Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn...

Truyện dài, truyện ngắn, tùy bút ...
tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn...

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhất
Chương 1


Đời Thăng Hoa Thú Vị Bất Ngờ




Đám bụi dày bị cơn gió đông cuốn hút cuồng quay, khiến khách bộ hành phải quay lưng lại, đi thụt lùi, hai tay che mặt, đầu rụt sâu vào cổ áo lạnh kéo cao. Hoài đi giữa lòng phố thị, nghe đì đùng tiếng pháo nổ râm ran liên tục từ mọi ngỏ nhà. Ồ! Chẳng lẽ... những ngày háo hức đón chờ mùa Thanksgiving, Merry Christmas, Tết Tây và Tết Nguyên Đán lại tưng bừng trở về trên thế trần rồi đó ư? Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao hớn hở hân hoan ân tình gửi cho nhau quà giáng sinh, mừng năm mới với cánh thiệp nồng ấm thắm thiết tình người. Thú vị quá! Đối với Hoài thì ngày Thanksgiving, Christmas, Noel… no iết, hay Tết Nguyên Đán nguyên iết gì gì đó... không còn nữa, như Nhất Tuấn đã ghi bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" có những câu thơ nàng rất thích:
. . . Mới bốn mùa thu qua
Mimosa, Mimosa, vẫn nở...
Sao mối tình đôi ta,
Ai làm cho dang dỡ?
Đêm nay Noel đây,
Nhưng em không về nữa.
Ðường khuya mưa bay bay.
Mimosa, Mimosa, thôi nở…
Trong hồn anh đêm nầy…
Tháng ngày thấm thoát trôi qua nhanh, như bóng chiều câu qua song cửa, cho mình nếm trọn đủ nỗi cay đắng, niềm đớn đau thầm lặng, cùng cực buồn nhớ, khiến Hoài chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây... Hồi nhỏ bé, trước thềm năm mới xa xưa ở thành phố khá lạnh xứ Đà Lạt, Hoài ưa theo ba má đi khắp nơi chúc tết cô bác họ hàng. Cô nhỏ thích được có nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, dù không biết xài tiền, em cũng cất tiền lẽ trong bóp đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, vui mừng khấp khởi khoe với trẻ nhỏ ai có nhiều tiền hơn ai thôi. Hoài vui vẻ tụm năm tụm ba với bạn bè, niềm hạnh phúc ấu thơ là xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai con bé lủng lẳng bông vàng lắc lư theo từng cử động vui mắt, đêm đêm có giấc mơ bắt bướm hái hoa lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ. Rồi tháng năm qua dần... cô em lớn lên với tà áo hoa màu rực rỡ, cùng bạn hữu thời trung học lượn quanh phố chợ, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng bạn với ta phơi phới nét xuân thì. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay, nhanh quá đỗi là nhanh.
Nắng mùa đông sót lại nét hoen sầu, rả rích từng giọt mưa phùn bay bay trên phố Đà Nẵng, điệu buồn êm nhẹ hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Hoài thấy nhớ những cánh thiệp tươi mầu còn cất ở dưới đáy va ly, nàng muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Ở tình bạn, cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, xa xăm, lẻ loi khôn tả. Cuộc đời nàng như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông, bao la bát ngát. Còn con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả bạn và người thân của Hoài từ từ xa (như con tàu dừng chân lại trước thềm lục địa, tạm nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng họ tươi cười thản nhiên về sự phản bội đó. Rồi con tàu lặng lẽ nhổ neo đi). Hoài không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu mà buồn làm chi. Do vậy tình bạn có phần dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều muốn cất lên bên sườn đồi, dưới giàn hoa thiên lý kế rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo, muốn đặt nơi nào cũng được. Nó không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ tan vỡ, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ làm chi! Chả cần thiết! Chao ôi! Nào có ích gì.
Buổi tối Hoài về nhà anh chị Thương, (vì nhà ba má của nàng ở quê Mỹ Chánh đang lộn xộn, không yên, nàng sống ở đó không tiện). Hoài kinh ngạc khi nhận được thiệp xuân của Phú, Đông, chị Hạnh. (Phú giới thiệu Đông gửi thư cho nàng theo kiễu bạn bốn phương, vì Hoài không quen biết Đông). Thật quá lạ, Phú nghĩ gì về Tôi? Tự thâm tâm, có nhiều điều quá đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hoài không nhớ mấy về ai, và quên mất là mình đã quen thân Phú. Mừng rỡ cầm mấy phong thư vào phòng, nàng ngồi lên giường, mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn anh đã nhập ngũ, nay làm việc tại ven biên tỉnh Khánh Hòa. Đi nghỉ phép ở Đà Lạt, Phú đến thăm chị Khánh, và xin điạ chỉ Hoài. Thoáng thời gian ngắn ngủi qua nhanh, Phú có biết bao thay đổi, đầy hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì, ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẽ, trên hai bàn tay trắng, và tấm bằng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn. Hoài thấy có cái gì sắt cạnh đâm sâu trong lồng ngực vỡ vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia nàng tưởng là không có ai có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy. Thuở xa xưa ấy, Hoài gặp Phú, quen Phú, trái tim nàng như cuộn giấy trắng tinh, chưa sâu sắc thâu nhận bóng hình ai. Hoài thấy Phú đẹp trai, phong nhã đa tình, và sao mà chàng lãng mạn, lả lướt quá đi! Hoài sợ. Vã chăng, nói cho cùng thì lúc đó nàng đã có một xí cảm tình thân thiết với “cố nhân”. Không! Hoài chẳng muốn nhớ đến “tên ai”, dù kỷ niệm nhỏ nhặt gợi lên hình ảnh đẹp trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái trước ngưỡng đời mệt nhoài, hụt hơi đến đắng cổ bây giờ.
Mùa đông trôi tuột về dĩ vãng mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian chìm sâu từng ngày, từng ngày vào ý niệm. Hoài đã đi từ Đà Lạt xuôi qua mọi miền, đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang, ra tới Bến Hải… Có thể suốt đời Hoài vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm dịu êm một thuở. Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ vẫn theo nàng đến chân trời góc bể, nơi nàng đã sống, vui buồn, mòn mỏi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hoài âm thầm, nhỏ bé như loài hoa cỏ may tầm thường mọc bên lề viả hè trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm vàng son một thuở... do vậy nàng rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại, trong đó có câu:
Nửa bước em về chiều nay tư lự.
Nửa bước em về ngày xưa tháng cũ.
Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
* * *
Cô Ba Thuận năm nay ngoài bốn mươi lăm tuổi, vóc dáng cô Thuận mập ơi là mập nhưng lùn xủn; cô siêng năng chăm chỉ lo làm ăn buôn bán nên hái ra tiền, cô ăn nói hoạt bát, nếu không muốn nói là hơi quá lanh miệng lanh mồm. Bạn thân thiết của cô Thuận là cô Nga thì lại ốm nhom, cao lêu khêu, ít khi có ai trong xóm nghe cô Nga nói cười, cô Nga cũng siêng năng, kín đáo và lặng lẽ hơn. Hai cô bạn già suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, mà thuở ấy Hoài chưa từng nghe có từ thông dụng gọi họ là “lesbian” hay “gay ghiết, bóng biết” chi cả! Sáng sớm mỗi người đi bán một ngả, tối họ về ở chung một phòng chật chội, cùng nhau ngủ một giường. Họ bán những thứ hàng tạp hóa giống nhau. Chẳng bao giờ nghe họ ồn ào, bực bội, băn khoăn, to tiếng cãi cọ. Họ là hàng xóm của chị Thương.
Hôm nay bỗng nhiên cô Thuận qua nhà, cô nói xa nói gần nhiều chuyện vui thật là vui, rồi cô vào đề: xin phép chị Huyền cho Hoài đi phụ cô trông coi cửa tiệm dùm cô. Cô cười:
- Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẫy! Chị đồng ý cho em Hoài ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
Thế là chị Thương nói em chưa có việc gì làm, nếu đi giúp cô Thuận, thì cũng hay. Hoài đã đồng ý. Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô và Hoài bận rộn suốt từ sáng đến tối chưa kịp ăn cơm trưa, bán buôn không ngơi tay. Nhưng nàng cảm thấy vui, khi hoà mình theo lòng phố thị huyên náo, không gợn chút ưu phiền. Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít bán hàng không ngừng tay. Bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều thì hai chị em mới ngơi tay xí, họ chia phiên nhau vào góc tiệm ăn cơm, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến từ lúc mười một giờ, thức ăn bây chừ đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Nàng ăn chẳng thấy ngon lành, và mệt quá.
Ngày thứ ba trước khi đi làm, Hoài ghé tiệm ảnh Phụng Ký ở đường Đồng Khánh lấy mấy tấm ảnh. Ngày thứ tư, hai chị em rảo bước trên phố thật sớm. Hoài mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít. Má đã mua cho Hoài đủ mọi thứ cần thiết từ đồng tiền lao nhọc của mẹ cha. Vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn không có năm bảy lần mặc áo mới đẹp nhất, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười, không nhỉ? Tiệm của cô Thuận đông nghẹt khách mua hàng. Hoài đứng sau quầy, niềm nở cười cười, vui vui, bán bán, trao trao.
Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, nàng chợt nhìn thấy và… nhìn theo mãi người con trai ngồi sau chiếc Velosolex do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vào tiệm, họ cười hoài. Hai anh chàng cứ... “liếc mắt đưa tình” với nàng, và húc cùi chỏ cười đùa với nhau. Họ chưa dám dựng xe vào trêu ghẹo con bé áo tím, mặc cô Thuận đon đả mời chào, và, cô sẽ nói huỵch toẹt ra nếu ai có ý lã lơi với nàng, khiến khách đỏ mặt mà xéo bước nhanh. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì! Chàng thanh niên ngồi sau lưng bạn có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, da trắng trẻo, đôi mắt chàng sáng ngời đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn với đôi má lúm đồng tiền sâu hoắm, chiếc răng khểnh khép nép bên khóe môi phớt hồng, chàng có nụ cười tươi mát đến ngã lòng người. Ah! Chàng có dáng dấp khá giống Phú ở nụ cười có hai lúm đồng tiền! Chàng nhìn Hoài đăm đăm và quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi!
Dựng xe trước cửa tiệm, họ vào mua mười hộp mứt, năm lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, một chai rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Mười áo thun trắng, mỗi cặp có màu và nhãn hiệu khác nhau, quần sọt cũng vậy. Trong khi Hoài gói hàng, cô Thuận loay hoay soạn mấy cái giỏ xách nhựa mới, để hào phóng tặng họ mang mớ quà cồng kềnh về. Chờ Hoài ngẩng lên, chàng thư sinh Bắc Kỳ đẹp trai ấy, lại khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, rồi chàng đá lông nheo "kịch kịch" với nàng vài cái, mới chịu bưng hàng hóa ra về. Ơ hay! Chàng lại gật đầu vẫy vẫy tay chào thân thiết, gật gật gù gù nheo nheo mắt ướt. Hai anh chàng to nhỏ điều gì, lại khúc khích cười cười mãi nữa kìa! Hoài mắc cỡ, vội vàng cúi xuống tủ kính, vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Nàng "không có đồng tiền bát gạo nào" làm sao dám khoe với ai! Nàng thấy vui, khi tối hôm ấy cô Thuận qua nhà đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
- Em Hoài giúp tôi mấy hôm nay, thú thật là em đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi sẽ trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, mỗi ngày một trăm, vì em sẽ thức khuya bán chợ Tết mỗi đêm. Ăn uống tôi lo hết. Vất vã đấy nhá. Ra Giêng, nếu em còn ở nhà, thì giúp tôi bán hàng, tôi đưa em mỗi ngày vài ba chục thôi, tùy ngày bán được hay không, vì tháng Giêng là tháng “ăn chơi” sẽ ế ẩm mà. Chỗ chị em tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hoài không giận tôi nhá.
- Em vừa ở quê vào đây... lưng chừng ngày tháng chưa tính đi học lại ở trường nào, em ở nhà nghỉ Tết, nên giúp cô cho vui, tiền nong gì. Cô.
- Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? Em Hoài có duyên bán hàng ra phết nhé. Tiệm tôi đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu vào mua, hỏi đến đâu họ mua đến đó, chả mặc cả kỳ kèo gì sớt. Buôn bán, tôi chỉ trông chờ khách xộp điệu nghệ thế chứ. Tôi có nhờ hai cậu ấy ra Giêng đến mở hàng khai xuân đầu năm hộ tôi. À, chị nhớ cho em Hoài làm đỡ tôi một tay nhá.
- Việc đó tùy em tôi thôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
- Ối dào! Em cứ đi làm, chờ bao giờ đầu mùa khai giảng, em đi học là tốt.
- Chị nói có lý. Tôi sẽ bảo em Hoài suy nghĩ, rồi trả lời chị sau nhé.
* * *
Liên tiếp mấy hôm sau, hai chàng trai vẫn thả bộ trên phố, rồi họ vào tiệm cô Thuận mua cái nầy, mua cái nọ. Có lần,“anh chàng đẹp giai” nhờ nàng chọn hộ cà vạt. Hoài biết chàng ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình nào có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua chàng muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi. Hoài thấy sợ! Mặc dù quen họ, với tính cách là người khách mua bán hàng quen thuộc. Có thể chỉ là bạn, hay là anh trai hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống, không thể đi xa hơn. Nàng như con chim non lìa đàn, sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh, sợ cơn đau buồn điếng lặng khác sẽ ập đến.
Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình chàng thơ thẫn solo trên phố, dường như chàng chờ đợi ai. Sau đó, chàng tạt vào tiệm, phụ cô Thuận treo đồ đạc khách chê, đã vứt bừa bãi trong góc phòng. Một hai giờ khuya, chờ cô dọn dẹp xong, chàng mời hai chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa", khỏi chi địa, là cô Thuận khoái khẩu, vui vẻ nồng nhiệt tươi tắn hẳn lên. Chuyện gì cô cũng tốt, nhưng việc tiền nong thì: "tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cỗ chày ra nước, mà lị". Cô Thuận vẫn nói thế với ông chủ cho cô thuê nhà đó mà. Có người khách không mời, bỗng dưng đêm đêm đến giúp một tay, cô Thuận khoái tỷ vì chả mất tiền công, lại được việc. “Ảnh” còn hào phóng mời “hai chị em” nhiều bữa ăn tối, ăn khuya, hậu hĩ quá chừng. Họa có điên hay sao mà cổ không nhận lời chứ. Cô Thuận chuyện trò vui vẻ hồn nhiên "thoả mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô Thuận cũng mời lại "con người tốt bụng ấy" tô bún bò giò heo, tô hoành thánh mì, chén chè, đĩa xôi. Vã chăng, cô Thuận thấy nếu cứ phớt lờ ăn hoài của người ta, như ngầm ngầm lợi dụng anh chàng “dại gái”, thì nó cũng hơi kỳ kỳ, ngượng ngùng bẽn lẽn sao sao ấy!
Hoài đi theo họ vào tiệm ăn như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi thân mật chuyện trò, khiến cô Thuận nhăn mặt, nói nhỏ bên tai:
- Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ. Chả biết.
Vì phép lịch sự, Hoài vờ lắng nghe chàng ấy giới thiệu tên, nhưng không rõ tên gì. Hoài nhút nhát rụt rè không dám hỏi lại, e bất lịch sự, sợ chàng nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Trời đất ơi! Cô chê em là con nhà quê vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó. Thế, cô tưởng em còn "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ ấy chắc? Hoài ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô Thuận ân cần nói:
- Cậu Thắng là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn. Em nên vui tươi một tí nha. Suốt buổi ăn, em cứ xụ mặt xuống, trông thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!
Hôm sau quên lời cô dặn, Hoài vẫn buồn xo lặng thinh, nên cô Thuận khẽ húc một cái vào hông nàng. Giật mình, Hoài vội nhăn răng ra, cười rõ tươi. Trong khi chàng bình luận chuyện thời sự, chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui để cho nàng cười như reo thế. Ngạc nhiên, chàng im bặt nhìn Hoài đăm đăm. Có lẽ chàng nghĩ con nhỏ nầy có dòng máu khùng khùng, lãng lãng, điên điên, chi chi đó nhỉ!? Cô Thuận liền quay sang Hoài, cô lén thò tay xuống gầm bàn, dùng mấy ngón tay mập ú cô bấm vào đùi nàng, thì thầm:
- Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
- . . .
***
Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ, những ụ rác to tướng, đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, và hân hoan nồng nhiệt, vui vẻ đón chào năm mới cổ truyền tưng bừng, háo hức trên những cành mai vàng tứ qúy nở hết cánh, đẹp ơi là đẹp. Giao thừa và Tết Nguyên Đán lại đến. Bây giờ là ngày mồng hai tết, Hoài ghi tên dự thi hoa hậu, do Sư Đoàn 2 tổ chức tại Hội chợ Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ, bên Sơn Trà.
Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng như vũ bão, khi lả lướt êm đềm, nhẹ nhàng, êm êm lâng lâng như mây khói mong manh. Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa, đầy rung cảm, tạo thành âm điệu tuyệt vời do ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, phủ chụp lên tâm hồn nàng đa cảm, những dòng âm thanh rì rào, lâng lâng, ngất ngây, táo bạo và run rẩy. Sự tưng bừng huyên náo nầy khuấy đảo tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hoài càng bối rối, băn khoăn, âu lo. Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, và có năm mười người bạn mới, cũ, cùng khán giả đông nghẹt nồng nhiệt cổ võ, thì Hoài vững tin, cố gắng hết mình.
Khuôn mặt Hoài để tự nhiên không hề biết dùng chút phấn son trang điểm. Xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buông làng, rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nhiệt liệt hoan ca rất nhiều. Sau vũ điệu, nàng phải hát một bài tự chọn "Nắng chiều" của Lê Trọng Nguyễn. Vì khá mệt trong điệu nhảy sôi động, nên Hoài vừa ca vừa thở, nghe dỡ ẹc. Đồng thời nàng phải trả lời mười câu trắc nghiệm, vấn đáp hóc búa, cùng thi các thích ứng thông minh mau lẹ khác. Hoài lo mình kém tài gây nên cảnh lố bịch, đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói; sẽ hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy! Đứng trên sân khấu có 118 vị xinh như mộng, tươi như hoa đang dự thi. Tất cả chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Họ và Hoài đã vượt qua vòng sơ kết. Rồi đợt hai còn năm mươi cô lọt vào vòng bán kết. Đợt ba có mười lăm người may mắn vào vòng chung kết. Những cô bị loại thì buồn xo, cúi mặt lủi thủi bẽn lẽn đi xuống. Những cô còn nuôi hy vọng được đứng lại trên sân khấu, thì reo hoan tươi cười ôm nhau nhảy tưng tưng. Giống trẻ con ghê, mặc dù cô nào cô nấy đều ít nhất từ mười sáu đến “hâm” đi hâm lại tới bâm mấy tuổi rồi. Những cô còn đứng trên khán đài, đã được ban điều hành mời họ qua đứng hai bên cánh gà tả và hữu của khán đài.
Hoài hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ bị ném cà chua, trứng thối, bị xịt nước dơ, hay bị đuổi xuống khán đài, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm chứ chẳng chơi. Còn lại hai cô kia và Hoài là người cuối cùng đứng giữa khán đài rộng mênh mông. Giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Cuộc đời Hoài như thăng hoa từ khi đại diện ban giám khảo đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi, đeo hàng chữ Hoa Hậu - Cây Muà Xuân Chiến Sĩ năm 1962. Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhất, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay và mười ngàn đồng. Số tiền khá lớn, (trong khi lương lính một tháng chỉ có 1.200$)!
Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Lòng hân hoan vui vẻ kinh khủng, Hoài mừng rỡ không thể tả nỗi. Mọi người ùa đến chúc mừng, bất kể lạ hay quen. Họ chen lấn nhau đứng bên nàng chụp ảnh. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn phải nhảy lên sân khấu đứng gần nàng, đưa hai tay che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim Hoài bừng sống, bay lên tận mây xanh, nàng cười liên miên, vui mừng, luôn miệng nói cảm ơn mọi người ưu ái đã gửi đến Hoài lời chúc tụng nồng nhiệt. Ồ! Định mệnh đã đưa đến tay nàng những gì cao qúy, tươi đẹp nhất trong đời. Nàng tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không có ngôn ngữ nào có thể diễn đạt hết tâm tư Hoài mừng vui cuống quít kinh khủng trong lúc nầy. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho nàng một kẽ hở, vô cùng niềm nở, tuyệt vời, trân qúy, thân yêu nhất đó mà. Hoài không biết để tri ân và tạ ơn Ngài.
Hoài háo hức nhón gót nhìn quanh, cố ý tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao” ấy đã đến chúc mừng vinh quang bè bạn. Lần đầu tiên, bây giờ nàng có dịp nhìn kỹ anh trong bộ quân phục đại lễ mùa đông oai hùng. Ah! Thì ra chàng là lính ở văn phòng, chứ không phải thư sinh bạch diện như Hoài đã nghĩ lầm về anh! Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên Đ Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ có một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn, tay cầm chiếc nón casket. Bây giờ nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, Thắng đứng nói chuyện bên mấy người quen mặc cevil, Hoài thấy họ khác lạ như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Anh ấy gật đầu chào Hoài, cười thân ái:
- Thân chào Hương Hoài. Ngồi làm khán giả, anh nghĩ thể nào em cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Rất hân hạnh đến chúc mừng, Hoài nhé.
- Cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan.
- Như anh, có ngờ đâu anh quen biết với một hoa hậu kìa.
- Ban giám khảo thấy em tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho lầm.
- Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thực, mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, anh cũng thích tôn trọng sự thực hơn.
- Điều đó quý lắm chớ.
- Là thế. Mong em giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay.
- Hoài cảm ơn anh nhiều.
Thắng nhìn nàng cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhất đời mình, đã để lại trong lòng nàng tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hoài lâng lâng xúc động, ngất ngây niềm vui vì bất ngờ thành công chói sáng, hiển đạt không dám mơ. Tim nàng rung lên từng hồi theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, muốn hụt hơi, khiến nàng hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện. Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhất là từ nay, Hoài có thể ngẩng mặt với đời chút xí, và phụ cho chị ít tiền, cho gia đình chị bớt khó khăn sau ngày cháu bé mất. Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái, nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn Ban Tổ Chức cho mở cuộc thi. Cám ơn Ban Giám-khảo và Sư-đoàn 2. Cám ơn gia đình chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, và bạn hữu thân quen rất nhiều.
Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông, còn có anh em Trịnh Trần, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc đã đưa chị em Hương Hoài từ bến Sơn Trà lên phà qua sông, về đến tận ngỏ nhà. Đêm bây giờ tuyệt đẹp. Đêm không u sầu. Đêm không hoang liêu. Đêm không ủ dột. Đêm không lo âu. Đêm không còn hãi hùng đau thương, đói khát, nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu. Mà là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao lấp lánh huyền diệu trên bến Ngân Hà. Dù không có Thắng tiễn đưa Hoài về nhà như mọi ngày. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn 2. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao! Đúng lúc đời lên hương, Thắng đã lên sân khấu tặng Hoài bài thơ: Xinh Đoá Hồng Gai
“Dạ thưa!” người con gái khá ngoan hiền.
Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
Gió sớm khuya chiều vờn quanh môi thắm.
E ấp ngập ngừng xuân tình bẽn lẽn.
*
Khao khát trao em tình như thầm hẹn.
Ngày tôi đi mây xám ngủ bên thềm!
Cung đàn nhè nhẹ sáo diều êm êm.
Phượng hoàng tím soãi mình vờn quanh núi.
*
Tình bỗng tha phương trống vắng ngậm ngùi…
Bãng lãng gót son em về tư lự.
Xinh đoá hồng gai trao chút an thư.
Dẫu trăm năm xin nồng nhiệt tương tư.
*
Mắt em nhìn là rung lên vạn ý,
Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
Tha thiết lắm. Ôi! Tình em gái nhỏ...
*

Ố... ồ! Thì ra em hân hạnh quen biết với một quân nhân thi sĩ! Vui lắm thay.



* * *


tìnhhoàihương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
a.linh 49 mitmu khoi.jpg
a.linh 49 mitmu khoi.jpg (155.95 KiB) Viewed 7551 times
Last edited by tinhhoaihuong on Sun Nov 07, 2010 11:58 pm, edited 3 times in total.

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Những Người Anh Phong Sương Vui Tính

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhất
Chương 2

Những Người Anh Phong Sương Vui Tính




Anh Toàn Thắng hiên ngang oai hùng đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, dây biểu chương tam hợp móc bên trái gù vai đỏ. Anh đến nhà đón Hoài đi dự Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Không phải là chờ xem buổi đại lễ long trọng, mà Hoài cùng dân chúng dám bất bình la ó om sòm, khi trải qua ba giờ chầu chực mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang. Thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công nhỉ!
Nhất là có ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn. Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn II có Cố Vấn William là quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên đến Việt Nam, được ông Tỉnh Thị Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng lo hành chánh và quân sự mời tham dự. Hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ, trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay hoà hảo mật thiết. Cờ Mỹ năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta. Đó là những kinh viện và quân viện; một nhu cầu chính trị thực hiện giai đoạn then chốt đầu tiên. Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời. Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở bên bờ đại dương nầy, cũng được Mỹ ưu ái nhìn ngắm đến. Không hiểu họ có muốn đổi chác, nghiên cứu dòm ngó gì, hay không kỳ vọng mơ tưởng mảy may, mà họ muốn hào phóng cho đi tất cả (?!).
Các vị hành pháp, tư pháp mũ mão cân đai chỉnh tề đi sau vị chủ toạ, những “ôn” quyền uy bệ vệ khệnh khạng đủng đỉnh lên khán đài chính (kèm bên qúy phu nhân thủng thỉnh kiêu sa, đài các qua mái tóc búi cao làm kỹ ở ngoài tiệm, quần là áo lụa chưng diện theo mốt cổ áo hở vai tới gần ngực xề xệ thổn thện, như cổ áo bà Nhu khoe yết hầu; đây cũng có dịp quý bà phô trương thân hình úc núc giàu bơ sữa, khoe vòng vàng sáng chói, quần áo sang trọng rực rỡ và thơm tho. Quý phu-quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với chiến thắng tài danh lẫy lừng, đã đành thế! Nhưng qúy phu nhân không làm gì, ngoài dựa hơi hám vai vế của chồng, một bước bà ta nhảy tót trên sàng danh vọng, cũng ưỡn cặp vú bơm silicon, vênh váo bộ mặt trét son phấn dày cui, dương dương tự đắt do sữa mắt hai mí, hếch mũi độn nòng, bơm thừ lừ cặp môi mỏng dính thành “cằm đôi môi chẽ” khêu gợi, và nhoi nhoi cái đít sung túc phì nhiêu lên... thì ai mà chả biết “phu nhân”, hùm chết để da, người ta chết để tiếng).
Khán giả... đứng dưới tha hồ chỉ chỏ, nói chuyện bàn tán lộ liễu và bất lịch sự quá chừng, lấn át tiếng người xướng ngôn viên gào lên trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Dẫu đám dân ngu khu đen đứng dưới khán đài nầy trơ mắt ếch, há hốc miệng, thộn ra nhìn như kỳ lân đá. Từng đôi một tiến lên khán đài trịnh trọng khệnh khạng và trang nghiêm. Người xướng ngôn viên xướng danh các vị, thì trên khán đài vụt đứng dậy hăng hái vỗ tay chào đón hoài. Khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới im lặng đứng yên. Đám dân gian cũng vỗ tay rời rạc, lổng chổng vang lên lẻ tẻ ở nhiều nơi. Họ vỗ tay không nhiệt tình hưởng ứng, mà do “bổn phận, miễn cưỡng” của kẽ thấp cổ bé họng, thì đúng hơn. Buổi lễ long trọng càng kéo dài giống như bất cứ buổi lễ nào khác. Gió lộng xô đầu bù tóc rối, áo quần ai nấy đều bám bụi vàng, mặt mày bơ phờ mệt mỏi hốc hác; đồng bào chán ngán thở phào, như trút xong gánh nặng đè vai, họ vội vã tuông về trên các ngả đường nghẹt cứng ứ nghẽn người tất bật lo chạy ngược xuôi kiếm sống.
* * *
Tiện cùng trên một đường đi nên Thắng mời Hoài rẽ qua nhà anh cho biết. Thắng ở chung với ba anh bạn độc thân vui tính (và một anh vừa cưới vợ, vợ còn ở xa). Căn nhà thuê bao đủ tiện nghi vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm hai anh ấy đi sắm đồ dùng cho bạn: thứ gì cũng có năm màu sắc phân biệt khác nhau, mà lúc ấy Hoài cho là hai ông khách nầy ưa làm đỏm và khó tính. Họ đang bàn tán về hai phi công Việt Nam: Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử đã ném bom bắn cháy dinh Độc Lập vào hôm 27 tháng 2 năm l962. Một quả bom không nổ rơi trúng phòng đọc sách của Tổng-thống Diệm, khi cụ đang ngồi đọc sách. Bà Nhu bị gãy một cánh tay. Một quả bom khác rơi ra ngoài sân dinh. Một lúc sau phòng-không mới bắn trả lên, thì phi cơ ông Quốc bị trúng đạn, nên ông nhảy dù ra rớt xuống Nhà Bè, ông Quốc bị bắt tại trận và cho vô tù. Còn ông Cử bay mút qua bên Nam Vang, nhưng nghe đâu dân chúng bàn tán ổng cũng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi! Chuyện dội bom đang gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhất là đời sống dân cư đang an lành bỗng chốc ngơ ngáo kinh dị thêm. Chả hiểu vì sao!? Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ, người đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhận.
Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyển đề tài, niềm nở tiếp chào Hoài. Sau khi giới thiệu nàng với bạn bè ở chung nhà, Thắng nói:
- Mời Hoài ngồi, anh vào thay bộ quần áo nặng nề nầy, rồi ra ngay. Xin lỗi em!
- Dạ vâng, anh cứ tự nhiên.
Bốn chàng coòn độc thân, có anh Lê Tiến là đỉnh đạt nhất về tuổi tác cũng như binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi hai tuổi. Tuy thế Hoài trông anh còn nét trẻ trung, vui tính. Anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân. Anh Đào Ngũ Quang: Trung úy Hải-quân. Kế đến là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng hai mươi hai tuổi, Bộ-binh. Sau rốt là anh Vương Quốc Tùng: Y sĩ Quân Y vừa có gia đình.
Anh Tiến nhìn Hoài nháy mắt, để trêu chọc anh Tùng:
- Hoài biết không! Anh thích làm nghề mỗ xẻ tim gan phèo phổi. Không phải như bác sĩ Tùng đâu. Mà anh í hả! Anh thích mỗ thịt bò, thịt heo, thịt ngựa, thịt dê... cơ!
- Để làm gì cha nội?
- Lấy bao tử, ruột non, ruột già làm phá lấu, ăn ngon nhứt nhĩ à nha.
- Ngửi thì hôi, nhìn lại ghê quá.
- Ấy. Sao toa nóng quá vậy hở Quang? Để yên moa nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dô miệng mình. Còn hứng thú đâu mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, là toa khóc như mưa thế?
Quang (Quang là người đã chở Thắng đi mua sắm Tết, lượn phố Tết, mà Hoài biết mặt) pha ly chanh đá bưng ra mời Hoài, ngồi trên ghế nệm, anh tủm tỉm cười đùa:
- Á à a! Chả vì lúc đó tôi lười học, ăn chơi lêu lổng, hoang đàng chi điạ, đếch có tấm bằng nào, dù tuổi mình gần hai mươi. Vẫn ưa ở nhà bu theo bố mẹ, tôi trốn chui trốn nhủi như con dế mèn trong cái lu dấu kín nơi góc phòng tối luyện "tịch tà kiếm phổ", coi thật chẳng giống con giáp nào. Bao giờ đói, tôi kêu re re ré… lên inh ỏi. Đã bảo là con dế mèn mà không re re ré sao nhỉ? Thế là có người nhà bưng cơm canh vào tận chỗ hầu. Đã nhe. Ngon lành nhe. Mẹ kiếp! Tôi chả trốn được bao lâu, thì cảnh sát đến nhà lục soát. Họ nắm tóc tôi, lôi giật lên, mang tôi về đồn bót, hỏi cung tới tấp:
- Anh có yêu đồng bào, yêu nước, yêu gia đình, yêu lính tráng không?
- Có.
- Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh không?
- Rất sẵn sàng.
- Hãy chuẩn bị đi lính.
- Không.
- Tại sao? Anh nói rằng: anh yêu nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
- ... Tôi vãi vào đấy bao nhiêu nước ...tiểu, khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Ngài coi tôi bước đi nè: có phải một chân là dấu chấm, một chân chấm phết, lê lết te tua tàn tạ tiều tụy tả tơi, hay không hì.
- Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được đa. Tôi hỏi anh có yêu Nước không? Chữ Nước viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc. Đất Nước. Quê Hương, chứ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chưa?
Lỡ vênh váo rồi, tôi cho tới luôn, tiến lên, chứ có gì mà sợ! mà rét… mà run hì! Có sức chơi thì có sức chịu, cứ liệu mà chơi:
- Ô! Nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à! Có điều tôi chán ghét họ không đùm bọc yêu thương nhau, mà gây thù hận, giết chóc, máu huyết thổ ra có vòi, coi chóng mặt kinh hồn lắm. Tôi không thích tham dự. Thế thôi.
- Bây giờ, tôi mời anh đi.
- Đi đâu?
- Đi lính.
- Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
- Họ nghĩ tôi ngông cuồng, hay thần kinh bấn loạn bất ổn, nên có anh kia cho ngay con số tám vào hai cườm tay tôi, kêu cái cộp. Ui cha ơi là đau điếng thấy tới tổ tiên ông bà ông vãi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy mình hết giả đò thương tật, chân không cần đi điệu tango, bì bộp, cha cha cha... nhún nhảy nữa rồi. Bây chừ nghĩ lại tôi còn sung sướng chán. Hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức bên ta. Các cậu có biết tại sao không nà!? Giờ ăn cơm tù vẫn có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu có lính ôm súng gác lom lom dòm tôi, lỡ tôi trốn chui trốn nhũi như con nòng nọc lặn sâu tít xuống hồ, thì sao! Giờ ngủ có lính đổi canh. Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho ta. Nè các bạn! “Ngũ quang” là có năm con đường tươi sáng rạng rỡ í. Cơ khổ! vì cái họ của tôi trót lỡ là “Đào” do ông cụ lẩm cà lẩm cẩm lại đặt tên đệm là “Ngũ”; thành thử vô tình tôi trở thành tên “đào ngũ” . Cha chả! nó ám ảnh tôi cho tới ngày ra khỏi lu, mà ca những “đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt”. Ấy mà… sau nầy tôi đi lính thì nghiêm trang, đàng hoàng, sự thực “ta” đếch cần đào ngũ đâu nhe. Bởi lẽ là tôi rất yêu mến đồng đội, đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Tôi mong thăng cấp như thằng Chiến bạn nối khố nè. Còn về việc khóc hu hu, thì đơn giản thôi, tôi đa tình, lãng mạn, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và da diết yêu cô bồ nho nhỏ ở phương xa da. Tôi không được khóc đấy phổng?
Họ cười ha ha ha... hả hả hả... hí hí hí... Quang muốn nhảy dựng lên chơi giựt nổi với đời, anh muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích lên mặt lấy le xí, phừng phưng nổ những pha mê ly ghê hồn, nếu không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, không dẹo chân ẹo người mà cười vang, thì không ăn tiền. Quang không nổi, thì đời trai kém vui đi. Lạ lùng thay, đến nay anh đã thành nhân chi mỹ, xong cử nhân văn chương, anh đi lính và dạy tư, là điều Hoài rất ngạc nhiên, tưởng anh chỉ lè phè là một võ biền. Nhất là về mặt giao tế, miệng mồm nhanh nhẫu Quang càng lịch lãm, thì khỏi nói rùi.
Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn thở từng hơi thuốc vặt:
- Quang chọc quê anh đó, khi uống rượu thì phải biết, rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, ui đã điếu rồi, hắn nói hết sẫy. Hoài đừng tin hắn, có ngày vô “ngũ tử” à nha.
- Dạ. Em biết có tới năm cửa tử, thì tiêu tùng! Ảnh lém lắm.
Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện chàng kể, nửa đúng nửa như sai vừa qua. Quang biết hối hận về ngày cũ đã lêu lổng. Lẽ ra bây giờ anh đã là Đại-úy rồi. Thời buổi nầy không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng để tự vươn lên với đời đích thực hơn.
Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, Hoài thấy anh trẻ trung tươi mát, coi anh lại giống như một bạch diện thư sinh ngày ngày đi lượn phố Tết hôm nào. Anh cười nói:
- Trời ơi! Đoàn kết... kiểu thằng Quang á hả; đoàn kết là “đết còn” ấy.
- Đừng có dốc tổ nghe. Ỷ ta đây “đẹp giai, con nhà ràu, học rỏi” ứ hử! Báo cho mà biết: có chịu đèn chưa, thì bảo!
Ôi! anh Quang mập mờ lơ lửng vu vơ mà ngụ ý muốn “nhắc khéo ai” vậy cà? Những anh lính chiến phong sương nhuốm bụi trần, mỗi anh một cung cách dí dỏm duyên dáng riêng hoan hỉ cười vang. Họ vui vẻ. Trẻ trung hoà ái vô ngần. Đó là những hiền huynh vui tính trong thời loạn; mà rất hân hạnh Hoài đã vinh dự từng thân quen.
Nếu Anh Là...
* Nếu anh: lính Nhảy-Dù.
Em cố thành ưu tú.
Sánh vai ta vui bước.
Thủy-Quân mình nguyện ước.
* Nếu anh là Binh-Bộ,
Ngao du giữa sông hồ.
Ngát hương đời dịu ngọt.
Pháo-Binh súng đề thơ.
* Trao về nhau tình mơ.
Nếu anh là cánh buồm.
Em làm áng mây trôi.
Thiết Giáp vượt ngàn non.
* Nếu anh là Phi-công.
Lả lướt trên thinh không.
Em sẽ là nắng lụa.
Đàn rung ngân phím loan
* Nếu anh lính Hải Quân.
Em mơ mình nữ hoàng.
Nối nhịp cầu tao ngộ.
Tình yêu xuyên đại dương.
* Nếu anh gieo tình thương.
Cùng chung một chí hướng.
Em nguyện làm nữ tì.
Hương trầm toả khói sương… (*)
* * *
Tiến đứng dậy ra mở cửa cho các cô vào. Gặp nhau, họ hoan hỉ chào hỏi, vui vẻ chuyện trò thân thiết. Thắng ngồi bên nghiêng đầu qua vai Hoài, nói:
- Các anh thân mời qúy em đi dự party ở nhà Sang, Sang là bạn Không-quân với anh. Sang biết Hoài là "em gái xa xa của anh", nó đòi anh làm mai, làm mối hoài. À, nó muốn lấy vợ rồi. Em ui!
- Còn anh?
- Lính tráng như anh giang hồ qua bốn bể, vợ con gì. Tuy thế, đôi khi bốc đồng lên, anh sẽ tổ chức đám cưới tập thể... Em thấy thế nào?
Vừa nói xong, Thắng lại đứng lên vào phòng thay bộ đồ civil. Họ ra ba chiếc xe Jeep đậu trên sân nhà. Thắng, Hoài, ngồi băng ghế sau do Quang lái. Ghế trước bên phải là anh Tùng và anh Tiến ngồi. Thắng hỏi lại:
- Em nghĩ sao về chuyện anh vừa nói?
- Anh thì lung tung, linh tinh. Ai biết đâu mà ngờ.
- Đôi khi Hoài cần biết cái lung tung, linh tinh nữa đấy. Ấy! Đồng tiền bát gạo nó hơn nhau ở chỗ ấy, đấy! Nó ăn tiền ở chỗ ấy, đấy... Hốt bạc à nha.
- Anh là chúa đùa dai. Hoài nghe phát mệt.
- Điều Hoài không muốn nghe, đã nghe rồi. Điều em muốn nghe, thì thú thật là... anh không dám nói.
- Tại sao?
- Hoài sẽ giận, anh sẽ buồn lắm.
- Hoài càng chẳng muốn nghe ông thầy bói.
- Hoài là cô em khôn nhất đời.
- Hổng dám đâu.
Quang quay xuống đá lông nheo với Hoài, trêu chọc Tùng:
- Hoài không dám, có Tùng nhà ta dám nè. Ai mà ảnh chả dám. Người chết ở nhà xác, ảnh còn dám móc tim gan phèo phổi, đem đi thí nghiệm. Nữa là... ai.
- Ấy. Bạn lầm to rồi, Cảnh-sát đến nhà, bạn sợ bắt lính... Huống hồ gì xác chết kéo đoàn âm binh lên phòng moa gỏ cửa bằng lưỡi hái đen sì. Xác chết ngồi bật dậy đòi trả mạng sống nữa đó. Ai mà không kinh khiếp khi nhìn bầy quỷ lố nhố ngoài cửa đến chờ kéo chân, kéo cổ mình đi. Há.
- Toa phải đi hầu Diêm Vương, để trị bệnh cho đại-chúng cô hồn ở âm ty chớ.
- Nghiệp dĩ mà. Lúc đó, moa kéo Quang đi cùng, cho có bạn hộ tống nhe.
- Này, nói trước cho mà biết. Đừng ấm ớ, rủ tôi đi vào cái cửa độc nhất vô nhị kia. Có đi, mà chả có về đó nha.
- Xời! Sợ cái gì chả biết. Có Thắng và Hoài chờ ngoài Heaven's Gate. Họ nắm hai tay toa, kéo rị lại mấy hồi. Nếu cần moa nắm một cẳng ở trong cửa thiên đàng, Thắng nắm một cẳng ở ngoài cửa trần thế. Rị lại.
- Dùng dằng kéo co cái kiểu đó thì... xạc háng, trăng treo te tua, thân thể tôi tàn tạ tả tơi, thì thấy tổ tui tới thiên thu thôi. Còn đâu đời trai trẻ thân thế thảnh thơi trắng trẻo thông thái trữ tình thấy thương, hỉ!?
Nhiều tiếng cười ngất thoải mái vang lên. Quang quẹo xe vào ngôi nhà quét vôi vàng rợp bóng cây nằm riêng biệt trên đại lộ Trưng Nữ Vương. Ở đây có tiệc tùng tưng bừng. Rượu nồng say sưa, xa hoa đắm đuối. Bàn tiệc bày la liệt các món ăn bốc khói, thơm ngào ngạt. Mọi người hân hoan, niềm thư thái an hoà qua nhiều lần chạm ly lốp bốp, vui vẻ chúc tụng lẫn nhau. Sau buổi tiệc, màn cửa dày kéo lại, đèn màu mờ mờ bật lên. Hoài cảm thấy ơn ớn không thể chịu nỗi mùi rượu phà ra từ người đàn ông lạ ưa “xông lên” khua tay nói nhiều, rượu vào mềm môi, ông nói to, không thèm im lặng nghe người khác, mặt đỏ như trái cà chua, mũi phì phò khói thuốc thơm nặng mùi, giọng lè nhè, rề rề kéo nhựa, táo bạo, bớt nhã nhặn và không thể tự chủ lúc quá chén.
Do bản năng thiên phú, Hoài chợt nghĩ đến “cố nhân”, và họa luôn hình ảnh “chàng” đậm nét trên từng khuôn mặt, dáng vóc, cử chỉ của mỗi người lính chiến đang dự tiệc. Nàng thầm nghĩ: Có lẽ đời sống của một sinh viên Văn-khoa, chàng không có mấy cuộc vui làm mệt tâm hồn và thể xác đến thế. Sự giải trí của cậu "học trò" con nhà giàu gia giáo, dẫu sao cũng mang tính chất trẻ thơ, đơn giản hơn nhỉ. Hoài nhớ người ấy nhiều. Mỗi lần chàng đến bên Hoài, thân thoang thoảng mùi nước hoa thơm nhẹ, dễ chịu dường bao! Hoài không mấy đồng ý với các bạn gái đã nói: “Con trai đàn ông mà ưa xịt nước hoa, cũng là thứ đĩ đực diêm dúa... đó mi” (!?). Hoài ưa cúi xuống vùi mặt mình vào mái tóc chàng. Chính Hoài đã trải qua nhiều lần xúc động ngất ngây vì mùi nước hoa, và cả mùi của riêng chàng; dựa vào đó mà mối tình của họ khá thanh cao và lâng lâng trong sáng chăng? Chàng đứng đắn, vui vẻ ngọt ngào đầm ấm, chứ có bao giờ giọng nói lè nhè kéo nhựa ra! Có thể chàng không thích uống rượu, trai gái lố lăng, nhảy đầm lơi lả ư!? Thật kinh khủng và Hoài tiếc ngẩn lòng! Mình có thể nối lại tiếng đàn xưa qua nhịp cầu tri âm cùng cánh thư tình vui vẻ đằm thắm bay đi bay về. Nếu Hoài muốn mà! Do Hoài phi lý cố tạo ra sự chia lìa, nông nỗi không hề có lý do chính đáng chênh lệch giữa “chàng và nàng”. Cơ khổ thay vì chàng có thói tươm tướp đào hoa bay bướm. Còn nàng chỉ là một thường dân bình dị chân thật trầm lặng đó thôi. Hoài đã tự quyết định dứt khoát với chàng, mặc dù cả hai người đều không mảy may hờn giận! Tình yêu là một tình cảm tuyệt vời thần bí, Hòoài không bị thay đổi vì thời gian, không vì người nào, mà thay đổi trong ánh mắt và lập trường. Hoài làm khổ chàng và mình đau không ít, Hoài cứ ray rứt vì chuyện nầy đâm ra buồn phiền mãi. Nhưng... Mộng tình đã vụt tắt, xa bay vạn dặm, thì... thầm nhớ, mơ chi anh chàng văn nhã, hào hoa kia, cho thêm tủi, thêm buồn. Những ngọn nến trong cuộc tình tự tay ta trang trọng dốt lên, thì cuộc sống phải là sự chấp nhận.
Ánh sáng từ ngọn đèn mờ qua chao lụa mỏng chiếu vào khuôn mặt Hoài, khiến Thắng biết không khí nơi đây chẳng thích hợp với cô gái chưa từng nếm trải mùi đời. Dù đó là nơi người lính trẻ vui nhộn, trí thức, tao nhã, lịch sự, bốc đồng và tiếu lâm, do chất men say rượu nồng làm phù phiếm hơn thôi. Trong thâm tâm Hoài có phần hơi buồn, vì Thắng thân mật với qúy bà, quý cô gái. Anh buông mình vào mấy điệu nhảy rất tây, rất tình. Nàng buồn khó tả khi bắt gặp tia mắt anh nhìn Hoài có loáng nước lóng lánh, tráng lên nét vui cười tinh nghịch. Cơn đau đầu đời vì cuộc tình đầu gảy đỗ, khiến Hoài kinh khiếp ôm song cửa hẹp khư khư, không chịu bỏ ngỏ, cho tình cảm bay về. Hàng hoa anh đào bên bờ hồ Xuân Hương mà nàng vẫn mơ thấy. Giờ đây như xua đuổi giận hờn, thất vọng, đớn đau mãi nhức nhối trong tim, như mũi tên xuyên qua lồng ngực. Đến trao cho Hoài dĩa bánh kem và ly trà thơm, Thắng ngồi kề bên nàng nhìn các bạn khiêu vũ, rồi quay lại Thắng trách yêu:
- Em nên hoà mình vào cuộc sống, quên muộn phiền làm già nua khuôn mặt. Em đẹp đến thế mà... nhăn nhúm như trái táo khô. Lẽ ra em nói thế nầy: "Hai tay bưng chén rượu đào. Xin mời quân tử uống vào, cho say". Không nói hở? Anh vẫn OK! Nghe lời anh nào! Cười lên xí cô bé hoa hậu có nụ cười quyến rũ, làm xiêu lòng người, thế mà ích kỷ dấu mãi trong xó nhà. Chán bỏ xừ!
- Anh nói nhiều. Nặc cả mùi rượu... nếp than.
- Ơ! anh là... tay tổ bợm nhậu không bằng.
- Biết đâu. Anh say ngầm đó.
- Lém vừa thôi cô bé. Anh say không vì rượu, mà vì lý do khác.
- Hoài biết rồi. Các cô kia bu quanh anh, như đàn ong vây quanh tổ đó.
- Đúng thế. Họ hỏi cô gái tóc dài, áo tím cánh sen kia, là gì gì... của anh, mà ngồi bí xị ở góc ghế. Điệu nầy thì anh... hết biết đường đi về Sài Gòn mất.
- Anh về Sài Gòn hay ở đâu, có can dự gì tới... ai.
- Thế mới chết.
- À! Anh về Sài Gòn, nhớ cho em kính lời thăm bác, chị, em, họ hàng thân quyến. Bạn bè cũ mới, cả người anh không quen nữa nhé.
- Vừa vừa thôi. Anh không gói trọn hàng trang đâu.
- Các cô đó gửi lời trước em rồi?
- Ai lẩm cẩm như em! Họ thực tế, hoà đồng hơn. Vì thế họ bớt đau khổ.
Thấy hai người cúi đầu rù rì nói chuyện, các bạn bắt Thắng và Hoài song ca bản "Ngày hạnh phúc". Nàng bẽn lẽn thẹn thùng, nhưng trong lòng hân hoan vui thích. Thắng không chịu, anh giẫy nẩy lên, đưa hai tay về phía bạn:
- Tôi sẽ ca cho các cậu nghe chục bài hạnh phúc. Nhưng, vào dịp khác, chứ lúc nầy không được. Cho tôi còn hơi thở. Mai lấy sức về Sài Gòn chứ. Bù lại, nếu các cậu muốn tháp tùng theo "đôi song ca" thì xin mời... đi xem đại nhạc hội ở Sài Gòn ra. Nghe nói có Elvis Phương tuổi trẻ tài cao, Lệ Thu, Sĩ Phú, Hà Thanh, Thanh Thúy, Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết và quái kiệt Trần Văn Trạch trình diễn à. Đi nhe. Gọi là món quà tạm biệt tiễn tôi về Sài Gòn. Nào. Ủng hộ đi.
- Chứ không phải là... cậu bao chúng tớ à?
- Cũng tùy.
- Nói cái gì lơ tơ mơ thế! Tển xí gạt bọn mình đó.
- Ở nhà bum còn hơn. Cu cậu muốn tách rời bọn mình. Đừng có tin.
- Anh Tiến giàu kinh nghiệm thật, nhảy dô tim đen tôi rồi.
- Phải tỏng tòng tong đi. Thôi, cho cô cậu tự do.
Chiến nhấp nhấp ngón tay trỏ, chỉ về Thắng, dằn mặt:
- Bạn đi tự do quá trớn, tôi không chờ cửa đâu nhé.
- Anh Ba! Cho em nhờ tí.
- Khỏi lo. Đã có Quang chờ ngoài cửa, nắm cẳng cậu ta rị lại rồi.
Họ cười ngất. Sau khi trêu đùa cười nói chọc quê Thắng, các bạn quay gót. Hai người chào gia chủ, chào bạn và đi ra phố. Không ai mà không có nhiều thiện cảm với các anh lính chiến trẻ trung độc thân, vui tính, khi lần đầu tiên gặp gỡ ân cần xiết chặt tay nhau. Tình thân mỗi ngày một thắm thiết từ tuổi trẻ sáng ngời, đầy tin yêu, hồng lên đức mến.
Mặt trời gác núi. Từng thuyền mây hối hả bơi về cuối trời lãng đãng ánh hoàng hôn, như buồm lam căng gió xuôi về chân trời xa xanh niềm ước mơ, dạt dào hy vọng. Thắng rất vui, khi thấy Hoài cười rạng rỡ, má thắm môi hồng, mắt sáng long lanh, dáng dấp nhẹ nhàng thư thái, như phiến lá đong đưa dưới đêm đầy trăng sao an bình nơi thành phố. Tự trong thâm tâm, anh mong Hoài đi trên con đường mới, có cỏ lạ hoa thơm. Với hình bóng chàng trai khác trong tâm tư Hoài, qua sự hỗ trợ của không gian và thời gian. Hầu xóa sạch vết buồn xa cũ một thời làm cô gái đau thương. Thắng tiễn Hoài về nhà. Anh vui vẻ bước ra đường với chiếc velosolex nổ dòn.

* * *

(*) thơ tìnhhoàihương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
a.l dondau buongsung.jpg
a.l dondau buongsung.jpg (14.92 KiB) Viewed 7572 times
Last edited by tinhhoaihuong on Thu Mar 31, 2011 10:59 pm, edited 3 times in total.

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Đường Trăng TỐ NỮ

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhất
Chương 3


Đường Trăng Tố Nữ




Hơi thuốc thơm thoang thoảng bay bay, khiến phòng khách be bé, gọn gàng trong căn nhà nho nhỏ xinh xinh của anh chị Thương, có vẻ thanh lịch dễ nhìn hơn. Thắng ngồi bên chiếc đàn guitar đánh vài điệu. Trông anh phong lưu an hòa, khuôn mặt xinh trai bỏ lững tay đàn, thỉnh thoảng ngẩng lên, liếc mắt nhìn về phiá Hoài, làn khói nhạt vướng lại đôi mắt sáng ngời. Anh đá lông nheo, kèm theo nụ cười tinh nghịch, cử chỉ hoà ái, vui tươi.
Hoài nhìn sững chàng trai mỉm cười như bị thôi miên. Cái nhìn không cho Thắng biết là sự vui tính, phong lưu, đẹp trai ấy khiến nàng ngẩn ngơ phút giây hoài cảm. Hoài chớp mắt dường như muốn đáp lời thầm lặng, và ngưỡng phục.
- Hoài biết bản nhạc nầy chứ!
Nàng dối Thắng, giả vờ lắc đầu nhè nhẹ, để nghe anh nói:
- Đấy là bản nhạc Thu Quyến Rũ. Này nhé: Anh mong chờ Hoài thương. Ấy chết!
Thắng cười xinh xinh, anh ca tiếp: “Anh mong chờ mùa thu. Trời đất kia ngã mầu xanh xanh lơ. Đàn bướm kia đùa vui bên muôn hoa. Bên những bông hồng đẹp tươi. Anh mong chờ mùa thu... Hoài thương quyến rũ anh rồi”.
Khóe mắt Hoài khắc khoải ưu sầu lóe sáng tia chớp, từng phiến u hoài rụng rơi, tim bừng lên niềm vui thích dịu dàng. Bao tin yêu dấu ái ngày xưa sống dậy trong lòng nàng. Tiếng hát ấm ngọt, dịu vợi khuấy động tâm hồn Hoài lắng đọng, như con thiên nga huyên náo khuấy đảo tưng bừng mặt nước đang yên ắng. Hoài thán phục và rụt rè trước mặt chàng trai, bởi vì anh khả ái, lịch lãm, vui tươi. Lúc nào Thắng cũng lộ vẻ hân hoan, khiến anh thêm hồn nhiên dễ thương lắm.
- Cảm ơn anh đã gieo cho Hoài niềm tin.
- Hoài thiếu niềm tin từ buổi: anh thấy Hoài đứng tư lự bên góc nhà thờ kìa.
- Ồ! Hoài như vậy a!
- Bởi lẽ anh có tâm sự đau buồn gần như thế.
- Em thấy anh lạc quan, yêu đời quá mà.
- Ấy! "Cười là tiếng khóc khô không lệ. Người ta cười những lúc quá chua cay", Hoài biết đấy. Có câu danh ngôn: “Giữa quá khứ đã trốn tránh ta. Tương lai mà ta mù tịt. Chỉ có hiện tại gồm các bổn phận của ta”. Thế thì, bổn phận ta là vui vẻ, lạc quan, yêu đời, để tự vươn lên chứ em.
- Dạ phải.
- Hoài ngoan lắm. Nhớ hôm trước đi lễ, anh đứng gần Hoài ở cuối giáo đường. Em lo cầu nguyện, nên nào có biết anh nhìn em đăm đăm. Không ngờ em cùng đạo mí anh đấy.
- Anh tếu thật, "Tứ hải giai huynh đệ" mà.
- À há! Quả thực anh vô duyên bỏ xừ! Đừng buồn anh, cô bé nha.
- Ối dào. Hơi đâu buồn anh cho mệt.
Thắng nghe Hoài nói "hơi đâu buồn anh", thì đầu nàng nghiêng nghiêng, mái tóc dài rung rung, bờ môi lí lắc cong cong, mím mím, mỉm mỉm. Anh thấy dễ mích lòng, dễ hờn nhau, và dễ thương... ghê nơi. Thắng cười:
- Biết rồi. Chán ơi là chán.
Tiếng đàn xưa như rót về từng phiến u hoài, ngân vang trong lòng Hoài, khi ngọn lửa tình nồng nhiệt còn bí mật âm ỉ cháy; dĩ vãng xa xôi hiện ra như dòng sông phủ sương xám đục mờ nhòa, bao chua xót vỗ sóng âm thầm làm nhăn mặt nước.
- Xị mặt ra rồi hử. Cấm không buồn à nha.
- Dạ. Ông tướng ơi.
Thắng lặng người mất vài giây, anh thân ái nhìn Hoài mỉm nụ cười có lúm đồng tiền duyên ơi là duyên, chiếc răng khểnh tinh nghịch lú ra khỏi vành môi phớt hồng, như trêu ghẹo nàng. Anh móc đàn trên đinh treo, Thắng quay nhìn đám lá me bay bay ngoài khung cửa sổ hững hờ đáp nhẹ xuống bên bờ giếng. Anh chào chị em Hoài, Thắng lững thững đi về nhà.
* * *
Sau kỳ thi trúng tuyển và trở thành hoa hậu, thì Hoài rất hân hạnh được Đại-tá Lâm Văn Phát ký giấy mời Hoài vào làm việc tại Phòng 5, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 2, đặt trụ sở tại Sơn Trà, (cùng Sư-đoàn với Thắng). Trong Sư-đoàn nầy có Ban 1 là ban Quân số. Ban 2 là An-ninh. Ban 3 là Hành-quân. Ban 4 là Tiếp-vụ. Ban 5 là Tâm-lý-chiến. Thắng làm ở ban Quân-số. Vốn Thắng có quen biết nàng trước khi Hoài được thu nhận vào “đại gia đình huynh đệ chi binh”, do đó thân càng thân vì đôi khi hai người cần bổ sung công việc cho nhau.
- Ban 5 do Trung úy Phước làm Trưởng-phòng, quê quán anh Phước ở Huế, anh là một người hiền lành từ tâm và độ lượng. Anh đã có vợ và hai con trai.
- Thượng-sĩ Cương nói giọng Bắc làm Trưởng-ban văn nghệ, anh có vợ và có con trai gái năm đứa.
- Trung-sĩ Nhất Thái có vợ và một con, anh là Phó ban Văn-nghệ.
Trong ban văn nghệ còn có sáu nữ và mười Nam. Năm cô làm chung với Hoài là: Tuyết Ngọc Trúc nói giọng Bắc, cô ở trong Sài Gòn ra, Trúc mười chín tuổi. Lan Anh hai mươi ba tuổi, quê ở Tam Kỳ. Thu Hoa, Mai Hồng: hai mươi lăm tuổi, cùng quê ở Quảng Nam. Thu Hương ba mươi hai tuổi, có gia đình, quê chị ở Đà Nẵng. Hoài là em Út nhỏ nhít mười bảy tuổi của Sư Đoàn. Về kinh nghiệm, công việc, tài năng và tuổi đời, Hoài thua hẳn đàn anh, đàn chị. Hoài yêu màu tím. Thế nên từ áo dài, áo lạnh, khăn quàng, bít tất, giày, đều tím “tông xuyệt tông”. Khi lên sân khấu diễn kịch, ca hát, Hoài lại tô mí mắt màu tim tím, môi son phơn phớt màu tím hoa cà. Trông Hoài lãng mạn, đa tình, mơ màng, và buồn rười rượi. Mặc dù Hoài vẫn biết: “chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong bầu rượu qúy. Không đựng đầy trong đôi mắt giai nhân”.
Trúc rất có cảm tình với bé Hoài khờ khạo, (có chút kiến thức căn bản, ở nhà quê ra Tỉnh). Trúc thấy Hoài hiền như nai. Mọi công việc của Hoài đều do Trúc chỉ dẫn giúp nàng lúc ban đầu. Anh Thái là người tận tình hướng dẫn dặn dò Hoài:
- Em nên chọn Tuyết Ngọc làm bạn.
Ý kiến hay, Hoài cũng nghĩ có lẽ Trúc sẽ là người bạn tốt. Hoài kết thân với Trúc là một thiếu nữ xuân-thì, khá xinh đẹp, duyên dáng và tài hoa. Trúc là cháu họ xa xa xôi xôi của Đại Tá chi chi đó. Nàng đi làm có tài xế đưa đi đón về. Cuộc sống khá thoải mái về vật chất. Tuy về phương diện tinh thần thì Trúc có phần hạn hẹp. Muốn bảo vệ uy danh cậu, Trúc phải đi thưa về trình. Khi cậu đi hành quân vắng nhà, Trúc lại qua mặt mợ vù vù, vì mối đa tình, cuộc sống tình cảm khá sôi nổi, lăng nhăng của cô. Có phải Trúc là "nữ châm" không, mà cứ như cục nam châm hút trai trẻ hằng tá. Trúc hay nhờ Hoài đến cổng nhà ông Tá bấm chuông, gửi lính mang tờ giấy giả: "Giấy ở Phòng 5 mời đi họp khẩn", để Trúc có cơ hội xin phép mợ cho nàng vắng nhà xí. Sổ lồng rồi, Trúc tha hồ tung bay giữa bầu trời tự do, cô hẹn với bồ đi dạo phố, đi chơi, đi du hí thoải mái. Đôi lúc hai cô cậu xin ngồi nhờ ở nhà chị Thương, họ nói chuyện tâm tình suốt cả buổi. Nhờ thân thế cậu, và nhờ ưu điểm, Trúc tự đặt mình ở ngôi vị cao hơn anh chị em cùng phòng. Trong Ban 5 muốn chiều ý Trúc, có thể họ không “khẩu phục tâm phục”, không vì ý kiến ý cò của Trúc đúng. Chỉ vì họ muốn nịnh Trúc, họ phòng xa như thế́, để khỏi bị đổi đến các vùng địa đầu giới tuyến giữa lằn đạn mũi tên. Họ sợ việc làm của mình sẽ đến tai ông Tá, đôi khi cô thêm mắm dặm muối thì nguy to. Tuy nhiên, Trúc có tính tốt, bao che anh em không rảnh công đi mách chuyện đâu đâu, có hại cho đồng nghiệp. Phải nói rằng Trúc có nhiều ưu điểm nổi bật, làm mờ khuyết điểm, (mà cô gái đẹp thường có). Để kết thúc bức tranh Tố Nữ, Trời còn ban cho Trúc có giọng ca oanh vàng, làm say đắm biết bao người.
* * *
Một buổi tối kia, từ trong khu đồn trú đóng quân chằn chịt hầm hào hố bom lỗ chỗ, các cô gái rủ nhau xuống dưới chân đồi, ra cổng. Họ định đi xuống dưới làng ăn bún bò Huế tại quán bà Thi ở bên góc đầu cầu. Khi họ đến lưng chừng đồi (mà Hoài đặt tên là đồi T T2, có nghiã là “chị Trúc, anh Trọng”), trong mái nhà hầm đã chôn hai phần ba ngập xuống đất, một phần tường và mái nhô lên khỏi mặt đất, chung quanh khu bệnh xá nầy chất đầy bao cát, có từng dãy giao thông hào. Hoài thấy người ra kẻ vào vội vàng, coi có vẻ khẩn thiết và im lặng. Tò mò, các cô rủ nhau vào xem.
Dưới ánh đèn điện vàng vọt, tù mù hắt ra cửa: Một cảnh tượng bi thương hãi hùng đang phơi bày: Trong phòng có độ bảy cái ghế bố. Hai thương binh xài chung một ghế bố, người nằm xuôi kẻ nằm ngược. Họ rên xiết, quằn quại, co quắp, quắt queo với những vết thương lầy nhầy máu mủ. Có người tay chân quờ quạng, đôi mắt mở thao láo. Người băng chân kẻ băng tay, băng đầu, vân vân... Trong phòng đang toả mùi hôi thối nồng nặc do máu tanh máu khô tỏa ra, mùi creostote, alcoln, mùi cỏ ẩm, mùi thuốc súng khét lẹt, khiến khứu giác Hoài nghẹt thở. Quá vào trong tí nữa là hai bác sĩ quân y, và bốn năm y tá lo cấp cứu cho một thương binh bị đạn ghim vào ruột. Thân hình anh ta bê bết máu. Mắt lạc thần, mặt xanh lè. Anh ta đau đớn gào lên, nghe rùng rợn kinh khủng. Hoài thấy Huyền-Nữ, cô y tá Trung-sĩ (đã chính thức được áp triện son, con dấu có hàm ý phong cho cô là: “Ta đã vinh thăng, đừng có xớ rớ, đừng ì ra, đừng hòng lên mặt dạy đời. Ta không chịu nỗi”…), mà các anh quân nhân thân thương đã âu yếm gọi ngược Nữ là: “Trung tá y sĩ Nữ quân-y ui cưng”! Nữ thản nhiên cầm trên tay bàn chân đẫm máu (của một thương binh vừa bị cưa cụt), Nữ bọc cái chân ấy trong túi nilông. Cô ta liệng nó vào thùng đựng rác bằng sắt. Nghe kêu khô khan một tiếng..."đùng". Hoài lại rùng mình, cơn ớn lạnh từ đâu ập vào thân thể, chạy dọc theo sống lưng, vì sự đau đớn, rên xiết não nuột của thương binh, như tiếng hú từ Âm Ty đưa về, cho Hoài trọn ý niệm kinh hoàng tột đỉnh về cơn đau đớn cuả kiếp người. Đến lúc này, thì không thể nào chịu đựng nỗi cảnh khủng khiếp rùng rợn đó. Hoài ngất xỉu không còn biết ất giáp mình là ai, ai là mình nữa.
Trúc hoảng hốt la lớn. Bác sĩ Quân-y, y tá và mấy bạn vội chạy đến bên Hoài. Họ vực Hoài nằm ngay đơ lên một góc ghế bố, do một anh thương binh nhanh nhẹn nhổm dậy, để nhường chỗ cho nàng. Bác sĩ khám bệnh cho Hoài xong, ông ta mỉm cười đi rửa tay. Hoài đã thoát khỏi cơn đột biến, không còn lo ngại về sức khỏe. Hoài thực sự vào Đời khi tóc vừa chấm ngang lưng, khi đôi mắt xanh hớt hãi vương từng phiến u hoài. Hoài say mê đi tìm cuộc sống mới, dần dần đổi thay hoàn cảnh hiện tại. Hoài không muốn đầu hàng sự đau khổ. Lao khó. Muộn phiền. Nghèo đói. Tình yêu là ánh sáng hướng thiện, soi dọi đường trăng Tố Nữ trước mặt khỏi vấp ngã. Hoài sẽ đoạn tuyệt tất cả, sẵn sàng xây dựng viên gạch đầu tiên chân xác hơn. Mặc dù Hoài không yêu thích cảnh sống đa dạng nầy. Nhưng nàng đành chấp nhận. Cuộc sống cuộn chặt vào đời Hoài không chỉ chỉ vì miếng cơm manh áo, mà cần phải có tình yêu người.
Dù rằng: “cả đời anh ấy” chỉ trọng tiền. Còn tôi, cả đời tôi tôi vẫn và sẽ trọng Tình”. Sự thay đổi lối sống đa dạng trong cuộc đời chông gai và phức tạp nầy, có gì đâu! Đơn giản thôi! Chỉ cần có một động tác nhẹ nhõm, là uốn mình nhảy qua khe suối nhỏ. Giống như chú mèo uyển chuyển, nhẹ nhàng nhảy từ trên mái nhà xuống nền đất. Thế là Hoài đã rũ bỏ sau lưng tất cả mật ngọt, hương hoa tình yêu, và hủ mật... đắng. Đắng nghét của đời giông bão đang uốn lên uốn xuống... làm kiệt lực con người trong dòng sinh mệnh cuộc sống.
* * *
Đoàn 5 đóng tại Thị-xã Quảng Ngãi, rồi sẽ phân phối đi quanh mấy vùng lân cận như: Sa Huỳnh, Mộ Đức, Tân Thạnh. Tư Nghĩa. Lao xá Phú Châu thuộc liên khu V thời xưa, và về hướng Tây Quận Nghĩa Hành. Cuối cùng, đoàn 5 sẽ đóng ở cận sông Trà Khúc, không lên Minh Long. Các cô có bạn ở chốn giang đầu, tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng nha.
Buổi tối, tất cả anh chị em vào ngủ trong Tiểu-khu cho an toàn. Hội Trường chứa khoảng ngàn người, lính tráng ở đâu về tạm dừng chân qua đêm nay đông kinh khủng. Hội trường có đòn dong, cột, kèo, đều làm bằng nhiều cây sắt to, tương tự như loại nhà tiền chế của Mỹ, rộng lớn. Tứ bề không có cửa, chỉ phủ kín bằng những tấm bạt to thay tường. Nóc nhà lợp tấm “tăn”. Những đêm di hành thường ăn bờ ngủ bụi luôn luôn, may mắn lắm mới có chỗ ngã lưng tốt thế nầy. Thật qúy hiếm. Hoài, từ hồi còn nhỏ đã ngủ riêng quen rồi, nay nằm ngủ chung với bạn như vậy, nên nàng bị mất ngủ luôn. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, đã chiếm cái bàn rộng, họ dùng nơi nầy làm thành cái giường ngủ, coi thật thoải mái. Ba cô ấy mến thương nhau, giận hờn và xoi tì xoi tướng nhau một cách thân ái; như các chấp chính quan ở thời kỳ La Mã, hay trong triều đình vua Tự Đức vậy.
Giăng mùng xong, Trúc, Hoài, vừa chui vào một giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đỡ chật, thì điện cúp. Nhắm mắt mơ màng dĩ tưởng về dĩ vãng, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên, Hoài ngỡ là cô bạn nào tìm chỗ ngủ, nên nói:
- Hết chỗ rồi, bạn ơi!
Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ lên hai đầu gối nàng thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ cuả anh Thái, nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi. Nàng lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô, sần sùi chai cứng kia chộp lấy, cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần bên. Nghe rất dễ sợ. Hoài vùng mạnh tay ra, thất thanh hét tướng lên:
- Trời ơi! Ai làm cái gì đây?
Tiếng hét kêu to ấy thì bóng đen hất tấm bạt qua một bên, vụt chạy biến vào đêm tối mất dạng. Cả hội trường nhốn nháo vì tiếng la hét rít lên đột ngột, nghe mà rợn tóc gáy. Điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt lao nhao nổi lên. Mấy cô gái và Hoài, Trúc sợ quá, nhảy dựng tót lên nơi bàn Thu Hương đã chiếm, mấy bạn dồn nhau ngồi chung một chỗ không dám hó hé. Mặt Hoài, Trúc, tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng ban không nhịn được cười. Quả thật, hai cô sợ bị “bắt vô bưng”! Hình dung và tưởng tượng về bàn tay lạnh ngắt kia vẫn còn nguyên. Và, trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện quỷ. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hoài run rẩy sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu. Thế là suốt đêm Hoài mở mắt tháo láo trừng trừng nhìn vào bóng tối, mà run.
Sáng sớm hôm sau, đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Trúc, Hoài, gửi theo xe của anh tài xế Bốn mang cho Trọng, bạn trai cuả Trúc: Gói trà. Cà phê chồn. Đường cát. Hai cây thuốc lá Ruby Queen. Bịch khô nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi các anh chiến đấu ngoài sa trường, viết trong tờ thư xinh xinh, cô gửi đến những người anh ở chốn giang đầu chút tình người.
Ngày thứ Bảy, Trúc, Hoài đi làm xa, lúc chiều về trại họ nghe Lân nói:
- Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm hai em đó.
Ban đầu Trúc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết của Trúc, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục, chứ đâu có lè phè mặc đồ cevil? Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó đang giao tranh dữ dội. Làm gì có chuyện người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường Quảng Ngãi? Trúc chợt nhớ lạ lùng bài ca: Biệt Kinh Kỳ của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, họ có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa khuya sớm. Họ đi giữa hai lằn đạn trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Nghĩa Phú, Tà Noát, Ba Tơ, đã có lần Trọng đã hát cho Trúc nghe say sưa. Phải không hở Trọng? Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên, ngồi trên mình con tuấn mã, ruỗi dong ngàn dặm, để tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, quắc thước, tính tình cương trực cưỡi con xích thố, sử dụng cây thanh long đao tuyệt hảo. Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si, hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Anh Trọng ở ngàn chốn sơn khê, nơi cuối núi đầu ghềnh xa tít tắp. Tay anh luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng anh cõng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt có mắt kính lồi bằng nhựa đục.
Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi "pát phố", dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy mặt hoa da phấn. Môi thắm má hồng. Áo quần xum xoe. Họ xức nước hoa thơm ngát, đi bên lề lòng phố còn thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công lạc giữa đám gà vịt bát nháo. Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm với đồng áng ruộng vườn cằn cỗi. Chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Ở đâu ra có thì giờ nhởn nhơ tung tăng trên đường nhựa với quần là áo lụa. Dân quê chống cuốc ngẩn ngơ đứng nhìn. Cô thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, ngại ngần kéo vành nón lá sờn rách che nghiêng. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào. Chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh đang gay gắt diễn ra, chỉ cách đó vài mươi cây số là cao. Vậy thì các cô gái thị thành ỏng ẹo lượn lui lượn tới “dợt le, lấy le” ai đây? Sao mà lố bịch quá! Nên các cô vội vàng trở về con phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt cư dân thị thành. Khoan khoái thả bước thong dong trên phố, mấy cô cùng nhau ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần, vân vân...
Quảng Thành mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước. Các quán ăn, Snack bar, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động đã mọc lên như nấm. Các tiệm buôn, nhà hàng, quán bar đều tập trung vào các đường phố: Quang Trung. Lê Trung Đình. Phan Bội Châu... Người Mỹ vừa đưa những tên cố vấn đến trên quê hương nghèo nàn của chúng ta, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp nhất là ở các bar, luôn náo nhiệt tưng bừng trong các thành phố đông vui. Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng? Lòng phố xuất hiện những chàng lính Mỹ trắng, Mỹ đen lạ mắt, họ đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy, họ khá sợ Quân Cảnh Mỹ luôn lái xe jeep đi rà soát quanh vùng. Họ chấp hành luật pháp. Ít khi thấy Mỹ hung hăng bạo động ở thời điểm nầy. Nếu có, chẳng qua là... sự thật là có mấy nhúm choai choai dé dé ở nước mình, chuyên môn ra tay “sát phạt” trước vì… ghét họ “bọn da trắng da đen” đã đến vùng đất chúng ta thả tiền hậu hỉ, để xã láng ồn ào cua gái mà thôi.
Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, rứa mà tiếc chi tên cúng cơm của con, cha mẹ đặt tên cho các cô cái tên quá dị hợm khó nghe vậy hổng biết! Ở trong nhà hay ra ngoài ngỏ, mình đã dấu cái tên ”Bẹn”, tên “Gái”, tên “Ệp”... tên “Mu” như mèo dấu cứt, rứa mà mẹ cha vô tình cứ oang oang réo tên con quê mùa mục mịch! (ngoại trừ tên cuả Hoài là tên thật 100% à nha). Thật khó chịu xấu hổ hết biết mỗi khi có người nheo nhéo gọi. Mắc cỡ muốn độn thổ, nên các cô ấy khi đã ra trường đời thì qúy cô ... tự ý cãi lời bố tổ, ông cha “hủ lậu”. Thôi thì ta tự đặt cho mình những cái tên thật kêu, thật đẹp, thật mê ly, thật hách đầy hoa mỹ, du dương êm ái ngọt ngào như mật rót vào môi. Gọi lên ngày đêm nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ... đến rụng rời… đuôi con nòng nọc! Vì Đời Em Lá Bạc nên quyết chí phen nầy em phải đứng lên ...phải thành công:
Ngườt ta đi Lính, cứ hai năm:
Tuần tự thăng cấp được một lần.
Đơ dèm cùi bắp lên Hạ-sĩ.
Sĩ quan thăng tá tướng. Vân vân...
Ô! vậy thì... dù ta có khổ
Em cũng ráng lặn lội mò vô
trong Nam, tìm Không Quân Sài Gòn
Kiếm bằng được kim cương, hột xoàn...
Vui quá là vui chuyện thế trần.
Công hầu danh tướng, dẫu phù vân.
Dọc ngang trời biển Phi công nhân.
Dã Chiến. Bộ-binh. Thủy. Pháo. Dù.
Mộng hải hồ dọc ngang tứ xứ...
Riêng em đây trót lỡ anh thư.
Anh phong em lên chức "cô Ba".
Trong dạ nao nao mừng, hí hửng.
Trái tim nhảy nhót đập lung tung!
Ai ngờ... Quân Số Hai giáng chức.
Tụt một bậc em xuống: "Thím Tư"
Đời em lá bạc. Chán bỏ xừ.
Lon lá bây chừ đã nát nhừ.
Tưởng lên... Ai dè... tụt ngay xuống!
Quá rầu. Em đứng khóc dưới mương...
Quân Số không tim. Ai vấn vương!

* * *



(*) Thơ tiếu lâm: tìnhhoàihương
Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
nusinh  3coaotim.jpg
nusinh 3coaotim.jpg (100.93 KiB) Viewed 7564 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Muôn Điều Có Thật Bên Đồi TÀ BIÊN

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhất
Chương 4


Muôn Điều Có Thật Bên Đồi TÀ BIÊN





Bờ nầy và bờ kia, nhìn tưởng là gần; nhưng thật xa, xa mờ xa nghìn trùng dưới ánh sáng chênh chếch, bàng bạc, lạnh lẽo bao bọc bởi lớp sương mù, và lớp khói xám (do khói lửa chiến tranh) bốc cao ngùn ngụt ở góc trời không xa lắm đang lững lờ uốn éo bay bay. Dọc hai bờ quốc lộ hàng tre lớp lớp nghiêng bóng ẻo lả sà xuống soi mình trên mặt nước ven sông, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt, lá tre reo vui ca hát trong tinh sương nắng sớm lấp ló vừa lên, càng thúc giục lòng Hoài non nớt tuổi đời dạt dào niềm vui, nôn nóng, xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm. Dù có từng cơn rung chuyển chạy rần rần, động trời động đất, động suốt dòng sông quê hương, dưới bước chân người dân và lính chiến muộn phiền run run, đau đau, buốt buốt, tê tê, lạnh lạnh bên hai bờ thôn xóm quê mình.
Quảng Ngãi có mười Quận: Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn: Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng. Tỉnh lỵ Quảng Ngãi an ngự tại thị tứ Cẩm Thành, cũng là nơi có Tiểu khu Quảng Ngãi, cùng một phần của khu chỉ huy hành quân Sư Đoàn 2 trú đóng. Xe chạy từ dưới Tỉnh Quảng Ngãi lên hướng Huyện Minh Long. Bên phía phải, nhìn từ xa xa thì đồi Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ, úp lên mâm cỏ vàng to tướng, lưng đồi lổm chổm những mảng da đất khô, coi kinh dị như những cục máu bầm, nứt nẻ thành vết thương lồi lõm lở loét. Sau cơn mưa chiều hôm trước, thì con đường đất đỏ độc nhất ngoằn ngoèo càng sình lún, nổi bật trên lưng đồi quanh co là những chiếc xe nhà binh lắc lư mệt nhọc chậm rì bò theo vết xe cũ. Cũng đứng nhìn từ xa, thì con đường đất tạo thành một sợi gân khổng lồ, xù xì, gồ ghề, dày cộm nhô cao, chia ngọn đồi ra hai phần, ở giữa hai lằn xe là đường đất uốn lên uốn xuống, cạ quẹt rột rột rạo rạo nơi lườn xe, khiến bùn sền sệt văng tung tóe khi xe rồ máy (mọi sự di chuyển khó khăn thêm). Dưới chân ngọn đồi có nhiều bãi cỏ hôi um tùm bụi hoa mắc cỡ chằn chịt gai mọc lúp xúp. Chung quanh là công sự phòng thủ giao thông hào bố phòng cẩn mật, chu đáo: Hai cánh cửa cổng gỗ khá lớn, có sợi dây xích dài và to, móc từ bên trạm gác ở phía vào, giăng qua tít bên trạm gác ở phía ra. Sau sợi dây xích có thêm một vòng chắn, ấy là những con bọ ngựa gỗ. Nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn, lòng thòng dính những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại bao la, thỉnh thoảng khi gió lùa thì những chiếc lon kêu leng keng, kêu hoài. Tại cổng gác có hai anh lính đứng làm việc trong trạm, và hai anh khác bồng súng gác bên ngoài cổng. Trạm gác có hệ thống đường dây phone chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã chiến reo róc… roóc roo…óc… hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay trên máy truyền tin nhanh chóng kêu tít tít tít…., tè tè tè…ti ti… Bên trong doanh trại cũng có hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên bậc thang lắt lẻo, chênh vênh, cheo leo ở bốn mé sườn đồi.
Dọc theo bốn phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng ba bốn hecta, có rào kẽm gai chằn chịt, những giao thông hào cao lút đầu người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bằng bê tông chắn ghi sắt kiên cố dày và to. Chung quanh hầm chất thêm nhiều hàng bao cát, dường như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống đất sâu, chỉ nhô lên khỏi mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía. Bên mé phải là nơi đặt bộ chỉ huy hành quân. Từ xạ trường của bộ chỉ huy hành quân nhìn xuống là một vạt đồng trống, nên ta dễ nhìn thấy mọi thứ dưới tứ phía làng mạc. Trên ngọn đồi dựng đứng cao sừng sững, ấy là một vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và điều quân; thì không thể nào chê. Ngoài ra, có kho đạn và bãi đậu cho các phi cơ tốc hành hạng nhẹ, hầu cung ứng cho nhu cầu hoạt động các ngành ở bộ chỉ huy hành quân. Một máy phát điện khổng lồ hoạt động thường xuyên, tiếng máy phát điện ầm ỉ suốt ngày đêm. Bên mé trái ngọn đồi là bệnh viện dã chiến nằm lún vào lòng đất, cửa ra vào ở lưng chừng đồi. Gần bộ tổng hành dinh có một giàn trọng pháo, nơi đây các binh sĩ Pháo-binh làm việc quần quật không ngừng nghỉ. Họ luôn tay điều chỉnh tác xạ theo nhu cầu chiến trường: nâng nòng súng lên, khi thì điều chỉnh phương giác cho đạn đạo.
Lúc năm giờ sáng, đoàn xe của Phòng 5 gồm hai chiếc xe GMC chất đầy dụng cụ ván gỗ kèo cột loại nặng, giàn trống, các loại đàn, màn, sân khấu, vân vân... để làm một sân khấu lộ thiên khá lớn. Đoàn 5 còn có một chiếc xe jeep; tất cả ba xe đang tiến tới đồi Tà Biên. Con đường nhỏ độc nhất chạy một chiều lên doanh trại chỉ huy, tấp nập đủ thứ loại xe nhà binh chạy lên, chạy xuống ì ầm. Đường gò đất đỏ do cơn mưa mấy hôm trước, cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống nhiều vũng sình lầy, trông như con lươn đất uốn lượn nhô lên cao, con đường nầy giống đúc như con đường cái mà nhóm xe hàng chở hành khách lẫn xe lính vừa đi qua ở Quảng Ngãi dẫn tới thôn làng. Đoàn xe đậu gần vạt đất trống, để chờ xin lệnh từ Bộ Tổng-Chỉ-Huy Hành-quân, khi nào ban điều-hành khu hành quân của Sư Đoàn 2 cho phép, thì xe mới chở quân nhân vào doanh trại. Các cô gái ưa đùa dai, gọi giỡn là khu “phi phe” quân sự của Sư-đoàn 2 chiến thuật. (“phi phe quân sự” nầy, không phải là miệt vùng DMZ= de-militarized-zone, nằm ở phía Bắc của Tỉnh Quảng Trị, dọc theo bờ Nam Bến Hải, mà Gio Linh là một quận lỵ đâu). Sau khi hai anh lính gác tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc xe đậu bên lề đường, (trong đó có đoàn xe của Phòng 5, gồm ba chiếc) thì đoàn xe được phép vào vùng cấm địa khá rộng.
Đoàn xe đang tiến vào khu tổng chỉ huy hành quân, cùng lúc ấy muôn điều có thật khi những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo mùi mỡ khét, thịt cháy bốc lên hừng hực từ đám khói đen nghịt xa xa, ùa theo gió ào ạt bay về. Đại bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, súng giận dữ gào thét ùm ùm… Uỳnh… uỵch… Oằng! trút cả khối hung tàn đến khu rừng già tận phía chân trời xa. Nhiều loại súng ì oành ì ầm, pằng… pằng… pằng… rít rít… xiu xít… cắc bụp... gay gắt vang trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn hầm chắn ghi sắt. Cửa hầm phủ bạc, thỉnh thoảng tủ sắt giật rung kêu ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, cả khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép của tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang. Có lẽ do bắn trực xạ dữ dội và gần lắm, khu đồi sôi ục ục, rung rinh, nghe thật ớn lạnh. Tiếng súng cối thị uy của phe ta bắn vào ngọn núi Ô Chai xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất từng hồi trầm thống gầm rú rền rền, như những nhịp sấm dồn. Phía chân trời, các đụn khói đen sì, cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng tỏa rộng ra. Đụn khói quyện lửa và khói đen giống một cây lọng che khổng lồ, đùn đùn khói đen xám, lửa vàng đỏ nối tiếp nhau vọt lên lưng trời, đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt lại xoắn xuýt quấn lẫn vào nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới bình minh xiên xiên, mờ mờ sương lam muối vùng núi, rồi phủ chụp xuống ngọn đồi trọc hoang tàn. Tiếng súng quân ta và địch quân lẫn lộn vẫn nổ rang, ầm ầm, rúng động cả bầu trời. Tất cả các loại đạn: nổ chụp, nổ tạt, delay thay phiên nhau cày xới đất, xé tan nát những gì nằm trong tầm sát hại.
Chiếc bà già xập xệ, ì ạch bay giữa cơn lốc cuốn cao. Trúc lo sợ nó bị hút xuống vùng trôn ốc, không qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng lông lốc quá! Nhưng chiếc phi cơ vẫn bình an vô sự tiếp tục làm nhiệm vụ. Để quan sát cho thật rõ, viên hoa tiêu lượn quanh vùng, máy bay nghiêng ngả trên bầu trời, vòng bay khi hẹp khi rộng, trông thật bay bướm lả lướt ngoạn mục quá chừng! Từ trời cao, khu trục cơ Skyraider bay hợp đoàn bốn chiếc gầm thét chúi mũi vào mục tiêu, động cơ rít trong gió, mỗi chiếc đều mang từ 6 trái bom trở lên. Những vật đen nho nhỏ rời cánh phi cơ lao vào lòng đất. Quả bom được ném xuống mé núi hướng Tây Bắc… Ầm ầm… Ùm ùm... Bùm bùm… Vạn vật bị cày tung cào xới, xé toang hoang rồi cuồng bạo vất mọi thứ bay ngược lên cao, khi đã hết đà, lại rơi lả tả hay lăn lông lốc trên mặt đất. Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi năm 1962. Lửa cuồn cuộn tới gần bốc lên theo sau đuôi cũng là lúc phi cơ ngẩng đầu cất vút lên cao. Anh phi công tài hoa dễ thương nào đó (có thể là của Trúc, hi hi hi…) bay lượn vài vòng quanh vị trí quân bạn, phi cơ nghiêng cánh chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, rồi anh rời vùng hành quân, bay vút đi mất dạng vào vừng mây trắng xa xa.
Từ ngoài bản doanh có một xe cứu thương hú còi inh ỏi xả hết tốc độ lao và khu bệnh xá, mang theo người ngoài ấp lạc đạn bị trọng thương. Nhân viên cấp cứu cùng nhau đổ ra quanh xe cứu thương, họ đưa gấp các bệnh nhân vào nằm trên chiếc băng ca. Y sĩ, y tá đang cúi đầu xem xét các vết thương và chăm sóc cho họ. Cánh tay, bàn chân của một ông ngồi bên mé cửa tím bầm, sưng húp, lở loét, nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy. Trúc vội chạy tới một hầm lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng để nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình nghi vừa tóm được) ban đêm phòng Nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Vài xác chết chưa biết là ai, (Nghĩa- quân, Dân-vệ hay thường dân, hoặc “vi ci” chẳng rõ!?), sình thối căng phồng, (do Đoàn 5 vừa đi nhặt về). Anh Vị để họ nằm trong poncho, (bên trên mé hầm của khu bệnh xá, xác chết chưa kịp chôn, thúi hoắt). Giờ phút thập tử nhất sinh nầy hơi sức đâu ai có thì giờ mà đi bới móc lý lịch cá nhân? Họ lo quắn đít chữa trị mọi người đừng hộc máu tươi ra thêm mà thôi. Một tên mặt mày xanh méc, (do mất máu), run run lúi húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi loang lỗ máu tươi. Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm, tiều tụy dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa, may thô thiển vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, một chân mang dép râu, một chân đất. Hai cánh tay hắn nổi ốc trâu xù xì, dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí tuổi đời mới độ mười sáu, lớp ghéc đất bẩn thấm mồ hôi vo viên đen đen nhỏ xí vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn. Khiến Trúc cảm thấy phiền phiền, ngây ngây, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam miền Nam, trong lòng Trúc nẩy nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy bàng hoàng lo sợ. Nàng muốn đánh bài chuồn. Không dám chạm trán với các bác. Gặp bác kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa, éo le, tàn phai, nát đời. Chứ không được hay ho, tuyệt vời như “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước mô nà.
Đôi ba ngày sau, cuộc phóng pháo ngưng bặt, trả sự yên tĩnh đôi chút trên bình nguyên còn thao thức. Hoài nghĩ: Lính Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân, Dân Vệ là những tay súng âm thầm mà chính xác, kiên cố giữ lũy thành chắc chắn. Vì, họ thông thạo từng bờ cây bụi cỏ, biết tường tận từng xóm, từng thôn, từng người, ít khi lầm lẫn. Lại có thêm hầm hào kiên cố, cộng với trường lũy Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) thì thành công. Nó kiểm soát giữ gìn non sông gấm vóc do ông cha truyền lại từ ngàn xưa, khỏi cảnh "Người xâm lăng Ta" trên chính quê hương chung. Họ cùng chia sẻ đau khổ trong niềm đớn đau thiết thực, qua vết thương hoác miệng trầm thống cảnh nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn, cảnh Người lừa gạt Người. Người bội phản Người. Người thù hận Người. Và, người phản bội quy ước: đã tràn vô Nam thao túng xâm lăng, thẳng tay chém giết, sát hại người thân như điên. Người bị chiến tranh hành hạ cưỡng bức tan hoang trên chính đất quê ta! Từ vòng đai kiên cố nầy là động cơ thúc đẩy người khác giật dây, rù quến, hò la kêu gào nhau đứng lên phản đối chính phủ: đã hạn chế quyền tự do đi lại, bị kiểm soát giấy tờ tùy thân chặt chẽ, bị kiểm soát từng Thôn, Ấp, mất tự do vì hàng rào Ấp Chiến Lược. Vâng. Tuy có mất thì giờ thật, nhưng xôi đậu không lẫn lộn, an toàn, bảo đảm an ninh và giữ gìn sinh mạng muôn người. Ta tưởng cần nên có vòng đai Ấp Chiến Lược nầy lắm thay!
* * *
Bây giờ Hoài biết tin đích xác, anh trưởng phòng Phước thừa lệnh Đại Tá Lâm Văn Phát ra chỉ thị mới:
- Tất cả anh em Phòng 5 trực tiến, không thể lùi, phụ giúp bên quân-y, khiêng người bị thương, nhặt xác chết phe ta, lẫn địch quân, cấp tốc chở về hậu cứ.
Trời ơi! Nghe tin đó, Hoài đứng xớ rớ đằng sau lưng anh Vũ. Nàng sợ đến bải hoải chân tay, căng thẳng trí óc. Hoài thút thít khóc, rụng rời lệ giọt dài giọt ngắn, hai chân lết lết lê lê rã rời đi từng bước trên đường đến điểm làm việc. Mấy anh chị tưởng cô em xúc động ngậm ngùi trước cảnh thương tâm, đã trào nước mắt. Chứ họ có ngờ đâu con bé chết nhát nầy, chả ra cái thể thống gì! Anh Sáu Dương bị thương khá nặng, mà vẫn ăn nói đàng hoàng, tỉnh táo anh nhếch mép, ngóng cổ lên nhìn vết thương trên bụng, trên đùi, anh nhìn ngó lung tung, như không có việc gì quan trọng, trước khi anh bất thần "rệu" xuống. Hoài sợ e anh ta sẽ “đi đon” luôn quá. Cuối góc phòng vài xác chết to phình, căng cứng như con vật kỳ lạ, mắt đứng tròng mở thao láo. Bụng căng phồng như chiếc bong bóng da heo. (Ngày xưa, mỗi khi làm thịt heo, ba thường lấy bóng da heo bơm đầy hơi, cột kỹ phơi ngoài nắng cho anh em Hoài làm trái bóng đá nhăn nhúm chơi đùa).
Còn Trúc thì... dám đến cúi sát xuống một anh, nàng lật khăn che mặt, tò mò xem từng người chết. Có người nhìn rất kinh dị. Có người như đang nằm ngủ yên, tay xuôi theo thân hình thẳng cứng hay co quắp. Có người giống thân cây chuối bị đốn ngã, róc hết lá vẫn nặng kinh khủng. Những bàn tay tài hoa, khí phách nam nhi, bản lĩnh và dũng mãnh ấy không rõ dấu chỉ tận cùng bằng số ở đâu? Trúc cả gan dám đến bên một anh lính khác, nàng vén tóc xem trái tai anh ta lớn hay nhỏ, yểu mệnh tới đâu. Trúc lại đi xuống cuối phòng cầm bàn tay đối phương kia lên, nắn nắn bóp bóp, lật qua lật lại. Cô coi đường chỉ thọ của họ ghi đến chỗ nào.
Hoài sợ kinh khủng, không dám nắm bàn tay Trúc cả tuần. Những buổi cơm, nhìn miếng thịt heo, thịt bò, nhất là thịt ếch, con ếch khi ai làm thịt, thì nó luôn chắp hai tay trước lại, mà van lạy xin tha mạng, nó lỏ hai con mắt trợn trừng tráo trưng, khi lóc hết da con ếch trông sao mà giống... con người! Thịt ếch bơi bơi trong tô canh chua lá giang. Hoài nghĩ đến con ếch chắp đôi tay, mắt thao láo trợn trừng, nghĩ đến vết thương lở loét, đỏ tím, hoác miệng trên bụng người chết. Tự dưng cồn ngực vun tròn nhấp nhô phập phồng theo nhịp thở, Hoài chạy xộc tới cuối vườn, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Nàng sợ mâm cơm hơn bất cứ thấy gì. Nỗi u ám đã chín đen như cơn giông sét đánh toé lửa, phủ chụp xuống đời nàng. Tưởng chừng một nửa thân Hoài đã móc nối sít-sao, ăn khớp với xác người xa lạ. Như nửa phần thân thể người chết trĩu nặng luôn dùng dằng trì kéo bám túm lấy nàng. Hoài không dám cựa quậy nhúc nhích nỗi. Lòng cô em rớt xuống trũng ưu phiền, hố thẳm tăm tối mù mịt phủ đầy lá non, giống nõn trà hong phơi dưới lửa bỗng tàn úa quá nhanh, khiến mình thêm rũ liệt.
Khi Cộng-quân phóng pháo, độ rung kéo dài từng chuỗi rúng động, đảo điên cuồng sát. Thân hình của anh Nguyễn Văn Ba thi sĩ, lính Bộ Binh Sư Đoàn 2 bị hất tung lên cao, thân anh xé ra từng mãnh nhỏ, xương thịt rơi phịch xuống đất, như bịch gạo tung tóe vãi ra. Anh Ba chết thảm trước ngưỡng đời vừa độ bừng chớm tuổi hai mươi. Anh chưa vợ chẳng con, chưa một lần hò hẹn, chưa nếm mùi chiến đấu giao tranh, thổn thức với đời, thế mà như một linh cảm vô cùng điếng lặng đau đớn xót xa, anh đã nhắn nhủ với bạn qua lời di chúc bất ngờ có thật trong bài thơ: Không Đưa Ra Biển Khi Tôi Chết
Xin đừng đem ra biển khi tôi chết.
Đưa về Phù Cát Bồng Sơn Cửa Việt.
Đồng Đế Hải Lăng Kom Tum Tà Biên.
Gần bên mồ năm xưa người lính chiến.
* Tôi không ra đại dương khi miên viễn.
Xin về An Khê Hồng Ngự Giồng Riềng
Trong vừng mây “Phi-vụ” vút ngang trời.
Bạn bè “Thiết Giáp” Phước Long ngóng đợi.
* Xin đừng đem ra biển khi tôi chết.
“Biệt Động” quân hành từng đêm gào thét.
Đưa tôi về “Hải-thuyền” xưa đánh giặc.
Sương khuya biển lạnh Sa Huỳnh Phù Cát.
* Đừng đưa ra biển lúc đời tôi thác.
Đồng Xoài Bình Giã tình lính Đà Lạt.
Trà My “Pháo-Thủ” vút trời Cầu Ngang.
“Công Binh Kiến Tạo” Plei-me Sóc Trăng.
*Khi tôi chết không ra biển... Xin nhắn:
Tìm về Lộc Ninh anh hùng Núi Nhạn.
Vĩnh Long Đắc Nông “Quân Cụ” Hậu Giang.
Xin vô Phù Mỹ Đông Hà Phan Rang.
* Đã chết, không đưa ra biển bàng hoàng!
Bạn bè Đắc Tô dũng khí Chứa Chan.
Về Huế “Dã Chiến” An Lộc Trãng Bàng.
Kiên Giang Đắc Lắc Gia Lai chiến trường...
*Tôi chết không ưa ra biển! Xin dừng...
Cao Nguyên dưới trướng “Quân Y” Định Tường.
Sông Cầu gào thét: “Thủy Quân Lục Chiến”.
Thừa Thiên Đồng Đế đầm bùn Minh Long.
*Khi tôi chết không ra biển. Ước mong...
Tình lính ”Nghĩa Quân” Tây Ninh Gò Công.
Linh cửu ghé về Bình Định Lâm Đồng.
Cần Đước An Khê chiến trường sôi động.
Tôi chết rồi không ra biển... rất mừng!
Đồng Tháp “Quân Dân” thắm thiết Bình Dương.
Cho tôi nằm ôm gọn đất quê hương.
Tôi ở trong mồ phù trợ an khương... (*)

Hằng ngày, cả nhóm tâm lý chiến đi ủy lạo săn sóc đồng bào và chiến sĩ. Anh chị em hướng dẫn trẻ em đồng bào cách giữ gìn vệ sinh, phòng tránh bệnh truyền nhiễm, phân phát thuốc men, nhu yếu phẩm, quần áo chiếu chăn, phụ giúp đồng bào thu dọn nhà cửa, vườn tượt tan hoang hư nát. Phúng viếng tang gia bối rối. Họ chu đáo lo việc ma chay tươm tất đàng hoàng cho đồng bào. Trước cảnh đau thương tàn khốc, dù các cô có đi quyên gom hết tất cả tiền tài, và lòng trắc ẩn của mọi người trên quê hương. Hầu mong bù đắp lại muôn điều đau đớn, mất mác to lớn ở một góc quê nầy. Tưởng vẫn không sao lấp đầy. Không thể nào xoa dịu nỗi khổ đau khốn cùng bi đát đầy cay đắng trong lòng họ. Không hiểu sao bài lịch sử Hoài đã học: Từ trận quyết chiến quyết thắng của Đức Trần Hưng Đạo. Cho đến vụ nước Nhật bị trái bom nguyên tử đầu tiên ném xuống thành phố Hiroshima ngày 06.8.1945, tiêu diệt 66 ngàn người. Rồi trái bom thứ hai thả xuống Nagasaki 09.08.1945 đầy kinh dị, người chết la liệt trên đất Nhật. Tất cả bừng nhớ trong tâm trí Hoài. Cảnh kinh thiên động điạ có thật đã xảy ra từng ngày rùng rợn ấy. Nỗi thống hận, dã man, quằn quại đau đớn, đói khát, bệnh tật. Lương dân rên siết, mù lòa, cùng khổ, không có tương lai. Kẻ xâm lăng quê mình lạnh lùng thẳng tay cuồng nộ giết hại người thân. Người dân vô tội bị làm mồi cho cường quyền đầy tham vọng thống trị. Dân đen muôn đời thiệt thòi đau đớn với hai bàn tay trắng, bị cào xé trần truồng tan hoang. Chiến tranh nguyên tử cuồng nộ hung hăng húc vào muôn dân bên xứ anh đào Phù Tang kia. Và… kẻ về đây tạo ra thảm cảnh chiến tranh Việt Nam từ năm 1960, so ra... chưa thua đau khổ Tokyo-Việt Nam là mấy! Nỗi đau khổ của con người trong cảnh chiến tranh đang tràn đầy trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Tin tức nóng bỏng từ truyền thanh, báo chí mỗi ngày một nhiều. Cuộc chiến dần dần mở rộng như vết dầu loang, như vòi con bạch tuộc. Từ các nẽo miền quê xa xôi loang nhanh đến ven biên thị thành, đè nặng lên đầu người. Đến nỗi Hoài không dám ngẩng mặt nhìn lên, chỉ thập thò lấp ló dúm dó co ro nép bên vách hầm, hào chắn bao cát, mở to mắt nhìn dáo dác ra ngoài lỗ châu mai. Nàng không khỏi kinh ngạc, khi thấy mặt trời vẫn ưu ái đan chiếc cầu vồng bảy sắc lung linh, vui tươi hào phóng rót nắng vàng rực rỡ, từ thinh không nắng êm ả chan hoà lên vạn vật, ve vuốt từng phiến lá ru tình đong đưa. Chim chóc lí lí lắc lắc nhảy nhót, ríu rít hót líu lo, hoà ái trữ tình, lảnh lót lơi lả trao duyên.
Chao ôi! Cảnh quê hương cẩm tú chìm trong chiến tranh nầy, chính là mảnh đời buồn bã, trong cuộc sống muôn điều có thật. Dù cho Thu Hoa, Lan Anh, Mai Hồng, Tuyết Ngọc Trúc đã xức nước hoa hiệu Charlie, Tabu, hay loại thượng hảo hạng J’adore; vẫn không khỏi ngửi mùi tử khí tanh nồng chát khét quanh quất đâu đây. Cuộc đời thật chẳng có nghĩa lý gì trước ngày chân không dài vô tận; khi con người ngơ ngáo bàng hoàng ra đi vào vùng tử biệt, súng đạn vút bay trong đêm, tạo thành một đường sáng loáng vút tới vút lui. Khói lửa chiến tranh còn ở lại: thì đói khát bệnh tật, chết chóc, tan nát, đớn đau mãi cào xé, dày vò tận cùng tơ rung xương tủy huyết mạch con người.
(*) Thơ Quê Hương * tìnhhoàihương

_ * * * _



tìnhhoàihương
Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
a.linh 52 vac thg binh dong doi.jpg
a.linh 52 vac thg binh dong doi.jpg (97.76 KiB) Viewed 7561 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Sức Nặng Kinh Khủng Của....

Post by tinhhoaihuong »

Last edited by tinhhoaihuong on Tue Aug 16, 2011 6:28 pm, edited 2 times in total.

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Dòng Sông Rực Nét Tình Xưa

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhì
Chương 6


Dòng Sông Rực Nét Tình Xưa





Hoài nhớ những chiều năm cũ dọc theo bờ suối, nhớ tình yêu vô cớ tàn phai phi lý. Từ cánh bướm chập chờn do dự dẫn Hoài về bao ngày hái hoa, bắt bướm, ép khô trong trang sách học trò nơi ngôi nhà xưa. Nàng thấy từng người thân trong gia đình qua mỗi đoá hoa pensée, violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng tím hồng, hoa ngâu, hoa sứ, tường vi, mãn đình hồng, sen địa v.v... hoa bằng lăng màu tím luyến thương rộ nở bên góc hè nhà ai. Cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoài quay trở lại thuở nhỏ cùng ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối. Hoài ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long, xuôi về Bao Vinh, dẫn Hoài theo dòng lưu thủy, tan vào cuối nguồn. Nước từ dòng sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang, đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà, ưu ái hòa thông ngoài biển rộng bao la. Nước yêu thương luân lưu đến đầu non Minh Long, Tà Noát; có thể nhập hội trùng dương lắm!? Rồi cánh bướm hôm nay vụt bay đi, không buồn quay lại bên đoá bằng lăng tim tím yêu kiều, để Hoài ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình xót xa trong ca bin xe GMC. Hoài nghĩ đến tình quê. Nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ. Xóm, làng nầy gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng trong chiến tranh đau thương chưa biết có kết thúc hay không nữa!
Hoài nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc nhấp nhô cánh lục bình, có lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm thẳng lên trời. Nhà nào cũng có bụi chuối mương tre, gốc cam cây ổi chen chân với cây cau dây trầu óng ả, quyến luyến tình thân. Trên cây cau, dây trầu, có năm ba chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình tán tỉnh cô nàng ve mái dễ thương. "Chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh, đỏ rực màu lửa với "cô nàng" ưa làm le, làm dóc, làm bộ ra cái điều cô ả ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp nhất, cứ ra rả: "Em... ve ve ve! Em... ve ve ve”... trên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng rơi rào rào trước sức gió nghiêng ngã, dồn dập xô về.
Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế không biết bao lâu, thì từ phía sau hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm đã tịch thu. Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, Hoa vui vẻ nói:
- Em xin giới thiệu: đây là Hoài. Cô gái vừa rồi đã ngâm bài thơ “Tình Nhớ Tha Phương”, mà anh Đan hỏi: "Ai rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hoài.
Hoài chào hai chàng trai, họ mặc áo trận bạc màu nắng gió khói sương. Bộ quần áo lính bạc phếch thời gian đầy bụi đỏ và Đan đứng chống tay ngang hông, trầm ngâm hút thuốc lá. Vầng trán Đan cao rộng biểu lộ con người thông minh. Dáng anh hiên ngang oai dũng dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước. Đôi mắt Đan khá đẹp ẩn dưới hàng mi dài dày cong vút, anh nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý, rồi nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, nhìn hoa bạch đàn nở vàng cây phía trước. Thấy ngón tay tháp bút vàng khói thuốc nơi hai ngón tay, và không đeo nhẫn của Đan, Hoài chợt thấy lòng nao nao, trào dâng niềm vui vui lâng lâng đầm ấm khó tả. Họ không mang phù hiệu, cấp bậc, huy hiệu. Ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch. Khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường trên bờ chiến tuyến, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa. Họ đang hiên ngang đánh chiếm, giành lại, gìn giữ lại từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa, dân cư, lính quí từng mãnh đất thân yêu trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Quân nhân miền Nam Cộng Hòa Việt Nam anh dũng và lẫy lừng qua chứng tích đã đạt được, với những trận không tập có cường độ oanh tạc tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, kèm với chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị. Không cần huân chương, mề đay, họ đã tặng lại cho Thu Hoa, cô ta sẽ đem về nộp những thứ đó làm thành chiến công riêng mình. Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay ra đón bắt. Sau đó Văn quay qua vỗ vỗ vào vai bạn thân, trêu đùa:
- Thế nào? Anh bắt tôi cùng lội qua sông Nghĩa Phú cho bằng được, để anh... có dịp làm quen, nói chuyện với người em cùng quê hương. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi... sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh?
Đan ngẩng nhìn Hoài qua hàng mi cong che nửa giếng mắt u buồn. Nét mặt anh trông nghiêng như khắc trên tấm phù điêu, đầy vẻ kiên cường, bất khuất. Môi Đan thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo mắt hữu tình anh nhìn nhìn Hoài trìu mến. Phút định mệnh thật tình cờ đọng lại qua nụ cười Đan sao mà nhã nhặn quá đỗi:
- Ấy... đứng trước giai nhân thì bao nhiêu dự tính đều tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông rồi, tôi mới biết là sông sâu, nước lạnh. Khó dò.
Bỏ thói độc hành để song hành cùng người mới gặp, Hoài nhìn Đan nhẹ nhàng mỉm cười:
- Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, thì anh đã vượt thắng sông núi kia rồi. Vì, dưới đôi ống quần còn ướt sũng nước đó. Anh đạt vài ý nguyện. Bằng cách là Hoài đang đối diện, đối thoại với anh nè.
Văn ngửa người ra cười ha hả, vỗ bôm bốp vào vai bạn mấy cái:
- Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
Thu Hoa reo lên như tiếng chim. Cô nói:
- Hoài là cô bé cưng dễ thương nè! Nhưng thương không dễ à nha. Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoài còn cô-đơn nhất à nha.
- Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
- Ê! Bồ tèo. Trưa nay tui cho bồ nhịn đói à.
Văn khoát tay lia liạ:
- Đừng lo Hoài. Anh hân hạnh mời em qua doanh trại anh dùng cơm. Kể từ hôm nay nghe.
Thu Hoa chúm đôi môi, nguây nguẩy giây lát, rồi nói:
- Hai anh không mời em há?
- Dĩ nhiên anh muốn mời cả em nữa chứ. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, ngẩn ngơ vì... cảm động nè.
Màn đấu hót tay đôi giữa Văn và Hoa nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
- Ở Huế, em ở đường nào vậy?
- Dạ, nay thì ba má em về ở Mỹ Chánh. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm nhỉ?
- Rồi... quen thôi em. Lâu nay em có về Huế không?
- Dạ không anh à. Em ở Đà Nẵng.
- Anh biết rồi.
Ngạc nhiên, Hoài tròn xoe đôi mắt nhìn Đan:
- Anh biết... Hoài?
- Có gì đâu. Ngày đầu tiên anh thấy em leo lên đỉnh Núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh để ý dò hỏi, thì biết em là cô bé cùng quê. Là cánh hoa rừng biết nói. Một sơn ca. Càng không ngờ em là một hoa hậu dễ bị ngất xĩu nhiều lần, vì... bệnh tim thời đại. Ha ha ha!
Thoáng mắt bất ngờ giao nhanh, họ cùng cười hồn nhiên. Hoài:
- Hẳn anh nhớ lắm người em áo trắng xa xưa, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón lá có tơ vàng óng ánh, xinh lịch, rồi há?
- Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây, anh chỉ là người lính độc hành, lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
- Sao vậy anh?
- Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý, thấu hiểu, khoan dung, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; tuy nhiên muốn tìm người bạn đường, phù hợp đã khó. Anh muốn tìm một người bạn đời, càng khó hơn. Em ạ!
- À... ra thế.
Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh bay cao vút trên trời. Bỗng ùm! ùm! ùm!!! Pháo binh nã đạn về cuối ghềnh. Nghe từ xa, giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm nổ rầm rầm. Hoặc như trận mưa giông sấm sét rất lớn. Hay như người ta giật mìn lấy đá trong hầm núi. Mấy chiếc máy bay vụt qua trên không trung, giây lát sau có những tiếng nổ lớn, làm rung chuyển cả bầu trời, làm nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, cây bạch đàn phía trước cành cây đã gãy lìa. Hai người lính điềm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen và mỉm cười, họ tiếp tục chuyện trò thân mật. Họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ. Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy là chia tay. Đoàn xe của Hoài vội vã lên đường trở về ngọn đồi “T T 2”. Đan cùng bạn lại lội qua sông rộng nước sâu, họ về với doanh trại cuối làng mạc quạnh hiu ở chân núi đầu đèo hoang dã.
* * *
Đan sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn, được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương của gia đình. Đan đã đi Pháp từ lúc anh tròn mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều trở về Việt Nam hai lần thăm quê nhà vào dịp nghỉ hè, Tết. Sống ở xứ người từ thuở nhỏ qua nền giáo dục phương Tây, đã dạy cho anh hấp thụ tính sòng phẳng, công bằng, tổ chức đời sống có khoa học, và anh biết phép lịch sự nhã nhặn đối nhân xử thế tuyệt vời. Mặc dù sống trên xứ người văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc. Nhưng Đan vẫn nhớ thương gia đình. Nhất là Đan thương nhớ me của anh, và hoài hương xiết bao! Đan thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà mình rất thương con cháu, nhưng họ không quá chiều chuộng con cháu ưa lì lợm vòi vĩnh nầy nọ hay nhõng nhẽo. Họ không buông thả cho chúng tự do theo ý chúng muốn quá trớn, trẻ con muốn “hành” người lớn quá đáng như lũ con bên Tây. Con cháu ở Việt Nam kính trọng, nể sợ, thương yêu ông cha chúng một phép. Chứ có trân trân tráo tráo, láu cá và còn choai choai dé dé non dại mà eo xèo “đòi hỏi” tự do quá mức, như đám Tây con đâu. Cha mẹ lại sợ con “xu ; xù” không dám hó hé!
Ở tại viễn xứ xa lắc xa lơ nầy, Đan có một mối tình say đắm với người con gái dễ thương sao đâu… Nàng đã đem lại ngọn lửa tình vút lên từ đôi tay của Đan kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin. Anh quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine vào một chiều bất ngờ ấy khi trời mưa tầm tả. Sau đó hai người thường hò hẹn nhau đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Từ nơi quê hương của nàng, anh nhớ da diết và yêu đôi mắt xanh lam, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến thuở nào. Thân hình nàng rất hấp dẫn, quyến rũ, đã khắc sâu vào đời Đan những vết dao đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến và nhớ nhung vô vàn. Tình yêu đối với nàng là một tình cảm vô cùng đặc biệt; cho dù người anh yêu khác chủng tộc, màu da, tiếng nói, nàng chưa toàn vẹn hiểu Đan sâu sắc, hay nàng hồi đáp lại Đan điều gì khao khát từ trong tư tưởng như anh vẫn mong đợi. Nhưng với Đan hay với nàng thì mối tình ấy khá hồn nhiên gắn bó, chân thật, trao nhau hết tình. Bên nàng vui vẻ và khả ái anh thấy thoải mái, ý nhị khi nàng thích kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà ta hô hào cư dân Pháp đứng lên, lật đổ chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà ta bị hoàng gia Anh-quốc bắt bỏ tù và thiêu sống. Đan cũng hùng hồn kể cho nàng nghe về oai danh của Bà Triệu, về hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị của nước Việt Nam. Vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân sang Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua trận, hai bà can đảm nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử. Nghe xong đã gật gù thú nhận là nàng bội phục phụ nữ Việt tuyệt vời hơn bà thánh của nàng.
Ngồi bên nhau trong ngôi biệt thự xinh xắn của cha mẹ nàng ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu ki lô mét về hướng Tây Nam. Họ trao nhau tình yêu mặn nồng đầy thắm thiết ái ân… Ấy thế mà cuối cùng trong thành phố Lyon... anh và nàng cùng cậu con trai tí hon đã đồng thuận chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu. Dù rằng tình yêu ấy đã từ đôi tay nầy ân cần chấp lại khẩn thiết cầu xin; thì nay cũng từ đôi tay ấy đã mọc cánh vút xa bay; trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng, rồi trở thành dại khờ đau buốt. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur". Mà thôi. Xin hãy qua đi! Xin hãy quên đi! Xin cho bình lặng tâm hồn. Đan không muốn nhắc đến tên ai, dù vô tình anh đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Vì... anh yêu me của mình hơn bất cứ ai. Anh không muốn mẹ đau buồn, bởi cô sinh viên đoan trang và anh thư ấy là... đầm. Rồi có một ngày ta sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ trong giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm mẹ con em nhe. Chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự, cho bỏ những ngày trống vắng chia xa. Ta sẽ lại tìm thấy nhau trong giấc ngủ bình yên muộn màng. Em ơi!
Sau bao năm học hành và thành đạt vinh hoa, Đan vừa trở về quê nhà, anh mong đem chút kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu, ra giúp đời. Nhất là vì từ thuở nhỏ anh đã yêu con đường binh nghiệp. Thế rồi giờ đây… ngày nầy qua ngày khác, Đan vẫn soi chiếc bóng mình cô độc chao đảo khi tỏ khi mờ trên dòng suối lờ lợ đục. Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần vắt qua sườn dốc, khi đám mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá. Nước chảy róc rách trên lưng đồi Minh Long suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa. Nghe tiếng súng đạn dày xéo suốt đêm ngày trên quê hương điêu tàn, đổ nát. Là vết thương đậm sâu không trông thấy, vẫn nhói buốt đau đớn trong lòng anh nhức nhối. Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia. Giờ rụng đi trong đôi mắt Đan sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút, thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng, qua tiếng nói của Hoài hôm trước văng vẵng đâu đây, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vào tâm tư Đan cô lẽ; như những giọt mật tròn. Mật đắng. Đắng không thể tả. Hạnh phúc xưa bất chợt, bé nhỏ liu riu thoáng qua nhanh, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt nơi sơn khê ngun ngút dặm ngàn.
Đan vẫn thầm tự hỏi lòng:
- Mình có thể thay đổi tình yêu xưa bằng một tình yêu khác không? Biết đâu nó sẽ có những dễ thương trùng hợp đáng yêu; như thế, hoặc hơn thế nữa!? Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi, quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?"
Đan đắm mình trong khí ấm mùa xuân thu hút vuốt ve. Có mật ngọt và hương hoa. Có tia vui hào quang dọi sáng. Có khúc nhạc nên thơ êm mát, do gió núi trong lành lao xao nét tình quê xanh thắm thoảng lại. Đan vẫn thầm nhũ với lòng mình:… Mà nè Đan, biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào cho trung thực đối với cô gái Đà Lạt dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống? Anh mến Hoài từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Đan hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình. Đan sống giữa chốn núi rừng Minh Long nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, âu lo. Nhưng Đan không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ trầm ngâm, lặng lẽ ngấm ngầm suy tư.
Dưới gốc đại thụ mọc đủ mọi thứ măng le, tre, nứa, giang, dây leo không tên mọc um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có vài con đường mòn đất nâu xám len lỏi, đất láng trơn trũng xuống cận dòng suối đỗ dồn. Bốn bề núi đồi hoang vu bao bọc, hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ. Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào, giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh, lắc lư gió táp mưa gào xác xơ. Rừng sậy già rậm rịt um tùm lô xô, thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù, cong cong trong gió bay xào xạc, giống cái đuôi con sóc leo trèo trên những cây sấu vàng ửng tàng lá tỏa rộng. Ở đây chỉ toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo, mịt mùng. Núi. Rừng. Đồi. Suối. Ao. Đầm. Cỏ lướt cỏ. Cây đan cây, cành đan cành. Lá đan lá chằng chịt. Quấn quít. Vượn hú dài kêu đàn, thảm thiết buồn bã. Những con quạ mình to đen bóng, xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu. Thỉnh thoảng chúng ngóng cổ lên cao, hoác miệng kêu "quạ! quạ!". Nó lại gù gù lưng, cúi cổ nhảy từng bước cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò.
Không hiểu ở đâu, nước từ thượng nguồn, dội xuống khe suối rộng xuôi chảy. Ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Ôi! Phong cảnh nơi đây tuyệt diệu… thế nhưng xin hãy coi chừng vô số con vắt, con ve ưa búng mình hay bò lên hút máu. Một phía bên kia suối nước bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ giống màu đỏ sông Hồng trôi lặng lờ trên xứ Quảng. Thấy mà ghê hồn. Cuối tuần ở Minh Long cảnh vật nơi đây rất hoang vắng u buồn. Đan sống những giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi. Như gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung. Buồn thương da diết vệt nắng rải sau hè rực nét tình xưa qua
Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương
Hoàng hôn tỏa những tia nắng nhạt.
Đường em đi bóng mát cây dài.
Nắng xiên trên hàng hoa lác đác.
Mặt hồ xưa lóng lánh mây bay.

Nỗi niềm riêng xôn xao gợi nhớ.
Tình yêu ơi! Hoài vọng ước ao.
Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
Mùa đông qua, xuân mới bước vào.

Hàng thông xanh im mờ phủ bóng.
Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ.
Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
Lá sầu đông tê tái phất phơ.

Thác ven rừng uốn lên chảy xiết.
Nước rẽ dòng thương kẻ chia ly.
Đường về quê nhớ phút phân kỳ.
Mối tình tựa ngấn sương tiễn biệt.

Mộng ước đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
Nhạc sương gieo, tình cọng cỏ tơ vương.
Nhún nhẩy dưới trăng lá cỏ ngậm sương.
Sương rơi rụng ướt cỏ đường đêm vắng.

Bông cỏ ngậm sương nở hoa vàng trắng.
Tình yêu thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
Nghê Thường đâu, hãy tấu khúc đêm nầy.
Sương tưới cỏ đời vui thêm tươi mát. (*)
* * *


(*) thơ tìnhhoàihương
Kính mời độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn - Ch 7

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhì
Chương 7


Đời Chi Phiền Toái Lạ!




Dòng sông Rê xanh biếc có một khúc bên lỡ bên bồi, trên sông lác đác vài ghe thuyền khua nhịp, lênh đênh theo sóng nước uốn mình lặng lờ trôi theo ven đường đất đỏ lởm chởm. Nắng dắt vàng trên mấy cù lao, mặt trời thắm đỏ lóng lánh to to, tròn tròn như viên hồng ngọc khổng lồ ngời sáng dần vươn lên cao, lên cao, lên cao… Hương hoa mùa thu êm đềm đâu đó thoáng tỏa ra dìu dịu, thơm thơm trong ánh nắng ngọt ngào buông tỏa.
Xe chở hành khách chạy ngược chiều vừa qua mặt xe GMC, trong xe khách lố nhố người và người chật như nêm trên băng ghế. Vừa thấy có “mấy hoa hồng biết nói” xinh xinh, đẹp đẹp, thì các anh lính í dà da dá dà… liền huýt gió, tróc lưỡi, xíp xi... xíp xì... la ó, hớn hở reo mừng. Họ chồm người ra vẫy tay lia lịa, tíu tít chào hỏi nhốn nháo (giống như có bà con với nhau từ đời vua Tự Đức ha qúy anh chị em!). Các cô gái xuân-thì ngồi nép bên xe kia cứ e e, ấp ấp, lí lí, lắc lắc dụi đầu vào vai nhau ríu ra, ríu rít nói líu lo, xù xì mí nhau mà cười khúc khích, chỉ chỏ, vẫy vẫy tay lại. Họ dấu mặt dưới vành nón lá kéo nghiêng, e e thẹn thẹn. Trông thật dễ thương ghê nơi, càng ấm áp lòng anh lính chiến “tình quân dân như cá với nước” biết bao!
Con đường nhỏ trong thôn được toán lính “viễn chinh mũ mão cân đai, gươm giáo", tà tà đi tới đi lui, đi dài dài hoài. Khiến bà con sống ở hai bên đường ấp đều biết mặt. Dãy phố nhỏ trừ mươi nhà có mở rộng cửa, để buôn bán chụp giựt thời cơ. Còn đa số nhà khác thì đóng cửa cài then cẩn thận. Họ ra đồng làm việc hoặc sợ cảnh Làng, Thôn, Xóm bị lôi giật dậy giấc ngủ muộn phiền, bị dựng đứng lên bởi tiếng nổ đinh tai nhức óc. Và, nhất là họ sợ mấy khẩu súng to ơi là bự sư thần sầu bi tráng, lạnh tanh, không tha ai, nó vô tình cứ thích nhòm ngó lôi thôi đến đời dân dã hôn mê rất muốn an phận, khi nước mắt đọa đày đớn đau cứ trôi hoài chảy mau theo tháng năm cuồng nộ.
Tất cả anh em Phòng 5 đứng xớ rớ bên một nhịp cầu đã sập, họ đợi đò ngang rước qua sông. Bao giờ cũng vậy, các anh khinh binh sẽ đi trước dò đường an toàn. Lúc đó, Phòng 5 sao y bản chính lọt tọt lẽo đẽo bám riết theo sát đằng sau. Nhóm công tác Trung Đoàn 25 Công-Binh Kiến-Tạo đến khai thông hương lộ bên đầu dốc. Chiến sĩ ra trận có áo giáp thì phần nào yên tâm, phủ quyết bao lo sợ khi lâm chiến. Anh Trung đã nai nịt chỉnh tề và đi thị sát để vào rừng. xong, anh vững tin trình báo về bộ Chỉ Huy kịp thời, hầu chận đứng con đường lạc lối từ làng ra bưng. Vài ba "ông tướng con" khác thì lén lén lút lút, xầm xầm xì xì to nhỏ, nháy nhó bấm béo rù quến nhau, lũi đi tìm chút hương hoa phù dung cuộc đời nơi chị em ta, cho đỡ ghiền. Tấm bảng tên dính một đinh khuy lủng lẳng, xệ xuống cửa sổ, vỗ lách cách mỗi khi có gió lùa. Anh Phước cấm ngặt, cấm chỉ anh em không được bén mảng đến gần. Phước ghê rợn gớm ghiết, kỳ thị với cả tấm bảng kinh khủng. Trông nó thật chướng tai gai mắt quá chừng! Đó là Snack Bar dưới sự điều khiển của Nhạn Trang, (là một quán cà phê lậu kín đáo trá hình). Cô ả tô son trét phấn rất diêm dúa, dáng ả đi uốn éo nhảy nhót tước bộ xà hành. Bao phen bị cảnh sát ruồng bắt, cô ả Nhạn Trang cứ trốn chui, trốn nhủi, mà vẫn không chừa cái mặt mo mụ tú bà lì lợm, trơ trẽn, ù lì lẵng lơ thộn chường ra, coi thật quá dễ ghét. Chỉ có khách quen say sưa bội tình hoan lạc trong bầu không khí sặc sụa rượu nồng, và khói bồ đà tàn dư từ thời Pháp-thuộc cay xè khét lẹt còn lưu lại. Từ đó, thuốc phiện lan đi khắp mọi nơi. Loại cây nầy trồng ở vùng cao Lai Châu (xứ Thái), và Vịnh Hạ Long, người ta làm ra thuốc phiện, rồi bán cho lái buôn “Tàu Ô” (black sail pirates) để đổi lấy tiền, vàng, súng đạn. Hoa thuốc phiện có nhiều màu, lá so le có khía răng không đều, thân và quả chế ra codein, morphin; quyện lẫn mùi da thịt kẻ ghiền rịn ra khét khét, chua chua, ơn ớn, hôi hôi, nhơm nhớp trên cái giường bóng nhẫy mồ hôi. Ai đã vào cái hang ổ đó rồi, thì... khó tìm thấy lối ra. Bầu trời, sông dài, biển rộng, núi cao hồ thẳm, giờ chỉ thu hẹp trong gang tấc, đẵm trong vò rượu tăm sủi bọt, bên bàn đèn nâu, dưới hai bàn chân hắn si mê phóng đãng bước thấp bước cao, trôi theo con sóng xô giạt. Thân hình hắn nhấp nhô, nhẹ như bông gòn bay, đẩy đưa phiến lá tội tình. Lưng gù gù, đầu gật gưỡng hắn cúi cúi lắc lắc, bước đi loạng choạng phiêu diêu thểu não, bơ phờ, đôi chân bành giạng ra ngượng ngập và nhút nhát. Trông hắn chẳng giống ai, chả giống con giáp nào! Tàn mớ đời trước khi vận nước điêu linh cần sức trai phiêu du ngang trời lèo lái con thuyền cỡi sóng ba đào mất thôi. Vì thế, người ta mới đặt cho cái tên chết người là: Thuốc phiện. Kẻ ghiền rồi, hai bàn tay trơn không còn sinh khí hào hùng, sáng giá vì gót giày botte de saut đập mạnh vào nhau, kêu cái cộp. Thật kiêu! Thật hách! Thật oai hùng siêu đẳng! Kẻ hút sẽ không còn bàn tay anh tài vững chắc đưa lên mũ, ngực ưỡn ra, mắt sáng quắt nhìn thẳng; sẽ tiêu tùng đời trai trẻ. Nếu vào... "cửa mả tam giác vàng tử vong" đó. Còn chết tiệt hơn khu tam giác vàng giáp giới Thái. Miến. Lào.
Góc đằng kia có bốn anh trải poncho cạnh cây bần, họ ngồi giạng chân với xị rượu và con cá mòi vừa nướng thơm phức. Đa số người lính lúc nào cũng vui nhộn. Có chút men bia, là anh thấy đời tà tà lên hương ngát. Thống khoái hơi men nếp cẩm xịn mà cho "vô mỏ" mấy anh, thì đã-điếu hết sẫy, đưa họ ngoắt cần câu lên cơn say trống dạ. Họ đang "du ca mùa xuân" làm bợm nhậu chì nhất phố núi he. Trong lều bạt, Sĩ gây sòng đen đỏ, năm anh ấy đang châu đầu vào con bài, họ mê đến nỗi nhịn cơm nhịn canh. Lên xe GMC cũng xòe, ngồi trên giường bố cũng đánh. Chỉ có khi đi làm việc mới yên. Túi tiền mấy anh xẹp lép, nhường chỗ cho cỗ bài dày cộm đút trong túi.
- Mấy anh ơi! Mấy anh đang ra chiến trận, sao mà mấy anh thích la cà chỗ nầy chỗ nọ linh tinh, xĩn xạc, tháu cáy nhau kinh khiếp vậy? Chắc vợ con các anh ở nhà rất lo lắng, thất điên bát đảo đó. Mấy anh ơi, ưng lắt léo cuộc đời làm chi! Ba trợn quá! Quỷ thiệt chớ. Dị hợm ghê! Khỉ đột á! Coi chừng! Bọn em lén đi méc Trưởng-phòng; thì các anh sẽ bị kỷ luật gấp đó nha!
* * *
Được thượng cấp chỉ định làm trưởng ban nhạc, khi tuổi anh Cương đã xế chiều, ảnh gầy gò, trán hói, gương mặt nghiêm khắc. Ngọc Trúc nghe Thu Hoa nói:
- Lâu lâu ảnh có cảm hứng dồi dào, đã sáng tác chiều tác, hoà âm hòa iếc gì đó. Đối với tôi, nghe ảnh đàn từng tứng tưng…, bùm búm bum…, bòng bóng bong… như đàn gải tai trâu. Coi anh Cương cũng ra trò dị biệt trong phòng văn nghệ sĩ miệt vườn nhà. Ưu điểm của ảnh có chừng ấy, nhưng đối với đàn em, ảnh nổi tiếng hách xì xằng. Ảnh tỏ vẻ ta đây tài ba, hơn bất cứ loại kỳ nhông cắt kè nào trong Phòng 5, hay hơn cả anh em thứ thiệt trong Sư-đoàn 2 nữa. Khi anh muốn dùng một người nào, thì anh nâng người đó lên chín tầng mây. Nhưng lúc anh không cần đến họ, thì anh có những lời lẽ kém tế nhị, phun trào những lời cay độc! Có vài ba hạ cấp e ngại anh ta, nên họ nâng bi, đánh bóng cuộc đời ảnh quá đáng. Thiệt mắc cỡ khi họ trắng trợn "bơm" ảnh căng hơi, “thổi" ảnh phồng to hơn quả khinh khí cầu. Thế là ảnh càng nở mũi, dương dương hiu hiu tự đắt, ảnh muốn "nổ" muốn "vồ" người khác một tí cho oai í mờ.
Mai Hương chêm vào:
- Ảnh giữ một "củ súng" mousqueton cổ lỗ sĩ, giống vệt nhăn cày sâu trên trán khổ chủ, củ súng giơ lên bắn bụp… bụp… bụp… từng phát một. Vô duyên òm, y đúc súng bắn lon trong hội chợ ghê. Sau trận chiến, trong tận cùng tan hoang đổ nát của quê hương đỏ lửa, Cương đi thu nhặt chiến lợi phẩm, nào là lựu đạn nội hóa, mìn muỗi, súng AK, mũ nồi tai bèo, dép râu, vân vân... Thành tích đó của mấy anh Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến… Sau khi “phe Ta uýnh vi ci" chạy có cờ, bỏ lại, họ tặng cho Cương. Cương lụt lịt sai anh lính trơn tà lọt mới nhập gia khệ nệ mang những thứ đó về, để kê khai làm thành tích riêng của Cương. Cương “hù" anh em văn nghệ cây nhà lá vườn; ảnh khôn mà không ngoan, chỉ muốn ra oai "vồ" xí, xỉ vã tàn tệ kẻ khác đến khiếp vía.
Trong Đoàn 5 nầy có anh Thái vừa bị thượng cấp cạo trọc lóc đầu, cạo râu và cạo cả lông mày, lông mi (thiệt tình là Hoài nhìn anh Thái bị... “trọc lóc cái trốt tu mi nhẵn thín” như vậy, nàng coi anh giống con khỉ đít đỏ mắt xanh ở trong mấy gánh sơn đông mãi võ, rất dị hợm mắc cười kinh khủng mà cũng ghê ghê sao đâu!). Lý do Thái bị kỳ kỳ dị dạng như thế là: có một lần anh có tới... “thất tình sầu đời” đã đi nhậu anh say rượu, say khướt. Thái đắng cay đời đen bạc mà đi quậy, đánh lộn tùm lum. Thái bị gián cấp. Thế là anh bất mãn, càng ba gai sừng sỏ, ba gai, quậy tưng trời quá chừng. Khi say bí tỉ, Thái dám bố láo bố lếu đứng giạng háng, trợn lõ con ngươi ốc nhồi muốn lòi ra khỏi con mắt, anh trừng trừng xỉ xỉ vô mặt gọi cấp chỉ huy của anh là:
- Con tắc kè bông ôm đít chạy lông nhông, không lông, không râu không tóc.
Biết là Thái quá say mà dám nói những câu xúc phạm với thượng cấp như vậy, nhưng cấp trên phải cho anh vô chuồng cọp, trừng trị cái tội anh bất nhã, không đúng quy cách con nhà lính, phải có kỷ luật của một quân đội nghiêm minh, để làm gương cho đồng đội, là chí phải. Thái vốn không trọng tài năng Cương, anh thấy Cương gàn bướng ngu ngu sao ấy. Nói nào ngay Thái khá giỏi về nhiều phương diện, nhưng khổ một điều là anh Thái có tính cao ngạo, hung hăng, ba gai, bản chất đó đã ăn sâu vô xương tủy anh rồi. Ẩn nấp đằng sau gương mặt phong trần coi cũng khá đẹp trai qua nụ cười mỉm miệng đó, lại chứa đựng một tham vọng mê cuồng cuốn hút anh phải hiên ngang đứng lên làm một cái gì cho nổi trội hơn đồng bạn. Thái nghĩ: “Anh Thượng-sĩ chỉ hơn anh Trung-sĩ-nhất có một bậc, thì xêm xêm chứ có cao cách gì, mà buộc người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu gan lì như ta, phải nghe theo. Nhìn các anh em khác khúm na khúm núm cung kính nâng bi trình bẩm “y”, Thái càng khó chịu. Mình vượt trội không thua chi Cương, nhất là tri thức và đờn ca hát xướng là nghề của chàng mà”.
Khi Trung-úy Phước đi lên bộ Tổng Chỉ Huy hành quân dự phiên họp, anh trao quyền điều hành lại cho Cương chỉ huy Phòng 5. Cương đã có thành kiến với Thái, anh Cương lại cậy ỷ quyền trong tay, nên lớn lối mạt sát hạ cấp Thái không tiếc lời. Nếu anh “Phó chỉ huy Cương” biết dẹp bỏ lòng tự trọng và anh Thái bớt tự ái một xí, thì trong Phòng 5 sẽ có được những anh lính giỏi càng tốt hơn. Thế là có vấn đề không hay xảy ra giữa hai người. Không hiểu vì lý do gì, Cương và Thái đâm ra xích mích đấu khẩu ác liệt, tay đôi nầy cãi lộn rần trời khi cơm trưa vừa dọn ra, chưa kịp ăn. Anh em trong đoàn không ai can gián nỗi. Có tỵ hiềm và ghét Cương từ lâu, nay “Thái phong trần” càng tức giận, quê xệ, mất mặt với đàn em quá. Thái phải cay cú lật tẩy quân bài “ngu ngu" kia, nói huỵch toẹt ra những ý nghĩ mình mà không ngượng mồm. Thái cần tỏ ra ta đây đếch sợ chết, bất quá thì giống như “cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi”, chứ sợ gì ai mà run, mà rét! Sự chân thật quá mức cần thiết cuả Thái xét ra đôi khi tàn nhẫn và phũ phàng! Thái “hiên ngang” liền móc "trái na sắt" đáng ghét dằn dộng thật mạnh trên bàn cơm: có dĩa rau muống luộc, dĩa cá kho, tô canh bầu lỏng bỏng nước, ai nấy đều nghe cái “cộp”. Mấy thứ đó tự động lắc lư văng nước tung tóe, nhảy tưng tưng. Anh Thái khư khư cầm trái na lăm le chực mở chốt an toàn, để hù tự sát.
Anh Cương tuy bất bình, mất mặt, cụt hứng, hết hăng tiết vịt, giận run, nhưng anh xanh mặt im re, xép ve! Cả hai anh nghẹn đắng cổ họng không nói tiếng nào, y như con tuấn mã đang phi nước đại, bỗng dưng bị cây đao chặt xuống cái phụp, cụt mất bờm và đuôi. Trông thật thảm thương dị hợm quá chừng. Một lúc thật lâu, anh Long len lén đến bên Thái ngọt ngào năn nỉ cho Thái bớt giận. Chuyện đâu còn có đó, ông sẽ được minh oan. Mấy anh khác, mỗi người một câu phải trái, ôn tồn phân tích rành mạch cho hai bên “bất phân thắng bại”, nguôi ngoa dần dần xí. Anh Vị “tà lọt” (anh chị em trong phòng “thương”, mà “thân” gọi anh Vị như thế, vì đối với ai ai, thì anh Vị hiền hòa cũng chí tình, ân cần giúp đỡ bạn, khi có ai nhờ vã gì, anh cũng vui vẻ nhận lời, dễ dãi cười xòa), anh đến bên bạn gỡ tay Thái, Vị lấy trái na độc hại giết người, Vị lật đật đem dấu vào xó xĩnh nào. Chả biết. Mấy cô đơ dem cùi bắp thấy vậy, la hét rân trời, các cổ lo chạy trốn tá lả, họ sợ “trái na” hơn sợ giặc đuổi té re bên đít. Các cô hét tướng lên om sòm nghe the thé, chát chúa, thiệt điếc con ráy quá đi! Chỉ có Trúc từ trong xó góc hầm trú, cô lò mò chạy xộc ra, cong cong cái lưng eo ếch ôm tay Thái, cô dám cả gan xớ rớ gần bàn ăn vừa khóc hu hu hu…, hic hic hic… Trúc dỗ dành anh ta như bà chị dỗ em bé tí nị. Mặc dù Trúc nhỏ hơn anh Thái cả mười mấy tuổi. Khiến Thái càng mủi lòng khóc rống hụ hụ hụ…! Riêng Hoài cảm thấy ơn ớn sợ sợ, ít muốn thân thiện với cấp trên, nhất là nàng có nhận xét riêng về anh Cương: nghĩ mà buồn khi anh Cương dùng người “rếch lô” quá, anh Cương ưa chê bai và ganh tỵ ngầm ngầm, anh cũng có chút ghim gút “trù dập”, đa nghi. Nếu anh Cương đã nghi rồi, thì Hoài tưởng anh không nên tin dùng, càng hơn nữa nếu người ấy làm điều gì sai trong quá khứ, hiện tại họ cố gắng không làm thêm điều sai quấy nữa, thì ta nên dìu dắt và nâng vực họ lên! Tất nhiên khi hiện tại đã trở thành dĩ vãng, có lẽ họ biết điều sai quấy, sẽ ân hận, xấu hổ, dày vò... họ sẽ chia sẻ với bạn từng bước trên chiến trường; giống như đang chia sẻ tính mạng mình, họ cố tình không dẫm chân lên vết chàm cũ.
Anh Phước đi họp về nhìn mặt mày ai nấy méo xẹo, ủ dột, bàn cơm nguội lạnh, ruồi bu kiến đậu ba lớp trên mâm cơm, chúng bay lên đáp cuống ù ù u u vui say nhậu nhẹt no nê, đàn kiến thì lo hút chất béo không nhúc nhích. Anh Phước từ tâm và độ lượng khéo léo điều tra. Phước khôn ngoan khiển trách nhẹ nhàng “huynh đệ chi binh như thủ túc”. Anh Phước giản hòa hai người ấy rất hợp lý chuyện:
- Nếu anh em có “ngắt nhéo cào cấu” chỉ một chút ở bên tay nầy, thì không những tay kia mà nguyên cả thân thể cũng biết đau. Phải không nà? Nhất là chuyện tẹp nhẹp riêng tư giữa hai cá nhân, thì không nên khêu ra, thành to tát mà xích mích nhau, làm mất danh dự thể diện anh em quân nhân đồng đội trong Phòng 5 nói riêng, và quân đội nói chung. Phải nói với nhau những lời dịu êm, xây dựng tốt đẹp, phải biết đoàn kết, cư xử với nhau yêu thương, tận tình giúp đỡ nhau trong tình mến gia đình quân nhân. Tôi không muốn trình việc nầy lên cấp chỉ huy, tôi muốn giữ các anh em ngồi lại cùng tôi đùm bọc nhau và chia sẻ nỗi niềm... Việc lưu lại “người tài” là điều quan trọng, nếu cái tâm cuả anh em trong sáng, chân tình, anh minh và có lòng tự hào dân tộc! Thì tôi rất cần anh em vậy! Còn người nào tự ý thích chà đạp nhân cách chính mình và kẻ khác, để đạt tới quyền lực, mà vu khống người tận trung, thì họ phải trả giá cho hành động và trách nhiệm cuả một quân nhân bất tín. Kết quả là họ phải đối mặt với cái nút thắt về sự trắc trở trong thất bại chua cay, và hối tiếc vô vàn về những điều lố bịch mình đã gây ra vậy.
Dù anh Phước không muốn nặng lời quở phạt ai, vì ai ai cũng “thành nhân thành danh” rồi, hai anh ấy cảm thấy ngượng, họ tự động đứng lên cúi mặt ấp úng xin lỗi mọi người tha cho họ cái lỗi cố chấp và nông nỗi nóng giận phi lý. Anh Phước đúng là một vị chỉ huy mẫn tuệ và mẫn tiệp. Phước có tinh thần cộng đồng tha nhân, có lòng hào hiệp, nặng trách nhiệm, yêu thương thuộc cấp thật tình như em út. Nhưng, ở chiến trận anh Phước cương quyết, nghiệt ngã với anh em nào quậy phá và sai trái. Ấy là điều chí phải. Anh Phước cần bảo vệ sinh mạng, tài sản, tình cảm đồng đội từng giây, từng phút.
Phòng 5 thu xếp hành trang lên đường. Cái lớp nón sắt bên ngoài nầy, được múc thêm lần nước nữa để dùng làm cái nồi, nấu thịt bò kho gừng, sả, ớt, cà ri nị... thì tiện lợi và có thức ăn ngon tuyệt. "Nồi mũ sắt" treo trên cây sào gỗ, lửa đỏ trên đầu nón sắt lật ngửa, coi ngộ ghê. Trúc lấy nón sắt, gỡ lớp mũ lót bên trong ra để múc nước sông lên. Cô vén tóc qua một bên, Trúc uống ừng ực, tỉnh bơ:
- Coi chừng bị sốt rét đó Trúc. Để Hoài lấy nước đã nấu chín ở trên xe cho uống.
- Khát quá, lỡ uống rồi. Ớ! Ai vật nỗi mình mà bệnh. Hoài ha.
Ven bờ rau muống phồn thịnh, hào phóng mọc từng bè chạy suốt con sông, ăn đọt thả gốc xuống nước có tí bùn đất, ít lâu sau chúng sinh sản ra cả Làng, cả Tổng”. Ăn rau muống vào, thấy ngon ngọt mùi vị quê hương. Nó dễ ăn nhất, hái vào, rửa sạch ăn sống, xào, nấu canh. Trộn gỏi thịt heo thịt gà, thịt bò, tôm cua... Hoặc không cần pha trộn thịt thà, để vậy ăn nguyên chất mà tươi ngon, đậm đà hương đồng vị nội. Chợ xóm nhỏ họp thoáng chốc, chỉ khoảng vài ba giờ. Họ lo chụp giựt mua bán. Nếu hôm nào chị em Trúc lỡ đi chợ trễ, thì kể như không còn gì ngoài mấy bó rau muống bầm dập. Thà có rau ăn, còn hơn ăn lương khô. Mỗi người đi công tác đều phải cõng trên lưng một lít gạo một ngày, tha đi đây đi đó, cùng chia phiên nhau canh gác và nấu cơm ăn. Ban đầu được phát gạo sấy và đồ hộp, Trúc khoái chí ăn liền một tuần. Sau đó, thấy đồ hộp Ration C, nàng sợ, vì ngán lên tới cần cổ! Anh chị em đã hùn tiền, giao cho Minh đầu bếp của Phòng 5 đi chợ mua rau cá tươi, anh ta về nấu cho cả phòng cùng ăn, có tí canh húp rột rột mà cảm thấy mát ruột mát gan. Trúc phụ Minh làm bếp, nàng lấy hộp quẹt zippo, bật lò dầu nấu nước sôi. Chờ nước sôi rồi, nàng lấy kéo cắt mấy bọc gạo, Trúc để bọc gạo sấy cạnh mấy keo ruốc sả xào khô. Có ngày nào thong thả xí, Minh cho lính ăn khô nướng, anh nấu nồi canh chua lá giang cá đồng lỏng bỏng. Món canh rau đạm bạc duy nhất, ăn với rau sống và cơm gạo sấy. Đôi khi chỉ có rau muống luộc, nước luộc rau dằm thêm trái cà chua, củ hành hương, có chút muối, bột ngọt. Thế mà anh em lính ăn ngon hết sẫy.
* * *
Chiều hôm sau, Thắng đến nhà ngồi nói chuyện phiếm. Hoài buồn buồn:
- Tuần tới, Hoài lại đi Minh Long, Nghĩa Phú, một tháng. Anh à.
- Làm quái gì ở đấy mà... đi lâu thế?
- Suỵt! Bí mật quân sự mà anh.
- Đúng. Nhưng, đi lâu thế, anh lại solo trên phố quá!
- Anh thiếu gì bạn gái, em gái mà... anh phải solo!
- Anh thiếu gì, chứ có... thừa gì đâu.
- Hoài làm sao biết. Nếu biết, chả nhằm nhò gì.
- Hoài có quyền biết, với tư cách là người thân. Không xa lạ.
- Cũng tùy.
Thắng cười rất xinh, nhìn Hoài trìu mến, anh đá lông nheo mấy cái:
- Nhớ viết thư về cho anh. Nhé!
- Ơ! Viết thư à?
- Phải! Làm gì mà ngạc nhiên khiếp thế ? Em chưa từng viết thư! Hở?
- Thú thật Hoài không nghĩ có ngày em sẽ viết thư cho anh kìa.
- Sao thế?
- Lại hỏi nữa rồi. Bây giờ thì... bí mật quốc phòng.
- Hậu sinh khả úy, ha ha ha.
- Hôm nay anh thua em hai không rồi. Nhé.
- Nguyễn Công Trứ nói câu nầy: "Tất do Thiên, âu phận ấy là thường. Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ". Thì, việc anh thua em hai ba không, là thường. Phải không Hoài?
- Anh nói tiếng Tàu, tiếng Miên hay tiếng Mã Lai, em cũng câm, điếc. Huề cả làng thôi.
- Cô bé thế mà... khôn thật.
Hai người nhìn nhau vui vẻ cười hồn nhiên. Thắng treo cây đàn trên tường, xuống nhà dưới chào chị Huyền, anh lên solex về nhà.
Nắng vàng hanh yếu dần đang ngậm ngùi chuyển màu đen đen giăng rộng vòng tay yêu thương ôm vạn vật, thở hơi nồng bên ô cửa đã lên đèn, trộn lẫn màu tím thẫm hoàng hôn, màu trời ven đêm hồng thắm đậm đà quyện gió hiu hiu thổi. Làm ửng hồng đôi má người thiếu nữ nghèn nghẹn đứng thờ thẩn nhìn vu vơ dưới tàng lá me bay bay.


_ * _


tìnhhoàihương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Em Bé và Kiều Nữ Quân Nhân

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhì
Chương 8


Em Bé và Kiều Nữ Quân Nhân





Từng bè mây nơi nền da trời xanh bát ngát bắt đầu uể oải giã từ vạn vật, mây trôi lơ lửng về mở hội ở phương Tây, sương ngập thung lũng buồn, mặt trời chiếu tia nắng vàng thau lả lơi ngả mình cuối triền dốc nơi vùng núi đồi xa xa. Nhiều mái nhà tranh lẫn khuất dưới vòm cây màu lục đã có những sợi khói lam nhạt rụt rè vươn lên, gợi thèm buổi cơm tối sum họp gia đình ấm áp biết bao!
Khi nắng nhuộm tơ vàng còn hơi tươi như đổ thêm lửa hừng hực xuống nóc hầm, trên đỉnh núi Thần Phong tháng năm chất chồng mưa gió xói mòn đục khoét, đã phơi bày các hốc đá mòn khuyết giữa kẽ nức rêu rong ẩm ướt kia, thì Hoài thích rủ Trúc đi ra khỏi lều bạt xí. Hai đứa lò mò leo lên trăm bậc thang, đi ngoằn ngoèo như con rắn uốn lượn theo sườn đồi quanh giao thông hào đào sâu dưới lòng đất. Hai cô cùng thở hềnh hệch, họ đi lên gần nóc chòi canh cao chót vót, nơi có nhiều bụi cỏ hôi, cỏ mắc cỡ lá kép đầy gai mọc chằn chịt gần những ụ hầm đất cát. Hai cô đứng lẻ loi, chơ vơ, u hoài nhìn xuống làng mạc, ruộng vườn ẩn hiện dưới áng mây bay bay qua ngang mặt. Giờ phút như thế, Trúc cảm thấy đỡ tủi hờn thân phận có đôi vai gầy muốn già trước tuổi! Trúc tuy vô-tư-lự không là thi sĩ, chẳng phải là nhà “văn hoa” và nàng sống thực tế, mà nhìn Hoài ngửa mặt đón gió lạnh lồng lộng thổi, giơ tay ôm ngàn mây bay vào lòng, thấy Hoài run run sờ cây rừng sần sùi trơ trụi, khẳng khiu mọc rải rác còn đứng vững trên ngàn; thì Trúc nghĩ Hoài cũng có lý, hầu như mình có thể quên hết mặt trời đen xoay xoay trong bầu trời rực lửa, trút bỏ được cảnh đớn đau đắng cay nơi chiến điạ. Có lần Hoài ưa tâm tình với Trúc, nàng đưa viết thư về cho Thắng có đoạn sau nầy, cho Trúc đọc:
Hoài cảm thấy bình yên khi đứng bơ vơ lẻ loi trên núi cao, núi khuất núi che bớt dấu vết tháng ngày chinh chiến điêu linh cơ cực dưới chân, xoá bớt chứng tích hận thù, làm con người nghẹt thở, âu lo. Hoài ngỡ rằng dưới xa xôi ở chân đồi kia: là một cảnh đời khác hẵn, hoàn toàn xa lạ. Vì có thể ngày mai Hoài không còn gì để nhớ, không về nhập cuộc với đời, chẳng biết còn đếm được bao nhiêu tháng năm trên mười ngón tay khi chiến tranh bùng vỡ!? Thế nên Hoài ưu phiền muốn mình biến thành sương mai tí tách gọi gió lạnh ùa về ngợi ca tình thương, hầu dập bớt cơn nóng bức bùng sôi ở vùng chiến địa. Hoài mong tan biến vào nước mưa đang ào ào trút xuống thế trần, miệt mài gội sạch trơn bao phiền lụy khổ ải, cuốn mọi ưu tư vào sông biển, xoa dịu núi rừng xanh tươi rưng rưng biết đau từng phiến lá. Hoài xin như loài hoa lan trìu mến tầm gửi trên nhánh cây cao. Hay có thể Hoài hóa thành cánh bướm chập chờn, nhởn nhơ cùng mây trắng mây hồng thẩn thờ bay đi tám hướng bốn phương, lui về cuối trời xa thật xa khỏi nơi đau đớn chết chóc la liệt giăng mắc đó đây. Hoài khát khao chối bỏ sau lưng cuộc đời đen thui phiền toái, chông gai, lọc lừa đầy xót xa, bất nhẫn, cay hơn ớt đắng hơn ngãi bạc hơn vôi; mà Hoài đang cố lãng quên theo tháng năm... Nếu có thế, có quyền, và có thể... thì Hoài xin dâng đôi tay thắm thiết chia phần cùng Người: trọn kho tàng kim cương tình mến, yêu thương bao la vô tận trong đời phù du mê ngủ. Xin ngọn lửa hồng nhen lên từ tâm: niềm mến yêu tha nhân, độ lượng, bao dung, nhẫn nhịn nào đó. Vì... Hoài hằng ước vọng khẩn thiết van: mong chúng ta tay nắm tay, hân hoan đồng hành với bạn giăng rộng vòng ôm nhân ái, trìu mến, chứa chan tình nồng tốt đẹp trong tương lai. Từng bước từng bước chân vững chãi chúng ta cùng mạnh tiến đi trên đất phù sa, thong dong đến miền đất hứa: sẽ đến gần nhau ưu ái tìm sự thứ tha, khoan dung, độ lượng, chia sẻ cùng ai mọi đắng cay ngọt bùi, cho đời thăng hoa, xao xuyến, ân cần vui vẻ, hạnh phúc cho trọn kiếp phù sinh. Anh Thắng nghĩ sao!?
Dưới thung lũng, nơi bãi cỏ lưa thưa vừa đủ rộng. Khói xanh bay lên, báo hiệu bãi đáp an toàn. Trực thăng đáp xuống, tiếng máy nổ kêu ầm ầm, cánh quạt quay tít mù, tung đầy bụi đất, tạo thành luồng gió lốc xoáy tròn, dâng tít lên cao, cuốn theo bao nhiêu giấy má rác rưới quay lông lốc, tạo thành hình trôn ốc xoay lên trời. Gió thổi phồng lưng áo trận mấy quân nhân đang cúi rạp người từ trong chân đồi chạy ra, đầu họ ngả về phía trước, lom khom bước nhanh để đi tới cửa phi cơ, tay họ giữ chặt nón đội đầu. Có người bị hất về phía sau theo chiều gió đẩy.
Bầy trẻ nheo nhéo kêu réo nhau, các em từ mọi ngỏ ngách trong thôn làng ùa ra xem trực thăng đáp. Có một đứa trẻ ốm yếu luống cuống trước sức gió xô, em không biết làm gì, cứ loay hoay bò lui bò tới trên bãi cát, rồi em ngồi phịch xuống, lồm cồm bò lết đến gần hàng concertina. Bằng tất cả sức mạnh của hai bàn chân bé tí, em lẽo đẽo lọt tọt tập tễnh từng bước ngắn bước dài chạy theo anh chị lớn, sau lưng em để lại vệt đất ngoằn ngoèo, dấu chân em bé in lên mặt cát ướt, tạo thành những lỗ trũng dồn dập ven bờ, phình to hơn bàn chân em vừa nhấc lên gấp bội.
Chiều chiều, thường có một đám trẻ thả diều rong chơi dưới bãi cỏ hanh vàng. Các em ấy là con của gia đình Nghĩa Quân, Dân Vệ, trại Gia Binh, và con thường dân di trú trong khu dinh điền di cư, trong rào Ấp Chiến Lược ổn định kinh tế, sát vùng quân sự. Các em có con một diều giấy làm bằng tập học trò đang chao đảo trên không trung, diều xoáy tròn nhiều vòng, bỗng nhiên một bên đuôi rách toạt, rời thân bay lông lốc về cuối trời. Đầu diều xoáy tít trong không khí, bay lên cao rồi chao xuống thấp, uốn lượn trong không gian phất phới nắng vàng. Hai tai râu diều xoáy trên trời. Các em ngửa mặt nhìn lên cao, nhiều bàn tay nho nhỏ cùng nhau giơ ra, cầm chặt sợi cước, cố lèo lái con diều. Các em bé đứng dưới chân đồi ngửa mặt nhìn lên, các em dậm chân dậm cẵng bứt tóc bức tai kêu la ơi ới. Gió bay phồng lưng áo trẻ, tóc các em rối tung giữa bầu trời thênh thang. Bỗng dưng, con diều lao mạnh xuống góc đồi, gần bên chân Trúc, bụng nó mang theo sợi cước trắng đục, cong queo dài lòng thòng. Một đuôi diều còn lại ngóng mình bay bay, Hoài nghĩ hình như con diều cũng cố vươn mình lên trung thành tìm về cố chủ!
Hoài nhìn sững con diều giấy. Tần ngần giây lát, nàng nhặt nó lên, Hoài nhìn xuống chân đồi tìm kiếm các em. Đám trẻ con đang đứng dậm chân dậm cẳng, chỉ chỏ và la ó ơi ới những gì, vì quá xa nên Hoài không thể nghe thấy. Bọn trẻ í dà… tiu nghĩu buồn xo, ngồi phịch xuống đám cỏ.
Hoài mỉm cười, nói với Trúc:
- Mình đem con diều xuống trả, chắc là các em mừng lắm. Trúc há.
- Ừ. Trúc kéo con diều, còn Hoài cuộn sợi cước. Nghen.
- Ừa.
Dáng chiều ập nhanh xuống, bao trùm mảnh đất hoàng hôn đau thương trong ghê rợn và cô tịch đáng sợ. Đom đóm lúc tắt lúc sáng tủa ra từ các xó xỉnh, bay chập chờn nhiều vô số. Ếch nhái uồm uộp kêu inh ỏi dưới ruộng. Dơi chao lượn vun vút, phát ra nhiều tiếng dzíu… dzít… khi bắt muỗi. Vài ba con chó tru hú từng đợt dài, nghe thật ghê tai. Không gian bỗng rào rạo tiếng đạn tiến về hướng Đông ngọn đồi, như chấm sáng của vì sao băng. Lửa tóe ra từ đường đạn bay vút vút, kèm theo nhiều tiếng xíu... xít... rít rít… vèo vèo… khô khan kéo dài. Dưới chân đồi, trên bãi cỏ ươm vàng vắng hoe bây giờ không một bóng người. Đám trẻ chắc chắn đã dày dạn kinh nghiệm trong vùng chiến tranh, nên chỉ chớp mắt, chúng lo chạy thoát thân, lẫn trốn lúc nào nhanh thật là nhanh. Nếu không phải ở vùng giao tranh, thì Trúc tưởng như đang nhìn pháo bông ngày Tết năm xưa buổi thanh bình. Khi nỗi khiếp sợ tột cùng đã chứng thực len lấn vào lòng, nàng không biết gì ngoài sự sợ hãi kinh khủng dâng lên tột đỉnh. Trúc sợ toát mồ hôi hột, mặt mày xanh xám, nàng vội chạy xuống trăm bậc cấp làm bằng đất, để về với gia đình quân nhân, bạn bè. Nàng cầu mong sự ân cần, an ủi và lân mẫn của con người trong tình đồng đội biết bao!
Hoài cũng lo sợ không kém, nàng vội vàng cầm con diều chạy ngang qua mấy quân nhân đang dùng dao găm lúi húi đào lỗ, đất núi cứng như đá. Công việc làm của họ thật nặng nhọc và cực khổ quá chừng. Dù khả năng và kinh nghiệm quá hạn hẹp, Hoài muốn dừng lại làm giúp các anh một cái gì đó, dù nhẹ nhàng bé nhỏ, âm thầm, cho người khác vui vui và vơi nỗi đau. Thì nàng thấy có tình đồng hành yêu thương nhau xí, lòng cảm thấy an thư nhiều, và Hoài mong được bù đắp ngược lại. Nhưng anh quân nhân ngẩng lên nhìn, liền chỉ tay xuống khu hành dinh, anh lắc đầu lia lịa, bảo với nàng:
- Ở đây rất nguy hiểm, cô hãy chạy xuống dưới kia, nhanh lên, nơi đó sẽ có vùng trú ẩn an toàn hơn. Chạy nhanh lên!
***
Chiều hôm sau khi làm xong công việc, Trúc đi lên trên đồi nhìn xuống đám cỏ bồng, nàng ngồi đó chờ đám trẻ. Đúng như hai cô dự đoán, đám trẻ vẫn tụ tập trên bãi cát; có mấy trẻ em chơi rượt bắt cứu tù, nhảy dây, u mọi, đánh đáo. Một tụm năm sáu em ngồi xếp vòng tròn hát đồng dao trên bãi cỏ (nơi hôm qua chiếc trực thăng đã đáp xuống), các em không xúm lại thả diều nữa. Có em trai leo lên cây sấu, quệt nhựa mít vào thân cây bắt ve sầu. Có em lui cui đào khoét lỗ đất, em múc nước đỗ đầy vào hang bắt dế. Dế chưa chui ra, đứa con trai tự nhiên vạch quần đùi đái vào hang lỗ. Vài đứa khác cỡi lưng trâu, bầy trâu biết nhớ đường lững thững về chuồng, nó đứng lại ngóng cổ ngơ ngác nhìn lên í ọ í ọ... Vài em ở góc kia đùa với bầy chó, con chó vá sủa vang, nó chạy một quãng đến ngả ba thì dừng lại co chân sau lên, nhỏ vài giọt nước đái vào thân cây, rồi ngoắt đuôi chạy tiếp.
Trúc giơ tay ra hiệu cho Hoài đứng ở giữa sân Bộ Chỉ Huy biết là: bọn trẻ đã có mặt. Hoài gật đầu vẫy tay chào bạn, nàng cầm con diều cụt đuôi, và ba xấp giấy bóng mới: màu đỏ, hồng, xanh lá cây, với ba cuộn cước, hồ dán; nàng thủng thẳng đi xuống chân đồi, từ từ tiến ra bãi cỏ xanh mướt. Đám trẻ không ngờ Hoài đem trả con diều cũ. Các em ngẩn ngơ phút chốc. Bỗng, cùng ồ lên reo mừng hoan hỉ. Vài em tranh nhau giơ tay cầm, rối rít cám ơn. Có đứa nói:
- Cô ơi! Tụi cháu tiếc con diều nầy lắm.
- Nó bay cao nhất Làng cháu đó.
- Tụi cháu bị mất con điều ni, thiệt buồn. Cô à.
- Ai ngờ được cô lượm mà lại đem trả. Cám ơn cô.
Hoài nhìn từng em bé dễ thương, nàng dịu giọng:
- Cô cho các cháu giấy làm diều nè. Đừng xé sách học mà làm diều nhe.
- Dạ... Trời ơi! Giấy bóng đẹp quá! Tốt quá!
- Nhất Làng ta rồi.
- Nhất Xã, chớ nhất Làng gì, mầy.
- Tụi mình sẽ có con diều đẹp, cầu cho nó bay thiệt cao. Hén.
- Con diều mới... thì sẽ đẹp nhất Xã rồi. Tụi bay ha.
- Rứa thì tụi mình tới nhà thằng Tỵ, làm con điều khác liền hí.
Một đứa bé vụt chạy về phiá hàng rào cây, em chui tọt qua kẽ hở giây lát, rồi em nhanh nhẹn trở lại ngay với chiếc rỗ con con. Bên trong đựng khoảng mười trái ổi xá lị da vàng thoảng mùi thơm thơm. Bé thở hổn hển:
- Cái nầy… cho cô…
- Không.
- Ủa! Sao cô không nhận? Thì...
Đám trẻ nhao nhao lên:
- Cô ơi! Nhà con Tằm có mười cây ổi. Nhằm nhò chi mấy trái nầy. Mà cô lo hè.
- Lần sau cô, chú, ai muốn ăn ổi, thì tới nhà nó mua hí.
- Chớ cô lo chi... Cô sợ cha mạ hắn lỗ vốn hè.
Hoài bật cười, nàng xoa đầu từng đám trẻ thảo ăn và hiền ngoan. Hoài cầm ba chùm ổi, nhỏ nhẹ cám ơn các em, và quay gót. Nàng thấy tiếc cho những em nhỏ kinh khủng! Các em xinh đẹp, thông minh. Vâng lời, hiền lành lễ phép, có tình nghĩa xóm làng. Nhất là đa số em rất kính trọng thầy cô. Các em sống nơi vùng xôi đậu, tranh tối tranh sáng, bị chiến tranh vò xé liên miên. Khổ cực. Nghèo nàn. Thiếu thốn mọi tiện nghi cần thiết. Lo sợ. Rủi nhiều hơn may. Sự sống như chỉ mành treo chuông. Ôi! Hoài thương các em xiết bao!
Một tuần nay, chiều chiều khi gió bắt đầu lên thì dưới dãi nắng vàng hanh nhuộm đầy những mái tóc hoe hoe, hai cô thấy có đôi cánh diều cao bay. Các em bé làm diều quá nhanh: con màu trắng bị cụt đuôi cũ được ráp nối một đoạn giấy hồng. Thêm một con diều mới thân màu đỏ, đuôi diều có khúc hồng khúc xanh. Cặp diều cũ và mới sánh vai êm đềm bay lượn trên không, trông thật đẹp mắt. Nhìn hai con diều, Hoài, Trúc, cảm thấy vui vẻ, len lõi chút hạnh phúc, ấm lòng yêu thương, nồng ngọt tình tự dân tộc dường bao! Hoài nhìn mãi lên bầu trời cao, thấy một trong đôi cánh diều thân thương, chao lượn trên không, nàng thầm mong mình gặp lại các em hết sức! Mong hết sức. Đôi khi nàng mở to mắt nhìn đăm đăm về phía trước, mong chờ những hình ảnh không hẹn. Lúc nào đi qua chốn cũ, thốt nhiên Hoài cũng có những cử chỉ dáo dác, kiếm tìm vài em bé miền quê vừa biết, nhưng nàng chưa thể quen mặt. Nhưng rồi... cũng có nhiều ngày đi qua lại nơi chốn cũ, Hoài không thấy đôi cánh diều bay trong gió, Hoài thật ray rứt, ưu phiền, áy náy, bứt rứt, bồn chồn, buồn phiền, lo lắng cho đám trẻ em ở vùng quê nầy lắm. Tuổi thơ của các em chưa có một ngày an vui bình yên đích thực, toàn là những ngày sống trong âu lo, hãi hùng bom đạn, bữa đói bữa no, ngủ không tròn giấc. Sống nay chết mai trong vùng chiến tranh liên miên đã và đang xảy ra kinh khiếp là thường. Nàng đành ngậm miệng không dám hỏi thăm ai về tình hình sức khỏe của đám trẻ. Nàng sợ có người đa nghi, hiểu lầm “nàng với các em đi đêm mò mẫm móc nối” chi đây. Họ sẽ thắc mắc nghi ngờ hỏi:
- Một cô gái xa lạ ở vùng khác, tại sao cô biết và quen chúng?
Khi nàng bỏ nơi vùng quê nầy mà trở về chốn thị thành xa hoa, thì các em có thể sẽ bị tra vấn lôi thôi giữa vùng tranh tối tranh sáng. Mình vô tình mang tai họa đến cho các em, thì tội nghiệp các em vô cùng. Thôi đành vậy, lời nói là bạc, im lặng là vàng! Nhe các em yêu!
* * *
Qua bao ngày "ác ôn côn đồ" kia, đoàn 5 được trở về hậu cứ. Việc đầu tiên, khi về đến thành phố. Hoài vội vàng thay bộ áo quần nặng nề khó chịu, (như Thắng đã nói). Hoài đi tắm gội, kỳ cọ sạch sẽ, sợ "hơi người chết còn bám riết theo”. Sau đó, Hoài cùng Tuyết Ngọc Trúc dạo phố, đi ăn phở và đi ciné coi phim "Hopy a Writ", do Robert Mitchum thủ vai chính. Hai cô hớn hở vui mừng, cười nói ríu rít, huyên thuyên. Y như họ bỏ thành phố nầy từ lâu lắm, nay vui mừng trở lại. Thế mới biết thương người lính Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quanh năm suốt tháng trấn giữ nơi ngàn chốn bom đạn khói lửa ở sơn khê.
Tan ciné, Trúc gặp bồ tèo, hai cô cậu năn nỉ Hoài cùng đi tắm biển Thanh Bình, hay ở Tiên Sa cho vui. Hoài không thích tham dự, người ta có cặp có đôi, mình “tứ cố vô thân” thì ai lại dị hợm đi rề rề bám theo họ như vậy, coi kỳ quá đi? nên Hoài lủi thủi bỏ về nhà và ngủ li bì đến tận chiều.
Thức giấc, Hoài nằm vắt tay lên trán nhìn vu vơ ra ngoài khung cửa kính. Gió chiều xô mạnh những cành cây me là sà quật lui quật tới, cành cọ xát trên mái nhà nghe rột rột rào rào, lá me bay bay, rơi rụng hoặc dán chặt đầy ô cửa kính. Nàng ngạc nhiên nhìn quanh, vì mùi hoa hồng thoang thoảng thơm đâu đó. À thì ra... mấy nhung hồng đã đứng trên lọ sứ mỉm cười khoe cánh. Hoài nghĩ: "Hẳn là hoa của Thắng mang đến, vì anh ấy biết là Hoài thích hoa hồng mà".
Quả thực, khi xuống nhà rửa mặt, thì chị bếp vui vẻ nói:
- Cô ngủ say quá! Cậu ấy đến đây, ngồi ngoài phòng khách đánh đàn, như ong, như ó kêu. Vậy mà cô không nghe gì cả. Tôi nói để tôi vào kêu cô dậy, cậu ấy không cho, cậu nói là cô đi làm xa rất khổ cực, cô mất ngủ luôn. Cậu Thắng ở Sài Gòn về ba ngày rồi. À, cậu có gửi cho cô con mèo bằng bông gòn, hay bằng thứ gì mà đẹp ghê. Có hộp kẹo. Hai quyển sách gì đó nữa.
Hoài cười, "mình mất mươi ngày thức trắng đêm, vì sợ ma, sợ xác chết kinh khủng. Bi giờ không ngủ li bì sao được cà". Nàng ra phòng khách ôm con mèo lông xù dễ thương vì mèo, và có thể vì... do Thắng dễ ghét tặng, nàng nâng niu ôm mèo vào lòng. Hoài lấy hai quyển Le Bossu de Notre Dame và Les Miserables của văn hào Victor Hugo. Nàng thích thú lật lật vài trang sách mới thơm mùi giấy. Hoài ngồi xuống sofa, mỉm cười và bắt đầu đọc Les miserables.

* * *

tìnhhoàihương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Tiếng Hát Ru Đời Biến Loạn

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhì

Chương 9

band4

Tiếng Hát Ru Đời Biến Loạn




Sương muối rơi lốp đốp trên mui xe, giọt sương to to tròn tròn long lanh rung rinh như giọt nước mắt nàng sơn nữ, và nằng nặng như hạt mưa. Kỳ thực đó là sương muối miền núi mòng mọng trắng xóa, làm nặng trĩu thêm bầu trời u ám xóm làng chìm ngập trong đêm sương ẩm ướt lạnh lẽo. Con đường cái quan nhòe đi giống con bạch xà khổng lồ nằm im ngủ, bờ đất uốn lượn dưới ánh trăng treo lơ lửng trên rừng cây lao xao. Trăng lá mít như con thuyền đơn độc méo mó, ẩn hiện bềnh bồng trôi đi, trôi về, nhấp nhô trong vùng mây đục. Phút chốc vầng mây đen xám phủ trùm góc trời khuya. Cách nhau mươi bước, không ai nhìn thấy vật gì. Cây cối đen nghịt chìm trong bóng tối thăm thẳm. Đom đóm chập chờn, lúc tắt lúc sáng trên những ụ mối to. Tiếng côn trùng rỉ rã. Quốc gọi hè về. Bầy dơi ăn đêm kêu chít chít, chúng đập thân vào hông xe bồm bộp. Dế gáy ré ré. Muỗi vo ve nhiều vô số kể. Ếch nhái uồm uộp xa xa. Thỉnh thoảng con cú nấc từng tiếng cụt lũn, nghe ớn lạnh giữa khuya muôn trùng khổ ải, đơn điệu, hoang tàn đầy kinh dị.
Qua khỏi bìa rừng âm u thì đoàn xe đến chùa Ông nghi ngút khói hương trang nghiêm và uy linh nầy là do người Hoa dày công xây dựng, chùa được chạm trổ tinh vi từ lâu đời: Tường vách, câu đầu, sà ngang, đòn bẩy, đều chạm hình hoa lá, cây cỏ, hình người và muôn chim, trông thật hài hoà tuyệt đẹp.
Đêm nay anh em trong đoàn Tâm-lý-chiến Sư-đoàn 2 diễn xuất tại khu vực chùa Ông cho đồng bào cư ngụ trong vùng, và ở vùng lân cận như: Nghĩa Hoà, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, vân vân… đến xem văn nghệ giải trí. Mỗi khi có trình diễn văn nghệ tại các khu công cộng thì: Dân Vệ, Nghĩa Quân, Công An, Cảnh Sát, An ninh Quân Đội, Quân Cảnh có bổn phận lo giữ an ninh trật tự, bảo đảm cho diễn viên cũng như cho đồng bào. Người đàn bà già nua hớt hãi tất tả quảy quang gánh "triêng gióng nợ đời" độc nhất vô nhị trên vai, lưng bà càng còng xuống những cố gắng vĩ đại. Phía trước triêng gióng là thằng cháu đích tôn, nó mệt mỏi co ro oằn mình ngủ gật trong thúng. Vòng tay thằng bé vẫn ôm bức tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp! Chiếc nôi đời kẽo kẹt trên vai bà cụ gầy ốm đong đưa lên xuống nhịp nhàng theo từng bước bà di chuyển. Cái thúng sau lưng bà là mớ gia tài lộn xộn: áo quần, túm gạo đựng trong bị cói cũ, tô chén, son nồi đen thui luộm thuộm, linh tinh... Hai bà cháu sống còn đang dắt díu nhau bò lê trên dòng đời đầy binh lửa. Bà vừa chạy vừa kêu to:
- Bà con ơi! Chờ tui đi coi văn nghệ với chớ.
Trăng chưa mọc nên trời tối đen. Bóng tối ghê rợn buồn bã bao bọc làng quê lập lòe bầy đom đóm lung linh bao điều bí ẩn. Tất cả mọi người ngồi bó gối dưới sân cỏ há hốc miệng nhìn lên. Khán giả đa số là ông bà già, nhiều nhất là mấy bà xồn xồn. Đa số dân làng lặng lẽ, ánh mắt xa xăm, lớp da dày khô khan thấm đất bùn, chân không nứt nẻ, sần sùi, từng vết nhăn trên trán cụ già trầm tư ngồi bó gối bên bậc thềm. Người già có đôi bàn tay gân guốc gầy trơ xương, nhăn nhúm nắm chặt vào nhau, như bóp chết uẩn khúc hờn tủi, khổ đau từ kiếp người nghèo nàn ở xã hội đang vào độ chiến chinh vỡ bung ra trong đất nước. Nhiều trẻ em lớn tồng ngồng cỡ mười hai, mười ba tuổi. Hiếm thấy thanh niên nam, nữ, từ hăm mấy ba mươi, bốn mươi tuổi ở trong làng. Họ đi đâu hết rồi nhỉ?! Hoài đứng bên cánh gà sân khấu nhìn xuống khán thính giả: Lũ trẻ con, đứa chạy, đứa bò, đứa lết đít kéo theo những vệt bùn loang trên mặt đất ẩm ướt. Những đứa trẻ thôn quê lọ lem đen đúa ở trần, hoặc mặc nính áo dài lụng thụng thay quần. Có đứa mặc chiếc quần cháo lòng vá chằn vá đụp, những em bé nhỏ xí đa số hầu như không manh vải che thân, trần truồng như nhộng. Trừ mấy đứa quá lớn thì có quần đùi. Đầu tóc chúng bù xù, mặt mũi lem luốc như chú mèo vá, tấm thân èo uột, bụng ỏng đít teo.
Rải rác có số ít thanh thiếu niên lẫn lộn thì chẳng thua gì mấy người lớn, mặt mày hốc hác bơ phờ, trông họ mỏi mệt, già nua trước tuổi. Quần áo họ bạc phếch vá chằn vá đụp che thân hình gầy còm xanh xao, hốc hác, in dấu ấn khổ cực triền miên, lam lũ, đói lạnh, hằn trên vừng trán, dưới đuôi mắt mệt mỏi lờ đờ, nơi bao mái tóc ngã bạc trước thời gian xô sóng gió. Thật xấu hổ! Ôi! Nhưng mà… chao ơi! Giữa cảnh khốn cùng, nghèo đói, chiến tranh liên miên, bệnh tật cùng khắp, thiên tai luôn bám sát người dân dai hơn điả đói. Nhất là ở miền quê thì bộ mặt thật của sự nghèo đói cơ cực thấp hèn càng lồ lộ phơi bày! Còn ai hay biết gì mà xấu với hổ cơ chứ! Hoài thù ghét chiến tranh, nhưng nàng rất yêu các em thơ trẻ thật thà, thương những cụ già chân thật hiền hậu, mến từng bạn trẻ cùng trang lứa, tiếc vồng sắn nương khoai nơi cư dân trong vùng đã nhọc nhằn vất vả lam lũ tưới từng giọt mồ hôi lên đất khô cằn, để chắc chiu canh tác nghề nông, làm vườn, làm rẫy.
Quần chúng không ngừng đông lên, lớn rộng ra trong sân xem văn nghệ như nước tràn bờ. Vì lâu thật lâu ở nơi xa xôi hẻo lánh nầy mới có đoàn kịch của Sư-đoàn 2 dám cả gan tới đây trình diễn. Ngoài ra ở đây hiếm hoi có các môn giải trí lành mạnh khác trong vùng chiến tranh! Họ bắt đầu leo lên chỗ cao, trên bờ tường, gò mối, ụ đất, cành cây. Giờ phút chờ đợi xem văn nghệ khi đôi cánh màn nhung đỏ chưa kịp kéo mở thật mệt mỏi, bực bội, ồn ào. Tiếng la ó chửi bới, vênh váo, láu cá, rủa nộp, xô đẩy nhau, tranh giành chỗ ngồi càng lúc càng gây thêm nỗi bất bình. Một vài vụ đánh lộn, ẩu đả nhau đã xảy ra. Người Việt Nam vốn dĩ da vàng mũi tẹc, nhân cơ hội nầy mũi sưng tấy lên cao (như vị cố vấn James Webb). Da vàng bủng, trở thành trắng nhợt như con ma da; hoặc đỏ gay (như ông da đỏ Joe, phụ tá cố vấn Mỹ). Người Việt mình bị "dộng cho lai căng" như rứa, trông thiệt khó chịu. Thật khó coi!
Trúc mặc áo mini robe, bên trong soutien có nửa vòng nòng sắt độn khéo, nâng bộ ngực nở nang lên cao. Trúc cùng bạn biểu diễn các điệu: Rumba. Bebop. Boston. Valse. Tango. Cha Cha Cha. Pasodoble... mở đầu chương trình ca nhạc kịch bằng bản nhạc đồng ca “Vó Câu Muôn Dặm” của Văn Phụng: “Một đoàn trai đi khi xuân tới. Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi. Non nước khi xa vời, ta đã yêu thương đời. Đừng e nắng gió sương bạn ơi!... Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la. Ta vui câu ca, những đêm xa nhà, cùng ngồi bên đá… Mai vó câu lên đường. Đem chí trai can trường. Đời ta sống thác vì cố hương”. Đồng bào nồng nhiệt vỗ tay và reo hò “Bis” – “Bis” – “Bis”. Thế là các anh chị em vui vẻ hướng chí đầy nhiệt huyết đồng ca tiếp bản nhạc: Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Tiến trên đường cát trắng trắng xóa. Tiến trên đường nắng chói chói lóa. Trên đồng lúa theo cánh chim trời bay trên cao. Cánh đồng lúa in sắc chân trời mây lan xa. Ngựa phi ngoài xa thật mau. Lúc nguy nàn ta yêu thương nhau. Lúc bên đời quyết sức phấn đấu. Giống Tiên Rồng hết sức phấn đấu. Cùng mây nước ta hát vang lừng trong nắng vàng. Nhìn mây nước ta hát vang lừng trong nắng đào... và tiếp theo liền: “Bánh Xe Lãng Tử” cuả Trọng Khương. “Bánh xe quay nhanh nhanh, chiếc thân xe rung rinh chìm trong làn cát trắng. Xe nhịp nhàng quay bánh lướt. Hình xe mớ khuất trong mênh mông. Ta luyến lưu một kiếp giang hồ, dù rằng cuộc sống vô bờ, tim nồng tràn máu vô tư. A ha ha! Thu Hoa ca bài: “Biệt Kinh Kỳ” của Lê Minh Bằng: “Bạn ơi. Quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...” - Thái Hùng đơn ca “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: “Với bao tà áo xanh, đây mùa thu. Hoa lá tàn, hang cây đứng hững hờ. Lá vàng từng cánh rơi từng cánh. Rơi xuống âm thầm trên đất xưa…” . An Ngọc ca: Tình Nghệ Sỹ của Đoàn Chuẩn Từ Linh: ... Mối tình nghệ sỹ như giấc mơ, chóng tàn vì vướng muôn ý thơ... thật tuyệt vời.
Thế rồi màn ảo thuật tuyệt diệu do hai anh Tâm và Vị trình diễn khá độc đáo. Vỡ bi kịch cũng không kém phần sống động, và giữa chương trình có ngâm thơ. Tiếp theo là đôi song ca Huy Tuấn và Lan Anh qua bản nhạc: “Gửi Người Em Gái” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: “Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng. Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng. Hà Nội chờ đón tết, hoa chen người đi, liễu rũ mà chi. Đêm tân xuân hồ Gươm như say mê. Chuông reo ngân Ngọc Sơn sao uy nghi…” - Tuyết Ngọc Trúc, Hương Hoài và Thu Hoa trong tam ca: “Ngàn thu Áo Tím” của Hoàng Trọng, Vĩnh Phúc: “Ngày xưa xa xôi em rất yêu mầu tím. Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến. Chiều xuống áo tím thường thướt tha. Bước trên đường gấm hoa. Ngắm mây chiều thướt tha…” Gợi Giấc Mơ Xưa do Lê Hoàng Long được anh Thế Vị ca: ... Ngày mai lênh đênh trên sông Hương, theo gió mơ hồ hồn về đâu. Sóng sầu dâng theo bao năm tháng, ngóng về đường lối cũ tìm em.... Thương em thì thương rất nhiều, mà duyên kiếp lỡ làng rồi... Xa em lòng anh muốn nói bao lời gió buông lã lơi... Hình bóng đã quá xa mờ dần theo thời gian, kiếp sau xin chấp lời thề cùng sóng bước lang thang. Em ơi! Tình duyên lỡ làng rồi... Còn đâu nữa mà chờ, anh đi lòng vương vấn lời thề, nhớ kiếp sau chờ nhau... nghe thật nồng nàn trữ tình nhớ nhung và buồn quá chừng!
Những điệu hò câu hát dân ca Nam-bộ. Hò Mái Nhì. Hò dân ca Quan-họ thật ý nhị súc tích, trữ tình, xen kẽ trong những vũ khúc xuân tình lả lướt mời mọc, được các anh chị em nhiệt tâm cung hiến cho qúy khán thính giả xem say mê. - Tiếp theo là đồng ca bản nhạc “Huynh Đệ Chi Binh” của nhóm AVT - Lữ Liên – “Huynh đệ chi binh là gì đó anh Hai? Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình... Huynh đệ chi binh là... Từ người đơ dem cùi bắp, rồi thì đi lên Đại tướng đều là huynh đệ chi binh...” thì trong sân Chùa hầu như được bản nhạc vui nhộn nầy làm cho kích động thêm, đồng bào hâm mộ nồng nhiệt vỗ tay hưởng ứng và hứng khởi hẳn lên. Một màn hài kịch vui tươi lành mạnh, cười ra nước mắt lồng qua bài thơ, vui ơi là vui. Anh Cương muốn thay đổi bầu không khí “bi kịch” vừa rồi, nên anh ngâm bài thơ hài hước tiếu lâm: Tỏ Tình Thầm Thẹn
Tôi thấy thơ thầy trên trường trắng tinh.
Trái tim tôi thổn thức, tự tâm tình.
Thân trai tứ thời tình thương thiếu thốn…
Tại thầy trấn thủ tuốt triền thôn Thượng!
* Tình ta thật trắng trinh tợ tuyết trong.
Tình thương thắm thiết tương tựa trăng tròn.
Tôi trao tận tay thầy tình Tò Tí...
Thư tình tôi thành thật, thêm thương thầm...
* Thật thảm thay từ thời trai thiếu thốn!
Thế thì thầy thích… “thì thọt thầm thì”…?
Thầy thử tìm tòi thi tứ trên trang Thơ.
Thấy tôi, thầy tối tăm tâm trí.
* Tại tôi thỏ thẻ: “Tui thương thầy thiệt”.
Tỏ tình thầm thẹn, tôi tưởng tượng thế.
Tự tâm thầy trăn trở. Ta tiếc thầm.
Thầy thấy tôi, thì thầy thương thích thôi…. (*)
Đồng bào vui vẻ hân hoan khi xem các đoạn hài kịch, và thích thú vỗ tay qua màn tân cổ nhạc giao duyên. Thế mới biết: Từ trong lớp vải sờn rách thô sơ, họ còn một trái tim nóng bỏng cuống quít gọi tình. Họ cưu mang tình tự quê nhà thắm thiết, dạt dào tình quê chân thật. Ngọt ngào, vời vợi luyến lưu như men nồng, keo thơm toả nhựa mật từ hương hoa, khiến mình ngây ngây, say say, mê mê. Đám trẻ thả diều hôm trước thấy Hoài đứng ca múa trên sân khấu, các em ngồi bệt dưới đất vui vẻ say sưa nhìn cô, và kêu réo nhau nháy nhó xầm xì chỉ chỏ Hoài. Các em liên tục vỗ tay hoan hô. Không vì Hoài hát hay, vũ đẹp, mà do các em mừng rỡ hạnh phúc bé nhỏ khi thấy em người quen biết.
Chợt có tiếng gọi nho nhỏ:
- Hoài!
- Tuyết Ngọc Trúc!
- Mai Hồng!
Trúc vụt quay đầu lại, reo lên:
- Aí chà chà. Anh Đan, anh Đan kìa!
Ôi! Đan ngày ấy đã lội qua sông rộng nước lớn, để đi tìm người em nhỏ bên tê bờ đó mà̀. Nay anh vượt biên thùy chông gai xa xôi ngàn dặm sơn hà, Đan về đây tìm gặp “nàng”, là điều Hoài chỉ thấy có ở trong mơ. Nghĩ mà thêm trĩu nặng góc hồn... Thế nhưng Hoài đã nhận ra anh Đan thật! Thoáng mắt thân thương hai người giao nhanh, reo vui bằng đuôi mắt. Thấy Hoài nhìn, khuôn mặt Đan sạm nắng gió phong sương khuya chiều nhuốm vẻ ưu tư, đã dịu hẳn đi trong nụ cười ấm nồng trìu mến. Hoài nín lặng nhìn Đan đăm đăm, và cảm thấy lòng thích thích sợi tóc ương ngạnh bỏ mái lòa xoà trên trán Đan không đội chiếc nón sắt (như mấy lần trước). Hoài thương thương viền mi dày dài và cong vút chơm chớp mắt nhìn trìu mến, ưa ưa nụ cười Đan rộng mở, thích từng khóa sol in rải rác trên chiếc áo sơ mi màu vàng nhạt, cùng cái cà vạt nâu lủng lẳng kẹp cài, quần tây mầu biển đen đậm, anh mang đôi giày da thời trang đen bóng. Biết nói thế nào cho trung thực nhỉ! Lần đầu tiên Hoài thấy Đan mặc thường phục; Dễ thương ư? Hoài không chối cãi điều đó. Tuy nhiên, Hoài nhận thấy hình như Đan mất đi một nửa dáng dấp hùng tráng oai dũng của người lính đượm phong trần rùi. Điều đó cũng đúng thôi. Nếu các anh xông pha ra trận, mà các anh mặc áo sơ mi ca rô hoa hòe, quần nhung dạ hội. Thì các anh có cầm súng cối, súng trường, lưng nịt đầy đạn, mang giày tây, đầu đội nón bành như thời trai tráng hero hiệp sĩ xa xưa đi chăng nữa. Coi bộ dạng qúy anh vẫn yếu xìu... công tử bột! Còn đánh đấm gì ai cơ. Đan hỏi:
- Các em có bận gì không hở?
Trúc nhanh miệng đáp:
- Không anh. Tụi em đi tà tà nè.
- Vậy thì tốt. Mời các em vào tiệm ăn tô bún, uống ly nước nhe.
Các cô í dà… ỏn ẻn quay người bén gót theo sau lưng Đan vào tiệm ăn cho lẹ lẹ. Rủi mà… sợ Đan đổi ý, thì các cô buồn xo trăm phút, chớ không buồn năm phút đâu nà và xúi quẫy hết biết. Bữa ăn dẫu tình cờ nhưng đầy đủ các món. Khung cảnh ấm cúng thanh lịch. Nhạc chọn lọc mở nhè nhẹ êm êm, với bình hoa lys cắm trên bàn phủ khăn trắng, thì còn gì tuyệt diệu bằng ở buổi tối trời oi nồng ngoài khung cửa.
Các cô vào trong tiệm, thì thấy có các anh ngồi với nhau: Thọ, Văn, Quân, Bảy, Hộ, Tí, Hà. Không hiểu sao hôm nay đã thiếu vắng anh Lê Văn Trọng???
* * *
Đêm trình diễn văn nghệ rất thành công, kết thúc tốt đẹp. Tấm màn nhung đỏ khép lại lúc gần một giờ sáng. Đồng bào vui vẻ ra về hết, chừa khoảnh sân chùa Ông trở lại u trầm vắng lặng, buồn bã như cũ. Tuy riêng buổi công tác nầy thì Trúc và Hoài không đạt kết quả mỹ mãn như ý, bị phê là kém nhất kể từ khi đi làm. Làm sao được!? Khi trong bất cứ hoàn cảnh nào, Trúc và Hoài muốn vươn lên, cố gắng hết mình, dù thật khó khăn. Còn lòng dạ nào mà ca với múa, khi nhìn đồng bào cơ cực lầm than đến vậy?
Cả đoàn tâm lý chiến hì hục tháo gỡ rạp sân khấu, lụi hụi chất đầy cây gỗ nặng lên hai chiếc xe GMC. Anh Thái căn dặn đoàn đi công tác, phải hết sức dè dặt, cẩn thận:
- Đi đâu, các anh, các cô nhớ đi chung với nhau nhé, không đi lẻ tẻ. Bị bắn tỉa, bắt cóc bịt mắt, dẫn vào "bưng". Chết đa.
- Mình đi làm chuyện giúp ích, hữu dụng cho mọi người mà. Anh nói gì, nghe ghê thấy mồ vậy? Anh Thái!
Phòng 5 giữ một khẩu liên thanh nhẹ ba càng, đạn lên nòng, phòng hờ khi bất trắc. Thật ra, chưa bao giờ đoàn người nầy phải sử dụng nó. Hoài sợ nhất là tiếng súng đại bác đặt phía chéo ngọn đồi, nghe chát chúa, lạnh lùng, khô khan, mãnh liệt, chính xác. Mặt đất rung chuyển, gầm rú vang động dữ dội, hung tàn, man rợ. Sức ép của nó khiến ta nghẹt thở, lồng ngực nóng ran cào xé đau buốt, nhức nhối vô cùng. Đoàn công tác Phòng 5 leo lên ba chiếc xe lính chạy đến vùng Sơn Hà.

* * *

(*) Thơ tìnhhoàihương
Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Post by tinhhoaihuong »

Gánh Đời Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
Phần Thứ Nhì
Chương 10

:shock: :) :roll:

Đời Lính Chiến Đượm Phong Trần





Con đường phiá trước bỗng dưng có quyện từng đám bụi bay mịt mù. Phút chốc sau đuôi xe mặt trời nhẹ nhàng rón rén le lói vươn lên, len lén tỏa màu hồng tươi, xen lẫn màu đỏ thắm và chan hoà màu vàng tía, như gom cả ánh sáng óng mướt đầu ngày vừa hé.
Ngày tàn... Rồi ngày lại ngày tiếp nối qua nhanh, lạnh lùng qua nhanh không thể đổi mới hơn. Cuộc sống tao loạn bắt đầu rơi rải rác khắp nơi trên chiến trường Việt Nam; sôi sục, bùng nổ dữ dội từ năm 1962. Nhiều vùng đất xôi thịt lẫn lộn dọc miền Trung không thể phân chia ranh giới, không còn kinh tuyến, vĩ tuyến ra chỗ chi tê mô răn rứa hết rồi! Trận bão lửa. Đạn pháo tầm gần tầm xa tạo thành cơn cuồng phong quay tít hỏa mù, xoáy bốc, hung hăng điên cuồng hung bạo. Đạn lửa xẹt xẹt bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại như màn nhện đỏ ngầu gớm ghiết lăm le dội trên đầu mọi người. Hằng chục quả đại bác không giật, đại liên nổ ầm ầm, ghê rợn, bay vút lên trời, rơi xuống ngọn núi cao, toé ra muôn ngàn mảnh đỏ, đụn khói cuồn cuộn phụt lên, phụt lên cao, cao ngất lưng trời... bụi lửa mù khói ám chướng che khuất góc núi xa xa. Dường như đêm đen ghê rợn nhờ ánh mắt hoả châu đỏ rực luôn luôn nở rộ trong bầu trời hắc ám, đã rọi chút ánh sáng hiu hắt rồi vội vàng tắt ngúm, trả lại đêm đen hãi hùng nên coi càng ghê rợn.
Chớp nguồn rực lửa từ trong bóng tối. Vẫn cung cách ấy, không khí ngột ngạt nặng nề, oi nồng khó thở. Khói lửa phủ chụp trên đầu. Dù nơi nầy, kinh khủng hơn đất nước nào xa lạ khác. Dù cho quê hương tôi ngất lịm giữa ngàn đắng cay, đau đớn khổ ải không kết thúc. Người, người vẫn đi giữa hai lằn đạn. Đi đi…, đi mãi... lúc tháng năm lạnh lùng trôi qua. Tuổi thanh xuân. Sức quyến rũ. Tài nghệ bẩm sinh. Trí dục, đức dục. Niềm tin yêu dần dà tàn phai, phôi pha, thản nhiên trôi qua trong cảnh phù sinh kinh hoàng. Ôi! Biết làm thế nào hơn khi chiến tranh dừng lại cúi nhìn. Tất cả đều tàn bạo, dửng dưng. Khi chiến cuộc tỏa sức sống xoáy đảo ác liệt, quay tròn lông lốc. Vun vút bùm bùm… ầm ầm… kéo theo chuỗi bi thương tột cùng. Hung hăng. Kinh hoàng bao giếng mắt đẫm lệ vĩnh viễn chia ly như Lamartine đã nói: "Chính hài cốt của người quá cố, đã cấu tạo thành Quê Hương" ấy mà.
Bị bắn trực xạ, có lẽ là gần lắm, cả chục miểng nhỏ li ti ghim vào đồng đội. Sau vài giờ giao tranh cận chiến ác liệt, phe kia lùi lại trong rừng già, rồi địa pháo rót bừa bãi tan nát, tơi bời các hầm cư dân, bom đạn bay tứ tán bất kể chỗ nào, dù nơi đồng bào đang ở trong vùng cận chiến hiểm nguy. Súng đạn làm người dân vô tội lo sợ kinh khủng, hớt hải quýnh quáng lo chạy thục mạng vào chùa chiền trú ẩn, họ khẩn thiết cầu xin Trời Phật mở lòng từ bi độ lượng hải hà ra tay cứu giúp con người đang sống trong cảnh chiến tranh, lầm than, đầy tang tóc, điêu linh, hãi hùng, quái ác quá kinh dị. Họ nhắm đôi mắt, bàn tay cầm chặt chuỗi hạt, miệng lẩm bẩm cầu kinh. Họ không dám nhìn cái đầu mất mũ sắt, mặt đầy máu, văng óc bầy nhầy trộn với đất cát tro bụi. Trong tro có chất khoáng mặn làm cho bờ môi người dân thêm nặng giọt sầu trộn mồ hôi muối đắng chát. Nặng nề nhất vẫn là các nơi đình, chùa, miếu, nhà thờ, bị tàn phá, hủy diệt nơi thờ phượng trở thành bia đỡ đạn. Chiến tranh vô tình bay tới, hay do bàn tay hung thần cố ý cấm đoán tự do tín ngưỡng?
Đôi mắt Kim lệch tròng lòi ra, trợn ngược nhìn trừng trừng. Miệng Tam há hốc, nhăn răng, lưỡi le dài thườn thượt. Thân hình Phan cong gập, tay chân co giật run rẩy từng cơn nẩy trước khi anh sụm xuống. Dĩ nhiên cuộc đời và sự sống là: Sinh. Lão. Bệnh. Tử... Có sống thì có chết, ở đời chẳng có gì trường tồn vĩnh cửu cả! Họ bất động vĩnh viễn trong nỗi yêu thương dày vò xay xát quằn xiết; như có ai lấy con dao lóc từng đoạn thịt, khiến người thân nhìn mà đau tột độ. Nhưng có một thời những chàng trai ấy sống đã từng phân vân, bối rối, phập phồng đứng tư lự ở ngả tư, ngả năm băn khoăn trước sự lựa chọn, rồi dứt khoát bằng lòng với cuộc đời lính chiến bây giờ! Thân trai biết cam chịu tuân phục và chấp nhận trung thành với tổ quốc; trong lòng họ suy niệm một điều duy nhất: bảo vệ tổ quốc, quê hương và dân tộc Việt Nam đến hơi thở cuối cùng. Không phải họ chỉ dấn thân hành động (để bảo vệ quê hương sớm thoát cảnh điêu linh bạo tàn), mà họ còn gánh lấy trọng trách giữ gìn từng tấc đất do ông cha truyền lại: từ cây đa gò mối bụi tre bên những bờ thôn xóm đã được mọi người tín cẩn giao phó. Họ có ý chí quyết chiến vì lý tưởng, hoài bão và chính nghiã để giành thắng. Tài sản trân quý nhất trong quân đội là sự cân nhắc, đắn đo, thận trọng, suy nghĩ và giàu kinh nghiệm... Chiến tranh không thể chiến thắng chỉ bằng hy vọng thôi, cũng như họ không định dùng những hòn đá cuội để vung tay giơ cao lấp biển vá trời. Kẻ thù nội tâm không thấy mặt mới thật là đáng sợ hãi, và kẻ thù lớn nhất cuả người lính là những tảng đá nằm lì đè nặng trong lòng về tính đa cảm, nhân nhượng và nỗi run rẫy giằng co níu kéo âu lo khi ra trận. Càng chẳng phải họ là những người lính “thời thế thế thời phải thế” mà họ dám hy sinh sức trai đầy tươi sáng hứa hẹn ở tương lai, tình yêu, gia đình; để ghé vai gánh vác bổn phận, trách nhiệm và danh dự cuả tổ quốc đang kỳ vọng! Tấm lòng cao cả biết hy sinh gian khổ nhọc nhằn ở tại chiến điạ vì người khác (cuả người lính Cộng Hoà Việt Nam): không thể có ai sánh bằng! Họ chỉ cần giữ vững lập trường và mạng sống khi lâm trận bây giờ, thì mai sau sẽ làm thành đại cuộc. Thế nên nếu họ phải hy sinh mạng sống, thì cái chết chính trực cuả họ thực ra không hề thấp hèn! Thật đáng lưu danh thiên cổ trân trọng ngưỡng phục và không vô nghiã.
Đại tá Phát cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Tuyết Ngọc Trúc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân rất vinh dự đã theo học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao tranh không chợp mắt, Hoài trông ông có vẻ hơi mệt do tấm bản đồ hành quân địa phương: chằn chịt dấu mực khoanh tròn xanh, đỏ, ghi trục toạ độ và đóng quân. Màu nâu ghi vùng cao độ. Điểm chuẩn của trục trung độ và hoành độ được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ: lên, xuống, phải, trái. Ông ra khẩu lệnh gọn gàng. Tuy thế, ông không mấy mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây mầu xanh đậm, đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng (có lính o bế, chăm sóc kỹ càng). Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, mắt đeo kính đen, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu làm gậy chỉ huy. Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ trung tâm huy hành quân nầy. Ông tốt nghiệp khoá 1946–1947 École d'Elèves-Officiers d'Extrême-Orient của Pháp ở Đà Lạt, (Peloton Inter-Armes d'Extrême-Orient, Khoá Liên Quân Viễn Đông). Ông đậu thủ khoa khoá sĩ quan Đông Dương mang tên Promotion Indochinoise Quân Đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng như: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Đại-tá chỉ huy Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
Đại Tá Phát vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với ông Rufus Phillips, là Giám-đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ), ông Giám-đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, đồ hộp, mỡ Trừu, nho khô, hàng ngàn bao bố áo quần mới toanh có dấu Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân...
Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh: "Du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ. Ắt hẳn "anh chàng Mỹ" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy (dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của Cộng Hoà Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ đi chăng nữa). Vả chăng khi "chàng Mẽo" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" miền Nam Cộng Hoà Việt Nam hãy bắt tay với Mỹ Quốc viện trợ: Trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao!? Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt: Việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện, chính là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ kia: Nhưng, thực tế trước nhất là xin cung cấp tiếp tế: văn phòng phẩm, dụng cụ máy móc tinh vi, thuốc y dược, nhu yếu phẩm, vật liệu làm nhà tiền chế, xi măng, ống cống, cung cấp xi măng, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu đường, v.v... hầu tráng những con đường nhựa cho tươm tất. Cùng các giao hảo dân sự tốt đẹp khác sẽ tính sau. Chàng Mỹ nói:
- Sure. Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OK!
Mấy ngày sau thì vẽ bình tĩnh, bàng quan của thôn xóm có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ tai hoạ khác bất ngờ ập đến. Các cô quân nhân trẻ dần dần có bình tĩnh đôi chút, nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các quân nhân dạn dày sương gió từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn chiến trường. Nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ. Nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải. Các cô nhận biết, nghe quen tai, phân biệt rõ khi tiếng súng bắn đi và câu vào. Tuy đôi lúc bất thần họ còn run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì. Riết rồi điếc đặc không sợ súng thật.
Hoài nhắm mắt, cúi gập người xuống, hai tay bưng đầu, run rẩy, lo sợ tột cùng. Nỗi khiếp sợ càng mài liếc xuống bờ ngực nàng thêm phập phồng, nhấp nhô, cho đau đớn dần dà thấm đẫm vào từng chân tơ kẽ tóc. Hoài thấy ngày cũng như đêm, cứ tưởng lúc nầy là hoàng hôn dìu dịu, trộn lẫn bình minh tuyệt đẹp ẩn trong các đài mây ngà ung dung bay bay, lờ lững trôi trôi trên đỉnh bình yên. Riêng Hoài điếc thiệt rồi mà hai con mắt còn nhướng lên mở trừng trừng nhìn đầu đạn bay vun vút. Nàng thập thò lấp ló run run đi ra, đi vào trong lều bạt, thấp thỏm sợ sệt nhìn về mấy ụ súng. Khi nòng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi xi xẹt xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung, từng đống đít đạn lộp độp rớt xuống chân giàn trọng pháo: Ùm… Oằng… Pằng… Pằng… Pằng. Tạch Tạch Tạch… Bùm! thì Hoài sợ hãi kinh khủng, nàng tái méc mặt mày, mắt trợn trừng nghiến chặt hàm răng trèo trẹo ken két. Hoài lo nấp vào góc nhà, rụt cổ co rúm người, ngồi hụp xuống đất chẳng dám thập thò lấp ló dòm ngó đâu nữa. Hai tay Hoài bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng, đứt quãng như muốn hụt hơi.
* * *
Dọn dẹp sân khấu, chất đầy lên hai xe GMC xong, đã hơn nửa đêm. Anh em chia nhau vào quanh xóm, xin ngủ nhờ ở ngoài vỉa hè nhà đồng bào. Mọi người mở ba lô lấy poncho ra lót dưới đất thay giường, hai ba anh nằm chung một khoảng đất, bên trên đắp poncho. Gặp ngày mưa tháng giá thì lính dùng làm áo đi mưa, poncho càng hữu dụng khi làm tấm tăng che nắng che mưa. Đời nhà binh ai ai cũng có ba lô làm gối kê mái đầu khi đi hành quân gian khổ, có ba lô làm bạn đời đầu gối tay ấp; poncho thay mền đắp ngủ, dù đắp nó vào mùa hè trời nóng thì mình mẫy đẫm mồ hôi như ngồi trong nồi nước xông hơi. Riêng sáu cô gái, thì anh Phước đã xin ông bà cụ Liêu cho họ vào ngủ nhờ ở bên chái nhà trống, nơi ấy gia chủ dùng làm chỗ giả gạo, đựng những dụng cụ đồng áng linh tinh. Do quá vất vả mệt nhọc, nên vừa ngả lưng xuống poncho, mặc muỗi vo vo nhiều vô số kể o o bên tai, mặc bầy giun, bọ hung, kiến gián, hay chuột lắt có làm giặc gần đó, thì hầu hết anh chị em cũng ngủ say.
Bỗng loạt súng nhỏ nổ dòn bên rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) vang lên. Mọi người ú ớ choàng thức dậy, vụt ngồi lên ngơ ngác nhìn quanh. Đạn bay vù vù trong không khí. Họ thảng thốt ngóng ngó... nghe đạn nổ từ hướng nào. Họ sợ hãi nằm bẹp xuống, người nầy chồm lên người kia, kêu thất thanh như con heo bị chọc tiết. Họ thì thào, sờ soạn, níu tìm nhau trong bóng tối. Thời buổi nầy, thà chịu tối, sẽ yên thân, hơn thắp đèn đóm làm gì. Có đèn chẳng khác nào: "Lạy ông, tôi ở bụi nầy". Đi đâu mò mẫm sờ soạng như người mù, mà chắc ăn. Trung úy Phước để ngón tay trỏ lên giữa môi, thì thầm rất khẽ có ý bảo im lặng, anh ra dấu cho anh em cấp tốc di chuyển đi chỗ khác. Đó là khuôn mặt của một người đầy tự tin, đã có vợ và bốn con. Anh cứng rắn và quyết tâm hướng dẫn anh em trong giờ phút nguy hiểm nhất. Anh ghi nhận nguồn tin cẩn thận, xem xét điạ đồ, địa hình chính xác, điều nghiên, thực hiện ở mứt tốt nhất. Anh nào dám ẩu, liều lĩnh đưa Đoàn 5 vào chỗ thập tử nhất sinh. Trong Phòng 5 kính mến vị chỉ huy cuả mình, có đôi khi anh em đi hơi lệch hướng, thì anh Phước có bổn phận giải thích cặn kẻ vùng đất mới đặt chân lên ở đâu đó, cho cả phòng biết nó có ưu điểm và khuyết điểm gì cần bổ túc! Anh là người duy nhất có thể điều hành và bảo vệ anh em. Anh xem binh lính Đoàn 5 như em út thân thương và là báu vật để anh chỉ huy. Là sĩ quan đức độ từng trải nơi chiến trường, anh hiểu rõ mưu lược, am tường đối phương, anh không cầm con dao nhọn xoáy vào tim đồng đội.
Rừng cây không tên mọc đủ mọi thứ cây ba láp rậm rạp, chằn chịt um tùm, thật khó vạch lối đi. Hai tay họ luôn chuồi ra phía trước, để giạt lối tìm đường. Cành cây xum xuê khô cứng cao tới ngực, tới đầu. Có cây trụi lá nhưng thân và cành đầy gai, cào xướt rách mặt, tay, chân. Cành tuy nhỏ nhưng dẽo dai như cây roi quất vào thân ta những lằn đỏ nhỏ, đau điếng. Người đi sau nối chân người đi trước thành hàng dọc. Họ lầm lũi khom mình bước đi êm ru giữa chỗ lạ cái lạ nước. Bất cứ đâu đâu, cũng có kẻ thù hiếu sát độc hại rình rập bu quanh, mình không có gì che chắn, dù đã co rúm người lại lũi nhanh. Ấy vậy mà ta vẫn cảm thấy như phơi thân lồ lộ ra giữa trời, làm mục tiêu cho địch nhắm vào.
Tìm ra chỗ đậu xe rồi. Mọi người hối hã leo lên. Hai xe GMC để đèn mắt mèo, chạy quá chậm trên đường gập ghềnh bờ mô ụ đất. Anh Phước ngồi ở chiếc xe jeep chạy tiên phong, Đoàn 5 sẽ “bí mật” di chuyển lên vùng lân cận khu Tà Biên hay Minh Long gì đó.
Đến một cánh đồng khô ruộng đã gặt, chỉ còn trơ lởm chởm cuống rạ. Tất cả ba chiếc xe tắt đèn, xe mò mẫm chạy chậm chạp, gập ghềnh ì ì ù ù trong bóng đêm. Xe chạy trên đồng ruộng khô cuống rạ nên quá khó khăn, như con rùa bị thương bò lết trên đường nhựa bốc hơi nóng. "Phe ta" ra dấu trao tín hiệu cho nhau bằng máy truyền tin PRC – 25. Đơn vị bạn nhận ra bạn láng giềng rồi, họ đồng ý cho ba chiếc xe của Phòng 5 vào nghỉ trong cánh ruộng khô. Đến tụ điểm của một biệt đội biên phòng trấn giữ, họ chia đều nhau ra trực gác. Phòng 5 ở cạnh một đơn vị Pháo Binh, có thiết xa M 41 trang bị đại bác, cùng máy chiếu hồng ngoại tuyến đề phòng lúc giao tranh về đêm. Trưởng phòng Phước đến từng người, anh nhắc nhở binh lính phải cẩn thận, dò dẫm từng bước đi. Ở vùng nầy thường bị đắp mô, phá hoại, gài mìn, ném lựu đạn. Người lính muôn đời Lục Quân Việt Nam đang truy tầm "chuột nhắt" mỗi ngày, mỗi giờ. Phải hy sinh trong muôn vàn hy sinh to lớn kinh khủng. Người ta trải poncho nằm chung dưới đất sình, mặc bầy muỗi, rắn, rết, sâu, bọ hung xủi đất dưới lưng. Mặc cho giun, gián, con ve, con vắt chui vào ống quần hút máu đau nhức, ngứa ngáy, sưng tấy lên từng vùng máu mủ đỏ loét! Người mắc võng trên thân cây, gió lạnh lẽo xuyên qua lồng lộng dưới xương sống. Người nằm trên đường cái. Người chui vào gầm cầu, hay leo lên các xe chất đầy đồ dùng. Đời lính đầy nhọc nhằn, gian nan, khổ sở, khốn khó vô cùng, mà sao quá bạc bẽo đớn hèn thầm lặng đến thế không biết!
Hoả châu đỏ như những đóm mắt hung thần luôn rơi xuống cuối bìa rừng, trông đơn điệu, kinh hoàng. Một tiếng động cơ rít xoáy, nghe khô khan. Cạnh chỗ Phòng 5 đang ngủ nhờ, pháo binh dùng hoả tập TOT từ nhiều hướng, nã đạn bắn cận phòng vào mục tiêu. Súng lớn bất ngờ nổ, làm mọi người quýnh quáng dáo dác lo sợ nhìn nhau. Đạn bay ngang đỉnh đầu, xẹt ra từng vệt lửa đỏ kéo dài, lướt gió vun vút bay đi. Vài giây sau, tiếng nổ ầm ầm, rền rĩ ngân vọng. Phiá xa xa nơi ấy hiện lên mấy cây nấm khổng lồ, khói xám xịt, lửa đỏ rực ở dưới mặt đất đùn lên, đùn lên, đùn lên mãi, cuồn cuộn từng vòng nấm lửa quyện khói đen to tướng, trông thật kinh dị. Trông dễ sợ vô cùng trong bầu trời khuya u ám. Mùi thuốc súng xông ra, hăng nồng, hôi không chịu thấu. Từ nắp đáy súng cối, vỏ đạn chạm vào nhau kêu lẻng kẻng, bốc khói khét lẹt, hơi giống như mùi lông da trâu bò thúi. Bùm!!! Chỉ một tiếng nổ nghe rùng rợn, ớn lạnh giữa đêm trường hoang vu cô tịch. Là dường như tất cả mọi vật, đều trở thành tro bụi, đất cát, khói đen mù mịt, lửa đỏ rực. Nóng hừng hực. Mùi khét từ đâu đó bay về, hôi không chịu nỗi. Đau buồn da diết!
Trúc và Hoài nằm ngược nằm xuôi trong ca bin xe GMC. Mở cửa kính ra, thì muỗi ào vô như bầy ong, gió rừng ùa vào lạnh kinh khủng. Đóng cửa lại thì nồng ngộp. Chịu không nỗi mùi xăng, nhức đầu lên tận óc. Xoay qua trở về một hồi lâu, Trúc gác chân lên tay lái, thì đụng phải cái còi xe. Nó "tin, tin, tin…" một hồi dài, nghe ghê rợn giữa cảnh trí im lẵng nặng nề không chút bình yên. Khiến mọi người run sợ lo lắng đã toát mồ hôi hột. Họ sợ lộ mục tiêu. Các anh chửi thề nhoi trời đất:
- . . . Đ M…
- Đứa nào ngu quá vậy? Mất dạy thật.
- Ông đá cho một cú, bay đầu bi giờ.
- Ngu như con bò. Đi ra khỏi ca bin ngay đi à.
- Coi chừng tao vặn cổ tréo ngược ra sau, thì hết ngu si.
- … Thôi. Mắt cá chân Trúc nó mù, hổng thấy đường. Xin lỗi.
- Lỗi với phải gì! Coi chừng toi mạng cả đám à nha.
Không hiểu Trúc có biết tên người vừa nói câu sau cùng đó không? Hoài thì tưởng anh ta là quen, hóa ra không phải. Tưởng vậy, nhưng nào phải người quen. Mặc các anh trong Phòng 5 và bên Pháo-binh chửi thề, văng tục quá sá. Hai cô gái nằm im re trong ca bin xe, sợ sệt ôm nhau khúc khích cười nho nhỏ. Dù Trúc có là con cháu ông Tá ông Tướng, nếu lầm lỗi khi ra chiến trường, vẫn bị anh em chửi nhoi trời đất, chả kiên nễ nịnh nọt gì! Trúc quay lại nằm cùng hướng với bạn, hai đứa nằm co quắp, chèo queo nói chuyện rù rì một hồi, bỗng im bặt. Có lẽ không phải bước chân ai dừng lại gần cửa xe, chẳng qua hai người nói rù rì, say chuyện, nên nhầm lẫn đó thôi. Trúc ú ớ vài tiếng ngập ngừng, rồi thở đều và ngáy nhẹ, cô ta đã thả hồn vào giấc mộng khuya. Hoài trằn trọc mãi không sao chợp mắt, (dù trong giây lát). Nằm mà không sao ngủ được phút nào, nên đêm hóa ra dài đằng đẵng. Từng tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên trong đêm trường thay tiếng nấc âm thầm, thay niềm đau thế sự có tác dụng bền lâu, vang dội tận đáy lòng Hoài trăm ngàn ray rứt.
Trời tối và kinh dị quá! Nhất là khi lính ăn bờ ngủ bụi, nằm trơ trọi giữa cánh đồng vắng lặng, đầy mùi tử khí. Cảm giác ớn lạnh rờn rợn toát lên từ đồng ruộng trống hoác quạnh hiu, lồ lộ màu đen xám hoang vu dị thường; thì nỗi lo lắng càng tăng.
Ngày bận rộn việc nầy việc nọ luôn luôn, khiến thể xác mệt mỏi, tinh thần căng thẳng hơn. Sự khó chịu buồn bực thường dõi theo trong lúc mình làm sang việc khác. Hình ảnh người Trưởng Ấp bị giết chết thê thảm: thân ông ta vắt trên cây cầu khỉ cheo leo. Cây cầu thân thương duyên dáng đong đưa nơi làng quê, móc từ bờ nầy sang rạch kia, qua hàng bao thế kỷ vẫn không thay đổi hình dạng, tưởng đã êm đềm, ấm nồng duyên quê. Chứ ngờ đâu, đã in dấu sợ hãi kinh khủng! Gió rít lộng qua cây cầu cheo leo lắc lư kêu kẽo kẹt, chơ vơ, trơ trọi, mà không có vật gì cản lại. Gió lạnh lùa sương dày đặc, cuộn thành từng lọn, bồng bềnh trắng xoá, mù mịt, bất nhẫn, lồng lộng thổi qua dòng sông đau thương, như đuổi theo cuộc trốn chạy miết mãi. Cuồng nộ. Không ngưng nghỉ. Không nương nhẹ.
Chuyến công tác nầy trong ký ức Hoài ghi lại những thảm thiết đã mục kích được giữa hai lằn đạn quầng xiết lấy nhau. Rụng rời… Bây giờ Hoài cách xa Đà Lạt thơ mộng và quyến rũ cả ngàn dặm sơn khê, Hoài nhớ biết mấy những giờ phút thoáng mát, êm ái, yên tĩnh và bình an. Nơi đó, mẹ đã từng à ơi ru con qua bao câu ca dao ngọt ngào, tự thuở con còn vô tư bình thản nằm đong đưa trong nôi hồng hoang, vô tư lự, dẫu trên dòng đời chao đảo, đau vùi, trôi trôi… Nào ngờ… Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của - Gánh Đời nghiệt ngã - năm 1962 - đón chào Hoài bằng những pha ngoạn mục đến thế sao!?

_ * _

tìnhhoàihương
Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Post Reply