Góc nhỏ của anh 3 Giang

Tung cánh chim tìm về mái trường xưa. Mong tìm bạn học cũ, nay ở đâu xin nhắn đôi lời!!!

Moderator: CNN

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương (*)




Người ta truyền tụng rằng tại Nam Thiên Đệ Nhất Động có một vị sư tu hành đắc đạo. Có lúc sư ngồi thiền cả tháng, không ăn không uống, không lay động để thể hiện trí tuệ dũng mãnh của của Phật. Có lúc ngài tụng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Viên Giác…tiếng như sư tử hống, vang vọng cả sơn lâm để thể thế gian có thể nghe rõ lời kinh, để thể hiện lòng từ bi của Phật. Có lúc đi đứng, nằm ngồi giữ nghiêm giới luật, từng động tác, từng cử chỉ đều giữ gìn chánh niệm để thể hiện tính trang nghiêm của chư Phật. Có lúc ngài thị hiện thành người chèo đò đưa khách thập phương hành hương, thỉnh thoảng nói vui một vài câu Phật pháp làm tỉnh ngộ lòng người. Có lúc ngài biến hóa thành một cậu bé luẩn quẩn ở bến đò, nhưng nói ra câu nào cũng khiến các cụ tấm tắc khen thầm tại sao có người uyên thâm Phật pháp đến như vậy. Phải chăng đây là Thiện Tài Đồng Tử tái sinh? Có lúc ngài thị hiện thành một cô gái xinh đẹp bán đồ kỷ niệm ở Bến Đục. Người vừa đẹp vừa trang nghiêm, tính tình lại lễ độ, hòa nhã, vui vẻ. Khách hàng nào có trả giá cô cũng chẳng kèo nài. Thảng hoặc nếu có ai không đủ tiền cô cũng vui vẻ bán để “ tạo phúc duyên”. Những ai không có tiền mà ham thích đồ kỷ niệm như tượng Phật, chuỗi Bồ Đề cô cũng biếu không và mỉm cười nói “Khi nào có tiền ông/bà trả tôi cũng được” khiến các cụ cứ tấm tắc khen thầm phải chăng đây là Tiểu Long Nữ hóa hiện? Có lúc ngài thị hiện thành một gã chuyên giết thú rừng để làm đồ nhậu, món ăn chơi khóai khẩu, bày bán ngay trước bến đò để giáo hóa những kẻ đang hành nghề sát sinh, tàn phá núi rừng cây cỏ và làm ô uế cửa Thiền.

Một ngày kia khi sư đang tọa thiền thì một người nhảy vào, túm lấy vai sư nói:

-Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu!

Đây là một ông chân tay vặn vọ, khẳng khiu, da nhăn nheo, tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khấp khểnh chìa ra ngòai, môi thâm và trề ra như cái lưỡi thứ hai trông giống như Quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy sư hiền từ đáp:

-Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.

Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:

-Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?


Sư chậm rãi đáp:


-Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ ngãi. Những kẻ giàu nứt đố đổ vách nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ với người xả thân cứu đời, vô tài nhưng lại có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu, chê bai dè bỉu thành qủa của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng họai xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng ăn bám xã hội, sống trên mồ hôi nuớc mắt của kẻ khác…tất cả những người này mới xấu…chứ ông có gì gọi là xấu đâu?


Nghe nói vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người khác hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn thấy đều khiếp vía. Ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đấu vật ở Hoa Kỳ. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm trổ thành hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tay cướp hung bạo ở vùng biên giới Hoa Kỳ- Mễ Tây Cơ trong những phim Cao Bồi. Ông ta cửi trần, ngực xâm trổ thành những con thủy quái gớm ghiếc. Hai cánh tay ông ta xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn, cho nên khi ông ta đưa tay ra, giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông ta cầm một chiếc móc sắt, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẵn. Ông ta đi giày bốt cao cổ của Mễ Tây Cơ với hai mũi giày có gắn hai chiếc đinh ba, đá ai một cái là lòi ruột. Giọng ông ta khàn khàn giống như giọng của Ngưu Ma Vương khiến đàn bà có thai gặp ông sẩy thai, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông ta bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra, hỏi:

-Thầy có thấy tôi đáng sợ không?

Nghe ông hỏi vậy, sư điềm nhiên đáp:

-Ổng chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.

Ông ta ngạc nhiên, vặn hỏi:

-Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy nói thử xem.


Sư đáp:


-Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đọan luờng gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, những âm binh để sai khiến kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân lọai nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức, nhân nghĩa để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy, kết thành bè đảng Mafia, không chuyện hung ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.


Nghe nói thế ông đáng sợ nọ chán nản lui ra. Khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái bước vào, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:


-Tôi là Hoa Hậu Hòan Vũ. Thầy có thấy tôi đẹp không?

Sư nhẹ nhàng đáp:

-Cô chẳng có chi đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.

Nghe nói thế cô gái mở tròn đôi mắt, bực bội nói:

-Hoa hậu hòan vũ là người đẹp nhất trong những người đẹp của thế giới. Thầy nói thử xem những người đẹp hơn tôi như thế nào?


Sư đáp:


-Giữ gìn trang nghiêm giới hạnh là thân đẹp. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là nết đẹp. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là cử chỉ đẹp. Thấy người ta đói cho ăn, rách cho mặc, nghèo túng mà giúp đỡ, đó là tấm lòng đẹp. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là tâm hồn đẹp. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đỡ, đó là ngôn ngữ đẹp. Không một tà niệm nảy sinh, đó là ý đẹp. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là trí tuệ đẹp. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui, giải thóat, đó là cái đẹp tối thắng mà Trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Tất cả những cái đẹp này cần phải được phát bằng tuyên dương, ghi vào sử sách, lập bia ghi công, dựng tượng để chiêm ngưỡng. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đọat, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.


Khi sư nói hết lời, cô Hoa Hậu Hòan Vũ rầu rĩ lui ra. Nghe nói sau cuộc gặp gỡ này, sư chống gậy trúc, cứ theo đường lên trời ở trong Động Hương Tích mà đi rồi biến mất, người đời mong muốn gặp lại sư cũng chẳng được.






Người kể lại: Đào Văn Bình




Năm 2554 (Phật Lịch) tức năm 2010 (Tây Lịch)

(*) Mô phỏng truyện Thần Bể Với Người Đi Buôn trong Kinh Hiền Ngu. Bộ kinh này do Sa Môn Tuệ Giác dịch ra tiếng Trung Hoa, Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch ra Việt Ngữ tái bản ở Hoa Kỳ năm 2525 (Phật Lịch) tức năm 2001 (Tây Lịch)


----
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Chân Lý Cuộc Đời


Ta thường ngưỡng mộ sự tươi đẹp hoa lệ của người, và khổ sở về những thứ mình không có.

Thực ra : chẳng ai có cuộc đời hoàn mỹ, không khiếm khuyết, mỗi người đều có thiếu sót.

Có những đôi vợ chồng vừa trí thức, vừa lương bổng cao, nhưng mắc bệnh nan y.

Có người tài sắc vẹn toàn, giỏi giang, nhưng đường tình duyên lại đầy trắc trở.

Có người thừa kế gia tài kếch sù, nhưng tiếc thay, lại keo kiệt ích kỷ, đầu óc thì rỗng tuếch.

Có gia đình thế lực, giàu sang, nhưng con cái bất hiếu, làm tán gia bại sản và làm nhiều đìều phi pháp.

Sống trên cõi trần ai cũng cần có khiếm khuyết để bớt đi phần kiêu ngạo.

Dù bạn muốn hay không, nó bám lấy bạn như một định mệnh.

Người khôn sẽ chẳng bực bội về những khuyết điểm trong cuộc đời.

Họ mở rộng lòng mình để đón nhận nó. Vì họ hiểu rằng, khuyết điểm như cái gai trên lưng, để giúp họ khiêm tốn và biết hợp tác với người

Đời thiếu thăng trầm, ta dễ dàng an thân,

Đời vắng khổ sầu, khó mà biết cảm thông,

Đời không trải nghiệm sao có thể trưởng thành ?

Kẻ thứ gì cũng có ... không biết đến niềm vui chờ đợi và hy vọng.

Đừng quá khổ tâm, bất mãn với những gì mình chưa có hay không thể có.

Và nên lấy làm vui vì có những thiếu thốn để khát vọng, nỗ lực mà vươn lên

Ý thức ai cũng có khuyết điểm, ta không phải bận tâm so đo với người.

Hãy biết quý trọng hơn nữa những gì mình đã có và đang có.

Thay vì đứng núi nọ trông núi kia cao, hãy kiểm lại những gì Thượng Đế đã ban tặng cho bạn ...

Bạn sẽ nhận ra rằng : những cái bạn có vẫn nhiều hơn những gì bạn không có.

Nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống có bao người mong được như bạn.

Trời cho ta khiếm khuyết để ta biết nhờ vả và giúp đỡ lẫn nhau

Niềm vui của cuộc đời con người không chỉ là biết cho đi mà còn là ... biết đón nhận nữa

Hãy coi khuyết điểm như một phần của cuộc đời, bạn sẽ thấy lạc quan và yêu đời hơn

Đừng để niềm vui tuột khỏi tay, đừng ngồi đó ủ rũ đêm ngày hoặc giải sầu bằng chén rượu say


Chúc bạn luôn tìm thấy niềm vui hạnh phúc mỗi ngày




-------------------------------------------------------------------------------------


MỌI VẬT ĐỀU CÓ MỤC ĐÍCH

Có một bà lão gánh hai thùng nước bằng hai vai, một thùng nguyên vẹn còn thùng kia có vết nức dài. Vềt nức làm nước từ trong thùng chảy ra ngoài và khi tới nhà chỉ còn lại một nữa trong khi thùng kia nước vẫn còn nguyên vẹn.Hai năm trôi qua ngày nào bà lão cũng gánh một thùng rưỡi nước khi tới nhà. Thùng nguyên vẹn luôn tự hào , trong khi thùng kia thì tủi thân vì sự khiếm khuyết của mình.


Cuối cùng nó lấy hết can đảm để nói với bà lão rằng bởi vì vết nức này mà nước chảy ra ngoài và nó cảm thấy hổ thẹn. Bà lão cười và chỉ nó thấy những cánh hoa mọc bên lề đường nơi bên dưới của nó , điều này không có ở thùng bên kia. Sau đo’ bà nói : bởi vì thấy được sự khiếm khuyết này , nên bà đã gieo hạt giống hoa bên này mà không gieo bên kia và hàng ngày nó đã tưới làm xanh tốt những đóa hoa đó.

Hai năm nay , nhờ sự rò rỉ này mà bà có những đóa hoa trên bàn ăn lúc nào cũng xinh đẹp và ngôi nhà lúc nào cũng đượm mùi hương.Khuyết điểm có trong chúng ta, nhưng những cái ấy làm cuộc sống chúng ta đẹp đẻ và cao thượng hơn và hãy nhìn thấy sự tốt đẹp từ những khiếm khuyết đó, cũng như bài học của cái thùng này.



Sưu tầm
band4 3G McKeno

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Image

Viagra là xưa rồi Tám ơi!!! Loại mới đây: Vasomax

"... Vasomax, những viên thuốc mầu trắng hình tam giác sắp được bán ở Hoa Kỳ sẽ giúp những thời gian chờ đợi được cắt ngắn đi đáng kể. Trong khi Viagra phải mất một tiếng đồng hồ mới có công hiệu thì nay, thời gian chờ cho Vasomax có hiệu quả sẽ chỉ còn từ 15 đến 30 phút. Vasomax nhanh hơn Viagra từ hai đến bốn lần. Mà trong những hoàn cảnh cần dùng tới Viagra, cắt ngắn được thời gian chờ đợi là điều hết sức cần thiết....

...Vậy nên Vasomax ra đời rất đúng lúc để cứu nền kinh tế Hoa Kỳ khỏi bị đồng Euro đe dọa..."

ImageImageImageImage

--------------------------------------
Thư gửi bạn ta.
Bùi Bảo Trúc



Ngày 15 tháng 7 năm 2010



Bạn ta,

Sản phẩm bạn tiên đoán nhất định sẽ phải có thì nay đã có rồi. Bản tin AP cho biết có thể vào mùa hè năm nay, Vasomax sẽ được cơ quan quản trị thực phẩm và dược phẩm của chính phủ liên bang cho phép bán ở Hoa Kỳ.

Người Mỹ, dân tộc khi uống thì uống instant coffee, khi ăn thì ăn fast food, khi chụp ảnh thì muốn có ảnh liền nên họ không muốn phải chờ đợi bao giờ. Cái gì cũng phải ngay lập tức, liền tức thì. Ðợi khổ lám. Ðợi gì cũng khổ. Cả những chuyện trước đây không ai khó chịu khi phải chờ, phải đợi thì nay cũng không ai muốn phải chờ đợi cả. Vasomax, những viên thuốc mầu trắng hình tam giác sắp được bán ở Hoa Kỳ sẽ giúp những thời gian chờ đợi được cắt ngắn đi đáng kể. Trong khi Viagra phải mất một tiếng đồng hồ mới có công hiệu thì nay, thời gian chờ cho Vasomax có hiệu quả sẽ chỉ còn từ 15 đến 30 phút. Vasomax nhanh hơn Viagra từ hai đến bốn lần. Mà trong những hoàn cảnh cần dùng tới Viagra, cắt ngắn được thời gian chờ đợi là điều hết sức cần thiết.

Bạn tưởng tượng coi, viên thuốc xanh, hình quả trám do Pfizer bào chế được chiêu với một ly nước lạnh, xong rồi còn phải ngồi chờ 60 phút sau mới thấy động tĩnh thì phiền lắm. Trong 60 phút ấy có biết bao nhiêu chuyện có thể xẩy ra để làm cho việc uống viên thuốc đó trở thành vô ích, không cần thiết nữa.

Thí dụ một cú điện thoại rủ phía bên kia đi shopping chẳng hạn. Hay một câu nói xóc hông, chọc ruột khiến viên Viagra đã tan vào trong ruột cũng không thể nào dẫn máu đi tới khu vực chỉ định, mà chạy ngược lên phía trên đầu, trên cổ để người nghe trào máu họng ra thì làm sao còn hiệu quả nữa. Biết bao nhiêu viên Viagra đã không hoàn tất chức năng trao phó chỉ vì thời gian chờ đợi quá lâu mà ra cả.

Cái "mood" quan trọng lắm. ...I am in the mood for love... như lời bài hát của Doris Day mà thuốc chưa chịu ngấm thì thua. Cảnh bắt nó nuốt viên thuốc, rồi ngồi xuống bên cạnh nó với cái đồng hồ, dẫu cho có là cái đồng hồ Rolex, thì cũng còn đâu là romantica nữa. A watched kettle never boils, đặt cái ấm nước lên lò bếp rồi ngồi canh chừng bên cạnh, chờ cho nó sôi thì còn lâu nó mới chịu sôi. Cũng như bụng đói mà cơm không chịu chín cho thì chán không thể tả được. Thỉnh thoảng Trạng Quỳnh nấu món mầm đá cho Chúa Trịnh ăn thì Chúa khen ngon, chứ hôm nào cũng nấu mầm đá, Chúa không được... "đá bèo", quay ra đá Trạng thì Trạng chỉ có chết.

Mà khi cái "mood" đi qua thì bao nhiêu toan tính của cả hai phía, phía bên dùng thuốc cũng như bên bắt phía bên dùng thuốc đều hỏng hết. Mười Mỹ kim. tiền mua viên Viagra bị tiêu phí, không làm được bất cứ một việc gì để giúp cho tình trạng sống chung hòa bình được cải thiện là như thế.

Viagra bắt chờ lâu quá. Và khi mức độ bất tiện do sự chờ đợi tạo ra lên đến mức không thể chịu được nữa, thì Vasomax xuất hiện. Nhu cầu đẻ ra Vasomax. Do công ty Zonagen ở Texas chế tạo, Vasomax đã được đem thí nghiệm tại Anh quốc và kết quả, theo tin của AP, rất đáng khích lệ trong việc giúp làm sống lại một bộ phận trên cơ thể người đàn ông hệt như thuốc Viagra, nhưng thời gian chờ đợi cho nó sống lại thì được cắt giảm đi đáng kể.

Như vậy, tuy chưa đánh bại được mì ăn liền, chưa được như instant coffee, chưa qua mặt được phim Polaroid, nhưng Vasomax cũng sẽ thay đổi được rất nhiều đời sống của nước Mỹ. Thời giờ phí phạm cho những sự chờ đợi được cắt giảm đi đáng kể. Người Mỹ sẽ có được thêm nhiều thì giờ để làm những việc khác có lý hơn, gia tăng được khả năng sản xuất, làm cho nền kinh tế phát triển thêm nữa.

Trung bình so với Viagra, loại thuốc mới tiết kiệm được từ nửa tiếng đến 45 phút. Có người tiết kiệm được mỗi tháng... nửa tiếng. Nhưng cũng có người mỗi ngày tiết kiệm được một tiếng rưỡi. Những người này có thể ra tiệm sách, kiếm quyển sách trong tủ sách Học Làm Người có nhan đề Sống Mỗi Ngày Lợi Ðược Một Giờ của Nguyễn Hiến Lê về để nghiên cứu cách làm giầu. Chẳng mấy chốc, nền kinh tế Mỹ sẽ lại thừa sức đánh bại các nước trong Liên Hiệp Âu Châu vừa hăm là với đồng Euro, các nước này sẽ đè bẹp nền kinh tế Mỹ.

Vậy nên Vasomax ra đời rất đúng lúc để cứu nền kinh tế Hoa Kỳ khỏi bị đồng Euro đe dọa.

Ai ngờ được những viên thuốc ấy lại làm được chuyện lớn như vậy. Người Mỹ sẽ rất siêng năng dùng loại dược phẩm mới này. Bởi lẽ làm sao mà cưỡng lại được, khi ly nước được đặt lên mặt bàn ngủ, viên thuốc được nhét vào tay, với cái lệnh ra bằng một giọng lạnh lùng: "Uống đi, để mà còn tiết kiệm thì giờ cho nước Mỹ. Hoa Kỳ có phát triển, có lớn mạnh được hay không là nhờ viên thuốc này đấy... Biết không hở? Hở? Hở? Uống nhanh lên còn giúp phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nước Mỹ!"



Happy Vasomaxing. hehehe

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Truyện của một người lính Việt Nam gia nhập quân đội Mỹ với hy vọng nhập quốc tịch và đem gia đình còn lại tới đất Mỹ.

Chuyện có thật. Người viết là một female writer.

Đăng trên website http://damau.org/archives/9298

"Tôi đã cười khi chàng quân nhân trẻ tuổi, với giày saut tay súng bước vào Basra. Tôi cũng đã khóc khi chàng rời khỏi Basra với tiếng hát cao vút của Thái Thanh: Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi. Tôi chưa bao giờ rơi nước mắt khi đọc một truyên ngắn, nhưng tôi đã thổn thức vì đọc Đường Ra Khỏi Basra. Xin cảm ơn nhà văn Nguyễn thị Thảo An."

Lê Minh viết.

Nếu có ai dịch bài viết này là rất có công với người đã khuất lắm đó.

Mong chờ bản dịch để chuyển tới các người bạn Mỹ của dân Việt.


Đường ra khỏi Basra
Nguyễn Thị Thảo An

Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình


Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam . Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.
Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du học.

“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây. Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú.

Nhưng mà thực tế, chưa có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.

Quyết định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc. Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng. Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.

Tôi không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế, kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.

Tôi gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm.

Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi, ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.

Ra trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq . Trước đó, chúng tôi đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa hình sa mạc Black Rock ( Nevada ), leo lên những mỏm núi chót vót ở những vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona . Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân trên những rặng núi trắng xóa trên Canada . Hè, chúng tôi xuống Texas , lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al- Qaeda “lé” mắt.

Chiến tranh Iraq bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành, mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12 cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.

Nhưng mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự. Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.
Khi tôi đặt chân đến Mosul , pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.

“Sức mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”

“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.

“Mày tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập, cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống hết tất cả các phe khác họ.”

“Trời ơi, nhức đầu quá.”

“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.

Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”

“Giáo phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì. Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng 3%.”

“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”

Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”
“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.

“Nguyên nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm 610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi. Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc, điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”

“Hơn cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.

“Đạo Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp, dễ thua thiệt lắm.”

Tôi vào quân đội, rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.

“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”

“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”
“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số ?”

“Lấy bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn người.”

“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.

Đêm đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc như thành Babylon , vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq . Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười lớn.

“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”

Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait , không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.

Mới mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao nhất Iraq , trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran . Bộ chỉ huy đơn vị nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran .

Mặt trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy. Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.

Tiểu đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone. Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9 lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến trường Việt Nam . Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn, nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.

Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.

“Ê, mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của tôi.

“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”

Tôi nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.

“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”

“Câm miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất tôi sẽ đá cho nó một cái để đời. Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay của nó to gấp ba lần tay tôi.

Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.

Có tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249 đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên, tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.

“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.

Qua kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.

“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.
Cửa hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng tiếng Ả Rập.

Họ bắt đầu đi ra, dè dặt từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác người Iraq , đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là lính, bất kể nam phụ lão ấu.

May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.
Chỉ suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải. Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.

Người Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng chân.

Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I, người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ là Mosul . Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai. Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq . Do trốn chạy khắp nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ, người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran , người Kurd ở Syria thích theo chế độ như Syria , người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.

Nghe tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.

Tiểu đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới. Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay , ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.
Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.
“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.

“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.

Chúng tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím, phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai. Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc. Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.

“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”
Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.

Chúng tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện đánh đấm tính sau.

May quá, cái hang cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”

“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.

“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.

“Clear, clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một, hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước nó quay lại, chỉ xuống chân núi.

“Đêm nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay, không được làm thơ, không được ngủ.”

Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”

“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.

Ted và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn lần.

Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed, thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng, hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm năm.

Tiếng Michael léo nhéo trong máy. Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert. Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương xuống lạnh lắm.

Tôi ngồi thu lu trong bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo. Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.

Ba tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động. Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn vào một khoảng không vô định.

Hai giờ sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.

“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”

Có phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng?

Còn sao nữa? Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi. Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý. Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm cỏ. Cái gì đó hả?

Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn. Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại.

Tôi lấy googles*2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.
“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”

Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”

Tôi gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ, theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố. Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này. Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự đường dây này? Của tổ chức nào?

Mười phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker*3 yểm trợ sau.

Trong khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng súng chĩa ngay về phía họ.

Trong phút chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114 Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường, nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad . Xem chán, tôi vào hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.

Đơn vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau quân đội phải khóa kín biên giới Iran , Syria ngăn chận vũ khí đổ vào Iraq .

Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a, phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ. Thế giới Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004, giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater. Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq . Chủ ý răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm 1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi, tình hình có vẻ lắng xuống.

Người Iraq xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam .

Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến, những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib. Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.

Cuối năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam . Mười lăm ngàn quân nhân canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái, phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam.

Họ chống Mỹ vì Mỹ không để điều đó xảy ra.

Sau bầu cử, người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở Samarra , 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc nội chiến tương lai.

Đầu năm 2007, ông Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq . Mặc, trong khi người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh hiện tại. Người Iraq giết người Iraq . Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người Mỹ.

Giấc mơ ổn định Iraq giống như chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ Basra .
Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển từ Samarra tới Basra . Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố, phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở, tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều tối ư cần thiết.

Chúng tôi mặc thường phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục, đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs (áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân người), đầu quấn khăn choàng lớn.
Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”

Cả bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả. Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu, mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc, nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.

Chúng tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói, Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.

“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”

Cả bọn cười sằng sặc.

Chúng tôi quay lại con sông Tigris , băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó, khi tiến vào Baghdad , sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như thế.

Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau, đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra . Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad là thành Babylon . Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua Iraq . Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng tôi không khỏi ngậm ngùi.

“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)

Nhưng mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk , lần đầu tiên khoan giếng, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày, người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc phòng.

Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy thẳng xuống Basra . Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy. Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq , nhưng đất đai không màu mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.
Bây giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa. Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào. Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.

Cách Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva, thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa Đàng…

Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm hóc nổi bật dưới trời xanh.

Tháng 7 năm 2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra . Đây có lẽ là nhóm thứ chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra .

Chúng tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra , bảo vệ các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của Iraq . Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq , dân số một triệu rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu, Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều làng mạc Iran , tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá cho những sai lầm của Iraq . Nhưng Kuwait , một quốc gia kề cận Basra vẫn bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq . Năm 1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait . Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq . Trước khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian và đốt 700 giếng dầu của Kuwait . Đầu năm 2003, để tử thủ Basra , Saddam cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra . Nhưng người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.

Chiến tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.

Ước mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui hơn niềm vui chiến thắng.

Ngày 10 tháng 9 Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin bay lượn ra khỏi nơi đây.

“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.

“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.

“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.
Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.

“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.

“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.

Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”

Hôm sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.

Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi. Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi đây, bằng cách này hay cách khác.

Chúng tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.

Hai tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc, đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc cháy như cây đuốc sống.

Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam . Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq ? Vì Saddam độc tài, sở hữu vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu, hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến. Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars, buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5 năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam , Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.

Trưa đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm.


Còn cha tôi, và những người lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa M.48. Nhưng, đã quá muộn.

Người ta ví, chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II, cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng minh nhiều hơn trong tay địch.

Ôi! Việt Nam . Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.



“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”

Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.

Không. Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.

Từ xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát. Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm. Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ, không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!” Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.

“Xe bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước, đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định trong nháy mắt.
Tôi bóp cò phóng lựu bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá, bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống. Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.

Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.

“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.

“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.

“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”

Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.

“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi

Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ”


Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.





Nguyễn Thị Thảo An
source: email from a reader.
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Mười thương thời nay.



Một thương đôi má của nàng
Xoa toàn mỹ phẩm anh tàn tháng lương
Hai thương giọng ngọt như đường
Nàng xin một tiếng, vua nhường mất ngôi
Ba thương ... thì đỏ ... cái môi
Anh không chạm được sợ trôi son nàng
Bốn thương mười ngón thiên đàng
Móng nàng lạ lắm, lúc vàng lúc xanh
Năm thương đôi mắt long lanh
Liếc tình, cọp cũng biến thành nai tơ
Sáu thương cái nết ngây thơ
Quen nàng một tháng anh khờ mười năm
Bảy thương cái mặt trăng rằm
Đòi mua chục cái áo đầm mới vui
Tám thương mái tóc buông xuôi
Làm anh điêu đứng bởi mùi dầu thơm
Chín thương nàng biết nấu ăn
Ba năm một món, anh ròm như ma
Mười thương tính chẳng xa hoa !!!
Vòng vàng hổng thích, hột xoàn thì mê !!!
Đời tôi sao quá ê chề ...
Thương xong mười cái, chắc dzià chết luôn



(Lụm được trên Net, không rõ xuất xứ)
band4 3G McKeno

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Yamaha


[flash width=480 height=385][/flash]

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

VỢ, NGƯỜI TÌNH, HỒNG NHAN TRI KỶ


Thế nào là vợ? Vợ là người con gái mà bạn tình nguyện giao cả gia tài cho cô ấy cất giữ.

Thế nào là người tình? Người tình là người con gái mà bạn hẹn hò vụng trộm với cô ấy và sợ vợ phát hiện.

Thế nào là hồng nhan tri kỷ? Hồng nhan tri kỷ là người con gái mà bạn có thể nói với cô ấy tất cả mọi bí mật kể cả điều mà bạn không thể nói được với vợ hay người tình.

Vợ là một sự ràng buộc, ràng buộc bạn không thể tùy tiện cặp bồ với một người con gái khác; người tình là một sự bù đắp, bù đắp cho bạn những tình cảm mãnh liệt mà ở người vợ còn thiếu hoặc bạn không tìm được ở người vợ ;hồng nhan tri kỷ là sự chỉ rõ, chỉ rõ sự mê say trong trái tim bạn.

Vợ sống cùng bạn từng ngày,người tình tiêu tiền cùng bạn, hồng nhan tri kỷ nói chuyện cùng bạn. Vợ không thể thay thế người tình, vì vợ không điều khiển được tình cảm như người tình; người tình không thể thay thế vợ, vì người tình không có được tình thân như vợ; vợ và người tình đều không thay thế được hồng nhan tri kỷ, vì đó nhu cầu của tâm linh.

Vợ là người con gái không hề có chút quan hệ máu mủ nào với bạn nhưng lại bồn chồn mong nhớ mỗi khi màn đêm đã xuống mà bạn chưa về nhà; người tình là người con gái không hề có chút quan hệ gia đình với bạn nhưng lại làm cho bạn thỏa mãn mùi vị ái tình của đấng nam giới; hồng nhan tri kỷ là người con gái chẳng có quan hệ gì với bạn cả nhưng lại có thể chia sẻ với bạn những vui buồn phiền muộn,

Vợ là một ngôi nhà, là một bến cảng mang cho trái tim nông nổi của bạn sự vỗ về an ủi; người tình là gánh nặng của ngôi nhà, chẳng qua chưa đến nỗi vạn bất đắc kỷ, bạn không muốn vứt bỏ;hồng nhan tri kỷ là vật tô điểm cho ngôi nhà,không có cô ấy bạn không thấy cô đơn, nhưng bạn sẽ cảm thấy cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì.

Sự quan tâm của người vợ như một ly nước lọc, có lúc trở thành sự lảm nhảm,chỉ khi bị ốm mới trở thành sự ôn hòa;sự quan tâm của người tình như cốc nước lọc đó bỏ thêm chút đường,dần dần qua một đêm rồi mà vẫn chưa thỏa mãn;sự quan tâm của hồng nhan tri kỷ giống như cốc cafe khi bạn đang làm viêc lúc nửa đêm, càng uống càng tỉnh.

Khi vợ có bầu thì sẽ hỏi bạn muốn có con gái hay con trai một cách rất tình cảm; khi người tình có bầu với bạn thì sẽ khóc và hỏi bạn phải làm sao bây giờ? đối với hồng nhan tri kỷ, bạn sẽ kể cho cô ấy nghe chuyên người tình của bạn có bầu và sẽ hỏi cô ấy bạn nên làm thế nào. Ngay đối với người vợ, chỉ sau khi bị cô ấy phát hiện bạn mới nói rằng "Thật ra, anh đã muốn nói với em sớm hơn" sau đó cố gắng hết sức để giải thích, và giả bộ rất đáng thương.

Khi vợ về nhà mẹ đẻ một tuần không quay lại bạn cũng không thấy nhớ; khi người tình mới 3 ngày không gặp bạn liền gọi điện cho cô ấy: Em đi đâu đó? Tối nay chúng mình đến nơi cũ uống cafe được không? Khi trong lòng cảm thấy buồn khổ, bạn chỉ muốn tìm hồng nhan tri kỷ để trò chuyện, nói với cô ấy chuyện vận mệnh của bạn giữa vợ và người tình, thực tế không thể chịu đựng được nữa.

Cái mà làm đàn ông không chịu nổi đó là sự lảm nhảm của người vợ, nước mắt của người tình và sự hiểu lầm của hồng nhan tri kỷ. Sự lảm nhảm của người vợ làm đàn ông thấy đã rối cả lòng lại càng thêm rối hơn, nước mắt của người tình làm cho trái tim của đàn ông mềm yếu hơn, sự hiểu lầm của hồng nhan tri kỷ làm cho đàn ông thấy bị tổn thương, hụt hẫng.

Người vợ tốt nhất là người mà đàn ông có thể tìm thấy ở cô ấy người tình và hồng nhan tri kỷ, chỉ là cảm giác thôi mà đàn ông khó có thể tìm thấy. Người tình tốt nhất là người mà khi mối quan hệ của bạn và cô ấy bị vợ bạn phát hiện, cô ấy sẽ chủ động rút lui mà không có một yêu cầu gì hết, nhưng khó mà tìm được điểm này của người tình. Hồng nhan tri kỷ tốt nhất là người đến một ngày nào đó sẽ trở thành người tình, thậm chí thành vợ của bạn, chỉ là cái suy nghĩ này chẳng có chút hiện thực gì cả.
Nếu như có thể, đàn ông rất muốn biến hồng nhan tri kỷ thành người tình, nếu có thể nữa thì sẽ muốn cô ấy thành người vợ. Nhưng nếu hồng nhan tri kỷ trở thành vợ rồi thì sẽ không còn là tri kỷ nữa, bởi vì rất ít đàn ông muốn biến vợ thành tri kỷ. Trái tim đàn ông có rất nhiều bí mật không thể tuỳ tiện nói cho vợ nghe, không thế thì làm sao gọi là đàn ông nữa.

Lấy vợ là vì sợ người khác nói ra nói vào, tìm một người tình là vì muốn thêm chút gia vị vào để điều chỉnh cái cuộc sống tẻ nhạt, muốn có hồng nhan tri kỷ vì muốn tưới cho tâm hồn trống rỗng của họ một chút canh ngon



Đàn ông cả đời đi tìm không phải là vợ, cũng không phải là người tình mà là hồng nhan tri kỷ.

---
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

“XÓA BỎ HẬN THÙ VỚI CỘNG SẢN”



Long Quân









Nhờ lừa bịp, nhờ gian xảo, nhờ tận dụng tất cả các thủ đoạn MácXít lưu manh đê tiện nhất thế gian để cướp đoạt chính quyền, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản Việt Nam đã thao túng nước nhà hõn 50 nãm qua. Dưới bàn tay chúng, quê hưõng cẩm tú ngàn xưa của người Việt Nam đang bước vào thế kỷ 21 với các “thành tích Xả Hội Chủ Nghĩa” đáng kể như sau:



- Dã man mọi rợ nhất thế giới !

- Lạc hậu ngu si nhất thế giới !

- Nghèo nàn khốn khổ nhất thế giới !



Và, đáng nguyền rủa hõn hết là cái dã tâm của tập đòan thổ phỉ kia khi chúng cố tình “xâydựng” Việt Nam thành một nhà tù vĩ đại nhất thế giới !



Nay chúng ta thử bình tâm kiểm điểm lại xem. Từ Bắc chí Nam, từ dãy Trường Sõn tới bờ biển Nam Hải, có nõi nào, có làng nào, có gia đình nào, không một lần vang vọng tiếng khóc đau thưõng nức nở giữa đêm đen khuya vắng vì chồng, vì cha, vì con, vì cháu, bị lũ đầu trâu mặt ngựa tới bắt đem ra giữa đồng hạ thủ, rồi ghim lên ngực “cái án phản động, chống cách mạng vô sản”?



Đặc biệt từ ngày lũ đầu trâu mặt ngựa đó tràn vào Miền Nam như một bầy chó điên hổ đói dưới danh nghĩa “giải phóng”, hỏi có mái tranh nào tận nõi đồng quê hẻo lánh không thiệt mất đi ít nhất một thân nhân bị chúng bắt đi giam giữ vô hạn định trong các trại tập trung mệnh danh “Cải Tạo”để, hoặc bỏ mình trong chốn tù ngục tối tãm, hoặc trở thành phế nhân sau khi được phóng thích ? Có nhà nào hoàn toàn thiếu vắng một chiếc khãn tang vì đã không che dấu nổi mối cãm thù chế độ độc tài tàn bạo và sự quyết tâm diệt trừ đại họa Việt gian bán nước ? Có xó xỉnh nào không dậy lên tiếng nguyền rủa nhiếc móc những thằng “mã tấu rãng đen”, những tên cán bộ “Bắc kỳ nón cối” cực kỳ hung bạo, đội lốt chính quyền, công khai tràn vào nhà dân cướp đoạt tài sản ngay giữa thanh thiên bạch nhựt, trong cái chiến dịch gọi là “Đánh tư sản mại bản”?



Kinh hoàng thay cái cảnh ma vưõng quỷ sứ ồ ạt đục vách phá tường, thọc tay xuống hầm cầu, lật đổ bàn thờ ông bà tổ tiên bá tánh, kiếm tìm võ vét từ vàng bạc châu báu cho chí tấm tả lót, cái chổi cùn cũng không tha, rồi mang đi chia chác với nhau, với tất cả nỗi say sưa cuồng loạn của một lũ cướp VC vô tổ vô tông, vô thần vô thánh, vô luật vô lệ !. Rủi cho những ai không có tiền của đem nộp cho lũ cướp Việt Gian Cộng Sản thì liền bị chúng thẳng tay đánh đập khủng bố cho tới chết, hoặc đày đi “kinh tế mới”để gọi là “trả nợ máu nhân dân”!



Cổ kim, có triều đại nào, có chế độ nào, đối đãi với người dân trong nước quá ư ác độc tàn tệ như thế chãng ? Người Việt khắp nõi, dù có mắc bệnh tâm thần loạn trí đi nữa, cũng không bao giờ quên được các hành động thú vật kia. Họ âm thầm “tính sổ” từng ngày, lòng tự hẹn lòng đời này không trả được mối thù huyết lệ này, thì trối trãn dặn dò con cháu đời sau phải nhớ lấy mà trả một cách đích đáng cho cha ông, cho chú bác, cho giòng họ, được thỏa dạ mát lòng nõi chín suối !



Thế mà từ khi Đế Quốc Liên Sô sụp đổ, báo hiệu cái giờ phút cáo chung vĩnh viễn của một chủ nghĩa vô luân tàn bạo mà bầy yêu bọn quỉ Hồ Chí minh đã tải nhập vào đất nước, gieo rắc mối họa tày trời cho tới nay, thì ở một vài nõi nào đó dưới bầu trời hải ngoại, người ta chợt thấy trồi lên một lũ “Ma cô Chính trị” khua môi múa mép, thống thiết kêu gọi đồng bào Việt Nam hãy quên đi chuyện cũ, hãy rộng lượng với kẻ thù, xóa bỏ giới tuyến Quốc Cộng, đề cùng nhau xây dưng lại đất nước trong tình “huynh đệ một nhà” (sic) ! Lũ “Ma cô Chính Trị” này dám coi hải ngoại như mù lòa câm điếc, dám lên mặt đạo đức, nhịp nhàng toa rập nhau diễn trò kẻ tung người hứng, liên tiếp ném ra những luận điệu sặc mùi tay sai cho Việt Gian Cộng sản.



“Hòa hợp Hòa giải, Xóa bỏ Hận thù, Đa nguyên đa Đảng, Giao lưu Vãn Hóa ...”



Đó là những khẩu hiệu rất mới mẽ, khá lạ tai, chưa từng nghe thấy trong thời gian bọn Việt Gian Cộng Sản còn đầy đủ bà con nội ngoại trong gia đình MácXít.



Người ta chợt hiểu biết tại sao nó không mang tính hợm hĩnh đao búa như ngày nào. Và tại sao nó chỉ nêu ra những đề mục chỉ nhằm vào việc van xin sự khoan hồng tha thứ cho một “tội nhân” nào đó.



Nó là ai vậy ?



Chẳng cấn tìm hiểu sâu xa, Cộng Đồng người Việt lưu vong hải ngoại cũng thừa biết “tội nhân” còn đang ẩn núp kia chính là tâp đoàn Việt Gian Cộng Sản, chính là những tên Việt Gian MácXít cực kỳ hung bạo nay đã nhìn thấy cái họa sắp bị nhân dân trả thù, nên mới phải nhờ tới những hạng người mà Cộng Đồng hải ngọai đã đặt tên là “trí thức hàng binh”, cùng những tên “tay sai nằm vùng” có ãn có chịu với chúng xưa nay, đứng ra ướm thử một màn lừa bịp chạy tội xem sao. Bởi thế, trước sau chỉ có những tờ “báo lá cải” được Việt Gian Cộng Sản tài trợ mới có cái “liêm sỉ” đem phổ biến các luận điệu nghịch lư trõ trẽn, như mọi người đã biết.



Câu hỏi đặt ra ngay lúc này là lũ “ma cô chính trị” kia thuộc thành phần nào trong dân tộc ? Chúng từ đâu ra ? Suốt thời gian xảy ra cuộc chiến đẫm máu, chúng ẩn núp nõi nào, có công nghiệp nào chãng ?. Chúng có đóng góp giọt máu nào chãng cho cuộc đấu tranh gian khổ của toàn dân Việt ?. Bản thân chúng, gia đình chúng, họ hàng thân thuộc chúng, có bao giờ thực thụ nếm trải nổi khổ đau, niềm tủi nhục, dưới ách độc tài Mác Xít, để hôm nay dám ngông nghênh lên tiếng kêu gọi “xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải” với kẻ đắc tội ?



Hoặc giả chúng là những đứa vô tích sự đối với giống nòi, những gã hèn nhát trốn chạy ngay khi quân thù mới xuất đầu lộ diện trên quê hưõng 32 nãm trước ? Hoặc giả chúng là hạng “tầm gửi” sống nhờ xưõng máu nhân dân Miền Nam trong những nãm chinh chiến, hoàn toàn mù tịt về hiểm họa cộng sản, tự thủy chí chung chưa hề bị mất mát gì, nên chẳng biết thế nào là thù nhà nợ nước ? Hoặc cũng có thể chúng là loại dá áo túi cõm, thành phần trốn lính dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, nay có chút học thức, định tìm kiếm một chổ ngồi trong guồng máy thống trị ? Hoặc giả chúng được miền Nam khi xưa ưu đãi, cho ra nuớc ngoài học tập, rồi ãn phải bùa của Việt Gian Cộng Sản, quay lưng phản bội quê hưõng ?.



Có thế mới nảy sinh ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong cộng đồng lưu vong ngày nay. Rõ ràng là kẻ chưa một lần “đau chân” ắt chẳng bao giờ biết “há miệng”.



Kẻ trọn đời chưa hề chạm trán với quân thù, chưa nếm trải một ngày tù tội dưới bàn tay bọn chúng, thì làm sao cảm nhận được nỗi cãm hờn, niềm tủi nhục, nó sâu đậm, nó nhức nhối tới đâu, khi bị cưỡng bức thọc tay khuấy cả vào một thùng phân người hôi tanh gớm tởm, trước tiếng cười nhạo báng của lũ cai ngục cộng sản Mác Xít ?



Tất nhiên những kẻ ấy sẽ nhắm mắt nghe theo bất cứ đề nghị nào của tập đoàn Việt gian bán nước ! Kẻ không thiệt mất một mảy sợi lông nào vì Cộng Sản, không phải chứng kiến cái cảnh cha, anh trong nhà vô cớ bị lũ đầu trâu mặt ngựa lôi ra bắn gíết, rồi quãng xác xuống hố sâu như ném một con chuột chết, thì làm sao hiểu được cái nghĩa vụ phải “thanh tóan nợ nần máu xương” kia, cho linh hồn người chết được thanh thản siêu thoát ?.



Tất nhiên kẻ ấy không ngần ngại tiếp tay cho bè lũ MácXít Cộng Sản Việt Nam tồn tại mãi mãi!





Đã hiểu như thế rồi, thì khó mà tha thứ lũ “Ma cô Chính trị” hầu hết đều lộ diện. Chúng đã thất bại thê thảm. Và vì chúng thất bại nên càng hỗn xược kích bác các hội đoàn, đoàn thể cách mạng, các tổ chức đấu tranh, là “quá khích”, là “mù quáng” ! Chúng còn đe dọa rằng cuộc đấu tranh giải trừ chế độ công sản của quốc dân Việt Nam khó lòng thành tựu, vì tập đoàn Việt Gian Cộng Sản đang có quyền lực trong tay !



Quyền lực ư ? Còn quyền lực nào vững chãi ghê gớm cho bằng quyền lực Đế quốc Liên Sô. Vậy mà cái gì đã xảy ra 15 nãm trước đây tại cái tổ đình MácXít này ? Tất nhiên CViệt Gian Cộng Sản đã nhìn thấy. Tình hình Liên Sô, tự nó đã là một bài học cho tập đoàn tiếm ngụy Việt Gian Cộng Sản, ta khỏi cần tranh luận. Quá khích, mù quáng ư ? Hài hước thay, chính vì quá khích thi hành chủ nghĩa xả hội, vì mù quáng làm đầy tớ Nga, Tàu, tập đoàn Việt Gian Cộng Sản mới lôi kéo nước nhà xuống vực thảm ngay nay, lôi kéo luôn bọn chúng vào cái nghiệp phải van lạy Hoa Kỳ, van lạy Tư Bản, ãn mày Tư Bản để sống sót một cách hèn hạ điếm nhục !



Nếu “quá khích” được quan niệm theo cái nghĩa “Đấu tranh triệt để, kiên trì” và “mù quáng” được hiểu theo cái nghĩa “Dứt khóat đi thẳng một đường cứu dân cứu nước”, thì Cộng đồng Người Việt hải ngoại sẳn sàng “quá khích và mù quáng” cho tới khi quét sạch dấu vết bọn Việt Gian Cộng Sản trên quê hưõng !



Mấy tên “chính khách” hoạt đầu, mấy gã “trí thức hàng binh” bắng nhắng bên trời hải ngoại kia hãy biết rằng: Người Việt chống bọn Việt Gian Cộng Sản đang tiến bước trên đường hành quân khử bạo, mà bị lũ ma manh cản trở, thì cũng chả khác nào sơ ý dẫm phải một đống phân gớm tởm bên đường đó vậy ! Làm cho người chiến sỉ mất công đi rửa giày dép là một cái tội. Huống chi là còn đi nối giáo cho giặc, thì càng khó tha ! Việt Gian Cộng Sản với bọn tay sai cho chúng đều là ... Bọn Việt Gian !





Long Quân
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

ĐÀN ÔNG VIỆT THƯỜNG QUÊN NỊNH VỢ

Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”



Đàn ông Việt thường "quên" nịnh vợ. Có nhiều anh biết phụ nữ thích khen, cho nên, đến cơ quan hay gặp chị em ở đâu anh ta cũng khen lấy khen để. Nhưng về đến nhà, anh ta lại để 'bảo bối' ấy ngoài cửa. Có anh lại sợ khen lắm, vợ phổng mũi, đâm ra tinh tướng.

Có một bà vợ thường làm các món ăn rất công phu, cầu kỳ, nhưng chồng lại tỏ ra không biết thưởng thức. Một hôm bà tức mình, luộc một mớ cỏ cho chồng ăn. Chồng ngạc nhiên: "Cái gì thế này? Không thể nào nhai được!". Bà vợ vui vẻ hẳn lên: "Thế ra ông cũng biết là không ăn được à? Vì mọi khi tôi thấy ông ăn cái gì cũng như nhau cả mà!".

Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”, nhưng hình như với các ông chồng đã kết hôn vài năm, câu nói đó bị họ quên mất. Có chị may được bộ váy mới, mặc thử vào cứ đứng ngắm mãi trước gương, hết quay đằng trước lại quay đằng sau, mà chồng ngồi đọc báo ngay cạnh chẳng nói câu nào. Cực chẳng đã chị phải cất lời hỏi: “Anh thấy em mặc bộ này có được không?”. Anh ta vẫn không rời mắt khỏi tờ báo: “Cũng được”.

Đó là chưa kể còn có những anh , vợ mặc kiểu gì cũng chê không thương tiếc: “Bộ này không được, trông buồn cười lắm!”, khiến vợ ỉu xìu như bánh đa gặp nước. Có chị cảm thấy bất lực, dường như không thể làm đẹp để chồng hài lòng được. Và những ông chồng như thế, dẫu có tận tụy với vợ con đến mức nào cũng khó được vợ yêu, gia đình hạnh phúc.

Người phương Tây có một nét văn hóa truyền thống là khen phụ nữ, mà nhiều người gọi đùa là "nịnh đầm". Nó gần như một thứ "nghĩa vụ bất thành văn" của phái mạnh, không biết điều đó không phải là người lịch sự, văn minh. Chúng ta du nhập và ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa phương Tây, nhưng "văn hóa nịnh đầm" rất đẹp này lại không vào được bao nhiêu.

Ở Việt Nam, rất ít khi nghe chồng khen vợ. Ngay cả những người đàn ông có thể nói là lịch lãm hình như cũng nghĩ rằng, nói chung phái đẹp cần được đàn ông tán thưởng, trừ... vợ anh ta. Li ệu họ có biết, người vợ nào cũng sung sướng khi được chồng khen? Chắc anh nào cũng biết, bằng chứng là khi chinh phục nàng, chẳng anh nào lại không sử dụng thứ vũ khí này, nào là: Em có mái tóc rất đẹp, em có giọng nói rất hay, có anh còn "dẻo mỏ”: "Em hút hồn anh ngay từ lần đầu mới gặp. Đôi mắt em sao mà sâu thăm thẳm"...

Thế nhưng, từ khi đã thành "của nhà”, họ không làm thế nữa. Họ xếp thứ vũ khí sắc bén đó vào kho, để cho nó hoen rỉ mà không biết, người vợ vẫn cần những lời có cánh ấy. Có người còn đi tìm nó không phải từ chồng.

Có nhiều đàn ông biết phụ nữ thích khen, cho nên, đến cơ quan hay gặp phụ nữ ở đâu đó, anh ta cũng khen lấy khen để. Nhưng chỉ cần về đến nhà, anh ta lại để "bảo bối" ấy ngoài cửa. Có anh lại sợ khen lắm, vợ phổng mũi, đâm ra "tinh tướng". Cũng có thể họ nghĩ, đàn bà nào chẳng thích khen, nhưng thích lời khen "ngoại" chứ thích gì "của nội"? Nếu nghĩ thế, bạn đã lầm. Con khen cũng thích. Chồng khen lại càng thích. Lời khen chẳng bao giờ thừa cả. Bạn thử hỏi các ca sĩ xem, có ai thấy chán ngán cảnh khán giả vỗ tay nhiều quá không, có ai khó chịu khi những "fan" hâm mộ vây qu anh xin chữ ký? Những người sống gần mình, quen biết với mình mà vẫn khen mình thì càng có giá trị.

Người ta kể rằng, có một gã chiếm được hàng trăm trái tim phụ nữ và sau đó chiếm đoạt luôn cả tài sản của họ nên cuối cùng phải vào tù. Một nhà tâm lý tò mò đến tận nơi xem hắn có bí quyết gì. Ông ta bất ngờ vì đó là một gã đã luống tuổi, hình thức bình thường, duy chỉ có cái miệng rất duyên. Ông hỏi: "Làm thế nào anh chinh phục được nhiều phụ nữ như vậy?". Hắn trả lời cụt lủn: "Có gì đâu. Cứ khen nhiều vào".

Nhà tâm lý nổi tiếng người Mỹ, Dale Carnegie thường đi giảng ở các lớp học làm vợ, làm chồng. Một hôm, sau bài giảng về nghệ thuật làm chồng, ông ra bài tập cho học viên về nhà làm. Ông yêu cầu tất cả đàn ông thực hiện một “Tuần lễ khen vợ”, ngày nào cũng khen từ sáng đến tối. Ông cam đoan sẽ thấy hiệu quả ngay. Học viên chẳng mấy người tin. Có người còn nghĩ là ông nói đùa, nhưng số đông vẫn thử “làm bài tập” xem sao và kết quả thật bất ngờ.

Một anh vừa ngủ dậy, nhớ đến bài tập, nói luôn: “Nằm cạnh em sướng thật, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát”. Vợ tát yêu một cái. Vợ tập thể dục xong, chồng lại khen: “Hồi này trông thần sắc em rất tốt!”. Vợ càng ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy chồng để ý đến mình. Lúc dọn món ăn sáng ra, anh ta lại xoa hai bàn tay: “Chà, em làm món gì trông ngon thế!”. Vợ sung sướng nguýt yêu chồng một cái nữa. Ăn xong lại khen: “Anh thấy đi ăn sáng ở đâu cũng chẳng bằng em làm!”.

Trước khi đi làm, ngắm vợ một phút, anh lại thốt lên: “Em mặc bộ này trông quá được!”. Không ngờ chỉ trong vòng một tiếng, mới khen có mấy câu mà chưa bao giờ anh ta thấy trên gương mặt vợ lại có những nét hạnh phúc ngời ngời đến thế. Ra đến cửa anh còn quay lại: “Anh đi nhá. Em rất tuyệt”. Hết tuần, có học viên báo cáo với thầy là chỉ sau một “tuần lễ khen”, anh ta được hưởng hạnh phúc hơn 10 năm chung sống cộng lại.

Một khi đã kết hôn, ai chẳng muốn có hôn nhân hạnh phúc, muốn được vợ yêu. Và để đạt được mục đích ấy, nhiều người đã phải đổ biết bao công sức. Họ lao động cật lực hàng chục giờ mỗi ngày, mua tặng vợ những tặng phẩm đắt tiền, đưa cả nhà đi nghỉ cuối tuần. Nhưng có một thứ, người vợ nào cũng khao khát thì họ lại quên. Đó là lời khen.

Tuy nhiên, nếu vợ đẹp thì khen đẹp, nếu quần áo đẹp thì khen quần áo, nếu ngoại hình không đẹp thì khen công dung ngôn hạnh... miễn sao phải chân thật. Khen bừa lỡ thành mỉa mai thì sẽ tác dụng ngược đấy.

----------------------------------------------------------


Người chồng không chân dung

Là đàn ông tức là mê rửa chén
Mơ lau nhà và háo hức lau xe
Làm đàn ông là tựa cửa đợi vợ về
Nhanh nhảu chạy ra đỡ làn, đỡ nón

Dịu dàng ngồi xuống bằng cánh tay năm ngón
Hỏi nàng xem có uống nước cam không?
Rồi bưng lên trên khay nhỏ màu hồng
Nước giải khát, khăn lau tay, xí muội


Rồi trong khi nàng chân co chân duỗi
Vừa nhấp môi, vừa đọc báo thời trang
Ta tung tăng vào bếp mở làn
Lấy các thứ bày ra bàn chuẩn bị

Nước tương này xếp vào ngăn gia vị
Hành tím này xếp vào giỏ đồ khô
Đậu hủ đây thì thả vào tô
Còn rau sống bỏ vào thau rửa sạch

Cá chép tươi còn đang phành phạch
Đánh vẩy rồi ta lấy thớt ra
Tay cắt vây, mồm lại hát ca
Làm việc nhà, đó là hạnh phúc

Bắc nồi lên tiện nay ta múc
Nước từ trong máy lọc lưng lưng
Bỏ cà chua, bỏ hành lá tưng bừng
Ta sẽ nấu một nồi canh lịch sử

Trong khi đó vợ ta đang mặc thử
Chiếc áo mới mua về, coi có đẹp chưa
Ta vừa khen, vừa nạo cùi dừa
Để rắc sẵn lên chén chè trôi nước

Ăn cơm xong cho nàng dùng mát ruột
Và kèm thêm lát dưa hấu đẹp da
Nồi canh sôi trong tiếng reo òa
Ta thả cá, rồi làm luôn món mặn

Mở tủ lạnh ra, nhớ lời vợ dặn
Rằng hôm nay nàng muốn ăn cua
Rang với me, thêm dămquả trứng rùa
Ta nhanh nhảu cho vào trong nồi hấp

Nhớ khi rang phải vặn cho lửa thấp
Cua mới ngon và mới vàng đều
Đang say sưa thì nghe tiếng nàng kêu
“Nước tắm của em, anh yêu ơi, đâu nhỉ?”

Vớ chai dầu thơm trên tràng kỷ
Ta vội vàng chuẩn bị khăn bông
Dầu gội đầu, kèm theo cái lược hồng
Mời nàng vào, không quên mở nhạc

Nàng bước vô, không hề kinh ngạc
Vì chuyện này đã quá thân quen
Ta nhanh tay mở khóa vòi sen
Rồi sung sướng chạy ngay ra bếp

Và vui mừng soạn mâm sắp xếp
Còn không quên mở lọ khế dầm
Cùng pha sẵn ly trà sâm thơm phức
Nàng bước ra, khăn bông quấn ngực

Như thiên thần sáng rực vẻ thanh cao
Kéo ghế nhanh, nàng yểu điệu ngồi vào
Khen ta là chồng ngoan, chồng tốt
Ta ngây ngất không thốt được lời nào

Ta gắp cho nàng thêm món đồ xào
Ngắm nàng ăn, lòng dạt dào cảm mến
Chính giữa bàn hai ngọn nến lung linh
Tỏa hào quang xuống góc nhà xinh

Hai tâm hồn trắng tinh hòa nhịp
Ta nhai vội để còn nhanh kịp
Vào trải giường và mở tivi
Chờ nàng ăn xong, ta gọi thầm thì

Mời nàng vô đúng kỳ phim nhiều tập
Nàng thong thả chiêu ly trà chống mập
Trước khi xem trai Hàn Quốc ung thư
Dưới chân nàng con mèo nhỏ gừ gừ

Còn xa xa ta hăng say rửa chén
Vừa rửa kỹ ta vừa nhìn lén
Thấy nàng đang khép mắt mơ màng
Với lấy chăn hoa ta đắp nhẹ nhàng

Bàn tay ta dịu dàng khe khẽ
Rắc vào chăn một chút dầu thơm
Đặt cạnh nàng gấu bông nhỏ bờm xờm
Vặn bé ngọn đèn rồi ta lui bước

Ta kiểm soát cửa sau, cửa trước
Dắt xe vô và cho chú mèo ăn
Đậy kỹ thức ăn để tránh thằn lằn
Kiểm soát lọ đường, đề phòng bọn kiến

Rồi vươn vai ta hùng dũng tiến
Vô phòng nàng, kéo nhẹ tấm rèm ra
Cho ánh trăng xanh biếc ngọc ngà
Phủ lên bóng nàng đang ngon giấc

Ta dịu dàng ngồi nhẹ như ngọn bấc
Nói thì thầm ba tiếng “vợ yêu ơi”
Nàng vừa yêu vừa đẹp nhất trên đời
Ta thiếp đi nơi chân giường mát dịu…
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Kiểu Lừa Đảo Địa Ốc Tinh Vi



Minh Công



Trong thời gian gần đây một dạng lừa đảo tinh vi mới xuất hiện nhằm vào những chủ sở hữu nhà đang gặp khó khăn trong việc trả tiền nợ nhà hàng tháng và đối mặt với nguy cơ bị tịch thu nhà, đó là dịch vụ lừa đảo nhà đất. Các công ty lừa đảo thường tự giới thiệu là chuyên môn “đảm trách các vấn đề liên quan đến việc tịch thu nhà” hay “tư vấn các việc liên quan đến tiền nợ nhà” để quảng cáo các dịch vụ liên quan đến việc phòng tránh bị tịch thu nhà, giảm lãi suất tiền nợ nhà hàng tháng và các dịch vụ khác. Dạng lừa đảo này nhắm vào tâm lý hoang mang và lo sợ của khách hàng khi đang rơi vào tình trạng bế tắc về nợ nhà cửa để trục lợi tài chính.

Các công ty trên thường khẳng định là có thể giúp đỡ các thân chủ đang đối mặt với khả năng bị kéo nhà (foreclosure) những giải pháp có thể giúp họ giữ lại được nhà, giảm lãi suất nợ hàng tháng (refinance), thay đổi các điều khoản trong việc trả nợ nhà (loan modification), sửa chữa tín dụng xấu (repair bad credit), hay là gia hạn thêm thời gian giải quyết nợ nhà… Trên thực tế, các lời hứa hay khẳng định trên đều không thực tế, chủ yếu nhằm lừa gạt khách hàng để trục lợi tài chính sau khi bỏ mặc thân chủ “mất tiền và mất nhà”.

Trong tình hình tài chính suy thoái, thị trường nhà đất hỗn loạn như hiện nay, có những dịch vụ, trung tâm tư vấn nhà cửa “chân chính” được chính phủ chứng nhận cấp giấy phép hoạt động nhằm giúp đỡ các chủ sở hữu nhà vượt qua khó khăn đang gặp phải. Tuy nhiên, người dân cần tỉnh táo và nên tự trang bị cho mình những kiến thức nhất định để có thể phân biệt “thật giả” trong tình hình “vàng thau lẫn lộn” hiện nay.

Khi đối mặt với khả năng bị tịch thu nhà, chủ nhà cần chủ động liên lạc trực tiếp ngay ngân hàng cho vay của mình hay các trung tâm tư vấn tài chính được cấp phép hoạt động của chính phủ (Housing Urban Developing –HUD) để tìm những biện pháp “thực tế và thiết thực” để không bị mất nhà. Các tổ chức trên sẽ cung cấp miễn phí các dịch vụ tư vấn dành cho những chủ sở hữu nhà đang gặp các khó khăn về tài chính trong việc trả tiền nhà. Những dịch vụ tư vấn trên có thể bao gồm: tái lập nợ nhà (reinstatement), trả nợ nhà thấp hơn tiền nợ nhà hàng tháng trong một thời gian cố định, thường từ 3 đến 6 tháng (foreberance), kế hoạch trả nợ dần theo lãi suất thấp (repayment plan), thay đổi các điều khoản trong việc trả nợ nhà (loan modification), tái tài trợ (refinance), bán nhà, hoặc deed in lieu tạm dịch là bằng khoán thế vì.

Dưới đây là những hình thức phổ biến nhất về các dạng lừa đảo nhà cửa:

“MUA ĐI – BÁN LẠI”

Các công ty lừa đảo hứa hẹn là sẽ trả các khoản tiền nợ nhà, phục hồi tín dụng, và có thể trả giúp các khoản nợ thẻ tín dụng, nợ xe, v.v. cho thân chủ chỉ với một điều kiện là chủ nhà “tạm thời” chuyển toàn quyền sở hữu nhà cho một người thứ ba không quen biết (nhưng được các công ty lừa đảo hứa hẹn là rất đáng tin cậy). Để tạo thêm sự tin tưởng, họ cho phép chủ nhà được ở lại trong nhà dưới danh nghĩa người thuê với lời hứa hẹn là sẽ được mua lại căn nhà sau một khoảng thời gian nhất định nào đó hay khi tình hình tài chính của họ có sự thay đổi tích cực.

Trong dạng này, các chủ sở hữu nhà không hề biết rằng một khi đã chuyển quyền sở hữu nhà cho người thứ ba, họ có thể sẽ không mua lại được căn nhà của mình theo như lời hứa. Một khi chuyển quyền sở hữu, chủ nhà mới hoàn toàn có quyền đuổi các chủ nhà cũ (nay có danh nghĩa là người thuê nhà) ra khỏi nhà. Chủ nhà mới cũng có thể (và có quyền) tăng giá thuê nhà hàng tháng lên cho tới khi người chủ cũ không thể trả nổi đành phải dọn đi. Khi chủ nhà cũ muốn mua lại căn nhà (như theo lời hứa từ các công ty lừa đảo), chủ nhà mới sẽ đưa ra một cái giá cao hơn giá trị căn nhà hay ngoài khả năng tài chính của chủ nhà cũ để từ chối một cách danh chính ngôn thuận. Như vậy là người chủ nhà cũ mất trắng ngôi nhà của mình mà không được gì cả trong khi khoản nợ vẫn còn đó.

“KHAI PHÁ SẢN RồI MẤT NHÀ”

Các công ty lừa đảo hứa với chủ nhà là sẽ giúp đỡ họ giữ lại căn nhà với điều kiện là nạn nhân phải chuyển giao một phần quyền sở hữu nhà cho một người (hay một nhóm người) mà đa phần là người của công ty lừa đảo. Tiếp theo đó nạn nhân cần cắt đứt mọi liên lạc với ngân hàng chủ nợ chính của căn nhà. Thay vào đó, nạn nhân sẽ trả số tiền nợ nhà hàng tháng trực tiếp cho công ty lừa đảo với niềm tin là mình đang trả nợ nhà và (thông qua) các công ty lừa đảo tiến hành các thủ tục tài chính để giữ lại nhà. Mục tiêu chính của các công ty lừa đảo dạng này là duy trì nguồn lợi thu được từ khoản tiền trả nợ nhà hàng tháng từ các nạn nhân, càng lâu càng tốt.

Để kéo dài thời gian, công ty lừa đảo sẽ lần lượt lập hồ sơ khai phá sản lấy danh nghĩa của người (nhóm người) có đồng quyền sở hữu căn nhà với nạn nhân. Việc này được tiến hành mà không có sự hay biết của người chủ thực của căn nhà. Với mỗi hồ sơ phá sản, tòa án sẽ ra một quyết định “tạm thời” trì hoãn các thủ tục tịch thu nhà của ngân hàng. Những quyết định tạm thời của tòa án không ảnh hưởng tới việc chủ nhà phải có trách nhiệm tiếp tục trả tiền nợ nhà hàng tháng đúng hẹn. Tuy nhiên, các công ty lừa đảo đã khéo léo sử dụng những khoảng thời gian này để gầy dựng lòng tin của nạn nhân, gây sự ngộ nhận là các công ty lừa đảo đang thực hiện việc bảo vệ căn nhà một cách hiệu quả. Có được sự tin tưởng từ nạn nhân, các công ty lừa đảo dễ dàng trục lợi từ các khoản tiền trả nợ nhà hàng tháng được gửi trực tiếp cho mình trong một khoản thời gian tương đối dài.

Sau khi quyết định tạm thời của tòa án hết hiệu lực thì các công ty lừa đảo sẽ lặng lẽ biến mất, bỏ mặc cho nạn nhân đối diện với quyết định tịch thu nhà của ngân hàng. Thông thường nạn nhân của dịch vụ lừa đảo này chỉ nhận ra sự thật khi mọi việc đã quá trễ và không thể thay đổi được gì. Các luật lệ về phá sản được đặt ra nhằm hỗ trợ người dân giải quyết vấn đề tài chính nếu được tiến hành đúng cách. Tuy nhiên nạn nhân của dạng lừa đảo phá sản trên thường mất tất cả (tiền lẫn nhà), ngay cả tín dụng cá nhân cũng bị ảnh hưởng nặng nề trong vòng 5 đến 10 năm tới.

“GIẢM LÃI SUẤT”

Dạng lừa đảo này thường diễn ra khi một người nào đó tìm tới chủ sở hữu nhà đang gặp khó khăn trong việc trả tiền nhà hàng tháng. Người này sẽ tự giới thiệu là người đại diện cho ngân hàng hay trung tâm tài chính và có thể giúp họ xin vào các chương trình giảm lãi suất nhà. Để chinh phục lòng tin của nạn nhân, những kẻ lừa đảo này có thể xuất trình giấy tờ chứng mình, công ty đại diện, trang website rất giống một cơ quan tài chính hay một tổ chức đại diện chính phủ thực sự. Nếu chỉ đọc thoáng qua, các nạn nhân sẽ dễ dàng bị ngộ nhận bởi các từ ngữ như “liên bang”, “TARP” (Troubled Asset Relief Program – một chương trình hỗ trợ tài chính của chính phủ dành cho các ngân hàng để giúp đỡ các chủ nhà đang gặp khó khăn) hay các từ ngữ chuyên ngành có liên quan đến các chương trình chính thức thực sự của chính phủ.

Sau khi chiếm được lòng tin của nạn nhân, kẻ lừa đảo sẽ đưa ra một loạt giấy tờ yêu cầu nạn nhân ký với danh nghĩa xin vào các chương trình giảm lãi suất của chính phủ. Trên thực tế, các giấy tờ này là các giấy chuyển nhượng quyền sở hữu nhà (deed transfer) từ nạn nhân sang kẻ lừa đảo. Trong quá trình ký giấy, kẻ lừa đảo sẽ sử dụng nhiều biện pháp, cách thức đánh lạc hướng, hù dọa hay gây áp lực để cho nạn nhân không đủ tỉnh táo hay thời gian để đọc kỹ các giấy tờ. Sau khi ký kết, kẻ lừa đảo sẽ biến mất với lời hứa là sẽ tiến hành mọi thủ tục còn lại khác. Thông thường các nạn nhân luôn tin tưởng là mình đã xin vào các chương trình giảm lãi suất hay chống việc mất nhà của chính phủ và bỏ qua các thư cảnh báo của ngân hàng. Họ chỉ nhận ra sự thật khi nhận được quyết định trục xuất của tòa án và biết rằng mình không còn là chủ sở hữu nhà bấy lâu nay. Về phần kẻ lừa đảo, với giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà, họ có thể dùng để thế chấp và vay mượn tiền từ ngân hàng.

“ĐIỆN THOẠI và INTERNET”

Dạng lừa đảo này thường xảy ra khi nạn nhân tự mình liên lạc với các công ty lừa đảo thông qua các quảng cáo hay tờ rơi dựng trên đường hay được bỏ vào hộp thư. Với dạng lừa đảo này, nạn nhân chỉ có thể liên hệ với các công ty lừa đảo thông qua điện thoại hay thư từ. Với lời hứa là sẽ giúp đỡ các nạn nhân vay các khoản nợ với tiền lời thấp để trả nợ nhà hay thay đổi lãi suất nợ hiện tại, các công ty lừa đảo nhắm vào những thông tin cá nhân như số an ninh xã hội, tài khoản ngân hàng. Thông thường, sau khi nạn nhân liên lạc với các công ty lừa đảo qua điện thoại hay email, họ sẽ được chấp nhận ngay vào một “chương trình hỗ trợ tài chính” nào đó và các công ty lừa đảo sẽ hối thúc nạn nhân gửi ngay những giấy tờ với các thông tin cá nhân và một khoản lệ phí để tiến hành các thủ tục càng sớm càng tốt.

Sau khi lấy được thông tin cá nhân và lệ phí, công ty lừa đảo sẽ biến mất, bỏ mặc nạn nhân chờ đợi trong tuyệt vọng. Với dạng lừa đảo này, rất khó cho nạn nhân truy ra được kẻ lừa đảo vì các số điện thoại liên lạc thường xuyên thay đổi, ngay cả địa chỉ thư từ cũng là những địa chỉ hay thùng thư ma.

Về phía nạn nhân, ngoài mất một khoản tiền (thường không nhỏ khoảng vài ngàn Mỹ kim), mất thời gian (chờ đợi hồi âm), nhà cửa có khả năng bị tịch thu, họ còn đối mặt với nguy cơ là các thông tin cá nhân bị phơi bày và sẽ trở thành nạn nhân của việc lừa đảo tín dụng và ngân hàng về lâu dài.

DẠNG LỪA ĐẢO “MA”

Những kẻ lừa đảo dạng này thường tự nhận là chuyên viên địa ốc hay tài chính có khả năng giúp đỡ chủ sở hữu nhà đang gặp khó khăn trong việc trả nợ hay có nguy cơ mất nhà. Kẻ lừa đảo hứa là họ có thể giúp và đại diện cho nạn nhân xin vào chương trình hỗ trợ giảm lãi suất hay giữ lại được nhà. Đổi lại, nạn nhân phải trả một khoản “phí dịch vụ” rất cao (so với khả năng tài chính của nạn nhân). Tương tự như dạng lừa đảo “giảm lãi suất”, kẻ lừa đảo luôn có thể đưa ra những giấy tờ, chứng nhận rất giống với những chương trình hỗ trợ thật sự từ chính phủ. Ngoài ra, không ít kẻ lừa đảo cũng chính là những chuyên viên môi giới địa ốc hay tài chính thật sự. Điều này càng khiến cho nạn nhân khó khăn trong việc phát hiện ra sự thật.

Để kéo dài thời gian, những kẻ lừa đảo thường xuyên hứa và khẳng định với các nạn nhân là mọi việc vẫn diễn tiến theo trình tự và khuyến cáo nạn nhân hãy bỏ qua những thư cảnh báo từ ngân hàng. Trên thực tế sau khi đã thu đầy đủ tiền lệ phí, kẻ lừa đảo hầu như không làm bất cứ việc gì, ngoài việc gọi một vài cú điện thoại hay gởi đi một vài ba đơn từ đơn giản mà chính nạn nhân cũng có thể làm được. Nạn nhân của dạng lừa đảo này thường phát hiện ra sự thật sau một thời gian dài sau khi nhận được các lời hứa suông. Khi nạn nhân kiên quyết yêu cầu đòi kết quả thì kẻ lừa đảo thường biến mất, bỏ mặc nạn nhân trong hoàn cảnh không còn khả năng tài chính và thời gian để giữ nhà.

DẤU HIỆU CỦA CÔNG TY LỪA ĐẢO

- Yêu cầu trả trước một khoản “chi phí dịch vụ”. Không một tổ chức tư vấn đúng luật nào làm việc với chủ sở hữu nhà đang gặp khó khăn về tài chính mà lại đòi trả chi phí trước.

- Gợi ý là sẽ đại diện cho chủ nhà xin vào các chương trình hỗ trợ của chính phủ với một lệ phí nhất định.

- Liên tục khẳng định hay có những lời hứa chắc chắn là sẽ giúp thân chủ giữ được nhà khỏi bị tịch thu.

- Yêu cầu khách hàng cắt đứt mọi liên lạc với chủ nợ chính và các chuyên viên tư vấn nhà cửa khác.

- Khuyên khách hàng hãy ngừng trả tiền nợ nhà hàng tháng.

- Khuyên khách hàng hãy trả tiền nợ nhà hàng tháng cho một người thứ ba, không phải là ngân hàng chủ nợ nhà.

- Yêu cầu khách hàng chuyển giao quyền sở hữu nhà cho một người khác.

- Không có văn bản, giấy tờ chính thức về các dịch vụ sẽ cung cấp. Chỉ hứa bằng miệng.

- Yêu cầu khách hàng ký vào những giấy tờ, hồ sơ có những khoảng hay dòng viết để trống.

HÃY TỰ BẢO VỆ MÌNH

Biết mình – biết người: Trước khi quyết định gởi tiền hay các thông tin cá nhân cho bất kỳ ai, luôn nhớ kiểm tra kỹ về lai lịch và quá trình làm việc của họ. Liên lạc với quận hạt để tìm hiểu xem một công ty, tổ chức nào đó có giấy phép hành nghề đúng luật hay có bị ai kiện cáo gì không.

Hãy nhờ các tổ chức phi lợi nhuận hay trung tâm tài chính có tên tuổi: Quý vị có thể tìm thấy những tổ chức này từ U.S. Department of Housing and Urban Development (HUD): 800 569-4287, http://www.hud.org/; Homeowenership Preservation Foundation: 888-995-HOPE, http://www.995hope.org/.

Đọc kỹ tất cả các giấy tờ trước khi ký: Đọc kỹ và hiểu rõ mọi giấy tờ trước khi đặt bút ký. Nếu tờ nào quá phức tạp, hãy nhờ luật sư hay chuyên viên tư vấn tài chính mà mình tin cậy. Không bao giờ ký những giấy tờ có những khoản để trống mà có thể được viết vào sau đó. Không ký vào những giấy tờ bao gồm những thông tin sai lệch, không chính xác cho dù được đảm bảo là sẽ thay đổi lại sau đó.

Yêu cầu mọi lời hứa được viết trên giấy tờ: Những lời hứa hẹn hay thỏa thuận miệng không có giá trị pháp lý trước tòa. Hãy bảo vệ quyền lợi của mình bằng việc yêu cầu mọi lời hứa hay thỏa thuận được viết rõ ràng ra giấy và có chữ ký của hai bên. Giữ một bản ký kết cho mình.

Trả tiền nhà trực tiếp cho ngân hàng cho vay: Không trả tiền nhà hàng tháng cho bất kỳ ai với bất kỳ lý do gì ngoài ngân hàng chủ nợ chính của mình.

Không bao giờ sang nhượng quyền sở hữu nhà cho bất kỳ ai trước khi hiểu rõ các quyền lợi đối với căn nhà của mình sau này.

Đa phần các dạng lừa đảo liên quan đến việc tịch thu nhà thường yêu cầu các nạn nhân “tạm thời” sang nhượng quyền sở hữu căn nhà cho một người thứ ba với lý do đây là biện pháp duy nhất để giữ nhà khỏi bị tịch thu. Hãy liên hệ với chuyên viên tư vấn nhà cửa được HUD cấp giấy phép để tìm hiểu thêm trước khi ký tên. Thông báo ngay cho các cơ quan chức năng khi nghi ngờ mình là nạn nhân của một công ty lừa đảo. Khi biết được có kẻ khác ăn cắp danh tánh của mình để xin thẻ nợ, hãy báo ngay với cơ quan chức năng để họ giải quyết cho bạn.
band4 3G McKeno

Post Reply