà phải ngày đêm vất vã nuôi tôi nên vóc nên người nhưng vì sức già yếu đuối chẳng bao lâu sau lâm bệnh nặng rồi qua đời. Năm đó tôi vừa10 tuổi.
Tôi sống trong cảnh mồ côi, sống nhờ sự thương yêu và đùm bọc của ông bà nội. Tôi theo nghiệp nông gia, làm lụng vất vùùả, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nhưng vẫn cố bám lấy quê cha đất tổ. Sống trong cảnh thái bình được một vài năm, chiến tranh lại bùng nổ. Năm 1960, quân cộng sản từ miền Bắc xâm nhập vào các thôn xóm phát động khởi loạn. Quê hương tôi một lần nữa đắm chìm trong khói lửa chiến tranh, lòng người chia rẽ. Thanh niên miền rừng núi thoát ly theo cộng sản, thanh niên vùng đồng bằng gia nhập quân đội quốc gia. Anh em, bạn bè ngày trước trở thành thù địch, quay mặt bắn giết lẫn nhau, gây bao đau thương tang tóc cho mỗi gia đình.

Năm 20 tuổi, tôi gia nhập lực lượng Biệt Kích tại quận Hoài Nhơn. Vừa vào quân ngũ, tôi được người Mỹ huấn luyện qua loa cách sử dụng các loại vũ khí tối tân trong một căn cứ gần quận Phù Cát, rồi sau đó đưa đi tác chiến. Vì không phải là thành phần quân đội chính qui, chúng tôi không có số quân và cũng không có thẻ bài, người nào chẳng may tử trận hay bị thương tật không tác chiến được nữa thì lãnh 12 tháng lương rồi cho giải ngũ. Chấm hết. Không có sổ tướng mạo quân vụ hay có tên trong sổ quân bạ. Có anh vào lính ngày hôm trước, ngày hôm sau gia đình đã lãnh tiền tử. Binh chủng chúng tôi có tên gọi là Lực Lượng Đặc Biệt hay Biệt Kích Mỹ, một đội quân cảm tử chuyên nhảy bằng trực thăng xuống những mật khu cộng sản trong vùng rừng núi phía Tây Bình Định, đánh phá xong là được trực thăng đến bốc về ngay. Cấp chỉ huy của chúng tôi gồm cả người Mỹ lẫn người Việt.

Thế là tôi lao vào cuộc chiến hành quân liên miên. Tuy biết là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nhưng vì muốn bảo vệ quê hương chúng tôi quyết ngăn chặn bước chân quân thù. Lực lượng đặc biệt có nhiệm vụ nhảy vào các mật khu, gài mìn đường mòn Hồ Chí Minh, đánh sập cầu cống và công sự chiến đấu, phá hủy các kho đạn và kho gạo, vì với những cơ sở hạ tầng và phương tiện này địch quân sẽ dùng để đánh phá, sát hại thêm đồng bào vô tội. Vì qui luật sinh tồn, chúng tôi phải lanh tay lẹ mắt, mưu mô giống quân du kích cộng sản nếu không sẽ bị tiêu diệt. Đối với những người cộng sản, chúng tôi là "biệt kích Mỹ ác ôn", kẻ thù không đội trời chung. Người nào chẳng may bị cộng quân bắt sống khi bị thương hay trực thăng không đến bốc kịp thì kể như đời tàn, cái chết ghê rợn đã được dành trước.

Dân chúng miền quê cũng thường bị chết lây vì bom đạn của hai bên. Lăng tẫm, miếu đường, kỳ quan, di tích, cả hàng dừa rợp bóng quê hương xác xơ trong khói lửa chiến tranh. Làng tôi cũng không tránh khỏi cảnh đạn bom, không những thế mà còn bị cày xới nhiều lần. Nước mắt và tiếng than van người dân Bình Định vang dội cả bầu trời xanh. Quê hương tôi loang lỗ hố bom, nhà tan cửa nát, tang tóc bao trùm. Nghĩa địa nào cũng đầy nghẹt mộ bia. Vào rừng một vài bước đã gặp cái chết, chết vì dẫm phải mìn, bị bắn sẻ hay lọt vào các bẫy sập. Các làng mạc vắng bóng thanh niên, chỉ còn lại các cụ già, phụ nữ và trẻ em cày sâu cuốc bẫm dưới ánh nắng chói chang trên các rẫy bắp, nương khoai. Đời sống thật là cơ cực.

* * *

Bạn bè, đồng đội tôi lần lượt nằm xuống. Rồi một ngày kia đến lượt tôi. Đó là ngày 8 tháng 10 năm 1966, tiểu đội tôi gồm bảy người được trực thăng vận thả xuống một vùng rừng núi quanh thôn Đại Định, xã An Hòa, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Mỗi trực thăng chở một tiểu đội, lần này chúng tôi đi trên mười trực thăng, tức một đại đội. Chúng tôi có nhiệm vụ gài mìn con đường mòn tiếp tế từ miền Bắc vào. Đây là một địa điểm giao liên chiến lược của cộng quân trước khi phân tán đạn dược xuống vùng đồng bằng. Bằng mọi giá chúng tôi phải phá tan chốt này. Tiểu đội tôi ai nấy đều trang bị đầy mìn và chất nổ, ba lô ai cũng nặng trĩu quân cụ.
Đổ bộ bằng trực thăng vận là chiến thuật mà các tướng lãnh Hoa Kỳ gọi là chiến thuật "mưa chớp đầy trời". Trước khi đổ bộ, máy bay oanh tạc, trọng pháo ầm ầm nả xuống, trực thăng "rắn hổ mang" Cobra bay lượn chung quanh địa điểm đổ quân bắn rốckét và đại liên như mưa vào những bụi rậm, ụ đất tình nghi có quân địch nấp rồi mới đổ bộ. Chiến thuật này không thể thất bại, khu vực đổ quân phải được dọn sạch trước khi nhảy xuống. Nếu không có những tên phản bội làm nội gián báo trước cho địch quân thời gian và địa điểm đổ quân để ẩn trốn trước thì chúng tôi không bị hao tổn nhân mạng như lần này.

Tiểu đội vừa nhảy hết xuống, đội hình chưa kịp dàn ra thì súng đại liên và CKC của địch từ ba hướng thi nhau khạc đạn, những tràng lửa đỏ bắn xối xả vào đội hình phe ta. Thêm vào đó là đạn cối của đối phương từ xa dội tới ầm ầm trên đầu chúng tôi. Chúng tôi bị lọt vào ổ phục kích, địa điểm đổ quân bị lộ, địch quân đã biết trước. Một chiếc trực thăng bị trúng đạn cối nổ tan tành. Những chiếc Cobra tiếp tục bay lượn khạc đạn giải vây. Tiếng ầm ầm vang dội khắp nơi, khỏi lửa bốc lên mịt mù, đất bụi văng tứ tung. Đội hình chúng tôi rối loạn, từng người, từng người một lần lượt ngả xuống, máu thịt văng vãi tứ tung. Viên trung sĩ Mỹ, tiểu đội trưởng của tôi, ngả gục đầu tiên, kế là anh giữ máy truyền tin. Một viên cố vấn Mỹ, cấp bậc trung úy, từ phía sau bò lên chụp máy gọi về hậu cứ tiếp viện giữa tiếng súng đạn. Mùi thuốc súng trộn lẫn mùi thịt khét và máu tanh tạo mùi tử khí ghê rợn. Tôi nằm úp mặt sát đất, nghe ngóng tình hình và tìm chỗ núp nhưng... không kịp. Một tiếng "ầm" khô khan vang lên bên cạnh, tôi chỉ kịp thấy đất bụi văng lên. Thân tôi hình như bị hất lên khỏi mặt đất rồi... không còn biết gì nữa.

Không biết thời gian trôi qua bao lâu, tôi mơ màng nghe có tiếng rên siết từ xa vọng lại. Tôi có cảm giác như đang hít thở một không khí mát mẽ pha lẫn mùi ê te. Thân thể tôi đau đớn nặng nề, tứ chi không cực cựa nổi. Tiếng rên siết, kêu la càng lúc càng rõ bên tai làm tôi dần dần hồi tỉnh và mở mắt ra. Khung cảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là bốn bức tường sơn trắng và những bóng đèn màu xanh phát ra một thứ ánh sáng mờ ảo, ảm đạm. Tôi thắc mắc không biết mình đang ở nơi đâu.

Liếc nhìn xuống thì thấy hai tay tôi bị băng bó, những dây ống nhựa chằng chịt quanh người. Tôi thử nhúc nhích mấy ngón tay thì thấy chúng cực cựa khó khăn. Nhúc nhích mấy ngón chân, tôi không cảm thấy gì. Ngạc nhiên, tôi nhìn xuống dưới thân thì, hỡi ơi, chỉ còn hai khúc băng trắng xóa dính máu đỏ ở mỗi đầu. Tim tôi co thắt lại. Thôi rồi, tôi bị người ta cưa mất hai khúc chân. Tôi thử cử động lần nữa hai chân để xem có đúng sự thật hay không thì quả như vậy, tôi bị cưa mất hai chân rồi. Hai khúc chân cụt ngủn, nằm trong cuốn băng trước mắt.

Suốt ba tháng trời trăn trở với cơn đau trong quân y viện dã chiến của Mỹ, tôi được trả về đơn vị chủ quản tại quận Hoài Nhơn. Nằm được năm hôm, viên đại úy chỉ huy đơn vị kêu tài vụ trả cho tôi 12 tháng lương rồi cho về nhà. Thật là giản dị, mất sức chiến đấu thì cho về vườn. Tôi không được cấp một mảnh giấy nào khác để xác nhận bị thương.

Làm gì với tấm thân tàn này? Buồn và nhục thay cho kiếp phế binh. Phép mầu khiến tôi tồn tại cho đến ngày hôm nay là nhờ vào tấm lòng chung thủy sắt son của vợ tôi, một người đàn bà suốt đời chỉ biết tảo tần, chạy vại thương chồng, nuôi con, không hề than thở một lời. Vợ tôi chỉ biết khóc thương cho thân tôi, rồi ân cần chăm sóc tôi tới ngày vết thương lành hẳn.

Chiến tranh ngày càng khốc liệt, chết chóc, tang thương bao trùm đất nước. Gia đình nào cũng có con đi lính, trai tráng trong làng không theo phe này cũng theo phe kia. Vùng quê tôi đã nghèo nay càng xác xơ. Nông dân mất đất trồng cây, vườn tược, ruộng nương đều là bãi chiến trường, không nơi nào còn được an toàn.

Vợ tôi làm lụng ngày một cực khổ hơn, tôi chỉ biết đau xót thương yêu và buồn tủi cho số phận. Đến năm 1973, không kham nổi cảnh khổ tại quê nhà, tôi cùng vợ và hai con thơ ngậm ngùi rời miền quê cha đất tổ, bồng bế nhau cùng với số đông bà con hàng xóm vào Nam lập nghiệp.

Chúng tôi đi theo chương trình khẩn hoang lập ấp, người cày có ruộng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đây là một chương trình mới ký sau Hiệp định Paris trong mục đích giành dân giữ đất. Chính phủ cung cấp cho mỗi gia đình một căn nhà gỗ xây tạm bợ trên một mảnh đất cùng một số tiền, rồi mỗi gia đình tự túc khai thác sinh nhai. Gia đình chúng tôi được đưa đến Ấp Tân Khai 1, tỉnh Bà Rịa, lập nghiệp. Các loại ấp tân khai trong giai đoạn này vừa là nơi sinh sống vừa là công sự phòng chống quân cộng.
Đất khách quê người, chúng tôi lạ người, lạ cảnh, lạ cả phong tục và thủy thổ. Thêm vào đó là ngôn ngữ bất đồng, người ta cứ chọc ghẹo nhại cách phát âm của chúng tôi, nhưng chúng tôi chỉ biết im lặng và chịu đựng. Vợ tôi một lần nữa ra tay khai phá rừng chồi, cuốc đất trồng khoai cho chồng con có cái ăn, cái mặc. Tôi chỉ có thể phụ giúp những việc vặt vãnh như nhổ cỏ, lên liếp trồng mì, khoai lang, dựng dàn bầu mướp, nuôi gà , đan lát tre mây và canh chừng trẻ nhỏ.

"Đất cũ đãi người mới", cuộc sống đi dần vào ổn định. Gia đình chúng tôi là những người may mắn vì sống được nơi vùng đất xa lạ này, nhiều gia đình khác kém may mắn hơn. Có người đã bỏ thây trong chốn núi rừng vì không chịu nổi sơm lam chướng khí và bệnh tật, nhiều người đỏ bỏ về quê hoặc đi nơi khác. Ấp tôi qui tụ rất đông bà con di dân từ quận Hoài Nhơn vào Nam lập nghiệp. Chúng tôi sống quay quần bên nhau, giúp đỡ và canh chừng lẫn nhau nên cuộc sống cũng bớt phần hiu quạnh. Những buổi chiều chúng tôi hẹn nhau ra bãi cỏ ngồi tán ngẫu, nhắc lại những kỷ niệm xưa hay chỉ vẻ cho nhau những kỹ thuật trồng trọt khoai sắn, bắp rẫy, v.v...


Hai con tôi, một trai một gái, lần lượt lớn lên. Đứa con gái giống tính mẹ nó, cần cù, đảm đang và chịu đựng; thằng con trai thì hăng say lao động, thay mẹ làm việc nặng nhọc, nhờ đó vợ tôi bớt phần cực nhọc. Hai trẻ rất là ngoan hiền, đó là niềm an ủi lớn cho cả gia đình. "Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi đãi lão", trong thời buổi khó khăn này gia đình nào có con đông tuy phải mệt nhọc lúc chúng còn nhỏ dại nhưng là một bảo đảm khi chúng lớn lên. Năm 1975, chiến tranh kết thúc, con trai của tôi cũng vừa tới tuổi trưởng thành, chúng tôi mừng rỡ vì nó không phải đi lính, như vậy cũng bớt lo cho mạng sống của nó. Kể ra chúng tôi thật là may mắn, nhiều gia đình hàng xóm có con tới tuổi đi quân dịch nhiều đứa đã không trở về.
Sau ngày 30-4-1975, đường lối chính sách của nhà cầm quyền mới hoàn toàn thay đổi, cuộc sống trở nên khó khăn. Gia đình tôi thường xuyên ăn độn ngô khoai cho đỡ đói và cứ sống như vậy cho tới ngày hôm nay. Tại nơi tôi ở, nhiều gia đình khác từ các thành phố lớn lên đây lập nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới được thành lập chung quanh để đón nhận số người này. Thật là tội nghiệp, tôi đã chứng kiến những thanh niên thiếu nữ chưa bao giờ biết cầm rựa đốn cây, cầm mai cuốc đất, sống vất vã trong chốn rừng sâu. Nhiều người đã đến nhà tôi để học nghề làm rẫy, trong số này có nhiều gia đình phế binh. Dần dần các anh em phế binh tại đây kết hợp lại, thành lập một chi bộ đế sinh hoạt và đùm bọc lẫn nhau. Những tin tức liên quan đến hoàn cảnh các anh em phế binh từ các thành phố lớn lan về đây nhanh chóng.

Nghe đồn các anh em phế binh ở thành phố Sài Gòn được các hội đoàn, ân nhân, mạnh thường quân ở nước ngoài gửi tiền quà về giúp đỡ, cuộc sống của họ đỡ phần cơ cực. Một vài anh phế binh tốt bụng từ thành phố về chơi, thấy hoàn cảnh thương tật của chúng tôi, chỉ cho anh em chúng tôi phương cách xin trợ giúp. Nghe nhiều anh em phế binh kể lại, anh Nguyễn Văn Tân một phế binh ở làng dưới có viết thư liên lạc với một số hội đoàn và ân nhân tại hải ngoại. Theo lời kể lại, muốn được giúp đỡ, chúng tôi phải gởi ra hải ngoại các giấy tờ chứng thương để làm bằng chứng.


Vết thương thì tôi có nhưng giấy tờ thì không vì tôi là biệt kích Mỹ, không có số quân cũng không có sổ quân bạ. Khi bị cưa chân, người ta đã trả cho tôi 12 tháng lương rồi cho giải ngũ, sau đó là hết. Kể cũng buồn, nhưng đó là chuyện đã qua. Tôi không được cấp sổ trợ cấp phế binh và cũng không được hưởng những tiêu chuẩn ưu đãi dành cho thương phế binh miền Nam cũ. Bây giờ tìm đâu ra giấy tờ chứng thương để xin đồng bào hải ngoại trợ giúp, như vậy là tôi không hội đủ tiêu chuẩn để xin. Qua bao đêm trăn trở, hơn nữa lúc này kinh tế gia đình tôi quá khốn khó, tôi đánh bạo lặn lội hỏi thăm và tìm đến nhà anh Tân xin được hướng dẫn.
Vào được nhà anh Tân tôi đâm thất vọng. Tôi cứ hình dung anh Tân là người có nhiều quan hệ với cộng đồng người Việt hải ngoại thì gia đình anh chắc sẽ khá lắm. Nào ngờ nhà anh không khác gì nhà tôi, gia đình anh Tân đông con cái chen chúc ở trong một căn nhà lá rách nát, từ nhà trong ra đến nhà ngoài không nơi nào không lỗ chỗ ánh nắng từ mái nhà dọi xuống. Trong nhà không có một món chi đáng giá, thậm chí không có cả bàn ghế để tiếp khách. Anh viết lách, tiếp khách ngay trên bộ ngựa.

Tôi thầm nghĩ gia cảnh anh như vậy, lo còn không nổi thì còn giúp gì được ai. Nhưng khi tiếp xúc với tôi, nghe anh hỏi thăm cặn kẽ từng chi tiết, từ quê hương xứ sở đến cuộc đời binh nghiệp, đơn vị và những người đã từng chỉ huy tôi trước kia, bị thương tật trong hoàn cảnh nào, được điều trị ở đâu và giải ngũ ra sao. Có những việc tôi quên, anh nhắc nhở gợi lại cho tôi từng chi tiết nhỏ, đúng là tư cách của một cựu sĩ quan.

Sau lần trao đổi đó, tôi rất hy vọng vì nhận ra anh Tân là người biết nhiều và cẩn thận. Người mà anh giới thiệu cho tôi là ông bác sĩ Phan Minh Hiển, Hội Médecins du Vietnam tại Pháp. Vì theo anh, ông bác sĩ Hiển là một con người nhơn hậu đã từng giúp đỡ rất nhiều anh em phế binh tại quê nhà và rất được anh và anh em phế binh tại quê nhà kính trọng. Chính anh Tân cũng được ông bác sĩ Hiển tặng cho một chiếc xe lắc tay. Anh vừa nói vừa chỉ cho tôi thấy chiếc xe dựng trong một góc nhà. Điều mà tôi tin tưởng và cảm động là anh nhiệt tình viết đơn cho tôi mà không nhận một đồng bạc nào, đến điếu thuốc của tôi mời anh cũng không hút. Tôi ra về với niềm hy vọng tràn trề.

Đơn xin trợ cấp của tôi vừa được gởi đi thì hơn 20 ngày sau tôi nhận được thư báo ông bác sĩ Hiển sẽ cho tôi 270 F. Tôi mừng run lên và bối rối vì không biết làm cách nào để nhận số tiền đó. Nhận ở đâu, trị giá của 270 F được bao nhiêu tiền Việt Nam? Những câu hỏi đó làm tôi hồi hộp và lúng túng. Đến khi nhận được giấy bão lãnh tiền, 270 F trị giá hơn sáu trăm ngàn (600.000) đồng, cả nhà chúng tôi hân hoan vô tả. Nhất là vợ tôi, một người đàn bà quanh năm, suốt tháng chỉ biết làm lụng vất vã, chắt chiu từng đồng xu, cắc bạc, nay đột nhiên có một số tiền quá lớn trong tay giữa lúc gia đình đang lâm cảnh túng thiếu, đúng là một phép lạ, không có lời nào tả xiết. Chúng tôi chỉ biết tạ ơn Trời Phật đã tìm người nhơn đức giúp đỡ gia đình.


Việc đầu tiên gia đình tôi nghĩ đến là gia đình anh Tân, chúng tôi tìm cách đền ơn đáp nghĩa một người cũng lâm vào cảnh khốn khó như mọi người khác nhưng đã tận tình giúp đỡ đồng đội vượt qua cơn khó. Anh Tân nghe tôi kể được ông bác sĩ Hiển trợ giúp, anh mừng lắm. Đến khi nghe tôi đề cập đến tiền trà nước, anh thẳng thắn trách tôi: "Chúng mình đều là nạn nhân của cuộc chiến, giúp đỡ nhau là bổn phận. Mình là chiến hữu đồng cam cộng khổ, đừng để chuyện trà nước xen vào tình anh em, nó làm mất đi nghĩa tình cao đẹp. Chỉ mong anh ráng sử dụng đồng tiền đó cho hợp lý để khỏi phụ lòng những vị ân nhân đã tận tình giúp đỡ mình". Tôi cúi đầu bẽn lẽn xin anh Tân tha lỗi.

Sau đó tôi nhờ anh thảo thư cảm ơn ông bác sĩ Hiển cùng vị ân nhân là bà Trương Quế Vinh ở Mỹ. Từ đó tôi thường tới lui thăm viếng anh và được anh Tân giúp đỡ thêm bằng viết thư đến các hội đoàn và các ân nhân khác xin trợ giúp. Tôi lần lượt được các ông bà Như Ngọc, Lê Đình Vọng, Hải Lăng ở Mỹ, v.v... cho tiền cứu trợ. Thật là vui sướng. Tôi cảm thấy chân trời rực sáng, gia đình tôi đã được cứu rỗi. Thêm vào đó, ông bác sĩ Hiển còn vận động kêu gọi các vị ân nhân khác trợ giúp cho cháu nội tôi (8 tuổi) học đến hết đại học, ôi còn diễm phúc nào bằng. Trước mặt tôi bóng đêm mờ xóa, bình minh đang ló dạng đón chào ánh sáng tình người. Tôi đã sử dụng đồng tiền trợ giúp của ân nhân vào việc canh tác trồng trọt, chăn nuôi. Vợ cũng bớt vất vã, con cháu hăng say học tập, không khí gia đình vui tươi đầm ấm. Quí vị ân nhân đã kéo bức màn đen tối phủ kín cuộc đời chúng tôi, kể từ đây chúng tôi dám sống trong hy vọng, tin tưởng ngày mai sán lạng. Nhìn đàn con cháu lớn lên trong sự vô tư, lòng tôi vô cùng vui sướng, nỗi buồn số kiếp phế binh mờ dần trong tâm tưởng, nhân phẩm đã tìm lại được. Vạn tạ ơn Trời Phật.

Tôi muốn hét lên thật to: "Chân thành cảm tạ ân sâu nghĩa nặng của ông bác sĩ Hiển, của quí vị ân nhân ở hải ngoại. Quí vị đã đem đến cho gia đình tôi luồng sinh khí mới, quí vị đã thương yêu và đùm bọc gia đình chúng tôi. Tôi chỉ biết nói hai chữ cảm ơn vì không tìm được chữ nào cao quí ngang tầm ân đức của quí vị. Cầu chúc gia quyến quí vị ân nhân gặp vạn sự lành, sức khỏe quí vị ân nhân luôn khang kiện, hoàn thành mỹ mãn công đức từ thiện giúp đời, cứu người".


* * *

Như đã nói, đứa con đầu lòng của tôi trưởng thành theo thời gian. Nhờ số tiền các ân nhân gởi về, tôi không cho nó tiếp tục nghề nông và gởi nó đi theo bạn chài nghề đánh cá. Con trai tôi đã lập gia đình và có một đứa con. Hai vợ chồng chúng nó đã ra ở riêng, cách nhà tôi độ năm cây số. Từ hơn một năm qua, con trai của tôi được đội tàu đánh cá thu nhận vào làm công. Sau đây là mẫu chuyện mới nhất do nó kể lại, xin hiến cùng quí ân nhân:

Ngày 31-10-1997, tôi lại ra khơi đánh bắt thủy hải sản như thường lệ. Sau khi lấy sở tổn đầy đủ: than, gạo, rau, me, hành, ớt, mắm, muối..., thuyền trưởng kiểm tra toàn bộ máy móc: máy chính, máy phụ, máy đèn, máy định vị, địa bàn, máy liên lạc với tổng đài, các thứ đều tốt. Thuyền bắt đầu ra khơi. Trên thuyền, hai mươi ngư dân ai vào phận sự ấy. Với tâm trạng hăng hái, hy vọng tàu đánh bắt khá, đến mùa trăng tròn mọi người được chia tiền mang về nuôi sống gia đình, vợ con. Cùng ra khơi với thuyền tôi là thuyền của Tám Công, một chủ ghe ở Bà Rịa.

Mãi vui say với sống nước bao la, đúng 1 giờ sáng ngày 2-11-1997, tổng đài chính trong bờ thông báo: cơn bão số 5, tên quốc tế là Linda, đang tiến về phía bờ biển Việt Nam, sức gió rất mạnh, kèm theo mưa to gió lớn và có thể có cả sóng thần, tỉnh Bình Thuận đang bị cơn bão tàn phá nặng nề. Nghe tổng đài thông báo xong, ai cũng tưởng như mọi khi, có bão rồi cũng qua thôi, mặc dù vậy anh em trên tàu ai nấy cũng đều chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với cơn bão.

Tờ mờ sáng ngày 2-10, trời có sắc lạ, kèm theo những cơn mưa nặng hạt, gió giật từng cơn mỗi lúc càng thêm mạnh. Những cơn sóng lớn phủ dập trước mũi thuyền, hông thuyền càng lúc càng bị lay mạnh. Trời đất tối sầm lại đến nỗi hai thuyền cách nhau khoảng 20 thước mà không còn thấy nhau nữa. Sóng to gió lớn liên tục phủ xuống, những hạt mưa to nặng nề trút xuống. Mọi người trên thuyền ai nấy đều lo âu. Lần này không còn giỡn mặt được nữa, bão đến thật rồi. Ai vào phận sự nấy, khẩn trương đương đầu với bão. Điện đài lúc rõ lúc không. Đài chính trên bờ phát ra liên tục tín hiệu kêu thuyền cấp tốc vào đảo Côn Sơn tránh bão.
Tiếng gió, tiếng mưa và tiếng sóng ào ào phủ dập vào thuyền. Tiếng người trên thuyền gào thét giữa tiếng vang dội của cơn bão, không ai còn nghe gì rõ nữa. Bỗng một ai đó trên thuyền kêu lên: "Thuyền Tám Công chìm rồi, mau đến cứu hộ!". Thuyền trưởng tôi vội pha đèn lên, thuyền tôi trồi lên trụt xuống giữa các đợt sóng lớn cao hơn một vài tầng nhà. Sau rồi chúng tôi cũng thấy lấp loáng được hơn hai mươi người đang ôm những thùng nhựa vùng vẫy giữa biển khơi mịt mù sóng gió. Thuyền trưởng vội lái thuyền đến vớt những người bất hạnh. Chúng tôi thi nhau tung dây xuống biển, ai đu được dây thì đu. Nhưng hỡi ơi, thuyền tôi mỗi lúc càng bị sóng đánh bạt sang hướng khác. Chúng tôi chỉ kéo lên được tám người, những người xấu số kia bị cuốn theo dòng nước. Càng cố lái về vị trí cũ thuyền cứ bị sóng đánh bạt sang hướng khác.

Trong cảnh trời đất mịt mùng đó, chúng tôi nghe văng vẳng tiếng người kêu cứu, nhưng chúng tôi không biết họ đang ở hướng nào và thuyền cũng không còn điều khiển nổi để đến cứu họ vì cơn bão quá mạnh. Chúng tôi chỉ còn cách giữ máy thuyền nổ đều và để cho con nước cuốn đi. Sóng vẫn to, gió vẫn giật, tiếng rít vang dội hòa lẫn với tiếng gào thét kêu cứu từ xa nhưng chúng tôi đành bất lực. Bất thần một con sóng thần cao bằng ngôi nhà năm tầng phủ ập thẳng xuống tàu, thuyền tôi chìm hẳn xuống nước một vài phút mới trồi lên lại, tất cả máy móc và đèn đuốc trên thuyền đều tắt ngấm. Thuyền trưởng cho kiểm lại số người trên tàu thì phát hiện hai người bạn chài vừa được cứu và một người của thuyền bị sóng cuốn đi, anh em dáo dát nhìn chung quanh không thấy gì cả, chỉ thấy sóng nước đe dọa. Thuyền bị ngập nước, lé đé sắp chìm. Ai nấy lo tuôn đồ xuống biển và chuẩn bị nhảy xuống biển. Trong cơn hỗn loạn, tiếng anh thuyền trưởng hô lên dõng dạc:
- "Anh em hãy bình tĩnh nghe tôi. Đừng rời khỏi thuyền. Rời thuyền lúc này là tự sát. Anh em không được di chuyển lộn xộn, thuyền sẽ chìm do sự mất bình tĩnh của anh em. Hãy cùng tôi vang vái ông bà, cầu nguyên ơn trên, Trời Phật sẽ độ cho chúng ta tai qua nạn khỏi. Anh em hãy bình tĩnh cùng nhau dùng vật gì có thể tát nước ra ngoài thì cứ dùng mà tát. Hãy tuôn những vật nặng trên thuyền xuống biển".

Trước cơn cảnh sóng gió ba đào, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong chớp mắt mà anh thuyền trưởng vẫn bình tĩnh làm anh em tin tưởng. Mọi người ai cũng niệm Phật, van vái phép lạ xuất hiện. Một vài phút sau, con tàu đột ngột bị nước cuốn sang hướng khác. Mừng quá. Có một điều lạ là giữa lúc biển trời sóng mạnh, chỗ thuyền tôi trôi không gợn lên một con sóng nhỏ. Bẹ thuyền lúc này chỉ cách mặt người một vài ly, chỉ cần một gợn sóng nhỏ cũng đưa thuyền tôi chìm xuống biển vì đã lé đé rồi, mặc dù chúng tôi đã bỏ nhiều đồ vật xuống biển, kể cả lồng lưới nặng hàng.
Nhận thấy lời van vái linh nghiệm, không ai bảo ai mọi người đều dùng những gì có được trong tay cùng nhau tát nước, kể cả anh thuyền trưởng. Biển trời vẫn mù mịt, chúng tôi vừa lâm râm van vái vừa kiên trì tát nước. Hai anh thợ máy cũng khẩn trương xuống hầm máy sửa chữa, làm cho máy nổ lại. Độ hơn 5 giờ sau, nước trong thuyền vơi dần. Máy bơm bắt đầu nổ lại bơm nước ra ngoài, chúng tôi được dịp nghỉ tay, nước trong thuyền vơi thấy rõ, thuyền bồng bềnh nổi trên mặt nước và máy chính bắt đầu hoạt động trở lại. Chúng tôi thử liên lạc với tổng đài trên bờ và nghe tiếng trả lời. Thật là mừng. Thế là chúng tôi đã được Trời Phật cứu độ để cho sống sót, chỉ tội hai người bạn được vớt lên và một người bạn trên thuyền giờ đây chẳng biết ra sao, họ trôi dạc nơi nào, còn sống hay đã chết.

Theo lệnh của tổng đài, chúng tôi dò đường vào đảo Côn Sơn, sương mù giăng kín mặt biển. Dãy núi trên đảo lần lần hiện ra trong lớp sương mù, ai cũng mừng rỡ, thuyền tôi trực chỉ về đảo Côn Sơn. Cuối cùng chúng tôi vào được một bến cảng. Lúc ấy khoảng 6 giờ chiều ngày 2-11, sóng vẫn to, gió vẫn mạnh. Khi vào đến đảo, cảnh tượng hết sức hãi hùng. Tất cả thuyền đậu gần đảo đều đứt neo, trôi dạt khắp nơi, nhiều chiếc đã đụng vào nhau, chiếc chìm chiếc nổi. Đó đây rơi vãi những mảnh vụn của thuyền bè bị hư bễ và rác rưởi chập chờn theo bọt sóng. Trên bến, thuyền này chồng cưỡi lên thuyền kia, có chiếc bị sóng đưa lên trên triền đá, kẹt cùứng luôn trên đó. Những gốc dừa trên bờ bị trốc rễ nằm ngổn ngang trên mặt đất. Những dãy nhà xây dựng bằng vật liệu kiên cố cũng tróc nốc, những căn nhà che lợp bằng vật liệu nhẹ chỉ còn chơ vơ nền đất, đồ đạc rơi vãi lung tung. Đó đây lác đác một vài thây người, xác thân bầm dập vì bị thuyền đè hoặc bị va vào vách núi. Cách đó không xa, nhiều người đang khiêng những xác chết xếp hàng dài trong căn nhà đổ nát vừa được dọn dẹp. Chúng tôi không dám buông neo, cứ để máy chạy cầm cự với những đợt sùóng dữ và thay phiên nhau canh giữ thuyền. Có người mệt quá té xỉu.

Trọn một đêm vất vã, sáng ngày 3-11, bầu trời quang đãng trở lại, gió giảm nhẹ, cơn bão đã qua đi. Chúng tôi được phép xuống bộ và chia nhau đi tìm trong số các tử thi xem có thấy xác người bạn trên thuyền cùng hai người bạn khác bị nước cuốn trôi ngoài khơi hay không. Đi qua những thi thể vô tri đó, tôi không khỏi mũi lòng. Ai là thân nhân của những người bạn xấu số này, gia đình có hay biết để đến nhận diện kịp thời hay không, hay họ sẽ được chôn vùi trên hòn đảo này. Tôi lang thang thơ thẫn giữa cảnh hoang tàn đổ nát, lòng rối như tơ vò. Mãi đến khi nghe có tiếng gọi tôi mới vội vàng quay lại thuyền. Anh em ở lại trên thuyền đang sửa soạn chuẩn bị đưa thuyền vào bờ sửa chữa, vá lại các lỗ hỗng. Tôi cũng bắt tay vào việc nhưng tâm hồn bất an. Không biết giờ đây cha tôi trên bờ có bị gì không. Cha tôi là một phế binh cụt cả hai chân, không di chuyển được dễ dàng, liệu có bề gì không. Còn vợ tôi với đứa con còn nhỏ dại, làm sao đủ sức chống bão... Tôi làm việc như người máy. Sau vài giờ phụ giúp anh em, những lỗ hỗng vừa vá xong. Đúng 2 giờ chiều cùng ngày, thuyền chúng tôi rời đảo Côn Sơn trực chỉ đất liền.

Trời quang, gió nhẹ, sau một đêm di chuyển thuyền chúng tôi bình yên trở về bến cũ. Lúc ấy đã khoảng 7 giờ chiều ngày 4-11-1997. Thuyền chúng tôi từ từ tiến vào bờ cùng với ba thuyền hộ tống, phòng có sự cố xảy ra cho thuyền chúng tôi. Vừa cập bến xong, thuyền trưởng liền ra lệnh kéo thuyền lên ụ sửa chữa. Một số anh em được phân công ở lại trông giữ thuyền, tôi cùng vài người khác thuê xe ôm cấp tốc chạy về nhà.

Vừa về đến nơi, sự kiện đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là cảnh hoang tàn, đổ nát. Căn nhà của chúng tôi vừa dựng lên cạnh mép bờ biển bị sụp đổ, nhà cửa tan hoang, vợ con tôi không biết đi nơi nào. Tôi rùng mình liên tưởng đến điều bất hạnh có thể xảy ra gia đình tôi. Tôi vội hỏi thăm mấy người hàng xóm còn đang thu nhặt những đồ đạc bị rơi vãi, họ cho biết hôm xảy ra cơn bão có người trông thấy bà nội các cháu xuống có lẽ rước vợ con tôi về làng trên. Tôi liền chạy bộ về nhà cha mẹ tôi cách đó độ vài cây số. Thật là sung sướng khi nhìn thấy cha mẹ, các em và vợ con tôi được bình yên. Căn nhà của cha mẹ tôi cũng không hơn gì căn nhà tôi ở bờ biển, cũng đổ nát nhưng đã được thu dọn lại gọn gàng, cha tôi lượm vài mảnh tôn che tạm để làm chỗ ngủ. Vạn tạ ơn Trời Đất đã phù hộ gia đình tôi được sống còn đầy đủ trước thiên tai khủng khiếp. Tôi vội chạy về Phước Tĩnh thông báo cho thuyền trưởng và được cho phép về sửa lại nhà vì ghe phải nằm ụ trên một tháng để tu sửa.

Sáng hôm sau, ngày 5-11, cả thị trấn Long Hải náo động vì tàu cứu hộ sẽ vào bến mang theo những nạn nhân bị đắm thuyền trong cơn bão. Thân nhân của những người đi biển kéo nhau ra trạm xá chờ chực cùng với một lực lượng lớn xe Hồng Thập Tự. Xe nào cũng có bác sĩ và y tá túc trực. Gần 8 giờ sáng, chuyến tàu đầu tiên cặp bờ. Dân chúng tụ tập hai bên đường ngóng trông. Ai cũng hy vọng trong đó có thân nhân của mình.

Những người sống sót lần lượt được khiêng lên bờ và được xe Hồng Thập Tự chở đến bệnh viện. Nhìn những thân xác gầy guộc, mặt mày hốc hác vừa thoát chết trở về nằm bất động trên băng ca cố giương mắt nhìn tìm thân nhân, lòng tôi không khỏi xót xa. Xe Hồng Thập Tự tới lui liên tục, tiếng còi cấp cứu kèm lẫn với những tiếng than khóc của những người không tìm được cha, chồng, anh em, con cháu vang dội một góc trời. Tàu cứu hộ tiếp tục đưa người vào bờ. Xe Hồng Thập Tự hoạt động trọn ngày đêm hôm ấy mãi đến trưa hôm sau mới chuyển hết số người mắc nạn đến bệnh viện. Ai tìm được thân nhân bị nạn thì mừng rỡ, tận tình nuôi dưỡng, ai không tìm được thì tản đi các nẻo tìm kiếm.

Nghe một vài người sống sót kể lại, cơn bão đã tàn phá nặng nề hòn đảo Thổ Chu, tỉnh Kiên Giang. Thổ Chu là một hòn đảo nổi tiếng an bình nhất xưa nay nên nhiều thuyền chài ở Long Hải thường xuống đó đánh bắt tôm cá trong những tháng mùa gió bấc. Lần này tất cả đều bị cơn bão số 5 hãm hại. Có ghe bị đánh lật úp, kẹt luôn bốn xác người trong đó, thi thể bị dập nát nên được chôn cất luôn tại chỗ. Thật khủng khiếp sức tàn phá của cơn bão Linda.

Trong lúc sửa soạn mang hành lý về nhà cha tôi, tôi nghe ông Bố Già, một bạn chài lớn tuổi nhất trên thuyền của tôi, kể lại điều đã nghe thấy hôm tàu gặp bão. Lúc đó trời đã khuya, sóng biển cứ nhồi thuyền lên xuống, thuyền bị ngập nước sắp chìm, còn các anh em thì đang lui cui tát nước. Bất thần ông nhìn thấy dưới lườn thuyền có một cặp cá ông thật lớn nâng thuyền lên cao. Trên thuyền lúc đó ai cũng nghĩ là nhờ tát nước thuyền nhẹ bớt đi nên mới nổi lên khỏi mặt nước. Ông Bố Già đang giữ bánh lái, thấy thuyền chồng chành nổi lên một cách bất thường liền ló đầu ra ngoài buồng lái nhìn xuống mạng thuyền, ông giật mình khi thấy rõ ràng ràng hai thân hình to lớn đen xì đang ép vào mạng thuyền lướt đi trên mặt nước. Ông Bố Già sợ quá, chỉ lâm râm khấn niệm van vái chớ không dám lên tiếng sợ anh em làm náo động thuyền bị chìm. Lúc đó mọi người đều mệt mỏi nên không ai nhìn hai bên sườn tàu, hai con cá ông cứ chuyển con tàu trên mặt nước đến một vùng nước ít giao động rồi bỏ đi. Anh em trên thuyền nghe thuật lại đều tái mặt nhớ lại lúc con sóng lớn phủ ụp xuống tàu, máy móc đều tắt ngắm, tàu bị ngập nước chìm xuống biển, rồi tự nhiên lại nổi lên. Mọi người cứ nghĩ là do van vái trời yên gió lặng và do anh em quăng tất cả vật dụng nặng xuống nước nên con thuyền mới nổi lên. Mầu nhiệm thay, vậy là thuyền chúng tôi được ông độ rồi. Giả thử hôm đó không có cặp cá ông chuyển thuyền của chúng tôi sang vùng biển yên tịnh có lẽ giờ này gia đình chúng tôi cũng đang khóc lóc đứng chờ đoàn tàu cứu hộ tìm thân nhân.

Hiện tôi và vợ con tôi phải sống nhờ sự đùm bọc của cha mẹ tôi. Nhà cửa đành để vậy. Ngày ngày tôi vẫn phải vào Phước Tĩnh tu sửa thuyền bè, chờ sửa xong mới đi đánh bắt cá trở lại. Những ngày ở bờ gia đình không có lợi tức, viễn ảnh đầy đen tối, thất vọng. Số phận nghiệt ngã chẳng biết đến bao giờ mới dứt.

Cha tôi là một phế binh hiện đang sinh sống tại Bà Rịa, nhờ sự giúp đỡ của các ân nhân ở nước ngoài, ông đã tìm lại nhân phẩm, gia đình tôi được sống những ngày đầm ấm. Nay trong cơn hoạn nạn mới, nạn nhân của cơn bão Linda, gia đình chúng tôi cùng những nạn nhân khác rất mong đón nhận sự giúp đỡ của quí ân nhân giàu lòng nhân ái. Chân thành cảm ơn và cầu chúc quí ân nhân muôn đời hạnh phúc.

Viết lại theo lời kể của Đoạn Trường,
phế binh Biệt Kích Mỹ cụt hai chân,
và người con trai cả hiện cư ngụ tại Bà Rịa, Vũng Tàu.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển


Chương 12: Sống sao cho trọn kiếp người

Tôi sinh ra tại vùng quê đồng chua nước mặn Cần Đước, tỉnh Long An. Trong nhà có tất cả tám anh chị em. Anh Cả đi học, chị thứ ba, thứ tư mất sớm, chị Năm, anh Sáu, chị Bảy, tôi và đứa em út mới lên hai tuổi. Nhà có tám miệng ăn, cha tôi làm nghề đánh xe ngựa, mẹ tôi buôn bán tạp hóa trong nhà. Mẹ tôi là một người đàn bà đôn hậu, buôn bán thật thà, tiệm mỗi ngày một thêm đông khách hàng. Cha tôi không cờ bạc, rượu chè, chỉ lo chở khách và hàng hóa từ quê ra tỉnh. Các anh chị em tôi đều ngoan, hiền, lễ phép. Cửa hàng mẹ tôi luôn tấp nập khách, trong nhà luôn rộn tiếng cười của anh em tôi. Bà con hàng xóm ngợi khen là gia đình có phước.

Cuộc đời tưởng vậy êm xuôi, nào ngờ tai họa giáng xuống gia đình. Sau một mùa mưa, mẹ tôi mắc bệnh dịch tả, chỉ qua một đêm dằn vặt trên giường bệnh bà đã trút hơi thở cuối cùng. Tuy bà con hàng xóm có đến tận tình cứu trị nhưng bà đã không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Người mẹ thân yêu như vậy đã ra đi khi tôi vừa tròn 4 tuổi. Bà con hàng xóm ai cũng thương mến, biết bao người đã nhỏ lệ khóc tiễn mẹ tôi về lòng đất lạnh.
Gia đình tôi trải qua một khúc quanh oan nghiệt. Anh em chúng tôi cũng ít cười đùa, trong nhà mất hẳn vẻ vui tươi thường nhật. Cha tôi lúc nào cũng buồn dã dượi, ít cười ít nói hơn mọi khi. Cửa hàng tạp hóa teo hẹp dần rồi đóng cửa luôn. Bà con hàng xóm đến mua hàng là muốn được đến nói chuyện với mẹ tôi, nhiều người được bà cho mua chịu mà không cần thế chấp một vật gì cả, nay bà đã mất khách cũng mất theo. Chúng tôi còn quá nhỏ và bận đi học nên cửa hàng đóng cửa, đời sống vật chất gia đình trở nên khó khăn.
Anh Cả đành phải nghỉ học đi làm thuê, bạn ghe cho mượn xuồng đi buôn, suốt ngày sống dưới kinh rạch, nhiều khi cả tháng anh mới về thăm nhà một lần, nhưng chỉ ở lại một hôm rồi lại ra đi. Chị Năm hơn tôi 10 tuổi cũng bỏ học ở nhà thay mẹ lo việc bếp núc. Gia đình ngày càng sa sút, cha tôi buồn bã, lợi tức kiếm được do đánh xe ngựa không đủ để nuôi một gia đình đông con. Anh chị em tôi thấy cha buồn phiền cũng không dám nô đùa, những ngày này thật là ảm đạm.
Vào dịp cúng tuần giáp năm cho mẹ, bà cô ruột dắt chị Bảy và đứa em út về mãi trong đồng nuôi dưỡng, căn nhà càng thêm vắng lặng. Từ ngày đó anh Cả đột nhiên biến dạng, không thấy trở về thăm nhà sau mỗi chuyến đi buôn. Bà con hàng xóm cũng xa vắng dần, thỉnh thoảng mới có một người bác họ ở xa đến nhà thăm hỏi. Mỗi lần bác đến, nét mặt cha tôi đầy lo âu. Ông tiếp chuyện với bác ở nhà sau, chị Năm lo trà nước trong bếp còn anh em tôi ngồi nhà trước canh chừng. Bác dặn hễ thấy ai tiến vào nhà thì chạy vào báo. Bí mật hoàn toàn bí mật, tuổi thơ nào biết chuyện gì. Lớn lên tôi mới biết anh Cả đã theo Việt Minh.
Từ đó cha tôi càng lầm lì, thường ngồi trầm ngâm bên bàn nước suy tư suốt ngày. Có một đêm anh Cả về thăm nhà rồi sáng ra đi biệt dạng, tôi có nhiệm vụ canh chừng nhưng tuổi nhỏ hay mệt nên ngủ hồi nào không biết. Sự mất tích của anh Cả không giấu được hiến binh, những người theo Pháp làm lính địa phương, cha tôi bị kêu lên đồn giải thích nhiều lần. Thấy sống ở địa phương không được, ông gởi tôi và anh Sáu cho người cô họ, vốn là đại điền chủ trong huyện, còn ông âm thầm dẫn chị Năm lên Sài Gòn làm thuê cho một gia đình bán vải cũng bà con. Ngôi nhà thân thương đã âm thầm bán cho người khác. Kể từ đó gia đình trải qua một bước ngoặc mới, anh em chúng tôi mỗi người một phương, mỗi người một cách sống.
Lúc đó tôi vừa được hơn 5 tuổi. Anh Sáu và tôi ở nhà người cô. Cuộc sống mới nơi nhà người cô họ hoàn toàn xa lạ. Mỗi buổi sáng hai anh em phải thức dậy sớm rửa ly tách, lau bàn ghế, tập làm các công việc vặt vảnh. Tối đến tụng kinh niệm Phật vì bà cô họ rất sùng đạo. Đến tuổi đi học, tôi được bà cho cắp sách đến trường. Nhờ cố công học tập, năm nào tôi và anh Sáu đều được phần thưởng. Thỉnh thoảng sau mùa gặt, bà cô họ dẫn anh em tôi lên Sài Gòn thăm cha. Nghe anh em tôi được cắp sách đến trường, ngoan ngoãn và học giỏi, cha tôi rất hài lòng, ông để lộ nét hân hoan ra trên mặt, cười nói huyên thuyên. Thật hiếm thấy nụ cười trên môi cha tôi. Mấy ngày ở bên cạnh cha, được ông cho ăn, tắm rửa, tôi sung sướng vô ngần vì chưa lần nào được ông chăm sóc.
Chiến tranh Pháp - Việt đến hồi kết thúc. Giữa năm 1954, cha tôi về lại vùng quê vào đồng cất nhà, làm ruộng. Chị Năm vẫn ở Sài Gòn tiếp tục làm thuê cho người bà con chủ tiệm vải. Anh Sáu đậu vào Lycée Pétrus Ký ở Sài Gòn. Tôi được về sống cạnh cha tôi tiếp tục học hết bậc tiểu học. Giờ đây công việc nhà tôi đã khá rành, có thể tự lo cơm nước, dọn dẹp nhà cửa để cha lo việc đồng áng. Đến kỳ thi tiểu học, tôi được chấm đậu và trúng tuyển vào trường Pétrus Ký. Biết cha không đủ khả năng lo cho tôi lên Sài Gòn học, cũng như anh tôi, bà cô họ giới thiệu, gởi gấm ở nhà một người quen. Tại đây tôi làm đầy tớ không công để được ăn ở và đi học.
Nhưng tôi không được may mắn như anh tôi. Ngoài công việc thường nhật như sáng dậy sớm, xếp chăn màn, quét dọn, lau nhà, giặt đồ, tôi còn phải giữ em, phụ nấu ăn, dọn cơm, rửa chén, mọi việc phải làm thật nhanh để kịp giờ đi học. Có hôm đến lớp trễ, tôi phải tránh né giám thị vì đang mang dép, ở trường này học sinh bắt buộc phải mang giày có vớ. Chiều học về, lau rửa xe đạp, dọn cơm, rửa chén, dọn quét, lau nhà, ra phông ten gánh nước, dọn chỗ ngủ cho mọi người gần 9 giờ tối mới xong, sửa soạn học bài chưa được 5-10 phút thì chủ nhà tắt đèn bảo ngủ. Thắp đèn dầu hoặc đèn cầy thì chủ nhà không cho, sợ hỏa hoạn, thế là bài vở không học được. Học hành càng ngày càng bết dần, thua sút bạn bè. Cố gắng được hai năm, tôi đành bỏ học về quê sống với cha. Tôi biết cha tôi buồn lắm, nhưng ông hiểu rõ cảnh cơ cực của tôi khi ở trong gia đình này nên không nỡ rầy trách.
Từ đó tôi bắt đầu làm quen với nếp sống ruộng đồng. Nhổ cỏ mạ, câu cua, đặt vó bắt cá kèo, lươn, ếch, chuột đồng trở thành một nghề mới. Nhờ cố tâm học hỏi, cá cua bắt được dư ăn tôi đem ra chợ bán lấy tiền mua sách vở học thêm, trau dồi kiến thức. Tối đến tôi đọc truyện Tàu cho cha cùng một vài người hàng xóm nghe, mọi người đều vui vẻ. Trong thời gian này, cha tôi cố tìm ra tung tích người anh Cả qua những người kháng chiến cũ trở về nhưng bặt tăm vô tín.
Năm 17 tuổi, tôi đi làm thuê xa ở các vùng cửa biển. Thời gian này tôi tiếp xúc, học hỏi nhiều ở những người bần hàn lao động, chứng kiến bao cảnh ức hiếp, bất công của chủ nhân và bè phái đối với những người khốn khó, tha phương cầu thực như tôi. Tôi mới biết ở đời lòng người nham hiểm không lường. Ngoài việc mua bán cá biển tôi phụ làm cơm cho các anh em, thức ăn có chủ lo. Những khi làm đêm tôi lãnh tiền phụ trội do đó có dư chút tiền. Tôi tiêu xài tằn tiện, tiền làm phụ trội để dành sắm sửa quần áo và mua quà gởi về cho cha tôi và hàng xóm. Toàn bộ lương hàng tháng tôi gởi về cho cha để cha tôi khỏi phải nhọc nhằn trong cuộc sống và cũng để chứng tỏ tôi đã khôn lớn đủ sức bước vào đời một mình. Những hành động này có lẽ đã làm cha tôi an tâm và ông đi thêm một bước nữa. Bà mẹ kế đem bà chị và đứa em út về chung sống. Anh Sáu tốt nghiệp ra trường làm giáo viên, nghe đâu được bổ nhiệm ở Sài Gòn. Gia đình, anh chị em tôi đến đây tạm ổn.
Tôi bỏ nghề làm thuê mua bán cá biển và bắt đầu lênh đênh phiêu bạt. Đi đến đâu tìm việc đến đó, ở đâu tôi cũng thấy đầy rẫy bất công. Rồi chiến tranh bộc phát, tôi cũng như mọi thanh niên khác gia nhập quân đội. Tôi đầu quân vào lực lượng địa phương quân để được ở gần nhà. Rời trường huấn luyện sau vài tháng học tập, tôi được cầm súng bảo vệ quê hương. Địa phương tôi đóng quân trở nên bất ổn, quân cộng sản xâm nhập ngày càng đông, thế là bom đạn, đại pháo nả xuống các nơi tình nghi có quân địch. Hai bên đánh phá lẫn nhau liên tục, đồng bào, ông già bà cả, trẻ thơ vô tội đều bị họa lây. Trước những thảm kịch này, tôi chỉ là một người lính quèn, bất lực nhìn cảnh máu chảy thịt rơi.
Trải qua bao đơn vị, dự bao trận đánh, những anh em, bạn bè lần lượt nằm xuống. Rồi một ngày kia lại đến lượt tôi. Ngày 12-10-1965, trong trận giao tranh tôi đạp phải mìn đành bỏ lại đôi chân tại vùng đất Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An. Suốt mấy tháng nằm giữa bốn bức tường vôi của Tổng Y Viện Cộng Hòa, tôi buồn tủi cho thân phận. Mới 25 tuổi đầu đã mang thân tàn phế.
Chứng kiến bao cảnh đời nghiệt ngã của người lính khi mang thương tật, tôi muốn chết đi cho rảnh nợ đời. Nhưng còn cha già, hơn nữa trước sự ân cần của các bác sĩ, y tá bệnh viện, thấy sự tận tụy của những y sĩ lương tâm tôi thức tỉnh trở lại. Tôi thấy cần phải sống để làm một cái gì đó giúp ích cho người, cho đời. Từ đó tôi yên tâm điều trị và sáng tác được mấy bài vọng cổ.
Chiến tranh mỗi ngày một lan rộng, chết chóc đau thương lan tràn, xóm làng, vườn tược tan nát. Không vùng quê nào còn được yên tỉnh. Những người dân quê mộc mạc dắt díu nhau chạy lên chốn thị thành lánh nạn, tìm kế sinh nhai. Cha mẹ kế dời nhà lên Sài Gòn ở Quận 8. Anh Sáu được quân đội cho biệt phái về Bộ Giáo Dục làm giáo viên. Xuất viện tôi về nhà cha mẹ kế. Bạn bè lần lượt đến thăm, nhờ đó tôi biết được tin tức của bạn bè, anh em kẻ còn người mất, tôi rất lấy làm an ủi.
Duyên đâu dung ruỗi. Cạnh nhà tôi có cô gái quê gốc Cần Giuộc cùng tỉnh Long An, theo gia đình tản cư lên Sài Gòn lập nghiệp, ngõ ý thương tôi. Cha mẹ cô cũng không chê tôi tàn phế, cho cô về làm vợ tôi để chăm sóc và an ủi tôi. Gia đình tôi ai cũng hài lòng. Cô ta chấp nhận lời giao kết của tôi: tuy chung sống nhưng phải được tự do, việc ai nấy làm, tiền bạc ai nấy sử dụng. Tôi cố tránh sự bẽ bàng có thể xảy ra mà tôi đã chứng kiến những anh em tàn tật như tôi. Hơn nữa thâm tâm tôi muốn sau này làm theo ước vọng của tôi. Đời tàn phế như vậy kể ra có nhiều may mắn, tôi thấy nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi rất là long đong, đi đâu cũng bị người ta khinh dễ và coi thường.
Tết Mậu Thân 1968, khói lửa, bom đạn tràn vào Sài Gòn. Nhà cửa tôi bị thiêu rụi, chỉ còn một đống tro tàn. Nhà cửa và đồ đạc của cha mẹ kế cũng bị cháy sạch. Anh Sáu được lệnh tái ngũ và đưa ra Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Cha tôi về quê tá túc với người anh chú bác. Mẹ kế xuống Long Hải ở với chị Bảy. Còn tôi thì vào Viện Quốc Gia Phục hồi học nghề đánh máy chữ và kế toán, ăn nhờ cơm của viện chờ ngày lãnh sổ cấp dưỡng phế binh.
Vợ tôi đi làm thuê, hàng tuần đến viện thăm tôi, cho chút đỉnh tiền bạc và kho nấu thức ăn dự trữ, tôi chia sẻ những món ăn này với anh em chung phòng vì cơm tập thể lúc nào cũng khó ăn. Tôi gắng sức học nghề, số tiền vợ cho được dùng để giao tiếp với những anh em phụ trách làm sổ cấp dưỡng ở Bộ Cựu Chiến Binh. Nhờ thế, hơn 4 tháng sau ngày giải ngũ tôi được cấp sổ cấp dưỡng phế binh. Đây là một trường hợp khá đặc biệt, nhiều phế binh xuất ngũ khác có người phải chờ một vài năm mới nhận được sổ. Gia đình các tổ phụ, quả phụ càng thê thảm hơn, thậm chí có người phải chờ từ 4 đến 5 năm. Bất hạnh vẫn còn tiếp tục với người tàn phế.
Ngày cầm sổ vào ngân khố lãnh lương, tôi thấy cảnh ăn chực nằm chờ của bà con, anh em phế binh, tiếng kể lể than vãn nghe sao thật nảo lòng. Lãnh xong, tôi chia số tiền lãnh được ra làm bốn phần: một phần gởi về cho cha và người anh chú bác đã bảo bọc cha già trong suốt thời gian qua, một phần gởi cho mẹ kế và chị Bảy ở Long Hải, một phần cho vợ và mua quà cáp cho cha mẹ vợ, và phần còn lại để dành mời anh em phụ trách làm sổ cấp dưỡng tại bộ. Sau những lần mời qua mời lại, anh em phụ trách cho tôi qua phòng lựa những hồ sơ lưu trữ phế binh, tổ phụ và quả phụ lâu năm rồi chưa được giải quyết. Anh em trong phòng tận tình hướng dẫn cách thức sắp xếp, tôi tận tụy làm việc suốt ngày. Hồ sơ nào còn thiếu sót giấy tờ chi, tôi làm văn thơ nhờ trưởng phòng ký rồi gửi đến từng gia đình đương sự để bổ sung. Thỉnh thoảng tôi còn mời anh em trong phòng dùng cơm trưa.
Mới đầu anh em thấy tôi làm việc tận tụy không công mà còn chịu chi tiền, anh em nghi ngờ tôi làm như vậy để ăn tiền những hồ sơ chờ giải quyết, hoặc giúp những người thân. Họ có biết đâu nguyên tắc làm việc của tôi rất giản dị, khi hồ sơ nào hoàn tất, tôi nhờ ban văn thư của bộ gởi cuốn sổ thẳng về các ty cựu chiến binh nơi đương sự cư ngụ chứ không mời đương sự đến bộ lãnh sổ. Không phải chỉ riêng một tỉnh mà trái lại tôi gởi những cuốn sổ cấp dưỡng đi nhiều tỉnh khác nhau và cũng không riêng gì một binh chủng mà trái lại tôi giải quyết hồ sơ thương phế binh ở nhiều binh chủng khác nhau, cả chủ lực quân lẫn địa phương quân và nghĩa quân. Anh em thắc mắc hỏi, tôi trả lời:
- "Thấy cảnh thương tâm của những người mang thương tật, tôi hiểu và chia sẻ với họ nỗi đau nên không muốn họ chờ đợi mãi một quyền lợi mà đáng lý ra họ phải được hưởng sớm nhất. Trong khi tôi ở đây ăn không ngồi rồi cần làm công việc gì đó cho ngày tháng. Sở dĩ tôi mời anh em ăn uống là vì quí mến anh em chứ không gì khác. Gia đình tôi tuy không dư giả gì nhiều nhưng cũng không đến nỗi thi°ếu ăn, số tiền tôi lãnh được sau khi đã chia cho người thân phần còn lại để tiêu xài. Ở đây tôi chẳng sắm sửa gì nên thỉnh thoảng mời anh em cùng nhau ăn uống, nói chuyện cho vui. Thế thôi!".
Mặc dù vậy, việc làm của tôi vẫn có nhiều người gièm xỉa, nói xấu nhưng tôi vẫn kiên tâm, nhã nhặn với từng người. Tôi tự nhủ lòng: "Mặc kệ những lời khen chê, mình cố gắng làm phận sự của mình, giúp được người nào hay người đó, miễn sao lương tâm mình không hổ thẹn là được rồi". Nhìn các đống hồ sơ trong các tủ vơi dần, cảnh ăn chực nằm chờ ở bộ cũng giảm, lòng tôi vô cùng thanh thản. Anh em, cô bác những anh em thương phế binh, những người đã chịu nhiều mất mát, đau thương trong cuộc chiến sớm có được niềm vui hay niềm an ủi rằng mình không phải là một gánh nặng thêm cho gia đình. Từ đó tôi bình thản tiếp tục công việc sắp xếp hồ sơ, gởi thư về các địa phương kêu gọi những đương sự bổ túc các giấy tờ thiếu xót để họ mau chóng nhận sổ ấp dưỡng.
Qua những chồng hồ sơ này, tôi mới biết trong thân tộc hai bên nội ngoại và bên vợ đều có nhiều thanh niên trong lứa tuổi của tôi bị tàn phế hay bị tử trận. Tôi cũng gởi thư về gia đình các đương sự yêu cầu bổ túc các giấy tờ thiếu xót nhờ đó mà các sổ cấp dưỡng đã được đến tay những người đó trong những điều kiện sớm nhất. Vòng đai thân tộc bên phía cha, phía mẹ ruột, phía mẹ kế và cả bên phía cha mẹ vợ, mọi người đều dành cho tôi nhiều cảm tình đặc biệt, hai bên nội ngoại đều rất hài lòng.
Ở vùng quê cha tôi không được khỏe. Mặc dù vợ và em út thường về thăm viếng, cung cấp thuốc men và tiền bạc cho cha nhưng tôi vẫn không an tâm. Đường sá về nơi cha tôi ở càng ngày càng mất an ninh, tôi cũng không dám đi về một mình lỡ có chuyện gì thì ân hận suốt đời. Hơn nữa, vợ tôi có mang đứa con đầu lòng sắp tới ngày sinh, cần bớt đi lại trong thời kỳ sinh nở. Trong lúc này lòng tôi rối bời. Cũng may là nhờ cha vợ và đứa em gái phụ giúp tiền bạc, tôi cất lại căn nhà cũ trên nền nhà bị cháy ở quận 8 hồi Tết Mậu Thân. Ngôi nhà nhỏ được anh em, bạn bè ở Viện và Bộ Cựu Chiến Binh phụ giúp xây lên nên hoàn thành khá nhanh. Lòng tôi vô cùng cảm động và sung sướng. Cuộc đời phế binh như vậy là may mắn lắm rồi.
Khi nhà vừa làm xong, việc đầu tiên là ra chợ mua liền một tủ kiếng để chưng hình mẹ tôi lên thờ. Ngày ăn tân gia, trên bàn thờ mẹ khói hương nghi ngút, tôi cố ý chọn đúng ngày giỗ lần thứ 22 của bà để tổ chức. Hôm ấy trong căn nhà đơn sơ nhỏ nhắn mọi người đều đến đông đủ,các anh chị em cùng những anh em, bạn bè đều cùng có mặt. Đứng trước bàn thờ của mẹ, cha tôi đốt nhang lâm râm khấn niệm, không khí trang nghiêm, lặng lẽ, anh chị em tôi đều sụt sùi nhỏ lệ làm mọi người xúc động theo. Cúng lễ xong, mọi người ngồi vào bàn tiệc, tuy đơn sơ, đạm bạc nhưng ai nấy đều thật lòng nên buổi tiệc thêm phần vui vẻ. Nhà không đủ chỗ ngồi, thanh niên trai trẻ ngồi xuống nền xi măng ăn uống, còn bàn ghế thì dành cho các bậc trưởng thượng.
Anh em trong Viện và Bộ Cựu Chiến Binh tình nguyện phụ giúp tôi treo lên tường những bức tranh, kỷ vật thân tặng để tỏ chút tình quí mến.´Ăn uống đến khuya, anh em bạn bè lần lượt ra về, những người thân trong gia đình chia nhau tìm chỗ nằm nghỉ. Niềm vui thật là trọn vẹn. Ngày hôm sau, mọi người ai về nhà nấy, riêng cha tôi thì ở lại với chúng tôi. Vợ tôi tiếp tục đi làm, sáng đi chiều về, làm bổn phận vợ hiền, dâu thảo.
Thỉnh thoảng tôi đến Viện, đến Bộ thăm anh em. Lúc này hồ sơ cũng ít tồn đọng nên anh em làm việc rất nhàn hạ, chỉ khi nào có bà con, bạn bè trực tiếp nhờ tôi mới vào can thiệp. Sau ngày ăn tân gia không lâu, vợ tôi về lại nhà cha mẹ ở kế bên để được chăm sóc. Đến ngày sinh nở, vợ tôi cho ra đời đứa con trai đầu lòng. Sau hơn ba tháng được bà ngoại tận tình nuôi dưỡng, hai mẹ con về lại nhà. Vợ tôi phải đi làm việc liền sau đó, cháu bé được ông nội chăm sóc, nuông chiều.
Anh Sáu, một lần nữa, được biệt phái về Bộ Giáo Dục, làm giáo viên trường Âu Dương Lân, quận 8 gần nhà, sau mấy năm cầm súng chiến đấu tại vùng U Minh, miền tận cùng đất nước và đã tham dự biết bao trận chiến kinh hoàng, khốc liệt. Tạ ơn trời đất đã cho anh trở về bình an, lành lặn. Anh đưa vợ và con từ dưới quê vợ lên Sài Gòn, cất nhà phía sau để ở. Các anh chị em tôi, dần dà ai cũng lập gia đình, có công ăn việc làm ổn định. Cha tôi rất mừng khi thấy gia đình các anh chị em sống trong hòa thuận và đùm bọc. Tuy vậy, ông vẫn còn nỗi buồn da diết là không có tin tức của người anh Cả, nghe đâu thiên hạ đồn anh đã chết.
Chương trình phát triển đô thị được thi hành. Căn nhà anh Sáu nằm trong khu vực bị giải tỏa vì người ta dự phóng xây dựng một con lộ. Tôi cùng vợ con xuống Vũng Tàu thuê nhà ở, nhường nhà lại cho anh chị Sáu phụng dưỡng cha già vì gia đình anh đông con, lương ít.
* * *
Vũng Tàu thuở ấy là nơi tập trung thương phế binh, quả phụ và cô nhi tử sĩ, có Bệnh Viện Tê Liệt, Quân Y Viện Nguyễn Văn Nhứt, An Dưỡng Đường và hai làng phế binh. Anh em phế binh ở đây đều khá giả nhờ vợ con đi làm sở Úc, sở Mỹ. Thấy tôi xuống, anh em mừng lắm, chỉ trong hai tuần là thuê được nhà. Chủ nhà cũng là phế binh nên sẵn sàng cho chúng tôi mượn bộ giường ván, bàn ghế. Anh em, bạn bè cũng tìm giùm một chỗ buôn bán ngoài chợ Bến Đình. Nhà cửa được ổn định, ngày ngày vợ tôi nấu cơm tấm mang ra chợ bán, đi từ rạng đông đến khi tan chợ, chiều về nghỉ ngơi và chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau. Công việc tuy mệt nhọc nhưng có đồng ra đồng vào, đời sống không đến nỗi tệ. Thỉnh thoảng có dư chút đỉnh, chúng tôi gởi tiền và quà về Long Hải cho mẹ kế và chị Bảy vì gia đình chị rất nghèo. Mỗi tam cá nguyệt tôi lại về Sài Gòn lãnh tiền trợ cấp và cũng không quên ghé thăm và chu cấp cho cha và anh Sáu cùng cha mẹ vợ một ít tiền bạc.
Với thời gian, chúng tôi có thêm hai cháu gái, gia đình bắt đầu sống trong chật vật. Vì lòng tự trọng, tôi không muốn anh em, bạn bè nhìn thấy cảnh khó khăn của gia đình, tôi giảm giao tiếp với mọi người. Cuộc sống nơi chốn thị thành có nhiều cám dỗ, tôi thấy nhiều người đã bị sa ngã. Thêm vào đó con cái chúng tôi bắt đầu khôn lớn, không muốn chúng bị ảnh hưởng bởi môi trường sống chung quanh, nhất là khi đời sống vật chất của gia đình thua kém mọi người, và có lẽ cũng sợ một ngày nào chúng sa ngã theo, chúng tôi có ý định dọn đi nơi khác. Nhân dịp gia đình một anh phế binh thân thiết vừa tạo được một ngôi nhà và miếng vườn nhở ở cầu Nước Trong, quận Long Thành, ngỏ ý nhờ tôi lên đó ở và trông nom giùm, tôi liền bằng lòng. Thật là "buồn ngủ gặp chiếu manh".
Sau khi trả lại nhà cửa, đồ đạc cho chủ nhà, tôi từ giã bạn bè thân thiết rồi cùng vợ con dọn về Long Thành. Căn nhà thật là lý tưởng, nền lát gạch hoa, cạnh nhà có giếng nước và máy bơm tưới cây. Các nhà chung quanh cách xa nhau bởi hai mảnh vườn. Vợ tôi bắt đầu tập làm vườn, nhờ cố gắng học hỏi, cỏ rác trong vườn sạch sẽ, giữa hàng cây ăn trái còn có những liếp khoai lang sum suê, đàn gia súc chăn nuôi phát triển trông thấy, kể cả của tôi và của bạn. Vợ chồng bạn lên xem rất hài lòng, tình bạn càng thêm thấm thiết, hàng tháng hoặc hàng tuần anh ta gởi đồ ăn lên cho.
Mặc dù cụt mất hai chân, tôi vẫn thường chống nạng đi đây đi đó thăm hỏi bà con lối xóm. Tại đây tôi giao tiếp mật thiết với tất cả mọi người, đa số là thành phần dân quê mộc mạc. Gia đình tôi tuy ăn uống kham khổ nhưng không tốn kém bao nhiêu nhờ có cây nhà lá vườn, mỗi tuần chỉ đi chợ một lần. Thằng con lớn khá thông minh, tôi kèm qua quít như vậy mà mới 5 tuổi đã biết đánh vần đọc được báo trong khi con em ở đó trọng tuổi hơn, học trường công một vài năm mà vẫn chưa đánh vần đọc được chữ. Thấy vậy một vài người hàng xóm đưa con đến nhờ tôi dạy kèm. Nhà không có bàn, tôi chỉ đóng được một tấm bảng đen máng trên vách và một băng ghế dài. Các em nhỏ đến học ngồi bẹp dưới đất và tập viết trên băng ghế. Các em thưa thầy xưng con rất mực cung kính, thật là cảm động. Nơi khỉ ho cò gáy này mà các em nhỏ vẫn còn giữ lễ phép là một niềm an ủi lớn. Từ đó tình thầy trò càng thêm thắm thiết. Thầy tận tâm, trò cố gắng, trình độ học tập tiến bộ nhanh.
Tiếng tốt đồn xa, bà con trong ấp lần lượt đến gởi con nhờ tôi dạy kèm, trình độ từ lớp mẫu giáo đến các lớp Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, kể cả các lớp luyện thi tiểu học. Tôi nhận tất cả vì nghĩ rằng nếu trình độ học sinh ở đây cao lên, đó là niềm hãnh diện chung cho cả ấp. Thì giờ có hạn, tôi chia ca ra dạy. Nhà không có lúc nào thiếu vắng học sinh đến học, thế là nghiễm nhiên tôi trở thành ông giáo làng. Vợ tôi rất lấy làm hãnh diện, tôi có cảm tưởng mình vẫn còn có ích cho đời. Nơi đây đời sống nghèo khó, những bậc phụ huynh ít khi trả học phí cho con học thêm bằng tiền bạc, họ thường mang cho những loại cây trái trong vườn như sầu riêng, chôm chôm, soài, ổi, mít tố nữ, mãng cầu gai... Tôi thực sự tìm thấy niềm vui ở nơi thôn dã này. Mỗi lần về Sài Gòn lãnh lương, tôi không quên mua sắm một ít quà cáp mang về biếu lại. "Bánh sáp có đi, bánh qui trở lại", đó là lẽ thường tình.
Từ đó chúng tôi trở thành một gia đình có uy tín ở địa phương. Không buổi tiệc cưới, tang ma, giỗ chạp nào mà tôi không được mời dự. Mỗi lần như vậy tôi không đến tay không, không mang rượu thì cũng bia hay bánh mứt. Suốt năm đều có giỗ chạp, hôm nay tiên thường, ngày mai chánh giỗ..., mỗi đám giỗ thường kéo dài tư một đến hai ngày. Khoảng 4 giờ chiều khách khứa đến, chủ nhà cúng cơm xong mời khách chuyện trò ăn uống đến khuya. Có nhà vật heo, có nơi vật bò, lấy đồ lòng nùấu cháo đãi khách đến 5 giờ sáng. Ăn xong, ai bận công việc thì cứ ra về nhưng đến 11 giờ trưa hôm sau phải trở lại dự tiếp, nếu không sẽ bị chủ nhà phiền lòng. Riêng tôi thì chủ nhà thường giữ lại suốt đêm tiếp đãi tận tình, nhiều lúc uống nhiều quá tôi say túy lúy.
Nhiều gia đình khá giã, mỗi khi có đám giỗ thường có làng lính đến quanh co hạch sách, chủ nhà nhờ tôi ra ngồi bàn tiếp lính vì trước kia tôi cũng là lính như họ, do đó khi làng lính ăn uống no say thì ra về vui vẻ, không làm khó dễ gì. Sau này tôi mới biết được trong đám lính ấy có cán bộ cộng sản trà trộn vào, giả bộ dò hỏi xem xét gia đình tổ chức đám giỗ thuộc thành phần nào để sau đó cho cán bộ kinh tài chận đường đóng thuế. Ngoài chuyện đó ra, đời sống ở thôn quê vô cùng thoải mái, tôi không còn mặc cảm nhiều về thương tật của mình.
Trong khi đó, tại những nơi khác chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, tan tóc phủ trùm. Tin tức nghe được qua báo chí và đài phát thanh làm tôi lo sợ. Nhiều tỉnh thành lần lượt lọt vào tay quân cộng sản, rồi chiến tranh đột ngột kết thúc. Toàn miền Nam bị đặt dưới quyền thống trị của phe cộng sản sau ngày 30-4-1975. Theo thói thường tình sau mỗi cuộc chiến, kẻ thắng trận thì lên ngôi vua, kẻ thua trận xuống hàng chó ngựa. Tôi hiểu rõ hơn ai hết thân phận của mình, tôi đã từng cầm súng chống lại những người cộng sản trong chiến cuộc đã qua. Mặc dù chỉ là một con tốt vô danh trong cuộc chiến và nay bị tàn phế, trước sau gì tôi cũng sẽ bị trả thù, đày đọa như bao người khác.
"Củi đậu nấu đậu, đậu trong nồi khóc kêu sao không biết xót thương", đó là một câu trong bài vọng cổ mà tôi thích nhất. Tôi thích câu này không phải vì nhịp điệu lên xuống của bài ca mà ở ý nghĩa của nó. Câu này nhắc nhở mọi người Việt hãy thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Hay gì cảnh người Việt hành hạ, giết chóc người Việt. Địa phương nơi tôi ở, 90% dân chúng là thành phần "cách mạng", thấy tôi bị tàn tật họ không nói gì nhưng những gia đình khá giã có con em đi lính hay làm công chức cho chế độ cũ, nhất là những gia đình có con em là sĩ quan hay công chức cao cấp trong guồng máy cầm quyền cũ thì đời sống rất là khốn nạn. Nhà cửa bị tịch thu, vườn tược bị chiếm đoạt và cả gia đình phải rời đi nơi khác nều may mắn người chủ gia đình không bị bắt đi học tập cải tạo.
Đề tài trong lúc trà dư tửu hậu của những người này là chiến công của phe cộng sản và tội ác của bọn Mỹ Ngụy. Trước cảnh thay trắng đổi đen như vậy, với tâm trạng là phế binh ngụy thì lòng tôi càng ray rức. Tôi bàn với vợ tôi phải dọn đi nơi khác vì trước đây có nhiều lần tôi hăng máu đả kích những hành vi tàn ác của phe cộng sản trong những buổi tiệc. Hay tin này bà con cô bác thương mến gia đình chúng tôi cố đến khuyên giải không nên đi, ở đây họ sẽ hết lòng che chỡ và cò hứa hẹn chu toàn cho gia đình tôi. Trước tấm thịnh tình này, tôi chân thành cảm tạ nhưng lòng tôi đã quyết nên vẫn chuẩn bị rời khỏi nơi đây. Hơn nữa đây cũng không phải là nhà của tôi, nhân có người về Vũng Tàu tôi nhắn bạn tôi lên nhận lại nhà. Đàn gia súc gầy dựng trong suốt thời gian qua được đem ra chợ Long Thành bán, nhờ đó cũng có chút tiền để đi nơi khác. Khi bạn tôi lên nhận nhà, cảnh chia tay thật là cảm động. Hai gia đình đều khóc tiễn nhau.
Tôi về Long Hải tá túc với gia đình chị Bảy. Gia đình chị Bảy vốn đã nghèo khó, nay có thêm gia đình tôi về đời sống càng khó hơn. Vợ tôi phải đi gánh nước thuê, tối về chăm sóc cho ba đứa trẻ. Nhìn vợ làm lụng cực khổ, chạy ăn từng bữa, tôi thấy xót xa trong dạ. Tôi đánh liều mở lớp dạy kèm cho các em nhỏ ở gần nhà. Nhà cửa chật hẹp, không có đủ chỗ ngủ lấy đâu lấy chỗ dạy kèm, tôi liền ra chợ mua cây gỗ và mấy tấm tranh về lợp mái hiên và đóng vài cái bàn nhỏ làm lớp học. Công việc không phải dễ dàng, chính quyền địa phương gọi tôi lên ủy ban nhân dân chất vấn nhiều lần, công an đến kiểm tra hộ khẩu nói tôi vi phạm luật pháp vì không có giấy phép hành nghề. Tôi nói gia đình tôi nghèo khó quá, thân tôi tật nguyền nên mở đại lớp học để dạy những em nhỏ kiếm tiền. Nghe vậy họ để tôi yên một thời gian để quan sát, thấy tôi chỉ đơn thuần dạy cho các em tập đọc, tập viết nên họ làm lơ.
Ông hàng xóm tốt bụng thấy tôi chịu khó, cho tôi một vuông đất nhỏ sát hàng rào nhà ông để dựng một túp lều tranh, vừa làm chỗ ở vừa làm chỗ đạy học. Từ đó gia đình tôi được cấp hộ khẩu và định cư luôn tại vùng này. Tuy nghề dạy học thu nhập chẳng là bao nhiêu nhưng có được miếng ăn qua ngày, vợ tôi cũng kiếm được một chỗ ngồi mua bán ngoài chợ Long Hải nên có thể phụ giúp gia đình chị Bảy. Mẹ kế, cha ruột và cha mẹ vợ lần lượt qua đời vì tuổi già sức yếu. Điều mà tôi mãn nguyện là các đấng sinh thành về cõi vĩnh hằng có đầy đủ mặt con cháu và được đưa về quê cha, đất tổ, yên mồ, yên mả. Những lúc được nghỉ ngơi, tôi xót thương cho những anh em phế binh không được may mắn như tôi. Đời sống của tôi tuy có khó khăn nhưng cũng chưa đến nỗi bị chà đạp nhân phẩm. Tôi biết có nhiều trường hợp anh em bị vợ con khinh rẻ, phải lang thang cầu thực nơi đầu đường, xó chợ. Nào đã được yên, chính quyền còn lùng bắt họ đưa đi các trại tập trung lao động vì bị xếp vào thành phần tệ đoan xã hội. Bị tật nguyền và không có người giúp đỡ trong chế độ này là một tội lỗi phải bị trừng phạt.
Vợ tôi cho ra đời thêm một đứa nữa, cuộc sống ngày thêm khó khăn. Gia đình đông con trong thời buổi này là một bất hạnh. Trước kia người ta thường chúc nhau con cháu đầy đàng, ngày nay không còn hợp thời nữa. Con cái tôi được cấp sách đến trường một vài năm rồi phải nghỉ học ở nhà làm mướn. Tôi cũng già theo tuổi thời gian, các lớp học tư ngày càng vắng vẻ vì cha mẹ các em cũng không có tiền cho con học tư, phần lớn đã bỏ như các con tôi đi tìm việc làm ở các nơi khác. Dòng đời lặng lẽ trôi đi, quanh tôi chỉ toàn màu đen ảm đạm, con cái tôi lớn lên trong khó khăn, tiếng cười đùa cũng thưa thớt dần. R)ồi có đứa tới tuổi trưởng thành, lập gia đình sinh con đẻ cái như mọi người khác.
Có lẽ sống mãi trong kiếp bần hàn, may mắn cũng chán nản đội nón ra đi. Con cái chúng tôi không khá gì hơn cha mẹ chúng mặc dù đang là tuổi trẻ, nghĩa là bồng bềnh, bấp bênh. Chồng của đứa con gái thứ ba chết trong một tai nạn ở rừng. Đứa con rễ theo đoàn xe be vào rừng đốn cây, trong một ngày mưa gió đường sá trơn trợt, nó đang lúi húi dưới gầm xe chêm bánh xe cho khỏi bị trượt lùi chẳng may những sợi dây cật các thân trên xe bị đứt, nó bị hai thân cây lăn xuống đè bẹp nát đầu và nát chân. Nó chết đi để lại đứa con thơ mới lên 5 tuổi, vợ chồng tôi đành phải mang con và cháu về nhà nuôi dưỡng. Có sống trong cảnh này mới biết thế nào là đau thương, đen tối.
Đối với con cái, cha mẹ nào cũng vậy chỉ mong cho chúng trở thành những người hữu ích cho xã hội. Tâm nguyện của tôi là hy vọng trong cuộc sống các con tôi có những đức tính tốt của loài người là lòng vị tha thương, bao dung và độ lượng. Chúng tôi thường dạy các con thương người như thể thương thân, sẵn sàng cứu giúp khi ai xảy bước chân và độ lượng tha thứ những kẻ đã hãm hại mình. Dù nghèo hay giàu phải luôn luôn tự vấn lương tâm mình, trong đời có thể làm bất cứ điều gì miễn sao không ngượng với chính lương tâm của mình là được, mặc cho tiếng đời khen chê. Giữ được như thế thì lương tâm sẽ luôn thanh thản.
Mặc dù có những lúc bi quan, tôi vẫn tin tưởng vì sao chiếu mạng. Ông Trời luôn luôn có mắt, những gian truân mà tôi đã trải qua chỉ là những thử thách của cuộc đời. Trồng cây nào ăn trái đó, quả đúng như vậy. Cuối năm Giáp Tuất 1994, tôi được một vị đại ân nhân ở Pháp tặng cho tôi một chiếc xe lắc tay, người đó là bác sĩ Phan Minh Hiển. Với chiếc xe này, nhân phẩm tôi đã được tìm lại, tôi dùng phương tiện thân thương này với những hàng chữ: Hội Médecins du Vietnam (Pháp) bảo trợ, đi khắp nơi để nói với mọi người rằng những người khốn khổ ở Việt Nam không bị bỏ quên. Hai mươi năm trời xa cách không làm cộng đồng người Việt hải ngoại dứt tình với quê hương. Mà quê hương dân tộc là gì nếu không phải những người nghèo khó, bị thua thiệt như chúng tôi. Tập thể anh em thương phế binh chúng tôi đã được hồi sinh.
Tiếp theo là các ông Nguyễn Trần Vũ và John gởi quà tặng thêm quà tiền cho gia đình chúng tôi. Từ đó tôi có phương tiện đi lại và tiền bạc để thăm viếng các anh em cùng cảnh ngộ trong vùng và hướng dẫn giúp đỡ. Nghe tôi ca ngợi công đức của ông bác sĩ cùng các ân nhân độ lượng Việt kiều ở hải ngoại, nhiều anh em phế binh viết thư xin giúp đỡ. Lời thỉnh cầu của tập thể anh em phế binh đã được nghe, mọi người trong vùng lần lượt nhận được quà tặng như xe lắc tay, xe lăn, nạng chống, tiền bạc, thuốc men do Hội Médecins du Vietnam, các hội đoàn thiện nguyện khác và các ân nhân hảo tâm Việt kiều từ khắp nơi gởi tặng.
Những món quà thân thương đầy tình nghĩa của các ân nhân không những có giá trị cao về vật chất mà còn thể hiện tinh thần đùm bọc cao quí. Tập thể anh em phế binh chúng tôi có được niềm tin trong cuộc sống, thấy lại những nụ cười từ lâu héo hắt trên môi trẻ thơ và nhất là tìm lại một phần nhân phẩm từ lâu bị chà đạp của những người cùng khổ. Lòng tôi dâng lên niềm xúc cảm sung sướng vô ngần, mặc dù quanh tôi luôn đầy rẫy những khó khăn. Chúng tôi sẵn sàng chịu đựng những phong ba, bão táp và nanh vuốt của bất cứ ai không muốn chúng tôi có cuộc sống khá hơn. Chúng tôi bất chấp tất cả, hơn hai mươi năm rồi, sức chịu đựng đã tới mức giới hạn, ép quá sẽ bùng lên thôi, chúng tôi không còn gì để mất nữa. Chúng tôi chỉ muốn được mọi người nhìn nhận nhân phẩm mà thôi.
Chúng tôi cầu mong, với những điều kiện sẵn có, quí vị ân nhân trong giới văn nghệ sĩ, quí vị lãnh đạo tôn giáo trong cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới, hãy gióng lên những hồi chuông đánh thức lương tâm nhân loại, kêu gọi những người có trách nhiệm nơi đây trả lại chúng tôi cuộc sống bình thường. Công đức cao đẹp này sẽ muôn đời bất diệt.

Viết lại theo lời thuật của Võ Ngọc Chính,
phế binh địa phương quân, cụt hai chân,
hiện cư ngụ tại Long Hải, Vũng Tàu.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Những Mảnh Đời Rách Nát
Nguyễn Văn Huy - Phan Minh Hiển



Chương 13: Tan vỡ một giấc mơ

Thành phố dạo này hay lạnh về đêm. Những người già yếu mắc bệnh phổi thường hay khó ngủ vì cái lạnh xốn xang, phải quấn thêm chăn màn vào người để cho đủ ấm. Đó là hình ảnh của mẹ tôi.
Hôm nay rằm tháng bảy, ngày báo hiếu. Mẹ tôi trăn qua trở lại. Bà ho lên sù sụ, cái chỏng tre cũng ọp ẹp theo từng tiếng ho. Nằm bên kia vách ván, tôi ray rức thở ra từng hồi. Tiếng ván kọt kẹt cũng buồn theo cái cảnh nghèo của mẹ con tôi. Sáng nay, tôi dậy thật sớm. Nhìn qua khung cửa sổ, tôi nghĩ về cuộc đời của tôi, nó cũng mập mờ như cảnh trời nửa tối nửa sáng của ngày hôm nay. Người ta thường dậy sớm vào buổi sáng để suy nghĩ chuyện đời bên tách cà phê hay tư duy về cuộc sống bên ly trà nghi ngút. Còn tôi ngồi đây suy ngẫm chuyện đời cùng với tiếng ếch kêu "uệch uệch" và tiếng thạch sùng tặc lưỡi. Tôi thắc mắc tự hỏi trên cõi dương trần này có Thượng Đế không nhỉ? Nếu Ngài là Đấng Toàn Năng, là Đấng Công Bình, tại sao có người quá ư giàu có, người khác lại quá ư nghèo khổ?

Những lúc tuyệt vọng, tôi thường tìm quên trong kỷ niệm. Nhớ lại quãng đời ngày xưa, năm 1967, lúc còn học lớp đệ tứ A1 trường Hùng Vương thị xã Quảng Ngãi, cuộc đời thật tươi sáng. Cũng ngày này đây, rằm tháng bảy, bạn bè bắt chước phong tục người Nhật: ai còn mẹ cài lên ngực áo một bông hồng, ai mất mẹ cài bông trắng. Tôi cười thành tiếng, cười thật tươi, thật hạnh phúc.

Phải rồi, ngày ấy tôi có người bạn gái tên Mai hát tặng tôi bài "Bông hồng cài áo" của nhà sư Nhất Hạnh: "Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho những ai, cho những người còn mẹ, để lòng vui sướng thêm. Rồi một chiều nào đó, anh về nhìn mẹ thật lâu và nói với mẹ rằng: Mẹ ơi, mẹ có biết hay không? Biết gì? Biết là con yêu mẹ không?". Rồi từ đó tình yêu lớn dần theo năm tháng, tình yêu tuổi học trò đẹp vô cùng. Rất thánh thiện, tôi nhìn Mai như một đóa hoa. Nhẹ nhàng và trân trọng, tôi nhìn Mai từ phía xa xa để nghe thoang thoảng hương vị tình yêu bay đến. Ngày tháng qua, hai chúng tôi đều đậu tú tài toàn phần. Mai theo học sư phạm ở Huế, tôi trường chính trị kinh doanh Đà Lạt. Tuy hai thành phố cách xa, nhưng đôi tim và suy nghĩ chúng tôi không hề rời nhau. Ông phát thơ có lẽ là sứ giả mang thông điệp tình yêu thân mến nhất của chúng tôi.

Thế rồi đất nước lâm nguy, cộng quân gia tăng áp lực quân sự tại khắp nơi trên lãnh thổ. Mùa hè đỏ lửa 72, chính phủ ban hành lệnh tổng động viên, đông đảo sinh viên lên đường nhập ngủ. Tôi trở thành anh lính chiến. Mãn khóa xong, tôi mặc áo hoa dù ra vùng địa đầu chiến tuyến. Tôi tham gia nhiều trận đánh quyết định, giải tỏa áp lực ngày càng nặng của cộng quân. Vài ngày sau khi ký hiệp định Paris, đầu tháng 2-1973, tôi bị thương nặng trong một trận đánh giành dân chiếm đất tại một làng phía Tây Bình Định. Chân phải tôi bị cưa. Trong suốt thời gian nằm điều dưỡng tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, tôi không liên lạc với gia đình, kể cả người yêu vì không muốn người thân biết sự thật không may của tôi. Mặc dầu vậy, hình ảnh của Mai luôn luôn hiện diện và lòng tôi không khỏi bồi hồi mỗi khi nghĩ tới.
Mùa hè 1974, tôi được xuất viện và trở về quê cũ. Sau bao năm xa cách, quê hương không có gì thay đổi. Vẫn cảnh nghèo khó quen thuộc. Thật đau lòng khi về lại nhà cũ. Nhìn thấy tôi mẹ thật mừng rỡ, nhưng khi thấy tôi chống nạng vào nhà bà ôm chầm lấy tôi khóc nức nở. Tôi muốn xin lỗi mẹ tôi nhưng miệng khô đắng, tôi chỉ biết ôm lại mẹ tôi lòng chua sót. Bà vội vàng dìu tôi vào nhà, thay quần áo cho tôi, lăn xăng hỏi thăm đủ điều, nhưng tôi chỉ im lặng nhìn mẹ tôi trong nước mắt. Hay tin tôi trở về, Mai từ dãy nhà kế bên chạy vội đến. Thấy tôi, Mai chỉ gọi được một tiếng "Anh!", rồi gục đầu trên vai tôi khóc. Tôi đau đớn ôm Mai vào lòng và im lặng.
Không gì buồn cho một đời trai, chưa làm gì báo hiếu cho mẹ, chưa làm gì đẹp lòng người yêu đã vội chất thêm gánh sầu trên vai mỗi người. Những ngày đầu tôi sống trong mặc cảm, cứ muốn xin về trại an dưỡng sinh sống với những anh em đồng cảnh ngộ. Ít ra tại đây, tôi không sống trong mặc cảm vì nhiều anh em còn bất hạnh hơn tôi, có người còn mất cả hai chân, hai tay và mù hai mắt.

Nhưng tình yêu của mẹ tôi và Mai giúp tôi yêu dần cuộc sống. Ngày ngày, sau khi thu xếp xong chuyện học hành, Mai lui tới thường xuyên với tôi. Mai vẫn học ở Huế nhưng cố thu xếp để thường xuyên về nhà thăm tôi. Mai sung sướng vì tôi còn sống, đối với Mai như vậy đã là đủ, chuyện thương tật không đáng quan tâm. Bao nhiêu chuyện xa, chuyện gần được kể cho nhau nghe. Nhưng mặc cảm tàn tật cứ ám ảnh trong tôi. Trong những lần hàn huyên, tôi cố trấn áp mặc cảm nhưng rồi một hôm tôi buộc nói lên sự thật :
- Mai ạ, anh với em nên xa nhau thì tốt hơn. Anh giờ đây chẳng còn gì cả, nhất là trong một xã hội này. Anh không còn làm gì được nữa, chỉ là gánh nặng và mặc cảm cho em đối với gia đình và bạn bè mà thôi.
Mai lườm tôi, nói một cách quả quyết:
- Anh bị thương cái chân, đâu bị thương cái đầu hay cánh tay mà nói như thế?
Để an ủi tôi, Mai tập làm nữ y tá, những ngày nghỉ học Mai thường đến thay băng cho tôi. Đúng Mai là chiếc nạng gỗ vững chắc cho tôi trụ chân, cho tôi bước đi trên quãng đời còn lại. Cuộc đời của tôi như vậy êm đềm trôi qua, mẹ tôi vẫn buôn bán bình thường và Mai đến thăm tôi đều đặn. Tôi chỉ muốn ngày tháng đọng lại nơi đây để tôi thấy cuộc đời thật đáng sùống. Đối với tôi con người cần nhất là tình thương, những thứ khác chỉ là phù du.
Nhưng chiến cuộc ngày càng khốc liệt. Tin tức chiến sự ngày càng bất lợi cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Những ngày cuối tháng 3-1975, thành phố Huế bỏ ngõ, Quảng Ngãi bị cộng quân chiếm đóng, Mai bỏ học trở về nhà. Một bước ngoặc mới trong cuộc đời của Mai. Ba của Mai là thiếu tá pháo binh, sau biến cố 1975 trở nên bất lực, ông bị đưa "học tập cải tạo" ở miền núi xa xôi hẻo lánh, ba tháng mới được thăm nuôi một lần. Mẹ của Mai, một phụ n¨ữ Huế, suốt đời chỉ biết tề gia nội trợ, mẫu người không thể chật vật, chạy đôn chạy đáo để kiếm từng miếng ăn được. Mai là sinh viên sư phạm, con gái trưởng một gia đình có truyền thống tại địa phương, phải bỏ học nửa chừng cáng đáng trọng trách nuôi một gia đình gồm sáu miệng ăn, trong đó một người cha đang đi học tập cải tạo và ba đứa em nhỏ dại còn cấp sách đến trường. Mai đi buôn chuyến hàng vải từ Đà Nẵng về Quảng Ngãi.
Cuộc sống tiếp tục trôi qua, trôi trong khó khăn và tủi nhục cho những người thất thế. Mặc dù được giải ngũ vì thương tật, tôi cũng phải đi "học tập cải tạo" như bao quân nhân khác nhưng được cái may "học tập cải tạo" tại địa phương nửa tháng. Một thời gian sau, vết thương nơi chân phải tôi làm độc, tôi phải vào bệnh viện mổ lại vì còn sót nhiều mảnh đạn. Làm thủ tục nhập viện thật là trần ai, nhưng rồi sau cùng chân tôi cũng được mổ gấp mảnh đạn ra. May là những y tá phục vụ bệnh viên thị xã là nhân viên thuộc chế độ cũ có cảm tình với tôi nên chân tôi được chữa trị bằng các loại thuốc tốt trong kho còn lại. Một thời gian ngắn sau các vết thương đều lành.
Chuyện buôn bán của Mai chỉ dễ dàng trong mấy tháng đầu, sau đó thì đâu vào đó. Chính quyền cộng sản ngày càng siết chặt gọng kềm, Mai không còn chạy hàng như mong muốn và ngày càng mất vốn. Hôm nay bị bắt hàng hóa, ngày mai hàng hóa bị phạt, bị tịch thu, cuộc sống cứ chồng chất bao nỗi lo âu. Rồi đến ngày thăm nuôi, mẹ của Mai phải khăn gói đi thăm chồng. Chuẩn bị chu đáo lắm cũng mất cả tuần lễ, nào làm đơn đi chứng thị thực từ thôn xóm lên đến xã phường, rồi làm lương khô. Những chuyến đi này bà mang đi cả một "gia tài" của gia đình. Trong một chuyến đi thăm, bà xin phép chồng để tổ chức đám cưới cho tôi và Mai.
Một hôm mẹ của Mai đi rồi, các em đều đi ngủ sớm, tôi và Mai kề đầu vào nhau nói chuyện tương lai. Nếu cuộc sống chỉ là những ước mơ đẹp dành cho lứa đôi thì vui thú biết bao. Tôi đề nghị sau khi làm đám cưới hai đứa sẽ về nhà mẹ tôi, nhưng Mai thở dài:
- Em khó rứt khỏi căn nhà này mà đi được. Vì em đang gánh vác trọng trách của cả gia đình.
Tôi an ủi:
- Trên ấy anh chỉ còn mẹ già, cưới nhau rồi em cứ ở dưới này lo cho gia đình mạ và các em. Em chạy đi chạy về cũng được.
- Bây giờ chưa vô tròng thì nói vậy, chứ hữu sự rồi khó lắm đấy anh.
- Em cứ nghĩ quẩn hoài. Mình thương yêu nhau tùy hoàn cảnh mà sống.
Bổng nhiên không hiểu bị bức xúc thế nào, Mai nói:
- Thôi, trên anh nghĩ cưới em về để làm cột trụ cho gia đình anh?
- Em đừng nghĩ thế. Nếu em nghĩ có sự lạm dụng hay lợi dụng nhau thì nên dứt khoát nhau là tốt hơn.
- Tùy anh.
Nghe hai tiếng "tùy anh", tôi choáng váng cả mặt mày. Như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt mình, tôi giận hờn trách móc:
- Trong tình yêu mà em nói "tùy anh" thì anh sẽ tự giải quyết đấy. Em nghĩ sao?
- Sao cũng được.
Tự ái nổi dậy, tôi cầm hai chiếc nạng trên tay, đứng lên nói:
- Kể từ nay coi như anh và em thực sự chia tay nhau. Anh không bao giờ về dưới này nữa.
Mai im lặng. Chẳng nói và cũng chẳng có một hành động nào. Tôi càng tự ái, chống nạng ra về. Vừa đi nhưng tôi hy vọng Mai sẽ gọi giật lại, có lẽ mọi sự sẽ "lành lại" ngay. Nhưng cuộc tình đến đó đã thực sự sang trang. Tôi về lại nhà mẹ tôi, lòng đầy phiền muộn. Bao nhiêu mộng đẹp chỉ trong phút chốc tan biến theo mây khói. Từ đó tôi ở luôn trong nhà, không buồn lên tiếng với ai, kể cả mẹ tôi.
Bấy giờ tôi sống trong bầu "trời" thù hận. Thù tất cả mọi người. Hận đủ thứ. Tôi muốn quên mình, quên tất cả. Nhiều khi ý nghĩ tự tử lại đến với tôi nhưng bị dập tắt ngay khi nghĩ về mẹ. "Tự tử là hèn mạt". Thế vào những thời gian trống rỗng vô vị đó là cuộc sống lang bạc. Tôi la cà hết nhà người thân này đến nhà người thân nọ để nhậu nhẹt, chén thù chén tạc. Không ai nỡ xua đuổi tôi vì thương hại. Từ đó tôi sống lang thang, không bờ bến, ít khi về nhà. Mẹ tôi trông thấy thân thể tôi ngày càng tiều tụy, vàng vọt, bà khóc thương cho số kiếp bất hạnh của con và năn nỉ tôi trở về với bà.
Mẹ của Mai hay chuyện cũng phiền trách Mai ghê gớm, nhưng trong lúc tuyệt vọng Mai cũng không tìm lời giải thích. Hai chúng tôi mất liên lạc với nhau trong hơn một tháng. Mẹ tôi và mẹ Mai nhờ biết bao nhiêu người lớn đến khuyên răn thắt lại tơ duyên đôi lứa, nhưng không cách chi được. Có lẽ vì vết thương lòng tôi quá lớn để có thể làm lành vết thương tình. Khó kết vá lại được. Có lần mẹ tôi về tận dưới quê nội tôi ở Tịnh An, mời một số tôn trưởng cao niên, chức sắc trong dòng tộc, nói chuyện với tôi, may đâu thuyết phục được tôi để tôi tĩnh táo mà định hướng lại cuộc đời. Những lời vàng ngọc đó vẫn còn văng vẳng trong tôi: "Cháu hãy tự đứng bằng đôi chân của chính mình. Đứng không phải bằng chân thật hay chân giả mà bằng ý chí của mình. Không ai sống giùm cháu cả. Hãy suy nghĩ cho kỹ mà sống. Con người hơn nhau ở ý chí và nhân cách". Lời nói đó hâm lại bầu máu nóng trong tôi từ lâu tắt ngấm.
Dòng máu của người lính dù, đã từng "đi mây về gió", đã từng sống hùng không hề sợ chết. Bất giác mấy câu thơ thời sinh viên tranh đấu về lại trí nhớ tôi. "Bao giờ còn sắn phơi khô, còn lang xắt lát thì còn đấu tranh. Làm người phải sống ngang tàng, quyết không chết nhục đầu hàng khó khăn". Từ đó tôi trở nên tỉnh táo, bỏ hẳn cả rượu chè và quyết định đi tìm cho mình một chỗ đứng bằng cách lìa xa quê hương, một khung trời đầy rẫy hình ảnh, kỷ niệm thân thương. Mẹ tôi bây giờ chỉ sống cho con, tôi là nguồn an ủi, là động lực của bà nên bà chìu theo ý tôi. Một buổi tiệc chia tay đơn sơ, âm thầm, lặng lẽ của vài người thân chí cốt. Lòng ai cũng chừng lại. Mẹ tôi không cầm được nước mắt khi phải rời xa quê hương, xa nơi chôn nhau cắt rốn trong tuổi về chiều. Tôi quyết định không cho gia đình Mai hay biết chuyến đi này, tự ái tôi quá lớn. Tôi nghĩ làm trai mà không lo được cho mình thì còn ai nễ phục, thế là hai mẹ còn tôi đi vào Sài Gòn. Tôi không mơ mộng cao xa, chấp nhận mọi khó khăn miễn sao tìm được cho mình một chỗ đứng bình thường.
Ở đất Sài Gòn này vấn đề thuê nhà không khó lắm, vào trong các khu lao động hỏi vài nơi là tìm được một chỗ ở ưng ý ngay. Cuộc sống tại Sài Gòn cũng rất khó khăn nên nhà nào có dư một căn phòng nhỏ sẵn sàng cho thuê. Lúc đầu tôi xay bột cho mẹ gói bánh bán dạo, ban đêm tôi nhận dạy kèm cho vài em nhỏ trong xóm. Cuộc sống bình dị, êm đềm trôi qua, mặc cảm những ngày tháng cũ cũng được nguôi ngoay. Sau nhiều năm cực nhọc, sức khỏe mẹ tôi ngày một yếu dần. Tôi không để mẹ tôi đi bán bánh nữa, tôi đi bán báo dạo. Sống ở cái xứ hai mùa nắng mưa, cái nghề bán báo thật là nghiệt ngã. Có những hôm bán không được ôm cả chồng báo về nhà, lòng tôi mềm như cọng thung. Tôi nẩy ra một ý nghĩ: phải đổi nghề. Nghề gì tôi chưa biết nhưng phải đổi nghề. Tôi không thể đi bán báo suốt đời được. Tuổi đời ngày chồng chất, nạng gỗ cũng hao mòn dần theo từng vết chân. Một hôm sau khi đi dạy kèm về, thấy mặt tôi có vẻ buồn buồn mẹ tôi hỏi:
- Con có điều gì bất an sao có vẻ "dàu dàu" vậy?
- Dạ, con muốn kiếm việc khác làm, chứ bán báo phiêu lưu quá, vả lại không thích hợp với chân con chút nào.
- Này con, hồi chiều có bà bên Hội Thánh (Tin Lành) nói với mẹ là con bị tật nguyền nhưng có chữ nghĩa. Vậy con đến Hội Thánh đọc kinh thánh cho một số con cái Chúa bị khiếm thị, đến tháng họ trả thù lao cho.
Tôi nghe lấy làm mừng lắm vì đỡ phải vận động bằng chân. Thế là tôi có thêm một nghề mới: đọc kinh thánh cho những người mù nghe. Công việc mới này an ủi cuộc sống của tôi vô cùng vì dầu sao tôi cũng còn may mắn, tuy què cụt nhưng tôi còn đủ tai mắt để nghe nhìn. Tôi vẫn hạnh phúc hơn những người này nhiều. Nhất là khi đọc lời kinh câu thánh, tôi khám phá một triết lý sống mới. Chẳng hạn trong Mathiơ 7:13-14 "Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoái dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít".
Bây giờ tôi yêu cuộc sống hơn. Tôi không đòi hỏi họ phải trả cho tôi là bao nhiêu tiền. Tôi muốn tự nguyện dâng hiến một chút công, một chút hiểu biết cho những người bất hạnh này, nhưng họ vẫn thiết tha yêu cuộc sống. Tôi lại thích làm một cái gì hơn nữa để có thật nhiều tiền, không những lo cho mẹ tôi mà còn lo cho những người bất hạnh khác, những con người cần được an ủi, cần được đem yêu thương nhiều hơn.
Trong suốt thời gian bán báo dạo, tôi cũng thu nhận được một vài "đệ tử", đó là những em bé mồ côi, không nhà không cửa. Các em đó thiều tình thương và sự đùm bọc. Thỉnh thoảng tôi dẫn một vài em về nhà cho tắm rữa và ăn uống, rồi cho ngủ luôn trong nhà để sáng hôm sau cùng tôi đi bán báo tiếp. Từ ngày tôi ngưng đi bán báo, các em đó như thiếu một người cha. Nhiều hôm trời sập tối các em đến nhà thăm hai mẹ con tôi, tất cả đều được cho tắm rửa sạch sẻ và ăn uống no nê. Nhưng mẹ tôi ngày càng già yếu, bệnh ho ngày càng nặng, nhất là những khi trời trở lạnh về đêm như đêm qua, hơn nữa lợi tức của tôi ngày càng eo hẹp, tôi không thể lưu giữ các em mãi trong nhà. Mỗi khi để các em ra lại đường phố, lòng tôi se lại. Tội nghiệp "trẻ không cha như nhà không nóc", tôi phải tìm một việc gì khá hơn để nuôi những em nhỏ này.
* * *
Sáng nay sau khi hồi tưởng lại chặng đường đi qua, tôi quyết định đi tìm việc làm mới. Tôi rón rén "cà thọt" đến giường mẹ tôi, nhìn bà yên giấc tôi thật yên lòng. Có lẽ đêm qua khó ngủ nên sáng nay bà ngủ mê mệt. Cầm vội chiếc mũ bạc màu và chiếc nạng gỗ, tôi lặng lẻ mở cửa chống nạng "lộc cộc" ra đi. Mấy ngày nay tôi cứ đi đi về về, chưa đâu vào đâu cả. Nhưng sáng nay tôi có linh cảm sẽ gặp điều lành.
Đúng vậy. Theo một địa chỉ mà người bạn phế binh vừa cho tôi hôm qua, tôi đến gặp ông chủ. Đây là một gara sửa xe hơi, vừa mở thêm một chỗ rửa xe đang tuyển người. Sau một hồi hỏi han, ông chủ nhận tôi làm việc, tôi phụ trách rửa xe. Công việc tuy có vất vả nhưng không làm tôi nản lòng vì có đồng lương cố định. Tôi làm việc từ sáng tinh mơ cho đến tối mờ mới về. Đời sống tôi thật bình yên. Mỗi tối thứ ba, thứ năm và thứ bảy dạy kèm. Mỗi tối thứ hai, thứ tư, thứ sáu và sáng chủ nhật đọc kinh thánh cho người mù. Tôi nghĩ là phải lo cho mẹ thật đầy đủ để bù lại những ngày tháng khổ cực đã qua và có thể nuôi vài em bé mồ côi, không nhà không cửa. Từ đây không những tôi cho chúng ăn no, mặc ấm mà còn cho chúng học chữ nữa. Hình ảnh cao thượng của tôi làm động lòng biết bao gia đình giàu có trong xóm, làm se lòng những chức sắc phường khóm nhưng họ để tôi yên vì tôi có dạy kèm con cái họ học thêm buổi tối. Các nhà truyền giáo cũng phải khâm phục con người "tàn mà không phế", có con tim thực sự sống này. Thật là hạnh phúc.
Tôi làm cho gara anh Bảy, tên chủ nhân, gần bốn năm nay. Mọi chuyện đều êm xuôi, tình giữa tôi và anh Bảy ngày thêm đậm đà vì anh Bảy cũng có một người em tốt nghiệp trường sĩ quan Thủ Đức, cùng khóa với tôi, tử trận năm 1973 tại Chương Thiện. Một buổi chiều kia, mây đen vần vũ, cơn mưa ập xuống dữ dội. Ngay lúc ấy, một chiếc Mercedès Benz E230 cáu cạnh từ đường cái quẹo ào vào gara cạnh chỗ tôi ngồi, một người đàn bà vừa là tài xế vừa là chủ xe bước xuống một cách vội vã vì sợ mưa tạt ướt.
Tôi sửng sốt cả người, phải cố trấn tỉnh nếu không miệng tôi đã thốt lên tên Mai. Mai chẳng nhìn ai, tiến thẳng đến quầy quản lý làm phiếu rửa xe và thay nhớt. Tôi âm thầm theo dõi mọi động tác của Mai. Đã 18 năm rồi, tôi không gặp lại Mai, thật ra thì tôi đã quên hẳn Mai cùng mối tình đầu. Cuộc sống quá khó khăn khiến tôi không còn nghĩ đền chuyện lập gia đình với ai. Nhìn lại Mai, vẫn trẻ đẹp lại còn giàu sang quí phái nữa, tôi cảm thấy thật buồn tủi. Cơn mưa cũng bắt đầu tạnh, Mai cầm biên lai bước vội ra cổng gọi chiếc taxi. Mai đi rồi, tôi ngồi trầm tư với trăm ngàn ray rức. Người mình yêu trước kia nay ngoài tầm với, Mai xa xôi quá. Tại sao ông trời không để tôi yên?
Thấy tôi ngồi thừ lừ, trầm tư khác với thường nhật, anh Bảy thân mật gọi:
- Này Thiện, sao chú như người mất hồn vậy? Sáng mai 6 giờ chú có nhiệm vụ làm chiếc xe Mercedès mới vào đó nghen.
Tôi vội mỉm cười, gật đầu hỏi:
- Dạ, mấy giờ mình phải giao lại cho khách hả anh Bảy?
- 4 giờ chiều.
Cuộc đời giống như một tấn tuồng trên sân khấu, nó diễn biến không ngừng. Ông bà ta xưa kia có câu: "sông có khúc, người có lúc", ai biết được cuộc đời mình sẽ như thế nào? Que sere sera, bài hát thân thuộc vẫn văng vẵng bên tai mỗi khi suy nghĩ về cuộc đời. Tôi không thể nào tưởng tượng gặp lại Mai ở đất Sài Gòn này, nhất là trong hoàn cảnh này. Cuộc tình đã đi vào quên lãng, nào ngờ giờ đây nó sùống dậy trong tôi. Bao kỷ niệm ngày nào tự nhiên trào dâng lên như ngọn sóng triều. Tôi tự an ủi: "Biết đâu người ta đã có chồng con, hơi đâu nghĩ hoài cho mệt". Hơn nữa Mai giàu đẹp như thế kia chắc phải có một người chồng rất xứng đáng. Thôi quên đi!
Chiều xuống, người đàn bà ấy đến trên một chiếc taxi, thật lộng lẫy trong chiếc rốp tây phương. Mai đến nói gì với ông Bảy tôi không biết, tôi chỉ nghe ông Bảy gọi:
- Thiện ơi, vào đây có chút việc.
Tôi mon men lộc cộc đi vào, tim hồi hộp, cơ hồ muốn rớt ra ngoài. Mai nhìn tôi, môi mím lại, xúc động như muốn khóc:
- Anh Thiện!
- Mai! Em vào đây bao giờ? - Tôi bỡ ngỡ nhìn Mai, giả vờ như rất bình tĩnh nhưng lời nói nghẹn lại.
- Lâu rồi. Em và mạ ở đường 3 tháng 2.
Tôi vội vàng xin phép ông chủ mời Mai đến quầy giải khát. Đã hơn 18 năm rồi, biết bao chuyện đổi, sao dời. Mặc cảm của tôi từ chiều hôm qua đến hôm nay bỗng biến đâu mất, nỗi giận hờn ngày xưa cũng đi đâu vắng mặt. Tôi có cảm tưởng như sống lại thời còn sinh viên. Hai chúng tôi dồn dập hỏi chuyện nhau.
- Ba bây giờ ra sao rồi em?
- Ông được tha về năm 1988, ở nhà bồi dưỡng một thời gian rồi được đi theo diện HO sang định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1990 cùng với Hoài Nhân (em trai Mai).
- Hoài Trâm, Hoài Hương (hai em gái Mai) thế nào?
- Hoài Hương lấy chồng, có con không được đi. Hoài Trâm bị chết trong chuyến vượt biên năm 1982. Mạ không chịu đi nên em phải ở lại với mạ. Ba và Nhân viết thư về bảo em tìm anh và cho ổng biết tin tức, địa chỉ của anh.
- Chồng em đâu, sao không thấy đến?
Mai nhìn tôi bẻn lẻn như thời còn yêu nhau.
- Chồng con nào? Em vẫn vậy thôi. Trái tim hóa thạch rồi kể từ dạo ấy.
Tôi cảm thấy thật an ủi, rồi hỏi:
- À, hồi nãy em nói gì với ông Bảy mà ổng gọi anh đó?
- Em thấy ổng ghi tên anh trong phiếu, người trách nhiệm thay nhớt và rửa xe. Em liền hỏi ổng có biết ai tên họ như anh không, vì em cố tình đi tìm anh suốt bao năm nay. Em cũng sợ có người mang trùng tên họ với anh thì quê chết. Không ngờ trời cao có mắt. À, bác gái vẫn khỏe chứ anh?
- Bà già yếu lắm rồi.
- Anh cho em xin địa chỉ để em đến thăm bác gái.
Hai chúng tôi chia tay nhau. Trong tiệm rửa xe mọi người ùa nhau xúm lại hỏi tôi đủ cả:
- Bồ anh khi xưa hay bà con Việt kiều về thăm nước đó?
- Người đồng hương đấy.
Hôm nay tôi cảm thấy rộn ràng, một cái gì vui reo hát trong lòng, tôi như người vừa tìm được một vật quí giá đã đánh mất. Về đến nhà tôi liền thổ lộ việc mẹ con Mai đã vào sống ở Sài Gòn cho mẹ tôi biết. Bà mừng rỡ hỏi tôi đủ thứ tin tức về gia đình Mai. Rồi mẹ tôi cũng dò hỏi tôi về việc tình yêu của tôi và Mai, nhưng nghĩ sao tôi nói:
- Con nghĩ là hai đứa con không thể lấy nhau được, vì ý hướng lập gia đình của con đã tắt từ lúc con bỏ vào Nam. Vả lại với Mai bây giờ lại quá giàu có, hố ngăn cách giữa hai gia đình quá sâu mẹ ạ.
- Nhưng nếu Mai thật lòng yêu của con thì con nghĩ sao?
- Con đã dứt khoát. Bây giờ cũng đã có mười hai đứa "con" (trẻ mồ côi) rồi. Bây giờ con chỉ ước mong xây một nhà lớn hơn cho chúng và những người già cả neo đơn có nơi an dưỡng.
Mẹ tôi buồn cho cuộc tình của tôi nhưng cũng mừng với những ý hướng khác đời của con mình.
Qua trưa hôm sau khi về nhà ăn trưa, tôi thấy một bầy trẻ con bu lại thật đông trước cửa. Bọn trẻ ngỡ Mai là một bà Việt kiều mới về thăm nhà nên tò mò đến xem. Thấy tôi vừa đến cửa, bọn trẻ la lên:
- Thầy đi làm về, thôi đi chơi bọn bay ơi!
Bước vào nhà tôi thấy nào trái cây, nào quà gói của Mai bày la liệt trên bàn. Tôi quên là mình đang sống trong cảnh nghèo khó, lên mặt với Mai như thời còn trẻ:
- Em bày đặt quá, mua gì nhiều quá vậy.
Mai cười:
- Chút quà gọi là cho vui mà anh.

Post Reply