Góc nhỏ của anh 3 Giang

Tung cánh chim tìm về mái trường xưa. Mong tìm bạn học cũ, nay ở đâu xin nhắn đôi lời!!!

Moderator: CNN

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

BẠN ĐÊM GIAO THỪA

Tâm Không Vĩnh Hữu

Mọi lần, khi vợ chồng tôi cãi vã nhau chẳng đi đến đâu, tôi đều giận lẫy bỏ đi khỏi nhà, khi thì bồng con theo khi thì chỉ đi một mình tay không. Và, anh ấy sẽ chạy theo, đến một chỗ vắng vẻ nào đó mới níu kéo, năn nỉ, xuống nước xin lỗi. Anh ấy luôn luôn là người nhường nhịn, làm hòa trước. Vậy mà lần này, sau cuộc kình cãi kịch liệt, lời qua tiếng lại có phần động chạm tự ái của nhau, tôi giận muốn khùng lên, bỏ đi khỏi căn nhà đang ấm cúng. Tôi bỏ đi khỏi nhà lần này nhằm vào lúc chẳng còn bao lâu nữa là bước sang năm mới, vậy mới là... giận. Vừa đi, tôi vừa nhìn chừng lại phía sau, hy vọng anh ấy sẽ đuổi theo. Nhưng không, không hề thấy anh ấy.

Tôi tức giận thêm, khóc tấm tức. Đến một ngã sáu, lèo tèo một vài người thơ thẩn, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe rú ga vù đi qua phố thênh thang, tôi đứng lại bần thần, rồi nhìn đồng hồ: 10 giờ 30 phút. Anh ấy đã không tìm tôi, không màng kêu gào tôi về để cùng đón giao thừa với nhau. Bé Mi Mi của tôi chắc vẫn còn đang ngủ say. Còn anh ấy đang làm gì ở nhà? Khui mấy chai rượu Tết uống trước giải sầu ư?

Tôi băng qua đường, tiến về phía bùng binh trước một siêu thị lớn đã đóng cửa. Nơi ấy, đang có một cô gái ngồi ủ rũ một mình. Tôi đang muốn có bạn trong lúc đang rối trí, buồn phiền, để mình trút bỏ tâm sự cho nhẹ nhàng, biết đâu đầu óc sẽ sáng suốt, lòng thanh thản. Lỗi của tôi, hay của anh ấy, hay lỗi của cả hai, cần phải có một người ngoại cuộc phán xét. Cô gái ngước mắt nhìn tôi. Một cô gái mặt hoa da phấn nhợt nhạt, mắt đượm ưu buồn, tóc tai rũ rượi. Tôi ngồi xuống cạnh cô gái thật khẽ khàng. Ném mắt nhìn tôi dò xét, cô gái hỏi với giọng lạnh lùng cộc lốc:

- Muốn gì?
- Ngồi chơi. Buồn quá.
- Không có nhà, không có gia đình để về đón giao thừa à?
- Có chứ. Nhưng mới gây với ông xã, nên bỏ đi cho khuây khỏa...
- Một đi không trở lại?
- Trở lại chứ!
- Trở lại thì đừng nên bỏ đi. Mất công.

Tôi chưng hửng. Cô gái làm tôi kinh ngạc, tôi có cảm tình ngay. Nhìn ngắm cô gái từ mấy lọn tóc đến những móng chân, tôi nhỏ nhẹ:

- Chị sao ngồi đây? Sao chưa chịu về nhà?
- Không nhà cửa. Không chồng con. Không bà con dòng họ. Quê nhà thì ở xa quá, tận vùng cao heo hút. Vậy thì về đâu?
- Vậy à? Xin lỗi... chị làm gì, ở đâu?
- Nói thẳng ra là làm đĩ!
Tôi đoán không sai. Nhưng cách trả lời của cô gái sống sượng quá, phũ phàng quá, làm cho tôi lạnh mình, và cũng chạnh lòng. Tôi ngần ngại hỏi:
- Không còn chỗ nào để về ăn Tết thật sao?
- Chỗ nào? Chỉ có nhà trọ, nhà chứa, quanh năm chui nhủi bám víu vào những chỗ ấy mà sống qua ngày. Nhưng bây giờ, tiền hết thì nhà trọ đuổi, nợ nần chưa trả xong, lại thêm tàn tạ héo úa, thì nhà chứa cũng chẳng chịu chứa nữa!
- Sao người ta tệ bạc vậy? Vắt chanh bỏ vỏ à?
- Người ta ưu ái cho mấy đứa trẻ măng, mấy đứa tuổi mười tám đôi mươi thậm chí có đứa mới đôi tám. Mình địch không lại tụi nó đâu. Tụi nhỏ bây giờ đông lắm, ở khắp các vùng quê nghèo đổ về phồn hoa đô hội để tiến thân bằng cách... hiến thân!

Tiến thân bằng cách hiến thân. Những từ ngữ ấy thật lạ lẫm đối với tôi, lần đầu tiên tôi nghe được, lại được thốt lên từ một giọng mỉa mai chua chát của cô gái giang hồ, khiến cho tôi thoáng rùng mình kinh sợ, lại thấy tim mình nhoi nhói vì một nỗi xót thương cho phận gái truân chuyên giữa dòng đời bát nháo... Tôi bàng hoàng, xót xa. Cái đau đớn, tủi nhục, cùng cực của cô gái đã dập tắt những nỗi buồn nhẹ tênh, tự ái vặt vãnh trong tôi, dập tắt thật nhanh. Tôi quên đi chuyện mình vừa mới xích mích với chồng, chỉ còn biết trước mặt tôi là thân phận bèo dạt hoa trôi vô định, mang theo một ước ao bé nhỏ, nhưng không hề với tới được. Tôi sờ ngực áo, rút ra mấy tờ giấy bạc polymer còn nằm nguyên từ chiều, trao hết qua tay cô gái. Cô gái không chút vui mừng, không vồn vã cũng không tỏ vẻ bất cần, thản nhiên nhận mấy tờ bạc, chẳng thèm đếm thử xem được bao nhiêu tiền, trên ba trăm nghìn đồng chứ đâu có ít, hỏi:

- Còn chị thì sao đây?
Tôi kể sơ qua chuyện mình. Cô gái cười sằng sặc nói:
- Chị rõ khùng. Chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, vớ vẩn, mà dám bỏ đi khỏi tổ ấm gia đình của mình đang đầy ắp hạnh phúc. Chị hãy biết quý trọng những gì đang có được, chứ đừng làm hao hụt, uổng!
Tôi rùng mình, tỉnh ngộ. Cô gái cười mếu máo, nói tiếp:
- Tôi cả đời cứ ước mơ có được tấm chồng, một mái ấm nghèo nát cũng được, rồi có đứa con. Vợ chồng có nhau trong đói khổ cũng vui. Hạnh phúc nhỏ nhoi, ước mơ nhỏ bé quá, mà sao cứ ở mãi trong chiêm bao mộng mị, không bao giờ nắm bắt được...
Tôi đứng dậy. Tôi phải về ngay. Cô gái vẫn tiếp tục:
- Ngay từ giây phút này đây, tôi chỉ mong ước có một điều...
Tôi khựng lại, hỏi:
- Điều gì?
Cười chua chát, cô gái thều thào:
- Ước gì trong giờ giao thừa, có một chàng ngớ ngẩn nào đó, xấu xí cũng được, đần độn cũng được, nghèo rách cũng được, nhưng miễn là thương tôi, thích tôi, chịu dìu tôi về nhà, hai đứa sẽ cùng đón giao thừa, ăn ngủ với nhau, qua ba ngày Tết thật vui vẻ, rồi chia tay nhau cũng được, mà sống luôn với nhau thì càng tốt, quá hạnh phúc cho tôi. Nhưng điều này... lại là chiêm bao!

Tôi cảm thấy như vừa bị ai đó xát muối vào ruột gan mình. Nhắm mắt lại cho nước mắt rơi ra, rồi bước thật nhanh rời khỏi nơi cô gái ngồi, tôi băng băng về nhà mình... Anh ấy đã bồng bé Mi Mi đi đâu rồi. Chắc là anh ấy đang đi tìm tôi, tìm ở hướng ngược lại. Sao không chịu đi ra phố ngã sáu nhỉ? Tôi tất tả băng đi trên đường vắng ngắt, mắt dáo dác ngó xa ngó gần, tìm hình bóng thân quen của chồng con. Không thấy đâu. Đã sắp đến giờ đón giao thừa rồi. Tôi bắt đầu bước như chạy ngược trở lại phố ngã sáu có bùng binh vòng xuyến. Phố im ắng. Bùng binh trơ trọi. Cô gái đã đi rồi. Tôi ngơ ngác giữa phố khuya vào đêm cuối năm, bắt đầu tự chửi rủa mình. Chợt, từ xa một chiếc xích lô đang chở khách phóng lại. Xích lô thắng kít một bên tôi. Tôi trố mắt nhìn lên, nhận ra người ngồi trên xe là... cô gái khi nãy. Cô gái vui vẻ ra mặt, giọng cất lên cũng đầy sinh khí hỏi:

- Sao chưa chịu về nhà mà còn đứng sớ rớ ở đây nữa hả “bà”?
Tôi ngạc nhiên nhìn cô gái, rồi nhìn anh xích lô nói:
- Về rồi, nhưng anh ấy bồng con đi đâu mất tiêu...
- Đi tìm chị chứ đi đâu. Mới thấy một ông bồng con đi lên đi xuống hớt hơ hớt hải ở dưới dốc kia kìa, chắc là anh ấy rồi. Về lẹ đi. Lẹ đi!
Tôi mừng quá, định bước đi, nhưng chợt nhớ lại hỏi:
- Chị bây giờ định đi đâu?
- Đi về nhà ảnh, đón giao thừa với ảnh!
Tôi nhìn anh xích lô bằng ánh mắt nghi ngại, nói tỉnh:
- Coi chừng vợ người ta đánh ghen thì… mất ăn Tết đó!
Anh xích lô cười ha hả vang rền cả trời khuya vắng, nói giọng oang oang:
- Đừng lo. Tôi độc thân, chưa có vợ con gì, cũng chẳng có nhà cửa, cũng là dân bụi sống rày đây mai đó thôi!
- Vậy bây giờ anh chở chị ấy đi đâu?
- Về vỉa hè, về tổ ấm tạm bợ của tôi. Đón giao thừa hai đứa, ăn Tết một cặp một đôi, thì chắc là vui hơn một mình sô-lô rồi!
Cô gái cười hồn nhiên, nheo mắt với tôi, nói rổn rảng:
- Ước gì được nấy rồi, còn gì sướng bằng? Thôi, đi nghen, chị về lẹ đi! Của báu ở ngay trong nhà mà không biết giữ!

Tôi ngẩn người ra đứng đó. “Của báu trong nhà”. Tôi chợt nhớ đến câu kệ “Gia trung hữu bảo hưu tầm mích; Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (của báu trong nhà thôi tìm kiếm, đối cảnh vô tâm hỏi chi thiền), mà đầu óc sáng bừng lên. Chiếc xích lô lăn bánh đi, chở theo một người bạn mới quen của tôi chạy về một nơi chốn nào đó thật mơ hồ. Nhưng có điều không mơ hồ chút nào, thấy rất rõ, là niềm hân hoan hớn hở đang tràn đầy và sáng rực trên nét mặt của cô gái giang hồ, và cả anh chàng đạp xích lô đen đủi xấu xí. Tôi đứng dõi mắt trông theo, thầm cầu chúc cho họ tận hưởng được không chỉ là giờ phút, hay ngày tháng, mà là những năm thật sự hạnh phúc, cho dù là hạnh phúc đơn sơ nhỏ bé.

Chiếc xích lô khuất hẳn sau khúc quanh. Tôi trở về với chính mình. Và, tôi đi như chạy bằng đôi chân hỏng đất về hướng con dốc chạy xuống chợ. Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này...

Tâm Không Vĩnh Hữu




Lượm lặt trên Internet
-
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Lục Đục Cũng Tại...Ông "Bức Xúc"

Tác giả: Philato


Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, một cựu Sĩ Quan VNCH, cựu tù chính trị, định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. 1, hiện làm việc tại học khu Ocean View. Với nhiều bài viết sống động và xúc động, ông đã hai lần nhận giải Viết Về Nước Mỹ: 2006, với bài "Học Tiếng Anh" và 2007 với bài "Con ơi, Bây giờ con ở đâu.” Sau đây là bài viết mới nhất của ông.


***



- Anh ơi, dọn dùm em cái ga-ra này coi, đồ đạc lộn xộn quá hà*.(*một đọan quảng cáo trên radio v/v lắp ráp garage)

- Đã bảo vất bớt đi thì không chịu, lại còn đem đồ bán ở ngoài lề đường về nhà! Nhiều rác quá thì biết cất đi đâu bây giờ?

- Cái gì? Ông bảo ai mang rác về? Đồ ..của tôi còn tốt mà, thấy ga-ra-seo, tôi mua về, lúc nào cần sờ đến là có ngay, còn ông cứ đi "suốt" thì biết cái gì?

Đang ngọt ngào hạnh phúc anh-anh em-em, bỗng dưng thấy vợ nổi giận rồi nổi đóa, đổi tông "ông tôi", lão gàn Bát-Sách cũng bốc hỏa theo.

- Cái gì? Tại sao bà rủa tôi "đi tàu suốt"! Ý bà muốn rủa tôi chết đi cho rồi chứ gì? Phải mà, bây giờ tôi già rồi, là xấu như Chung Vô Diệm . ..

- Này này, tôi rủa ông hồi nào?Cứ nghe mấy ông bạn già dịch xúi đi uống những thứ thuốc linh tinh, dược thảo với quả trám, đã chẳng được việc gì, lại còn bị sai-ép-phếch làm cho ù tai, hoa mắt!Tôi nói ông đi "suốt" tức là đi suốt cả ngày, chứ "đi tàu suốt" hồi nào? Rõ là già nghễnh ngãng lãng tai!

- À ra thế! Thà rằng bà rủa tôi đi tàu suốt còn hơn là bà nói tiếng "suốt" VC trước mặt tôi. "Suốt" là cái khỉ gì? Phải nói cho rõ là suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, suốt cả đời v.v..Cái tật ưa nói tắt, xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ ..

- Sao? Ông nói cái gì? Nhắc lại thử coi, ông nói ai xấu? Ai dốt?

- Xin lỗi bà, tôi nói cái bọn ngợm và những người ưa dùng tiếng VC.

- Không phải tôi ưa dùng mà chính các đài phát thanh và báo chí ở hải ngoại đang làm đinh tai nhức mắt người ta với những tiếng "chôm" của XHCN kia kìa! Chưa hết, chính các bạn của ông, những người từng là lính, từng không đội trời chung với bọn ngợm, từng bị chúng nhốt mà lại đi vay mượn ngôn ngữ của chúng để viết văn, viết hồi ký v.v..! Ông coi đây này, coi cái này này.

Xuân, vợ Bát-Sách, dí cuốn hồi ký chiến trường của Lê văn Chôm vào mặt chồng, tay vỗ-vỗ vào cái chỗ ngồi rồi quày quả bỏ đi ra hè ngồi sụt sịt. Bát-Sách lắc đầu thở dài, chuyện xẩy ra quá bất ngờ, Sách cầm cuốn hồi ký lên đọc:

- "Tôi không được đi phép thường niên mà đi hành quân "suốt" !

Ý hẳn là tác giả muốn nói ông đi hành quân suốt cả năm. "Suốt" là lối nói thu gọn của XHCN cho khác người, sốt rét cấp tính thì gọi là "sốt cấp", tăng tốc độ thì nói "tăng tốc", thiếu thốn và đói kém thành "thiếu đói" và rồi họ chẳng hiểu ý nghĩa hai chữ "thiếu đói" là gì nên đem dùng sai bét, lộn ngược. Khi đập thủy điện sông Ba bị vỡ, hàng ngàn gia đình ở hạ lưu bị cuốn trôi, báo trong nước đưa tin:

- Hàng ngàn gia đình đang lâm vào tình trạng "thiếu đói" trầm trọng.(!)

Họ chơi chữ nghĩa lộn ngược, nhưng cái lộn mửa là radio hải ngoại cũng cứ loan tin đồng bào trong nước đang "thiếu đói" trầm trọng, yêu cầu đồng hương "khẩn trương" đóng góp để giúp dân "thiếu đói" (!)

Lật trang khác, Bát-Sách giật mình khi thấy tác giả còn chơi bạo hơn nữa, chắc là nhớ đâu đó có câu "xuyên suốt sợi chỉ hồng", ông viết:

- "Tiểu đoàn của tôi hành quân xuyên suốt khắp 4 vùng chiến thuật"!

Trời ơi là trời! Chỉ cần viết đi khắp bốn vùng chiến thuật là được rồi, hà cớ gì phải khiêng 2 chữ "xuyên suốt" vào khiến nó giống như "hồi kí" của bộ đội miền Bắc? Không kềm được tức giận, Sách bật ra tiếng Đức rồi cảm thấy hối hận nên chàng bước lại bên Xuân đang ngồi sụt sịt, chàng nhè nhẹ đặt bàn tay lên vai nàng xoa-xoa rồi cúi xuống ghé sát vào tai vợ thì thầm:

- Xin lỗi em, xin lỗi em vì "sự cố" vừa rồi, anh sẽ dọn dẹp cái ga-ra của em cho sạch sẽ gọn gàng. Trong "quá trình" anh dọn thì em cười lên cho đời thêm vui chứ em cứ ngồi chẩy nước ra đó thì trông "phản cảm" quá.

Biết chồng làm lành, tuy đang tức cành hông, muốn hất tay Sách ra, nhưng thấy chồng cố ý diễu, dùng những ngôn ngữ của thời kỳ "quá độ tiến lên xã hội loài người" nên Xuân phì cười cầm tay chồng mắng yêu:

- Anh ngốc quá, xoa xoa vai là sai chỗ rồi, đằng trước cơ, mình "giao lưu" lại nghe anh.

Bát Sách dìu vợ đứng dậy, đặt nhẹ cái môi hôi mùi thuốc lá lên má vợ (gò má của vợ), cái mùi 555 khiến Xuân thường bị lãnh cảm, nhưng hôm nay sao thấy nó thơm thế, rõ là "yêu nhau trái ấu cũng tròn" nên cả hai cùng dìu nhau đi dọn ga-ra, vừa đi vừa song ca nho nhỏ:

"Không phải tại anh mà cũng không phải tại em, tại ngôn ngữ khỉ gió nên chúng mình giận nhau".

Giữ đúng lời hứa, Sách bắt Xuân ngồi ở xích-đu đu đưa đọc tiếp cuốn hồi ký chiến trường, nhờ nàng tìm xem tác giả này có "bức xúc" hay không. Chàng cũng không quên pha cho vợ ly Carte Noir nhiều sữa ít café, còn mình thì xoay trần khoe bộ ngực Omega, sắp xếp lại mọi thứ cho gọn gàng, những thứ chàng thường lén quăng đi thì hôm nay thấy chúng dễ thương. Một bọc chứa dây buộc bún khô Tháp Chùa mà vợ cất đi để dùng khi cần thiết, cũng được Sách vuốt thẳng thắn, bó lại treo lên vách thay vì vất vào thùng rác như chàng vẫn thường làm.

Thấy Sách mồ hôi nhễ nhại, Xuân vội đứng đậy đưa chồng cái khăn thấm nước đá và uống chung một hớp café. Sách cười híp mắt nói:

- Nhờ mấy tiếng VC mà mình lại yêu nhau hơn.

- Này lão già kia! Đừng có ăn nói hàm hồ như thế, nói theo cái kiểu một số kẻ vô ý thức lộng ngôn cho rằng nhờ VC mà gia đình họ được cơm no áo ấm ở Mỹ! Ông không biết cái nhục mất nước rồi bị tha phương cầu thực hay sao? Nếu chỉ cúi đầu ăn thì đâu nhất thiết phải đi bằng hai cẳng! Nếu...

Thấy vợ vung tay múa chân, miệng hò hét như những chính khách trên sân khấu, sợ hàng xóm nghe được thì thêm phiền hà, Sách vội chạy lại ôm Xuân "khống chế", nhưng nàng vẫn vùng vẫy, miệng la bải hoải. Không còn cách nào khác, chàng bèn dùng thế võ khóa mồm khiến đối thủ ú-ớ rồi ậm-ừ, người mềm nhũn như sợi bún thiếu điều muốn khuỵu xuống nên Sách vội bế thốc Xuân lên chạy vào phòng để cạo gió xoa dầu!

Nhìn chồng nằm gối đầu lên hai bàn tay, trán lấm tấm những giọt mồ hôi, nhớ lại thuở xa xưa mỗi khi gặp cảnh này, Xuân thường thưởng cho chồng một điếu thuốc SALEM, loại thuốc lá có mùi menthol dễ thương, mà cái tên của nó bị mấy ông zà-zịch dịch ra tiếng Việt nghe cũng dễ thương: "Sao Anh Làm Em Mệt"! Ngày ấy Xuân thường quẹt Zippo lên, đốt điếu thuốc, rít một hơi rồi phà khói vào mặt Sách trước khi gắn điếu thuốc lên môi người yêu.
Ôi thời oanh liệt nay còn. đâu! Lửa đã tắt, bình khô rượu mà SALEM cũng chẳng còn, để an ủi chồng và giúp chàng quên dĩ vãng oai hùng, Xuân nằm xích lại, nâng đầu Sách lên, lấy tay thay gối, thỏ thẻ như hồi xa xưa:

- Thôi đừng suy tư nữa, không còn Salem thì em đọc báo XHCN cho anh nghe, mua vui cũng được một vài trống canh.

- Đã hết thuốc Salem lại còn phải nghe chuyện XHCN thì anh trở thành liệt ..sĩ luôn à nghe. Mà tại sao em lại đọc báo VC ôn-dịch ôn-lai?

- Có vào hang hùm mới bắt được cọp, có đọc VnExpress, Tuổi Trẻ, Công An mới biết chủ tịt tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô sai hiệu trưởng Sầm Đức Xương đem nữ sinh đến cho hắn làm thịt. Có đọc mới biết ngư dân VN bị "tàu lạ" bắt và đâm chìm ngay trên biển của mình! Có đọc mới biết họ xây cầu chưa xong đã sập! Anh còn nhớ ngày 29/6/2007 cầu Cần Thơ bị sập khi đang xây khiến 54 công nhân chết và 80 bị thương không? Em nhớ rõ là vì ngày đó có ông vội vàng kêu gọi đồng bào hải ngoại "khẩn trương" góp đô cho ông đem vô XHCN cứu trợ!

- Chuyện làm việc thiện của người ta, sao em cứ thích xía vô? Mà cây cầu đó xây tới đâu rồi nhẩy?

- Cầu ấy sắp "hợp long" rồi, để em đọc tin trên VnExpress nhá:
"Cầu Cần Thơ chuẩn bị hợp long. Ngày 26/9/2007, sự cố sập 2 nhịp khiến 54 chết, 80 bị thương. Dàn thép cuối cùng được lắp đặt để nối liền cầu Cần Thơ bắc qua sông Hậu ngày 3/10. Dự kiến hợp long ngày 15/10/2009 và chính thức thông xe vào tháng 3/2010. Nhưng mới chỉ thông xe kỹ thuật thôi mà đã có 10 thợ chụp hình và nhiều hàng rong đến đây tác nghiệp. Có đi thực tế mới thấy một số bộ phận người dân chưa ý thức được giá trị và biểu cảm của cây cầu. (ngưng trích)

- "Hợp long, thông xe, tác nghiệp, biểu cảm, đi thực tế" là kí gì vậy? Bộ phận của người là bộ nào vậy? Bộ trên hay bộ dưới, thượng bộ hay hạ bộ?

- Bố ai mà biết! Chắc ý họ muốn nói "hợp long" là cầu Cần Thơ “giao hợp” với Vĩnh Long chứ gì. Còn thông xe chắc là cho xe chạy qua cầu, là lưu thông! Thông xe kỹ thuật chắc là cho xe đi thử! Tác nghiệp là là là... tác nghiệp! Biểu cảm là không phải phản cảm! Người (dân) ta có nhiều bộ phận mà chỉ có một "bộ phận" chưa ý thức thì hẳn là bộ phận này ở thấp thôi! Ối giời ơi, hiểu chết liền. Để em đọc anh nghe lời tuyên bố của ông thanh tra nói về nạn kẹt xe ở Hà Nội nhé:

"Ùn tắc ở các điểm phân làn chỉ là cảm quan, ùn tắc hiện nay chỉ là giả tạo do sự thiếu ý thức của một bộ phận người tham gia giao thông. Ngoài ra cũng có nguyên nhân mật độ giao động khi tựu trường đột biến. Chúng tôi chia làn để các phương tiện không bị xung đột, tránh ùn ứ. Nhưng ý thức kém, người tham gia giao thông thấy chỗ nào đi được là chen vào gây nên tình trạng ùn tắc cục bộ".

Đó là nguyên văn lời của thanh tra sở giao thông Hà Nội Hoàng Văn Mạnh phát biểu với VnExpress. Phóng viên không "đồng tình bèn “phản biện":

“Thực tế cảm quan cho thấy việc cưỡng ép phân làn ở một số tuyến đường có dải phân cách là không hợp lý.”

Khi tai nạn xe hơi xảy ra, cái sau ủi đít cái trước, thì họ gọi là "ô-tô đâm liên hoàn!” Làm như cái xe đầu tiên quay vòng lại húc vào đít xe sau cùng, liên hoàn mà! Cái gì xảy ra liên tiếp thì họ gọi là liên hoàn. Thằng ăn cướp đâm liên tiếp ba người thì họ bảo nó đâm "liên hoàn". Nếu chỉ có 2 xe thì sao? Hình chụp xe taxi bị xe Rolls Roys ủi đít bẹp dúm thì ngôn ngữ đỉnh cao diễn tả như thế này:

“Đuôi xe taxi dẹp dúm khi tác động với góc bên phải của Rolls Roys.”

Phi cơ đang bay, nghe có tiếng điện thoại reo, ô-tét-đờ-le đi đến yêu cầu hành khách tắt điện thoại, vì hành khách này mang 3 cái điện thoại, nhưng lại chỉ tắt có 2, còn 1 chiếc thì vẫn mở. Cô tiếp viên báo cáo với phi công trưởng, trích Vnexprees:

“Vị hành khách mang ba di động nhưng chỉ tắt có hai, còn một cái vẫn để ở chế độ mở..”

Nếu bạn đi vào RR rồi đi ra mà quên gài thì đó cũng là những cái cúc thuộc chế độ mở. Kể sơ sơ ngôn ngữ diễn tả chuyện giao thông. Bước qua thể thao, phóng viên VnExpress diễn tả động tác cầu thủ Beckham đá bóng:

“Beckham vào bóng bằng gầm giầy.”

Ai đã từng đá bóng thì làm ơn giải thích động tác "vào bóng" bằng "gầm giầy" là như thế nào? Khi các huấn luyện viên hướng dẫn, luyện tập và đưa ra những chỉ thị cần thiết cho cầu thủ thì VnExpress viết:

“HLV trưởng Argentina Marodona thị phạm cho các học trò trên sân tập.

“HLV Calisto của đội tuyển bóng đá VN liên tục phải nhắc nhở, sửa lỗi rồi thị phạm cho các học trò.”

Không lẽ "thị phạm" là đưa ra những chỉ thị về sai phạm?
Nhưng chưa ly kỳ bằng đoạn viết về ông HLV đội tuyển Pháp:

“Đội tuyển Pháp đã hòa 2 trận, HLV Domenech bèn thay đổi chiến thuật, nhưng quỹ thời gian chỉ còn 1 tuần nên ông Domenech đem lại quá nhiều bất cập.”

Ông HLV Domenech không còn "quỹ thời gian" để thay đổi chiến thuật, còn hoa hậu Je-nê-phơ Phạm (vợ bỏ của ĐVH) không được đi hét theo chồng thì tâm sự với PV báo Tuổi Trẻ:

“Trong quá trình làm việc sắp tới, tôi sẽ đầu tư quỹ thời gian vào công việc người dẫn chương trình.”

Chỉ có quỷ sứ mới hiểu "quỹ thời gian" là cái gì! Thay vì nói MC hay điều khiển chương trình thì lại "dẫn ct", làm như xích cổ nó kéo đi.

Không nói chuyện Beckham vào bóng bằng gầm giầy nữa, không tìm hiểu quỹ thời gian nữa mà đi nghe họ kể chuyện “màu đỏ chủ đạo” của cái xì-líp mà cô Venus mặc khi chơi banh .. lưới (banh lưới: tennis, banh lỗ: golf):

“Venus lại mặc đồ phản cảm. Ở giải Italy mở rộng, Venus lại diện trang phục phản cảm như ở giải Pháp mở rộng, nhưng lần này cô chọn màu đỏ làm chủ đạo.”

Ối bác ơi, cháu mặc xi-líp đỏ mà bảo là lấy màu đỏ làm chủ đạo thì nghe ghê quá, có khi lộn với lá cờ lấy màu đỏ làm chủ đạo đấy, cháu chả hiểu ý bác nói màu đỏ "chủ đạo" là cái gì sất.
“Ở US Open, Kim Clijsters loại ứng viên nặng ký Venus Williams, sau đó cô tiếp tục mạch trở lại hoành tráng ở giải đấu mà cô từng vô địch.”

"Mạch trở lại hoành tráng" nghe chưa kinh bằng ông phó giáo sư Hà Đình Đức nói về viêc nạo vét Hồ Gươm:

“Sau khi vét thí điểm kết quả sẽ được quan trắc đánh giá để có phương án xử lý tiếp theo. Khu vực xử lý thí điểm chưa tới 1% diện tích hồ, lượng nước hao hụt không đáng kể nên không cần bổ cập.”

Đường hầm cầu Thủ Thiêm bị cháy thì bản tin ghi lại như sau:
“Đường dẫn hầm cầu Thủ Thiêm phát hỏa, chiến sĩ PCCC đến hiện trường và đám cháy được khống chế. Tuy nhiên mật độ khói trong đường dẫn vẫn còn nên lực lượng tiếp tục triển khai tiếp cận điểm phát hỏa.”

Anh buồn ngủ rồi hả? Thôi để em ru cho anh nghe chuyện giá cả:
“Giá sữa bột ở VN tăng giá lung tung, bộ y tế thông báo là giá không được vượt trần quy định. Khung giá sẽ được xây dựng căn cứ trên giá bán không bao gồm chi phí bao bì. Sau khi cân đối, các doanh nghiệp được quyền công bố giá bán nhưng không được vượt trần quy định mà phải tiếp cận giá bình dân (!). Nếu vi phạm thì khung hình phạt là 5 đến 10 tháng tù.”

Xuân đang đọc những "mảng văn cực kỳ hoành tráng" cho chồng nghe thì Sách hét lên.. "thôiii ốiii", Xuân vội vàng nắm đầu chồng lắc lắc:

- Này này, anh mơ thấy gì mà hét lớn thế làm em giật cả cái .. mình, ác mộng hả? Cái gì thối? Em có đánh đấm gì đâu. Hay là anh mơ thấy con đ. ngựa nào nó bóp... cổ anh.

- Không có ác mộng hay đ.ngựa nào cả, chính em đấy, em làm anh phát điên lên đây này, nếu còn lải nhải những thứ ngôn ngữ khỉ gió đó nữa thì anh, thì anh...

- Thì anh, thì anh làm sao? Anh làm gì tôi? Vì anh tôi đã phải hy sinh "tiếp cận" với ngôn ngữ lộn mửa này. Anh nằm gối đầu lên tay tôi, tôi gác chân lên đầu...gối anh, tôi đọc cho anh nghe những "mảng văn chương cực kỳ" của XHCN đang trong thời kỳ quá độ tiến lên loài người mà anh lại hét thối lên là thế nào?

- Xin lỗi em, tại vì anh "bức xúc” quá.

- Ông nói "bức" cái gì, "xúc" cái gì? Muốn .. thì đi chỗ khác, nằm bên tôi mà ông "bức xúc" thì đúng là đần ông, ông đần. Tại sao ông lại đi mượn của VC cái thứ vô nghĩa ấy về làm cho bẩn cái lỗ ..tai tôi! Có nhiều tiếng thanh tao như khó chịu, bực bội, bực dọc, phẫn uất, tức tối, lo lắng, băn khoăn, giận hờn, đau khổ, điên tiết, lộn tam bành v.v.. tùy từng trường hợp mà dùng. Cái thứ gì mà đụng đâu cũng "bức xúc"! Mở miệng ra là "xúc" nghe tục làm sao!

- Ối giời!. Người ta nói đầy đường kia kìa, báo dùng, "đài" dùng, ông lớn dùng bà bé dùng thì có sao đâu? Thấy cái gì có hôi hám VC một tí là em chống, em đúng là người chống cộng "sảng".

- À thì ra ông nói tôi mê sảng chống cộng hả? Tôi nói cho ông biết, chuyện trong nước xảy ra làm sao, dẫu có thế nào tôi cũng chẳng nói làm chi. Cái vấn đề là sự trong sáng của tiếng Việt ở hải ngoại đang mờ dần vì pha trộn với ngôn ngữ bản xứ, nay có nguy cơ bị bệnh nặng do virus du-sinh và ca-nô mang sang, hễ chúng làm rơi ra câu nào là có kẻ chộp lấy mà dùng! Nhất là bọn con buôn, nó quăng cho cái quảng cáo đầy chữ VC kèm theo vài đô-la là các "la-dô" tranh nhau vồ rồi các xướng ngôn cứ ra rả trên các làn sóng "hoành tráng, khuyến mãi, ấn tượng v.v."! Báo chí thì bê nguyên văn các bản tin trên báo điện tử trong nước, trước đây thì đi hai bước cắt-dán, nay thì đi babước "highline, copie, paste là có bản tin như của chính minh, ngôn ngữ VC còn y nguyên, phóng viên viết tin thì dùng quá nhiều tiếng trong nước, có vẻ như họ xuất từ đó mà ra! Thu-em-hỏi!

- Này bà! Bà ăn nói nên giữ mồm giữ miệng kẻo bị đi kiện vì làm thiệt hại đến thương vụ của họ đấy.

- Con kiến mà kiện củ khoai ấy à? Mà tôi không có củ thì con kiến kiện để ăn cái gì? Thôi, chuyện cộng đồng để cộng đồng lo, tôi quay về chuyện giữa ông và tôi đây này. Tôi có làm điều gì khiến ông không vừa ý thì báo cho tôi biết rằng ông chán ngấy, khó chịu, bực mình v.v.. thiếu gì chữ để nói mà sao ông cứ chỉ có một câu thô tục "bức xúc"? Đã vậy, ông cũng như một số bạn của ông, sau khi bị "gẫy súng" lại bày đặt viết văn. Tôi trân trọng việc làm này nếu như các ông không vay mượn những thứ ngôn ngữ quái đản khiến ông không phải viết văn mà là "giết" văn chương.

- Bà đừng có nói thêm, nói điêu rồi chẻ sợi tóc ra làm tư làm tám, hai đầu bịt bạc giữa khảm xà cừ vu oan cho tôi.

- Oan hả? Nói có sách mách có chứng, cuốn sách hồi ký chiến trường ông đang "giết" tiếng Việt đây này, ngay trang đầu ông đã dao to búa lớn:

- "Tôi đi hành quân xuyên suốt khắp bốn vùng chiến thuật.." Ngô nghê chưa? Hai chữ "xuyên suốt" không bao giờ dùng ở miền Nam VN, vả lại nó quá thừa, quăng nó vào sọt rác thì văn của ông nhẹ nhàng đầy đủ ý nghĩa rồi. Còn ở dòng 4 trang 3, tôi lại tưởng là hồi-kí của bộ đội miền Bắc:

- "Tôi cho đại đội khẩn trương rút, nhưng để lại một tiểu đội ở tại hiện trường đề tìm phương án tiếp cận địch quân"!

Sách báo miền Nam có chữ đường "tiếp cận" trong hình học, còn ngoài chiến trường là "tiến sát, bám sát, lại gần" địch quân. Nay ông thấy người ta nói "tiếp cận giá bình dân" ông cũng bê vào văn của ông! Miền Nam ta chỉ dùng "khẩn trương" trong trường hợp báo động, giới nghiêm, thiết quân luật, nay thì cái gì cũng "khẩn trương", yêu khẩn trương, đái khẩn trương, ị khẩn trương. Cái đêm bị ngồi xe bít bùng từ trường Taberd đến Long Giao, dọc đường xe ngừng, bộ đội hét:

- Các anh đái khẩn trương lên".

Tôi thấy các ông ngơ ngác chả hiểu gì cả, nay thì xoen xoét nói "khẩn trương" như môi có bôi mỡ. Ông chồng yêu.. quái đản của tôi, các ông là lính, là người không đôi trời chung với VC, chúng đã giết 10 năm, 15 năm tuổi trẻ của các ông trong ngục tù khiến chị em tôi chết theo tuổi xuân! Nay chạy ra hải ngoại mà vội quên quá khứ, "giết" văn bằng ngôn ngữ VC. Tôi đã nhắc ông nhiều lần thì ông viện cớ là ở tù lâu nên quen miệng! Ngụy biện! Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời, ông thưòng mỉa mai nhắc chuyện cai tù dẫn các ông đi coi cine và ra lệnh:

- "Trong quá trình xem phim, các anh phải giữ cự ly gián cách."
"Quá trình" là diễn tiến một sự việc xẩy ra trong quá khứ, nếu họ dùng vào việc đang hay chưa xẩy ra thì là "nó dốt nó say sô" vậy mà các ông cũng bày đặt dốt theo sao? Tôi nhớ mãi cái buổi họp về đại hội sắp tới, ông nói thế này:

- "Trong quá trình diễn ra đại hội, chúng ta sẽ phải .."

Tôi nhớ là vì hôm đó sau khi ông phát biểu "quá trình", tôi vẫy con tô-tô và kiki lại nghe "bố" nó nói. Tưởng "đảng đã cho ông sáng mắt", ai ngờ sau đại hội, ông gửi một cái email cho các hội viên như sau:

- "Tôi đánh giá cao về sự năng nổ của các bạn đã giúp đại hội được thành công nhất định. Ý đồ của tôi là đưa các phu nhân đi tham quan Little SG, nhưng vì thời gian bị khống chế nên không thực hiện được. Xin cám ơn các bạn, những người đồng hương thân thương của tôi".

- Tôi định đập vỡ mặt cái láp-thóp đã ăn nói ba-láp, vơ vét rác rến XHCN vào cái thư gửi cho đồng đội, đồng môn! Ông ăn cắp tất cả chữ nghĩa của một "thủ trưởng". Cái gì là "đánh giá cao"? Một kiểu nói trịch thượng. Người Nam mình không bao giờ "năng nổ" mà chỉ có hăng say, nhiệt tình. "Ý đồ" là mưu toan thực hiện một hành động bỉ ổi, tại sao ông không dùng "ý định"? Còn "Tham quan" là tiếng hán, tiếng Việt là thăm viếng. tiếng ta có sẵn "thân mến, thân yêu, thân thiết" không dùng lại đi vơ con tiều "thân thương" vào! Chán! Hình như ông và bạn bè ông cùng ăn phải đũa của nhau, không còn biết phân biệt ngôn ngữ nào là Việt, ngôn ngữ nào là Ziệc + ! Họ thích háng-dăng như tham quan (thăm viếng) nghệ nhân (nghệ sĩ), xuất nhập khẩu (xuất nhập cảng) v.v..vì lệ thuộc Tầu, sợ Tầu đến nỗi tầu-Tầu đâm chìm tầu-ta ngay trên biển của ta thì bảo là "tầu lạ"!

- Tóm lại, người trong nước họ chế tạo ngôn ngữ thế nào thì kệ họ, đừng vay mượn chôm chĩa, đừng thấy họ vẫy đuôi ông cũng vẫy theo, họ bức xúc ông xúc theo. Tôi đã khuyên bảo ông nhiều lần rồi, nhưng cứ như nước đổ lá môn, tôi chịu hết nổi rồi, thôi đường ông ông đi, đường tôi tôi đi.

Nói xong bà Xuân xách mông ra đi, bỏ lại Sách một mình bên đống rác gara-seo. Buồn thối ruột (dĩ nhiên) Sách than thân:

- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, ai ngờ chỉ vì vài danh từ VC mà gia cang tôi tan nát! Còn những cái khác nữa của VC thì chắc khiếp đảm lắm đây!

Thưa đọc giả. Đây là chuyện xẩy ra trong gia đình lão Bát-Sách, cộng đồng của Sách. Nếu ai thấy quen quen thì chẳng qua là có tật giật mình thôi. Xin mỗi người cố gắng một chút để giữ gìn tiếng Việt được trong sáng, nếu có bắt chước thì tìm cái hay, đừng thấy "sang dốt nát" mà bắt quàng làm họ. Nhất là hiện nay các báo in, báo nói, báo hình... xin nhớ dùm vai trò quan trọng của truyền thông là giữ gìn tiếng Viết cho trong sáng.

Riêng tập thể các cựu QN, các cựu SVSQ, tập san quân đội, tiếng nói của tổng hội, của quân trường, của binh chủng nhất định phải nhặt những hạt sạn, giẻ rách ra khỏi diễn văn, thông cáo, báo chí của mình. Những tác giả gửi bài viết cho tập san BĐQ, đặc san TQLC, Đa Hiệu, KBC/HN, Chiến Sĩ Cộng Hòa v.v..phải gạn lọc, nhặt những cái đinh "ấn tượng. tiếp cận, thân thương, tham quan, năng nổ" v.v.. trước khi gửi bài. Nếu muốn dùng để riễu thì nên bắt chúng nhốt vào cái còng 2 ngoặc kép (".. ") kẻo làm đinh tai nhức mắt độc giả./.




Philato



---
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Người đàn ông hạnh phúc nhất thế giói


Đây có thể được gọi là một gia đình "vĩ đại" nhất thế giới trong đó có một ông bố chung sống với 39 bà vợ hợp pháp, 94 người con và 33 đứa cháu dưới một mái nhà.

Tòa nhà của ông bố Handily Ziona có tới 100 phòng ngủ, cao 4 tầng trông bề ngoài chẳng khác gì một ký túc xá dành cho sinh viên mới có thể đủ chỗ sinh hoạt và ngủ cho mọi thành viên trong gia đình ông. Vậy mà ngôi nhà vẫn trở nên chật chội.

Ông Handily, 67 tuổi, cảm thấy rất hạnh phúc khi cả 3 thế hệ trong gia đình ông cùng chung sống dưới một mái nhà. Ông bộc bạch:

"Hiện tôi thấy mình giống như một đứa con đặc biệt của Chúa. Người cho tôi rất nhiều người thân để chăm sóc. Tôi tự nhận thấy mình là một người đàn ông may mắn khi được làm chồng của 39 người phụ nữ và là chủ một đại gia đình".

Gia đình ông Handily hiện đang sinh sống tại làng Baktawng, bang Mizoram, Ấn Độ, nơi những người đàn ông được phép đa thê. Gia đình ông có thu nhập chính từ nghề mộc và "không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào từ chính phủ".

Trong khuôn viên nhà ông có hẳn một trường học dành cho con cháu ông, một sân chơi riêng, một xưởng mộc, một trại nuôi lợn và gia cầm và một ruộng lúa với khu vườn lớn đủ để cung cấp thực phẩm nuôi sống các thành viên trong gia đình.

Những người phụ nữ trong nhà có trách nhiệm chăm sóc con cái, chăn nuôi và nấu nướng, dọn dẹp trong khi những người đàn ông làm ở xưởng mộc kiếm tiền.

Mỗi bữa cơm, đại gia đình nhà Ziona lại quây quần như cảnh trong nhà ăn tập thể của quân đội. Một bữa, gia đình Ziona cần một lượng thực phẩm khá lớn: khoảng 30 con gà, 59,5 kg khoai tây và 99 kg gạo. Để chuẩn bị 3 bữa trong ngày cho 181 thành viên trong gia đình, bếp nhà họ không bao giờ tắt.

Handily Ziona lấy vợ từ năm 17 tuổi. Ông hiện là trưởng phái Chana khoảng 4.000 thành viên do cha ông lập ra khi chuyển tới ngôi làng này sinh sống. Những thành viên của nó tin rằng sẽ có một ngày họ sẽ thống trị thế giới cùng với Chúa Ki-tô và được phép lấy bao nhiêu vợ tùy ý.

Lúc nhỏ, ông Handily từng nghĩ có ý định sẽ không bao giờ kết hôn bởi cha ông từng có 7 người vợ và việc chăm sóc gia đình hết sức khó khăn. Nhưng tới tuổi trưởng thành, các cô gái trong làng luôn vây quanh ông khiến ông không thể giữ được ý định đó. Bây giờ, ông có tới 39 bà vợ, trong đó người vợ mới nhất ông cưới vào năm ngoái.

Ông làm cho mình chiếc giường ngủ to gấp đôi bình thường và thường thích được giữ người vợ trẻ vừa mới cưới bên cạnh mình trong phòng ngủ nhiều hơn so với những bà vợ khác.

Những người vợ còn lại sẽ cùng nhau chia sẻ một phòng ngủ chung, lớn. Và mỗi ngày đều có 7-8 người vợ sẵn sàng chờ đợi được ông gọi vào ngủ chung.

Rinkimi, 35 tuổi, người kết hôn với ông Ziona được 11 năm, nói: "Chúng tôi thường phải ở xung quanh ông ấy như ông ấy là người quan trọng nhất trong nhà và phục vụ ông ấy cũng giống như phục vụ Chúa. Ông ấy là người đẹp trai nhất trong làng này... Tôi cảm thấy may mắn khi lấy ông ấy làm chồng của mình".

Người vợ tên là Ngaihzuali, 37 tuổi, cho biết thêm: "Ông thường gọi tôi bôi dầu lên tóc cho ông ấy giống như ông ấy chỉ thích tôi làm việc đó cho ông. Điều đó khiến tôi cảm thấy mình là người đặc biệt".

Một bà vợ 16 tuổi thì kể rằng cô yêu ông Handily ngay từ cái nhìn đầu tiên. "Một sáng ông ấy đi dạo và gặp tôi lần đầu tiên. Ông ấy phải lòng tôi và viết cho tôi một bức thư nói rằng muốn lấy tôi làm vợ. Sau đó, ông ấy tới nhà tôi để xin phép cha mẹ tôi".

Con trai cả của ông là Parliana, 50 tuổi, cũng phụ giúp cha quản lý gia đình. Mọi người trong gia đình đều rất tôn trọng anh. Anh cho rằng cha mình lấy nhiều vợ là để chăm sóc họ bởi hầu hết các bà vợ của ông là những phụ nữ con nhà nghèo hoặc trẻ mồ côi trong làng. Bằng cách kết hôn với họ, ông tạo thêm được lòng tin ở các thành viên trong phái Chana mà ông là người đứng đầu.


Image
Ông Handily và 180 thành viên trong đại gia đình của ông


Image
Ngôi nhà 4 tầng với 100 phòng ngủ mà 3 thế hệ trong gia đình ông hiện đang sinh sống ở Ấn Độ


Image
Những người phụ nữ trong nhà và thực phẩm chuẩn bị cho một bữa cơm


Image
Handily và 39 bà vợ, người mới nhất ông vừa cưới năm ngoái


Image
Một phòng ngủ chung
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Thế Nào Là Tù Cải Tạo?
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền



Image
Người tù trại cải tạo

Để người Việt chúng ta, những ai may mắn không « được » vào các nhà tù của cộng sản Việt Nam, hiểu thêm thế nào là tù « cải tạo » ? Và cũng để biết rõ hơn về chính sách của bạo quyền Hà Nội đối với các vị tù là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có các vị chỉ là cựu Sĩ quan, cựu viên chức của thời Đệ Nhất VNCH dù đã được giải ngũ từ lâu, nhưng sau ngày 30-4-1975, các vị đã bị đưa vào các nhà tù ; chắng những vậy, mà Việt cộng còn lấy những lời tố cáo của những tên thầy chùa đã vu chụp cho một số vị này là « Cần Lao ác ôn » qua những cái gọi là « Tòa án nhân dân » do bọn thầy chùa Ấn Quang đã lập ra, và cũng do chính những tên thầy chùa này đã đọc lên những « bản cáo trạng », chỉ vì các vị đã từng phục vụ dưới thời Đệ Nhất VNCH do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, trong đó có Thiếu tá Nguyễn Xuân Giáo, cựu Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia tỉnh Quảng Nam, ông đã bị hành hạ cho đến nỗi không còn là một con người nữ, và ông chết trong nhà biệt giam tối tăm, lạnh lẽo mà tôi đã viết qua trong bài 30-4-1975 : Máu và Nước Mắt.

Thế nhưng, sau khi vượt thoát khỏi bàn tay của bạo quyền Hà Nội, thì tôi lại đọc được những bản tin và hình ảnh « ở tù » của Nguyễn Đan Quế, không biết đã do một bàn tay nào đó đã chụp, rồi đem phổ biến tại hải ngoại. Và đây là một Nguyễn Đan Quế :

Bác sĩ Nguyễn Đan Quế , còn có tên là Nguyễn Châu. Sinh ngày 13-4-1942 tại Hà Nội, « di cư » vào Nam năm 1954.Tốt nghiệp Bác sĩ năm 1966.

Từ năm 1968 đến 1974, Nguyễn Đan Quế được đi tu nghiệp tại Pháp, Bỉ và Anh. Trong thời gian này, Nguyễn Đan Quế đã nhân danh của tổ chức « Hướng Về Đất Việt » tại Pháp, một tổ chức ra sức ủng hộ « Mặt trận Giải phóng miền Nam » và quyết liệt chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Tháng 7-1974, Nguyễn Đan Quế về nước, dạy tại Đại học Y khoa Sài Gòn và hành nghề tại bệnh viện Chợ rẫy. Ngày 30-4-1975, Nguyễn Đan Quế là một trong những tên đã từng mang cờ của Phật giáo và cờ của « Mặt trận Giải phóng miền Nam » đi đón rước cộng quân vào thủ đô Sài Gòn. Nhưng rồi chẳng biết tại sao, sau đó, tại hải ngoại lại phổ biến những bản tin và hình ảnh của Nguyễn Đan Quế đã bị Việt cộng bắt và đã « bị tuyên án hai mươi năm tù khổ sai » và đã « ở tù mười năm ».

Ngày 11-5-1990, Nguyễn Đan Quế lập ra tổ chức « Cao Trào Nhân Bản », và thảo ra «Lời kêu gọi » rồi phổ biến ra hải ngoại. Người đầu tiên nhận được « Lời Kêu Gọi » này là Vương Văn Đông đang định cư tại Pháp, Vương Văn Đông là cựu Trung tá, thuộc nhóm chủ mưu cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960, Vương Văn Đông cũng là một người thân cận của « ông » Luật sư Hoàng Cơ Thụy là anh ruột của Hoàng Cơ Minh người cầm đầu cuộc đảo chánh ; song Hoàng Cơ Thụy đã được ngoại nhân trao cho một chiếc thùng phuy, và bảo ông Thụy chui vào trong thùng để họ đưa ông ta ra khỏi nước, và Hoàng Cơ Thụy đã đến Pháp. Sau đó, đã do một người thân tín nhất của Nguyễn Đan Quế viết thành một tập « Tài Liệu Tuyệt mật » trong đó, là một « tài liệu gián điệp »gồm hai bản viết tay hai lần, sau đó được đánh máy, tập tài liệu này chỉ có một số rất ít trong « bộ não » của tổ chức này mới được đọc và nghiên cứu, ngoài ra không ai được biết cả. Và tổ chức « Hướng Về Đất Việt » đã phải cải danh thành « Phật Tử Hướng Việt » để đánh lừa thiên hạ, và do một người được sự tín cẩn của Nguyễn Đan Quế cầm đầu, lúc mới ra đời đã hoạt động công khai một thời gian ngắn, nhưng sau đó đã rút vào bóng tối để hoạt động bí mật, và đã đứng đằng sau của nhiều tổ chức tại hải ngoại, và cũng do người này điều khiển cho đến tận hôm nay.

Và nội dung của « Tài Liệu Tuyệt Mật » đó có cả một « chương tình từ Gieo hạt –Đơm hoa- Kết trái » của tổ chức « Cao Trào Nhân Bản ». Mặc dù đã biết, nhưng tôi đã im lặng cho đến hơn mười năm sau, khi thấy băng đảng Hoàng Cơ Minh tức Việt Tân đã đánh trống thổi kèn, để đánh bóng tên tuổi của Nguyễn Đan Quế qua cái gọi là « Đại Hội Liên Kết Trong Ngoài », vì nhận thấy những mưu đồ đen tối của « Cao Trào Nhân Bản » nên tôi đã đề cập đến qua loạt bài : Vạch mặt bọn cộng sản gian manh đanh núp bóng người Quốc gia-Tỵ nạn, đã được đăng trên Hồn Việt.

Mặc dù vậy, tôi cũng chỉ có thể nói đến đó mà thôi, song tôi xin kèm theo bài viết này là một tấm hình của Nguyễn Đan Quế đã được phổ biến rộng rãi, và được chú thích là đã chụp lúc Nguyễn Đan Quế đang nhận quà thăm nuôi. Trong hình gồm có bốn người, có một người quay lưng, tấm hình cũng cho thấy Nguyễn Đan Quế đang ngồi bên cạnh vợ là ca sĩ Tâm Vấn, trước mặt là một chiếc bàn đang bày đầy những món quà thăm nuôi, và cả hai đang tươi cười vui vẻ để chụp hình. Và tôi đã nhìn thật kỹ tấm hình này, vì thế, tôi đã nhận ra : đây không bao giờ là một cảnh thực của một cuộc gặp mặt giữa gia đình và người tù « cải tạo » ; nghĩa là Nguyễn Đan Quế không phải là người tù, cho dù Quế có trong tay đến cả hàng trăm cái « Giấy ra trại » thì cũng đều là giả tạo. Vậy, tôi phải phân tích cho thật rõ ràng như sau :

Thứ nhất, chính tôi đã từng ở trong nhà tù « cải tạo » tám năm, trong thời gian ấy, tôi cũng đã nhiều lần đi đến « nhà thăm nuôi » để gặp gia đình, tôi xin kể lại để cho quý độc giả, những ai chưa hề biết về nhà tù « cải tạo » sẽ được tường tận hơn :

Tôi vẫn nhớ như in, với những lần được thăm nuôi, được gặp gia đình, ngoài tôi còn rất nhiều các vị tù cũng đều gặp mặt gia đình trong nước mắt . Và đây, là « diễn biến » của mỗi lần được thăm nuôi :

Hàng ngày tất cả tù « cải tạo » đều phải đi lao động, kể cả khi gia đình đã lên trại, đã chờ ở nhà thăm nuôi rồi, mà người tù vẫn không hề biết, nhất là vào dịp Tết thì vì người đi thăm nuôi quá đông, nên người tù phải chờ đợi đến phiên mình sẽ lâu hơn, có khi thịt, cá kho đã bị lên men thì mới đến tay người tù. Và người tù chỉ biết mình sẽ gặp người thân, khi được « cán bộ phụ trách thăm nuôi » thông báo qua « cán bộ trực trại », rồi « cán bộ tực trại » lại thông báo qua một « trật tự » của trại, là một người tù được công an trại tin tưởng nhất. Lúc đó, người tù sẽ được nghỉ lao động một ngày để đi thăm nuôi. Nhưng mỗi lần thăm nuôi không như trong tấm hình của Nguyễn Đan Quế đã được phổ biến, mà tất cả tù nhân mỗi lần đi đến nhà thăm nuôi đều có một « cán bộ phụ trách thăm nuôi dẫn giải » đi kèm và một « trật tự » cùng với một số người trong mỗi lượt để đi đến nhà thăm nuôi.

Một mô hình của « nhà thăm nuôi » :

Đó là một căn nhà xây gồm có hai phòng, một phòng lớn dành cho thân nhân của các vị tù « cải tạo » nghỉ tạm, có khi hai ba đêm để chờ đến phiên gặp người tù, tôi không biết trong phòng ra sao, vì chỉ nhìn bên ngoài, mà sau khi ra tù cũng không hỏi gia đình ; còn phòng thứ hai là một phòng nhỏ khoảng 6x4m, tường gạch xây kín, không có cửa sổ, chỉ có một cửa lớn ra vào, ở giữa đặt một chiếc bàn dài khoảng 3 mét, phía dưới gầm bàn là một tấm gỗ dày bít kín, mục đích là để tù nhân không thể thông tin với thân nhân qua những « tín hiệu » bằng đôi bàn chân, và hai bên chiếc bàn cũng được đặt hai chiếc ghế dài, để thân nhân ngồi một bên, còn tù nhân phải ngồi một bên. Ngoài ra, ở đầu bàn phía trong phòng được đặt một chiếc ghế vuông, chiếc ghế này dành cho « cán bộ phụ trách thăm nuôi » tức một tên công an chuyên dắt tù đi thăm nuôi. Tất cả tù nhân đều phải ngồi trước mặt tên công an này, và « nội quy » bắt buộc các tù nhân đều phải ngồi cách nhau cái mặt bàn, khi nói chuyện thì tất cả đều phải nói thật lớn, để cho tên công an nghe cho rõ ràng ; vì thế, chẳng ai nói được lời gì ngoài mấy câu thăm hỏi sức khỏe, trong khi thân nhân của người tù ai cũng biết sức khỏe của người tù chẳng khác gì những bộ xương biết đi. Do đó, mỗi lần gặp nhau tối đa chỉ trong vòng 15 phút, nên thường là những cuộc gặp ngắn ngủi trong nước mắt, nhưng không được khóc lớn vì sẽ bị cúp thăm nuôi. Chưa kể đến những lần người tù bị « cán bộ giáo dục » bắt đọc « 35 Điều Nội quy » trước khi ra nhà thăm nuôi, và đã có người vì không thuộc « nội quy » nên đã bị cúp thăm nuôi ; Chính vì vậy, mà tôi đã thuộc « nội quy » bởi tôi sợ bị cúp thăm nuôi, không được gặp gia đình, thì thân nhân của mình sẽ đau buồn biết mấy, khi đã vượt suối, băng rừng mới đến trại tù để gặp được tôi, tôi cũng phải nhắc lại, là mỗi lần thăm nuôi, người tù chỉ được nhận tối đa gồm tất cả là 10 ký mà thôi, và sau khi nhận quà thì « trật tự » trại sẽ dùng dao cắt hết bánh chưng, bánh tét, bánh mì v…v…còn những hũ thịt, cá kho thì « trật tự » lại phải đổ ra một cái thau nhựa, rồi dùng đũa mà đào xới để xem có thư từ ở trong đó hay không.

Thứ hai, khi nhìn ca sĩ Tâm Vấn ngồi bên chồng là Nguyễn Đan Quế, cả hai đều tươi cười như hoa, về « bà » Tâm Vấn cũng không giống một người vợ của tù « cải tạo ». Tôi vẫn nhớ rất rõ các chị là vợ của các vị tù bên trại nam, mỗi lần thăm nuôi đều phải gian nan, băng rừng, lội suối, trèo đèo, lặn lội lên đến trại tù, khi gặp mặt chồng, thì mặt mày đã xác xơ, buồn thảm, chứ chẳng có ai được như ca sĩ Tâm Vấn đã tươi cười như hoa, lại được ngồi sát bên chồng là Nguyễn Đan Quế cả.

Thứ ba, ai là người đã chụp tấm hình với cảnh « thăm nuôi » của Nguyễn Đan Quế và vợ là ca sĩ Tâm Vấn trong lúc Quế đang ở tù, rồi ai là người đem rữa tấm hình này và đã gửi ra hải ngoại ???

Vậy , nhân đây tôi xin các vị cựu tù nhân « cải tạo » có vị nào đã được chụp hình chung với vợ bằng cách nào, thì xin quý vị cho mọi người được nhìn thấy, đồng thời phải có lời giải thích một cách xác đáng và thuyết phục mọi người, chứ không được ngụy biện.

Một lần nữa tôi kính xin quý vị Quân-Cán-Chính VNCH, đã từng ở trong các nhà tù « cải tạo » hãy nhìn xem vợ chồng của « người tù » Nguyễn Đan Quế mà tôi đã đính kèm theo đây, mà thiết nghĩ : ngày xưa nếu các vị được ở tù như thế này, thì đâu có ai phải tự tử, hoặc trốn trại, để rồi phải chịu những cảnh bị đánh đập, bị vào nhà biệt giam và bị cùm hai chân cho đến phải bị què hay đến chết. Tôi vẫn nhớ mãi về những hình ảnh của các vị tù, ở trong nhà tù « cải tạo », các vị đã bị hành hạ, đọa đày đến tận cùng của nỗi đau thương. Tôi vẫn nhớ những ngày cùng với các vị dầm mình dưới sình lầy tới ngực, tới bụng để cấy, gặt, trong những ngày dưới nắng lữa của mùa hè như thiêu như đốt, hoặc những ngày đông buốt giá đến thấu xương, các vị đã thay trâu bò để cày, bừa cho nữ cấy, gặt với « chỉ tiêu » nam cũng như nữ, đều phải « đạt » là 3 người 500 m2 mỗi ngày, tôi vẫn nhớ đến những con đĩa với những cái sọc đỏ, xanh, vàng cứ bám lấy thân người tù, chúng đã đục xuyên qua áo quần người tù để hút máu. Tôi vẫn nhớ những mùa trồng sắn đã leo lên đồi để vừa cuốc đất vừa trồng phải « đạt chỉ tiêu » 500 hom (tức gốc sắn) mỗi ngày. Tôi vẫn nhớ mỗi ngày lên rừng để « cắt bổi » là cắt những cành lá nhỏ để cho vào chuồng trâu, chuồng bò để làm phân bón ruộng với « chỉ tiêu » tùy theo đồng ruộng từ 150 đến 300 ký một ngày, phải vừa cắt vừa bó lại và gánh về để cho « kỷ thuật » cân cho đủ rồi mới cho vào chuồng. Nói tóm lại là bất kể một công việc nào cũng đều phải « đạt chỉ tiêu » cả.

Nhưng không phải « đạt chỉ tiêu » rồi thì người tù được nghỉ, mà mỗi chiều về, có khi chưa kịp ăn chén sắn độn cơm, thì đã phải đi « lao động tranh thủ » có khi làm cỏ lúa ở gần trại, có đêm thì hái đậu phụng (lạc) ở sân kho, cũng phải ba người đầy một thúng rồi mới được về phòng, để đặt lưng xuống sạp gỗ chưa được bao lâu, thì 6 giờ sáng đã bị « trật tự » trại đi đến từng phòng la hét, đánh thức mọi người, để bắt đầu một ngày khổ sai kế tiếp.

Tôi vẫn nhớ cảnh Trung tá Không Quân Nguyễn Văn Đức đã bị « cán bộ dẫn giải » đánh, đá anh đến suýt chết trước mặt Giáo sư Đồng Sĩ Ninh và Mục sư Dương Đình Nguyện (hiện các vị đang có mặt tại Hoa Kỳ) tại Đồng Cừ, chỉ vì cái « tội » rửa rau muống không sạch cho « cán bộ » ăn. Tôi vẫn nhớ những lời của Giáo sư Đồng Sĩ Ninh đã nói nhỏ với tôi :

« Tuyền ơi ! em đừng khóc nữa, em hãy tránh mặt đi, chứ không, coi chừng lại bị đánh lây, cùng anh Đức vì « người ta » không cho phép tù được thương tù nghe em, anh Đức chắc đã hiểu và không bao giờ quên được em đâu ».

Tôi cũng đã chứng kiến Thiếu úy Nguyễn Văn Nồng, anh làm ở tổ thuốc lá, phía sau trại nữ ; trong một lần anh đã để cho tên công an Nguyễn Văn Xướng chồng của nữ « cán bộ » Nguyễn thị Thanh Hương lấy đi một miếng bánh dầu, tức xác đậu phụng được ép lại thành từng miếng hình tròn có đường kính khoảng 30 cm, dùng để bón cho những cây thuốc lá . Khi Nguyễn Hậu « quản giáo » tổ thuốc lá và rau xanh thấy mất, tên Hậu đã hỏi, anh Nguyễn Văn Nồng trả lời : « cán bộ Xướng đã lấy rồi ».

Nhưng anh Nồng không ngờ được là tên Nguyễn Hậu liền rút một cây củi lớn bằng nắm tay,rồi lăm lăm bảo :

« Anh Nồng, anh phải nằm xuống sạp trong chòi cho tui đánh ».

Và chắc Thiếu úy Nguyễn Văn Nồng cũng không ngờ được, chỉ có một chuyện nhỏ đó mà anh bị đánh, vì công an lấy bánh dầu chứ anh có lấy để làm gì, vì thế anh trả lời :

« Thưa cán bộ, nếu cán bộ muốn đánh thì cứ đánh, chứ tôi không thể nằm xuống sạp được, vì chỉ có cha mẹ của tôi mới có thể bắt tôi phải nằm xuống để đánh mà thôi ».

Nhưng nhiều người, trong đó có tôi, không thể ngờ được là tên Nguyễn Hậu đã dùng khúc củi trên tay và đã đánh tới tấp vào người anh Nồng, cho đến khi anh Nồng ngã quỵ xuống đất, hắn mới chịu buông tay, lúc hắn bỏ khúc củi xuống, là lúc chúng tôi đỡ anh Nồng ngồi lên trên mặt đất ; song anh đã ngất xỉu và anh đã bị gãy một cánh tay, tôi nhớ là phía trái, nếu là tay phải thì anh Nồng hiện đang có mặt tại Mỹ hãy cho trang điện báo Hồn Việt biết để sửa lại cho đúng. Sau đó, bọn công an trại đã đưa anh xuống bệnh viện Tam Kỳ, khi trở lên trại chẳng những không được nghỉ, mà anh Nồng còn phải tiếp tục đi lao động với một tay, còn tay kia đã bị băng bột và treo lên cổ, trước sự đau xót của tất cả tù nhân trong trại .

Và đó, chỉ là một số trường hợp, trong vô số những trường hợp đau thương của các vị tù nhân « cải tạo ».Tôi cũng không hề thấy một vị tù nào mà thân thể không trơ trọi những bộ xương. Bởi tất cả các vị đều bị hành hạ từ thể xác đến tinh thần, vì chính họ là những người tù khổ sai thực sự. Vì thế, tuyệt đối không bao giờ có một người tù nào béo tốt, tươi cười rạng rỡ không hề có chút dấu vết gì để được gọi là « tù khổ sai » như Nguyễn Đan Quế khi ngồi bên vợ, mà băng đảng « Cao Trào Nhân Bản » đã tuyên truyền là « Nguyễn Đan Quế đã bị Việt cộng tuyên án hai mươi năm tù khổ sai và đã ở trong tù mười năm ». Tuy nhiên, dù láo khoét, lừa bịp nhưng « Cao trào Nhân Bản » cũng đã tóm thâu được một số người vào tổ chức, nhưng rồi chính Nguyễn Đan Quế trước đây, cũng đã công khai lên tiếng trên đài RFA để kêu gọi xóa bỏ hận thù và hòa hợp –hòa giải với Việt gian cộng sản. Song hình như nhiều người vẫn chưa sáng mắt, vẫn đui mù nên vẫn cứ đi theo tấm bảng chỉ đường của « Cao Trào Nhân Bản » và « Phật Tử Hướng Việt » đang nằm trong băng đảng Phật giáo Ấn Quang.

Nên biết, trong nhà tù của VC đều có rất nhiều vị Trí thức như: Linh Mục, Mục sư, Luật sư Chánh án, Giáo sư, Bác sĩ, Sĩ quan cao cấp và cán cán bộ của các chính đảng.

Vậy, băng đảng Cao Trào Nhân Bản đừng có ngụy biện rằng vì Nguyễn Đan Quế là Bác sĩ, là trí thức nên có « chế độ » khác. Tôi khẳng định là tất cả các tù nhân của trại tù của cộng sản Hà Nội đều phải lao động khổ sai, đều bị hành hạ như nhau. Chỉ có những tên tù trá hình, chúng là những tên cán bộ « đặc vụ » đã được Việt cộng bố trí cho vào các nhà tù « cải tạo » chỉ để trình diễn những trò ma giáo với các vị ở tù thật, để rồi sau đó, chúng trở thành những « nhà tranh đấu » mà thôi.

Tội ác của Nguyễn Đan Quế : Từ tổ chức « Hướng Về Đất Việt –Phật Tử Hướng Việt » và « Cao Trào Nhân Bản ».

Như tôi đã nói : Tội ác không phải chỉ riêng cho những tên đao phủ, mà kể cả những tên đã đứng đằng sau của những tên đao phủ, và Nguyễn Đan Quế cũng như Võ Văn Ái, Đoàn Viết Hoạt và nhiều tên nữa, là những tên đã từng đứng đằng sau của những tên đao phủ ấy. Bởi Nguyễn Đan Quế đã được trưởng thành dưới những mái học đường của cả hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Nguyễn Đan Quế đã được chính phủ VNCH ưu đãi cho đi tu nghiệp ở ngoại quốc, là để có đủ trình độ Y khoa hầu phục vụ cho mọi người, chứ không phải đi ra nước ngoài để cùng lũ « phản chiến », thành lập ra cái gọi là « Hướng Về Đất Việt » tại Pháp, và Nguyễn Đan Quế đã công khai ủng hộ cái « Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam » mà đa số những người có kiến thức, trong đó có Nguyễn Đan Quế đều biết là do cộng sản Hà Nội đã đẻ ra.

Image
Tấm hình này đã được chú thích : Nguyễn Đan Quế đang được vợ: ca sĩ Tâm Vấn thăm nuôi.

Nhưng chính Nguyễn Đan Quế trong suốt thời gian ở ngoại quốc đã đứng trong cái tổ chức « Hướng Về Đất Việt » là cái bình phong để cho Quế hoạt động cho cộng sản Hà Nội, ủng hộ « Mặt trận Giải phóng miền Nam » và đã quyết liệt chống Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Đan Quế cũng đã núp dưới những chiêu bài phản chiến – đòi Mỹ rút quân.

Nên nhớ, là Nguyễn Đan Quế đã đi « tu nghiệp » chỉ từ năm 1968 đến năm 1974. Như vậy, Nguyễn Đan Quế đã biết tất cả những cuộc thảm sát tại Việt Nam, kể từ những năm đầu của thập niên 1960, cho đến cuộc thảm sát Tết Mậu thân và cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường tại miền Trung, mùa hè 1966, đã do Phật giáo Án Quang gây ra, và những trận chiến của mùa hè 1972, Nguyễn Đan Quế đều biết về những quả pháo kích của Việt cộng đã nổ chụp vào các khu phố chợ, những nhà thương, trường học trên khắp miền Nam đã làm cho không biết bao nhiêu trẻ thơ và đồng bào vô tội đã chết hoặc đã trở thành người tàn phế. Nhưng, Nguyễn Đan Quế và đồng bọn đã thành lập ra cái tổ chức « Hướng Về Đất Việt » chỉ để ủng hộ cộng sản Hà Nội đồng thời để chống Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nên nhớ, Nguyễn Đan Quế chỉ đi « tu nghiệp » rồi trở về Việt Nam thôi, chứ Quế đâu có phải như những người Việt tỵ nạn VGCS sau 1975 tại hải ngoại, thì chẳng có căn cớ gì để phải « Hướng Về Đất Việt », mà tổ chức này được thành lập là để liên thủ cùng với lũ phản chiến của Thích Nhất Hạnh để tuyên truyền láo bịp rằng : « trên một con lộ tại một làng nhỏ tại Việt Nam, có một chiếc xe bò với người thiếu phụ cùng đứa con thơ và bà mẹ già đã bị mấy người lính Mỹ bắt đưa lên một chiếc trực thăng bay đi mất » hoặc « máy bay của quân đội VNCH đã oanh kích xuống tỉnh Bến Tre đã làm cho 300 000 nhà cửa và đồng bào chết thảm trong cơn khói lửa », để khiến cho các chính giới ngoại quốc họ đổ tội cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ; đặc biệt là những Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã gây ra chết chóc cho đồng bào chứ không phải là Việt cộng. Nguyễn Đan Quế cũng không hề lên tiếng về sự kiện quân Tầu cộng đã đánh chiếm hải đảo Hoàng Sa ngay chính trong thời gian năm 1974, là lúc Quế đang ở trong tổ chức « Hướng Về Đất Việt », mà Nguyễn Đan Quế chỉ lợi dụng trong trong thời gian « tu nghiệp » để đi khắp nơi, để vận động cho phong trào phản chiến, đòi Mỹ rút quân và quyết liệt chống đối chính quyền và quân đội của Việt Nam Cộng Hòa, để cho Miền Nam Tự Do sớm rơi vào tay của cộng sản Bắc Việt.

Chính vì vậy, nên Nguyễn Đan Quế và tổ chức « Hướng Về Đất Việt » cũng như chiến dịch « Hoa Sen Trong Biển Lửa » đều là những nhát dao chí mạng mà Nguyễn Đan Quế và tổ chức « Hướng Về Đất Việt » đã đâm xoáy vào sau lưng của những Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đang ngày đêm ghì chặt tay súng trên những vọng gác ở những nơi tiền đồn heo hút gió. Vậy, ta hãy liên tưởng đến hình ảnh của những người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang ngồi trên những vọng gác ấy. Song rồi ta cũng cần phải biết đã có không biết bao nhiêu những Người Chiến Sĩ đã bị cộng quân bắn tỉa, trong lúc các anh đang hướng tầm mắt để quan sát những di chuyển của địch quân, vì thế, các anh đã trúng đạn của địch, và thân xác của những người Chiến Sĩ đã nhuộm đầy máu đỏ, đã thấm đẫm chiếc chiến bào và các anh đã rơi từ trên chòi cao của những vọng gác xuống nền đất lạnh, trên những bụi gai sắc nhọn giữa rừng khuya, và thân xác của các anh lại bị thêm những vết thương khác, do những nhánh gai rừng đã đâm sâu vào châu thân, và máu của những người Chiến Sĩ đã chan hòa từ vết đạn của quân thù, và đã ứa ra từ những mũi gai rừng, trước khi gục chết tức tưởi giữa núi rừng hoang lạnh, chỉ vì các anh đã chắp tay súng để bảo vệ hậu phương, bảo vệ đồng bào, bảo vệ miền Nam Tự Do và bảo vệ cho những sinh viên như Nguyễn Đan Quế được an lành đến các trường Đại học, để trở thành những bác sĩ, nhưng không phải để phục vụ cho người dân mà để phục vụ cho đảng cộng sản Hà Nội, và để cho Nguyễn Đan Quế được bình yên rời khỏi nước để đến Pháp, đến Bỉ, đến Anh để thành lập ra tổ chức « Hướng Về Đất Việt » và Quế đã nhân danh cái tổ chức này để hô hào phong trào phản chiến, để ủng hộ « Mặt trận Giải phóng miền Nam » và quyết liệt chống chính phủ của miền Nam Tự Do và cả những Người Chiến Sĩ của Việt Nam Cộng Hòa. Ôi ! những viên đạn đó, là của quân thù, hay là của những tên đang « Hướng Về Đất Việt » của Nguyễn Đan Quế đã Hướng thẳng vào phía sau lưng của những Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa để giết chết các anh trong lúc các anh đang thi hành Nghĩa Vụ Bảo Quốc An Dân ???!!!

Nhưng giờ đây, sau những tháng năm dài gian manh, lừa gạt niềm tin của nhiều người, thì chính Nguyễn Đan Quế đã và đang hòa hợp-hòa giải với cộng sản Hà Nội. Vì thế, trong suốt thời gian qua, Nguyễn Đan Quế kẻ đứng đầu của một tổ chức nghe rất đầy tình người qua cái tên gọi : « Cao Trào Nhân Bản » song đã không hề lên tiếng qua những biến cố đã xảy ra tại quốc nội từ sự kiện Tòa Khâm Sứ, Thái Hà, Loan Lý v…v… và hiện nay là vụ việc Việt cộng đã đập phá trường Khiết Tâm thuộc Giáo xứ An Hải, Đà Nẵng. Đặc biệt là Nguyễn Đan Quế đã dửng dưng trước hàng vạn tên lính Tầu, trong đoàn quân của « Mã Viện », dưới lớp áo chuyên gia và công nhân đã và đang dẫm nát quê hương. Nguyễn Đan Quế đã im lặng trước những thảm cảnh đau thương của những đồng bào ruột thịt đã và đang bị những tên lính của bọn Tầu Phù hà hiếp, đánh đập. Ta phải biết tại sao Nguyễn Đan Quế không lấy tư cách là người đứng đầu của Cao Trào Nhân Bản để kêu gọi mọi người phải đánh đổ Bạo quyền Hà Nội, hầu để cứu lấy mảnh giang sơn, mà tiền nhân của chúng ta đã bao phen dày công dựng xây bằng cả núi xương và sông máu ?!

Và đó, là những nguyên nhân đã khiến tôi phải quyết tâm dứt bỏ tất cả , vì phải đặt việc chung lên trên hết. Tôi muốn nói : Nguyễn Đan Quế và cả băng đảng Cao Trào Nhân Bản chỉ biết đặt Quyền và Lợi riêng của phe nhóm mình, chứ không hề thiết tha với Tổ Quốc và Dân Tộc. Như thế, đã quá đủ để cho chúng ta hiểu được rằng hai chữ « Nhân Bản » mà Nguyễn Đan Quế đã đặt sau hai chữ «Cao Trào », là : Bản Chất Bất Nhân.

Chính vì thế, mà dù có mơ màng cho đến tận « kiếp sau » thì Nguyễn Đan Quế cũng không bao giờ có một ngày sẽ « Xưng Vương rồi từ Vương lên Đế ». Đừng Hòng.

Xin tái ngộ quý độc giả trong bài kế tiếp.


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Ngộ Đạo Đất Trời
Tràm Cà Mau


Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Bà vợ nghe dặn dò cách thức làm đám tang kỳ dị, thì nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:

- Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me Tây, như kẻ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy hiệu "Velo solex" ra đời, người đàn bà đầu tiên xử dụng, cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi du đãng, chẳng ai dám giao du thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi, và lái xe hơi đầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, thì chịu sao nổi lời tiếu đàm của bà con, họ hàng!

Ông Tư cười, nhìn vợ và nói :

- Cái gì cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, thì làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp, thì bây giờ đàn bà đi bộ cho rã cẳng ra. Ngày nay, còn có ai xì xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?

- Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em. Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian ?

Ông Tư trả lời với giọng rất bình tĩnh:

- Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh được sao? Ai có nói gì, thì em cứ bảo đó là ý nguyện của anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ý nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ anh về quấy phá em mãi sao?

Nghe đến đây, thì bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng còn sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi, thì bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết, thì bà chịu theo lời ước nguyện của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn. Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi.

Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ.

Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận. Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã,không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa. Ban đầu, vợ con, gia đình, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ bình tỉnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp xa lìa cõi đời nầy, mà cư xử với ông không khác gì người bình thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:

- Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu : "Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng "khóc báo" với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì?

Bà Hoa nhăn mặt nói :

- Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi. Vì có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về thiên đàng, cực lạc, về với Chúa Phật, cho người sống an lòng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, bình an.

Ông Tư lắc đầu nói tiếp :

- Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị hành hình, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ chồng bác Thu con cụ, vì khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đình suýt tan vỡ. Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho cụ, và cho mọi người trong gia đình. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó mãi, để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau lòng khi thấy cụ nằm liệt ra đó, nên cụ chết họ buồn đau? Bởi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là một tiến trình của tự nhiên của trời đất, thì có chi mà phân ưu, chia buồn. Có ai sống mãi được?

Bà Hoa không đồng ý, nói lớn:

- Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà cũng buồn vì mất cụ, mà vui vì cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của mình khổ cực nằm đó.

- Thế thì khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc.

Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân mình chết, vì sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế thì đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tĩnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.

Bà Hoa hỏi:

- Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?

Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên đời.

Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm thì chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, thì bảy tám chín chục tuổi cũng phải chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bởi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. Còn gia đình, thì thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, vì phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống bình thường, không còn có thì giờ mà tiếc thương, mà bi ai. Phần người chết, buông tay là xong tất cả, bình yên vĩnh viễn. Không còn phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền, không còn lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không còn ghen tuông, giận hờn, không còn phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không còn theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt vì thời thế, vì đất nước, quê hương... Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ còn ngưỡng mộ, còn khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có còn biết gì nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú gì. Có ca ngợi, nhắc nhở thì để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước mà dìn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm việc xấu xa đê tiện.

Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp hòm cho bạn bè thăm viếng nhìn mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong thì gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia. Bà Hoa thì chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao mình làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đình. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể nghị dị, bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu thì tán thành, muốn làm theo ý kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, vì sợ thiên hạ chê cười. Ông nói với con : Con nên vì bố, không nên vì thiên hạ. Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát hò, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, thì kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài tuần, cũng chẳng nghĩa lý gì. Còn chẳng bao lâu nữa, kiêng cữ làm chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ý vị. Ông cho rằng, đã sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có gì để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.

Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tĩnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẻ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trải qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, vì ông vốn con người thực tế và lý trí, cái gì chưa kiểm nghiệm được thì chưa tin. Nhưng cho rằng, nếu được như vậy thì càng tốt. Nếu không được vậy, thì cũng thôi.

Cuộc đời ông Tư đã trải qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học thì bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma thiêng nước độc, đã từng bị bắt làm tù binh, đã vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đã sống trong chế độ hà khắc kìm kẹp, bữa đói bữa no. Đã đi qua biển tìm tự do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong xứ tự do, thì có chết cũng không có gì tiếc nuối. Thế mà ông đã sống thêm được nhiều năm trong một xã hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đã cho ông cái phần thưởng vô cùng quý giá đó trong nhiều năm qua.

Ông Tư chỉ là một người bình thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, thì ai đến đâu, ông đến đó. Ông hòa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ xì phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi sòng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến chiều Chúa nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ hai. Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ bạc thì nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư còn có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi trình diễn ở các nơi công cộng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết, vì người sợ người ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nản lòng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu kín, vì sợ vợ đọc được chê bai.

Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết. Ông nầy ngồi nghe mà đờ ra, và nói:

- Bác chờ chút, tôi lục tìm bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ý tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, còn cất giữ đây.

Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi sung sướng, nói:

- Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một mình tôi suy nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ý nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đã ngồi rồi.

Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng hình như là Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn tiện ngã tọa chi . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời nầy, không có cái gì mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống, người xưa cũng đã viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh Thánh, kinh Phật. Ngày xưa khi còn nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh. Hồi đó tôi không hiểu hết ý nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm tình với chuyện kinh kệ, nhưng khi lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go chìm nổi, tìm được yên bình để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh.

Ông bạn cười, nói:

- Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo Cao Đài hay không?

- Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa gì cũng hoan nghênh. Bà xã tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa khi còn trong quân đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành, nhưng đọc mãi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bởi vậy, tôi có quan niệm rất rõ ràng về sự sống, cái chết, và bình tĩnh đón nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.

Hai người đang nói chuyện, thì có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đình không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:

- Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.

Bạn ông Tư hỏi:

- Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bởi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.

Ông Tư cười lớn nói:

- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mủn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được?

- Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong vòng một trăm năm thôi- Bà bạn bàn thêm - Sau một trăm năm thì không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn, thì sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm trước con cháu không nghe, không còn chứng cớ, cả người hứa hẹn lẫn người nghe hứa hẹn, đã chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng vì lo làm ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai còn đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.

Bạn ông Tư nói:

- Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, thì họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau lòng thân nhân ? Rõ như câu nguyền rủa ở xứ mình là chim tha quạ rỉa.

- Chẳng có đau lòng chi cả - Ông Tư bàn thêm - Bên đó toàn đá núi cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nổi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bởi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.

Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn.

Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tổ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẻ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lãnh tụ cộng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mả cũng bị phá bỏ , san bằng.

Bởi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi. Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.

Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đỡ mệt trước khi thuyền chìm.

Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cổng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẻ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẳng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vã xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm .

Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:


Khi Tôi Chết

Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì .
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trổi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không .
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê
Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri .


Khi đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt . Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:

-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào, thì có tiếng ông Tư dọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm rãi, rõ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng lắng nghe, người thì nghiêm trang, người thì mỉm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẻ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trổi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẩy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.

Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc gào lớn:

- Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, còn cười nói lung tung. Chỉ có tôi là chị cậu, thương cậu thật tình thôi, ruột đứt lòng đau, nên khóc than đây.

Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giải bày. Bà vùng vằng và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tĩu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên hòm chúng mầy. Nhiều người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi. Khách viếng tang lảng ra, và có người lẳng lặng ra về không chào hỏi ai, vì sợ gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người vì chuyện không may, không vui vừa xẩy ra.

Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuở trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:

- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.

Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.

Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :

- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẻ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp. Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiễn đám tang khách.

Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng vì đã làm được đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ, và nếu không tán thành, họ cũng im lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.

Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam . Chiếc xe chở hàng của hãng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất, thùng xe vỡ nát, hàng hóa tung vung vãi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế gãy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn vì bị vợ cắm sừng, đã uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái. Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, mãi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hãng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ còn có địa chỉ người gởi, nên cái hộp tro xương

được hoàn trả cho gia đình, với ghi chú là không có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ròng.

Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam .

Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.

Tràm Cà Mau
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Quan Điểm của Ông Ngô Đình Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng

Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

Khi hay tin Tông Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét:


Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy.[1].


Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu[2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu..


Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam .


Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được.


Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình.


Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất.


Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta.


Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội.


Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.


Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:


Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.


Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam . Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng vì lý do trên.

Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)


Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.


Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng


Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.


Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau:


Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.

Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên.(tr. 201)


Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt.

Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.

Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được.

Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam . Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.

Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.


Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết qảu nhất.

Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.

Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa.


Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.

Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. (tr. 202 -204).


Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.


Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam , hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:


Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.


Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.


Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212)


Chính Sách Ngoại Giao


Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây:


Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.


Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.


Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.


Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam .


Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam .


Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.


Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.


Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.


Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.


Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.


Vì vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam . Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.


Chính sách chống ngoại xâm.


Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?


Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam . So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam , và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.


Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.


Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.


Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.


Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.


Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.


Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.


Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.


Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.


Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.


Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.


Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.


Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.


Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam . Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.


Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.




Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:


Biện pháp ngoại giao.


Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.


Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này,


Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)


Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:


Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).


Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới


Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]


Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?


Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam . Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris , họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đui mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất ,vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam .


Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng



Biện Pháp Quân Sự


Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam , tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng đối với họ nữa…



Biện Pháp Chính Trị


Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau:


Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.


Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng

một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.



Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được.


Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian.



Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
Melbourne, 1. 11. 2009





------------------------------------------------------------
[1] Linh Muc De Jaegher, Cố vấn thân cận của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thach, đàm luận với tác giả tại Sàigòn vào 6. 1966.


[2] . Sách được xuất bản mang tên Tùng Phong, Chính Đê Việt Nam , Saigon-Việt Nam , 2009

[3] Xin xem các diễn văn này trong La Voix de la Juste Cause, Recueils Des Principaux Discours et Meassages du President Ngo Dinh Diem, June 1954 – Juillet 1963, Saigon, Service de la Press de la Presidence de la Republique du Vietnam, 1963. Các diễn văn này thường được ông Phạm Đình Khiêm dịch ra Việt ngữ và Gs. Tôn Thất Thiện ra Anh ngữ.



[4] Có lẽ vì đánh máy sai, nên trong ấn bản in là vĩ tuyến 17, thực tế lá vĩ tuyến 16, chú thich của người viết.

[5] Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đã gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lãnh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đã phải lên tiếng trấn an.

Còn Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng đã tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, đă quan mặt cà Nam Dương và Mã Lai về chi phí quốc phòng.

Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đã dành đến 34% cho ngân sách quốc phòng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đã thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đã có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đã ký hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đã để chi phí quốc phòng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars.
Còn Mã Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc phòng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mã Lai, không bị cắt giảm mà lại còn được gia tăng từ 1,482 tỉ Mã kim lên đến 1,613 tỉ Mã kim để gia tăng khả năng phòng thủ quốc gia.



[6] Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9. 1963, đặc trách về cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo.

[7] Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11. 1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Tòa Đại Sứ Mỹ Saigon, ngày 11. 12. 1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995, tr. 78.
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

BÉ MỐC NGÀY XƯA. Nguyễn Thị Thanh Dương




Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Khoa được gia đình chú Tuyên đón về nhà ở Bà Chiểu chơi mấy hôm.


. Hôm nay Khoa mới xách va ly trở về xóm cũ Gò Vấp. Mới rời xa Việt Nam 6 năm mà đường phố thay đổi lạ hoắc, cũng may vẫn còn những dấu vết hay chi tiết quang cảnh cụ thể khác để anh không đi lạc.


Cổng vào chùa Thiền Quang đây rồi, cũng là ngõ chính dẫn vào nhà anh, phải đi qua một khu mả bằng đá ong, những tảng đá ong nằm có, đứng có, cao hơn đầu người, người ta đồn rằng của người Pháp xây hồi xưa, nên lối xóm quen gọi là khu mả Tây. Trẻ con khu xóm vẫn chơi đùa ở đó, leo trèo lên những ngôi mộ. Nay khu mả Tây không còn, nên trông cái ngõ như rộng ra.


Gặp anh, nhận ra anh, ai cũng cất tiếng hỏi han thân mật, bù cho những tháng năm sống ở Mỹ hàng xóm lạnh lùng như người tình đang trong cơn hờn dỗi.


Căn nhà của anh được bao quanh bằng bức tường gạch thấp, phía trên cắm những hàng rào bằng sắt, và vẫn là hai cánh cổng sắt, nhưng không còn cây hoa giấy màu đỏ bên cạnh xòe cành lá và hoa đung đưa trong gío nữa.


Chưa kịp tra chìa khóa mở cổng thì một bà hớn hở từ đâu bước vội đến:

- Cậu Khoa mới về thăm nhà hả? Sống ở Mỹ vui lắm hả cậu?
Khoa chưa kịp nhận ra ai cũng mỉm cười đáp lại:
- Vâng, chào bác, sống ở đâu cũng có vui có buồn.
- Có nhớ ra tôi không nào? Tôi ở đằng sau nhà cậu đấy…
Khoa gật đầu:
- À, bác tên Năm, làm nghề thêu, nên thành tên Năm Thêu chứ gì? Bây giờ bác còn sống bằng nghề thêu, rua gì không?
- Theo nghề đó là chết đói luôn cậu ơi, thời buổi hiện đại, nghề thêu đan, may vá phải dẹp tiệm nhường cho sản xuất công nghiệp hàng loạt. Tôi chuyển “ngành” rồi, nấu cơm bán cho mấy em công nhân tạm trú ở xóm này, dân miền Trung, miền Bắc “di cư” vào, đói nghèo nên dễ tính, dễ chịu. Hàng cơm tôi cũng đủ sống qua ngày.

Bà Năm Thêu đon đã mời mọc một hơi:

- Cậu về đây bao lâu? khi nào đi chơi đâu ăn đó thì thôi, còn về nhà thì ăn cơm ủng hộ hàng tôi nghe? Tôi biết Việt Kiều thì chỉ ăn ở những nhà hàng nổi tiếng hay sang trọng, nhưng cậu thử ăn hàng tôi cho biết đá vàng, ăn bữa nào tính tiền bữa đó, đơn giản và sòng phẳng mà. Việt Kiều tôi sẽ nấu loại đồ ăn cao cấp tiêu chuẩn Việt Kiều, nhưng gía cả vẫn là tình làng nghĩa xóm.

Khoa cảm động, khiêm nhường và hào hiệp:

- Việt kiều mới là thèm những món ăn bình thường dân dã đó bác Năm Thêu. Nhiều người từ hải ngoại về Việt Nam chỉ để ăn cơm nhà rau dưa. Tôi đồng ý ăn cơm ủng hộ hàng bác, vì tôi sẽ ở Việt Nam khá lâu và thường xuyên ở nhà.

Bà Năm Thêu còn nhiều chuyện, hỏi tới luôn:

- Nghe nói cậu về bàn căn nhà này, phải hôn? Có gì tôi kiếm người “mai mối” cho mau lẹ…

- Uả, sao bác biết tôi về Việt Nam để bán nhà?

- Dễ ợt mà, mỗi lần ông chú của cậu đến quét dọn hay sửa sang nhà cửa tôi có nói chuyện và hỏi thăm về gia đình cậu hoài, nghe nói ở bển gia đình cậu ổn định, khá gỉa tôi cũng mừng giùm. Vừa rồi ông Tuyên nói là cậu sẽ về bán căn nhà này. Thế là ông Tuyên sẽ rảnh tay khỏi phải lò mò từ Bà Chiểu đạp xe xuống Gò Vấp để chăm sóc căn nhà vắng chủ nữa.

- Dạ, đúng thế. Đáng lẽ tôi bán nhà trước khi xuất cảnh, nhưng để lại cho gia đình thằng em vợ chờ đi xuất cảnh sau. Nó dùng dằng mãi mới chịu đi nên giấy tờ bảo lãnh trễ hơn tôi mấy năm.

- Nhờ vậy mà hưởng lời đó cậu. Đúng là số cậu trời cho hưởng mà, được gia đình vợ bảo lãnh đi Mỹ sung sướng mọi bề, ngay thời điểm này nhà cửa đang hút gía dữ dội lắm, căn nhà của cậu nằm trong khu đất rộng, có vườn cây, lại thuộc phạm vi thành phố nên khẳm tiền chứ không ít đâu.

Khoa đùa vui:

- Trời, bác Năm Thêu chuyển ngành nghề môi giới địa ốc, chắc sẽ thành công hơn nấu cơm tháng đấy.

Bà Năm Thêu nhắc lại:

- Thôi vậy nghen, chiều nay cậu ăn cơm nhà không? thì có cơm mang sang nhà cậu liền.

Khoa nể lòng bà hàng xóm:

- Vâng, chiều nay cho tôi mở hàng một bữa thử coi, nhớ là mấy món ăn nhà quê dân dã nhé. Tôi muốn ở nhà vài ngày, sống lại kỷ niệm rồi mới đi thăm bạn bè sau.

Bà hàng xóm nhanh nhẩu tốt bụng đi rồi, Khoa mới thực sự bước vào nhà mình, hầu hết những đồ đạc của vợ chồng Khoa để lại, gia đình người em vợ vẫn giữ y nguyên, có lẽ vì họ nghĩ cũng sẽ đi xuất cảnh nên chẳng cần thay đổi hay mua sắm thêm đồ mới làm gì.

Khoa ra vườn sau, khu vườn trồng nhiều cây mít và cây na, lá rụng quanh năm. Anh dẫm chân lên lớp lá khô tưởng như mùa lá cũ năm nào vẫn nằm ngoan hiền ở đây đợi anh về hội ngộ.

Những cây mít đang treo đầy qủa, anh còn nhớ cây này là mít dừa, cây kia là mít nghệ, múi mít loại nào cũng to bằng cả nắm tay. Còn những cây na cũng có giống na dai, giống na bở. Na để chín cây, mắt na nở ra, nhẹ tay bóp qủa na, ăn những múi na trắng thơm, ngon ngọt lạ lùng
Trong vườn có một cái giếng sâu và trong, cạnh đó là buồng tắm. Khoa sung sướng được sống lại qúa khứ, anh ra quay nước giếng đổ đầy thùng trong buồng tắm và mang những thứ xà bông, dầu gội đầu vào tắm gội, tưởng như mình vẫn đang sống ở Việt Nam của 6 năm về trước.
Tắm xong Khoa vào nhà ngủ một giấc thoải mái, chưa tỉnh giấc hẳn thì đã nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, Khoa vội ngồi dậy, vuốt sơ mái tóc và ra mở cửa, anh ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt xinh đẹp, một cô gái lạ, rất trẻ, đang khép nép bên ngoài. Trong phút giây này, khỏanh khắc này, anh bỗng nhớ đến bao năm về trước, Huyền cũng đã e ấp gõ cửa nhà anh, cho anh cảm xúc xao xuyến bất ngờ.

- Dạ, em chào anh…

Khoa bối rối:

- Cô tìm ai? Cô có đi lầm nhà không?

- Dạ, em tìm anh Khoa…má em sai em đến giao cơm chiều cho anh.
Bây giờ Khoa mới để ý đến gỉo cơm trên tay cô gái. Thì ra lúc nãy anh vào nhà và quên không khóa cổng nên cô gái mới đến thẳng cửa nhà anh như thế này. Cô có đôi mắt to đen như nhung mang phảng phất nét buồn, làm người khác nhìn mà phải u uẩn theo. Dáng cô thon thon cao ráo, không lẽ cô là con gái bà Năm Thêu ? người đàn bà suốt một thời tuổi trẻ chăm chỉ ngồi bên khung vải thêu, rua, đến nghọeo cả cổ và gù cả lưng ?

Thấy chủ nhà tần ngần chưa chịu tin, cô gái giới thiệu thêm về mình:

- Anh không nhớ em thì thôi, nhưng để em kể ra nhé, ngày xưa em hay sang nhà anh bồng em bé và đút cơm cho con anh đó, em là bé Mốc.

- Ôi, bé Mốc !!

Khoa reo lên, thêm một lần nữa ngạc nhiên, anh nhớ ngay ra con bé Mốc nhếch nhác ngày xưa, bây giờ lại biến hóa thành cô gái đẹp xinh, duyên dáng y như trong chuyện cổ tích. Giây phút gặp gỡ đầu tiên vẻ đẹp của cô làm anh chóang váng, bây giờ định thần nhìn kỹ lại, đúng là cô gái có những nét hao hao bé Mốc. Mà sao ngày xưa anh ghét nó thế? chỉ sợ nó lây cái vẻ xấu và bẩn của nó sang cho con anh thôi, nhưng Huyền vợ anh vốn thương người, muốn giúp nhà bà Năm Thêu chứ thuê mướn người bồng em đầy rẫy trong xóm, thiếu gì người khá hơn nó.

Cô gái thao thao kể tiếp:

- Nhà em nghèo, má em đã đưa em sang nhà anh chị, coi em, bồng em để anh chị cho chút tiền, được đồng nào hay đồng đó. Năm đó em 13 tuổi.

Khoa hỏi một câu ngẩn ngơ vì vẫn còn bối rối trước vẻ xinh đẹp của cô Mốc:

- Nhưng sao em lại là bé Mốc nhỉ?

- Má em nói hồi nhỏ em xấu xí, lại bẩn thỉu, mốc meo và ốm tong teo, bé xíu nên gọi em là bé Mốc chết tên luôn, còn tên thật của em không đẹp lắm, nhưng cũng…đỡ hơn. Em tên là Nguyễn thị Nâu.
Khoa thành thật:

- Dù bé Mốc ngày xưa hay cô Nâu ngày nay, cả hai tên đều lạ cả.
Cô Nâu mang giỏ cơm vào nhà, cô nhẹ nhàng và cẩn thận lôi ra chén bát, đũa thìa và cơm canh nóng hổi để lên bàn rồi nói:

- Mời anh dùng cơm kẻo nguội, má em nấu món dân quê theo ý anh, cần món gì anh cứ yêu cầu mỗi ngày nghe. Em về đây, lát nữa em sang thu dọn chén đũa.

- Sao cơm bình dân mà bát chén kiểu sang vậy cô Nâu?

Cô Nâu mỉm cười:

- Anh không nghĩ ra hả? vì anh là Việt Kiều thì cũng phải lịch sự với anh chứ, mấy chén đũa này má em mới sắm riêng để phục vụ anh đó.
Khoa cảm động ngẩn ngơ. Cô Nâu nói xong từ tốn cúi đầu chào và ra về, dù Khoa chỉ muốn cô ở lại nói chuyện, và dù có ăn cơm canh nguội lạnh anh cũng vui lòng.

Bà Năm Thêu cho anh ăn cơm với món đọt rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt, và món tôm đất rim mặn. Qủa thật là ngon miệng..

Ăn xong Khoa rửa tất cả chén bát sạch sẽ và đợi chờ cô Nâu đến.
Cánh cổng ngoài vẫn chỉ khép để đợi cô vào tận cửa nhà, cô đến đúng hẹn, lần này cô lại thay cái áo khác. Thấy mọi thứ đã sạch sẽ sẵn sàng, cô Nâu không hài lòng:

- Kìa anh, sao anh lại rửa ?, lần sau anh cứ để em làm cho, đó là việc của em mà.

- Tôi rảnh cũng chẳng biết làm gì.

- Việt Kiều như anh hiền qúa chừng, người ta về Việt Nam là tưng bừng hoa lá ngoài đường, ngoài qúan đó anh.

Ngay từ đầu cô Nâu đã xưng hô “anh, em” nên Khoa cũng thoải mái, tự nhiên, dù ngày xưa con bé ranh này anh coi như đồ con nít.

- Nay mai anh cũng sẽ đi thăm bạn bè, họ hàng chỉ có gia đình ông chú chứ chẳng còn ai.

Lần này cô Nâu ngồi nói chuyện lâu hơn. Trong căn nhà vắng êm đềm cô gái như một bức tranh thiếu nữ rực rỡ bội phần làm tâm hồn đa cảm yếu đuối của Khoa bị choáng ngợp trước hào quang của cô Nâu.

Cô kể nhà cô từ xưa đến giờ vẫn nghèo, cô bỏ học khi xong bậc tiểu học, làm đủ thứ nghề lao động, và bây giờ thì ở nhà phụ với mẹ nấu cơm, bán cơm trong xóm lao động này. Đôi mắt cô có lúc lóng lánh như muốn khóc, Khoa phải chạnh lòng:

- Không ngờ hoàn cảnh em đáng thương thế.

Khi cô Nâu đứng lên chào tạm biệt ra về, Khoa tiễn cô ra cửa, khỏang cách hai người rất gần, mùi hương thơm nào đó từ người cô làm anh thoáng ngây ngất. Đôi mắt cô nhìn anh giùng giằng và sâu thẳm:

- Em về nhé. Mai anh có ăn cơm không?

Khoa trả lời không cần suy nghĩ:

- Coi như ngày nào anh cũng ăn cơm hai buổi, cho dù đi đâu anh cũng về ăn cơm…nhà.

Cô Nâu ngoan ngoãn:

- Dạ, em sẽ ngày hai buổi mang cơm phục vụ anh.

Cô Nâu về rồi, nhưng hình ảnh bé Mốc ngày xưa lại lần lượt hiện ra.
Dạo đó anh và Huyền ở trong căn nhà này, hai đứa con, đứa lên 4 và đứa lên 2. Vợ anh làm kế tóan tài chánh cho một công ty nước ngoài, còn anh là kỹ sư. Chiều đi làm về, mang hai đứa con từ nhà trẻ về, cả hai vợ chồng đều bận rộn nhiều chuyện khác. Thế là mới có chuyện con bé Mốc thỉnh thoảng sang nhà giữ em giùm để vợ anh nấu cơm, còn anh thì nghiên cứu đọc tài liệu bổ sung cho công việc đang làm tại hãng.

Bé Mốc qủa đúng là con bé nhà nghèo, quần áo lôi thôi cũ kỹ, đầu tóc rối ren, mặt thì nhem nhuốc, thế mà hai con anh lại thích bé Mốc, nó bồng bế hay đút cơm, đút cháo hai đứa đều ăn nhiều, có lẽ vì bé Mốc cũng trẻ con, biết cách chiều trẻ con?

Bé Mốc hay dẫn hai con anh ra chơi ở sân trước, chán lại ra vườn sau. Có lần anh thấy bé Mốc hái mấy dái mít non ở sau vườn chấm muối ớt ăn ngon lành. Tội nghiệp, con bé đói khát ăn rờ ăn rẫm, từ đó trở đi anh không còn ác cảm với nó nữa, cũng đồng tình với vợ anh để cho bé Mốc trông nom hai con khi vợ chồng anh bận bịu.

Những hôm không trông hai con anh, bé Mốc chạy ra khu mả Tây chơi đùa với lũ trẻ cùng xóm, mấy lần Khoa trông thấy nó leo trèo, nghịch ngợm hay lê la đất cát bẩn thỉu từ đầu đến chân.

Một buổi chiều anh ra vườn sau kéo nước giếng và tắm táp xong như thường lệ, vợ anh cũng đã xong công việc, chiều ấy Huyền thật xinh và tươi mát với bộ đồ mỏng mới may, làm Khoa bỗng dưng “thèm muốn”, anh kéo vợ vào phòng. Chợt trông thấy con bé Mốc bế em ở một góc nhà đang chăm chú nhìn theo vợ chồng anh, hình như nó hiểu chuyện và biết anh đang muốn gì?. Làm Khoa “quê”, liền bực mình gắt với nó:

- Bế em ra vườn chơi đi, chốc nữa hãy vào nhà.

Bé Mốc vội vã tay bế tay dắt hai đứa con anh ra vườn sau.

Nghĩ đến đây Khoa cười thầm, không biết cô Nâu có còn nhớ chuyện xưa ? Bây giờ anh sẽ “quê” hơn ngày đó nữa.

Từ ngày sang Mỹ, vợ anh trông coi một tiệm nail cho em gái mình, vì cô em có hai tiệm nail nên không thể ba đầu sáu tay qủan lý hết được. Cửa tiệm lâu năm, quen khách, đắt hàng nên cô em trả lương chị rất rộng rãi.
Còn Khoa học nghề trung cấp kỹ thuật hai năm và ra đi làm. Nhưng mới bị lay off , đang ngồi nhà ăn tiền thất nghiệp.

Gia đình thằng em vợ đến Mỹ mấy tháng nay, đúng là thời điểm thuận tiện cho Khoa về Việt Nam lo chuyện bán nhà cửa. Khoa về một mình vì Huyền bận 6 ngày một tuần với tiệm nail, không dứt ra được.

Căn nhà nhờ ông Tuyên đứng tên và chăm sóc giùm, hàng tháng vợ chồng Khoa vẫn tế nhị gởi biếu ông chú tiền coi như trả công lao chú hậu hỉ.


****************


Cô Nâu đã trở thành hình bóng thân quen không thể thiếu, mỗi ngày mấy lượt đến giao cơm và lấy đồ về, lần nào cô cũng kín đáo tránh cho hàng xóm biết cô đã ở lâu với người đàn ông trong căn nhà vắng.

Hôm nào Khoa đi vắng về trễ thì anh hẹn mang cơm trễ, nên hầu như họ vẫn gặp nhau dù Khoa bận rộn đến đâu.

Đã có vài người khách đến xem nhà và đang thương lượng gía cả, Khoa không ngờ bà Năm Thêu nói đúng qúa, người mua sẵn sàng trả gía cao, nhưng anh còn chần chừ xem ai trả cao nhất mới quyết định. Mọi giấy tờ hợp lệ có sẵn, và ông Tuyên cũng sẵn sàng để ký tên.

Hôm nay Khoa về nhà hơi muộn, cô Nâu cũng vừa mang cơm đến. Dù đã ăn ở nhà bạn khá no, Khoa vẫn ăn cơm của cô Nâu cho cô vui lòng, và chính anh cũng muốn thế, để giữ chân cô. Nhiều ngày nay đã thân quen, cô ở lại đợi anh ăn cơm xong và dọn dẹp chén bát rửa ráy tại chỗ luôn. Họ đôi bóng như đôi vợ chồng son .

Khoa ngắm cô Nâu đang đứng rửa bát, cô mặc bộ đồ bộ lụa mát màu xanh nước biển nhạt, hở vai và đôi cánh tay trần giống như Huyền ngày nào đã làm anh bừng dậy một niềm khao khát. Hôm nay anh gặp lại niềm khao khát ấy.

Bất chợt cô Nâu quay đầu lại, nhìn nét mặt bần thần của anh, cô ngây thơ nũng nịu:

- Anh nhìn trộm em và chê em gì hả? hả?

Trong đôi mắt đen thăm thẳm của người con gái đầy vẻ bí hiểm và thông minh, có lẽ cô Nâu lại đọc được ý nghĩ trong đầu óc anh như khi cô chỉ là con bé Mốc 13 tuổi năm xưa.

Anh bối rối chưa biết nói sao thì cô gái nũng nịu tiếp:

- Bắt thền anh đó, anh nhìn em hoài làm em rửa chén không có sạch nè !!

Anh như bị mê hoặc đến bên cô Nâu và vòng tay ôm lấy đôi vai tròn của cô:

- Anh đền em đây…

Toàn thân cô gái tựa vào người anh, làm người anh nóng bừng lên, anh xiết chặt thân thể mềm mại của cô Nâu trong vòng tay của mình, thì thầm:

- Anh yêu em qúa Nâu ơi…

- Em cũng yêu anh…

Cô bạo dạn thêm:

- Em yêu anh từ hồi em còn là bé Mốc lận, anh không biết đâu, mỗi lần anh tắm em đều lẩn quẩn ở ngoài vườn, chỉ để ngửi mùi xà bông rất thơm tho của anh…

Cô áp mặt, dụi dụi vào ngực áo anh rồi hỏi:

- Sao bây giờ anh xài mùi xà bông khác ? em không thấy giống mùi cũ nữa…

Khoa càng mê man:

- Em yêu anh đến thế ư? Em nhớ cả mùi xà bông tắm của anh ư? Ừ, ngày xưa anh dùng xà bông Coast, qùa từ bên Mỹ gởi về, anh thích mùi ấy lắm, nhưng bây giờ anh qua Mỹ thì không còn xà bông hiệu này nữa, nên anh dùng loại khác.

- Có lần anh tắm xong, anh rủ chị Huyền vào phòng, em buồn lắm, em ganh với chị Huyền vì đã có anh.

- Trời ơi, em còn nhớ vụ ấy hả? Anh xin lỗi Nâu, hôm nay anh sẽ đền cho Nâu ….

Người Khoa như lên cơn sốt, quay cuồng, tối tăm mặt mũi, anh không biết gì đến trời đất bên ngoài. Chỉ có cô Nâu xinh đẹp và quyến rũ tuyệt vời trong căn nhà vắng đồng lõa, đồng tình.

Chiếm được thân thể cô Nâu với tình yêu đáp trả nhiệt tình của cô, Khoa bỗng là một chàng trai mới lớn đang yêu và si tình, ngày nào anh cũng mong chờ cô Nâu. Cách đây 6 năm làm sao Khoa có thể nghĩ sau này mình sẽ yêu con bé Mốc đến thế này?

Cánh cổng sắt ngôi nhà mở đón cô vào, và khép chặt để không bị ai làm phiền, ngoại trừ những lần có hẹn cho người môi giới dẫn khách đến coi nhà.

Anh yêu Nâu thật rồi hay chỉ là một cơn choáng ? anh chẳng tha thiết gì đến chuyện trở về Mỹ với vợ con. Khoa còn đang như một cánh buồm lênh đênh trên biển.

“ Anh chỉ là một cánh buồm tuyệt vọng,
Giữa biển khơi không biết rẽ lối nào?
Ở nơi đâu cũng là em, là sóng,
Vỗ vào đời anh hạnh phúc, thương đau”

Tình yêu đã làm anh lãng mạn, anh làm 4 câu thơ ấy, đọc cho cô Nâu nghe, không biết cô Nâu có hiểu thơ không mà cô đã khóc trong lòng anh.

Khoa buồn bã và thành thật khuyên cô:

- Dù muốn dù không anh cũng phải về Mỹ. Anh yêu em, nhưng không thể bỏ vợ con được. Em hãy quên anh đi Nâu nhé ?.

Cô Nâu trả lời trong nước mắt:

- Em chỉ lấy người đàn ông nào giống hệt như anh thôi, hoặc là em sẽ đợi chờ anh về Việt Nam thăm em, làm người vợ không bao giờ cưới của anh, giống như một tuồng cải lương cũ má con em hay coi….

- Tội em qúa ! mấy kiếp nữa anh cũng không đủ trả nợ tình cho em.
Khoa đã đồng ý bán nhà, vì không còn thời gian chần chờ thêm nữa. Khách hẹn sẽ đến coi lần cuối trước khi chồng tiền và tiến hành thủ tục giấy tờ.

Những ngày hiếm hoi còn lại anh càng say sưa yêu cuồng yêu vội cô Nâu hơn nữa.

Nhưng chiều nay người giao cơm không phải là cô Nâu mà là mẹ cô, bà Năm Thêu, làm Khoa thất vọng và ngạc nhiên.

Bà Năm Thêu theo Khoa vào trong nhà, tự động ngồi xuống ghế và lên tiếng trước:

- Tôi biểu con Nâu ở nhà để tôi sang nói chuyện với cậu.

Linh tính báo cho Khoa biết một điều gì đó không hay đang xảy ra cho Nâu và cho anh. Bà Năm Thêu nhìn thẳng vào mặt Khoa và tiếp như quan tòa lên án:

- Tôi đã biết chuyện tằng tịu giữa cậu và con Nâu nhà tôi. Bây giờ cậu tính sao?

Biết không thể chối cãi được, Khoa đành buông xuôi:

- Tôi trót yêu Nâu, yêu rất nhiều bác biết không?

- Nhưng cậu cũng phải tính sao chứ, không lẽ cậu hưởng con nhỏ cho đã đời rồi khơi khơi về Mỹ với vợ con cậu như không có chuyện gì xảy ra ?

Khoa khổ sở:

- Tôi cũng không biết mình phải làm gì nữa, thật tình tôi đau buồn khi chia tay Nâu.

Bà Năm Thêu đanh thép:

- Cậu phải cưới nó, giữ danh dự đời con gái cho nó.

Khoa hoảng hốt:

- Bác Năm Thêu biết tôi còn vợ, còn con mà…

Giơ cao đánh khẽ, bà Năm Thêu xuống giọng tử tế:

- Thôi, không ai nỡ làm gia đình cậu xào xáo ly tan, nhưng cậu phải đền bù đời con gái con tôi cho xứng đáng, cậu giúp nó một số tiền làm vốn, làm lại cuộc đời. Tôi sẽ bỏ qua chuyện này.

Khoa cũng đã nghĩ tới điều này, vì tình yêu anh dành cho cô Nâu chứ không phải vì bị cưỡng bức, đòi hỏi như bây giờ, nên Khoa đồng ý ngay:

- Điều này tôi có thể làm được, tôi cũng muốn giúp Nâu có cuộc sống khá hơn.

Bà Năm Thêu đòi hỏi huỵch toẹt:

- Cụ thể tôi đề nghị cậu cho nó 10 ngàn đô la Mỹ.

- Mười ngàn đô la Mỹ?

Thấy phản ứng của Khoa sửng sốt ngạc nhiên và không hài lòng bà Năm Thêu giáng một đòn đe dọa:

- Nếu cậu muốn trong ấm ngoài êm, chuyện tình của cậu và con Nâu hàng xóm láng giềng chưa ai hay biết đâu. Tôi thề sẽ giữ kín, cậu mới bán nhà được gía qúa mà, tiếc chi món tiền này.

Mười ngàn đô la là số tiền không nhỏ, ngoài dự tính của Khoa, nhưng tội anh to lớn qúa, làm hại đời con gái trinh trắng của cô Nâu, và anh cần bảo vệ hạnh phúc gia đình, với gía ấy vẫn còn rẻ.

Khoa ngẫm nghĩ và đồng ý. Cũng may anh chưa gọi phôn báo cho vợ về gía cả căn nhà mà anh vừa quyết định bán, nên anh có thể thêm đầu này bớt đầu kia cho hợp lý và Huyền sẽ tin, miễn là bán xong căn nhà cho rảnh tay.



***************


Khoa về Mỹ, lại lao vào cuộc sống hàng ngày.


Một năm trôi qua, tình yêu nóng bỏng dành cho cô Nâu qủa là một cơn chóang, đã vơi dần theo ngày tháng vì xa mặt cách lòng. Khi lạc vào biển yêu trong hoàn cảnh trái ngang ai cũng chỉ là cánh buồm tuyệt vọng, ngẩn ngơ.

Bây giờ tỉnh người ra anh mới thấy mình hư qúa, vô tình đã phản bội vợ và hại đời con gái của cô Nâu
.
.Anh thấy lòng tạm thanh thản, với 10 ngàn đô la, có thể đã giúp cô Nâu hay gia đình cô thay đổi cuộc sống khá hơn với một ngành nghề nào đó. Anh chỉ cầu mong cô Nâu sẽ gặp được người đàn ông giống anh, cho cô yêu và lấy làm chồng thì anh mới thật sự yên tâm.

Một hôm Huyền hỏi chồng:

- Anh có nhớ nhà bà Năm Thêu ở phía sau nhà mình ngày xưa không?

Khoa giật bắn người, tim anh đập thình thịch chỉ sợ nghe vợ nói ra những điều tội lỗi thầm kín của anh, nhưng Huyền vẫn vô tư kể tiếp:

- Bà Năm Thêu má bé Mốc, con bé ngày xưa bế con mình đó, nhớ ra chưa?

Khoa dè dặt:

- Biết rồi, sao?

- Chị bạn cùng xóm mới về Việt Nam qua kể lại là năm rồi nhà bà Năm Thêu trúng mối gì không biết, bỗng khá gỉa lắm, có tiền sắm ti vi, xe gắn máy và đồ đạc trong nhà. Nhưng sắm bao nhiêu bà lần hồi bán bấy nhiêu vì bài bạc và số đề…

Khoa buột miệng:

- Tội nghiệp qúa !

Vợ anh chép miệng theo:

- Chưa tội nghiệp bằng con Mốc, tên nó là Nâu, bây giờ người ta đồn nó bị bệnh Aids rồi, nên hàng cơm bà Năm Thêu bị ế ẩm, không ai dám ăn, cảnh nhà càng khốn khổ.

- Trời ơi ! cô Nâu bị..bị…??

Vợ anh lập lại:

- Bị bệnh Aids, tội con bé qúa hở anh? Bé Mốc hồi mới lớn, mới trổ mã đã đi bán bia ôm, làm gái rồi, nhưng kiếm tiền sao cho xuể với người mẹ ham mê bài bạc quanh năm suốt tháng. Trước sau gì cũng đi đến bước đường cùng này thôi.

Trong lời nói và cử chỉ của vợ, Khoa tin là Huyền không hề hay biết gì chuyện tình cảm của anh và cô Nâu. Bà Năm Thêu dù là người tệ hại thế nào, ít ra cũng biết giữ lời hứa, không xì ra chuyện anh đã ngủ với con gái bà, mà nói ra thì mẹ con bà cũng mang tiếng xấu chứ hay ho gì. Có lẽ đó mới là cái “tình làng nghĩa xóm” của bà, mà anh mong muốn nhất.
Bây giờ Khoa đã hiểu vì sao bà Năm Thêu đon đã hỏi thăm anh, mời anh ăn cơm hàng nhà bà và gài độ cho cô Nâu, đứa con gái đã từng bán thân nuôi miệng, nuôi cả gia đình, đến với anh, như một đứa con gái trong trắng con nhà nghèo hiền lành, để anh lọt vào cạm bẫy tình yêu của mẹ con cô.

Bây giờ anh cũng hiểu con bé Mốc thuở lên 13, không hề là đứa trẻ ngây thơ, nó đã tinh ranh, biết rình rập khi anh tắm và khi vợ chồng anh vào phòng ngủ.

Thảo nào khi hai người gần gũi, cô Nâu đã tỏ ra rất nhiệt tình, biết cách làm cho anh thêm say đắm.

Suốt mấy tuần lễ cô Nâu mang cơm cho anh, cô đã đóng vai kịch con nhà nghèo, ngây thơ, thật xuất sắc, qua mặt thằng đàn ông thật thà và nhiều tình cảm như anh dễ dàng. Những giọt nước mắt, những lời thổn thức yêu đương của cô dành cho anh, có lẽ cô cũng từng dành cho nhiều người đàn ông khác để làm họ hồn siêu phách tán. Đó là nghề của cô.

Khoa thấp thỏm lo âu lén vợ đi thử máu, xem có dương tính HIV không, có bị lây nhiễm từ cô Nâu không? mặc dù một năm qua anh không thấy có dấu hiệu gì khác lạ cho sức khỏe.

Kết qủa thử máu làm anh sung sướng như vừa được cứu sống từ cõi chết, anh bình thường không hề bị HIV.

Có thể cô Nâu bị bệnh HIV nhưng may mắn cho anh đã không bị lây nhiễm? hoặc có thể sau khi chia tay anh cô Nâu mới bị bệnh HIV, khi cô giao tiếp với những người đàn ông khác??

Thôi, dù vì lý do gì anh cũng hãy cảm tạ thượng đế đã che chở cho anh an toàn sau một cơn sốt tình mê dại.

Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.






Nguyễn Thị Thanh Dương.
( June 19, 2011)
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Bài học đầu tiên

(không rõ xuất xứ của bài viết)

Không phải bài học đầu tiên của cô giáo dạy tôi khi tôi bước chân vào lớp một, cũng chẳng phải bài học đầu tiên khi tôi bắt đầu bước chân vào giảng đường đại học, mà đơn giản chỉ là bài học Phật Pháp đầu tiên tôi được học khi bước chân vào Chùa

Quê tôi ngày xưa nghèo lắm, hẻo lánh lắm. Quanh năm tôi chỉ làm bạn với cỏ cây, với những chú chim ngày ngày bay về hót líu lo mà tôi chẳng biết chúng nói gì?

Nhà tôi trồng nhãn, trồng nhiều lắm. Mà ở cái xứ khỉ ho cò gáy này thì ngoài cây lúa ra chỉ có cây nhãn là mang lại thêm kinh tế cho gia đình tôi.

Tôi lớn lên như bao chàng trai khác, vẫn hỷ nộ ái ố cuộc đời; biết yêu, biết ghét, biết giận, nhưng chưa bao giờ tôi biết tha thứ cho lỗi lầm của ai và … tôi nhìn cuộc đời, nhìn mọi người bằng lăng kính của riêng mình! Tôi có cái nhìn rất tinh tế nên tôi dễ nhận ra những điểm không tốt của người đối diện mình và cũng chính vì thế khiến tôi không có bạn nhiều.

Tôi quý mến tất cả, nhưng tôi không tha thứ cho ai dù vô tình hay cố ý chơi không đẹp với mình, và tôi sẽ tìm cách đối xử lại như chính họ đã làm với tôi …. Có thể như thế mà tôi trở thành người khó tánh nhất xóm.

Và một ngày…. Mọi suy nghĩ của tôi thay đổi hết khi một vị Sư về trú tại chùa

Xóm tôi có một ngôi chùa nhỏ nằm chơi vơi giữa đồng. Ngôi chùa nền đất vách lá ngày ngày chỉ có một vị sư già trông coi. Ngoài việc làm đồng áng, trông coi mãnh vườn và sau những giờ học tôi rất thích đến ngôi chùa này. Giữa không gian yên tỉnh, tiếng chuông, tiếng mõ hòa cùng tiếng tụng kinh của Sư âm vọng giữa không gian tỉnh mịch, khiến lòng tôi yên bình lắm.

Một hôm có một vị sư trẻ về trú tại chùa. Vị sư trẻ có một đôi mắt sáng, sáng đến nỗi bạn có thể soi đường trong bóng đêm và thầy có một nụ cười rất hiền, nụ cười chứa đựng niềm hạnh phúc vô biên.

Tôi thích nói chuyện với thầy, vì ở Thầy tôi không tìm thấy được điểm xấu nào. Như hiểu được mọi suy nghĩ trong đầu tôi, một hôm sao buổi tan trường tôi không về nhà mà chạy thẳng vào chùa để được tụng kinh cùng Thầy khi thầy cúng chiều. Tôi yên lặng lắng nghe từng lời Thầy tụng vì thầy có một giọng tụng rất hay như cuốn hút lòng người vào từng lời kinh, lời chú nguyện của thầy khi thầy cúng thí thực.

Sau thời kinh, khi mà thầy đã yên vị tọa cụ, Thầy nắm tay tôi dẫn ra sau vườn ngồi vào chiếc bàn gỗ. Thầy rót cho tôi một tách trà nhạt, rồi Thầy hỏi tôi:

- Con có nhiều bạn không, sao trẻ em trong xóm thì nhiều mà chỉ mình con vào chùa, mấy em đó đâu sao không đi cùng con?
- Dạ không, con không có bạn nhiều vì họ ai cũng xấu !
- Sao con nghĩ vậy ? Thầy hỏi với vẻ ngạc nhiên
- Vì họ chửi thề, họ hổn hào, họ lười học, họ lười suy nghĩ.

Thầy xoa đầu tôi cười rồi nói: Để Thầy chỉ cho con điều này .
Rồi thầy lấy ra một tờ giấy trắng, giấy trắng học trò, Thầy dùng bút lông nhỏ lên tờ giấy một chấm đen thật đen; Thầy giơ tờ giấy lên và hỏi:

- Con có thấy gì không?

Tôi nhanh miệng đáp mà không cần suy nghĩ:

- Dạ bạch Thầy một chấm đen ạ.

Thầy cười hỏi lại: Con nhìn rõ chưa nè?

Dạ con nhìn thật rõ rồi, bạch Thầy - Tôi khẳng định lại
Thầy cười tươi, nụ cười hiền hòa như chứa đựng cả tam thiên niềm an lạc vô biên:

- Sao con chỉ nhìn thấy chấm đen nhỏ trên tờ giấy trắng mà không nhìn thấy tờ giấy lớn trắng tinh thầy đang cầm?
Tôi lặng im không nói được lời nào.

Thầy tiếp: Con người cũng vậy, không ai là hoàn thiện, cho nên Đức Phật mới thị hiện cõi đời này để giúp chúng sanh hoàn thiện tâm mình, giúp chúng sanh thánh thiện hơn, đạt được phật tánh (ngộ nhập Phật tri kiến) vì thể tánh chúng sanh và Phật không khác, chúng sanh cũng sẽ là những vị Phật của tương lai (ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành). Nếu con chỉ chầm chầm nhìn vào cái xấu của họ con sẽ bỏ lỡ nhiều điểm tốt của họ, cũng như con chỉ nhìn thấy chấm đen trên tờ giấy trắng mà không nhìn thấy được tờ giấy trắng có chứa chấm đen nhỏ!

Nếu con nhìn thấy điểm tốt của họ, con sẽ thấy ai cũng đáng yêu, ai cũng đáng kính cả, đó là tâm Phật trong mỗi con người luôn hiện hữu.

Niềm an lạc, sự yêu mến không phải người khác ban phát cho con mà chính con phải tạo ra nó,

Một năm sau tôi rời mái trường cấp 3 thân yêu bước lên chốn thị thành để thực hiện ước mơ của mình; bước chân vào giảng đường đại học. Lời dạy của Thầy cũng theo tôi trong cuộc hành trình tôi đi.

(Không rõ xuất xứ của bài viết).
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

ĐOÀN KẾT VỚI KẺ NỘI THÙ LÀ VIỆT CỘNG,
QUA CHIÊU BÀI CÙNG YÊU NƯỚC, CÙNG NHAU CHỐNG TRUNG CỘNG.
Bài học lịch sử vẫn chưa phai nhạt trong lòng người Việt Nam về những thủ đoạn gian manh, quỷ quái khôn lường của bè lũ Cộng Sản từ thời chúng còn suy yếu cho đến nay: sau khi bí mật mời thực dân Pháp sang cai trị lần thứ hai, súc vật Hồ Chí Minh lại trân tráo dùng chiêu bài yêu nước, đoạn tuyên bố, kêu gọi:” toàn quốc kháng chiến” đánh Tây giành độc lập; nhưng trước đó không lâu, chính súc vật Hồ Chí Minh đã mời giặc sang qua hiệp ước sơ bộ Fontainebleau 1946.

Thời kỳ loạn ly, bị giặc Pháp đô hộ, lòng dân mơ ước ngày đất nước được độc lập, nên bất cứ tổ chức nào kêu gọi kháng chiến chống Pháp, là có nhiều người tham gia, ngay cả các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng với Vũ Hồng Khanh, hay nhà cách mạng lão thành Nguyễn Hải Thần, nhà ái quốc Huỳnh Thúc Kháng cùng đứng chung trong hàng ngũ” đánh Tây”. Chưa kể đến thành phần trí thức, địa chủ, tư sản cũng ủng hộ Việt Minh, giúp cho súc vật Hồ Chí Minh từ một tên vô danh tiểu tốt, thành nhân vật lãnh tụ sáng giá nhất, khuynh đảo cả tổ chức.

Chiêu bài đoàn kết đánh Tây giành độc lập đã giúp cho Hồ Chí Minh được nhiều người biết đến, đảng Cộng Sản lớn mạnh dần qua thời gian và thủ đoạn, khủng bố ngay trong hàng ngũ đánh Tây. Tuy nhiên, vì yêu nước mà nhiều người Việt Nam thời đó đã bị lừa, thay vì đánh Tây giành độc lập, thì lại bị Cộng Sản lái sang phục vụ quyền lợi cho ngoại bang, là khối Cộng Sản Quốc Tế, do Nga Tàu lãnh đạo.

Nhờ lợi dụng chiêu bài đoàn kết chống xâm lược, nên Hồ Chí Minh và đồng bọn trở thành” bạn” của các tổ chức quốc gia, người Việt yêu nước, không nghi ngờ gì, tưởng đâu là phe ta, nhưng là thứ:” đồng sàng dị mộng”, miệng tươi cười mà tay cầm dao để đâm lén, khiến nhiều người, kể cả thành viên của các đảng phái quốc gia cũng không đề cao cảnh giác, nên bị hại.

Đảng Cộng Sản Việt Nam rất gian manh, bề ngoài tuyên bố đánh Tây để tạo thế” đoàn kết” cần thiết trong thời gian cần gây thanh thế, nên khi Việt Minh đi đến đâu, là được dân ủng hộ, các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng không ngờ hay phòng thủ, vì tưởng trong chính phủ liên hiệp có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần chính vì thế mà họ đã bị Cộng Sản đánh úp bất thần các chiến khu ở miền bắc, giết cán bộ, đảng viên quốc gia, nổi bật là vụ án Ôn Như Hầu ở Hà Nội. Tại miền nam, thời Nam Bộ Kháng Chiến, dân chúng, đảng phái, tôn giáo tin tưởng Việt Minh là tổ chức kháng chiến yêu nước, đồng hành, cùng nhau đánh Tây giành độc lập, nên sau vụ ám hại Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, vị sáng lập đạo Hòa Hảo, đã đánh thức nhiều người, nhất là tín đồ Hòa Hảo miền Tây.

Thời Việt Minh, Việt Minh Cộng Sản đã lợi dụng bình phong đánh Tây giành độc lập, dựa theo chiêu bài” yêu nước” để triệt hạ các đảng phái quốc gia, người yêu nước, trí thức không theo chúng, nên cảnh xác người trôi sông, rải rác trên những cánh đồng, là kết quả của chiêu bài đoàn kết chống Pháp và sự lầm lạc của nhiều nạn nhân của Cộng Sản. Trong khi mọi người cùng nhau hợp lực đánh Tây, thì Việt Minh Cộng Sản nhắm vào những thành phần trong Việt Minh để giết, thủ tiêu. Kể thù xa là thực dân Pháp không nguy hại bằng kẻ thù gần, là Cộng Sản, kề cận bên, miệng hô hào đánh Tây, nhưng luôn rình rập, giết hại những người cùng hàng ngũ kháng chiến. Kẻ nội thù, giòi từ trong xương, lúc nào cũng nguy hiểm hơn bất cứ kẻ thù bên ngoài.

Thủ đoạn lợi dụng lòng yêu nước, cùng nhau chống ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi nầy đang lập lại tại hải ngoại và trong nước, nên người dân Việt Nam cần phải đề cao cảnh giác trước những lối tuyên truyền” miệng lằn lưỡi mối” của kẻ nội thù, chính là đảng Việt Cộng trong nước và băng đảng Việt Tân ở hải ngoại.

Băng đảng Việt Tân và đảng siêu cướp súc vật Việt Cộng chỉ là một, tức là:” tuy rằng khác tên nhưng chung một thầy”, cả hai đều tôn thờ súc vật Hồ Chí Minh là:” có công với đất nước”.

Cả hai tổ chức trong và ngoài đều có cùng một sách lược, như câu:” đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nên trong nước Việt Cộng ngầm phát động” bảo toàn lãnh thổ” qua các cuộc biểu tình cò mồi với cờ đỏ sao vàng, thì ở hải ngoại, băng đảng Việt Tân cũng phát động rần rộ:” đáp lời sông núi”. Tuy nhiên vì ở môi trường bất lợi, nên chúng mang phải cờ vàng ba sọc đỏ để tránh bị lộ tẩy, nhưng việc” đáp lời sông núi” của Việt Tân đã giúp cho du sinh Việt Cộng, nằm vùng, dưới sự hà hơi tiếp sức của sứ quán, lãnh sự, đã mang cờ đỏ sao vàng, tượng trưng cho” vô tổ quốc” để:” đáp lời đảng bác” khiêu khích những người bỏ nước ra đi, nạn nhân của Việt Cộng vì lá cờ đỏ sao vàng nầy, ngay tại nơi mà họ đang sinh sống.

Ai cũng biết Việt Cộng chính là lũ phản gian, đã tạo thuận lợi và thế đứng, pháp lý cho Trung Cộng ở biển Đông qua văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của súc vật Phạm Văn Đồng ký, công nhận chủ quyền của Trung Cộng ở quần đảo Hoàng Sa.



Ngày nay những hiệp định bí mật song phương, đưa đến thi hành về chủ quyền của Trung Cộng tại vùng đất biên giới Việt-Trung được thực thi bằng qui ước tái cấm mốc biên giới, làm mất hàng ngày cây số vuông và một số di tích lịch sử như Ải Nam Quan, Bản Giốc, Thái thú Việt Cộng” bật đèn xanh” từ lâu cho quan thầy Trung Cộng xâm lược và đồng hóa qua những biện pháp: mở cửa biên giới thông thương như đất của Tàu, dân Tàu di cư sang làm ăn, cưới gã, định cư, Tàu tha hồ khai thác quặng mỏ, rừng, hàng hóa nhập khẩu độc hại vào Việt Nam để giết dần mòn dân chúng… đó là ý đồ thâm độc đặt ách thống trị lâu dài như Trung Cộng đang thực hiện ở Tân Cương, Tây Tạng…do đó, khi Việt Cộng trong nước phát động ngầm chiến dịch” đoàn kết chống Trung Cộng, bảo toàn đất tổ” là lọt vào quỷ kế. Tức là càng đoàn kết gắn bó với cờ đỏ sao vàng để chống Trung Cộng là đã” đồng tình” đứng chung hàng ngũ với Việt Cộng, củng cố cho thái thú, phục vụ lâu dài cho Bắc Kinh, thì họa mất nước gần kề, khi thái thú là kẻ thù gần, nguy hiểm nhất đang thống trị, tức là” đoàn kết với thái thú Việt Cộng” là nội thù nguy hiểm nhất, khi Trung Cộng là mục tiêu giả, xa vời.

Ở hải ngoại, băng đảng Việt Tân cũng hưởng ứng với đảng Việt Cộng trong nước, họ phát động và kích động tình yêu nước, chiêu bài” bảo toàn đất tổ” để lái mục tiêu chống thái thú Việt Cộng sang biểu tình trước các sứ quán Trung Cộng, thay vì trước đây là tại sứ quán, lãnh sự thái thú Việt Cộng.



Kẻ nội thù hải ngoại, nguy hiểm, đứng cạnh bên tập thể tỵ nạn chính là băng đảng Việt Tân, chúng chiếm một số ban chấp hành cộng đồng, khuynh đảo một số tổ chức, đoạn dùng như nơi nầy để làm bàn đạp, lái sang mục tiêu” chống Trung Cộng”, nhưng bên Việt Tân xem súc vật Hồ Chí Minh có công với đất nước.

Chiêu bài yêu nước đã từng bị lơi dụng từ thời Việt Minh cho đến nay, nhiều người, đủ mọi thành phần” trí, phú, địa, hào” đã lầm, tưởng Việt Minh, Việt Tân là có lòng với đất nước, khi họ phát động, kích động lòng yêu nước để thủ lợi.

Băng đảng Việt Tân đã dụ khị một số người trẻ, khoa bảng, có kiến thức nhưng thiếu kinh nghiệm về Cộng Sản, ngây thơ, để làm công cụ cho ý đồ thâm độc, qua chiêu bài yêu nước” đáp lời sông núi” để gom người Việt hải ngoại, nạn nhân Cộng Sản, kể cả những thành phần quân nhân cán chính miền nam từng bị tù đày để cung nhau ” đoàn kết” với kẻ thù là Việt Cộng, cùng nhau” bảo toàn đất tổ, chống xâm lượng Trung Cộng”. Ý đồ nầy đang trên đà phát triển, nên Việt Cộng cử cả tên giáo sư Nguyễn Nhả sang để giải thích về lãnh thổ, lãnh hảI và kêu gọi người Việt hải ngoại nhau đoàn kết với dân trong nước, đảng Việt Cộng, để bảo toàn đất tổ, bảo vệ bờ cõi.

Đây là bài học cũ được lập lại, nên thay vì chống ngoại xâm, thì lại ĐOÀN KẾT với thái thú Việt Cộng, thế là ý nghĩa chống ngoại xâm, đất nước độc lập ĐẾCH CÒN, vì lầm lạc bị giặc Cộng lẫn giặc Việt Tân lừa bịp với chiêu bài” yêu nước” để dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường đi vào quỷ đạo mất nước mà không hay biết, tưởng đâu đi biểu tình chống Trung Cộng là” yêu nước”. Cũng như thời 1945, nhiều người tưởng tham gia Việt Minh đánh Tây là yêu nước, giành ĐỘC LẬP, nhưng nào ngờ tiếp tay cho Việt Cộng để ĐẬP LỘT dân chúng, kể cả những người góp công kháng chiến, sau khi đảng súc vật Việt Cộng thành công từ xương máu của hàng triệu nạn nhân.

Ở hải ngoại, người Việt tỵ nạn Cộng Sản chứ tin hay tham gia vào những lời kêu gọi của băng đảng Việt Tân, kích động lòng yêu nước qua chiêu bài:” đáp lời sông núi” để bị lái chệch hướng sang mục tiêu giả là” biểu tình” trước sứ quán, lãnh sự Trung Cộng là vô ích.

Việc chống Trung Cộng đã có giáo pháp Pháp Luân Công, khắp nơi, họ kiên cường từ năm nầy qua năm khác mà Trung Cộng vẫn tỉnh bơ, còn người Việt Nam, với số lượng không đông, thỉnh thoảng nhào ra” đáp lời sông núi” do băng đảng Việt Tân phát động, đoạn tan biến vào hư vô, khi các cơ quan truyền thông Tây phương không đưa lên những hình ảnh, tin tức để thế giới biết, thì việc” đáp lời sông núi” bá láp nầy đi dần vào chỗ” trớt quớt”.

Đánh vào mục tiêu giả, hao hơi tổn sức và có khi làm mất cảm tình với chính phủ sở tại, khi những cuộc biểu tình” vô nghĩa” nầy, nhất là vào ngày nghỉ cuối tuần, khiến nhân viên công lực, cảnh sát phải đến để canh giữ, hao tốn công quỷ. Nhưng nếu việc làm chính đáng, đánh thẳng vào mục tiêu sứ quán Việt Cộng, cũng nên làm, tuy nhiên biểu tình trước sứ quán Trung Cộng là không bao giờ gây tác động nào, trái lại còn phản tác dụng.

Trong khi kẻ thù tôn thờ:” Hồ Chí Minh là yêu nước” đang đứng bên cạnh, chính là băng đảng Việt Tân, chúng hả hê và” hồ hởi phấn khởi” khi nhìn thấy màn bịp bợm thành công qua những cuộc biểu tình làm trò hề tại sứ quán, lãnh sự Trung Cộng tại các nước Tây phương, được một số người tham dự, nhưng kẻ thù gần là băng đảng Việt Tân và sứ quán, lãnh sự Việt Cộng thì bỏ ngỏ trong cái tư thế:” Mặt Trận chống Việt Cộng, tay sai vẫn yên tỉnh”.

Như vậy, để thể hiện lòng yêu nước một cách có ý nghĩa, trước hết đồng bào trong nước hãy vùng lên biểu tình đồng loạt chống thái thú Việt Cộng với lá cờ vàng ba sọc đỏ, để xác định lập trường chính trị và ở hải ngoại, biểu tình trước các cơ sở của băng đảng Việt Tân, hay tẩy chay, lột mặt những đảng viên Việt Tân nằm trong các tổ chức cộng đồng, đoàn thể là” đáp lời sông núi” đúng nghĩa, kẻ nội thù cần phải tiêu diệt trước tiên để tiến đến” đoàn kết” chống kẻ thù bên ngoài là Trung Cộng. Bài học Việt Minh ngày xưa đang được Việt Cộng và Việt Tân lập lại, cũng dùng chiêu bài” yêu nước, chống xâm lược”./.

tinparis.net
29.08.2011
Last edited by linhgia on Tue Feb 14, 2012 6:48 pm, edited 5 times in total.
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Thế nào là được - Thế nào là tốt


Sống 1 kiếp . Bình An là Được .
(xe)"2" bánh "4" bánh, đi được là được.
Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được.
Người xấu người đẹp, dễ coi là được.

Người già người trẻ, miễn khỏe là được.
Nhà giàu nhà nghèo, hòa thuận là được.
Ông xã về trễ, miễn về là được.
Bà xã càu nhàu, chăm lo là được.

Khi con còn nhỏ, dạy dỗ thật nghiêm.
Sau khi trưởng thành, ngoan ngoãn là được.
Tiến sỹ cũng được, bán rau cũng xong.
Sống 1 kiếp người, bình an là được.

Nhà to nhà bé, có chỗ là được.
Hàng hiệu hay không, mặc được là được.
Tất cả phiền não, biết xả là được.
Kiên trì cố chấp, biết buông là được.

Không phải có tiền, muốn gì cũng được.
Tâm tốt việc tốt, số mệnh ổn định là được
Ai đúng ai sai. Trời biết là được.
Tu phúc Tu thân, mỗi ngày thêm tốt.


Có rất nhiều việc, nhìn xa trông rộng.
Thiên địa vạn vật, tùy duyên là tốt.
Mọi người đều tốt, nhà nhà đều tốt.
Anh tốt Tôi tốt, thế giới sẽ tốt.


Nói nhiều như vậy, hiểu được là tốt,
Vẫn còn chưa hiểu, xem lại cũng tốt
band4 3G McKeno

Post Reply