Bs Nguyễn t.Thanh:Khoa Học & Đức Tin

Post Reply
User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Bs Nguyễn t.Thanh:Khoa Học & Đức Tin

Post by phu_de »

Bs Nguyễn Thị Thanh : Khoa Học & Đức Tin

Phỏng Vấn Đặc Biệt, Tạ Quý sưu tầm


Lời giới thiệu của VNN : Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh, người đã khám phá ra nguồn gốc của bệnh ung thư và phát minh phương pháp trị tuyệt căn chứng bệnh ác hiểm nầy, thông tấn VNN chúng tôi rất hân hạnh được Bác sĩ dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt sau đây do phóng viên Võ Triều Sơn thực hiện.
Ngoài phần trình bày chi tiết thêm về những điều quan trọng của bệnh ung thư, trong cuộc phỏng vấn đặc biệt nầy, Bác sĩ còn có những chia sẻ chân thành cùng quý độc giả của VNN về những suy tư và ước nguyện của một nhà nghiên cứu khoa học về Đức Tin đối với Thượng Đế và về thân phận Sinh, Lão, Bệnh, Tử của con người.


Xin kính mời quý vị theo dõi.
Võ Triều Sơn (VNN).


Sơ lược Tiểu sử Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh :


[left]http://www.congdongnguoiviet.fr/Images/0610ChuaBinh.gif[/left]Sơ lược Tiểu sử Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh :
Sinh quán tại Quảng Trị, Trung Việt.
Năm 1965, tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa Quốc gia tại Paris .
Năm 1967, qua Gia Nã Đại dạy về Physiologie tại Đại học Moncton NB , Canada . Sau đó, về nước làm Phụ tá Đặc trách Bộ Xã Hội Cứu Trợ cho Bác sĩ Tổng trưởng Trần Lữ Y (Bác sĩ Y lúc ấy trông coi cả 3 Bộ Y Tế, Xã Hội và Cứu Trợ ; Riêng Bác sĩ Thanh có thêm Chứng chỉ Hậu Đại học về Hygiène, Médecine Préventive et Actions Sanitaire et Sociale).


Sau đó, Bác sĩ Trần Minh Tùng, Bộ trưởng Y Tế, cử Bác sĩ Thanh làm Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, nhưng sau khi quan sát Bệnh viện, bác sĩ Thanh từ chối trách vụ nầy và mở phòng mạch tư chuyên nghiên cứu về ung thư và thuốc Nam, Bắc. Công cuộc nghiên cứu nầy kéo dài cho tới khi Bác sĩ sang định cư tại Montréal (Gia Nã Đại) sau nầy.


Sau 1975, Bác sĩ Thanh ở lại Việt Nam tiếp tục chữa bệnh. Vì tính tình cương trực, thẳng thắn, Bác sĩ đã bị nhà cầm quyền CSVN giam tù gần 3 năm vì chống chế độ tham nhũng. Tháng 09/1988, Bác sĩ qua định cư tại Gia Nã Đại.
Sau gần 20 năm nghiên cứu, Bác sĩ Thanh đã trình bày về khám phá nguồn gốc trạng thái thiên nhiên của siêu vi (virus) và bệnh ung thư và cũng đã áp dụng lâm sàng chữa lành bệnh ung thư cho nhiều người.
Năm 1998, Bác sĩ Thanh bắt đầu nạp đơn xin Bằng Sáng Chế tại Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và Việt Nam . Năm 2002, Bác sĩ đã được Chính phủ Gia Nã Đại trao Bằng Sáng Chế Trị Tuyệt Căn Ung Thư.
Ngoài những nỗ lực nghiên cứu về Y khoa, Bác sĩ Thanh còn nghiên cứu nhiều về Nguồn gốc Văn hoá Tiền và Sơ sử Việt Nam và đã có nhiều cống hiến rất giá trị về lãnh vực nầy.


VNN : Kính thưa Bác sĩ, nhà bác học Louis Pasteur đã nói rằng : Khoa học càng tiến bộ càng làm cho nhân loại tiến gần lại với Thượng Đế. Là một chuyên gia Công giáo nghiên cứu về Y khoa, Bác sĩ nhận thấy ý tưởng trên đây của Louis Pasteur có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống và lý tưởng khoa học mà Bác sĩ đang theo đuổi ?

Bs Nguyễn Thị Thanh : Đúng, ông Pasteur đã nói rằng : ''Un peu de science on s'éloigne de la Foi, beaucoup de science on s'en approche = Một chút khoa học người ta xa Đức Tin (vào Thiên Chúa), nhiều khoa học người ta tiến lại gần Đức Tin". Câu nói trên của ông Pasteur là kinh nghiệm đời sống nghiên cứu khoa học của ông và của một số lớn các nhà khoa học. Càng đi sâu vào nghiên cứu khoa học, ông Pasteur càng mạnh tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa toàn năng.

Ông ấy muốn nói lên khi người ta tập tểnh một chút khoa học thì họ cảm thấy tự mãn, tự kiêu, coi như với khoa học họ đã đạt được chân lý cao siêu trên hết, và đã đạt được cứu cánh của đời sống con người ; ngoài ra không còn gì nữa đáng nói. Họ tự mãn, tự kiêu tưởng như mình có thể đạt được tất cả với một chút khoa học như ''cóc nằm đáy giếng thấy trời bằng vung'' và không còn tin vào Tạo Hoá toàn năng đã sinh ra con người và cho họ trí thông minh để họ mò mẫm đi tìm vài tí chút sự thật vô cùng hạn hữu trong thiên nhiên tức là nghiên cứu khoa học.

Nhưng khi con người đi sâu hơn vào khoa học thì họ sẽ sửng sốt, bàng hoàng trước những hiểu biết nhỏ nhen vô cùng giới hạn của họ. Tầm mắt mở ra, họ cảm thấy cái bé nhỏ hèn kém của con người và những thành quả khoa học đạt được do nhiều công sức dầu phát triển đến đâu cũng chỉ là cái hiểu biết hạn hẹp vô nghĩa. Từ những nhận thức đó, con người có suy nghĩ hướng về Tạo Hoá. Vì chỉ có Đức Tin về một Thiên Chúa Toàn Năng mới trả lời mọi thắc mắc cho con người biết suy nghĩ. Khoa học với mọi phát minh của nó chỉ là những sự mò mẫm nhỏ nhen trong đêm tối đi tìm những tia sáng li ti sự thật trong vũ trụ huyền nhiệm của Tạo Hoá. Một ví dụ nhỏ : Một phi công lái máy bay tự cảm thấy có tài năng vượt tầng mây. Nhưng đi xa hơn, khi theo hỏa tiển lên cung trăng, ngắm một góc cạnh bé tí xíu vũ trụ bao la hùng vĩ, vô tận, thì anh ta bàng hoàng, chao đảo, trước cái vô biên của Tạo Hoá và cái hiểu biết nhỏ nhoi vô nghĩa của mình.

Bất cứ trong ngành nào, đặc biệt là y khoa thì câu nói của ông Pasteur lại càng đúng. Tuy nhiên, Đức Tin vào Thiên Chúa không thể là món quà tự động trước khoa học cao thâm. Vì quan niệm về thiên nhiên vô biên chưa hẳn đã là yếu tố ''cần'' và ''đủ'' để con người có Đức Tin vào Thiên Chúa. Còn cần một yếu tố khác quan trọng hơn, đó là mầu nhiệm về ơn Thánh sủng của Đấng Tối Cao ban tặng cho con người có lòng biết nắm bắt ánh sáng Đức Tin sâu sắc và bền vững. Vì thế, không phải tất cả các nhà khoa học vĩ đại đều tin sâu sắc vào Thiên Chúa.


VNN : Từ xưa đến nay, rất nhiều nhà khoa học đã hăng say làm việc một cách bất vụ lợi dầu gặp phải nhiều khó khăn. Trong bài phỏng vấn mới đây của bà Diễm Thy Báo Ngày Mới Paris, Bác sĩ cũng đã nói đến vì việc nghiên cứu ung thư mà phải tan gia bại sản và gặp thật nhiều bất công và phá hoại. Như vậy, những hy sinh của các nhà khoa học cùng những tiến bộ của khoa học ngày nay có đương nhiên đem lại hạnh phúc, an lành cho nhân loại không ? Hay nhân loại phải cần tới một thứ gì khác nữa ? Và nếu cần thì phải làm thế nào ?

Bs Nguyễn Thị Thanh : Trừ trường hợp được trả lương hậu hỉ hay tài trợ, hay mua bán bằng phát minh để thành tỉ phú đô la, nếu không, người nghiên cứu khoa học phải hy sinh nhiều. Phải thành thật nói rằng trong sự hy sinh đó tuy có tinh thần phục vụ, nhưng phải có sự đam mê vui sướng và nghị lực kiên cường thì mới mong thành công nhiều ít được. Vợ chồng bà Marie Curie phải đốt bàn ghế giường tủ đang dùng để nghiên cứu, hai ông bà sống nghèo cho đến chết.

Riêng tôi, gặp phải nhiều điều không may vừa ở Montréal Canada vừa ở Việt Nam . Tại Montréal, tôi được hân hạnh hai bác sĩ đồng nghiệp có phòng mạch giàu có chiếu cố, vì ganh tị, vu khống, tố cáo tôi ''chữa bệnh thí nghiệm'' lấy tiền mà không khai báo, nên chính phủ Canada phạt tôi gần 100,000$, xiết nhà, và lấy hết tiền trong tài khoản ngân hàng của tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn vui và hiện đang khiếu nại. Sự kiện nầy làm cho tôi suy gẩm câu Chúa dạy cầu nguyện trong kinh Lạy Cha mà phát run sợ "Vâng ý Chúa dưới đất cũng như trên trời!"

Hạnh phúc và đời sống an lành của nhân loại không hẳn nhờ khoa học mà có. Từ xưa, khoa học chưa phát triển con người vẫn sống hạnh phúc an lành. Tuy nhiên, khoa học phát triển đã đem đến nhiều điều lợi lộc tương đối cho nhân loại. Nhưng cũng không chối cãi được rằng khoa học cũng đã đem đến nhiều tai nạn cho loài người : ví dụ súng đạn, bom mìn, chất độc hoá học, môi trường sống bị phá hoại, nguyên tử, hạt nhân giết người hàng loạt, xì ke ma tuý, thuốc phá thai giết người, thuốc sex v.v. đầu độc tuổi trẻ, người lớn.

Vì vậy, hạnh phúc và an bình của nhân loại hoàn toàn tùy lương tâm con người biết lợi dụng khoa học như thế nào. Nhân loại cần phải bừng tỉnh để biết sống có chân lý, có bác ái đức độ. Lãnh tụ quốc gia phải biết trị dân với chánh đạo, vương đạo, biết dùng khoa học để đem lại an ninh thịnh vượng no ấm cho dân. Lãnh tụ quốc gia không thể lợi dụng quyền hành mà tham quyền cố vị, tham lam lợi lộc, nhắm mắt hy sinh mọi quyền làm người của dân, no ấm của dân cho địa vị và hầu bao không đáy riêng tư ; dùng khoa học tạo khí giới hoá học, vi trùng, hạt nhân giết người hàng loạt hòng làm bá chủ thế giới ; nịnh dân để kiếm phiếu, đưa thanh thiếu niên lăn xả vào chủ nghĩa hiện sinh với cuộc sống đồi truỵ mất hết ý nghĩa hạnh phúc an lành quí báu cho cuộc sống của họ.

Giáo Hội Công Giáo (GHCG) La Mã trên bình diện đất đai dân số là một nước thật nhỏ, nhưng trên bình diện thiêng liêng GHCG lớn bằng hoàn vủ. GHCG có sứ mệnh tinh thần tối cao là dẫn dắt nhân loại ngày càng đi đến chỗ hoàn thiện hoàn mỹ. Và từ chỗ hoàn thiện đó, con người dễ tìm gặp Thiên Chúa.

GHCG phải tích cực hoạt động một cách năng nỗ, thiết thực đặc biệt hơn nhiều để có thể đáp ứng hoàn cảnh xã hội sa đoạ của quả địa cầu bệnh hoạn suy sụp ngày nay. GHCG không thể chỉ ngồi làm việc lấy lệ, nhỏ giọt trước bao cơn bệnh trầm kha sa đoạ nặng nề về mọi mặt của thế giới như lũ lụt dâng trào ngày nay.
Không một hội đoàn, cơ quan, không một nền giáo dục quốc gia nào có thể thay thế sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho GHCG của Người trên trần thế. GHCG mà chúng tôi nói đây không phải chỉ gồm các vị Lãnh đạo tại Tòa Thánh La Mã mà là một GHCG hoàn vũ gồm toàn thể Kitô-hữu trên trái đất trong đó có toàn thể giáo dân, có các anh chị em, có một số các bạn làm việc trong VNN, có tôi. Vì vậy, dầu là phần tử nhỏ mọn đến đâu chúng ta vẫn phải có bổn phận góp phần xây đắp GHCG Chúa Giêsu.


VNN : Theo niềm tin của nhiều Tôn giáo thì Thượng Đế dựng nên vũ trụ và sinh ra con người vì chính Tình Yêu của Ngài nhưng tại sao trong môi trường sống của con người lại đầy thảm hoạ như bão lụt, động đất, sóng thần, cũng như trong chính cơ thể con người vẫn luôn luôn đầy dẫy những mầm mống gây ra bệnh tật chết người như những siêu vi, mầm bệnh ung thư chẳng hạn. Bác sĩ nhận định như thế nào về những vấn đề nầy ?

Bs Nguyễn Thị Thanh : Thiên Chúa tạo nên quả địa cầu với mọi tự do hoành hành của nó, lũ lụt, động đất, hỏa diệm sơn, sóng thần, môi trường... Thiên Chúa tạo nên những sinh vật trên quả đất, từ con cực siêu vi đến con người, Ngài ban cho sự sống, vui vẻ, hạnh phúc, gian truân, đau khổ, bệnh hoạn và chết. Đó là chương trình mầu nhiệm yêu thương của Ngài. Tại sao vậy ? Vì cuộc sống trần gian là một cuộc thử thách ghê gớm. Thử thách cho hạng người được mọi may mắn, xinh đẹp, mạnh khoẻ, hạnh phúc tình yêu, công danh, phú quý, giàu có, và thử thách cho hạng người ngoại hình thua kém, tật nguyền, không may mắn, khốn khổ, đau thương, nghèo nàn, đói rách, bị áp bức, bóc lột, bất công, gặp nhiều tai ương, mạt vận không thể nào diễn tả được.

Đó là những bước đầu, bước khởi điểm trong chương trình yêu thương mầu nhiệm của Thiên Chúa ban, mà con người đang đi để đến với một ''hạnh phúc chân thật vĩnh hằng'', ''hạnh phúc bất ngờ và không thể tưởng'' mà Thiên Chúa đã đặt ra sẵn sàng để chờ đón hết thảy chúng ta. Coi chừng, Chúa Kitô đã nói : ''Người giàu có lên thiên đàng khó hơn con lạc đà đi qua lỗ kim". Vậy thì sao ? Phước hoạ ở đâu ?

Thiên Chúa không ban cho cuộc sống trần gian nầy "hạnh phúc vĩnh cửu bất diệt", trái lại, Ngài còn đòi "Kẻ nào muốn theo Ta thì phải uống chén đắng với Ta (vác Thánh giá, chịu đau khổ)". Đời sống trần gian chỉ là nơi thử thách, hạnh phúc trần gian chỉ là tương đối tạm bợ, và cũng là cuộc thử tài đức độ và thử lòng yêu mến tha nhân để xứng đáng vượt đến một hạnh phúc vĩnh hằng mà loài người không thể nào biết trước hay tưởng tượng ra được như thế nào! Sự thử thách trần gian chỉ là bước khởi đầu để con người có xứng đáng bước vào hạnh phúc tuyệt vời vĩnh cửu hay không mà thôi.

Bị bệnh, cách thức chữa bệnh, sống nghèo đói, giúp người bớt nghèo đói, bị đau khổ, giúp người bớt đau khổ... tất cả đó chỉ là những thử thách của Thiên Chúa khi Ngài cho con người hoàn toàn tự do. Đó là tất cả những điều nằm trong chương trình mầu nhiệm tốt đẹp, vô cùng bất ngờ của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trí óc hạn hữu của tạo vật làm sao thấu triệt, làm sao hiểu được Thánh Ý của Tạo Hoá. Chính vì thế mà sau bao nhiêu trăm ngàn năm hay nhiều hơn nữa Thien Chúa đã dựng nên con người trên quả đất, Ngài mới nhập thế làm người để sống cuộc sống hèn hạ, chết cái chết đau thương tận cùng ; và liên tục ban mọi ơn phước, làm nhiều phép lạ không ngừng từ xưa đến nay để khuyến khích và nâng đỡ loài người yếu hèn trước mọi cám dổ của Satan mà sa đoạ.

Mọi Kitô-hữu trên khắp thế giới đều chỉ có một Đức Tin bền chặt từ Thiên Chúa và vào Thiên Chúa y hệt nhau suốt 2000 nay và còn kéo dài cho đến tận thế. Điều nầy chứng minh Thiên Chúa là Sự Thật, và Đức Tin vào Thiên Chúa là điều hạnh phúc vô biên thật. Có thể nói rằng ngay trên cõi đời nầy không có hạnh phúc nào, ví dụ như hạnh phúc trong tình yêu nam nữ, gia đình, sức khoẻ, trí tuệ, công danh, tiền tài... so sánh được với hạnh phúc có một Đức Tin nếu hiểu được giá trị hạnh phúc Đức Tin. Hiện tại đa số nhân loại đang chúi dầu trong bóng tối đam mê xác thịt tiền tài danh vọng, sát phạt nhau..., chưa vỡ lẽ được hạnh phúc Đức Tin nói trên.

Tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta đem chữ ''hạnh phúc trần gian'' để diễn tả ''hạnh phúc thiên đàng'', thì có thể nói là trần gian không có hạnh phúc bao giờ ; và nếu đem ''đau khổ trần gian'' so sánh với ''đau khổ hỏa ngục'' thì trần gian cũng chẵng có đau khổ gì cả! Mầu nhiệm Tình Yêu của Thiên Chúa là ở đó. Đúng thời kỳ thì chúng ta sẽ bất ngờ biết đến tất cả mầu nhiện yêu thương của Thiên Chúa vĩ đại dường bao.


VNN : Kính thưa Bác sĩ, nghiên cứu khoa học nhằm khám phá và xác định sự thật hiện có trong thiên nhiên, trong khi ý thức đạo đức hay tình yêu nhân loại - nhằm xác định một sự thật phải có trong thiên nhiên. Phải chăng hai lãnh vực nầy có mục đích khác nhau ? Và lãnh vực nào đã chiếm ưu thế trong quá trình nghiên cứu Y khoa để tìm phương thế trị bệnh ung thư cho hữu hiệu của Bác sĩ ? Khoa học không lương tâm chỉ là một sự lụn bại của tâm hồn (Science sans conscience n'est que ruine de l'âme) có đúng không trong thời đại văn minh tiến bộ hiện nay ?

Bs Nguyễn Thị Thanh : Thường thì khi có ''cầu'', người ta mới nghĩ đến ''cung''. Từ việc tha thiết cho việc cung đó mà con người say sưa và đam mê đi tìm một sự thật vốn sẳn có trong thiên nhiên để cung ứng cho cái cầu. Tuỳ theo mục đích khi đi tìm cái cung để có thể đặt việc nghiên cứu trong lãnh vực đi tìm sự thật cho sự thật, hay đi tìm một sự thật để phục vụ vì yêu thương. Thường thì hai lãnh vực nầy hiếm khi đi riêng rẽ. Việc nghiên cứu trị ung thư của tôi không nằm ngoài thường lệ đó, nghĩa là nghiên cứu để phục vụ phần nào con người đau khổ cùng lúc đi tìm hiểu sự thật. Tất nhiên, niềm vui và say sưa nghiên cứu sự thật giúp con người bất chấp mọi thiệt thòi. Và ý thức đạo đức và tình yêu nhân loại vẫn là cách thúc đẩy con người nghiên cứu say sưa. Vì vậy, hai lãnh vực nầy vốn rất hài hòa và bổ túc cho nhau để có yếu tố tiến tới thành công it nhiều.

Nếu người ta làm khoa học chỉ để phá hoại, trả thù, giết người, tranh dành quyền lực, tham lam lợi lộc cá nhân, thì nhân phẩm con người đâu còn gì. Hiện có những người ra sức chế tạo nguyên tử hạt nhân giết người hàng loạt hay những kẻ nghiên cứu thuốc phá thai giết hàng tỉ trẻ em trong bụng mẹ, việc nhỏ thì phải kể những kẻ ngồi nghiên cứu siêu vi phá máy điện tử, nghiên cứu ăn cắp tiền ngân hàng qua máy phát tiền, máy thâu tiền, nghiên cứu cờ bạc bịp để gian lận cờ bạc, tạo những phim dâm ô tự động để đẩy tuổi trẻ vào bùn nhơ, chế biến thuốc lắc ma tuý rẻ tiền gây nghiện mau chóng đầu độc tuổi trẻ, tạo chương trình dạy trẻ em học sex để dễ dàng lôi kéo chúng vào âm mưu ấu dâm v.v... chẳng những họ đã đạp đổ tâm hồn họ xuống vực thẳm, mà họ còn bôi nhọ trí tuệ thông minh nghiên cứu khoa học của loài người.


VNN : Hân hạnh đọc qua tiểu sử của Bác sĩ, chúng tôi được biết Bác sĩ đã bị nhà cầm quyền CSVN giam tù gần 3 năm từ 1980 đến 1983 vì chống tham nhũng. Xin Bác sĩ có thể cho biết rõ về sự kiện nầy như thế nào. Cho đến nay chế độ CSVN ngày một tham nhũng một cách táo tợn thêm hơn. Theo Bác sĩ nhận định, một chế độ tham nhũng như thế liệu có hy vọng chấp nhận sự hy sinh cộng tác chân tình của những nhà khoa học chân chính như Bác sĩ để đưa đất nước vươn lên không ?

Bs Nguyễn Thị Thanh: Sau 30/04/75 , tôi quyết định không đi đâu cả, dầu trước đó tôi đã học và làm bác sĩ tại Paris Phá p, và dạy Đại học tại Moncton , NB Canada . Vì tôi biết từ 1963, lý thuyết cộng sản sẽ chủ trì Việt Nam khi Dương Văn Minh giết ông Diệm. Nguyên từ đầu, cả tổ-dân-phố chúng tôi đều đi học câu nói "Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư" của ông Hồ, tôi cũng đọc sách giáo huấn đảng và nhân dân của ông cho từ công an, bộ độ, nhà báo, nông dân, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng.

Chính vì tin vào sự ''liêm chính'' của người CSVN, nên khi làm bác sĩ trong Khóm, trong Phường trong Hội Trí Thức Yêu Nước, trong các công trường, các vùng Kinh tế mới, tôi thấy thuốc men của nhân dân, của tập thể lao động công trường biến mất, tôi phải lên tiếng. Tôi là người đầu tiên báo cáo về những mất mát tiêu cực đó. Cũng vì tôi thẳng thắn quá nên bị họ bắt giam vào Chí Hòa. Nhưng tôi đã khiếu nại lên tận Trung Ương đảng suốt mấy năm trời ròng rã, và ông TBT Lê Duẩn đã cho điều tra, can thiệp thả tôi ra và bồi thường danh dự cho tôi.

Đúng, ngày nay, tham nhũng trở thành táo tợn ghê gớm, không phải vì đói nghèo mà do lòng tham bạc tỉ đô la vô đáy. Vụ PMU 18 và vụ tham ô khai thác dầu ở Biển Đông thật là những việc bán tổ quốc Việt Nam, ăn cướp của nhân dân một cách táo tợn để lấy bạc tỉ đô la của một số đảng viên lảnh đạo cao cấp từ nhiều năm nay, người bao che đều là đồng lõa. Họ đã đạp đổ tổ quốc, quyền sống của nhân dân mà chọn tham ô bạc tỉ đô la. Ôi chao! sao mà ác ôn quá vậy. Rõ ràng họ là những Việt gian bán nước rồi còn gì nữa! Tôi cảm thấy quá nhục nhã và đau đớn ê chề khi thấy cán bộ đảng viên cao cấp giữ chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Chống Tham nhũng lại tham ô hàng tỉ đô la trên tiền vay mượn để xây dựng tổ quốc! Tội của họ quá nặng, nặng hơn cả tội hãm hiếp giết người, cướp của hàng loạt, vì đây là tội họ đã phạm đối với tổ quốc Việt Nam và 85 triệu đồng bào. Họ giữ chức vụ càng cao thì tội càng nặng, pháp luật nhất định phải tịch thu toàn bộ tài sản để trả lại cho tổ quốc, cho nhân dân và lên án tử hình chứ không thể chỉ kiểm điểm.

Ai cũng biết tham nhũng tại Việt Nam lan tràn khắp nơi. Nhiều năm qua, báo chí đã lên tiếng rầm rộ về vụ thuốc ngoại lên giá một cách ồ ạt khủng khiếp từ 100 % đến 450 % hoặc hơn nữa. Các cô dược sĩ cho hay xem truyền hình về việc Quốc Hội chất vấn Bộ trưởng Y tế Trần Thị Trung Chiến trả lời những câu hỏi về y dược, bà Bộ trưởng đã đứng khóc. Họ lấy làm ngạc nhiên rằng tại sao bà ta không từ chức, trái lại, đến nay vẩn giữ chức Bộ trưởng Y tế.
Riêng tôi, năm 2002, được bằng Phát minh của Cơ quan Tài sản Trí tuệ Canada , tôi lên đường về nước. Tại Sài Gòn, tôi được hội kiến với một số bác sĩ, dược sĩ, khi nghe tôi trưng thư có hai viện bào chế Canada và Đức muốn mua Bằng phát minh mà tôi từ chối để đem về nước, họ khuyên tôi "nên bán đi, đem tiền về nước lót tay, lót đường rồi chị muốn làm gì cũng được". Sau đó, ngày 09/01/2003 bà Bộ trưởng Y tế mời tôi ra Hà Nội họp bàn với Bộ. Tôi muốn bà giúp tôi làm việc ở Sài Gòn, bà gián tiếp bỏ qua. Tại Sài Gòn, Bác sĩ Giám đốc Sở Y tế cho tôi hay là Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Giám đốc Viện Ung bứu TP, nói rằng "Chúng tôi chưa sẵn sàng có chỗ cho chị làm việc." Tôi thấy chướng ngại vật quá nhiều, nhưng không nản. Sau đó, tôi được Bác sĩ Trương Thìn, Viện Trưởng Viện Y Dược TP tổ chức cho tôi thuyết trình và ký hợp đồng làm thực nhiệm lâm sàng chữa bệnh nhân ung thư, cùng lúc Xí ngiệp Dược phẩm Trung ương 25 chấp nhận ký hợp đồng chế thuốc.


VNN : Chúng tôi được biết Bác sĩ đã bỏ ra một thời gian rất dài để nghiên cứu về bệnh ung thư. Xin Bác sĩ cho biết trong quá trình nghiên cứu đó, Bác sĩ đã gặp những thuận lợi cùng những trở ngại như thế nào ?

Bs Nguyễn Thị Thanh : Nguyên lúc làm việc tại các bệnh viện Paris và tại Phòng mạch tư 320 Phan Thanh Giản, Quận 10 Sài Gòn, tôi thấy có nhiều triệu chứng bệnh nấm và ung thư giống nhau. Một trường hợp ung thư thịt mông của một bà mẹ trẻ mà Bác sĩ Lý Hồng Chương cho làm sinh thiết (biopsie) rồi chạy xạ trị mãi mà bệnh cứ gia tăng. Khi bà ấy tìm đến, tôi trị thử, không ngờ bệnh lui dần và làm sẹo. Một cô gái 19 tuổi xinh đẹp con một nhà giàu, bị một ung thư lở ra trên mũi như miếng bã trầu. Bác sĩ Giáo sư Út trị mãi càng lở lói ra. Gia đình đem đến tôi trị. Thật là may mắn bất ngờ, lành ngoài ước mong của tôi. Từ đó, tôi âm thầm trị ung thư cho ai tìm đến tôi, vậy là về thực hành, tôi có một ít thành quả. Khi ra ngoại quốc, tôi nghiên cứu thêm lý thuyết mới, thấy hữu lý về phương diện lý thuyết. Tôi viết bài giải thích tường tận về "Nguồn gốc nấm của siêu vi và tế bào ung thư" và trao cho các đồng nghiệp để biết ý kiến. Tuyệt đại đa số đồng nghiệp đều tâm đắc.

Tôi tiếp tục trị cho ai tình nguyện và thành công ước độ 70, 80 % nhất là ung thư vú, ung thư phổi, thịt và máu. Với các kết quả lâm sàng đã có, tôi làm đơn xin bằng phát minh tại Hoa Kỳ và Canada . Mỹ kỳ thị giam tôi không phát bằng, họ đòi tôi qua Mỹ cho họ phỏng vấn, tôi không đủ phương tiện. Tháng 09/2002, Canada trao cho tôi Bằng Phát Minh Trị Tận Gốc Ung Thư sau 4 năm khảo sát.

Tôi lên đường về Việt Nam, và sau nhiều vất vả, Viện Y Dược học tại 273 Nguyễn Văn Trổi, Quận Phú Nhuận, tổ chức cho tôi thuyết trình về Nguồn gốc ung thư và sửa soạn lo trị liệu ung thư miễn mọi phí tổn kể cả thuốc trong 6 tháng cho 100 đồng bào nghèo bệnh nhân. Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương Quốc tế 25 tại 120 Hai Bà Trưng, lo chế thuốc tài trợ cho bệnh nhân như tôi đã sơ lược trên.

Chính vì vấn đề tiêu cực như trên đã nói trong ngành Y dược mà công trình vất vã của 4 thành phần chúng tôi : 100 đồng bào bệnh nhân ung thư được nhận trị liệu miễn phí - Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 có chứng nhận cấp quốc tế - Viện Y Dược Học Sài Gòn - và tôi, khổ công sửa soạn suốt gần 2 năm. Vừa bắt tay trị liệu thì từ trong bóng tối vùng lên một âm mưu tiêu cực phá hoại vô cùng tinh vi và hùng mạnh :

Một nữ phóng viên báo Tuổi Trẻ dùng 2 tên khác nhau, NG.Quang và Lê Thanh Hà, lợi dụng tờ báo uy tín và đông độc giả nhất nước, viết 3 bài báo láo lếu, tung tin thất thiệt phá hoại ngay cả 2 cơ sở lớn của nhà nước là Xí nghiệp Dược phẩm 25, và Viện Y Dược TP làm họ tức uất lên, lại còn sinh mâu thuẫn mất đoàn kết giữa 2 cơ quan nầy. Cuối cùng, một bài báo dài thứ 3 mạ lỵ cá nhân tôi và Bằng Phát minh Canada trị ung thư của tôi, cố tình bóp chết cho kỳ được chương trình trị bịnh ung thư miễn phí cho 100 đồng bào bệnh nhân. Tôi đã viết bài tố cáo khắp nơi nhưng không được trả lời.

Giới bác sĩ, dược sĩ và dư luận cho tôi hay rằng "Hiện rất nhiều tay tài phiệt việt kiều xin độc quyền thuốc men ngoại nhập về Việt Nam, tự do làm giá, đem đô la mua chuộc giới Y tế và bác sĩ trong nước bán thuốc móc ruột, thắt họng nhân dân, báo chí trong nước kêu la như sấm ầm ầm bao nhiêu năm rồi nhưng đâu cũng hoàn đấy" ... "Nếu thuốc trị ung thư của chị ra đời thì còn ai bỏ hàng tỉ đôla ra mua thuốc hoá học tri liệu nhập cảng của họ nữa ; nên buộc họ phải hối lộ phóng viên và báo chí và ai nữa quật chết chị và những ai cộng tác với chị." Dân chúng nói rằng ngày nay không còn "nhà thương" nữa chỉ còn "nhà ghét".

Tất nhiên, cũng có những Việt kiều vì yêu thương đồng bào đem tài sức về giúp dân, nhưng không thiếu người về hại nước bằng mọi thủ đoạn từ tình yêu đến tiền tài. Nhưng tôi phải khiếp đảm khi hay tài phiệt việt kiều hải ngoại trở về nước làm giàu, dùng bạc triệu đôla mua chuộc ngành Y dược hại nước hại dân !!! Tham ô trong nước đã táo tợn như anh nói rồi, tài phiệt Việt kiều còn về cấu kết với tham quan để giết dân thêm. Trời ơi trời hởi! Chỉ vì đồng đôla mà tài phiệt Việt kiều nở ra tay dày xéo đất nước, móc ruột gan bệnh nhân ung thư đau khổ, hút máu đồng bào bệnh nhân ung thư đói rách và gia đình họ một cách tán tận lương tâm, giết hại mầm móng phát triển đất nước như vậy ư !!!

Tôi kính thưa quý vị, trước là VNN, sau là toàn thể các Cộng đồng Người Việt hải ngoại, quý vị nghĩ sao về vụ tài phiệt việt kiều ? Đây có phải là Việt gian phản bội dân tộc không ? Quý vị có suy nghĩ nào, phán đoán nào, đường lối nào, hành động nào ngăn chặn được tệ nạn xã hội về sức khoẻ của toàn dân Việt trong nước hiện tại không ? Tôi tha thiết kêu đến quý vị SOS!!! Đây là một việc làm cứu dân cứu nước cấp bách mà chỉ có các cơ quan truyền thông và CĐNGHN có đủ tư cách, thẩm quyền hành động hiệu quả. Trong rất nhiều năm, báo chí trong nước đã la lối ầm ỷ, Quốc Hội đã họp đi họp lại, bàn tán sôi nổi nhiều lần, giới dược sĩ nắm vững vấn đề, thì không còn đòi hỏi bằng chứng nào nữa.

Riêng cá nhân nhỏ mọn tôi, quý vị thử nghĩ, nếu không do hối lộ để phái hoại, tại sao một phóng viên báo Tuổi Trẻ mà tôi chưa từng biết mặt phải bỏ công sức theo dõi và phá hoại chẵng những riêng tôi, mà quan trọng là 2 cơ sở lớn của nhà nước và đặc biệt là 100 bệnh nhân ung thư khốn khổ ? Cũng như những bao che khác, hiện phóng viên NG. Quang tức Lê Thanh Hà của báo Tuổi Trẻ được bao che kỹ, tại sao vậy ? Vấn đề tiêu cực ở đây sâu rộng lắm! Tuy nhiên, vì lương tâm và Đức Tin, tôi nhất quyết sẽ lo việc chế thuốc trị ung thư cho đồng bào bệnh nhân khốn khổ, dầu tài phiệt Việt kiều có giết, tôi cũng đành.
Last edited by phu_de on Wed Nov 08, 2006 7:50 am, edited 1 time in total.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

VNN : Xin Bác sĩ có thể cho biết trong quá trình khảo sát để cấp Bằng Phát Minh của Hoa Kỳ và Gia Nã Đại đối với công trình nghiên cứu bệnh ung thư của Bác sĩ, đã có những thuận lợi cùng những trở ngại như thế nào ? Những điểm nào mà họ chú trọng khảo sát nhất ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh Năm 1994, tôi nghiên cứu tài liệu y khoa để viết rồi trao bài ''Phát minh nguồn gốc nấm của siêu vi và tế bào ung thư'' cho vài người bạn khoa học. Họ rất đồng ý với các suy luận chứng minh của tôi và khuyến khích tôi xin Bằng Phát Minh (BPM). Khi tôi đem tài liệu đến một Hãng lớn chuyên làm bằng phát minh, họ đòi 20.000$, nhưng họ bằng lòng bớt cho tôi 50 %. Họ bảo cần tìm người có khả năng đặc biệt mới viết BPM được. Tôi xin cộng tác, họ từ chối. Cuối cùng, luật sư bác sĩ nhận công tác viết bài. Sau khi đọc hết tài liệu, ông bảo tôi : "Với công trình nầy bà phải có giải Nobel." Ông ấy rất thích thú làm việc cho tôi và nhờ tôi cho ý kiến cộng tác.

Thư qua thư lại với Washington DC suốt 5 năm, cứ mỗi cái thư tôi phải trả 500$ đến độ tôi bô xu. Trước hết, Washington DC tìm kiếm xem trong tài liệu sách báo thế giới từ xưa đến nay có ai đã có ý kiến hay nói câu gì giống ý tưởng của tôi, tức là đi trước tôi không ? Sau khi không thấy, họ mới đi vào vấn đề bắt bẻ, hạch sách tôi cùng cực. Tôi phải lý luận trả lời cụ thể, mỗi lần họ bắt bẻ bằng thư là phải trả tiền. Sau khi hết bắt bẻ bằng thư, họ xoay qua bắt bẻ bằng điện thoại vì Anh ngữ của tôi rất xoàng (lời nói không bằng chứng để ức hiếp tôi). Mỹ nói ẩu lên rằng thuốc tôi trị ung thư đã có người đưa ra trị trước, tôi xin họ viết bằng thư, họ không viết. Tôi chứng minh là không có ai đi trước tôi cả, tôi là người sáng tạo đầu tiên, họ chịu. Tôi buồn vì thấy họ cố kiếm chuyện làm khó dễ. Cuối cùng, họ mời tôi qua Mỹ để làm Interview, vì thiếu tài chánh tôi không đi, đành ngưng lại. Hiện tại muốn tiếp tục bên Mỹ phải có nhiều tiền.

Trong thời gian đó tôi cũng xin Canada với tiếng Pháp, tôi tự làm lấy, nhờ cũng có chút ít kinh nghiệm. Cơ quan Tài sản Trí tuệ Canada ở Ottawa tỏ ra quý tôi. Tôi cũng bị nhiều sách hạch như đối với Hoa Kỳ, nhưng chính phủ Canada tỏ ra quý phát minh của tôi. Nhiều người Việt Nam vô danh điện thoại đến mạ lỵ tôi là làm phát minh láo, điên, bịp ... Nhiều lần tôi chán nản quá đã muốn bỏ cuộc cho xong. Chính phủ Canada lại viết thư khuyến khích tôi tiếp tục, họ bảo tôi chỉ cần đóng một số tiền phạt để tiếp tục. Tôi tiếp tục. Vài người bạn lại chế diễu tôi, tỏ vẻ không tin tôi có thể xin được BPM trị ung thư tuyệt căn tận gốc. Họ bảo cả thế giới tiêu pha hằng trăm tỉ đôla trong nửa thế kỷ mà đành bó tay, chị làm gì được, nếu trị ai lành thì đó chẳng qua là tâm lý, dầu có thử nghiệm của binh viện Hoa Kỳ.

Những bằng chứng cụ thể thiết thực trước mắt tôi là ung thư tóp lại, biến mất, nhiều lúc tôi mừng đến sửng sốt, ví dụ : người gần chết sau 6 tháng tôi chữa trị trổi dậy đi làm, làm cho tôi như mơ như tỉnh, tin tin ngờ ngờ, rồi lại tin tưởng mạnh. Tôi vững tin như giải đáp một bài toán, không thể sai đâu được. Tôi cương quyết tiến đến cùng. Ban Giám khảo Canada xét bằng tiếp tục đòi hỏi tôi cung cấp thêm mãi những tài liệu cụ thể, tôi cố làm hết sức mình theo ý họ đòi, trả lời mọi yêu sách của họ bằng tiếng Pháp đến tận kỳ cùng. Họ họp mãi. Ban Giám khảo dựa trên bệnh nhân ung thư đã được tôi trị lành cụ thể và cũng dựa trên bài viết về "Phát minh nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư" để nghiên cứu và khảo sát. Mấy lần ông Chánh chủ khảo báo tin cho tôi biết là xong rồi, nhưng sau khi họp để tra xét, lại không được. Cứ thế kéo dài ngày tháng. Ông Chủ tịch Ban giám khảo về Y khoa và Khoa học tỏ ra ủng hộ phát minh của tôi. Vậy là từ khi nạp đơn xin bằng năm 1998 bên Hoa Kỳ và Canada, mãi cho đến 15/09/2002, Canada mới chính thức phát BPM cho tôi. Vì BPM gồm 12 trang giấy bằng tiếng Pháp (tôi dịch ra tiếng Việt) nên không tiện đưa ra đây. Nhưng nếu quý vị nào cần để muốn nghiên cứu tôi sẽ gửi riêng cho quý vị qua Email cả BPM và bài "Phát minh nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư". Tất cả sẽ được xuất bản bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp, Anh. Năm 2005, tôi đã xin BPM ở Việt Nam và Âu Châu.


VNN : Kính thưa Bác sĩ, những khám phá mới của Bác sĩ về bệnh ung thư như thế có thể được xem như đã tìm ra nguồn gốc hay trạng thái thiên nhiên của bệnh ung thư không ? Và như vậy phải tri liệu như thế nào ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Đúng như thế. Như trên đã nói, tôi đã chứng minh trị liệu thử, sau đó bằng lý luận qui nạp để đưa ra một lý thuyết vững chãi và rõ ràng về nguồn gốc tế bào ung thư (xin đọc tiếp bài nói về ''Nguồn gốc nấm của ung thư'', chúng tôi xin được hân hạnh phổ biến sau). Khi đã biết rõ nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư thì chúng tôi chỉ cần dùng thuốc-chống-nấm-chống-ung-thư để tận diệt các tế bào ung thư tan biến luôn. Chúng tôi đã dùng một hổn hợp thuốc sinh học không độc để có một sức mạnh tối đa tiêu diệt tế bào ung thư.

Ví dụ với ung thư vú, vào thời gian đầu còn là bứu hiền nghĩa là mới xuất hiện chưa có di căn rõ rệt, rất dễ trị, chúng tôi chỉ cần chích thuốc vào cục bứu, nó sẽ teo tóp dần và biến mất, khỏi lắt vú như trước nữa. Ngoài ra, phải uống thêm thuốc trong một thời gian khá dài để trừ hậu hoạn.

VNN : Xin Bác sĩ giải thích cho biết rõ thêm về những khác biệt căn bản giữa phương pháp trị ung thư bằng hỗn hợp thuốc sinh học (Biologique) do Bác sĩ phát minh với các phương pháp trị ung thư hiện nay như hoá trị, xạ trị hoặc cắt bỏ v.v.. ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Xin nói rõ thêm về việc trị ung thư trên căn bản trị tận gốc : Rất đơn giản, khi đã chứng minh nguồn gốc nấm của ung thư, thì chỉ cần dùng thuốc trị-nấm-diệt-ung-thư. Chúng tôi đã thành công trong việc làm thử nghiệm lâm sàng. Chúng tôi rất mừng mà thấy rằng thuốc chống nấm sinh học không phá hoại tế bào cơ thế như xạ trị và nhất là hoá trị. Như với ung thư vú nói trên, chích thuốc vào là ung thư tan dần ngay, nhưng phải uống thêm thuốc để ngăn ngừa di căn về sau.

Thuốc sinh học tức là thuốc có nguồn gốc động vật và thực vật, tuyệt đối không dùng đến chất độc hoá học. Các chất sinh học thiên nhiên đối với tế bào cơ thể cùng chung thể chất, cùng dòng giống sinh vật thiên nhiên (partenaire normal) nên gọi là thuốc sinh học (médicament biologique). Chất sinh học hiền, không tiêu diệt tế bào cơ thể, và cũng chẵng làm phiền luỵ chúng. Tuy nhiên, khi bệnh nặng uống liều cao, thần kinh bị kích thích thì co thể sinh khó chịu, phải có thuốc giải.

Vấn đề cắt bỏ ung thư chỉ có hiệu quả khi ung thư còn là bứu hiền nhỏ, chứ khi đã sinh di căn thì chỉ có giá trị kéo dài sự sống. Đó là chưa nói đến nhiều trường hợp không thể giải phẩu được. Riêng về xạ trị và hoá trị, vì không có cách nào hơn, cho đến nay Y khoa bất đắc dĩ phải dùng chúng thôi. Tôi buồn mà nói lên sự thật là những tia xạ trị và đặc biệt là chất hoá học trị liệu kịch độc vô cùng, luôn luôn tiêu diệt tế bào cơ thể mau chóng và hiệu quả hơn là giết tế bào ung thư. Hoá trị lại mau lờn thuốc và đắt tiền một cách rất dễ sợ, muốn trị là phải bán nhà, bán đất, đi vay mượn (rồi vẫn tử vong!). Dân Việt ta và dân các nước đang phát triển đâu được bảo hiểm y tế như các nước văn minh. Lại dầu có tiền dể dùng hoá trị, khi ngưng thuốc ung thư lại phát triển mạnh hơn. Tuyệt đối hoá trị rất đắt tiền kinh khiếp, không thể nào phù hợp với túi tiền của người dân Việt ta và dân các nước đang phát triển, thường họ bị tan gia bại sản và bệnh nhân thì tử vong.


VNN : Như vậy, theo nhận định của Bác sĩ, làm cách nào để việc điều chế thuốc hỗn hợp sinh học nầy được dễ dàng và cung ứng đầy đủ cho nhu cầu chữa trị ung thư, nhất là cho những bệnh nhân nghèo ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Thật ra việc nầy rất đơn giản, thứ nhất, cần nhất đừng có bàn tay của một số tài phiệt Việt kiều hải ngoại và báo chí nhà nước nhúng vào phá hoại, thứ hai, cần sự cho phép chế thuốc của bộ Y tế CSVN. Và muốn mau chóng thì cần quảng cáo trên báo chí.
Thật ra, các Xí nghiệp Dược phẩm xin phép chế thuốc rất dễ dàng.

Riêng với thuốc trị ung thư, vì tầm quan trọng của nó nên mới bị tài phiệt phá hoại. Hiện tại, cần theo đúng thủ tục của từng quốc gia : quốc gia nào đòi hỏi thử nghiệm lâm sàng ngay trong quốc gia đó. Theo chúng tôi thì cần thử nghiệm trong thời gian ngắn cho một số bệnh nhân để chứng minh hiệu quả trị liệu. Nếu thành công, xin phép Bộ Y tế chế thuốc đại trà, đại qui mô cùng hướng dẫn các bác sĩ trị liệu là xong. Nhưng khốn nỗi, riêng tại Việt Nam, mọi việc của tôi dầu được ủng hộ cũng vẩn chậm hơn rùa nữa, chứ nếu tài phiệt Việt kiều dùng đôla tham ô phá hoại thì ''ô hô ai tai!!''. Nhưng dầu bị tai ương tứ bề, tôi cương quyết vẩn trông cậy, và nhất định tiến hành đến chết tôi cũng không nản chí. Hiện tại, bất đắc dĩ tôi đang làm một việc rất khó khăn là trị ung thư cho đồng bào từ xa với thuốc tạm mượn tạm chế, thật là vất vã khổ sở, nhưng biết làm sao khi thấy bệnh nhân ung thư và gia đình đang quằn quại trong đau thương, khốn khổ.

VNN : Trong cuộc phỏng vấn mới đây của Báo Ngày Mới Paris, Bác sĩ có nói rằng bệnh ung thư ngày nay lan tràn hơn xưa. Xin Bác sĩ cho biết căn cứ vào những yếu tố nào để xác định như thế trong khi y khoa thế giới đã có những tiến bộ rất xa so với trước ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Đây là một sự kiện rất thực tế. Có 4 lý do : Trước đây, vì thiếu phương tiện chẩn đoán, người ta cứ cho là chết vì bệnh già. Lý do thứ 2 : Khắp nơi trong không khí và trong cơ thể mọi sinh vật đều có vi trùng (microbe) gốc động vật và siêu vi (virus) siêu nấm, nấm người ta cũng gọi là vi khuẩn gốc thực vật. Đây là hai loại sinh vật độc bào khác nguồn gốc, chúng diệt nhau. Thường vi trùng diệt siêu vi và vi khuấn. Nên khi vi trùng bị tiêu diệt do thuốc trụ sinh thì siêu vi vùng lên gây ung thư. Lý do thứ 3 là môi trường sinh sống và thức ăn uống ngày càng đầu độc con người sinh bệnh ưng thư. Lý do thứ 4 là đời sống gia đình xã hội văn minh thay đổi về mọi mặt, từ tình yêu hôn nhân, công ăn việc làm, tiền tài, quyền lợi danh vọng... sinh ra nhiều ưu tư phiền muộn, đau khổ mãn tính, mà người Mỹ mới gọi là tress sau nầy (tress chỉ có tính cách cấp tính), khiến sức đề kháng của cơ thể bị sút giảm mà sinh ung thư.

Gần 100 năm qua, toàn thế giới dùng trụ sinh, mọi loại chất độc diệt gần hết mọi vi trùng của các chứng bệnh cho người, súc vật và rau rang, cây cỏ và vi trùng trong đất đai, nhưng hiếm khi diệt được siêu vi. Khi vi trùng chết hết thì siêu vi trổi dậy. Vả lại, thuốc trụ sinh và các chất độc hoá học làm cơ thể mọi sinh vật trên trái đất mất sức đề kháng tự động. Đó là hai trong những lý do mà ngày nay bệnh ung thư và bệnh siêu vi, kể cả HIV, làn tràn khắp thế giới mà nhất là cho người Việt trong và ngoài nước. Đây là cơ hội tốt cho siêu vi, siêu nấm phát triển mạnh mẽ để đột biến một tế bào cơ thể nào đó, bệnh hoạn, thương tật, hấp hối hay vừa chết thành tế bào ung thư. Các bệnh siêu vi thú vật như bò điên, lở mồm, lở móng, cúm gà v.v... lây lan từ súc vật qua người cũng ầm ầm mọc lên khắp thế giới cũng vì chung lý do trên.


VNN : Cũng trong cuộc phỏng vấn với Ngày Mới Paris, Bác sĩ đã cho biết : ung thư được hình thành dưới một hình thức gọi là ''Sự đột biến của siêu vi''. Xin Bác sĩ có thể giải thích rõ thêm về sự đột biến nầy

Image

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sự đột biến (mutation) tức là biến đổi đột xuất, nghe qua có vẻ phức tạp nhưng rất đơn giản : siêu vi là sinh vật rất nhỏ chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi điện tử. Nó chỉ gồm có nhân mà thôi, và dứt khoát nó chỉ có thể sống ký sinh trong tế bào thực vật hay động vật.
Trong đời sống ký sinh trong tế bào cơ thể, chúng sinh sản mau lẹ, và cũng bị tiêu diệt mau lẹ nên chúng không sinh bệnh được (xem hình 1). Nhưng gặp lúc tế bào cơ thể bị đầu độc, bị thương tật, bị bệnh hoạn, hấp hối, hay vừa mới chết, tế bào bị mất mọi sức đề kháng (xem hình 2) thì lập tức siêu vi đang ký sinh trong tế bào liền nhập chung vào nhân tế bào cơ thể, vì nhân tế bào và siêu vi cùng một thể loại như dầu với dầu nên sự sát nhập làm một với nhau (intégration) dễ dàng (xem hinh 3) để làm thành một nhân "gene" sống động mới hoàn toàn (xem hình 4).
Nhân mới đó chiếm luôn phần nguyên sinh (cytoplasme) của tế bào mà tạo nên tế bào mới, đó là tế bào ung thư đầu tiên, nó là một sinh vật độc bào, sống độc lập, tự do sinh sản, phát triển nhanh chóng (xem hình 3) : Đó là hiện tượng đột biến tế bào ung thư do siêu vi phát động.

VNN : Bác sĩ đã tìm thấy rằng tế bào ung thư từ tế bào cơ thể sinh ra nhưng nó không còn là tế bào cơ thể nữa. Đây là một điều hoàn toàn mới, xin Bác sĩ giải thích rõ thêm về vấn đề nầy.

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sau khi có hiện tương đột biến như nói trên, tế bào mới sinh ra có ''gene'' riêng biệt mới hoàn toàn của nó. Vì sao vậy ? Tế bào ung thư mới có số nhiễm sắc thể (chromosomes hay ADN) mới khác với tế bào cơ thể là 46. Vì nhiễm sắc thể (NST) tế bào ung thư là tổng hợp của NST tế bào cơ thể cộng với NST siêu vi ; tất nhiên nó phải lớn hơn số NST tế bào cơ thể là 46. Khoa học đã chứng minh số NST hay ADN của mỗi sinh vật, động hay thực vật đều khác nhau. Số NST nầy là căn bản mà người ta gọi là ''gene'' di truyền của mỗi một sinh vật trong đó có siêu vi và cực siêu vi. Vậy NST của tế bào ung thư = 46 (số NST của người) + X (NST của siêu vi) > 46 (dấu > là dấu hiệu chỉ lớn hơn).

Vậy, tế bào ung thư không còn là tế bào cơ thể, nó trở thành một giống sinh vật mới, sống đời sống hoàn toàn độc bào, tự do sinh sản, tự do đóng cục lại thành bứu, hay rơi rụng ra bị cuốn theo dòng máu và bạch huyết đi khắp cơ thể, đến bất cứ đâu bị giữ lại thì sinh sản tiếp, đóng cục tiếp thành di căn ; chứ không như tế bào cơ thể có đời sống đa bào (trừ hồng huyết và bạch huyết cầu) sinh sản có hạn định theo mệnh lệnh trung ương thần kinh.
Tế bào ung thư đột biến sinh sản ra những sinh vật độc bào ký sinh trong cơ thể không gây nên triệu chứng sưng đỏ hay đau nhức gì cả. Nhưng cơ thể biết chúng là những sinh vật độc bào không còn thuộc về cơ thể, nên cơ thể huy động các mô đến bao vây để tiêu diệt tế bào ung thư (xem hình 5). Nếu sức đề kháng của cơ thể mạnh, tế bào ung thư bị bao vây và bị tiêu diệt ngay. Hiện tượng nầy xẩy ra trong con người chúng ta liên tục, luôn luôn hằng ngày không trừ ai. Nếu cơ thể không tiêu diệt tế bào ung thư được, nó lớn mạnh lên, vòng vây cũng lớn lên, Y khoa chính thống thế giới hiện nay gọi đó là bứu hiền (xem hình 6), nhưng chúng tôi cho đó là ung thư giai đoạn 1. Khi cơ thể không tiêu diệt được nó, thì nó lại phá vòng vây, đóng thành bứu (xem các hình 6 và 7), và bung ra theo dòng máu và bạch huyết lan khắp cơ thể rất nhanh để sinh di căn gần (xem hình 8 ) và những di căn xa (xem hình 9). Vì vậy, nếu chậm một tíc tắc, thì dầu có cắt bỏ vẫn có di căn. Bệnh ung thư chính thực là bệnh tổng quát chứ không phải bệnh cục bộ, vì thế giải phẫu xạ trị chỉ có tính cách tạm thời.

Hình 5
Image

Hình 6
Image

Hình 7
Image

Hình 8
Image

Hình 9
Image

VNN : Kính thưa Bác sĩ, nhà cầm quyền CSVN không thể chối bỏ được trách nhiệm chủ yếu đã gây nên tình trạng nghèo khổ và tụt hậu nghiêm trọng hiện nay của đất nước Việt Nam, tham nhũng lan tràn, môi trường sinh thái bị hủy hoại trầm trọng gây ra đủ thứ tật bệnh hiểm nghèo cho người dân Việt Nam... Trong bối cảnh tệ hại như vậy, ước nguyện chữa bệnh ung thư cho đồng bào ruột thịt nghèo khổ nầy của Bác sĩ liệu có thể thành tựu được không ?

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Ở đây, tôi xin không nói về chính trị. Nhưng vấn đề tham nhũng trong nước, chẳng hạn vụ dầu khí ngoài Biển Đông, và vụ PMU 18 mới đây, không người Việt nào, quốc nội cũng như hải ngoại mà không đau đớn đến tận xương tuỷ và cảm thấy quá sức nhục nhã trước thế giới. Môi trường sinh thái nước ta cũng chưa được luật pháp điều chỉnh nên các hãng xưởng thiếu tôn trọng nghiêm túc, khiến sức khoẻ nhân dân bị suy sụp, và nông, hải sản bị hư hại nặng nề, và bệnh ung thư cũng do đó mà lan tràn và trở thành khó trị vô cùng.

Thêm nữa, thời gian trị ung thư tức là diệt tận gốc tế bào ung thư cần phải cấp bách, và phải kéo dài từ 12 đến 18 tháng như trị ho lao trước đây, vì cũng phải dài gần như thời gian mà ung thư đã được sinh ra. Và phải trị liệu thật liên tục và nghiêm túc ; chứ không phải chỉ uống thuốc trong 10 ngày, nửa tháng như trị viêm vi trùng. Vì thế, nên thuốc tuy không độc và rẻ thật, nhưng việc trị liệu lâu dài và nghiêm túc đòi hỏi nhiều công phu, khó khăn, tốn kém nhất là cho người nghèo và người đơn cô.
Hiện nay, người Việt quốc nội hay hải ngoại cũng điều mắc phải bệnh ung thư rất nhiều do hậu quả đã sống trong môi trường chiến tranh lâu năm so với các dân tộc khác. Tôi vô cùng nóng lòng từ mấy năm nay, và cũng rất đau khổ là chưa thể cung cấp thuốc điều chế qui mô rẻ tiền cho đồng bào bệnh nhân ung thư nhất là đồng bào nghèo. Trong khi chờ đợi, tôi chỉ có thể trị miễn phí và cung cấp thuốc ''tạm mượn tạm chế''.

VNN : Xin Bác sĩ một câu hỏi cuối : Là một nhà khoa học lại là một người có Đức Tin Công giáo sâu đậm, Bác sĩ có gì muốn chia sẻ thêm với Giới Trẻ Việt Nam hôm nay ?

BS Nguyễn sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sống và làm việc với và trong tinh thần Kitô hữu, giữa tình hình thế giới và đất nước hiện tại, tôi có một ước nguyện đối Giới Trẻ Việt Nam chẳng những hải ngoại mà ngay cả trong nước : Nước Việt vốn thật đã có trên 4 000 năm văn hiến với đạo đức siêu việt, có thuần phong mỹ tục, lấy ôn nhu, vị tha làm mẫu mực cho đời sống do tổ tiên Bách Việt ngàn xưa để lại. Đó là nền văn hoá tinh thần cao quý nhất của Tộc Việt, đó cũng là những đức tính căn bản, cần thiết nhất để kiến tạo một thế giới an hòa, no ấm cho nhân loại. Chính Đức Khổng Tử đã sao chép lại những đức tính cao đẹp của nền văn hiến này trong nhân dân nam man khi Tàu Mông Cổ xâm chiếm nước Xích Thần của Đế Lai và nước Xích Quỷ của Ấu Cơ và con cháu bà là các vua Hùng, để làm nền tảng phát triển cho một nền văn hoá lớn lao của Trung Hoa sau nầy. Vì Hán Tàu nguyên có nguồn gốc Mông Cổ, lấy sức mạnh xâm lăng làm cứu cánh cuộc sống.

Những di sản tinh thần đạo đức bất diệt của tổ tiên Bách Việt nông nghiệp chúng ta, của loài người lành mạnh để lại không bao giờ có thể trở nên ''hết thời'' hay trở thành ''hủ lậu''. Vì thế, tôi ước mong Tuổi Trẻ Việt Nam ngoài cũng như trong nước biết giữ lấy văn hoá tinh thần Việt Tộc, đừng bắt chước người, bỏ đi văn hoá dân tộc mà lăn xả vào chủ nghĩa hiện thân với cuộc sống sa đọa, trác táng, coi thường luân thường, trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Tổ tiên Bách Việt truyền lại. Tuổi trẻ cần sống với tinh thần dân tộc trong sáng đó. Có như vậy, Tuổi Trẻ Việt Nam mới mong góp phần tích cực và hữu hiệu cho một Việt Nam lành mạnh, no ấm, thực sự dân chủ và phú cường trong tương lai.

Võ Triều Sơn : Đại diện cho thông tấn VNN, tôi xin cảm ơn Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh đã dành nhiều suy nghĩ và thì giờ quý báu để chia sẻ chân thành nhiều vấn đề cùng quý độc giả của VNN trong bài phỏng vấn rất hữu ích nầy. Xin kính chúc Bác sĩ cùng quý quyến luôn được nhiều sức khoẻ và sớm thành công như ước nguyện.
Nhân đây, VNN chúng tôi rất hân hạnh giới thiệu đến quý độc giả địa chỉ liên lạc với Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh và Trung Tâm Quốc Tế Chữa trị Ung thư của Bác sĩ :

TRUNG TÂM QUỐC TẾ TRỊ TẬN GỐC UNG THƯ & BỆNH SIÊU VI
Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh MD. PhD.

3435 Place Borduas, Brossard QC J4Z-3E9
Canada ĐT : 450-445-0800, ĐTDĐ VN : 091-934-8046
Email : docteurthanh@sympatico.ca, docteurthanh@hotmail.com

Chữa xa bất đắc qua Internet, gởi hồ sơ bệnh, theo dõi bằng Email Đ/T.
(Mọi tài liệu khoa học sẽ được gởi biếu bằng Email)

CHỮA TRỊ MIỄN PHÍ CHO ĐỒNG BÀO
Last edited by phu_de on Wed Nov 08, 2006 8:04 am, edited 2 times in total.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Bằng Phát Minh
CA 02275732 2002-05-14
của Bác Sĩ Nguyễn Thị Thanh



Image

CA 02275732 2002-05-14
Nom de l’inventeur : Nguyên, Thi Thanh
3435 Place Borduas, Brossard
Québec J4Z-2E9 Canada


DEMANDE DE BREVET D’INVENTION
I - TITRE DE L’INVENTION :

MÉTHODE DE TRAITEMENT ÉTIOLOGIQUE DES CANCER ET VIROSES PAR LES FONGICIDES.


II - INTRODUCTION :

Depuis longtemps on a cherché à traiter le cancer par des produits chimiques, des interventions chirurgicales et par les rayons radioactifs ainsi que par une détection précoce et une prévention adéquate. Cependant la cause exacte du cancer reste inconnue.

Identifier exactement l’origine ou la nature du cancer est sans doute un geste primordial, bien nécessaire et le plus utile pour la thérapeutique étiologique appropriée.

Le concept de mon invention est basé sur l’identification du cancer et du virus (dans les maladies virales), c’est à dire leur nature ou leur origine. Car une fois la nature ou l’origine du virus et du cancer est connue, le traitement du cancer et des maladies virales ne sera qu’une routine.


III- PRÉCIS DE L’INVENTION :

1 - Initialement il y a mutation virale oncogénique de nature fongique intracellulaire entraînant la transformation pathologique de l’ADN cellulaire humain en ADN cellulaire fongique étranger : C’est la cause essentielle de la prolifération dite «anarchique» des cellules tumorales malignes (cellules fongiques indépendantes).

2 - Cette présente invention consiste à démontrer que le virus et les cellules cancéreuses ont une origine et/ou une nature fongique(s) et ils sont conséquemment détruits radicalement par les fongicides.

3 - Cette méthode de thérapeutique antifongique spécifique et étiologique a pour but de détruire d’une façon totale, rationnelle et radicale toutes les cellules néoplasmiques accumulées dans les cancers, métastases et disséminées partout dans le corps humain, et tous les virus non-oncogènes mais paralysants et/ou lytiques dans les infections virales (y compris le virus HIV/SIDA).

4 - Cette invention est basée initialement sur un concept totalement original de nature fongique du virus et du cancer, et elle réalise une nouvelle méthode de traitement actif, spécifique, rationnel, radical, étiologique et efficace contre les cancer et infections virales.

5 - L’avantage de cette méthode de thérapeutique antifongique est que les produits antifongiques ne sont pas toxiques, leur prix ne sont pas chers et le traitement est facile à réaliser. Pourtant les fongicides pourront donner quelques fois de légers petits effets secondaires sympathicomimétiques (effets énervants). Dans le cas de besoin il suffit d’administrer une petite dose de calmant pour neutraliser ces petits effets.


IV - MÉMOIRE DESCRIPTIVE DE L‘INVENTION :

A - Une thérapeutique spécifique, étiologique et rationnelle contre le cancer et les viroses :

1 - Depuis plus de 20 ans, l’observation clinique de la similitude des stigmates généraux pathologiques des infections fongiques, des cancers et des infections virales m’avaient suggérée l’idée de donner des médicaments antifongiques aux cancéreux qui étaient souvent aux stades bien avancés. Des succès spectaculaires m’avaient encouragée de continuer cette thérapeutique antifongique «antivirale-anticancéreuse» sur un grand nombre de patients. Des résultats obtenus m’ont fait concevoir que le virus et les cellules cancéreuses doivent avoir une nature fongique.

2 - Des guérisons d’un nombre considérable de cancers (cancer des poumons, cancer du sein, cancer du nez, lymphome Hodgkinien et lymphome non Hodgkinien etc.) et infections virales (hépatites virales B et C) m’ont suggérée l’idée d’écrire la petite brochure ci-jointe.


B - Principe de la méthode de traitement antifongique contre le cancer et les infections virales :

1 - Le virus et ses variétés sont des biocorpuscules les plus infiniment petits et les plus inférieurs sur la terre; ils devraient avoir une nature fongique. Et ce caractère fongique est toujours dominant lorsque le virus réussit à envahir la cellule de l’organisme humain. Il transforme en suite la cellule normale humaine en une cellule fongique par le phénomène de mutation virale.

2 - À cause de cette mutation, la cellule du corps humain blessée, intoxiquée, agonisante, ou venant d’être morte est transformée en une être monocellulaire étrangère, indépendante, ayant une nature fongique différente de celle de la cellule initiale. Cette être monocellulaire est la première cellule cancéreuse qui se divise librement. C’est le mécanisme de la prolifération des cellules cancéreuses. De plus le virus pourrait être l’agent causal de bien d’autres maladies virales par son action non-cancérigène mais paralysante et lytique.

3 - Des applications cliniques de la méthode thérapeutique antifongique "antivirale-anticancéreuse" avec succès ont démontré que le virus et les cellules cancéreuses ont un même caractère fongique. Une fois le caractère fongique du virus et du cancer s’est confirmé, le traitement du cancer et des maladies virales devient un problème de routine.


C - But de l’invention :

1 - C’est le choix d’une composition antifongique à la fois biologique/synthétique et naturelle à action efficace et directe pour créer une grande action fongicide «antivirale-anticancéreuse» et pour créer une maximale augmentation synergique efficace contre le cancer et les maladies virales.

2 - Action cytolytique directe et généralisée dans le cancer, et action antivirale dans les infections virales: Ces actions sont réalisées grâce à une association d’un seul et unique antifongique biologique/synthétique qui est Nystatin et d’une gamme de 8 à 14 éléments antifongiques naturels pour détruire rapidement, complètement et d’une façon généralisée les virus à action paralysante, à action lytique et à action oncogène, et les cellules cancéreuses qui sont de même nature fongique.

3 - Caractère déterminé: C’est une composition d’un fongicide biologique/synthétique comprenant Nystatin et d’une gamme bien évaluée et déterminée de 14 fongicides naturels pour le traitement étiologique, spécifique et rationnel du cancer et des infections virales. Cela a pour but de créer une maximale synergie d’action médicamenteuse. Ce qui veut dire la composition est capable de détruire, de tuer d’une façon généralisée et définitive les cellules cancéreuses et les virus non-oncogènes mais paralysants ou lytiques, d’où les infections virales.


D - Originalité de l’invention :

1 - Choix d’un composé spécifique d’un antifongique biologique synthétisé, fort et non toxique qui est Nystatin, et d’une gamme évaluée de 10 à 14 éléments fongicides naturels pour créer une maximale puissance thérapeutique efficace et une synergie d’action antagonique dans le traitement antivirale et anticancéreuse.

2 - Les éléments antifongiques naturels donnent aux cellules de l’organisme humain des matières biologiques, des partenaires normaux, faciles à assimiler, et à tolérer. Car étant non-toxique ou presque non-toxiques ces éléments favorisent l’autodéfense de l’organisme. Donc les antifongiques naturels fournissent à l’organisme humain des substances biologiques compatibles au métabolisme cellulaire.

3 - D’ailleurs pour mieux traiter le cancer et les infections virales, il vaut mieux avoir un moyen antivirale-anticancéreux plus abondante et plus suffisante. Ainsi, la combinaison mixte des antifongiques synthétiques et naturels est une formule médicamenteuse idéale capable de détruire au maximum les virus pathogènes dans les infections virales et les cellules cancéreuses disséminées partout dans le corps humain.

4 - Action fongicide cytolytique directe et définitive contre les virus et les cellules cancéreuses développées: Ceci est à cause de la nature fongique primitive des virus qui sont à l’origine des mutations néoplasmiques.

5 - Action antivirale concomitante dans les infections virales, en raison de la même nature fongique de ces virus non-oncogènes.

6 - L’originalité de mon invention a été prouvée à la fois biologiquement et cliniquement depuis plusieurs années (pas de publication) dans la lutte avec succès contre toute sorte de cancers et les infections virales.

7 - Issue de cette originalité de concept, mon invention a un caractère exclusif, ainsi elle pourrait souhaiter avoir la bienveillance du Commissaire des Examinateurs dans l’octroi d’un brevet demandé.


E - Choix et but de composition fongicide "Antivirale-anticancéreuse" et dosages :

Nous avons commencé dès le début un traitement "antiviral-anticancéreux" contre les cancers et les infections par une composition pharmacologique mixte comme citée ci-dessous.

Une combinaison mixte, spécifique d’un fongicide synthétique appelé Nystatin et d’une gamme bien évaluée et déterminée de 8 à 14 antifongiques naturels, donne une grande action thérapeutique et une maximale synergie destructive pour le traitement du cancer et des maladies virales :

1 - Fongicide biologique synthétisé :

La première matière de la composition antifongique est un fongicide biologique synthétisé : "Nystatin". C’est un fongicide fort, antiviral, commercialisé sous le nom de Mycostatin ou Nilstat qui, à une dose spécifique et appropriée, détruit bien les virus et les cellules cancéreuses. Ce fongicide Nystatin peut être utilisé seul dans le traitement du cancer et des infections virales. Les doses de Nystatin varient de 3.000.000UI à 6.000.000UI/jour durant de 8 à 18 mois ou plus pour prévenir les rechutes.

2 - Les fongicides naturels :

Il sera grandement efficace quand Nystatin est combiné à une gamme bien évaluée et bien déterminée de 8 à 14 éléments antifongiques naturels ( leurs doses sont variables: de 100 à 200 gr/jour) ayant une action antifongique, antivirale, et anticancéreuse. Cette gamme des 8 à 14 fongicides naturels déjà non-toxique, est en grande partie comestible. Ces 14 antifongiques naturels sont les suivants :

2.1- Les racines desséchées de Curcuma longe qui a une action antifongique, antivirale et anticancéreuse: 10 à 30 gr/jour;

2.2- L’herbe Hedyotis Diffusae desséchée qui a une action antifongique, antivirale et anticancéreuse: de 30 à 60 gr/jour;

2.3- L’herbe Lobelliae Radicante desséchée qui a une action antifongique, antivirale et anticancéreuse: de 15 à 30 gr/jour;

2.4- Les feuilles de Carica Papaya desséchées qui ont une action fongicide, antivirale, anticancereuse: 10 à 30 gr/jour;

2.5- Les feuilles de Catharantus Roseus desséchées qui ont une action antifongique, antivirale et cancéreuse:10 à 20 gr;

2.6- Les racines de Glicyrrhiza Urelensis qui ont une action antifongique, antivirale et anticancéreuse: 5 gr à 15 gr/jour;

2.7- Les plantes Centelle Asiaca qui ont une action antifongique, antivirale, et anticancéreuse: 20 à 50 gr/jour;

2.8- Cyperus rotundus qui est antifongique, antiviral et anticancéreux: de 5 à 10 gr par jour;

2.9- Les champignons Ganoderma Lucidum qui ont une action antivirale: 15 à 30 gr/jour;

2.10- Les grains de Sesamun Oriental qui ont une action antifongique, antiviral, anticancéreuse : 10 gr à 20 gr/jour;

2.11- Le Son de Riz qui a une action antifongique, antiviral et anticancéreuse: 10 à 20 gr/jour;

2.12- Les grains et les cœurs de Lotus qui ont une action antifongique et une action équilibrante du système nerveux autonome: 5 à 20 gr/jour.

2.13- Les Molluska-Escargot désséchés de mer et d’eau douce qui sont fongicide, antiviral, anticancéreux: 10 gr à 30 gr par jour.

2.14- Panax Ginseng qui est fongicide, antiviral et anticancéreux: de 5 à 10 par jour.

3 - But de cette demande de brevet d’invention : Les 3 revendications :

Avec l’exposition descriptive mentionnée ci-dessus, nous avons pour but de revendiquer à l’Honorable Commissaire des Examinateurs des Brevets d’Invention, le droit d’invention d’une méthode de traitement antifongique pour combattre les cancer et infections virales.

3.1 - Une Première revendication sera demandée avec l’utilisation d’un seul élément antifongique appelé Nystatin; dans le combat contre les cancer et infections virales.

3.2 - Une deuxième revendication sera demandée avec l’utilisation d’une composition pharmaceutique mixte de fongicides synthétique et naturels comprenant un seul élément appelé Nystatin et huit éléments antifongiques naturels appelés Curcuma, Hedyotis, Lobelliae,Catharantus, Ghycirrhiza, Gingseng, Sesamum Asiaca, Lotus; dans le combat contre les cancer et infections virales.

3.3 - Une troisième revendication sera demandée avec l’utilisation d’une composition pharmaceutique mixte de fongicides synthétique et naturels comprenant un seul élément appelé Nystatin et quatorze éléments antifongiques naturels appelés Curcuma, Hedyotis, Lobelliae, Papaya, Catharantus, Ghycirrhiza, Centella, Cuperus, Ganoderma, Sesamum Asiaca, Son de Riz, Lotus, Escagot, Gingseng; dans le combat contre les cancer et infections virales.

V - CARACTÈRE NON-ANTICIPÉ DE L’INVENTION :

L'agent Les Protections Équinox à Montréal, et à Washington D.C. le Service de Recherches de l'Office de la Propriété Intellectuelle des États-Unis ont fait des recherches plusieurs fois sur des Brevets, des Demandes de Brevets d’Invention, et des Publications dans les revues et journaux mondiaux pendant plusieurs mois. Mais il n’y a aucune invention, aucune publication, aucun article, aucun concept et aucune idée sur le traitement étiologique des cancer et infections virales par les antifongiques. Donc ma découverte n'est pas précédée.

Les Publication et Brevets US antérieurs :

1 - Le Brevet No 5,665,751 du 9 Sept.1997 parle d'une "composition de 2 substances antifongiques synthétiques 1,3-bis-triazolyl-2 propanol pour inhiber la croissance de la tumeur et du cancer du sein, et des infections virales.". Ce Brevet ne parle pas d’actions cytolytique et antivirale contre les cellules cancéreuses et les virus. Son action est exclusivement et totalement palliative. Ce Brevet ne parle pas non plus de guérison possible, de destruction partielle des cellules cancéreuses ou d'un traitement radical et étiologique quelconque de cancer ou d’infections virales. Il ne présente qu'une action passive, apathique, négative de quelques antifongiques isolés pour inhiber, barrer ou ralentir la croissance de la tumeur et du cancer du sein. Il n'est pas basé sur l'origine fongique générale de l'agent causal du cancer et des infections virales. En plus les trois auteurs de ce Brevet, Messieurs. James Berger Camden, West Chester, Ohio ont déclaré à la page 2, de la ligne 10 à la ligne 13 de leur Brevet, que: " The exact cause of cancer is not known, but links between certain activities such as smoking or exposure to carcinogens and the incidence of certain types of cancers and tumors has been shown by a number of researchers.” Donc ce Brevet n'a pas anticipé mon invention.

2 - Le Brevet No 5,817,321 du 6 Oct. 1998 parle de la composition d’une polymère polyéther avec un agent biologique pour inhiber la résistance cellulaire aux agents thérapeutiques dans les néoplasmes et les infections microbiennes et augmenter des effets de cytotoxicité des médicaments. Ce Brevet a confirmé partiellement mon concept sur la nature fongique du virus et du cancer.

3 - Le Brevet No 4,761,402 du 2 août 1988 parle d’une composition d’un activateur appelé "glucan phosphorylé soluble" combiné à un agent antimicrobien pour le traitement des infections bactériennes et virales. Emploi de cet adjuvant " glucan phosphore soluble " en chimiothérapie anticancéreuse pour activer les macrophages sécréteuses des facteurs cytotoxiques contre les cellules cancéreuses. La composition de ce Brevet a donc une action indirecte dans le traitement du cancer et des infections virales. Elle n’a pas une action cytolytique directe sur les cellules cancéreuses, pourtant elle est un argument pour mon concept sur la même nature du virus et du cancer.

4 - Le Brevet No 5,512,591 du 30 avril 1996 possède une composition d’un seul agent antifongique synthétique Amidazole qui agit comme agent inhibiteur de l’angiogénèse dans l’anormale néovascularisation du cancer. Ce Brevet, lui aussi, a confirmé partiellement mon concept sur la nature fongicide du virus et du cancer.

VI - REVENDICATIONS :

Je présente trois (3) revendications suivantes :

1 - Utilisation d'un seul et unique élément pharmaceutique : Fongicide synthétique appelé Nystatin, pour le traitement contre le cancer et les infections virales.

2 - Utilisation d’une composition pharmaceutique mixte de fongicides comprenant :

Un (1) seul fongicide synthétique appelé Nystatin et huit (8 ) éléments fongicides naturels : Curcuma, Hedyotis, Lobelliae, Catharantus, Glycirrhiza, Gingseng, Sesamum Asiaca, Lotus; pour le traitement contre le cancer et les infections virales.

3 - Utilisation d’une composition pharmaceutique mixte de fongicides comprenant :

Un (1) seul fongicide synthétique appelé Nystatin et quatorze (14) éléments fongicides naturels : Curcuma, Hedyotis, Lobelliae, Papaya, Catharantus, Glycirrhiza, Centella, Cuperus, Ganoderma, Sesamum, Son de Riz, Lotus, Escagot, Ginseng; pour le traitement contre le cancer et les infections virales.

Brossard le 14 May 2002

Signature de l’inventeur

Nguyên, Thi Thanh
3435 Place Borduas, Brossard
Québec J4Z-2E9 Canada

Post Reply