LIÊN HỘI CHIẾN SỸ VNCH-DFW VINH DANH TPB QLVNCH

Post Reply
User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

LIÊN HỘI CHIẾN SỸ VNCH-DFW VINH DANH TPB QLVNCH

Post by phu_de »

LIÊN HỘI CHIẾN SỸ VNCH-DFW VINH DANH THƯƠNG PHẾ BINH QLVNCH
19-6-2006


Gần 300 quan khách, gồm đại diện (2) cộng đồng DFW, cựu quân nhân của các binh chủng: Hải quân, Không quân, Nhảy Dù, Biệt Cách, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Quân Cảnh, Cảnh Sát, Liên đoàn Nguời Nhái , Thiết Giáp …



Hội Thủy Quân Lục Chiến ở Houston va Oklahoma, sinh viên VASC và các cơ quan truyền thông: đài SBTN, VRN, Việt Nam Dallas Radio, báo Thế Giới Mới và Vietnam Weekly News v.v... đã đến tham dự “Ngày Vinh Danh Thương Phế Binh QLVNCH 16-9” tại nhà hàng Tự Do, vùng Arlington, Texas đúng vào chiều 16-9-2006. Các diễn giả được mời từ xa về: Nhà văn Phan Nhật Nam, Nhà thơ Quốc Nam và Luật sư Hoàng Duy Hùng.



Chương trình buổi lễ vinh danh khai mạc vào lúc 7:00 chiều khi tiếng kèn thúc quân trổi lên. Trên bục sân khấu, hai MC Thùy Anh và Thu Nga, sau nghi lễ chào cờ rất trang trọng, đã giới thiệu quan khách và đại diện của các hội đoàn trong vùng DFW tham dự.



Khai mạc buổi lễ, ông Bùi Quang Thống trưởng ban tổ chức, chào mừng cử tọa đã đến tham dự. Anh nói: ”... Xin đa tạ tấm lòng của quý vị đã dành nhiều cảm tình với Liên Hội CSVNCH DFW trước việc tổ chức một ngày đặc biệt dành cho thương phế binh, đó chính là ngày “Vinh Danh Thương Phế Binh QLVNCH”. Sở dĩ chúng tôi chọn ngày 16-9 là vì qua nhiều buổi họp của Liên Hội, đa số anh em trong các binh chủng đã quyết định như vậy. Chọn một ngày để tưởng nhớ những người đã góp máu xương cho đồng đội sống còn là một việc đáng làm”.



Các diễn giả mời từ phương xa về có Nhà văn Phan Nhật Nam, Thi sĩ Quốc Nam, Luật sư Hoàng Duy Hùng. Ban tổ chức đã sắp xếp để ba diễn giả nói về ba đề tài khác nhau, nhưng tựu chung có cùng một mục tiêu là “Vinh danh những người bạn phế binh”.



Thi sĩ Quốc Nam, một phế binh trước năm 1975, với bài nói chuyện ngắn gọn, nhưng rất súc tích:

”... Miền Nam VN chúng ta đã trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt trong suốt 21 năm. Quân lực anh hùng của chúng ta đã chống trả lực lượng quân thù Bắc Phương trên rất nhiều mặt trận, hoặc những trận đánh đẫm máu. Hàng trăm ngàn chiến sĩ đã nằm xuống trong cuộc chiến tại miền Nam Tự Do, cũng như hàng trăm ngàn chiến sĩ đã hy sinh một phần xương máu bảo vệ Chính Nghĩa Quốc Gia. Họ đã mất một phần thân thể để trở thành người Phế Binh. Trong thời điểm Quốc Hận tháng tư năm 1975, quân Cộng Sản VN đã nhẫn tâm xua đuổi những chiến sĩ của chúng ta ra khỏi các quân y viện hoặc bệnh xá, mặc dù rất nhiều anh em vẫn còn trong tình trạng thương tích trầm trọng. Kể từ đó, tất cả những thương phế binh VNCH còn ở lại quê hương, đã bị chế độ Cộng Sản VN đầy ải tủi nhục trên chính quê hương của mình. Họ đã sống lây lất bên lề cuộc đời, có anh em đã phải làm nghề bán vé số, hát dạo, hành khất v.v... để độ nhật.”



“Nói tóm lại, cuộc sống và danh dự của anh em thương phế binh chúng tôi đã bị nhận chìm xuống đáy địa ngục trong chế độ tàn ác của Việt Cộng. Trong hàng chục năm qua, thân phận của anh em thương phế binh VNCH gần như bị lãng quên.


“Gần đây, phong trào nhớ ơn phế binh VNCH đã bừng dậy tại nhiều nơi (đặc biệt là tại thủ đô tị nạn Little Sài-Gòn, miền nam California). Tuy cuộc cứu trợ phế binh có hơi muộn màng, nhưng chính là dấu hiệu thực tốt đẹp đối những thương phế binh VNCH còn sống lây lất tại quê nhà. Ðối với sự hy sinh cao cả của các thương phế binh, chánh quyền VNCH trước đây cũng đã từng tổ chức hàng năm một Ngày Cựu Chiến Binh để nhớ ơn các Thương Phế Binh, Quả Phụ Cô Nhi Tử Sĩ và các cựu quân nhân đã đóng góp vào nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, ở hải ngoại hơn 31 năm qua, một buổi lễ long trọng dành cho sự tri ân Thương Phế Binh cũng chưa được một tổ chức nào thực hiện. Hôm nay, ngày 16 tháng 9 năm 2006, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Dallas-Fort Worth đã chính thức cử hành Ðại Lễ “Ngày Thương Phế Binh VNCH” để vinh danh Thương Phế Binh chúng ta thì thực là một sự kiện lịch sử...”


Bài thuyết trình của LS Hoàng Duy Hùng rất hùng hồn, được cử tọa vỗ tay rất nhiều lần: ”... Ngày nay, các bình luận gia thế giới đã chứng minh rằng, quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để khối tự do chiến thắng cộng sản quốc tế. Như vậy người lính VNCH, không những đã bảo vệ cho miền Nam Tự Do trước đây, mà họ còn có công bảo vệ cho nền tự do của cả thế giới. Vậy, bổn phận của chúng ta, thế hệ trẻ phải tri ân bậc phụ huynh, nhất là những thương phế binh đã hy sinh xương máu cho chúng ta có ngày hôm nay.”



Trong dịp này, khi được hỏi LS Hùng nghĩ thế nào về việc Thái Lan cho VC dẫn độ Lý Tống về Việt Nam, LS Hùng nhận định: “Anh Lý Tống là người hùng gan dạ phi thường, có một không hai trên thế giới ngày nay. Nếu CSVN dẫn độ Lý Tống về thì không khác nào mang theo một trái bom nổ chậm trước trào lưu dân chủ đang nở rộ ở trong nước. Tôi tin rằng, việc bị dẫn độ hay không, và dù phải ở tù bất cứ nơi nào đi nữa thì Lý Tống vẫn đấu tranh cho quê nhà sớm có tự do dân chủ. Ðó là mục tiêu của anh. Riêng đối với chúng ta, sự đoàn kết để cùng anh đấu tranh cho nền dân chủ Việt Nam thật là quan trọng. Hãy biến mục tiêu ấy thành mục tiêu chung cho đại cuộc xóa bỏ bạo quyền cộng sản Việt Nam.”


Sau cùng là diễn giả Phan Nhật Nam đã nói về người Lính, người thương binh VNCH rất súc tích (Xin đọc ở phần sau).


Ðặc biệt, chúng tôi ghi nhận ban tổ chức đã sắp xếp xen kẽ giữa những diễn giả là lời phát biểu của những người trẻ như anh Thái Hóa Tố, Chủ tịch cộng đồng Dallas: “Có lẽ không cần phải nói nhiều thì quý vị cũng đã biết sự hy sinh cao cả của những người thương binh như thế nào rồi. Vì vậy việc vinh danh những chiến sĩ bất hạnh này là điều đáng, phải, và nên làm”.



Lời phát biểu của một người trẻ khác là anh Nguyễn Xuân Hùng, Chủ tịch cộng đồng Fort Worth rất cảm động: “Tôi được quý chú bác khuyến khích ra gánh vác công tác xây dựng cộng đồng trong hơn 4 năm qua, quả thật là một công tác rất nhiêu khê. Nếu không có sự bảo bọc của quý chú bác trong Liên Hội Cựu Quân Nhân, – cái xương sườn của cộng đồng – thì e rằng mọi công tác đã phải gặp rất nhiều khó khăn. Thế nhưng sự đoàn kết của quý chú bác rất cần thiết cho công việc chung. Riêng đối với những người thương phế binh đã bỏ một phần thân thể, đã bỏ hết đời mình cho người khác sống, như chúng ta đang sống ở đây... Có bao giờ chúng ta nghĩ tới họ chưa? Vậy thì chúng ta dành cho họ $100 đô, dành cho họ một buổi tối để tưởng nhớ đến họ có đủ không? Tôi nghĩ Liên Hội Quân Nhân DFW cần phải nỗ lực thêm nữa, tạo nên một làn sóng giúp đỡ để xoa dịu nỗi bất hạnh của người thương binh VNCH đang sống lây lất ở quê nhà là điều cần làm. Hãy tìm những điểm tương đồng trong mục tiêu chung để xóa tan dị biệt...”



Một người bạn trẻ khác, thế hệ thứ ba là Hạ sĩ Nhi Bùi, cô sinh viên rất nổi tiếng trong vụ hạ cờ CSVN tại trường Ðài Học Arlington, Texas vào mùa hè vừa qua, đã tâm tình với phụ huynh:”... chúng ta thật sự không thể đấu tranh riêng lẻ. Bởi vì “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Ðoàn kết là sức mạnh vạn năng. Chỉ có đoàn kết thì chúng ta mới có thể chiến thắng trong cuộc đấu tranh cho một Việt Nam sớm có tự do dân chủ.”



Người phát biểu sau cùng là BS Phạm Văn Chất, tân Chủ tịch Liên Hội CSVNCH-DFW, nói lên lập trường minh bạch của một người đã sinh hoạt rất nhiều năm trong hai cộng đồng DFW. Ông cũng hy vọng với sự góp mặt của ông cùng với anh chị em trong Liên Hội, sẽ tạo được một khí thế mạnh mẽ trong tương lai.



Ðêm “Vinh danh thương phế binh” còn có chương trình văn nghệ xen kẽ rất phong phú. Một điểm son cần nói là mặc dù ban tổ chức không có ý định gây quỹ, nhưng bà con hiện diện đã tình nguyện đóng góp với số tiền tổng cộng gần $6000. Xin xem bảng tổng kết trong số báo này.



Thay mặt cho tất cả các văn hữu của tạp chí Thế Giới Mới, xin cám ơn các bạn trẻ đã nhắc nhở đến hai chữ “đoàn kết là sức mạnh”. Chúng tôi là những người cầm bút đứng đắn của tập thể người Việt Tự Do hải ngoại. Cho dù đứng trước phong ba bão táp, cho dù thời thế thế thời, nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ “phải thế...”; nghĩa là sẽ không bao giờ quay mặt với chính mình, với chiến hữu, với văn hữu. Ngược lại, chúng tôi luôn luôn sát cánh với tập thể người Việt Tự Do, làm tròn nhiệm vụ của một cơ quan truyền thông đứng đắn, không thiên vị giữa những tranh cãi, bất đồng ý kiến trong nội bộ người Việt không cộng sản. Nhưng hoàn toàn đối nghịch với thành phần đón gió trở cờ, lừng khừng, qua bàn tay nối dài của VC trên các mạng truyền thông... hoặc đám cầm nhầm hai chữ “báo chí” mà không hề liên hệ gì tới ngòi bút, nhưng xoáy vào mục tiêu phá hoại công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ Việt Nam.


Image

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Người Lính trong lửa đạn,
và sau trận chiến..

Phan Nhật Nam

Image

I. Tháng Chín, ba mươi hai năm trước, 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công. Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc... hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của Người Lính - Bảo Quốc An Dân - Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy mươi năm xưa đã viết nên những giòng máu lệ ngợi ca hùng tráng,


Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước...




Nội dung vĩ đại trên được thực hiện qua những cảnh tượng hùng tráng: Ngày 25 tháng 6, 1972, chiến dịch tái chiếm Quảng Trị khai diễn với các đơn vị, Biệt Ðộng Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng diện địa của Tiểu Khu Quảng Trị, phối hợp với các chi đoàn chiến xa, thiết quân vận của Quân Ðoàn I, được yểm trợ bởi các đơn vị pháo cơ hữu, và của vùng chiến thuật dưới quyền chỉ huy của Tướng Quân Ngô Quang Trưởng.


Ðoàn quân quyết tử phục hận đồng vượt tuyến xuất phát Sông Mỹ Chánh tiến theo trục chính Bắc với mục tiêu cuối cùng - Cổ Thành Ðinh Công Tráng hay Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Trị - mà quân ta phải tạm lìa bỏ từ 29 tháng Tư do những ước tính sai lầm của những cấp chỉ huy, giới chức lãnh đạo.



Từ Ngã Ba Long Hưng, cửa ngõ phía Nam Quảng Trị, điểm tiến quân cao nhất của Tiểu Ðoàn 7 Nhẩy Dù trong ngày 7 tháng 7, 1972, đến Cổ Thành Ðinh Công Tráng đoạn đường dài khoảng một cây số, và bề ngang từ nhà ga phía cực tây đến làng Công giáo Trí Bưu phía đông, khoảng cách cũng có bề rộng tương tự. Trên khoảng đất rộng hơn cây số vuông kia, mười lăm ngàn người lính của những đơn vị kể trên đã thay phiên nhau bò, trườn, ẩn núp, gọi pháo, đánh bom, ném lựu đạn, đánh cận chiến ngày lẫn đêm suốt đoạn thời gian liên tục 67 ngày, để đến Ngày 14 Tháng 9, 1972 những người lính của các Tiểu Ðoàn TQLC đồng lần siết chặt mục tiêu, dựng ngọn Cờ Vàng bay lộng trên gạch đá điêu tàn, giữa tiếng đạn, khói thuốc súng của trận chiến đang hồi kết thúc.



Cờ lên! Cờ lên! Giữa vũng lửa.. Ở Quảng Trị,
Dân với quân cùng lần nước mắt ứa
Một bận Cờ bay Cổ Thành xưa
Bao phần máu xương Người Lính đổ...




Chiến tích kỳ diệu trên ắt phải được nung nấu từ một nguồn thúc dục vô vàn mãnh liệt mà không thể mua bằng một giá biểu lương bỗng nào dầu cao đến bao nhiêu, chắc chắn cũng không do từ một huy hiệu, cấp bậc tưởng thưởng... Người lính đã bậm chặt môi, nghiến răng xốc tới bởi từ dưới những đụn cát loang lỗ vùng Hải Lăng, Giáp Hậu, chen giữa những xác chết nặng mùi có những dạng người cử động... Những người sống sót từ lần thảm sát khi rời bỏ Quảng Trị trong ngày 29 tháng Tư, trên đường chạy về Huế, lọt vào ổ phục kích vùng hỏa tập tiên liệu của đơn vị cộng sản, chín cây số nam La Vang kéo dài đến cầu Câu Nhi Phường, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng. Những người sống sót hồi sinh với tiếng nói đứt khúc, thì thầm hấp hối... Lính tới... Lính cộng hoà tới...

Image

II. Sau 30 tháng 4, 1975, những Người Lính kể trên có thể đã chết (theo một tỷ lệ khả thể rất lớn) theo lần sụp vỡ quê hương.. Không phải với cách chết bình an lành lặn, nhưng chết với xác thân bị dầm xé, những tay chân gãy gập, đứt đoạn, xương cốt dập vỡ... Những người chết bị kết án, sỉ nhục từ những ngày sống thoi thóp, và chết đi trong uất hận căm hờn rung động đến cùng tận đất trời. Tiếng gào đau nầy đã dậy lên suốt tuổi trẻ trên từng trang sách của hơn ba-mươi năm qua... Bởi bản thân vẫn mãi mãi và luôn chỉ là - Người Lính của một Quân Ðội hằng sống, chết vẹn toàn để thực hiện sứ nhiệm báo ân cùng dân tộc khổ nạn trên quê hương điêu linh - NGƯỜI LÍNH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ.



Nhưng có những con người – Những Người Lính vẫn tồn tại. Phải tồn tại. Họ không chỉ là những người lính bình thường với nỗi truân chuyên, gian khổ, nguy nan đặc thù riêng của đời lính mà là những quân số chịu phần oán nghiệt khốc liệt nhất trong toàn tập thể quân đội – Những Thương Phế Binh bị loại ra khỏi cuộc chiến từ lúc chiến tranh đang nặng độ. Ðây lại là những thương phế binh của một quân đội thất trận, ở lại sau cùng khi những người chỉ huy đã tráo trở đầu hàng, tan hoang tháo chạy, hoặc cùng đày bó tay bẻ súng, vị quốc vong thân. Không vũ khí, không đủ cả giác quan, tay chân, họ ở lại hứng trận đòn báo thù hèn hạ từ một tập đoàn thắng trận bạo ngược tàn nhẫn nhất trong lịch sử đông-tây, mà thông thường khi cuộc chiến chấm dứt, những phe lâm chiến hằng đối xử nhau một cách văn minh với tính bình đẵng huynh đệ... Pháp-Ðức, Mỹ- Nga, Hoa- Nhật... Nhưng, ở Việt Nam, nơi Miền Nam, một bên, kẻ thắng trận, tổ chức bạo lực phát động chiến tranh, giành luôn quyền giết người và thực hiện tội ác vì “độc lập, tự do, hạnh phúc cho đời đời con cháu mai sau!!” và một bên, tập thể những con người trần trụi tuyệt vọng, đối tượng của một chính sách bức hại thâm độc vô nhân tính không cơ may được khoan thứ, không phương tiện chống giữ, không hy vọng thoát thân.


Image

Ðau thương hơn nữa, họ không chịu riêng một mình mà kéo theo những người thân thích, nói rộng ra, một lần với Miền Nam thất trận cùng đành. Cái chết cũng vô nghĩa và không thể thực hiện được bởi khả năng cuối cùng nầy đã hoàn toàn bị tước bỏ. Họ thật tận chết từ trong mỗi ngày giờ hiện sống, qua bức hại, thanh trừng, lưu đày, hành hình trên chính quê hương từ những người gọi là đồng chủng tộc...



Chúng ta hãy cùng sống lại từng bước của buổi trường chinh vô hạn khốn cùng của mỗi đơn vị người gọi là Thương Phế Binh, với những người mẹ, vợ, và những đứa con của họ. Những trẻ nhỏ hoàn toàn vô tội và vô hại cho dù xét xử dưới bất cứ chế độ chính trị, xã hội nào.



21- Ðứa nhỏ chết dưới đường cống Sài Gòn.

Nầy đây, chúng ta hãy nghe thương phế binh Nhị Nguyên viết về hai con nhỏ của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, đơn vị Sư Ðoàn Nhảy Dù, quê Long An... “Thằng Nô, 12 tuổi, Phát 14 tuổi cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Ðồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà mẹ dẫn hai đứa con về Sài Gòn sống lang thang. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng, cha chúng đi lính mặc áo hoa rừng chết vào mùa mưa 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha, nên mỗi khi vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha, chúng cố “làm ăn” cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Thường khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ thì chúng nó tiếp tục lặn dưới các ống cống thành phố để tìm thêm cá. Có những buổi sáng, chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm dưới nước quá lâu.


Vào một đêm nọ, tôi thấy hai anh em thằng Nô, Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống, khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp rầm rầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài cho đến sớm. Bình thường, hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè dưới cống, nhưng sao giờ nầy chúng nó vẫn chưa lên? Thôi rồi, tôi hốt hoảng hiểu ra mọi sự... Anh em chúng tôi báo động với nhau, hỏi thăm những đứa trẻ đang ngủ gà, ngủ gật cạnh những đống rác “giữ chỗ” cho công việc sáng hôm sau (để moi, nhặt rác). Chẳng đứa nào thấy hai anh em thằng Nô. Cho đến một hôm, ba mươi – ba ngày sau, một đứa khác đang lội bì bõm ở ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải một cái gì gống như “trái dừa”, nó nhặt lên, soi dưới ánh dèn, hét tiếng lớn và bỏ chạy. Sợ quá, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của bạn hàng, nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ mở cống tìm xác hai đứa nhỏ, nhưng cuối cùng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa, và nửa thân người còn lại. Bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha.


22- Về những người vợ lính,

Chúng ta nghe tiếp về những người vợ lính, vợ thương phế binh... Ðấy là những người đàn bà bình thường, đơn giản, trú ngụ ở các trại gia binh của các đơn vị quân đội. Những người đàn bà chỉ ao ước mỗi tháng được mua hàng quân tiếp vụ, thăm chồng nơi chốn hành quân xa với tay xách đựng vài ổ bánh mì, nãi chuối, biểu lộ tình nghĩa vợ chồng qua tiếng lời trung hậu, tội nghiệp... Cũng chính họ đã gánh chịu tai họa chiến tranh ngang tầm của người chồng trong cách thế im lặng, thụ động và cam phận...

Những buổi sáng tinh mơ trước khi đoàn xe lăn bánh ra khỏi hậu cứ, họ đã có mặt với những đứa con còn ẵm ngữa, đứa dắt tay. Họ biết nói gì với chồng trước mỗi lần đi ngoài lời thầm xin cầu nguyện... Mong lần đi có khi trở lại, và nếu người chồng trở về với những thương tật không thể bù trừ, những mất mát không hề được tái sinh, họ chấp nhận sự thiệt hại đau thương, giá máu đổ xuống một cách khắc kỷ cao thượng qua lời nói nhẹ tênh... “Ừ thôi, ba hắn không chết là tui mừng rồi, còn vợ, còn chồng là được”. Và đời họ, người chồng lính, những đứa con sẽ kéo dài bình an chìm lặng từ nỗ lực đôi vai, chiếc lưng ngồi hằng ngày nơi phố chợ, hoặc với quang gánh nhọc nhằn trên đường xa. Tất cả khổ đau hoạn nạn được quên khuất nhanh chóng với câu nói bình thản... “Ba sắp nhỏ dù đui què, mẽ sứt chi mà còn sống là tui cũng yên lòng”.


Tất cả mối mong ước bình an chịu đựng nhỏ bé nầy đồng bị đổ nhào, lật ngược một cách tàn nhẫn nơi ngày 30 tháng Tư, 1975. .. Chồng chị Liên là anh Hơn, phế binh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, cụt một chân và lao phổi nặng. Một hôm đi bán nhang chẳng may băng qua đường bị trợt té, một chiếc xe hàng chạy qua thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Dẫu chồng chết, chị Liên cũng đã lây bệnh ho khậm khẹt và không hiểu sao chị sợ màu đỏ quá. Nó giống máu hoà trong nước miếng của chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho, nó cũng giống màu cờ đỏ treo khắp thành phố. Liên cùng chị Mạc, vợ một phế binh khác, và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Cả ba đi tàu chui và khi gần đến ga Bình Triệu thì tuôn củi xuống, Liên có đứa con trai lớn tên Ðức, nhanh nhẹn giúp đỡ mẹ rất đắc lực, nhưng chị Mạc với bé Hoa mới 5 tuổi thì thật là khó khăn, nguy hiểm khi nhảy tàu, vừa bế con, vừa tuôn củi. Liên khuyến khích bạn, “Chị đừng lo, thằng Ðức con tôi sẽ cỏng con Hoa nhảy giùm cho...”. Nhưng sự “may mắn” không đến với chị Liên được mãi, tai họa đã xẩy ra như một điều tự nhiên của nghiệp khổ phận người Việt Nam.


Một hôm, trời mưa tầm tã, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Ðể cứu lấy món hàng, Ðức và những đứa nhỏ leo lên trần xe và chuyền những bó củi qua cửa sổ. Một đứa tuột tay bị cuốn vào bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát vụn dọc theo đường tàu. Về đến ga Thủ Ðức, chị Liên vẫn không thấy thằng Ðức đâu, hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa bảo thấy thằng Ðức leo mui xe lửa trốn bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau, Liên mới biết được rằng, khi xe qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị đà ngang đánh vỡ đầu, rơi xuống đường ray, thây xác bây giờ không biết nằm đâu. ... Cuối cùng, chị Liên gia nhập lực lượng “tình nguyện hiến máu”. Chị có ý định sau khi gom được số tiền bán máu chị sẽ đi buôn lại như xưa vì bây giờ nghe nói cộng sản không còn “ngăn sông cấm chợ ”. Chị đã đến các trung tâm tiếp huyết Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hoà để bán máu. Nhưng vì muốn mau thoát khỏi kiếp sống hè phố chị đã quên chính mình, thân xác càng ngày càng suy kiệt, mặt chị xanh xao, đi không vững, bị xây xẫm luôn. Một đêm chị ngủ trên ghế đá một công viên ở Chợ Lớn, sáng mai người ta tìm thấy xác chị cứng đơ. Khi đem xác đi chôn, số tiền để dành trong túi chị bị công an tịch thu vì không có chứng minh tài chính hợp lệ.


23. Cảnh sống/chết đọa đày của Gia Ðình Thương Phế Binh..

Ðây, lời kể của chứng nhân Bùi Anh Sáu về lần “Ghetto, Làng Phế Binh Thủ Ðức” bị triệt hạ: “Ba giờ sáng ngày 1 tháng 7, 1975, Làng Phế Binh Rạch Chiếc Thủ Ðức bị đánh động, vây chặt bởi một đơn vị bộ đội đông đúc có cả xe tăng yểm trợ. Một đoàn xe chờ sẵn để dồn mọi người lên vùng kinh tế mới Sông Bé (Phước Long cũ)... Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết? Sông Bé ở đâu, người người bàn tán xôn xao. Trẻ nít khóc rân, người lớn nháo nhác hốt hoảng dồn đồ đạc, áo quần dưới ánh sáng luồn sục, thúc dục của đèn xe và đèn pin và lời quát tháo chửi mắng... “Chúng mầy là gia đình bọn ngụy quân, lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân, chúng mầy không được quyền ở đây, phải trả lại tài sản cho nhà nước và nhân dân!!”.

Chen trong chuỗi la ó hỗn loạn kia có những âm thanh nổ bùng, sắc gọn sau tiếng la hét uất hận... Những thương phế binh tự sát cùng với gia đình, từ chối lên vùng kinh tế mới. Ðến sáng, toàn khu làng phế binh ngày thường sầm uất nhộp nhịp nay vắng hoe, heo hút những đám cháy nhỏ gồm những vật gia dụng bộ đội không cho đem theo; chỉ còn những đơn vị bộ đội đứng gác và các toán đi lại, vào từng nhà kiểm kê. Một đoàn xe khác từ Sài Gòn đến, sau khi đã chất đầy những đồ đạc để sẵn ngoài sân, phủ bạt kín, chạy ra xa lộ, hướng về phía bắc”.

Gần một năm sau, tất cả những gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé đồng trở về vì không chịu đựng nổi cảnh sống quá cực khổ ở vùng núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đủ như lúc ra đi vì đã để lại thân xác nơi rừng sâu; có gia đình thì đông hơn trẻ nít, nhưng tất cả đều ốm yếu, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chóc. Họ không còn nhà, nên thường cất những chòi bằng giấy cứng quanh nghĩa địa. Người sống và người chết chen nhau. Vào ngày nắng gắt hoặc mưa giông, nghĩa địa bốc mùi tanh nồng nặc, dần dần ai nấy đều có nước da tai tái như người chết. Nhà cửa khu trại gia binh bị trưng thu, vùng kinh tế mới sống không nỗi, lấy nghĩa địa làm nhà, lề đường là vùng sinh sống, đám dân cùng khổ biến thành “tệ đoan xã hội”, đối tượng của chính sách dồn ép và quét sạch để “làm đẹp tổ quốc giàu, mạnh, xứng đáng thành phố mang tên bác kính yêu”.


Chúng ta nghe tiếp lời của phế binh Bất Hạnh, hiện ngụ tại Khánh Hội, Sài Gòn:

” Những cuộc truy quét thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động, dài theo đường phố Sài Gòn, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân bị công an quăng đầy lên xe cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe xay nước trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng...

Chưa hết, bên cạnh những chuyến xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy người già, trẻ nít, người tàn tật, những bà mẹ cùng những đám con thơ nheo nhó đỏ hỏn bế trên tay...

Tất cả đồng đưa về trại tập trung về tội “lấn chiếm lề đường”. Nầy đây, một cuộc bố ráp điển hình ở Khu Hàng Xanh: “Tôi( Bất Hạnh) không may lọt ổ phục kích, chưa biết phải làm gì trước tình huống thì một xe công an từ đâu phía sau chạy tới, một tên nhảy xuống, giật thùng đồ nghề (vá xe) quăng lên xe.

Thế là trắng tay! Làm sao để sống đây hở trời? Những nơi khác, quanh Ngã Tư, tiếng la hét, khóc than vang lên tới tấp. Một chị phụ nữ la thất thanh, chị đang giằng co với một tên công an thúng trái cây, bên cạnh bên chị, hai cháu bé, đứa khoảng 5 tuổi, đứa chừng 3 tuổi bò lăn trên những trái mận, ổi, khóc vang khi thấy mẹ bị tên công an đá quay lông lốc...”



24. Ðối mặt với một chính sách diệt chủng,

Sáng ngày 1 tháng 5, 1975, một địa ngục có thật mở ra trên Miền Nam, càng đậm sắc với những người tàn phế ở các quân y viện... Một toán Việt cộng tiến vào Bệnh Viện 3 Dã Chiến buộc chúng tôi rời viện ngay tức khắc. Bọn người nầy chưởi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc v.v... Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị chúng xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn Nga, Tàu gây thương vong. Những chiếc “nón cối” nầy đại diện cho ai mà dám la hét: “Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy chúng mầy không được nằm tại đây. Ðồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước!!”. Chúng tôi người nầy đỡ người kia khập khểnh ra khỏi trại, có những chiến hữu vết thương đang rĩ máu bị vất trần truồng tênh hênh trên lề đường... Gia đình mừng rỡ thấy tôi trở về, nhưng trong hoàn cảnh nầy ai cũng lo âu cho tương lai của mình.


Hằng ngày tôi thấy trước mặt từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho. Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ dưới chân cầu Tân Thuận bị những người đội nón cối xả súng bắn thẳng... Nhiều người dãy dụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản trốn, nhưng vài phút sau họ lại tràn vào đông hơn, bất kể súng đạn, ai bị thì té xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa... Khi những ngày hỗn loạn đầu tháng 5, 1975 qua đi, những thùng đồ hộp bọn em đem về dần cạn, người phế binh phải ra đường kiếm sống với những “nghề cứu đói”, vá lốp xe đạp, sửa hộp quẹt gaz, bán nhang...


Và cuối cùng, đi xin ăn. Nhưng tất cả không thể kéo dài khi Ba Nhiệm làm trưởng ban “Truy quét tệ nạn xã hội” với một bộ phận kinh hoàng, “Nhà nuôi Thị Nghè” được dựng nên để làm địa điểm chuyển tiếp giải quyết tất cả những đối tượng đang sinh sống trên, với vĩa hè, số lượng nầy càng tăng vọt khi tiếp nhận thêm hàng vạn người từ Miền Bắc túng đói tràn vào....

Tuy gọi là “nhà nuôi” nhưng thật ra nơi đó là nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là “tội phạm hình sự ”, do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên. “Tội phạm” là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lề đường, họ không có quyền khiếu nại là bị bắt trái phép hay không và cũng không có án phạt rõ ràng; thời gian ở đây được coi như để “nuôi dạy” nên không hạn định thời hạn giam giữ, nhiều người đã ở lại đây vĩnh viễn. Mỗi nhà nuôi có có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 thước vuông, với khoảng chừng 100 con người bị giam. Tối tối mọi người phải thay nhau chỗ nằm và ngồi quạt cho nhau. Sáng khi nghe kẻng điểm danh, người nầy gọi người kia, ai nằm im không cục cựa thì đem đi hoả thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo. Người sống thì đi lao động, kể cả người tàn tật, mù hai mắt, cụt tay, chân.


Nếu sống sót từ các “nhà nuôi”, trở về lại Sài Gòn, tình cảnh cũng chẳng sáng sủa hơn và cuối cùng tất cả đồng “chọn” một biện pháp “không còn chọn lựa”...


Hoàng Thụy và Sơn, hai phế binh do quá kiệt sức vì bệnh lao và cụt hai chân nên được ra khỏi “nhà nuôi số 4” Phú Giăng, Sông Bé. Họ không dám đi ăn xin, chỉ “xin ăn” lại từ những người sống trong nghĩa địa.


Một buổi chiều, hai anh ra bến Bạch Ðằng, ngước mắt nhìn tượng Ðức Trần Hưng Ðạo một hồi lâu rồi nắm tay nhau nhảy xuống dòng nước chảy xiếc. Xác hai anh được vớt lên, cha anh Sơn đang bán bánh ú, bánh tét quanh chợ Bến Thành hay tin, đến nhìn xác con. Nhưng ông chỉ im lặng đứng chung với đám người hiếu kỳ, không dám nhận là thân nhân người xấu số vì không có tiền mai táng con mình. Ông đứng thẫn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc.



Hoàng Thụỵ và Sơn không chết một mình, những người lính tàn phế lần lượt “chọn” cho mình những phương tiện và thời điểm thích hợp...

Anh Thơm khi ngồi dưới chân cầu Sài-gòn, gần Ngân Hàng Quốc Gia có suy nghĩ rằng, do vợ chồng anh thiếu quan tâm nên đứa nhỏ con anh mới chết vì suy dinh dưỡng; mẹ nó đang “đi khách” ngoài chợ Bến Thành để dồn tiền cho anh làm vốn đi bán nhang... Anh quá mệt mỏi để nghĩ tiếp... Cuối cùng, anh mở hai tuýp thuốc ngủ trút hết vào miệng, bị say thuốc, anh ọc mữa đầy hết áo quần, xong dẫy mấy cái và ngủ luôn dưới chân cầu.

Lộc “què” mắc bệnh ho lao, thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hoà.
Quý “Ðốc- tưa Zivago” không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ hằng ngày cầm lon ra chợ xin thức ăn nuôi thân và nuôi con, nên thắt cổ chết lè cả luỡi ra.
Thanh “liệt” thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau, đâm bực mình liền chĩa mũi dao đâm cái phọt vào tim...

Nhưng trong những thân thể thương tật kia, ý chí chiến đấu của người lính không hề tàn lụi, họ vẫn giữ nguyên bản lĩnh kiêu hãnh của một quân đội, một đơn vị hằng tạo dựng những chiến tích lừng lẫy, cho dù hành động phản ứng tuyệt vọng bi tráng của họ chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả khốc hại cuối cùng với cái chết ghê rợn nhẫn tâm...


Câu chuyện sau đây của phế binh Khát Vọng, hiện ngụ tại Long Hải, Phước Tuy có thể dùng để tạm kết về buổi thụ nạn đau thương của Thương Phế Binh QLVNCH với tất cả bi hùng mà chỉ người trong cuộc mới có thể viết nên, kể lại:

Khu chính trị trại Xuân Lộc, Long Khánh thường xẩy ra nhiều chuyện đau buồn. Anh Trần Văn Ðược, Trung Sĩ Nhất Thuỷ Quân Lục Chiến, cụt một chân và mù một mắt trong trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Mùa hè 1972 bị bắt chung với trung uý Phạm Tấn Dũng, binh chủng Nhảy Dù, bị thương năm 1974 trong trận tái chiếm đồi 1062, Thường Ðức, Quảng Nam vì tội “hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền”.


Một hôm, viên cán bộ quản giáo quê Nghệ Tĩnh vừa được chuyển tới, ra lệnh anh Ðược quét sân. Vì giọng nói người nầy khó nghe, nên anh Ðược vẫn ngồi yên uống nước trà. Gã cán bộ nhào tới xỉ vã và đánh anh một bạt tai. Nỗi nóng, anh Ðược cầm lon guigoz dựng nước nóng tạt vào mặt nó và chỉ tay nói: Mày là giống gì mà mất dạy quá vậy? Bộ tao là súc vật à, ai cho mầy vô phép dữ vậy?!! Tao tuy tàn tật nhưng không để cho mầy sĩ nhục đâu. Ðồ quân mất dạy, con tao còn lớn hơn mày nữa mà...

Ðược chưa nói hết câu, tên cán bộ nhào tới đánh anh vào đầu ào cổ, và chưỡi rủa những tiếng khó nghe. Anh Ðược bị té xuống đất, nó liền đá vào đầu vào bụng anh. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can, bị mất thăng bằng, anh níu áo tên cán bộ nầy và cả hai ngã xuống đất. Tức thì, bảy tám cán bộ quản giáo khác từ trong nhà chạy ra vây đánh hội đồng, cả hai anh lăn lộn chịu đòn trên mặt đất. Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ, đang lúc chúng còn đang dụi mắt, Dũng nắm chân một tên kéo xuống, xong thúc cùi chỏ vào mặt y.


Một tên khác đi tìm một khúc tre làm cột phơi áo quần quất tới tấp vào mình, đầu anh Dũng. Tiếng bình bịch, bồm bộp vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương cụt của anh Dũng bê bết trên đất. Trại viên chạy ra năn nỉ xin tha, đám cán bộ chĩa súng đòi bắn, lùa tất cả mọi người vào phòng; Dũng và Ðược bị kéo lên văn phòng trại.


Trời bắt đầu tối, không ai còn lòng dạ nào để ăn cơm, từ phòng tra tấn đến phòng giam tập thể không xa nhau lắm, nên chúng tôi nghe được câu còn câu mất... Nội dung những tiếng la hét, tra khảo và trả lời đại khái như sau:

– Mầy đeo cái gì tòn ten duới cổ hả thằng kia?

– Thánh Giá.

– Cởi nó ra khỏi cổ ngay lập tức.

– Còn lâu. Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó ra. Bộ muốn cấm đạo hả. Cây thánh giá nầy là tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi bỏ ra. Tức thì tiếng huỳnh huỵch vang lên, có lẽ chúng đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ người Nam nghiến răng hằn học (chúng tôi chỉ nghe rõ tiếng Nam của tên nầy)... Ðạo hả... Ðụ má đạo... đạo nè...

Bớ nguời ta chúng đánh người... Họ giết chúng tôi! Anh Ðược gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn. Những tiếng “huỳnh huỵch... bồm bộp” lấn át tiếng la của Ðược. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng rên rỉ dứt khoảng rồi im bặt.

Sáng hôm sau, cán bộ quản trại cho hay, hai anh Dũng và Ðược đã “hành hung cán bộ và cắn lưỡi tự tử chết”. Chiều tối, chúng tôi hỏi bốn người hồi sáng đi chôn Dũng và Ðược thì biết rằng xác hai anh đầy vết tím bầm, mắt của Ðược bị sưng tím đen, mặt Dũng thì máu đóng cứng. Hai anh có lẽ chết vì những vết thương ở đầu, máu dưới tóc cứng khô, cạy mãi không được. Khi bó xác, bốn người phải ký giấy chứng nhận các anh tự tử mới cho phép chôn.

III. Người phải lên Tiếng Nói..


Trong thời gian dài chiến tranh nơi Miền Nam, dẫu trên chiến địa hung hản, bản thân chúng tôi chưa hề thấy lính Miền Nam hành hạ tù binh, đừng nói tù binh bị thương. Một trong những bức hình nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Hạnh, có một tấm ảnh ít người kể ra: Cảnh một lính Dù vác thương binh Việt cộng ở mặt trận Chợ Lớn hồi Mậu Thân, 1968. Thế nhưng, bức hình Tướng Loan bắn tên đặc công lại được phổ biến khắp cùng báo Mỹ và thế giới. Hình như tác giả tấm hình đã có giọt nước mắt muộn màng hối lỗi. Quả thật, thế giới đã từ lâu im lặng đồng loã cùng tội ác ở Việt Nam một cách quá đỗi hèn hạ và bất công. Phải, người phải lên tiếng nói, nếu không, sự im lặng sẽ là một biễu lộ cứng lòng nhẫn tâm đáng kết án. Thế nên, trong những năm qua, từ tây sang đông thế giới đã hằng có những tấm lòng xa xót cùng nỗi đau của người lính thương trận nơi quê nhà... Nhưng quả thật, tất cả đóng góp nầy chỉ mới là phần cứu nạn khẩn cấp, chứ so cùng thống khổ vô vàn kia vẫn còn rất nhiều thiếu sót.


Và kỳ diệu thay, nguồn mạch Tình Thương Việt Tộc – Nghĩa Ðồng Bào luôn tồn tại sắt son liên lũy mối đau thương kia đã chạm tái tim người – Những người không tham dự cuộc chiến, chưa hề mặc áo lính, nhưng lương năng khởi động từ trái tim xót đau –

Image

Trường hợp người tuổi trẻ, Bác Sĩ Phan Minh Hiển – Một của những gương mặt hãnh diện đích thực của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại với những đóng góp nhiệt thành tích cực, hiệu quả trong hàng loạt công tác suốt hơn hai mươi năm qua là một điển hình... Cứu cấp người vượt biển, mất tích, trên biển Ðông; cứu trợ người tỵ nạn ở các đảo, ở Pháp; giúp trẻ mồ côi, gia đình nghèo khó, người tàn tật (chủ yếu ở Miền Nam), và cuối cùng, khi những thành phần vừa kể tạm có đời sống ổn định, Phan Minh Hiển dồn nỗ lực yểm trợ với đối tượng Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thành phần hứng chịu khổ nạn nặng nhất, sớm nhất từ cuộc chiến, mà dẫu quê hương đã im tiếng súng hơn hai mươi năm, nỗi cùng khổ kia vẫn chưa có dấu hiệu được bù trừ, như phần cơ thể mất đi không thể tái sinh, như người chết không hề sống lại. Chúng tôi đã là một thế hệ thất bại, nhưng chúng tôi không hề thất vọng bởi luôn giữ vững mối tự tin. Chính chúng tôi chứ không ai khác, là Người Lính thuần thành hằng thực hiện sứ nhiệm BẢO QUỐC AN DÂN. Sự xác chứng nầy hiện thực trong lòng mỗi người dân và chiến hữu chúng tôi xứng đáng nhận lãnh lòng tri ân, phục hồi danh dự và nhân phẩm, bởi chính họ là những Chủ Thể góp máu, xương trong ý nghĩa thực tế, cụ thể nhất để Miền Nam đã một lần sống động Dân Chủ, Tự Do – Tự Do được trả giá bằng đời sống đã mất đi theo tuổi trẻ, hy vọng và sự sống của chính mỗi Người Lính.

Sau 34 năm của Kỳ Tích Lẫm Liệt 14 tháng 9, 1972-2006

Với máu xương

Người Lính QLVNCH Phan Nhật Nam

Post Reply