Góc nhỏ của anh 3 Giang

Tung cánh chim tìm về mái trường xưa. Mong tìm bạn học cũ, nay ở đâu xin nhắn đôi lời!!!

Moderator: CNN

Post Reply
User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

khieulong wrote:Bác Ba Giang à !!!

Đã nhắn với Cao Lynh và đưa số phone VP của bác cho Lynh hôm qua rồi ! Yên chí nhớn vì hôm qua tui hỏi thì Lynh nói sẽ ở lại trên San Jose tới 5 ngày vì sau đại hội sẽ có nhiều bạn bè tâm tình muốn ngỏ lắm ! Chắc chắn là sẽ gặp bác trên đó rồi tha hồ mà kể chuyện trong đêm ...... :) :) :)

Sáu Long

Bác Sáu Lòng ơi à,

Đã nói chuyện điện thoại với Cao Thiện Lynh

Cám ơn Bác Sáu

Giang già

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

linhgia wrote:Xin mời các bạn nghe Nhật Bản hát nhạc Việt Nam

Diem-Xua


Lính già 3G

2 phiên bản bài "Diễm Xưa" lên top-10 tại Nhật Bản


May 06, 2004 Tin Tokyo - Theo tin từ cộng đồng người Việt tại Nhật Bản cho biết nhạc phẩm Diễm Xưa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, do ca sĩ Khánh Ly hát tại Nhật lần đầu năm 1970 nhân Expo Osaka. Bài hát này và một số bài khác của Trịnh Công Sơn do ca sĩ Khánh Ly hát sau đó đã được hãng Columbia thu vào đĩa. Năm 1978, đài NHK số 1 đã thực hiện phim truyện nhiều kỳ "Sài Gòn Kara Kita Tsuma To Musuko" dựa trên cuốn sách do ký giả Kondo Koichi viết về câu chuyện chính gia đình ông.

Tuy không liên hệ gì, nhưng bài Diễm Xưa đã được dùng làm nhạc chủ đề của phim truyện này. Năm 1998, ca sĩ nổi tiếng Kato Tokiko đã mời Khánh Ly qua hát bài Diễm Xưa tại công viên Hibiya, đài NHK thu và hình. Nữ ca sĩ enka nổi tiếng Tendo tức là Thiên Đồng 45 tuổi, đã đi Việt Nam, mặc "áo dài", hát bài Diễm Xưa bằng tiếng Nhật là nhạc phẩm Utsukushimukashi cùng với ca sĩ Việt Nam vào tháng 8 năm 2002, do NHK thu và phát hình. Và bà cũng đã hát trong chương trình Hồng Bạch tối ngày 31 tháng 12 vừa qua do đài NHK tổ chức. Chương trình Hồng Bạch là chương trình văn nghệ vĩ đại nhất, coi như tổng kết thành tích nghệ sĩ trong năm. Năm nay là lần thứ 54 được tiếp vận tới khoảng 50 quốc gia khác trên thế giới. Bà Tendo đã hát và thu đĩa bài Utsukushimukashi phiên bản 1 vào tháng 9 năm 2003 và phiên bản 2 vào tháng 2 năm 2004 với lối hòa âm dễ hát Karaoke hơn.

Cả 2 phiên bản đều lọt vào vòng 10 bài hay nhất theo thăm dò của Oricon Entertainment Site trong tháng 3 vừa qua. Đây là chuyện lạ chưa từng có ở Nhật và có lẽ ở khắp nơi trên thế giới, vì cùng 1 bài hát mà hai phiên bản cùng lọt vào "top 10". Thật là hiếm có bài hát nào như bài Diễm Xưa tiếp tục được lan truyền và gây xúc động cho người Nhật từ 1970 tới ngày nay.

3G lượm lặt
Last edited by linhgia on Fri Apr 15, 2005 2:50 am, edited 1 time in total.

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Anh Giang ơi
Anh sing up với Tripod hay AngelFire đi, nó cho mình 20MB so với 15MB của Geocities, trafic 1GB chỉ có điều không hotlink thui, không cần, right click và d/l xuống cũng được gồi, hàng free mà lị, hehe
Tui có làm 1 chỉ dẫn nhỏ trong phần Mẹo Vặt Trên Net, anh vô coi thử

http://box10.bluehost.com/~diendant/php ... =3086#3086


PD

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

phu_de wrote:Anh Giang ơi
Anh sing up với Tripod hay AngelFire đi, nó cho mình 20MB so với 15MB của Geocities, trafic 1GB chỉ có điều không hotlink thui, không cần, right click và d/l xuống cũng được gồi, hàng free mà lị, hehe
Tui có làm 1 chỉ dẫn nhỏ trong phần Mẹo Vặt Trên Net, anh vô coi thử

http://box10.bluehost.com/~diendant/php ... =3086#3086


PD

Xin cám ơn anh,

Toi có gủi Ba Xa toi đen qua Úc 1 copy DVD Đêm Nhac Vũ Đức Nghiêm, do tôi làm giúp anh Nghiêm, khi Anh Năng đến Brisbane Ba Xa tôi se trao cho anh Năng đem về nhờ anh Copy va phân phối cho bạn bè nhé

Tôi cũng tặng anh Năng 1 tờ Nguyệt San Phố Văn xuất bản tai Texas, do nhà văn quân đội anh Nguyễn Xuan Thiệp là anh của Ba Xa toi làm chủ bút, anh co thể mượn xem của anh Năng khi anh xem xong

Thân mến

Giang già

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Deleted by owner
Last edited by linhgia on Mon Aug 21, 2006 2:33 am, edited 2 times in total.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Đảng CSVN, Thiền Sư, Nguồn Gốc Hận Thù và Tội Ác

Hoài Nam



I) Những Đợt Trả Thù Dai Dẳng của Đảng CSVN:

Kể từ khi Hồ Chí Minh mang Chu? nghĩa Mác-Lê vào lãnh thổ đất nước Việt Nam vào năm 1930, HCM đã lập một băng đảng Cọng sản khát máu, hoạt động dưới nhiều danh nghĩa của nhiều mặt trận để chiếm miền Bắc, cướp miền Nam, tiêu diệt nhân sĩ yêu nước, và liên tiếp trả thù nhân dân. Những cuộc trả thù tiếp nối không bao giờ dứt đoạn mà họ chưa bao giờ cảm thấy nhàm mỏi, dừng tay máu để tha cho Dân tộc. Xin được liệt kê ra như sau:

1) Thực hiện cuộc cải cách ruộng đất năm 1954 để trả thù bằng cách giết chết hàng trăm ngàn địa chủ, sĩ, nông, công, thương. Trả thù như thế chưa đủ sao?

2) Bắn chết và chôn sống hàng chục ngàn dân Huế dưới những hố chôn tập thể trong năm Mậu Thân (1968), chưa đủ sao?

3) Thực hiện những cuộc Tổng tấn công để cướp miền Nam từ 1954-1975, gây biết bao nhiêu chết chóc tang thương cho đồng bào. Toàn dân miền Nam nhốn nháo đạp lên nhau chạy loạn, cha mẹ bỏ con, vợ bỏ chồng, người tình bỏ nhau, cảnh nháo loạn như nhồi mắm ruốt, máu chảy thành sông, lệ đổ thành biển, tiếng khóc như sóng ngàn sét đánh! Trả thù như thế chưa đủ sao?

4) Nhốt tù, tra trấn, hành hạ mấy triệu quân, nhân, cán, chính, của chế độ Cọng hòa. Giải phóng ở chỗ nào mà lại đưa toàn thể quân nhân vào những trại “học tập cải tạo” hà khắc? Trả thù như thế chưa đủ sao?

5) Đẩy tất cả toàn bộ các gia đình bà con thân thuộc nào có liên hệ với chế độ cũ lên vùng “Kinh tế mới” để họ phải chịu cảnh màn trời chiếu đất, ăn sỏi rừng, uống nước suối để sống qua ngày; muỗi cắn, sên bu, lỡ bịnh đau là chỉ nằm chờ chết. Trả thù như thế chưa đủ sao?

6) Ép buộc để mấy triệu người phải cắt ruột bỏ nước ra đi. Những ai không may bị Công an bắt lại, thì bì dùi cui, báng súng, bảng xên dộng vào ngực cho thọ bịnh mà chết, rồi bị nhốt tù mục xương. Một phần chết biển cá ăn. Một phần bị hải tặc Thái lan cướp của, chặt tay chặt chân để lấy trang sức; trai thì bị đánh đập; phái nữ, bất kể tuổi tác, đều bị cởi trần ra hiếp ngay trước mặt chồng, cha mẹ, anh em; thậm chí nhiều người chồng và thân nhân nhìn cảnh trạng vợ con mình bị hiếp dâm trước mặt như thế, chịu không nỗi phải cắn lưỡi tự tự ngay tại chỗ! Những người không vượt trốn bằng đường biển, thì chạy trốn bằng đường bộ qua Cambodia, Lào, Thái Lan cũng không thoát khỏi những cảnh tượng não nề như trên; cũng bị bỏ thây trong rừng, cũng bị bọn Cambodia hiếp dâm hoặc giết chết! Qua đến các trại tỵ nạn phải chịu thêm những đắng cau phũ phàng! Cọng sản trả thù như thế chưa đủ sao?

7) Ép uổng, đàn áp đến độ buộc 12 Phật tử phải hy sinh mạng sống của mình để tự thiêu tập thể tại Cần Thơ trong năm 1975; những vụ tự thiêu rải rác các nơi khác của Đại đức Thích Chân Hỷ, Gia Bình Phạm Tấn Lạc, Huynh trưởng Hồ Tấn Anh, Bà Nguyễn Thị Thu v.v.; hàng trăm, ngàn cuộc tuyệt thực của đồng bào Phật tử trong lẫn ngoài nước liên tiếp. Cọng sản trả thù như thế chưa đủ sao?

8) Giết chết, cầm tù, giam cấm, cắt hộ khẩu, quản chế… hàng triệu chí sĩ, người lương tâm, người bất đồng chính kiến, anh hùng vị quốc, các vị lãnh đạo các Tôn giáo, những người đối nghịch v.v.; tiêu diệt không nhân nhượng các tôn giáo không thống thuộc đảng. Trả thù như thế chưa đủ sao?

9) Vân vân … Ôi sao kể xiết!

Thù gì mà triền miên không dứt vậy, hỡi Đảng Cọng sản Việt Nam? Hầu như một nước Việt Nam và hơn 3/4 Dân tộc Việt Nam bị các người tiếp tục trả thù đến kiệt quệ kể từ khi Bác Hồ của các người mang chủ nghĩa Mác Lê về đầu độc trong hang Pắc Po'?

Các người đã chiếm trọn đất nước Việt Nam. Các ngươi đã cướp, vét, vơ nhưng các ngươi vẫn chưa thỏa lòng tham vô đáy hay sao? Các ngươi đã chém, giết, đày, giam, bỏ ngục, quản thúc … nhưng các ngươi vẫn chưa bỏ nổi dao đồ tể hay sao? Trả thù liên tiếp đến như trên mà các ngươi vẫn chưa thỏa chí hay sao? Các người đã bất chấp dư luận, bất kể đạo lý để trả thù bằng cách cô lập và áp chế một Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất vốn đã được truyền thừa mấy ngàn năm bởi Lịch đại Tổ sư, khiến cho Giáo hội này như cây khô, mất hết pháp lý, khiến cho hàng vạn Chư tăng không nơi nương tựa, vẫn chưa đủ sao?

Thế nhưng tâm rắn độc của các ngươi vẫn không nao núng đến nỗi một vị Tăng (Thích Huyền Quang) bị bịnh thập tử nhất sinh trên giường bịnh vào ngày 18.11.2004, mà các ngươi tuyệt đối ngăn cấm không cho thân nhân và Sư huynh đệ vào thăm trước khi Ngài nhắm mắt! Các ngươi trả thù đến độ phải khiến cho một bịnh nhân chết trong cô đơn tủi phận như thế sao? Lương tâm đâu hỡi đảng Cọng sản?

Mối thù của các ngươi đè ép lên cả Dân tộc Việt nam đến nỗi nét Tập tục truyền thống xưa nay, mà cũng bị các ngươi hủy diệt! Dù các ngươi có căm thù Tôn giáo và Dân tộc Việt Nam đến tận xương tủy chăng đi nữa, thì cũng nên chờ lúc khác để trả thù chứ? Bản thông cáo báo chí của phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đề ngày 16.2.2005 phóng đi, yêu cầu “các cơ quan LHQ, chính giới Âu, Mỹ, Á, các Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội Châu Âu, cùng các cơ quan truyền thông, báo, đài trên thế giới. Xin hãy giúp đỡ Phật giáo đồ Việt Nam lên tiếng ngăn chận những hành xử vi phạm quyền Con người và đàn áp Phật giáo của Nhà cầm quyền Hà Nội trong mấy ngày Tết vốn là thời điểm sum hòa của dân tộc Việt. Kính xin can thiệp để cho chuyến đi của Phái đoàn Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Viện trưởng Thích Quảng Độ được tự do đi lại ra Bình Định chúc Tết và Mừng thọ Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, một tập tục văn hóa mà từ bốn nghìn năm qua chưa có triều đại nào ngăn cấm”, vì việc Cọng sản Việt Nam ngăn cấm Phật tử đến viếng thăm chúc thọ Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang. Năm hết Tết đến, vì tình người mà con người đến thăm con người, nhưng cũng bị Đảng Cọng sản ngăn cấm!!! Hỡi trời ơi! Nhân tính đâu hỡi đảng Cọng sản?

Đảng Cọng sản Việt Nam ra lệnh trả thù, còn Quốc hội Việt Nam, chính quyền địa phương và đám Công an thi hành, toa rập; không ai phản đối, không ai nhắc nhở! Cả một khối xấp xỉ hai triệu tám đảng viên không có Lương tâm và không có Nhân tính; thì họ là gì hỡi Đạo lý, hỡi loài người?

Qúa rõ ràng rằng mục đích của Đảng Cọng sản Việt Nam là CƯỚP NƯỚC ĐỂ TRẢ THÙ! Thật đúng như trong bài trước người viết đã đề cập, Cọng sản Việt Nam có ba mối thù: a) Thù vì Vô Đạo (chủ trương không Tôn giáo), b) Thù vì Vô học (bị ngu dốt), và c) Thù bị Nghèo đói!

II) Nguồn Gốc của Hận Thù và Tội Ác:

Thế thì ai đã gieo hận thù? Ai đã nuôi mộng trả thù triền kiếp? Nguồn gốc của hận thù và tội lỗi từ đâu? Ba mươi năm chiếm lấy miền Nam là 30x365=10950 ngày mà người Cọng sản luôn chỉa mũi súng đường dao lên Dân tộc Việt Nam không ngày nào chẳng khỏi! Trả thù dai dẳng như thế mà Cọng sản vẫn cảm thấy chưa đủ sao?

Đảng CSVN cứ kết mãi mối thù trong tâm khảm và não bộ của họ, và đã trở thành mối thù Dân tộc. Họ coi Dân tộc và Tôn giáo là kẻ thù cần phải tiêu diệt, rồi liên tiếp trả thù qua từng giai đoạn khác nhau, và họ chưa bao giờ nhận thấy rằng họ đã trả thù đủ để ngưng tay máu của họ. Chừng nào Dân tộc và Tôn giáo Việt nam chưa bị tiêu diệt, thì họ chưa bao giờ ngưng tay cả. Họ là những người nắm quyền sinh sát trong tayđể tiêu diệt hay buông tha, còn Dân tộc và Tôn giáo cùng những vị trong Giáo hội là những người đang chịu đựng. Những lúc chịu không nỗi nữa, thì qúy Ngài trong Giáo hội cất tiếng van xin: “Các ông làm ơn cho chúng tôi sống với!”, Nhưng, Đảng nói: “Tao đã đánh thì chúng bay không được van xin!”. Thế thì, gốc rễ của sự thù hận và tội ác xuất phát từ Đảng CSVN, không phải từ Dân tộc, cũng không phải từ Tôn giáo, và cũng không phải từ qúy vị thân hào nhân sĩ hoặc từ qúy Ngài trong giáo hội đang gióng lên tiếng nói cho Tự do và Nhân quyền!

Về điểm này, nhà Bình luận gia Sức Mấy Đinh Từ Thức đã phân tích để khai thị quan điểm sai lầm nhằm bào chữa cho đảng CSVN của Nhật Tiến khi Nhật Tiến bảo rằng hai Chế độ Bắc, Nam đều là tay sai của ngoại bang. Bình luận gia Đinh Từ Thức viết rằng, giả sử Nhật Tiến đúng, thì “chính những tay sai này là vai chánh trong cuộc tương tàn 30 năm, người dân hai miền Nam Bắc chỉ là nạn nhân, đâu phải họ giết nhau vì hận thù. Cái gốc hận thù không bắt nguồn từ dân, bởi đó, đặt vấn đề hòa giải dân tộc, là sai. Muốn giải quyết vấn đề hận thù, phải truy tận gốc. Nó bắt nguồn từ hai guồng máy cai trị tại Bắc và Nam. Chính quyền miền Nam đã tan biến từ năm 1975. Chỉ còn lại chính quyền miền Bắc hiện đang cai trị cả nước. Đây chính là nguồn gốc còn lại của hận thù!”. Quan điểm và sự phân tích của Bình luận gia Sức Mấy Đinh Từ Thức rất là chí lý!

Dựa trên lập trường Quốc gia Dân tộc, Chiến tranh và Hận thù là cặp song sinh, có cái này thì hiện hữu tức có cái kia sanh, nhưng mục đích là chỉ có sự phát sanh để bảo vệ giang sơn Tổ quốc. Nhưng, sau 30/4/75, Chiến tranh đã dứt, nhưng Hận thù vần còn tồn tại, để rồi có những đòn trả thù gian ác, trắng trợn triền miên, dai dẳng của một chính phủ thắng trận (CSVN) đối với Tôn giáo và Dân tộc Việt Nam, như phần I) đã liệt kê trên. Đảng CSVN có súng ống đạn dược, thì cứ bảo hai triệu tám Đảng viên sắp hàng ngang tiến tới bắn hết toàn dân Miền Nam đi, chứ đâu cần dùng những mánh mung ti tiện để dai dẳng trả thù như thế?

III) Thiền Sư và Chúng Đệ Tử Làng Hồng:

Ở một Làng Hồng, Làng Mai nọ, Thiền sư Nhất Hạnh, Thiền Ni sư Chân Không và chúng Đệ tử luôn tỏ “lòng từ bi” chuyên đi hóa giải hận thù. Nhưng, họ không có lý trí, trí tuệ để nhận định ra đâu là cội nguồn của sự thù hận và tội ác để đi hóa giải.

Trước đây, Thiền sư và chúng Đệ tử không tìm đến Iraq, Afganistan, hoặc các vùng Trung Đông để khuyên bọn khủng bố bỏ đi tham vọng tàn sát nhân loại, mà lại bôn ba lặn lội về vùng tàn dư chiến cuộc đọng lại mùi đau thương của máu và nước mắt để “hóa giải hận thù”, là một việc làm sai quấy không thể tưởng tượng! Hận thù không phải ở trên thân xác nạn nhân, mà ở trong tâm trí của kẻ tàn sát!

Hôm nay, trong thời điểm này, Thiền sư dẫn Đệ tử về Việt Nam muốn gặp Qúy Thầy trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) để hóa giải hận thù, và giải tỏa áp lực của Quốc tế đối với CSVN, là một việc làm ngược với đạo lý, lương tâm; nếu không nói đó là một hành động quẫn trí, phản bội! Cho nên, qúy Ngài trong GHPGVNTN quyết định không gặp Thiền sư là phải, bởi vì qúy Ngài và GHPGVNTN đâu phải là gốc hận thù, mà là nạn nhân bị hành hạ, tra trấn! Giả sử qúy Ngài trong GHPGVNTN tiếp xúc với Thiền sư, thì vô hình chung, người ta cho rằng chính qúy Ngài và GHPGVNTN là kẻ đã gây ra thù hận với Đảng CSVN, là gốc của hận thù! Và, sứ mệnh “Hóa giải Hận thù” của Thiền sư tự nhiên sẽ thành công, rồi khi đó Thiên sư và đệ tử mặc sức hô hào với thế giới rằng, các ông Thầy trong GHPGVNTN đã có thù hận với Chính phủ Việt nam, và chúng tôi đã hóa giải được thù hận ấy! Từ đó, bao nhiêu tội khổ, lỗi lầm, thù hận đều đổ lên GHPGVNTN để cáo buộc! Chiêu này của Thiền sư rất khá nên mới lặn lội cất bước đường xa nửa qủa địa cầu về Việt nam để được CS trải thảm đỏ nghênh đón, long trọng hơn cả trăm ngàn lần so với sự cung nghênh Đức Phật của thành Ca Tì La Vệ khi Ngài về thăm Vua cha. Thế nhưng, Thiền sư vẫn không thể nào qua mặt được trí óc sáng như mặt trời của qúy Ngài trong Giáo hội truyền thống!

Viết bài này chưa xong, người viết lại đọc được một bản tin đề ngày 18.2.2005 từ Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, phổ biến về cuộc trực đàm giữa sư Chân Pháp Ấn (một Sư làm môi giới đến xin cầu cho Thiền sư Nhất Hạnh được gặp Ngài Quảng Độ) với Hòa thượng Quảng Độ, xin được trích dẫn nguyên văn Sự thật về việc Thiền sư Nhất Hạnh định đến thăm HT Quảng Độ như sau:

“Lần thứ nhất : Phái đoàn đến xin tôi cho cái hẹn để Thiền sư Nhất Hạnh đến thăm tôi (Hòa thượng Quảng Độ), nhưng tôi nói tôi không được Công an cho phép tiếp phái đoàn.

Lần thứ hai : Sư bà ở chùa Từ Nghiêm đến thăm tôi và nói Thiền sư Nhất Hạnh nhờ Sư bà nói với tôi cho Thiền sư đến gặp, tôi cũng nói như lần trước.

Lần thứ ba : Anh Xuân là nhân viên hành chánh cũ của Viện Đại Học Vạn Hạnh đến nói là Thiền sư Nhất Hạnh nhờ đến nói với tôi cho Thiền sư đến gặp, tôi cũng từ chối.

Lần thứ tư : Sư Chân Pháp Ấn đến xin gặp tôi, tôi tự nghĩ chắc lại nói về việc Thiền sư Nhất Hạnh xin đến gặp, đã ba lần rồi thì lần này tôi nói cho dứt khoát, cho nên tôi xuống nhà trực tiếp gặp thầy Chân Pháp Ấn. Thầy cũng nhắc lại việc thầy đến lần này là xin tôi đồng ý tiếp Thiền sư Nhất Hạnh và thầy nấc lên như muốn khóc. Tôi trả lời : Trong lịch trình Thiền sư đi các nơi không thấy có ghi đến Thanh Minh Thiền Viện thăm tôi, vậy Thiền Sư đến đây là đến lén, và tôi tiếp Thiền sư cũng là tiếp lén, như vậy chẳng đẹp đẽ gì, cho nên xin miễn.

Tôi có nói thêm là tình cảm của tôi đối với Thiền sư trước nay vẫn thế, và đặt nhiều hi vọng ở Thiền sư, nhưng bây giờ Thiền sư đã làm tôi thất vọng. Trước đây khi ở trong tù tôi đã làm mấy trăm bài thơ nhờ chuyển sang Thiền sư để in, nhưng Thiền sư đã không in, tôi rất buồn.

Trước khi tôi chấm dứt để lên lầu, sư Chân Pháp Ấn nói rằng Thiền sư Nhất Hạnh bảo nếu tôi không gặp Thiền sư là mắc bẫy Cộng sản, tôi trả lời : Chính Thiền sư đã mắc bẫy rồi”.

Thế mà trang nhà Làng Mai lại có thể vo tròn bóp méo đưa lên Internet rằng là “Hòa thượng Thích Quảng Độ tiếp Tăng thân Làng Mai” với lời lẽ mị dân như sau:

“Hòa thượng Quảng Độ khẳng định rằng Hòa thượng rất kỳ vọng thiền sư Nhất Hạnh về khả năng hoằng hóa của thiền sư tại Tây phương cũng như tại Việt Nam. Hòa thượng đã đọc một bài thơ mà Hòa thượng đã sáng tác trong thời gian ở Vũ Đoài và cũng đã từng gởi qua Làng Mai để tặng thiền sư Nhất Hạnh. Hòa thượng đã nhấn mạnh rằng “đạo tình giữa tôi và thầy Nhất Hạnh vẫn y nguyên như trước, không hề thay đổi. Tuy nhiên, hoàn cảnh và điều kiện hiện tại không cho phép để tôi có thể gặp thầy Nhất Hạnh trong giai đoạn nàỵ” Sau gần một giờ đồng hồ được diện kiến, trước khi ra về, thầy Pháp Ấn đã thưa với Hòa thượng Quảng Độ rằng: “Bạch Hòa thượng, chúng con ngại rằng nếu Sư ông của chúng con không gặp được Hòa thượng, quần chúng có thể sẽ hoang mang và bị phân hoá chăng?” Hòa thượng Quảng Độ đã khẳng định rằng: “Chuyện đó không thể nào xảy ra được. Thầy cứ yên tâm.” Nói xong, Hòa thượng nở nụ cười hoan hỷ, chia tay và trở về lại liêu phòng”. (Những hàng chữ đậm trên đây là do Làng Mai nhấn mạnh). – Bản tin của Phòng TTPGQT.

Đọc cuộc vấn đáp trên và lời lẽ đăng tải tin tức từ Làng Mai, người viết cảm thấy đau lòng, thẹn thùng và tủi nhục thay cho Làng Mai! Đau, thẹn và tủi vì không biết trí tuệ họ sau những năm tháng ngồi thiền đã tăng trưởng đến mức độ nào, mà đến một cuộc vấn đáp ngắn ngủi rõ ràng như thế cũng không hiểu nổi, để đưa ra những nhận định sai trái? Hay là họ cố ý tung tin bất thật để lấy lòng Đảng? Như thế là họ phạm giới Vọng ngôn rồi!

Trở lại vấn đề, Thiền sư muốn hóa giải thù hận, nghĩa là muốn bứng đi gốc rễ của tội ác để ban phước cho 80 triệu dân đang quằn quại trong đói khổ, cứu lấy Phật giáo Việt Nam đang bị tiêu diệt, và bảo vệ cho nét tinh túy của Đạo Phật không bị biến chất, thì Thiền sư đâu cần phải đến gặp qúy Ngài trong GHPGVNTN làm gì cho mất công tốn sức? Ai đã gieo thù hận, ai đã gây ra tội ác ròng rã cả gần thế kỷ nay trên đất nước Việt Nam, cả thế giới ai cũng thấy; Đó là Đảng CSVN và bè lũ! Không lẽ Thiền sư và chúng Đệ tử không hay không biết hay sao?

Không những thế, Thiền sư Nhất Hạnh còn tung hô vạn tuế cái Giáo hội Việt Nam (Giáo hội Quốc Doanh) như sau: “Kính thưa liệt vị Hòa thượng, Tôn Đức; Phái đoàn chúng tôi gồm có khoảng 190 người xuất gia và tại gia, chúng tôi đại diện cho khoảng 30 quốc gia, nhưng mà tất cả chúng tôi đều hướng về Việt Nam, như là quê hương tâm linh của mình và được trông thấy quý vị hòa thượng, quý vị tôn đức và được tiếp xúc với quý vị hòa thượng và quý vị tôn đức cũng như là được tiếp xúc với lịch đại tổ sư của nền Phật giáo Việt Nam. Và cái hạnh phúc của chúng tôi là được đảnh lễ chư vị tôn đức, chư vị hòa thượng, tại vì chúng tôi biết rằng quý vị tôn đức, quý vị hòa thượng là sự tiếp nối, là đại diện xứng đáng cho truyền thống Phật giáo Việt Nam. Trong bao nhiêu năm qua, quý vị hòa thượng, quý vị tôn đức đã làm hết sức mình để bảo tồn để phát huy cái nền đạo đức dân tộc, và điều này chúng tôi biết là một công tác cơ bản để giữ cho xã hội Việt Nam, đất nước Việt Nam được vững mạnh, và chúng tôi trong giờ phút này ý thức được tất cả công đức lớn lao đó của tất cả chư vị tôn đức và hòa thượng” (trích nguyên văn lời Sư Ông Nhất Hạnh phát biểu ở đoạn ghi âm vào thời khắc 17:18/26:20 17:28/26:20 (phút:giây) trích từ Trang nhà Làng Mai).

Có lẽ Thiền sư và chúng Đệ tử đóng chặt cửa Làng, niêm phong ánh sáng, cứ mãi nhắm mắt ngồi Thiền trong bóng tối, nên bị Vô minh che lấp hay chăng?

Nhân đây, không thể không trích thêm một đoạn tin của Phòng TTPGQT phát ra ngày 30.3.2005 để biết thêm về Sư Nhất Hạnh, nhân đó mà xác định ông Sư này là ai. Bản Thông cáo Báo chí viết:

“Cảnh sát hình sự cho biết là vì chiếc xe lam cũ kỹ của Đại đức Viên Phương không có kính chiếu hậu. Những người qua đường thấy lạ đến xem và phản ứng với cảnh sát rằng: "Không có kính chiếu hậu thì phạt tiền thôi, sao lại bắt người ta?". Nhưng cảnh sát vẫn giữ xe và Đại đức không cho đi. Nên dân chúng bao quanh lớn tiếng rằng : "Bắt chi bất nhơn vậy?! Họ giữ xe thì Thầy lấy xe ôm mà đi, đi Thầy". Đại đức Thích Viên Phương đón lấy xe ôm để về chùa Giác Hoa nơi Đại đức cư ngụ. Nhưng một toán công an liền chận xe ôm, bắt Đại đức đẩy vào một chiếc xe taxi chở đi mất, không biết đưa về đâu.

Được tin khẩn báo, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã điện hỏi Thượng tọa Thích Viên Định, Viện chủ chùa Giác Hoa và cũng là Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thì được Thượng tọa cho biết là : "Hồi 15 giờ Đại đức Thích Viên Phương đến vấn an Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền viện, chắc là trên đường về thì bị bắt. Được tin, chùa có hỏi thăm sở công an phường ở quận Bình Thạnh, nhưng công an trả lời không biết gì về việc này"….

… Gần đây, Tu viện Nguyên Thiều cho Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris biết, thì sau quyết định nói trên của Đức Tăng thống, hôm 26.3 cơ quan công quyền Bình Định đã đến Tu viện Nguyên Thiều năn nỉ Đức Tăng thống nhận lời tiếp Sư Ông Nhất Hạnh vào ngày 31.3. Tuy họ ngồi chờ từ 7 giờ sáng đến 11 giờ trưa vẫn không gặp được Đức Tăng thống, nên cơ quan công quyền đã khẩn khoản với Thầy tri khách nhờ trình lại lời yêu cầu của họ lên Đức Tăng thống Thích Huyền Quang.

Sau sự kiện trên, Đức Tăng thống đã nhập thất để đọc Đại tạng kinh kể từ ngày 28.3.2005. Ngài cho niêm yết trước Phương trượng lời công bố với khách thập phương là trong thời gian nhập thất ngài không tiếp bất cứ ai, kể cả Sư Ông Thích Nhất Hạnh. Nhưng liền đấy, công an đã đột nhập vào Tu viện xé tờ thông báo này. Đức Tăng thống Thích Huyền Quang liền tự tay viết lại bản Thông báo Nhập thất rồi ký tên, đóng dấu và cho dán ngoài cửa vào Phương trượng của ngài. Có thể vì thấy thủ bút, chữ ký cùng triện của Đức Tăng thống, nên công an chưa dám tháo gỡ, tính cho đến 15 giờ (giờ Paris) chiều hôm nay, thứ tư 30.3.2005, khi ông Võ Văn Ái điện về Tu viện Nguyên Thiều hỏi thăm tình hình.”

Đọc bản tin trên, chúng ta thấy hai điều: a) Một mặt, Cọng sản bắt nhốt Đại đức Thích Viên Phương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và không cho qúy Ngài trong Giáo hội này đi lại thăm viếng, b) Mặt khác, Cọng sản lại đến lạy lục năn nỉ Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang để mong Ngài nhận lời tiếp Sư Nhất Hạnh. Rõ ràng Sư Nhất Hạnh là gì, làm gì, quan hệ gì với Đảng Cọng sản khát máu Việt Nam, một đứa con nít lên 5 cũng dễ dàng nhận biết được vai trò và sự liên quan của sư Nhất Hạnh và ác Đảng CSVN. Hiển nhiên quá! Vì thế cho nên từ trước tới nay, toàn thể qúy Cơ quan, Cọng đồng, Truyền thanh, Báo chí và toàn dân Việt tị nạn Cọng sản Hải ngoại, liên tiếp lên án, chỉ trích, nguyền rủa, chửi bới, phỉ nhổ Sư Nhất Hạnh, thì cũng đâu có gì là quá đáng?

Phật tử chúng ta đừng có non nớt bảo rằng chỉ trích một vị Thầy tu là có tội! Nếu chửi rủa một vị Chân tu Thánh đạo thì mang tội, đúng! Nhưng nếu đánh tên Ma vương đội lốt Thầy tu thì đó là một việc làm đầy phúc đức cho quần sinh, nhất là những tên Ma vương dù vô tình hay cố ý làm tiêu hủy Phật pháp và làm băng hoại Giáo lý uyên nguyên của Phật đà! (Ma vương vẫn có đủ tài phép để hóa ra thành vị Thầy tu).

IV) Nguy cơ của Phật giáo đang bị tiêu diệt:

Trong bức Tâm Thư gửi Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Đại đức Thích Nhựt Chấn đã đề cập đến tình hình Phật giáo trong nước, Ngài viết: “Một hình thức tu tập truyền thống cho giới cư sĩ Phật tử là các khóa tu Bát quan trai giới, nhưng nội dung chỉ mang hình thức lễ bái nhiều hơn là tập sống một ngày một đêm theo hạnh xuất gia. Còn trong các sinh hoạt đi chùa tụng kinh, niệm Phật, bái sám, cũng chỉ là hình thức, chứ Phật giáo chưa có sự giáo dục cụ thể để đưa giáo lý căn bản, chuẩn xác vào sự hiểu biết cho đại đa số quần chúng Phật tử. Có nhiều thầy còn bóp méo giáo lý, dạy sai lời Phật có chủ ý rõ ràng. Có thầy đã dạy Phật tử rằng: “Việc gì Phật dạy đúng mà Đảng không cho làm thì không được làm, còn việc gì dù là sai mà Đảng cho phép thì cứ làm”. Thiết nghĩ Bụt dạy: Tin ta, kính ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta. Ở đây, giáo dục như vậy có phải là đưa quần chúng vào tệ nạn mê tín và tự mình phỉ báng Phật hay không? Nguyên nhân những bất cập ấy xuất phát từ đâủ” Thứ nữa, khi đề cập đến Hệ thống Học viện Phật giáo, Đại đức Thích Nhựt Chấn viết: “Chương trình đào tạo lại đưa vào trường những môn học không cần thiết. Ví dụ ở học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh phải học các môn như: Triết học Mác, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng. Chúng con thấy một trường Phật học tại sao lại học các môn như thế, học để làm gì trong khi Tam tạng kinh điển Phật giáo một người xuất gia đọc cả đời vẫn chưa hết”.

Người viết còn nhớ đã có lần nghe băng kinh giảng của Thầy Thích Như Điển, Thầy kể cho nghe một câu chuyện thật về trình độ của Hội Hán-Việt Phật học ở Hà Nội, dịch kinh từ Hán văn ra Việt văn. Câu “Tam Thừa Tứ Quả” (để chỉ về quả vị giải thoát trong Đại thừa Phật giáo. Tam Thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát; và tứ Quả: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán) mà Hội Hán-Việt Phật học dịch ra là “Ba Xe Bốn Trái” (Tam = Ba, Thừa = Xe, Tứ = Bốn, Qủa = Trái).

“Tam Thừa Tứ Quả” mà dịch ra là “Ba Xe Bốn Trái”, thì chỉ có dựng xác ông Các, ông Mác, ông Hồ lên để nhờ mấy ông đó cắt nghĩa dùm, chứ có ai mà hiểu nổi? Trình độ của “Đỉnh cao trí tuệ của loài người” là thế đó! Ôi! Bất hạnh thay cho Phật giáo!

Ai nghe điều này mà không ớn lạnh? Ai thấy những sự kiện này mà không toát mồ hôi? Ai biết việc này mà không rùng mình kinh sợ? Nhất là Phật giáo đồ phải biết xót xa cho tinh túy của Đạo Phật đang bị thiêu đốt bởi ma quân!

Trong qúa khứ, Phật giáo có những Pháp nạn, nhưng Pháp nạn như ở năm 1963 chỉ là một sự chặt cành bứt lá, gốc vẫn còn; nghĩa là nét tinh túy của Phật giáo cổ truyền vẫn không bị hoen ố; sau khi cành lá bị bẻ trụi, gốc vẫn có thể phát sinh cây Pháp tinh nguyên, đâm chồi nẩy nụ để trở thành cây Phật pháp tinh nguyên.

Bây giờ, Phật giáo cũng đang chịu Pháp nạn dưới bàn tay lông lá của Cọng sản; nhưng Pháp nạn này tinh vi khó thấy, nguy hiểm gấp trăm lần so với những Pháp nạn trước đây, vì CSVN đang bứng gốc, đầu độc cội nguồn Phật giáo, chúng muốn biến Giáo lý nhà Phật thành một lý thuyết Mác Lê Hồ.

Dẫn trích một vài bằng chứng, thực tiển như trên về hiện trạng Phật giáo trong chế độ Cọng sản Việt Nam để cho qúy Tu sĩ lẫn Cư sĩ, những ai đang ưu tư cho Chân lý Như Lai đang bị băng hoại, phải đồng lòng góp sức chung vai cứu lấy!

V) Kết Luận:

Cõi đời vô đạo! Lớp người vô đạo! Chủ nghĩa vô đạo!



Hoài Nam

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

linhgia wrote:Mời quí vị nghe bạn tôi anh Vũ Trung Hiền, HNC 58-65 hát một ca-khúc của nhạc sĩ Thanh Trang

Nhạc phẩm mang tên: Bài Tình Ca Trong Chiều



[ram]http://thanhtrangclub.baokhanh.com/VTH_BTCTC.wma[/ram]


Giang già
Cám ơn anh Giang
Mời quý vị nghe anh Thanh Trang kể về Bài Tình Ca Trong Chiều:
Image Trong nhóm anh em văn nghệ vẫn lui tới cái “website” này thì có Quỳnh Hương , người có Thơ đăng tải trên các “forums” hoặc “websites” khác, cũng như là đã có nhiều bạn văn nghệ khác phổ nhạc vào Thơ của cô. Hôm tuần rồi, trong mục “Thư đi tin lại” trong nhóm gồm chừng chục người với nhau , và cũng trong đề tài gọi là “Văn Nghệ Cuối Tuần” do tôi đầu têu, thì có bài Thơ của Qùynh Hương tựa là “Tôi muốn hỏi” với câu mở đầu như thế này:

“Tôi muốn hỏi”
“Cho tôi vòng tay ấm”

“Nhưng tâm tư sao chợt thấy ngại ngùng ..”

(……)



Đọc hết bài Thơ thì hóa ra đấy là nói về tâm tình của một cô gái ( hay phụ nữ ), trời hoặc đời lạnh lẽo mà cái anh chàng yêu mình thì nó lại nhát như cáy, yêu thì yêu đấy nhưng nói lại không chịu nói, cứ ấp a ấp úng, ấm a ấm ớ !

Hôm sau có người trong nhóm hồi âm viết rằng “người ta gửi bài Thơ mà chắc thấy “tình quá” nên ai nấy đều thần kinh bị tê liệt hết rồi hay sao mà chả thấy trả lời trả vốn gì” ! Tôi đi làm về, đọc mấy giòng đó trong “e-mail” bèn hồi âm rằng “Cậu có bị tê liệt do bị Bà Quản Lý của cậu bà ấy “kỷ luật” sau khi cứ thấy cậu đắm đuối với bài Thơ hay không thì tôi không biết chắc nhưng riêng tôi thì vẫn còn tỉnh như sáo và có bài “Ca Rao”, trong thể “Ca Rao” tôi vẫn thường xuyên đóng góp vào “Văn Chương Bình Dân” nước nhà, như sau:

“Đàn ông phải biết mở mồm..”

“Đàn ông phải biết mở mồm”

“Đợi người ta hỏi, chiều hôm đến rồi !”

“Nhát gan thì xéo đi thôi !”

“Yêu mà cứ để lần hồi , ích chi ?”

“Đàn bà con gái có thì ..”

“Không lo liệu sớm, thiếu gì trai tơ !”

Tuy nhiên sau khi cười cợt cho đã đời rồi thì tôi bèn xem lại bài Thơ nọ một cách nghiêm chỉnh ! ( Con người ta cứ cười cười cợt cợt hòai thì dễ trở nên nhảm nhí, mà cứ khoan thai đạo mạo riết thì trông cũng chán, bởi ngay các nhà chân tu người ta còn không như thế nữa là ! ) Vậy thì khi xem lại bài Thơ của Quỳnh Hương tôi thấy có “cái gì đó” rất chân thật ! “Cái gì đó” thì chỉ có thể dùng trực giác mà kiểm nghiệm chứ không thể giải trình ra như một bài tóan với thông số, ẩn số, rồi đáp số cho đuợc ! Tôi ngắm nghía bài Thơ coi xem cấu trúc, ngôn từ của nó nhắm có dùng để phổ nhạc vào đấy đuợc hay không. Xem rồi thì thấy khó, bởi xưa giờ chả có bao giờ tôi phổ nhạc bài Thơ nào mà bài Thơ lại đuợc “yên thân” với tôi ! Thường thì tôi chỉ xử dụng chừng 30 đến 40 % lời lẽ trong bài Thơ là cao lắm; ấy là chưa nói đến sự thể là ngay khi xử dụng như thế thì lời lẽ theo nguyên tác cũng đã bị sửa đổi sao cho phù hợp với giai điệu nơi phần nhạc rồi. Lý do hết sức đơn giản, và chả có liên quan gì đến giá trị của tòan thể một bài Thơ. Lý do ở chỗ là xưa giờ tôi nghĩ tôi có thể tự mình”lo liệu” cho phần lời nơi những bài hát của mình đuợc rồi ! Và khi viết một bài hát thì bao giờ tôi cũng coi giai điệu như có vai trò then chốt. ( Những bản nhạc của thế gian mà ta yêu thích xưa nay thì dễ mấy khi ta biết hay nhớ hết phần lời ?) . Quan trọng hơn nữa: Nhạc có “ngôn ngữ” của Nhạc, còn Thơ thì có “cung cách” và “ngôn ngữ” của Thơ !

Bài Thơ của Qùynh Hương là một “Câu hỏi” ! Trong khi cái anh chàng nào đấy trong bài “Thơ” vẫn còn ấm a ấm ớ chưa chịu trả lời thì tôi sẽ cố gắng làm cho cô gái trong bài Thơ vơi đi phần nào nỗi phiền muộn vì đợi chờ, và đồng thời cũng “tiếp tay” cho anh chàng nào trong đó ( hay những cậu cũng cái thói nhát gan, do dự như thế ở ngòai đời ) ít nhất không dám giáp mặt mà trả lời thì tối thiểu cũng biết cách tạm thời “bỏ của chạy lấy người”, lên xe đò hoặc lái xe , lánh mặt đi đâu đó xa xa một chút rồi gọi “xe-lu-la” về, nói câu “Anh yêu em; mọi chuyện nhát gan, chần chừ, do dự của anh, mong em rộng tình tha thứ !”

Bây giờ là thế kỷ 21 rồi ! Không còn cái màn viết lá thư tình rồi nhờ một “con chim nhạn” nào đó của thời “Tiền Chiến” nó ghé nhà rồi chuyển thư dùm cho mình ! Thời buổi này, cần gì thì người ta gửi “E-mail” hoặc là gọi “xe-lu-la” !

Anh Vũ Trung Hiền khi nghe giai điệu của bản nhạc ( lúc đó cũng chưa có tựa đề ổn định chứ đừng nói chi đến lời hát) bèn “đặt cọc” trước để hát! Một buổi trưa thứ Bảy tôi có việc xuống vùng Orange County có tí việc. Lái xe trên đường về, tôi bèn “tranh thủ” sọan phần lời cho bài hát. Tối đến, gửi lời hát cho VTH, đương sự đọc phần lời, chả biết trúng cái “mạch ngầm” nào đó trong người bèn gọi “xe-lu-la” hát cho tôi nghe từ đầu đến đuôi ! Hôm nay anh Hiền ghé nhà để hát và thu “Bài tình ca trong chiều”.

Là tác giả, nhưng tôi nghĩ là tôi có hát thì cũng không thể hay hơn thế!

Thanh Trang

Nam Cali, đầu mùa Xuân

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

30 năm nhìn lại chiến tranh


Trần Trung Đạo


Thỉnh thoảng tôi đọc trong Internet một vài lá thư có nội dung bày tỏ thái độ không đồng ý của người viết đối với số chính sách của đảng và nhà nước, được gởi ra từ trong nước. Các tác giả của những lá thư đó tuy khác nhau ở tên họ, địa chỉ, nhưng thường ký chung dưới một tên gọi là "các cựu chiến binh lão thành". Những lá thư như thế chắc không phải được viết bằng máy vi tính hiện đại như tôi đang sử dụng mà có lẽ bằng những cây viết có ruột cao su mềm, bơm mực bằng tay được cất giữ kỹ lưỡng từ lâu lắm. Nhìn vào tên tuổi và chức vụ, tôi biết các cụ thuộc thế hệ Điện Biên và không ít là người của thời mùa thu 1945 còn lại. Địa chỉ của các cụ tuy khác nhau nhưng giống như lá thư tập thể, phần đông sống trong các khu nhà cũng có tên chung là Khu Tập Thể.

Trong suốt bảy, tám mươi năm của đời mình, các cụ sống, làm việc và được rèn luyện để thừa hành chỉ thị của cấp trên chứ không quen đặt vấn đề, các cụ tập chịu đựng đau đớn chứ không được phép rên la. Và vì thế, viết một lá thư đã là một việc khó khăn, gởi lá thư đó đến các cấp đảng và nhà nước trung ương là một can đảm chưa từng nghĩ đến và phổ biến lá thư rộng rãi ngoài quần chúng quả thật là một hành động phi thường. So với việc ôm ngọn tầm vông vót nhọn lao vào phòng tuyến thực dân trong những ngày còn trai trẻ, hành động viết lá thư gởi lên trung ương đảng ngày nay có thể còn nguy hiểm hơn nhiều. Những kẻ mà các cụ lo sợ sẽ trả thù, dèm pha, nghi kỵ không phải bọn thực dân mắt xanh, mũi lõ dễ phân biệt mà là những người cùng tổ chức, cùng đảng, cùng gọi nhau là đồng chí và ngay cả những kẻ còn thuộc hàng con cháu các cụ.

Tôi hình dung cái đêm các cụ tập trung nhau ở nhà một người nào đó trong nhóm để thảo lá thư, chắc phải bí mật, hồi hộp hơn cả giờ ra trận và xúc động hơn cả đêm cuối cùng bên cạnh vợ con trước ngày lên đường đi Lai Châu, Hà Nam, Hà Bắc không biết có ngày trở lại, của mấy chục năm về trước. Các cụ lo sợ là phải. Những kẻ mà các cụ chống đối ngày nay, không những biết rõ nơi ăn chốn ở mà còn là người quyết định các chỉ tiêu lương thực, thực phẩm, tiền hưu trí, phụ cấp nhà ở của các cụ. Những kẻ đó không những nắm quyền sinh sát cho đoạn đời ngắn ngủi còn lại của các cụ mà cũng có luôn cả quyền xóa bỏ quá khứ mà các cụ vô cùng trân quý.

Tôi nghĩ đến các cụ và thương các cụ rất nhiều. Không phải sau khi đọc những lá thư được gởi từ các khu nhà tập thể, không phải sau khi đã ra được nước ngoài mà ngay cả từ thời mới lớn tại miền Nam trước 1975, hình ảnh các cụ vẫn rất đẹp trong lòng tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tất cả những người Việt Nam sống bên kia sông Bến Hải là cộng sản, trái lại tin rằng ẩn khuất sau đám mây đen độc tài đảng trị đó vẫn có những tấm gương sáng của lòng yêu nước chân thành. Dân tộc nào trên thế giới cũng yêu thương và gắn bó với đất nước của họ, nhưng tôi vẫn có một niềm tin chủ quan rằng con người Việt Nam nặng lòng với quê hương đất nước nhiều hơn các giống dân khác. Bởi vì không có một đất nước nào, ở đó, mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông, mỗi con đường đã được gìn giữ bằng một giá đắt như ông bà chúng ta đã phải hy sinh trong suốt dòng lịch sử.

Những ngày còn ở trung học, tôi học thuộc lòng bài thơ “Nhà tôi” của Yên Thao và “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Cả hai bài thơ được đăng trong tạp chí Bách Khoa ở Sài Gòn, trong đó có những câu làm tôi rơi nước mắt:

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai? Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng.
(“Bên kia sông Đuống”, Hoàng Cầm)

hay là:

Đêm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đấy bên trại thù quạnh quẽ
Trông im lìm như một nấm mồ ma
Có còn không! Em hỡi mẹ tôi già?
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa.
(“Nhà tôi”, Yên Thao)


Tôi thường tự nhủ, nếu được sinh ra cùng thời với các cụ và có đủ can đảm, con đường đẹp nhất mà tôi chọn có lẽ cũng là con đường mà các cụ đã đi:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(“Đất nước”, Nguyễn Đình Thi)

Sau 1975, nghe bài hát “Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý viết trong thời chống Pháp, tôi cũng vô cùng cảm động:"Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo, người mẹ nghèo trong áo rách, áo rách nên thương, áo rách nên thương, các con ra đi đã mấy chiến trường, mang theo cả tình thương của mẹ." Trong hình ảnh nghèo nàn, đau xót đó đã toát lên một vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẹ và tình đất nước.

Năm ngoái, trong một buổi thảo luận với các bạn trẻ, tình cờ trùng hợp với thời gian Việt Nam đang kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ, một bạn đã hỏi cảm tưởng của tôi đối với những người ngã xuống trên phòng tuyến Điện Biên Phủ trên đường tấn công vào sào huyệt của tướng De Castries. Tôi đã trả lời người bạn trẻ rằng tôi rất có cảm tình và kính trọng những người chết trên đường đánh vào bộ chỉ huy của tướng De Catries.

Trả lời như vậy không phải vì tôi chưa suy nghĩ kỹ. Thật ra, từ khi biết nghĩ về đất nước, tôi đã suy nghĩ về cái chết của những người Việt Nam đó rất nhiều.

Khi nói cảm tình với những người chết khi tấn công vào Điện Biên Phủ không phải tôi không biết rằng trong thời điểm đó đã có mặt một chính phủ khác, hình thành như kết quả của hiệp ước Hạ Long 1948 và sau đó trong hiệp ước ký kết tại điện Élysée giữa Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol năm 1949. Theo nội dung chính của cả hai hiệp ước, Pháp công nhận "nền độc lập" của Việt Nam. Thật ra, đó chỉ là chiếc bánh vẽ mà dân Việt Nam chẳng thể nào ăn được. Sử gia Phạm Văn Sơn ở miền Nam đã viết trong Việt sử toàn thư: "Nhưng sau 80 năm sống dưới quyền Pháp, nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ người Pháp quá nhiều, lại nhìn vào Bảo Đại và thành phần chính của chính phủ Bảo Đại, nhân dân cũng hết tin tưởng, vì vậy mà cây bài quốc gia tức cây bài Bảo Đại không có hiệu quả." Là một sĩ quan cấp đại tá, phụ trách phòng quân sử thuộc Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lẽ ra ông phải viết khác đi cho thích hợp với bối cảnh chính trị Việt Nam sau hiệp định Geneva, nhưng không, sử gia Phạm Văn Sơn đã có một cái nhìn sáng suốt. Ông viết từ trái tim yêu nước và viết cho hàng trăm năm sau chứ không phải để thoả mãn các nhu cầu chính trị nhất thời. Đại tá Phạm Văn Sơn, người đã chết trong trại tù Vĩnh Phú năm 1980, đã ví các nỗ lực của thực dân nhằm tiêu diệt lòng yêu nước bền bỉ của nhân dân Việt Nam chẳng khác gì là việc "cầm dao chém nước", chẳng thể nào chẻ được lòng yêu nước của người Việt Nam.

Khi nói cảm tình với những người lính chết trên đường tấn công vào Điện Biên Phủ không có nghĩa tôi không biết rằng ông Hồ Chí Minh là một cán bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản và những người lãnh đạo phong trào Việt Minh phần lớn là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương. Lenin đã khẳng định cuộc cách mạng chống thực dân là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới và cũng chính Lenin cho rằng các nước thuộc địa lạc hậu có khả năng nhảy vọt lên chủ nghĩa xã hội mà không cần thông qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ngay từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tư tưởng đó luôn luôn là tư tưởng chỉ đạo cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Tôi kính trọng và quý mến những người đã ngã xuống, đơn giản bởi vì họ là những người yêu nước. Tình yêu họ dành cho nơi chôn nhau cắt rốn là một tình yêu thuần khiết và vô cùng trong sáng. Lòng yêu nước của họ không nhập từ đâu cả nhưng được hun đúc bằng xương máu từ nhiều ngàn năm lịch sử, lớn lên trong lời dạy bảo của cha và lời ru của mẹ.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 26 tháng 2 năm 2005 của đài BBC, nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã xác nhận: "Lúc ấy tôi còn trẻ (đỗ tú tài năm 1940), tham gia cách mạng là vì tinh thần yêu nước chứ cũng không biết gì về các chủ nghĩa. Tôi viết các vở kịch mang chất lịch sử, xuất phát từ lòng yêu nước." Một người như nhà thơ Hoàng Cầm, có bằng tú tài, một trình độ giáo dục được xem là cấp cao của thời bấy giờ, vẫn không biết gì về chủ nghĩa Mác-Lê thì hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tâm hồn nông dân chơn chất Việt Nam khác làm sao hiểu được thế nào là duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, giá trị thặng dư, thời kỳ quá độ và họ chắc cũng chẳng quan tâm đến các ông Các Mác râu xồm hay ông Lê-nin trán hói là ai.

Tôi tin tuyệt đại đa số những người đã chết trong cuộc chiến chống thực dân là những người hy sinh cho độc lập, tự do đúng nghĩa. Họ ngã xuống cho thanh bình sớm được vãn hồi trên quê hương khổ đau và bất hạnh Việt Nam. Họ ngã xuống trong nụ cười, bởi vì ngay cả khi nhắm mắt lìa đời họ vẫn tin rằng họ đang chết cho tổ quốc, đang chết cho tương lai dân tộc như tổ tiên họ đã chết trên sông Bạch Đằng, trên bến Chương Dương, trong đầm Dạ Trạch, giữa núi rừng Yên Thế. Họ chết đi trong giấc mơ tuyệt đẹp về một đất nước tương lai, một đất nước của Hùng Vương thương yêu và giàu mạnh. Tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói rằng tất cả, đều tin như thế.

Tôi không tin một người Việt Nam nào có thể lấy thân mạng mình lấp vào ổ súng thực dân hay lấy thân mình làm đòn kê để khẩu pháo khỏi rơi xuống hố sâu chỉ để mong một ngày đất nước Việt Nam sẽ biến thành một thiên đường, ở đó con người làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, muốn gì có nấy như đã khẳng định trong kinh điển Mác-Lê. Không! Những nông dân Việt Nam yêu nước từ bỏ ruộng vườn ra đi theo tiếng gọi của non sông như một thời vang vọng từ Chí Linh, Lam Sơn, Bạch Đằng, từ bốn ngàn năm lịch sử. Họ đã từng ôm lấy nhau mà hát "Vì nước, ruộng nương anh gửi bạn thân cày, gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay... Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng còn cười buốt giá chân không giày, thương nhau, tay nắm lấy bàn tay". Không ai gần gũi với đất nước hơn là nông dân và cũng không ai yêu đất nước hơn người nông dân. Cả đời họ gắn liền với bờ ao, ruộng lúa. Họ đánh Tây chỉ vì một lý do đơn giản, để được sống thanh bình, tự do trong căn nhà tranh, bên bờ ao thửa ruộng của họ. Ý nghĩa của quê hương trong lòng người nông dân trong sáng như thế đó.

Và cho dù những người nông dân áo vải thô đó có tham gia vào đảng cộng sản đi nữa, việc tham gia của họ cũng chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn mà thôi. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Trong ý thức đơn sơ của người dân Việt, các tổ chức chống thực dân là những chiếc phao họ bám để sang bờ độc lập. Người dân hiền lành ngày đó làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt cuộc đời họ cho đến ngày nay.

Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam nhưng tôi nhìn lịch sử từ hướng con tim và bằng lý trí chứ không nhìn từ điện Kremlin, White House, khu Trung Nam Hải Bắc Kinh hay bằng những kiến thức và lý luận một chiều. Tôi học để hiểu rằng cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Đó là cuộc chiến giữa dân tộc Việt Nam bị trị chống lại thực dân Pháp bóc lột và nô lệ đất nước chúng ta. Cuộc chiến đó bắt đầu khi tiếng đại bác của tướng thực dân Rigault de Genouilly bắn vào Đà Nẵng năm 1859 chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược cho đến khi chúng rút ra khỏi Việt Nam vào năm 1954. Trong gần một trăm năm đó, máu của hàng triệu người Việt Nam đã đổ xuống khắp ba miền, từ ruộng lúa Tiền Giang đến châu thổ sông Hồng, từ Côn Đảo đến Réunion, từ dải Trường Sơn trùng điệp đến núi rừng âm u Việt Bắc. Bên tai tôi như vẫn còn nghe tiếng hô "Việt Nam vạn tuế" của Nguyễn Thái Học, lời dặn dò của Phan Chu Trinh, tiếng gào thống thiết của Nguyễn An Ninh, lá thư viết bằng máu của Phan Bội Châu, giọng thơ hùng tráng của Lý Đông A, tiếng sóng Châu Giang vỗ vào thân xác của Phạm Hồng Thái. Người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên.

Khoảng cách giữa thương nước và hại nước không phải là một chiếc cầu dài mà trái lại, rất ngắn và mỏng như sợi tóc. Chiếc cầu nhận thức đó ngắn đến nỗi nếu chỉ bước thêm một bước nữa, một người yêu nước sẽ tức khắc trở thành kẻ bán nước. Đó là thực chất của cuộc chiến gọi là "Chống Mỹ cứu nước" sau 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975.

Nhiều người nhìn cuộc chiến Việt Nam như nhìn vào màu nước biển. Tùy theo thời gian và chỗ đứng của mỗi người, nước biển có một màu sắc khác nhau. Nhưng màu thật sự của giọt nuớc không thay đổi dù sáng, trưa, chiều, tối, trong bờ hay ngoài khơi.

Tương tự, cuộc chiến Việt Nam đã được gọi bằng nhiều tên gọi: nội chiến, chống đế quốc, ủy nhiệm, đánh thuê v.v…, nhưng bản chất của cuộc chiến vẫn chỉ là một mà thôi. Như vậy, bản chất của cuộc chiến từ 1954 đến 1975 là gì?

Trong các định nghĩa về chiến tranh, tôi vẫn đồng ý với định nghĩa của Karl von Clausewitz nhất, "chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những phương tiện khác" (War is the continuation of politics by other means). Và từ định nghĩa đó, nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, thay vì đi tìm nhãn hiệu quốc gia nào trên từng vỏ đạn, trên mỗi chiến xa hay thử nghiệm DNA, màu da, chủng tộc của từng xác chết, có lẽ chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân và mục đích của cuộc chiến đã xảy ra trên đất nước mình, không phải trong thời chiến mà ngay cả trước và sau cuộc chiến.

Nói về mục đích chiến tranh, khoảng năm 1970, tôi có đọc một cuốn sách của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Tôi không nhớ chính xác tên của tác phẩm nhưng nhớ rất rõ giáo sư đã dành nguyên trang đầu để viết mỗi một câu: "Nói cho cùng, cuộc chiến Việt Nam vẫn là cuộc chiến tranh ý thức hệ". Câu nói đó kích thích sự tìm hiểu của tôi rất nhiều về bản chất và mục đích của cuộc chiến Việt Nam mà các bên tham dự đang nhắm đến.

Ở miền Nam, chúng tôi lớn lên với nhiều câu hỏi và rất ít câu trả lời, trong khi đó, thế hệ trẻ miền Bắc lớn lên có tất cả câu trả lời chờ sẳn mà không cần đợi hỏi. Nếu ai hỏi một trăm em, hay thậm chí một ngàn em học sinh Việt Nam tốt nghiệp phổ thông về lý do của cuộc chiến tranh được mệnh danh là "giải phóng miền Nam", tôi tin người hỏi sẽ nhận về những câu trả lời giống hệt nhau, đó là "chống giặc Mỹ xâm lược để thống nhất đất nước". Giặc Mỹ xâm lược? Phải chăng vì "giặc Mỹ xâm lược" Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Tây Đức nên ngày nay các quốc gia này mới trở nên những nước giàu có nhất nhì trên thế giới. Thống nhất đất nước? Vâng, không một người Việt Nam nào muốn cắt đi phần da thịt của mình hay muốn đất nước mình phải chia đôi, chia ba, nhưng nếu để đổi sự thống nhất bằng sinh mạng nhiều triệu người dân vô tội, nhiều trăm ngàn người Việt Nam vẫn còn đang mất tích, hàng vạn cô gái Trường Sơn đã đánh mất tuổi xuân trong rừng sâu núi thẳm, một nền kinh tế đi sau nhân loại hàng thế kỷ, phải chăng là một giá nên đổi? Độc ác như Kim Nhật Thành nhưng sau cuộc thử lửa 1950 đã không còn nuôi giấc mộng xâm chiếm Nam Hàn lần nữa. Bạo chúa cỡ Erich Honecker cũng chưa bao giờ dám nghĩ chuyện phiêu lưu thống nhất nước Đức bằng con đường võ lực.

Trước 1975, tôi nghe rất nhiều về quốc gia, cộng sản nhưng ai cũng bận đánh nhau, chẳng bao nhiêu người dành thời gian nghiên cứu kỹ càng và phổ biến rộng rãi về thế nào là quốc gia và thế nào là cộng sản. Một số không ít các nhà lãnh đạo miền Nam từng là sĩ quan trong quân đội Pháp hay đã phục vụ trong chính quyền thuộc địa Pháp nên cũng không thích nghe quá nhiều những mẩu chuyện khơi dậy lòng yêu nước chống thực dân và họ cũng không đặt nặng việc xây dựng một hệ ý thức quốc gia dân tộc nào hoàn chỉnh. Một số người được gọi là trí thức trong xã hội miền Nam thì xem việc chống chính phủ, chống Mỹ là một thời trang, mặc dù nhiều trong số họ ăn lương Mỹ. Xã hội miền Nam trước 1975 hẳn nhiên không phải là một xã hội lý tưởng. Miền Nam có tham nhũng, có cậy quyền, có lũng đoạn, có độc tài, có tham ô, có lãng phí, nói chung có đủ các biến chứng tiêu cực của một đất nước vừa thoát ra khỏi ách phong kiến và thực dân. Nhưng đồng thời miền Nam cũng có các điều kiện và nhân tố cần thiết để xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị. Giống như việc trồng cây ăn trái, những hạt mầm dân chủ cũng phải được gieo, phân bón, tưới nước, chịu đựng nắng mưa, gió bão, truớc khi đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa và kết trái. Mặc dù đang chập chững trên hành trình dân chủ hóa như thế, không có nghĩa là hàng triệu người lính miền Nam chiến đấu không lý tưởng. Một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng vĩ đại bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.

Trong suốt 20 năm từ sau 1954, nhân dân miền Nam, không có một con đường nào khác hơn là phải chiến đấu để bảo vệ quyền được sống trong một xã hội họ đã chọn lựa. Phát xuất từ chính sách chia để trị của thực dân và hoàn cảnh trưởng thành, không ít nhà lãnh đạo miền Nam đã bắt đầu cuộc đời chính trị hay binh nghiệp trong hàng ngũ Pháp, nhưng giống như hàng triệu người dân miền Nam khác, họ đã chung lưng nhau chiến đấu để bảo vệ quyền được nói những điều họ nghĩ, quyền được sống nơi họ muốn sống, quyền đi nhà thờ, đi chùa họ chọn, quyền được hát bài hát họ thích. Dù quá khứ khác nhau nhưng họ đều ngã xuống như những người yêu nước. Trong trái tim của nhân dân Việt Nam, Phạm Hồng Thái, Lương Ngọc Quyến hay Đội Cấn, Đội Cung đều là những anh hùng dân tộc. Đừng quên, những người bị gọi là "Ngụy", là "theo Tây", "theo Mỹ" kia không chỉ phải bảo vệ miền Nam mà còn phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn để giữ từng cù lao, từng khoảng không gian của vùng trời, từng hải lý của vùng biển Việt Nam. Hạt cát Hoàng Sa vẫn còn đỏ màu máu của họ.

Thế nhưng, số phận các quốc gia nhược tiểu thì ở đâu và thời nào cũng vậy, nếu tương hợp với quyền lợi của đế quốc thì sống và ngược lại thì chết. Bởi vì mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam rất tương hợp với quyền lợi của Liên-Xô và Trung Quốc nên "vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam" như Lê Duẩn nói, trong lúc nhiều cấp lãnh đạo miền Nam phải tự sát hay sắp hàng đi vào tù bởi vì quyền lợi của nhân dân miền Nam (chiến đấu để bảo vệ và xây dựng các nền móng tự do dân chủ riêng ở miền Nam) không còn tương hợp với sách lược thế giới của tổng thống Richard Nixon. Thật ra, không phải đợi đến khi tổng thống Nixon thay đổi đường lối chiến tranh mới dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam, chính sách của Mỹ tại Việt Nam đã thất bại ngay từ trong trứng. Đánh nhau với ba nước tiên phong và hùng hổ nhất trong khối cộng sản quốc tế (Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô) mà chỉ nhằm bảo vệ miền Nam Việt Nam thì sự thất bại là vấn đề thời gian mà thôi. Danh tướng Đức Erwin Rommel chẳng từng viết "Phòng thủ là tự sát" đó sao. Trong chiến tranh Đại Hàn, nếu quân đội đồng minh không đổ bộ Ichon, giải phóng Seoul, vượt vĩ tuyến 38, chiếm cả thủ đô Bình Nhưỡng của Bắc Hàn, mà chỉ lo phòng thủ miền Nam thì số phận Nam Hàn chưa biết sẽ ra sao.

Sau 1975, chính ông bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã xác định cuộc chiến từ sau 1954 đến 1975 là chiến tranh ý thức hệ giữa cộng sản và tự do. Trong diễn văn chào mừng chiến thắng vào đầu tháng 5 năm 1975, ông Lê Duẩn không còn che giấu tham vọng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam khi tuyên bố: "Vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam quang vinh, người lãnh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp tiền phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội". Câu nói "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc..." đã trở thành một trong những câu khẩu hiệu phổ biến nhất trong thời kỳ đó. Câu khẩu hiệu dài lòng thòng này đã làm tốn nhiều vải và mực nhất trong những năm mà người dân không có áo mặc sau 1975. Ngoài ra, trong tác phẩm được xem như là kinh điển, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, ông Lê Duẩn cũng nhiều lần khẳng định mục đích cuối cùng của cách mạng tại Việt Nam là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội hiện đại (công nghiệp, nông nghiệp và khoa học kỹ thuật), tạo điều kiện vững chắc cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trong tương lai. Nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích chính trị.

Người đọc sẽ thắc mắc, thế thì công sức của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ nhưng cũng rất vinh quang đó là gì?

Xin thưa, từ nhỏ tôi được dạy rằng khi giúp đỡ ai thì đừng cầu ơn phước, vì giúp người chỉ để mưu cầu lợi lộc riêng tư thì không phải giúp người mà chỉ là một hành động đầu tư trên sự khổ đau của kẻ khác mà thôi. Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương cho đến 1954, giới lãnh đạo cộng sản đã chiến đấu trong hàng ngũ người Việt yêu nước, vâng, nhưng mục đích cuối cùng của họ không phải là độc lập dân tộc hay thống nhất đất nước. Ba mươi năm, kể từ 1975, một khoảng thời gian đủ dài và một vết chém đủ đau để nhân dân Việt Nam ý thức ra rằng thống nhất đất nước chỉ là điều kiện tiền đề cho mục đích cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam. Hành động đốt sách vở một cách không phân biệt, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa cũ, đổi tiền năm bảy lượt, bỏ tù hàng trăm ngàn người, đày đi kinh tế mới hàng triệu đồng bào là những bằng chứng hiển nhiên đến mức không ai còn có thể chối cãi được. Nếu chỉ đánh Mỹ để giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, tại sao họ đã thi hành các biện pháp đầy đọa, trừng phạt, tẩy não vô cùng thất nhân tâm như đã làm sau 1975 đối với chính đồng bào máu mủ của mình?

Trong quan điểm đó, Đảng Cộng sản không có công trạng hay ơn nghĩa gì với dân tộc Việt Nam cả. Họ chỉ là những người cho vay lấy lãi nặng bằng máu xương của bao nhiêu thế hệ Việt Nam. Hãy so sánh cách sống của những ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên trung ương đảng và cuộc đời của những người được gọi là chủ nhân đất nước đang lay lắt dưới gầm cầu Long Biên để thấy cái mức lãi mà dân tộc ta phải trả cho Đảng Cộng sản Việt Nam cao đến bao nhiêu. Bất cứ người Việt Nam có một chút kiến thức kinh tế, chính trị và nhìn lịch sử một cách khách quan phải công nhận rằng, nếu không có ý thức hệ cộng sản, Việt Nam không những vẫn là một dân tộc thống nhất mà còn có đời sống tự do, dân chủ, nhân bản và giàu mạnh gấp trăm lần hơn hôm nay.



Trần Trung Đạo
www.trantrungdao.com

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Con có một Tổ Quốc

Thơ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận


Trong giờ phút cùng cực của khổ đau hoạn nạn tại Cây Vông, Phú Khánh ngày 8-12-1975, ngài đã dặn dò lấy chính ngài và cũng nhắn nhủ các thế hệ mai trong bài thơ "Con có một Tổ Quốc" hùng hồn như trang sử:



Con có một Tổ Quốc: Việt Nam
Quê hương yêu quý ngàn đời
Con hãnh diện
Con vui sướng
Con yêu non sông gấm vóc
Con yêu lịch sử vẻ vang
Con yêu đồng bào cần mẫn
Con yêu chiến sĩ hào hùng
Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn
Núi cao cao, xương chất cao hơn
Đất tuy hẹp nhưng chí lớn
Nước tuy nhỏ nhưng danh vang
Con phục vụ hết tâm hồn
Con trung thành hết nhiệt huyết
Con bảo vệ bằng xương máu
Con xây dựng bằng tim óc
Vui niềm vui đồng bào
Buồn nỗi buồn của dân tộc
Một nước Việt Nam
Một dân tộc Việt Nam
Một tâm hồn Việt Nam
Một văn hoá Việt Nam
Một truyền thống Việt Nam.

(Thơ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận)

User avatar
khieulong
Posts: 6756
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

linhgia wrote:Mời quí vị nghe bạn tôi anh Vũ Trung Hiền, HNC 58-65 hát một ca-khúc của nhạc sĩ Thanh Trang

Nhạc phẩm mang tên: Bài Tình Ca Trong Chiều

[ram]http://thanhtrangclub.baokhanh.com/VTH_BTCTC.wma[/ram]

Giang già
Bác Lính Già à !!!

Phải noí tui là người gần gũi với anh Thanh Trang nên được nghe nhiều nhạc và biết nhiều chiện lắm lắm , Cũng như anh Thanh Trang nói cái thằng cha mà nhút nhát yêu mà không dám nói là yêu cứ ỡm à ỡm ờ là tui đó chứ ai trồng dưa chuột đất này . Nhưng phải nói lần này VTH nhà ta hát bài này là mướt nhất từ đó đến giờ , rất là xức xăc không thể chê vào đâu được ......

Cuối tuần này đã có độ nào chưa ? Đang rủ cho Tuấn Cop và Ling vào xóm nhà lá của mình mà hai tay này sao mà nó lười chảy thây ra . Ngày nào cũng chỉ mải mê vào EBay để đồng hồ với nhẫn .......Không biết ta có nên dao to búa lớn để phá chăng ????????? :) :) :) Chúc vui vẻ nhá , không có bạn hiền thì cứ mò lên ông Ba Mươi uống rượu chát là cũng đ3u phê trong lúc chờ bà chị trở dià .....

Sáu Long Thong

Post Reply