Phấn Trắng Bảng Đen Và Lòng Biết Ơn

Tin tức về Thầy Cô năm xưa và nay!!!

Moderator: CNN

Post Reply
User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Phấn Trắng Bảng Đen Và Lòng Biết Ơn

Post by khieulong »

Image

Phấn Trắng Bảng Đen Và Lòng Biết Ơn

Tác Giả : Tạ Xuân Thạc


Có bao giờ quý vị nhớ đến cái bảng đen đầy phấn trắng có lần đã rơi trên tóc thầy cô giáo của chúng ta không?

"Nhất tự vi sư bán tự vi sư
Phi sư phụ phi đáo nhân
Dù chỉ học thầy một chữ
Hay nửa chữ cũng ghi ơn” ...

Chuyện cổ tích ngày xưa kể rằng khi nước Nam chưa có chữ quốc ngữ theo hệ thống mẫu tự ABC mà còn dùng Hán tự viết nét bằng cọ: Có một anh học trò thấy một đàn kiến khi kéo nhau bắc cầu qua sông, cả lũ kiến gần như sắp bị dòng nước lũ cuốn đi, anh động lòng từ tâm liền bẻ một cành cây bắc cầu cho kiến di chuyển. Kỳ thi Hương năm đó anh làm bài thi, rủi ro một chữ anh viết thiếu một nét nên nếu đọc thì khác nghĩa, chắc chắn giám khảo đánh rớt, nhưng may mắn thay, chữ mà thiếu nét đã được những con kiến bám chặt vào, nên nét chữ thiếu thành đủ. Giám khảo đã chấm điểm cho anh đậu khoa thi năm đó. Người đời cho rằng kiến đã trả ơn cứu mạng của anh học trò từ tâm ấy nên công danh anh được hanh thông.

Sự thực câu chuyện trên đây chỉ là dụ ngôn, mà đã là dụ ngôn thì không có thật, nhưng nó cũng đem đến cho ta một ý nghĩ “biết ơn” nào đó và cách xử sự trong đời.

Trên sân khấu của nhà hàng Hương Xưa, tôi nhìn người nam ca sĩ có gương mặt quen thuộc, có cái nhân dáng quen thuộc và lời ca tiếng hát đó lại cũng quen thuộc nữa. Xin thưa đó chính là một giáo sư trước đây cách hơn phần tư thế kỷ đã là thầy tôi. Tôi vui lắm khi nghe tiếng ca ngọt ngào, du dương mang một ước mơ về tình yêu mà người thi sĩ gửi gấm trong thơ, người nhạc sĩ ký thác nỗi cảm tác trong từng nốt nhạc, cũng như người ca sĩ cố gắng lột tả trọn vẹn nỗi bâng khuâng, khi nhân vật trong bài ca là tình nhân, hay là nỗi dịu dàng khi nhân vật ấy gần người yêu, rồi nhớ đến ánh trăng khuya của một thuở hẹn họ tình tự mà đã có khi còn ở Sài Gòn trong ký ức dấu yêu.

Trong nỗi cảm nhận miên man của cử tọa đang lắng nghe, tôi cho là cả bộ ba Du Tử Lê, Phạm Đình Chương và thầy cũ của tôi đang đứng hát thật là một sự kết hợp tuyệt diệu. Bài "Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn", hình như nó là một trong những nhạc phẩm mà ông thích thú nên khi hát, ông đã diễn tả đúng mức khi hát bài này. Tuy ông là ca sĩ tài tử, nhưng lại bắt nhịp ca trong nỗi đắm say, ông ngân dài như đưa chúng tôi về với Sài Gòn trong quyến luyến, y như cái tâm trạng mà lúc tôi đau xót rời xa chốn này:

“Đêm về trên bánh xe lăn
Tôi trăng viễn xứ, hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố, sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi, mỗi ngày mỗi xa
Đời tan, tan nát chiêm bao
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào …”

Thầy tôi, người mang bản tính năng động, ông luôn luôn vui vẻ và thích dí dỏm khi làm MC, ông trẻ trung trong giọng nói, và ông cũng trẻ trung trong tâm hồn. Lúc vừa qua ông hát, đã như lột hết tâm tình về những kỷ niệm quê hương như thầm nói:

"Các anh chị em thân mến, ngày xưa tôi đứng trước các em và đằng sau là bảng đen và phấn trắng, ngày hôm nay phía trước tôi đây cũng là các em, nhưng đằng sau tôi không còn phấn và bảng đen nữa, thay vào đó là ban nhạc đệm cho tôi hát lên những ca khúc ân tình, những hoài niệm của hoài hương và của dĩ vãng còn rong ruổi trong vùng ký ức cũ của tôi, hay cũng là của chúng ta.

Chỉ tiếc rằng những ngày cũ đó không được kéo dài lâu hơn mà phải đợi hơn một phần tư thế kỷ sau mới được nối tiếp. Thú thực rằng ngày nào tôi còn gặp lại các anh chị là ngày ấy vẫn là hạnh phúc cho tôi. Cái hạnh phúc kế tiếp là tôi được hát những ca khúc mà anh chị em thích. Như thế thì chúng ta đã có những hạnh phúc chung, hay nói khác đi là sở thích hay văn hóa chung, có đúng như vậy không các anh chị?"

Có bao giờ quý vị nhớ đến cái bảng đen đầy phấn trắng có lần đã rơi trên tóc thầy cô giáo của chúng ta không? Có chứ! Nhưng nhiều người không được may mắn như chúng ta, vì họ học ở trường đời nhiều hơn trường lớp, nhưng họ cũng học được lòng biết ơn các nhà mô phạm từ những câu chuyện nhỏ, như câu chuyện của Fred Bauer kể dưới đây:

“Hôm đó có người giãi bày tâm sự rằng họ nhận thức được dường như ít khi bày tỏ lòng biết ơn đối với những người thân sống gần gũi, hay xóm giềng lân cận đã dành cho họ nhiều điều ưu ái. Điều này nói lên rằng tất nhiên là chúng ta không nên đợi đến những ngày lễ lộc, kỷ niệm để mới nói lên lời cảm ơn đối với người thân hay ân nhân mà mình đã từng mang ơn”.

Giá như tôi học được điều gì đó về nghệ thuật cám ơn thì đó chính là: Hãy cám ơn ngay bây giờ, vì khi nói lên lời cám ơn không những chỉ làm rạng rỡ, mát lòng ân nhân mà còn thể hiện tính văn minh lịch sự của người thọ ơn. Nếu bạn cảm thấy bị hắt hủi, xua đuổi, bạn đừng vội bi quan, yếm thế mà hãy ra tay cứu vớt người khác. Rất có thể đó là phương thuốc giúp bạn tìm lại niềm lạc quan, yêu đời.

Trước khi trở thành nhà văn nổi tiếng, A.J. Cronin từng là một bác sĩ. Hồi ấy, có nhiều bệnh nhân đến yêu cầu Cronin điều trị cho họ chứng bệnh lo âu, hồi hộp, sợ sệt, hay mất niềm tin hoặc luôn ngờ vực. Quý vị nghĩ Cronin xử trí làm sao không? Ông ghi cho họ toa thuốc thật lạ lùng: Toa thuốc “biết nói lời cám ơn” rồi căn dặn bệnh nhân: “Trong vòng sáu tuần, bạn phải nói lời cám ơn mỗi khi nhận được sự giúp đỡ của bất cứ ai dù đó chỉ là việc mọn. Và để tỏ ra rằng lời cám ơn kia xuất phát từ tấm lòng thành, bạn hãy mỉm cười với ân nhân khi thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Lạ thay, sau sáu tuần điều trị, hầu hết bệnh nhân của Cronin đều cảm thấy bệnh của mình thuyên giảm một cách rõ rệt.

Trong nhiều trường hợp, chúng ta không thể bày tỏ ngay lòng biết ơn của mình. Nếu rơi vào hoàn cảnh này, bạn không nên thụ động, giữ im lặng mãi mà hãy mạnh dạn nói lời cám ơn ân nhân của mình ngay khi gặp lại họ.

Vừa mới đây, tôi có dịp về thăm lại quê nhà trong một thời gian ngắn. Trong khi tôi đếm bước dọc theo đường làng quen thuộc, kỷ niệm thời thơ ấu bỗng dạt dào đến trong tâm trí tôi. Rồi bỗng nhiên trên đường về làng, tôi gặp lại cô giáo Hương. Cô đã gợi trong tôi thời tôi còn mài đũng quần trên ghế trường trung học. Năm ấy, tôi ngồi lớp chín. Tôi mê chơi môn đá bóng hơn là chú tâm vào việc học. Hậu quả là tôi bị tụt hậu môn tiếng Pháp. Khi phát giác ra môn yếu kém của tôi, cô giáo Hương nói: “Ồ, học tiếng Pháp có khó khăn gì đâu, rất thú vị nữa là đằng khác. Sau bữa cơm chiều nay, em sang nhà cô, cô sẽ chứng minh cho em thấy điều đó”.

Trong nhiều tuần lễ kế tiếp, cô dạy kèm tôi học tiếng Pháp cho đến khi tôi theo kịp chúng bạn. Năm ấy tôi tròn 14 tuổi. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra rằng cô giáo Hương khả kính, vừa tích cực giảng dạy ở trường vừa làm tròn nhiệm vụ trong gia đình, lại còn dành riêng mỗi ngày một giờ để dạy kèm tôi học tiếng Pháp nữa. Sự cố gắng giúp đỡ tôi của cô giáo Hương lúc ấy, tôi xem như là chuyện rất bình thường. Nhưng giờ đây, khi gặp lại cô, tôi bỗng nhận thức một cách sâu sắc rằng cố gắng của cô dành riêng để dạy tôi học tiếng Pháp trước đây quả là sự hy sinh vô bờ bến mà hàng năm dài tôi hầu như quên lãng. Tôi chạy đến ôm choàng lấy cô, giọng thổn thức: “Những điều mà cô dành cho em trước đây đã vượt xa nhiệm vụ bình thường của một cô giáo. Xin cô nhận lòng biết ơn chân thành của người học trò cũ, dù cho lời cám ơn được thốt lên muộn màng.” Cô đáp lời tôi bằng nụ cười ấm áp, mãn nguyện và đôi mắt rạng rỡ niềm tin.

Nếu nhà văn lớn A. J. Cronin viết ra những cám ơn nhân đã dạy dỗ mình nên người thì tôi lại sực nhớ câu chuyện của người bạn Iran (Ba Tư) mà tôi mới quen. Anh ta kể sau khi Shah hoàng bị lật đổ, chính quyền mới hồi giáo lên thay thế, người lôi thầy giáo ra tra tấn chính là anh, anh bị bắt buộc nếu không làm việc này thì anh sẽ bị chính quyền mới hành quyết tức khắc, khi thuật lại câu chuyện trên anh buồn lắm và nói anh là nạn nhân của một chế độ vô luân. Người thầy mà anh xúc phạm đến là người thầy tốt, ông đã cố dạy những đứa trẻ tinh nghịch, ông xử phạt chúng theo kỷ luật nghiêm minh của nhà trường. Khi đất nước thay đổi thì người bạn tôi, và người thầy giáo của đám học trò tinh nghịch đã gây cho người thầy cũ cái cảm giác chán chường, rồi cả hai cùng về sống ở vùng băng tuyết phía bắc gần nước Canada, ông thầy thì sống ẩn dật.

Người Việt Nam chúng ta có những câu nói mà người học trò lớn nhỏ đều được giáo huấn như "Không thầy đố mày làm nên", sau này người học sinh đã lớn tuổi lại tìm thấy ý nghĩa của câu nói tôi cho là rất chí lý: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư".

Thật ra mọi việc trong cuộc sống con người cũng tùy thuộc vào môi trường của đứa trẻ sinh sống, hiền lành hay ngỗ nghịch là do tình trạng gia cảnh, môi trường của xóm giềng chung quanh hay bạn bè mà chúng kết thân. Có đứa thay đổi tâm trạng hiểu thầy cũ, thì cũng có đứa ương ngạnh, vẫn cố chấp những chuyện cũ trong vùng ký ức.

Rèn luyện để làm con người đã khó rồi, mà làm sao cho đám học trò tinh nghịch, lêu lổng trở nên người hữu dụng cho xã hội lại càng khó hơn, chỉ vì sự hẹp hòi, ích kỷ đã in hằn sâu trong tâm thức của chúng.

Cùng với cái tâm tình dành cho những ai đã thất bại vì nạn đổi đời của tháng Tư Đen 75 tại quê hương VN của tôi, họ đã chịu đựng nhiều nỗi cay đắng truân chuyên. Thầy tôi ca bài hát mang nhiều tính chất triết lý của cuộc sống. Đó là bài "Bông Hồng Cho Người Ngã Ngựa", nhạc của Lê Uyên Phương sáng tác, lời thơ Nguyễn Hoàng Đoan. Tôi nghe trong nỗi chua xót và đắng cay, tôi cảm thấy cay đắng vì lũ học trò xưa phản thầy, họ vong ơn với vị thầy cũ, và hình như họ vong ơn với nhiều người. Mắt tôi đã cay vì nước mắt tuôn trào khi nhớ đến hoàn cảnh vị thầy trong khung cảnh băng giá kia, hình ảnh ấy vẫn chập chờn trong suy nghĩ của tôi. Giọng ca của thầy tôi bây giờ lại chuyên chở cả một kiếp nhân sinh mà hai người thi sĩ và nhạc sĩ đã đưa vào bài hát này:

"... Không phải là bông hồng
Dành cho người hạnh phúc
Những người không biết khóc
Những người không biết cười
Những người tim bằng đất
Không phải là bông hồng
Dành cho những búp bê
Những búp bê biết khóc
Những búp bê biết cười
Búp bê tim bằng nhựa
Đây là một bông hồng
Gửi về người ngã ngựa."

Sống tại Hoa Kỳ hằng năm người ta có ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) , mục đích của nó như tên gọi, là tạ ơn đối với những ai giúp đỡ, cưu mang cho cuộc sống này được khá hơn. Nó có thể bao gồm cho tình thầy trò. Bởi vì: "Không thầy đố mày làm nên”. Người bạn láng giềng nhà tôi lúc trước, nay cư ngụ trong vùng Northwest Houston thuật cho tôi nghe chuyện cũ khi còn ở Sài Gòn, là một sinh viên sư phạm đã kể lại những “buồn nhiều hơn vui” trong đời dạy học của mẹ mình, anh suy tư đôi phút rồi kể như sau:

“Tôi còn nhớ rất rõ lúc tôi ngồi trầm ngâm trước lá đơn xin thi vào trường đại học cách đây ba năm. Mẹ tôi (một nhà giáo tóc đã bạc, gần ba mươi năm trong nghề) đứng cạnh tôi, nói nhỏ nhẹ: “Con ạ, dẫu sao nghề giáo vẫn là một nghề cao quí”. Mẹ tôi nói hai chữ “cao quí” thật nhỏ và mắt mẹ rưng rưng. Tôi thấu hiểu ước muốn của mẹ tôi. Không cần đắn đo, tôi ghi vào lá đơn: Trường Đại Học Sư Phạm. Tất nhiên trong chọn lựa cũng có phần của tôi.

Sau tháng Tư Đen năm 75, nhà tôi dọn về ở trong một con hẻm sâu. Có một đêm nọ gần chín giờ, một người đàn ông tóc muối tiêu dắt chiếc xe đạp vào hẻm và hỏi tìm nhà cô giáo Hạnh. Khi mẹ tôi ra mở cửa, người đàn ông cúi hẳn người xuống, rụt rè: “Thưa cô, cô còn nhớ em không, em là trò Huân đây...”. Mẹ tôi ngờ ngợ, có lẽ không nhớ ra. Khi vào nhà nói chuyện, chú Huân kể lại: “Hồi em học lớp 9, ngồi đầu bàn, thường tinh nghịch để chân thẳng ra ngoài. Cô đi lên đi xuống giảng bài say sưa, đụng phải chân em, cô vấp té, đầu va vào bàn... Cô nhớ không? Hồi đó, sợ quá em không nói được một lời xin lỗi với cô. Thế cho nên em ân hận mãi cho tới bây giờ. Hơn 25 năm rồi, cô nhỉ?”.

Ở ngoài Trung chú Huân chạy xe ôm, có dịp vào thành phố chú quyết tìm cho được người thầy cũ là mẹ tôi. Để thăm và nói một lời... và chỉ một lời để xin lỗi. Khi trao những chiếc bánh nổ của quê hương miền Trung cho mẹ tôi, chú Huân bùi ngùi nói: “Em có chút quà của miền Trung... để cô nhớ đến tụi em”. Đêm đó là một trong những đêm vui của mẹ tôi.

Có một lần mẹ tôi bị bệnh nằm ở bệnh viện Bình Dân, một bác sĩ khoảng 40 tuổi cứ ở bên mẹ tôi. Khi mẹ xuất viện, mỗi đêm người bác sĩ ấy lại lội vào con hẻm đến nhà theo dõi sức khỏe cho mẹ tôi. Đó là một học trò cũ của mẹ. Anh ấy cứ nhắc đi nhắc lại: “Không có cô, đời em chưa biết ra sao...”. Anh ấy kể: hồi học cấp III, gia đình quá khó khăn, đã nhiều lần anh đã quyết định nghỉ học, nhưng mẹ tôi đến, giúp đỡ, khuyên bảo và anh lại tiếp tục đi học, nay anh đã đậu làm bác sĩ cũng là nhờ mẹ tôi.

Thỉnh thoảng mẹ tôi nhận được những lá thư, những thiệp chúc tết, thiệp báo hỉ... từ phương xa gửi đến. Tất cả đều ghi những lời trân trọng, ân tình. Mẹ tôi dành riêng một ngăn tủ gìn giữ tất cả và thỉnh thoảng mẹ tôi lại giở ra xem, và tôi thấy bà mỉm cười hạnh phúc.

Nhưng đời dạy học của mẹ tôi cũng có quá nhiều những đắng cay, ngậm ngùi thậm chí đến tủi nhục. Có một lần đi dạy về, vừa bước vào cửa mẹ ôm mặt òa khóc. Tôi hỏi mãi, mẹ mới chịu kể lại rằng: “Mẹ đang dạy trong lớp thì một người sang trọng đến hành lang, gật đầu ra hiệu muốn gặp mẹ. Mẹ bước ra, người ấy trao cho mẹ một xấp vải và chiếc phong bì, nói: “Xin cô cho cháu nó vào học lại”. Mẹ từ tốn trả lời: “Trường hợp cháu đã quá nhiều lần vi phạm kỷ luật, ban giám hiệu đã quyết định cho nghỉ học. Có gì xin ông gặp ban giám hiệu”. Người ấy cứ dúi quà vào tay: “Cô nhận đi, không sao đâu, miễn là lo được cho cháu”. Mẹ nghiêm giọng: “Xin lỗi ông, tôi không lo được, xin ông cứ mang lên ban giám hiệu”. Người ấy bỏ đi và thòng theo câu nói: “Rách mà làm phách!”. Mà đúng vậy, mẹ càng đeo đuổi nghề, càng ngày càng rách thật. Rách đến mức hồi tôi còn nhỏ, mẹ đã từng phải cắt chiếc áo dài cưới của mẹ để may cho tôi một chiếc áo mới, để tôi đến trường ngày khai giảng... Lần ấy mẹ tôi xót nhưng không đau. Lần này vừa đau vừa xót vì có người đã xúc phạm đến danh dự của bà.

Tôi băn khoăn tự hỏi sao ngành giáo chức của mẹ tôi thê lương và bẽ bàng đến thế. Sách vở thì lại cho là nghề giáo cao quí lắm mà. Tôi tự hỏi và rồi tự suy nghĩ . . .

Một lần khác, một phụ huynh tổ chức đám cưới cho con trong một nhà hàng sang trọng ở đường Trần Hưng Đạo đã mời mẹ tôi tới dự. Mẹ lọt ở giữa những khách khứa hào nhoáng, mẹ tôi trao chiếc phong bì là quà mừng cho đôi lứa tân hôn. Vị phụ huynh ấy đẩy tay mẹ tôi ra và từ chối, rồi nói một câu rất tự nhiên: “Tiền bạc đâu mà cô mừng cho cháu. Mời cô cốt là để cô bồi dưỡng cho sức khoẻ”. Nghe xong câu nói đó mẹ tôi cúi mặt, xấu hổ tê tái người và mẹ đã tìm cách lẳng lặng ra về. Đến nhà, vào phòng, mẹ kéo chiếc chăn đắp lên ngực, mắt mở lớn nhìn lên trần nhà, và nước mắt cứ tuôn trào ...

Tôi không nhớ hết được bao nhiêu lần mẹ tôi đã khóc như vậy. Cứ sau mỗi lần ấy, mẹ lại kéo chiếc hộc tủ có nhiều kỷ niệm đẹp của đời dạy học của mình ra và mẹ im lặng đọc từng lá thư, ngắm từng chiếc thiệp. Hình như lòng mẹ thanh thản trở lại, nhưng cuộc sống lúc đó cứ không để yên cho lòng mẹ thanh thản, lại muôn vàn đắng cay, muôn vạn điều nhức nhối. Vậy mà mẹ vẫn muốn tôi trở thành cô giáo. Năm sau đó tôi ra trường, cũng đứng trên bục giảng trong lớp. “Dẫu sao mẹ nói rằng đó vẫn là một nghề có ích nhất cho đời. Người thầy luôn mở rộng tấm lòng bao la, quảng đại để chấp nhận những thử thách khó khăn nhất xảy ra cho đời mình, và với tấm lòng vị tha, người thầy luôn để lại những dấu ấn đẹp cho mỗi cuộc đời...”

Trong những ý tưởng bâng quơ, vui lẫn buồn, tôi ngẫm nghĩ sống mà không biết yêu thương, ơn nghĩa thì “Sanh Bất Nhược Tử” (Sống mà như chết), chết mà còn để lại cho đời những tấm gương sáng thì “Tử Bất Nhược Sanh” (Chết mà như sống). Vậy thì người ta tri ân những nhà triệu phú hay tri ân những nhà giáo nghèo? Hỏi tức là đã trả lời, nhà triệu phú cũng sẽ được tri ân như vậy nếu như họ biết làm việc từ thiện mà không khoe khoang cho mọi người biết. Riêng tôi, cảm thấy vô cùng hạnh phúc vì còn được nói hai tiếng “cám ơn” chứ không phải nói lời “rất tiếc”.

Đó là đôi dòng về người thầy cũ của tôi, hay về vị thầy giáo oan khiên bôn ba sau thời vận Shah hoàng, về cô giáo Hạnh, mẹ của người bạn tôi. Nếu ở đời có những đứa trẻ tinh nghịch, lớn lên bằng ý tưởng hẹp hòi và cố chấp thì xã hội cũng có người học trò cũ tinh nghịch của cô giáo Hạnh lớn lên trong ý thức biết ơn và bao dung.

Tôi nhìn về hướng vị thầy cũ mang dáng trí thức với đôi kính cận như dạo nào, ông bước xuống sân khấu sau khi hát hai nhạc phẩm nhắc nhớ những kỷ niệm quê hương. Và thông thường thì ai trong chúng ta cũng có những vị ân sư để mình nhớ về dĩ vãng và để tạ ơn các ngài.

Nhân đọc sách của nhà đại văn hào A.J. Cronin, tôi có ngẫu hứng viết bài này kính tặng các nhà giáo, các bạn hữu hiện có mặt trên khắp mặt địa cầu và nhất là đến với những thành viên trong nhóm Đồng Tâm nay đã kết thân thành một đại gia đình đã trải rộng, dài trên nhiều nước của thế giới.

Lời sau cùng tôi muốn nói là cám ơn bố mẹ đã sinh thành dưỡng dục để tôi có được ngày hôm nay, cám ơn các thầy cô đã góp phần dạy dỗ để tôi thành người hữu dụng, cám ơn quê cha đất tổ Việt Nam đã cho tôi những tình tự văn hóa dân tộc, và cũng xin cám ơn phấn trắng bảng đen cho tôi những dòng cảm nghĩ trong bài viết này.

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image


Doãn Quốc Sỹ, nỗi buồn và, niềm vinh dự, hân hoan lớn

Du Tử Lê
1.

Theo tiểu sử được ghi nhận bởi Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia, nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh tại Hà Ðông, ngày 17 tháng 2 năm 1923, trong một gia đình thấm nhuần tinh thần Nho giáo. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào miền Nam vì Hiệp Ðịnh Geneva chia đôi Việt Nam.

Trước thời điểm này không lâu, ông hoàn tất truyện ngắn “Sợ Lửa,” (dạng cổ tích) tựa bước chân đầu tìm đến văn chương.

Cũng trước giai đoạn phân chia đất nước, ở miền Bắc, họ Doãn từng dạy tại một số trường trung học công lập, như Nguyễn Khuyến (Nam Ðịnh, 1951-1952,) Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953), v.v...

Những yếu tố như được sinh trưởng trong một gia đình mà người cha là một nhà Nho, khi trưởng thành, lại chọn cho mình nghề dạy học, theo tôi là những chỉ dấu cho thấy, ẩn mật đằng sau tư cách nhà văn, họ Doãn còn/đã là một kẻ sĩ.

Kẻ sĩ hiểu theo nghĩa lương tâm và, trách nhiệm của một trí thức, đứa con của một tổ quốc, trước những biến động rung chuyển, bật gốc một đất nước.

Tôi không biết định mệnh nghiêng về phía nào, giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ của một Doãn Quốc Sỹ. Nhưng qua những tác phẩm văn chương của ông, điển hình như bộ trường thiên “Khu Rừng Lau,” tôi có cảm tưởng ông đã lôi kéo, được định mệnh nghiêng về phía kẻ sĩ trước thời cuộc, ở nơi ông.


2.

Nhìn lại hai mươi năm văn học miền Nam, chúng ta phải nói rằng, đó là thời gian quá ngắn cho sự hình thành, khai triển rồi định hình, một dòng văn học đa dạng, phong phú. Nên ta cũng có thể nói, nó giống sự vươn vai, lớn dậy thần kỳ, như huyền thoại Phù Ðổng Thiên Vương.

Hai tác nhân chính giúp cho sự thoát thai, sinh thành dòng văn học mang tính Phù Ðổng Thiên Vương vừa kể, tôi nghĩ, là thảm kịch chia lìa bật máu, vĩ đại (lần đầu trong lịch sử dân tộc Việt) với hơn 1 triệu người miền Bắc nghiến răng, bậm môi, tự nguyện bỏ lại sau lưng mồ mả ông cha. Và, sự chuyển hóa chớp nhoáng từ thể chế Quân Chủ Lập Hiến, sang thể chế Cộng Hòa chỉ trong vài năm, như một giấc mơ ở miền Nam.

Hai tác nhân hỗ tương nhau tựa một kết hợp kỳ diệu, biến gần hai chục triệu người dân miền Nam (thời đó), trở thành những kẻ đồng hành, nhất tâm, hăm hở trong một lên đường mới mẻ. Một lên đường khám phá và khai phóng cái thổ ngưỡng vốn đã hằng nghìn năm, sẵn đấy.

Tinh thần khai phá của giai đoạn lịch sử miền Nam sau 1954, thể hiện cụ thể, hưng phấn nhất, tiêu biểu là lãnh vực văn học.

Văn học miền Nam ở giai đoạn vỡ đất này có hai khuynh hướng chính:

- Khuynh hướng văn chương chống chế độ cộng sản. (Và)

- Khuynh hướng văn chương nặng tính nhân văn, trồng người. Hiểu theo nghĩa lấy đạo lý, nhân tính làm căn bản.

Cũng vẫn ở giai đoạn khẩn hoang, vỡ đất kia, số tác giả đắm mình, vẫy vùng trong ngọn triều chống cộng chiếm đa số. Họ đứng về phía thời thế nóng bỏng. Như một thứ thời thượng... Phía trồng người, xây tâm ít, hiếm.

Theo ghi nhận của tôi, tác giả “Dòng Sông Ðịnh Mệnh” ở phía ít, hiếm đó.

Họ Doãn an nhiên, tự tại, nở nụ cười đôn hậu trước chọn lựa có phần thưa, vắng đồng hành của mình.

Vì là một lên đường mới mẻ, ồ ạt, nên trong lúc nhiều tác giả xuất hiện giữa thập niên 1950, qua sáng tác, còn đang nỗ lực thực chứng sự hiện diện của mình như Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền... thì Doãn Quốc Sỹ đã định hình (hiểu theo nghĩa được đám đông đón nhận), qua những tác phẩm ấn hành như “Sợ Lửa” (1956), “U Hoài” (1957), “Dòng Sông Ðịnh Mệnh” (1959)...

Về phương diện kỹ thuật (cũng như một vài tác giả khác), theo tôi, họ Doãn đi tiếp con đường văn chương thời tiền chiến.

Con đường mà hình thức truyện được xây dựng trên hai căn bản:

- Cốt truyện (với những nút thật, nút mở). (Và)

- Chủ tâm khai thác tâm lý nhân vật (để người đọc dễ thấy mình, trong truyện).

Nhưng về phương diện nội dung, vẫn theo tôi, họ Doãn không bó rọ, gói chặt tác phẩm của mình trong những luận đề gia đình, xã hội, xung đột cũ/mới như thời Tự Lực Văn Ðoàn.

Ông cũng không bó rọ nội dung chống cộng sản trong tác phẩm của ông trên cái nền cốt truyện và tâm lý nhân vật.

Truyện của ông, dù không hề xa rời hiện thực xã hội, nhiễu nhương, như “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Ðiều,” như “Gìn Vàng Giữ Ngọc,” vẫn mở vào phần con người, như một sinh vật linh trưởng, bản chất thiện căn, ở trên mọi hạn hẹp của thể chế chính trị, giai đoạn.

Truyện của ông, ngoài những ẩn dụ, như những phóng chiếu nhân tính qua những truyện ở dạng cổ tích, cũng là những rung động, những lãng mạn thuần khiết (cung ứng cho nhu cầu mơ mộng, căn cốt của con người). Chúng xiển dương tính hướng thượng. Chúng chan hòa tính nhân loại.

Tới hôm nay, dù trải qua bao năm tháng, bao cuộc đổi đời, tôi vẫn cảm phục ông biết bao, khi trong truyện “Gìn Vàng Giữ Ngọc” của ông, tôi được đọc câu văn:

“Ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”


3.

Hình như mối bận tâm, nỗi đau đáu lao lung một đời của nhà văn-kẻ-sĩ mang tên Doãn Quốc Sỹ, trước sau vẫn là chủ tâm, nỗ lực kêu đòi, nhắc nhở, cổ xúy khả năng “thánh hóa” tình thương yêu rộng rãi và, chân thành nơi mỗi con người ấy.

Sự tương nhượng dẫn tới tương hợp tuyệt vời giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ nơi họ Doãn, thể hiện sâu sắc nhất, theo tôi ở trường thiên “Khu Rừng Lau.”

“Khu Rừng Lau” không chỉ là bản trường ca xương, máu của một dân tộc liên tiếp trải qua những kiếp nạn, từ thời chống ngoại xâm, thực dân Pháp, qua tới những năm tháng bị đầu độc bởi chủ thuyết cộng sản và, tạm dừng ở điểm đứng dân chủ trá hình, lận trong tay áo những con trủy thủ độc tài mà Khu Rừng Lau còn là trường ca, với những tổ khúc tin tưởng, hy vọng nơi cái Thiện, vốn là một linh-thánh-nhân-bản khi con người (hay nhân loại) phải đối đầu với thảm kịch, với cái ác.

Trường thiên này, theo tôi, là bước song hành giữa kẻ sĩ trước trách nhiệm với lịch sử một đất nước và, nhà văn, trước cái đẹp và cái thiện của sinh vật linh trưởng.

Nhiều người từng ví trường thiên “Khu Rừng Lau” với bộ “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Leo Tolstoy. (*) Nhưng chưa một ai chỉ ra rằng, nếu Leo Tolstoy là nhà văn dựng lại, (tức đứng ngoài) một giai đoạn lịch sử cháy đỏ lầm than của xứ Ðại Nga, kể từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Nga 1811 thì Doãn Quốc Sỹ là người đứng giữa tâm bão.

Ông không tìm hiểu, để rồi chiêm nghiệm mà ông đã sống, đã chảy máu cùng lúc với dân tộc, tổ quốc ông; khi lịch sử và đất nước ông đang chảy máu...

Do đó, với tôi, sự có mặt của ông, Doãn Quốc Sỹ, sự chúng ta còn có trong tâm, trong thế hệ của “Khu Rừng Lau” của họ Doãn là một nỗi buồn, đồng thời cũng là một vinh dự, hân hoan lớn, cho văn học và con người Việt Nam vậy.

Du Tử Lê
(Calif. Tháng 8, 2010)

Chú thích:
(*) Leo Tolstoy (hay Léon Tolstoi,) nhà văn Nga, còn được biết với tên đầy đủ là Lyev Nikolayevick Tolstoy, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828. Ông là tác giả nổi tiếng với hai bộ trường thiên tiểu thuyết: “Chiến Tranh và Hòa Bình” và “Ana Kha Lệ Nin.” Ông mất ngày 20 tháng 11 năm 1910.

Post Reply