Góc nhỏ của anh 3 Giang

Tung cánh chim tìm về mái trường xưa. Mong tìm bạn học cũ, nay ở đâu xin nhắn đôi lời!!!

Moderator: CNN

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Việt Cộng, Việt Cộng !

Lê Dinh

Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay.

Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói " Mầy là thằng Việt Cộng" thì có nghĩa người đó là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta, người ta không giận bằng chủi "Mầy là thằng Việt Cộng". Như vậy đủ biết hai chữ Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi. Mà nghĩ cũng đúng thôi.

Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu học Vĩnh Lợi, cách làng Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chơ bán 2 chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi lại, quát to: Đứng lại! Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra chợ để bán cho Tây không? (Lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó). Mẹ tôi run run nói:

- Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn.

- Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao?

- Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy.

- Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị Ủy ban tịch thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ bắn bỏ.

- Dạ mẹ con tôi đội ơn ông.

Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục. Sao nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt thời bé thơ cho đến khi khôn lớn.

Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Tôi còn nhớ rất rõ, ở tuổi 11, 12, tôi say mê những bài hát êm đềm, như:

" Còn đâu trên chiên khu trong rừng chiều
Bên đèo lắng suối reo, ngàn thông reo
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo đoàn quân réo, đạn bay vèo…"
Hay hùng dũng, như:
" Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến…"
Hoặc:
"Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về…"
Và còn nữa:
"Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng…"
Hay là những bài thơ mà giờ đây hơn 60 năm qua, tôi vẫn còn nguyên trong trí nhớ:
"Tôi muốn tôi là một cứu thương
Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường
Nằm lăn trên lá hay rơm ủ
Băng trắng đầu mình những vết thương"

Thật là lãng mạn, thât là dễ thương. Làm sao mà tôi không bị quyến rũ bởi nét nhạc, lời thơ như vậy được. Cho nên tôi có ý nghĩ là mình sẽ phải theo mấy anh lớn để được vào bưng, được nghe tiếng suối reo, ngàn thông reo, được nằm lăn trên lá hay rơm ủ, được nữ y tá săn sóc vết thương… Rồi một ngày nọ, tôi được theo đoàn biểu tình đi bộ từ làng Vĩnh Hựu của tôi lên tới tỉnh Gò Công, cách xa làng tôi 14 cây số, để gọi là… ủng hộ Việt Minh. Thức dậy từ 3 giờ khuya, chuẩn bị cơm vắt muối mè, tập hợp lại rồi tháp tùng đoàn người, đi theo nhịp trống quân hành "rập rập thùng, rập rập thùng"… lội bộ suốt 14 cây số, nhờ vừa đi vừa hát "Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng", cho nên thằng con nít 11 tuổi như tôi, khi đến nơi, nào có thấy chút mệt mỏi gì đâu? Nhưng sau lần gặp gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn cha mẹ để ra bưng biền.






Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe đến nó. Năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng này mà phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vô miền Nam xa lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng. Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng này mà hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa loài quỷ dữ. Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng "Việt Cộng về" hay "Mấy ổng về" là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố để trốn khỏi bọn Việt Cộng. Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp mô, đặt mìn, phá cầu… Còn Việt Cộng ngày nay thì ngoài tham nhũng còn tôi bán nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác. Việt Cộng ngày nay bán rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu, Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm trước thằng Tàu như sợ ông nội, ông cố của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán xâm lăng.

Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng nghĩ sao - nhưng không biết những tên này có biết suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao gần cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bò chạy nữa, cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao? Chúng không tự đặt câu hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để rời khỏi Saigon tháng tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biên lên đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ? Mình cũng là người như họ, đầu, mắt tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ mình mà chạy hết như thế? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì đâu?

Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa. Nhìn lại, từ cái thời bé thơ, thuở mà mẹ con tôi đem hai chục trứng gà ra chợ bán để có tiền mua thức ăn cho gia đình, đến ngày nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Từ những việc bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó, cho đến những vụ lường gạt, gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay, nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì chỉ hại một người thôi. Còn Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất đai, sông biển, núi rừng không còn, nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là Việt Cộng tàn phá cả đạo đức, dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…

Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Những nguời đã quá sợ chúng mà bỏ xứ ra đi, để xứ cho chúng ở cũng chưa được yên thân. Chúng còn cho tay chân bộ hạ, núp bóng dưới danh nghĩa này, danh nghĩa nọ, chạy theo ra ngọai quốc để quyết hành hạ những người tỵ nạn Cộng sản này cho đủ… 36 kiểu của chúng. Thật trời không dung, đất không tha. Ngày xưa, chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy "biết tàng hình" là gì, chưa được nhìn chiếc đồng hồ "12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái" là gì, không hiểu cái bồn cầu "để rửa rau" hay để làm gì, trong khi miến Nam lúc đó đã là một trong những quốc gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành chủ nghĩa Cộng sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam. Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng rượt theo ra đến ngọai quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ chúng mà bỏ chạy 36 năm trước.

Nếu tôi có làm anh muôn vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi, thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin đừng bảo tôi là Việt Cộng. Mầy là thằng "Việt Cộng", hai tiếng này nặng lắm, anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thât nặng, đó là tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiêng chửi đương thời. Vì hai tiếng này đồng nghĩa với ác nhân, hung đảng, ác quỷ, ác tinh, man di, mọi rợ, lưu manh, gian xảo, côn đồ, thảo khấu… , lọai quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.

Lê Dinh
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Phủ cờ hay không phủ cờ

Post by linhgia »

Phủ cờ hay không phủ cờ


Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ .
Xác thân này đâu chết cho quê hương ?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường !
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách !
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách .
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau !
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào ,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ .
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi .
Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì ??
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước ,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước !
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ .
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ .
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng ,
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng !
Xót thân này khi chết bỏ lại đây !
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai ??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ .


=============================



Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Xác thân này có công trạng gì đâu?
Trận chiến chưa xong đã vội lên tầu.
Mặc con cái đang còn ăn thua đủ.
Tôi la hét ,tôi kêu gào tử thủ.
Nghe theo tôi nhiều kẻ đã quên mình.
Tuân lệnh tôi bao thuộc cấp hy sinh .
Cho rạng rỡ cờ vàng ba sọc đỏ
Mai tôi chết, có gì đâu ,chuyện nhỏ !
Tôi đã một thời vai áo đầy sao.
Trên ngực tôi chẳng thiếu chiến công nào.
Dẫu công trạng là máu xương đồng đội.
Mai tôi chết cũng xin đừng luận tội.
Tha cho tôi lời phán xử cuối cùng.
Hãy để tôi đi một cách thong dong.
Xin tạ lỗi với anh em lần cuối.
Mai tôi chết đừng phân ưu tiếc nuối
Nhắc tên tôi khiến đồng đội căm thù.
Hãy để cho tôi yên giấc ngàn thu.
Vì đã sống một đời không đáng sống.
VIỄN THÁM 22
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Phủ cờ hay không phủ cờ

Post by linhgia »

TÂM SỰ TUỔI GIÀ.

(Đỗ Hữu Phương)




Từ khi người Việt tị nạn trên thế giới vào năm 1975 đến nay thì thế hệ Cha Mẹ chúng ta, bậc Anh Chị chúng ta đang vui hưởng tuổi già và bây giờ đến lứa tuổi mà người ta gọi là baby boomer cũng đã và đang bắt đầu về hưu rồi.

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khung viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già. Hơn bốn mươi năm trôi qua, chúng ta đã trải qua một đoạn đời trai trẻ trong một đất nước chiến tranh. Dầu trực tiếp cầm súng chiến đấu tại mặt trận, hay gián tiếp chống lại kẻ thù chung, chúng ta đã trải qua những năm tháng sống nay, chết mai và cuộc sống không có tương lai. Và rồi, những năm bị đầy đọa cực kỳ gian khổ trong các trại tù hay những ngày lo sợ vì đói khát, chết chóc trong khi tìm cách vượt biên tìm tự do. Đến được đất nước thanh bình với một thân thể đã yếu, tinh thần còn vương vấn những khổ đau trong quá khứ, và rồi phải tiếp tục đi “cầy” để lo cho cuộc sống trên xứ lạ quê người…

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc. Vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống. Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người, nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền, và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái. Ta vẫn biết khi ta ra đời ta đâu có mang nó đến, và khi ra đi chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn, nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống, nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống. Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú. Chúng ta phải thay đổi cuộc sống khổ hạnh thời xa xưa, đừng nghĩ đến những năm tháng đói, lao động khổ cực trong các trại tù miền Bắc, hay những ngày tháng đói, khát trên biển cả trong khi đi tìm tự do. Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình. Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt. Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện ngoài xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già.

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ. Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rổi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa nguyên, đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gở bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nửa. Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghỉ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng. Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một lều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghỉ đến đồng tiền, đừng nghỉ đến giàu hay nghèo nửa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền. Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta. Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già. Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại. Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.



Tứ khoái của tuổi già là: Ăn, ngủ, thể dục và du lịch. Ăn được ngủ được là Tiên. Ăn và ngủ đi đôi với nhau. Người lớn tuổi có nhiều thì giờ nghỉ ngơi, cần có chế độ ăn uống bổ dưởng, cung cấp đủ calories cho cơ thể. Sự luyện tập thể dục là thỏi nam châm của cuộc sống và là kim chỉ nam của tuổi thọ. Đi du lịch để cho cuộc đời thoải mái, trí óc thanh thản và vui sống.

Khi về già, chúng ta thường hay sống về quá khứ, hay nhớ lại chuyện xưa. Sự nghiệp, vinh quang giả tạo xưa kia đã trở thành mây khói, xa vời. Hẹn nhau trong những buổi họp mặt để ta có nhiều người bạn tâm tình, kể lại những kỷ niệm đẹp trong quá khứ…vui cười thích thú. Vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau, luôn luôn yêu thương người bạn đời, gắn bó với nửa kia của mình, là điều mà chúng ta mong ước. Đưa các cháu đi học, đi ăn, chơi đùa với các cháu… là thú vui của tuổi già. Ta phải làm thế nào tuổi già mà tâm không già, thế là già mà không già. Nụ cười là lều thuốc bổ quí nhất. Chúng ta cần tránh đi những sự cải vã, tranh dành hơn thua từng lời nói hoặc những tranh chấp vô ích với bất cứ ai. Chính những lúc cải vã, giận dữ đó đã đánh mất đi những niềm vui trong cuộc sống, không thích hợp trong tuổi chúng ta, nhất là những người đang đau yếu. Chúng ta phải đối diện với bệnh tật một cách lạc quan, tự tin, đừng quá lo âu. Khi đã làm hết khả năng theo tầm tay, sẽ có thể ra đi mà không hối tiếc. Hãy để Bác Sĩ chăm sóc, luôn luôn giử bình an trong tâm hồn. Chúng ta có thể nói là mình có hạnh phúc thật sự khi có sức khỏe tốt, chịu đi tập thể dục, có cơ hội du lịch thường xuyên, ngủ ngon, ăn uống ít kiêng cử khi vào tuổi hoàng hôn. Thiên đàng không phải đi tìm đâu cho xa mà thiên đàng do ta dựng lên và chui vào đó mà hưởng hạnh phúc.

Sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quí trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghiã của nó làm cho cuộc sống vui hơn, giầu ý nghiã hơn.

Hoàn toàn khoẻ mạnh, đó là thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh…Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẳn lòng giúp người, có lòng khoan dung. Người thích làm điều thiện sẽ sống lâu. Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai, bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị cuả mình đó là cách sống lành mạnh.

SINH, LÃO, BỆNH, TỬ là qui luật ở đời, không ai chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm,


và.....


Cuối cùng cuộc đời của một người cũng chỉ là con số không to lớn.


Đỗ Hữu Phương
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Phủ cờ hay không phủ cờ

Post by linhgia »

Đừng bảo tôi già

(Không rõ xuất xứ)


Lâu nay cứ tưởng mình già ,
Bây giờ mới biết quả là y chang
Suốt ngày nói chuyện thuốc thang
Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa
Tivi dỗ giấc ngủ trưa
Sức khoẻ lại giảm , mắt mờ , da nhăn
Đọc chữ phóng đại mấy trăm
Lại còn lãng trí , tần ngần , hay quên
Cả ngày mỏi mắt đi tìm
Hết tìm khoá cửa lại tìm khoá xe
Nhiều hôm thăm viếng bạn bè
Được dăm ba phút nằm phè ngủ ngon
Tóc bạc chen chúc tóc non
Không dám nhổ nữa sợ còn bình vôi
Kiến thức mới nuốt chẳng trôi
Bước ra khỏi cửa trùm người áo len
Ra đường chẳng ai gọi tên
Cứ gọi chú ( cô ) , bác có phiền hay không ?
Khi lên xe buýt dẫu đông
Dăm người nhường chỗ " Mời ông ( bà ) cứ ngồi "
Lại hay nhạy cảm , tủi đời
Thích được săn sóc hơn thời ngày xưa
Thấy tình nhân trẻ vui đùa
Mà lòng chua xót phận vừa cuối thu
Xuốt ngày trung tiện lu bù
Cơm thì phải nhão , phở cho thật mềm
Thích nghe tiếng hỏi , lời khen
" Lúc này thon thả , trẻ hơn dạo nào "
Thức ăn cứ lấy ào ào
Ăn thì chẳng nổi mà sao cứ thèm
Ngủ trưa giấc cứ dài thêm
Đứng , ngồi , " chuyện ấy " ngày thêm chậm rì
Đánh răng , tìm thuốc loại gì
Để răng được trắng không thì khó coi
Cà phê chỉ hớp một hơi
Đêm về trắng mắt nhìn trời đếm sao
Gặp người cùng tuổi như nhau
Thường hay hỏi " Bác thế nào ? Khoẻ không ? "
Cell Phone thì khổ vô ngần
Lúng ta lúng túng thường không trả lời
Để chuông reo mãi một hồi
Mở ra thì đã chậm rồi còn đâu ?
Bệnh tật nó đến từ đâu
Cao mỡ , cao máu lâu lâu ... tiểu đường
Tránh né việc nặng là thường
Việc nhẹ thì cũng đau xương , mệt nhoài
Đi chơi càng khổ gấp hai
Đi đâu cũng ngại đường dài lái xe
Giữ thân cho khỏi tròn xoe
Vòng hai sao cứ bè bè phình to
Thang lầu càng nghĩ càng lo
Chỉ sợ trượt ngã khổ cho thân này
Ngủ thì chẳng ngủ được say
Bốn năm giờ sáng dậy ngay tức thì
Sinh nhật , sinh nhiếc làm gì
Cái chuyện lẻ tẻ ấy thì nên quên
Vẫn hay nhìn kiếng thường xuyên
Xem chân dung đã trở nên thế nào
Buồn tình đếm thử xem sao
Bao nhiêu triệu chứng ấy bao nhiêu già !


Thay cho lời kết - Chúc an-mạnh ;-))


Hihihi...
Không gìa sao bảo ...không nghe!
Đồng hồ cứ chỉ sáu que mãi hoài
Ôn ơi, Ôn chớ noái tài
Nhờ Mệ ra tiệm mua vài viên " Vai..ga..ra "
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Xem phim 2016 - Obama's America




Tôi vào trong rạp hát 10 phút trước giờ bắt đầu chiếu, nghĩ bụng chắc chỉ lèo tèo có được vài người. Nhưng may mắn còn tìm được chỗ ngồi.

Phim dài một tiếng rưỡi, nhưng rất mạch lạc, rõ ràng dễ hiểu. Tất cả những dẫn chứng, những chi tiết Dinesh D’Souza nêu ra trong phim vẫn làm tôi nghi ngờ, chưa sáng tỏ. Về nhà lục lọi tìm tòi nhiều hơn. Càng tìm tòi tôi càng hiểu vỡ thêm ra.

- Theo nguyên tắc đầu tư, người có vốn 51 phần trăm hay nhiều hơn là người trực tiếp hay gián tiếp nắm quyền điều khiển công ty. Có quyền vạch ra đường lối hoạt động mới. Những đại công ty tham gia quỹ “Khích động” (Stimulus) đã nhận được vừa tiền vừa người chỉ huy mới. Như vậy có khác gì những công ty đó đã bị chuyển sang cho chính phủ kiểm soát không? Đây là “Quốc Hữu Hóa” công ty tư nhân, không hơn không kém.

- Chương trình cung cấp dịch vụ bảo vệ sức khoẻ, chữa trị bệnh hoạn cho dân chúng thành luật chính thức đồng nhất cho cả nước. Luật “Obamacare” này cũng là một hình thức “Quốc Hữu Hóa” như trên. Vì cần phải có thêm rất nhiều nhân viên của chính phủ liên bang để kiểm soát, áp chế và chế tài. Chính phủ liên bang phát tướng mập mạp hẳn ra.

Hai việc này hợp lại đủ mang đến tính cách và nguyên tắc căn bản của “Trung Ương Tập Quyền”.

Obama là người thông minh, khôn khéo và cao vọng. Năm 2008 ông đã may mắn nắm được yếu tố “Thiên thời - Địa lợi – Nhân hòa”. Từ một thượng nghị sĩ mới (junior) nhẩy lên làm tổng thống trong thời gian ngắn ngủi. Lý lịch và thành tích còn mù mờ. Và ông muốn dùng quyền hành tổng thống làm thay đổi thể chế chính trị của nước Mỹ. Ông muốn tập trung quyền hành và tài chánh vào cho chính phủ liên bang nhiều hơn.

Ngày khai thiên lập địa, nước Mỹ chỉ có 13 khu vực rộng lớn dọc bờ biển phía đông. Những buổi họp kín về việc thành lập nước Mỹ lúc bấy giờ chắc chắn đã có những người chủ trương gom cả 13 khu vực đó vào một mối, nhưng đã không thành công... Những người di dân mới từ Anh quốc, từ Ái nhĩ lan, từ Đức, từ Âu châu đã chiếm giữ và khai thác được từng khu vực riêng biệt không bao giờ chịu buông bỏ tài sản, buông bỏ công lao mồ hôi nước mắt, buông bỏ sự tự do mới có của họ để chịu sự chỉ huy của người khác. Cho nên bản hiến pháp đã phải được soạn thảo cho phù hợp, đáp ứng với sự kiện riêng rẽ đó.

Hình thức cấu tạo liên bang và tiểu bang hoàn toàn mới lạ và khác hẳn các thể chế đã có từ trước trên thế giới. Mỗi tiểu bang được coi như một quốc gia nhỏ riêng biệt. Có luật lệ riêng rẽ, có cơ cấu hành chánh và ngân quỹ độc lập. Lãnh thổ riêng và dĩ nhiên có lãnh chúa riêng... Và liên bang chỉ là chiếc dù che chở cho tiểu bang. Chính phủ liên bang trách nhiệm về quân đội, độc quyền về ngoại giao và tuyên chiến với nước ngoài... Ngoài ra tiểu bang lại cử đại diện (dân biểu và thượng nghị sĩ) lên làm cố vấn và cũng là kiểm soát chính phủ liên bang. Thậm chí hội đồng các thống đốc (các lãnh chúa) cũng có thể đòi hỏi, ra yêu sách cho chính phủ liên bang được nữa. Có người đại biểu nào bỏ phiếu đồng ý cho đạo luật nào mang bất cứ sự thua thiệt nào đến cho tiểu bang họ đại diện chưa?

Tổng thống Obama muốn sửa đổi hệ thống này bằng cách quốc hữu hóa, gồm thâu tất cả mọi phương tiện về cho chính phủ liên bang. Những đại công ty đang nằm rải rác khắp nơi, trên những tiểu bang khác nhau... Nhiều tiểu bang vì muốn bảo vệ công ăn việc làm cho người dân trong tiểu bang của họ đã áp dụng luật lệ riêng biệt. Lỏng lẻo, dễ dàng với công ty gốc địa phương nhưng chặt chẽ với công ty khách. Như không cho phép lẫn lộn nhiều dịch vụ với tiểu bang bạn, ngân hàng, mua bán bảo hiểm sức khoẻ, thi cử lại vào các đoàn thể chuyên môn rồi mới được phép hành nghề... mở chi nhánh thương mại...

Việc quốc hữu hóa này tạo ra sự chống đối của tất cả tiểu bang liên hệ. Họ bị cướp mất quyền lợi, cướp mất quyền hành thì không thể im lặng được. Vài tiểu bang đã ngang nhiên bất chấp lệnh phải áp dụng, phải thi hành những luật lệ mới ra về “Obamacare” và “di dân” do Obama lập ra là những thí dụ điển hình về điểm này. Dù cho chính phủ Obama phản ứng lại bằng việc cắt bỏ ngay những ngân khoản trong số thuế thâu được, đáng lẽ ra phải phân chia cho họ, nhưng họ cũng không cần.

Một số sự kiện quan trọng khác xẩy ra cùng lúc mang cho người ta ý nghĩ Obama muốn giới thiệu xã hội chủ nghĩa cho nước Mỹ. Trong hơn ba năm cầm quyền, số người sống lệ thuộc vào tchính phủ tăng thêm 43%. Tiểu ban ngân sách thượng viện (senate budget comittee) báo cáo hiện tại có 107 triệu người (35% tổng số dân) hàng tháng nhận trợ cấp nghèo hay phiếu thực phẩm (food stamp). Nhân số đó với $100 thôi, mỗi tháng chính phủ đã vứt đi một số tiền khổng lồ và Obama không có một biện pháp nào làm giảm bớt đi mà còn làm cho tăng thêm lên. Lực lượng 107 triệu người chỉ biết tiêu thụ, không sản xuất... Tin tức cũng cho biết thêm nhiều người trong số 23 triệu người thất nghiệp đã thành lười biếng, thụ động. Họ được chính phủ cung cấp cho đầy đủ trợ cấp, tiện nghi đời sống chỉ thấp hơn trước chút ít thì tội gì phải cố gắng sông sáo đi tìm việc làm? Nhưng tìm ở đâu cho có việc làm ? Hai lực lượng này, vẫn tiếp tục gia tăng, cộng lại thành suýt soát 44% tổng số dân cư không sản xuất. Đây là chưa kể nhóm người già hưu trí như tôi... Sông bạc, núi vàng cũng phải cạn !!!

Trong 2 năm gần đây danh sách những thành phố, những tỉnh lỵ, những tiểu bang từ đông sang tây đã và đang áp dụng đường lối xã hội này đi dần đến tình trạng phá sản tăng lên nhanh chóng.

California từng đứng hạng thứ tư, thứ sáu trên thị trường kinh tế quốc tế, hiện tại ngân quỹ liên tục thiếu hụt lên tới hàng tỷ mỹ kim. Có ít nhất 4 thành phố trong tiểu bang California đã và đang khai phá sản. Thử hỏi khi ngân quỹ không có tiền, tiền trợ cấp, phiếu thực phẩm hàng tháng còn tiếp tục được phân phát ra không? Tiền vay nợ để tiêu dùng hôm nay cũng có hạn kỳ phải trả lại, cả vốn lẫn lời. Có ai muốn con, cháu hay chắt của mình phải trả nợ đậy đó không? Chủ nợ lớn nhất là Trung cộng... Cứ cái đà này, con cháu nước Mỹ, ngay thế hệ sắp tới chắc sẽ phải đi ở đợ cho Trung cộng để trừ nợ chăng?

Hai năm đầu nhiệm kỳ, Obama đã có tất cả hai viện quốc hội, và tự do tung hoành, nhưng cao vọng trở thành tham vọng làm cho mất khôn bỏ vuột mất cơ hội tốt. Dân chúng thành mất tín nhiệm, lo sợ nên phe đối lập mới có cơ hội lấy lại được hạ viện. Những người phụ tá lẳng lặng rút lui dần. Cựu thống đốc người Mỹ gốc Hoa, sau khi gặp riêng Obama, rút bỏ lời hứa hợp tác với Obama ở cấp bậc nội các nhưng nhận lời mời của Hillary đi làm một việc nhỏ bé hơn. ”Chief of staff” ngang hàng với chức vụ “thủ tướng” thay đổi ba lần. Người tâm đắc nhất đầu tiên tự ý rút lui và trở thành thị trưởng Chicago; một chức vụ thấp kém quá xa. Bộ trưởng quốc phòng nhiều kinh nghiệm từ thời Bush bỏ cuộc. Obama tự làm mất đi nhiều người phụ tá giá trị ở những vị trí quan trọng vì họ không đồng ý với chính sách và không muốn bị mang tiếng về sau. Ngoại trưởng Clinton đi khắp thế giới hứa hẹn, nhưng chỉ là hứa miệng vì Obama không làm một việc gì chứng tỏ cho thấy có sự yểm trợ thực tiễn sau những lời hứa đó. Cố lục lọi tìm tòi thêm cũng không thấy có gì tốt đẹp hơn.
Phim “2016 Obama’s America” cho thấy con đường Obama đang đi phản ảnh những lý thuyết (chưa bao giờ được thực hành) của những người thầy, người bạn ông đã gặp gỡ và học hỏi. Và những lý thuyết đó, có thể thành công tại các quốc gia khác, nhưng không thể thành công trên nước Mỹ được. Nhiệm kỳ thứ hai của Obama sẽ chỉ là bốn năm phí phạm. Sẽ chỉ làm cho vết thương nặng nề hơn nhưng không làm thay đổi con bệnh. Và bốn năm đó sẽ chỉ tạo thêm sự chia rẽ, nghi ngờ, đề phòng mạnh mẽ hơn, chối bỏ tài năng lãnh đạo của những người da mầu tương lai.

Hình ảnh hai bàn tay cùng mầu đen được đặt cạnh nhau trong phim: một của D’Souza và một của Obama là lời chào mừng, sự vui sướng, hy vọng của người có cùng mầu da, của nhóm thiểu số, nhưng cũng là lời phân trần, lời giải thích lý do tại sao tác giả đã quyết định thực hiện cuốn phim này. Ông không có dã tâm làm cho Obama thất bại. Chỉ vạch ra sự thật hiện tại và bài học cho tương lai. Tự Obama làm cho thất bại. Tự Obama làm cho phe đối lập có lý do mạnh thêm. Do một chủ trương không thể áp dụng được và cũng không hợp thời. Do sự hấp tấp vội vã, cố chấp, và do sự thiếu hậu thuẫn, đồng ý của phe đối lập và của ngay người thân cận.

Tất cả những lời nói của Obama trong hai năm sau cùng đã thành lời truyền giáo rẻ tiền, chỉ lập đi lập lại một điều cũ rích trong sách mọi người đã nghe, đã hiểu nhưng không kiểm chứng được kết quả. Lời kể công đã loại bỏ được Osama Bin Ladin chỉ là lời gỡ gạc. Những người hiểu chiến thuật, chiến lược quân đội sẽ cho biết đó không phải là một việc làm có thể một sớm một chiều hoàn tất được. Kết quả làm việc liên tục nhiều năm của quân đội, của những người chuyên môn đặc biệt, đã mang cơ hội tốt tới cho Obama. Và xém chút nếu ông không nghe lời Hillary thì cơ hội tốt đó cũng vuột đi. Điều trớ trêu là ông đã kiêu căng, tham lam, không hiểu biết nên tiết lộ cuốn phim tiến hành cuộc hành quân đó ra cho báo chí, đúng ra chỉ là báo cáo tối mật cho riêng ông thôi, làm cho ông bác sĩ người Pakistani, người đã góp phần giúp đỡ quan trọng cho cuộc hành quân khó khăn đó bị lộ diện và bị bắt. Có ai trên thế giới này còn muốn hợp tác làm việc với người sẵn sàng bán đứng bạn bè sau khi xong chuyện không ? Những người Việt hay Phi, hay thế giới tin tưởng Obama sẽ giúp chận đứng Trung cộng tại biển Đông có bằng chứng ông sẽ giữ lời hứa không ? Ông đã hứa hẹn quá nhiều chuyện và có bao nhiêu chuyện thành tựu?

D’Souza - chủ tịch trường đại học King College tại thành phố New York, cũng là người nghiên cứu cho Policy Review – đã vạch ra được ý nghĩ, hành động, những cá tính rõ ràng đó bằng những câu trả lời phỏng vấn của những người quen biết, những người đã có liên hệ với Obama. Tánh mạng của ông nhiều lần đã bị xua đuổi, đe dọa trên con đường thu thập những tài liệu đó. Là thầy dậy học nên ông ta trình bầy ra hết như lời giảng giải, dậy dỗ. Như làm những hình ảnh trắng đen còn lờ mờ sáng tỏ lên nhanh hơn. Như giúp phát triển một bài toán khó.

Tôi hiểu thêm đây cũng là tiếng thở dài nuối tiếc, là lời báo động về những nguy hại lớn lao hơn sẽ quay trở lại gây cản trở cho bước tiến của những người da mầu có nhiệt huyết có tài năng chỉ muốn góp phần làm cho thế giới này không còn thuộc quyền của một nhóm người riêng biệt nào nữa nếu Obama còn tại chức và tiếp tục tung hoành trong việc phá tung căn nhà đang yên vui có sẵn.

Obama phạm quá nhiều lỗi lầm lớn. Lỗi lầm lớn nhất là đã phá bỏ, hay ít nhất làm hư hỏng nặng cây cầu, cánh cửa cơ hội, con đường cho nhóm người đã ưa thích ông, giúp đỡ ông, của những người có cùng mầu da với ông đi tiếp lên. Ông đã tạo thêm ngờ vực, chia rẽ, làm mất lòng tin, làm sống lại ý nghĩ đề phòng, ngăn chận và kiểm soát như đối với những người phản loạn. Và đây đã là mối quan tâm của D’Souza.

Con trai tôi ra khỏi đại học đã hơn một năm phải quyết định trở lại học thêm, tuy không có tiền học. Những điện thư của tôi gởi cho con phân tách tình hình chính trị không bị con phản đối, chỉ trích hay độc đoán nữa. Có lẽ nó đã tự tìm hiểu ra sự thực

Như đã nói ở trên, bất cứ ai trở thành tổng thống của nước Mỹ cũng không làm tôi bận tâm. Qua hơn 200 năm rồi, cơ cấu tổ chức chính trị của nước Mỹ đã tự chứng minh là cơ cấu rất chặt chẽ, hiệu nghiệm. Một hệ thống “chia để trị” hữu hiệu và được ưa thích. Những người tham dự ai cũng có phần quyền hành riêng và liên hệ giây chuyền với nhau. Hệ thống đó phải là căn bản nghiên cứu hiểu biết nằm lòng cho những ai muốn chen chân vào tầng lớp lãnh đạo tương lai. Obama muốn phá bỏ cơ cấu này và thất bại.

Obama có được tái cử nhiệm kỳ thứ hai cũng không là tai họa lớn. Đảng đối lập chỉ cần nắm hoàn toàn được cả hai viện quốc hội thì ông ta sẽ trở thành tổng thống “bù nhìn” không thể nhúc nhích được. Những thành quả ông vừa hấp tấp chiếm được sẽ bị hóa giải... Cơ cấu tổ chức hiến pháp đã tiên đoán và xếp đặt biện pháp sửa chữa từ lâu rồi. Hết nhiệm kỳ ông và gia đình sẽ trở thành giầu có, nhiều lần triệu phú hơn, sẽ sống cuộc đời xa hoa phú quý mới cho đến ngày chết. Và mọi chuyện sẽ trở lại như thường lệ... Nhưng nhóm da mầu chắc chắn sẽ phải mất thêm những thời gian dài dặc khác, mất thêm rất nhiều tiền bạc mới có thể chỉ được lấp ló ngoài khung cửa...

Việc bỏ phiếu bầu cử hôm nay không phải chỉ là hành động đơn giản, giúp thoả mãn những gì xẩy ra hiện tại mà sâu xa hơn, nếu biết suy nghĩ tính toán, thấu hiểu thực trạng thì có thể giúp hoạch định một chính sách, dọn một con đường đi cho nhiều năm sắp tới cho chính mình, cho con cháu và cho tương lai của quốc gia mình đang nương náu và con cháu mình gọi là quê hương.

Phải cám ơn D’Souza đã vạch ra sự thật và khai thị. Con đường đi là do mình định đoạt.
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

VỌNG TÂM & CHÂN TÂM.
(Cảm tác theo giáo lý đạo Phật)



1- VỌNG TÂM

Chạy theo cuộc sống bởi kim tiền
Chất chứa buồn phiền cũng phát điên.
Quên hết nghĩa tình người giúp đở
Vong ân , bội bạc khổ triền miên .

Đắm say ái dục cũng buồn thay!
Không sống thủy chung lổi tại ai?
Đau khổ cuộc đời bao giọt lệ!
Đam mê vật chất cõi trần ai.

Danh vọng trần gian lắm lụy phiền
Quyền cao chức trọng chẳng bình yên.
Vô thường cõi tạm , đời thay đổi
Mất cả gia tài , hết phúc duyên!

Vọng tâm đau khổ biết bao người
Vật chất chạy theo lụy cả đời.
Biết đủ - không tham lam chiếm hữu
Cuối đời hối hận đã tàn hơi !







2- CHÂN TÂM

Chân tâm như mặt nước hồ thu
Không nổi phong ba bởi hận thù!
Luôn giữ thân tâm thường tĩnh lặng
Phát sanh trí huệ bậc chân tu.

Tinh tấn tu hành sạch vọng tâm
Không theo trần cảnh phải hờn căm!
Vô thường vạn pháp nên buông xả
An lạc thân tâm mãi niệm thầm.

Tứ Diệu Đế chân lý khởi đầu
Nguyện theo chánh pháp chịu ân sâu.
Dị đoan mê tín nên từ bỏ!
Bát Chánh Đạo cao siêu nhiệm mầu!

Chân tâm siêu thoàt cõi an nhàn
Không tử không sanh nơi Niết Bàn.
Thoát cảnh luân hồi đời biển khổ!
An vui vĩnh cữu chẳng sầu mang.



Minh Lương Trương Minh Sung
Cali . ngày 09 / 09 / 2012
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Luận về Phở

Cả hơn tuần nay tôi ể mình, không có ra ngoài. Hồi sáng thấy trong người khỏe lại, chợt thèm phở cách gì.

Nhắc đến phở là đúng băng tần của tôi rồi, bởi vì tôi có rất nhiều kỷ niệm riêng tư về phở với ông bô của tôi, kể hoài không hết. Nay đã về hưu, và ông bô tôi cũng đã leo lên bàn thờ ăn xôi nghe kèn từ hơn 30 năm nay rồi, nhưng mỗi lần ăn phở đều ít nhiều nghĩ đến ông bô tôi.

Mặc dù xuất thân "Cao Cẳng Sư Cụ Đông Dương", ông bô tôi vẫn thuộc loại thầy giáo thủ cựu, đạt tiêu chuẩn "thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn", mà tôi lại là con trai đầu lòng - cậu cả con bà hai, loại "con đợi con chờ, con cầu con khẩn" - nên được ổng cưng lắm, mà càng cưng lại càng chết... cha tui! Ổng o ép tôi từ cái học đến cái ăn, muốn nhào nặn tôi thành một "bản sao" của ổng. Về cái học thì thỉnh thoảng ổng lại múa roi mây, bắt chia “vẹc bờ” các “tăng” các “mốt”, lạng quạng là ổng lôi tôi ra "uýnh biểu diễn" cho đám học trò của ổng coi chơi, uýnh đến nỗi không lớn được, thành thử bây giờ vóc vạc nhỏ thó. Về cái ăn thì ổng ăn cái gì, tôi phải ăn cái đó, ổng ăn kiểu gì tôi phải ăn kiểu đó.

Riêng về phở thì gần hết một đời, tôi vẫn chưa thấy ai mê phở như ông bô tôi. Đối với ổng, ăn phở không phải để ăn cho no, mà để ăn cho... sướng! Hồi 1954 trở về trước ở Hà Nội, thành phố bé bằng cái bàn tay, không tiệm phở nào mà ổng không dẫn tôi tới ăn thử, để chọn những chỗ ngon nhất theo cái "gu" của ổng. Ổng chê phở Cửa Nam là nước không trong, bánh không mỏng, không dai, nhất là ổng cực lực đả kích món phở tái sách của tiệm này. Theo ổng, phở thì phải là phở bò, và là phở chín, thịt mới thơm, còn tái thì có mùi gây của thịt bò sống, làm mất mùi phở, đồng thời thịt sống làm nước phở "đục như nước cống", ăn phở tái là không biết ăn phở(!). Ổng cũng thích nhậu sách bò lắm chớ có phải không đâu, nhưng phải là sách chấm tương gừng, ăn với húng giũi thôi, không thể cho vào phở được. Ổng chê phở Cửa Nam thua xa phở Cầu Gỗ. Ổng có thể ăn phở sáng-trưa-chiều-tối-khuya, từ sớm tinh mơ đến tối mịt mờ khuya lắc khuya lơ, bất cứ lúc nào, và có thể ăn ngày này sang tháng khác. Ổng coi phở như một món ăn chơi, thích lúc nào thì ăn lúc nấy, ăn lấy hương lấy hoa thôi. Một phần cũng vì bát phở (từ ngày vô Nam tôi mới quen kêu bằng tô phở) Hà Nội thời đó nhỏ xíu, ít xỉn, nông toẹt - tiếng văn chương kêu bằng "thanh cảnh " - tuổi thiếu niên trổ giò của tôi hồi đó thì chỉ húp ba bốn húp là tiêu bát phở! Chả là phở gánh Hà Nội ngày xưa không ăn bằng thìa (muỗng), chỉ có đũa để gắp, và... kê miệng húp!

Ông bô tôi chọn phở chứ không chọn chỗ, ổng chịu nhất là gánh phở cố định ở Phố Hàng Vôi, khúc gần Ấu Trĩ Viên hồi đó (bây giờ chả biết đã được xây khách sạn hoặc công ty gì nữa). Ăn phở gánh Hàng Vôi vào giờ đi làm buổi sáng thì phải xếp hàng, rồi tự kéo ghế đẩu ngồi ăn ngay trên vỉa hè. Nghỉ hè, ổng chấm thi chấm cử xong, thường đưa tôi ra bãi biển Đồ Sơn, ô tô ca (xe đò) đi ngang Hải Dương thì mua bánh đậu xanh Rồng Vàng, để ghé Hải Phòng, sau khi ăn phở Hợp Lợi ở Phố Cát Dài (hình như số nhà 215 thì phải, lâu quá quên mất tiêu) thì dùng làm món tráng miệng. Tiệm phở Hợp Lợi này còn nổi tiếng về các món phở xào dòn, xào mềm, cũng như phở áp chảo khô, áp chảo nước. Hóa nên từ nhỏ xíu tôi đã lây cái bệnh mê phở của ông bô tôi, nhưng không mê đến nỗi quá khích như ổng. Ổng đả kích các loại phở "biến tấu" như phở gà, phở sốt vang... cho rằng "phở thì phải là phở bò". Tôi cũng có thể ăn phở bất cứ lúc nào đói bụng, và có thể ăn mỗi ngày mà không chán. Thậm chí hồi nhỏ xin tiền ăn phở vào buổi chiều, bà bô không cho, bắt ăn cơm, nhiều lần tôi phải giả vờ ốm (bịnh) để đòi ăn phở.

Chả biết ở Sài Gòn trước 1954 có tiệm phở không, chỉ biết là từ sau 1954 thì nhiều tiệm phở Bắc mới theo nhau mọc lên, và cha con tôi ngày ngày đi "duyệt" từng tiệm, nghe nói tiệm nào mới mở là tới ăn thử. Ông bô tôi chịu nhất là tiệm phở xập xệ mang tên "Phở Số 1" trên đường Phan Thanh Giản cũ (nay là Điện Biên Phủ), ngay kế đường rầy xe lửa. Ông chủ tiệm thấy ông bô tôi vào là phải trụng bánh ba bốn lần cho thật kỹ, để khi chan nước dùng (nước lèo) thì nước mới không bị đục, bởi vì ổng không chỉ ăn phở, mà ổng còn nhìn phở nữa. Bánh phở phải trắng tươi như bạch ngọc, còn nước phở phải vàng óng, trong suốt như hổ phách! Ổng còn kÿ nước béo, hồi đó ai mà biết cô-lét-tê-rôn là cái quái gì, chỉ vì, như ổng nói, tô phở nước béo "trông thô bỉ lắm"! Còn nấu phở mà cho củ cải vào thùng nước lèo thì ổng bảo là "bố láo bố lếu". Về sau tiệm này dọn về Tân Định gần nhà tôi, trên đường Hai Bà Trưng, gần ngã tư xéo Yên Đổ - Trần Quang Khải, rồi sau lại dọn đi nơi khác. Mặc dầu "chịu đèn" tiệm này, ổng vẫn chê là con bò Miền Nam không ngon (ngay cả phở Hà Nội ngày xưa, muốn ngon thì phải nấu với bò nuôi ở tỉnh Phú Thọ cơ), nước dùng không đậm đà, bánh phở Sài Gòn làm không đúng cách, không được mỏng, được dai, mà cứ bở bờ bờ, rau mùi (ngò) Sài Gòn không thơm v.v...

Phở Sài Gòn sau 1954 không còn là phở Bắc thuần túy nữa, tô phở lớn hơn, đa dạng hơn. Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ, gần khu Bắc Hải của dân Bắc Kỳ Công Giáo di cư, là một trong những tiệm sớm sủa, rất đông khách, giá rẻ, tô bự, lại còn có loại "tô xe lửa" nữa. Ông bô tôi chê phở Tàu Bay là nước đục, bánh đã dày lại bở, chỉ được cái rẻ. Khi ăn thì cho đủ thứ rau thơm, về sau lại có giá sống, giá trụng, ăn với cả tương đen của Tàu. Ổng thù cái món tương đen này lắm, nói là khiến phở biến thành... mùi Tàu. Thấy thực khách chăm chú "sửa soạn" tô phở, vắt chanh, ngắt đủ loại rau thơm bỏ vô, cho giá vô, rồi còn trộn đều lên trước khi ăn, ổng bảo "đúng là cơm heo". Phở Bắc ngày xưa chỉ ăn với hành tây và rau mùi (ngò), còn rau quế, tức húng quế thì chỉ ăn với thịt chó hoặc tiết canh và lòng lợn (chấm mắm tôm chanh ớt), cho nên ngoài Bắc mới gọi rau húng quế là húng chó hoặc húng tiết canh.

Theo ông bô tôi, điểm dị biệt nhất giữa món Tàu và món Ta là món Ta thường ăn với các loại rau thơm, còn món Tàu không kèm rau thơm. Món Ta thì món nào ăn với rau thơm nấy, tuyệt đối không thể lẫn lộn được. Cho nên ngửi mùi rau tía tô thì tự nhiên thấy thèm các món ốc, ếch, ba ba (cua đinh); ngửi mùi rau kinh giới thì nghĩ đến bún riêu; nhìn thấy rau thìa là thì thèm chả cá, ngửi mùi rau húng giũi thì thèm sách bò, vó bò, bê thui, bò thui (đều chấm tương gừng) v.v... Nay nếu bỏ hầm bà làng các loại rau thơm vào phở thì... “chả còn ra cái quái gì nữa!”

Sau khi tôi - cái "bản sao" của ổng - vô trường Học Đại Sư Cụ Sài Gòn, không còn trong vòng o ép của ổng nữa, thì tính chất "bản sao" trong tôi phai nhạt dần, tự nhiên tôi thích ăn phở kiểu Sài Gòn, giá sống, rau thơm gì cũng cân tuốt, rau dấp cá, ngò om, húng chó, ngổ ba lá... làm ráo nạo, có điều là cho đến nay vẫn không thích ăn phở tái, và càng không thể xịt tương đen vô phở! Tôi không được rõ tình hình phở Hà Nội sau năm 1954 ra sao, nhưng sau 1975, nhiều người ở Hà Nội vào kể rằng giai đoạn khó khăn lúc trước thì chỉ có phở quốc doanh với món "phở không người lái". Phải xếp hàng, mua phiếu, như kiểu các cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Sài Gòn sau 1975 vậy. "Phở không người lái" tức là phở không có thịt, chỉ có bánh phở và nước phở nấu bằng xương bò. Vì nước phở quá nhạt nhẽo do ít xương bò, nên nhiều người đi ăn phở không người lái đã phải đem theo lọ "mì chính" (bột ngọt - âm Quảng Đông của "vị tinh"), rắc một chút vào bát phở để đánh lừa khẩu vị. Thảm đến thế là cùng! Chính vì vậy, đến nay dân Hà Nội vẫn còn thói quen ăn nhiều bột ngọt, và còn có câu thành ngữ tân thời: “Đắt như mì chính thời bao cấp”.

Vì mê phở, nên tôi thích tìm hiểu tình hình phở. Chưa bao giờ Sài Gòn mọc thêm nhiều quán phở, tiệm phở lớn nhỏ như hiện nay, hầu như đường phố nào, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có, chưa kể các xe phở cố định và lưu động. Còn ở Hà Nội thì báo chí cho biết, Hà Nội cũng đang ở vào thời kỳ "bung ra" của phở. Mới đây ở Hà Nội có ông giáo sư Lê Văn Lan đã vận dụng "phương pháp lịch sử" (?) để nói về các giai đoạn tiến hóa của phở, và còn làm một bản "thống kê phở" nữa. Theo ông, sự tiến hóa này đã trải qua “4 bước”. Bước thứ nhất là giai đoạn "Hà Nội hóa" từ đầu thế kỷ 20, khiến phở trở thành một đặc sản của Hà Nội, và các tỉnh khác ở Miền Bắc nấu phở thì cũng nấu theo kiểu Hà Nội. Thứ nhì là giai đoạn phát triển “cổ điển”, gồm những năm trong 2 thập kỷ 40-50. Có lẽ đây là loại phở cổ điển theo "gu" của ông bô tôi chăng? Thứ ba là giai đoạn "mậu dịch", những năm 60-70. Thứ tư là giai đoạn “bung ra” từ những năm 80 đến nay. Ông giáo sư này có vẻ có lý, nhưng chia giai đoạn tròn trịa, cứng ngắc như thế có chỗ không ổn, thiếu tính... khoa học, vì trong thập kỷ 50 thì trước và sau 1954 khác nhau một trời một vực. Mặt khác, theo nhiều người, giai đoạn gần đây nhất - từ thời đổi mới đến nay, tức là từ 1990 - có lẽ nên gọi là giai đoạn “phục hưng” của phở.

Ở Hà Nội, vào những năm cuối của thời “phở mậu dịch”, phở có bán ở quán ăn tầng trệt khách sạn Phú Gia, cạnh Bờ Hồ. Bây giờ thì cái quán ấy đã thành “rét-tô-răng” mà không còn món phở nữa. Phở Hà Nội có lúc đã tiêu điều, song bây giờ có thể nói phở Hà Nội đã sống lại, và đang “bung ra”... theo nhiều nghĩa.

Về “thống kê phở" thì ông giáo sư Lan cho biết, theo những gì người ta nghiên cứu được ở Hà Nội, phở đã có cả 100 tuổi. Phở là món ăn do người Việt chế ra, hay du nhập từ Trung Quốc? Câu trả lời đã rõ ràng: phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam, vì nếu từ Trung Quốc thì tại sao giờ này Trung Quốc không có món phở? Còn phở đã gần tròn, đã tròn, hay đã hơn 100 tuổi, thì chẳng ai khẳng định được chắc chắn và rõ ràng, mà có lẽ cũng chẳng có gì quan trọng lắm. Điều quan trọng là phở đã như một cây cổ thụ, bắt rễ, đâm chồi, lan tỏa sâu vào (bộ đồ) lòng người, đã khẳng định được vị trí độc nhất vô nhị của nó trong nền văn hóa ẩm thực của người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Đến nay ít nhất cũng đã có vài công trình khảo sát, nghiên cứu rất "nghiêm túc" về phở, dưới "góc độ lịch sử và văn hóa” như của Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội, hay dưới "góc độ khoa học kỹ thuật” của Bộ môn Công nghệ Chế biến Trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội. Theo thống kê trong sách vở báo chí ở Hà Nội hiện nay thì tài liệu nhiều nhất đã kê được 17 món phở, gồm phở chín, phở tái, phở gầu, phở sụn, phở sách, phở xá xíu, phở gà, phở gà xào, phở xào mềm tim gan, phở xào dòn tim gan, phở bò xào dòn, phở gà xào dòn, phở áp chảo nước, phở áp chảo khô, phở sốt vang v.v... và cả phở chua. Thống kê này quả là có giá trị, song hình như vẫn chưa thấy đủ so với thực tế phở ở Hà Nội bây giờ. Ít ra cũng thiếu mất vài món, mà dù chưa được thừa nhận chính thức, vẫn có nhiều người thích ăn, như phở mọc, phở thập cẩm... Ông bô tôi đã ăn xôi nghe kèn từ cuối thập kỷ 60, nếu ổng còn sống thì sẽ bảo là trong 17 món phở đó, ngoài phở bò chín, còn 16 món kia là "bố láo bố lếu" hết. Phở bò cho tới nay vẫn là “phở căn bản” trong hầm bà lằng các món phở hiện hành. Phần lớn các quán phở nổi danh trong hàng ngũ “Hà Thành đệ nhất... phở” bây giờ cũng vẫn là các quán phở bò!

Một ông ký giả cho biết, cái cảnh xếp hàng vốn ám ảnh người dân Hà Nội mấy chục năm của thời bao cấp, đến nay chưa hết hẳn. Buổi sáng cỡ 8-9 giờ, đi qua các phố Bát Đàn, Tôn Đức Thắng, Lý Quốc Sư... người ta vẫn thấy cảnh xếp hàng rồng rắn để ăn phở, nhưng ngày nay người ta xếp hàng với một ý nghĩa và tâm tình khác hẳn. Phở phố Lý Quốc Sư thì sáng nào cũng có một ông dáng chừng là nhà doanh nghiệp quốc doanh bự, ăn mặc rất xịn, đầu chải láng mướt, còm lê cà vạt chỉnh tề, tay lăm lăm điện thoại di động từ xe Toyota Camri đời mới bước xuống, cũng đứng xếp hàng kiên nhẫn chờ đến lượt. Thời buổi này thời giờ là tiền bạc, thế mà mất cả mấy chục phút chỉ để chờ ăn một bát phở cho bằng được thì thật là sang và... gàn!

Nghe nói một trong những quán phở loại ngon nhất của Hà Nội hiện nay là phở Bát Đàn. Phở Lý Quốc Sư còn gọi là “Phở Bà Ngọc”, vì bà Ngọc làm “kỹ thuật viên” chính, cũng ngon ngang ngửa với phở Bát Đàn. Phở Hàng Muối cũng ngon, tuy món thịt chín hơi cứng hơn một chút. Phở "tái lăn" ngon nhất có lẽ là ở Phở Thìn Lò Đúc, nước dùng đậm đà, hơi béo do thịt xào lăn, song không ngấy. Còn Phở Hàng Bột (phố này giờ đã đổi tên thành Tôn Đức Thắng, song người ta vẫn quen gọi tên phố cũ) có món “bửu bối” là phở sốt vang, nhuộm ra đỏ cả bánh phở. Tuy nhiên, các món phở tái trần, tái lăn, chín... đều ngon. Đặc biệt hơn nữa là cô bán hàng, hình như chửa... chồng, rất xinh đẹp, trắng trẻo, mắt sắc như dao cau, và lúc nào cũng trang điểm rất kỹ càng như sắp đi nhảy đầm, mặc đồ đầm ngồi làm phở mới kiêu chứ, vì cô rất ít cười. Phở gà nổi tiếng có quán ở Phố Nam Ngư. Bà chủ quán hơi đồng bóng, song phở rất ngon. Ngày xưa, ông Nguyễn Tuân đã từng sợ rồi người ta sẽ làm "phở hộp" thì không còn là phở. Bây giờ thì chưa thấy phở đóng hộp, mà mới chỉ có “phở ăn liền” của Công ty Vifon, sấy khô cho vào gói, có bột nêm, như mì ăn liền vậy, và tất nhiên là... không người lái. Khỏi phải nói, thứ này thì đúng là "chả ra cái quái gì cả”.

Tôi thì không đến nỗi thủ cựu và quá khích như ông bô tôi, nhưng tôi cho rằng phải "chính danh", vì đã kêu bằng phở thì phải là... phở, nghĩa là có mùi phở, vị phở, và chỉ là phở bò. Còn nếu cứ đem bánh phở - vốn chỉ là bột gạo - trộn với đủ món biến tấu sau này như thịt gà, tim gan, đồ lòng, sốt vang v.v... thì "cưỡng dâm" cái tên phở quá, mà nên gọi là hủ tíu bò kho, hủ tíu xào đồ lòng, hủ tíu gà v.v... vì hủ tíu là sợi bột (âm Quảng của từ ngữ Hán "khỏa điều"), sợi bột thì muốn xào nấu với gì chả được. Nếu không thì bún ốc, bún riêu... cũng có thể gọi là phở ốc, phở cua... hay sao? Còn những loại phở khác ở Hà Nội hiện nay như phở tim gan, phở mọc, phở thập cẩm... nói ở trên, thì xin lỗi, "bố láo bố lếu" hết!

Tuy nhiên, trong thời kỳ "bung ra" của phở từ Nam chí Bắc hiện nay, hình như các món phở xào và phở áp chảo đã thất truyền. Hồi sau 1954, Sài Gòn cũng có xuất hiện mấy món này, sau đó thì một thời gian tiệm phở 79 ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu Sài Gòn cũng có mấy món này, nhưng không phải là tay chuyên môn làm, nên ít khách kêu, rồi dẹp luôn, vì hồi đó người muốn ăn phở xào, phở áp chảo, chỉ là thành phần Bắc Kỳ di cư, tức Bê 54 như gia đình tôi chẳng hạn. Ông bô tôi cũng thích ăn mấy món này, ngoài tiệm không có thì bà bô tôi làm ở nhà cho ổng ăn đỡ vậy. Phở áp chảo hay phở xào thì cũng gồm 2 thành phần chính, là bánh phở và "người lái". Quan sát bà bô tôi làm thì bánh phở tươi mua về từng lá, phải xắt to bản, loại bánh rờ vô thấy dẻo và ráo tay, không dính tay, không thoa dầu (mùi dầu khiến phở bị hôi dầu). Phở xào thì có xào mềm và xào dòn. phở áp chảo thì có áp chảo khô, áp chảo nước. Nếu làm phở xào mềm thì sau khi xắt, bánh phở được gỡ tơi ra, rắc một tí muối, trộn đều, bỏ bánh vào chảo dầu thật nóng, tải mỏng ra, đảo nhanh tay cho bánh khỏi cháy. Khi sợi bánh săn lại thì rắc hành hoa (phần trắng của cọng hành lá) xắt nhỏ, đổ ra đĩa, rồi mới xào "người lái" đổ lên. Bánh phở xào dòn thì phải rắc đều bột năng vào bánh phở, rũ cho tơi, không sợi nào dính sợi nào, rồi cho vào chảo dầu nóng, lật qua lật lại cho vỏ dòn thì lấy ra đĩa ngay, rồi đổ "người lái" lên. Phở áp chảo khô hay áo chảo nước thì cũng theo cách tương tự, chỉ khác là thời gian áp bánh phở vô chảo lâu hay mau thôi, áp chảo nước thì áp mau, áp chảo khô thì áp lâu. Áp chảo khô thì ăn khô, còn áp chảo nước thì vẫn phải chan nước dùng như phở nước vậy. "Người lái" là thịt bò phi-lê xắt mỏng, to bản, xào với cần tây, cà rốt, cà chua, gừng...

Gần đây, với thời "bung ra" và "phục hưng" của phở, thì phở xào và áp chảo đã thấy xuất hiện ở vài tiệm như phở Bắc Hải ở đường Nguyễn Du Q.1, phở Bình ở đường Lý Chính Thắng (Yên Đổ cũ) Q.3, phở Dũng ở đường Trường Sơn (đường mới mở ở khu Tân Sơn Nhất, Tân Bình). Mấy anh già Bê 54 bao năm không được ăn phở xào, phở áp chảo, rủ nhau đi ăn ở tiệm được nghe đồn ngon nhất, là phở Bắc Hải Nguyễn Du (phải gọi như vậy để phân biệt với hàng loạt phở Bắc Hải mọc lên ở một số đường phố khác). Đặc điểm của tiệm này là đầu bếp và phục vụ (chạy bàn) đều là đàn ông, và bán với giá hữu nghị, 20 ngàn một đĩa ăn no. Tôi cũng đã ăn thử, nhưng tôi vẫn không tìm lại được hương vị phở xào và phở áp chảo ngày xưa ở Hà Nội nữa, một phần do phở ngày nay biến tấu búa xua, phần vì chính cái gu của mình có thể đã thay đổi từ hồi nào mà chính mình cũng khó nhận ra.

Ăn phở - và ăn nhậu nói chung - mà chỉ có một mình cũng buồn, sáng sớm tôi xách cái xế độp băng qua Cầu Kiệu, đến hú một anh già ở khu Cư xá Nguyễn Cư Trinh, ngã tư Phú Nhuận, tính rủ qua phở Quyền bên kia ngã tư cháp một tô, nhưng anh già ghiền phở này vốn ham của lạ, chuyên sưu tầm cái mới, lại rủ đến ăn ở một gánh phở lề đường, và nói là chỉ mới xuất hiện ít lâu ở gần Hồ tắm Chi Lăng, anh già còn quảng cáo là gánh phở này có mùi Hà Nội cũ. Tôi ô-kê cấp kỳ, vì như đã từng thú nhận, hễ tôi biết tiệm phở, quán phở, gánh phở nào mới xuất hiện là sẵn sàng đi thực tế ngay. Ông bán phở tuổi mới khoảng ngũ tuần, góa vợ, là dân Ô Chợ Dừa, Hà Nội, nhập cư Sài Gòn mới được ít tháng, cho biết là ông ta bán phở gánh ở Ô Chợ Dừa cả chục năm nay, kể từ sau ngày đổi mới, nhưng đã đánh liều dẫn cô con gái duy nhất vô Sài Gòn, và khoe rằng ổng đã quyết định đúng, vì một tuần bán ở Sài Gòn kiếm bằng cả tháng ở Ô Chợ Dừa. Quả thật, mới sáng ra mà gánh phở của ổng đã đông khách, cô con gái xinh xắn tuổi mới đôi mươi phụ việc cho bố như trần bánh, chan nước lèo, bưng phở cho khách... Ổng vừa xắt thịt, rắc hành... vừa trò chuyện với anh già bạn tôi. Ổng mơ ước sau một thời gian cần kiệm dành dụm, sẽ mở một quán phở nhỏ, và nhất định sẽ giữ vị đặc trưng phở Hà Nội. Sau này thì không biết sao, chớ hiện giờ thì phở của ổng tuy không ngon lắm - có lẽ tôi đã quá xa cái vị phở Hà Nội của gần 50 năm trước, mà chỉ còn quá quen với phở Sài Gòn - nhưng quả là phở của ổng có khác phở Sài Gòn, ít nhất là về mặt... hình thức, tức là không có giá sống, không có rau thơm linh tinh, không có tương đỏ tương đen, mà chỉ có ớt trái, hành tây và rau ngò. Khách phải ăn đứng nếu vài cái ghế đẩu quanh gốc cây lớn đã có người ngồi, và dù đứng hay ngồi thì cũng một tay bưng tô, một tay cầm đũa vì không có bàn, và phải kê tô vô miệng mà húp vì không có muỗng. Nhưng vừa ăn vừa ngẫm nghĩ thì vị phở cũng thanh, không gây, không ngán.

Theo thông lệ, tôi là người đề xuất chuyện ăn phở thì tôi phải trả tiền. Để đáp lại, anh già kéo tôi về nhà ảnh, chiêu đãi một cữ càphê cổ điển “cái nồi ngồi trên cái cốc”, kèm vài điếu Ba Số mà lai rai chuyện phở. Anh bạn này của tôi sính thơ lắm, đi đến đâu là thơ thẩn rơi vãi rông rổng đến đó, nhưng toàn là thơ của thiên hạ không hà. Sáng ra có tô phở đấm mõm Ông Thần Khẩu, thấy đời lên hương, ảnh bèn ư ử ngâm hai câu thơ sặc mùi phở:

Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải!
Hương phở thơm đầy những sớm mai...

Gì chứ thơ với thẩn là tôi kÿ nhất, vì hổng khoái, hoặc... hổng biết khoái thơ cao cấp bí hiểm, mà chỉ khoái thơ diễu, thơ cà chớn, đọc lên là nó đi vào tận củ tỉ! Thành thử hai câu thơ này nghe qua giọng điệu thì cũng có vẻ đường được, có vẻ thơ lắm, nhưng nghĩ lại thì có cái lấn cấn, bất ổn. "Hương phở thơm đầy những sớm mai" thì được quá rồi, nhưng mà cứ như giấy trắng mực đen thì làm sao lại có thể lẫn lộn "hương thơm trinh nữ" với mùi... phở được nhỉ? Anh già chỉ cười mỉm chi cọp, chê tôi ngu! Mà tôi ngu thật! Mãi sau mới chợt hiểu ra, con gái nhà hàng phở thì người ngợm thơm mùi phở chứ sao, cũng như cô hàng càphê thì thơm mùi càphê, cô hàng nhang thì thơm mùi nhang, cô hàng mắm thì thơm mùi... mắm ấy mà. Vậy thì cô gái Bắc Kỳ xinh xắn tuổi đôi mươi, con ông hàng phở hồi nãy, không phải là có cái "hương thơm trinh nữ" quyện với cái "hương phở thơm đầy những sớm mai" hay sao! Anh già này ghê thật! Hèn gì cứ rủ tôi đến gánh phở đó cho bằng được, bỏ cả phở Quyền mà tôi với ảnh vẫn thỉnh thoảng tới ăn từ cả mấy chục năm nay. Hiểu ra như thế, tôi lại cảm thấy... yêu hai câu thơ này mới chết chứ, bèn hỏi là thơ của ai. Ảnh thú thật là không biết, nhưng lại thòng một câu: "Hình như của... Tản Đà!" Tôi giãy nảy lên tức thì. Cái giọng điệu đó rõ ràng là thơ sau này, không thể là thơ của thời tiền bán thế kỷ 20 được. Ngoài ra, gì chớ về thơ Tản Đà, thì ai chớ ảnh đừng có cãi với tôi. Ngày xưa ông bô tôi có 2 cuốn Tản Đà Vận Văn, Tập 1 và Tập 2, "cò-lếch-xông" toàn bộ sự nghiệp thơ (văn vần) của Tản Đà, mà tôi từng đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Sách in giấy bổi vàng khè, nham nhám, chỉ có cái bìa là giấy cứng trắng trẻo, ở giữa trang bìa của cả 2 cuốn đều có hình vẽ một người đàn ông gánh hai cái thúng, đang bước đi, đầu đội nón lá sụp xuống che cả mặt, bên dưới có hàng chữ "Gánh văn lên bán chợ trời". Từ lúc còn nhỏ xíu, tôi đã khoái cái hình vẽ đó rồi. Thành thử đừng có cái gì cũng... đổ lên đầu ông Tản Đà! Lại nữa, nói chuyện phở thì ai chớ ảnh cũng đừng có hòng cãi với tôi, vì tôi có cái tật là làm "cò-lếch-xông" bất cứ chuyện gì liên quan đến phở, vì tôi nghĩ, kẻ mê phở cũng nên rành chuyện phở, còn không thì chẳng khác gì nhà văn mà... mù Văn học sử vậy!

Không phải chỉ riêng anh già bạn tôi nghĩ hình như hai câu thơ phở đó là của Tản Đà, mà thậm chí trước đây còn có kẻ tung ra giả thuyết cho là chính ông Tản Đà đã đem món phở của Miền Bắc vào Sài Gòn. Giả thuyết này dựa vào câu chuyện của những năm tháng Tản Đà cùng Ngô Tất Tố lang thang vào Nam Kỳ cộng tác với ông Diệp Văn Kỳ làm báo Đông Pháp Thời Báo. Có lần ông thần ngông kiêm con sâu rượu này từng chơi chữ: "Đất say đất cũng lăn quay, Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?" - đã cao hứng cạy gạch sân nhà, cuốc đất lên trồng húng giũi để ăn bò tái, bê thui, trồng húng quế để ăn tiết canh, thịt chó (cho nên ngoài Bắc mới gọi húng quế là húng tiết canh, hoặc húng chó)... Rồi một buổi chiều lạnh lẽo hiếm hoi của Sài Gòn, ông đã tự nấu phở để chiêu đãi bạn bè, ai ăn cũng khen ngon. Từ đó, món phở dần dần được phổ biến rộng rãi! Yêu phở và yêu Tản Đà đến mức gán cho ông cái công lao đem phở từ Bắc vào Nam thì cũng thông cảm được đi, vì có người còn yêu phở như yêu người tình nữa kìa. Khiếp lắm! Một nhà văn B75 lớn tuổi từng viết về "tình yêu phở" của mình: "Những ngày trong lòng buồn vui không rõ rệt, tự nhiên người ta lại thấy thèm một tô phở với lòng dạ nôn nao, với cảm giác như nhớ người yêu đã hẹn mà nàng không đến". Ối dzời! Lại thêm một ông cột phở với đàn bà!

Thật ra, phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập kỷ 40, và chỉ gần đây người ta mới tìm ra một chứng nhân của Phở. Đó là bà cụ Trần Thị Năm, nay mới... ngoài 80 tuổi xuân, lưng còng, tóc bạc phơ, ở số 63/5 trong Hẻm Pasteur, sau rạp hát Vinh Quang. Bà kể:

“Từ năm 1942, ông bác của tôi là cụ Kỉnh từ làng Vân Đình (Hà Đông) vào Sài Gòn lập nghiệp. Ông bán gánh Phở Bắc trên đường Lagrandière (Gia Long cũ, nay là Lý Tự Trọng). Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở, tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau đó cụ Kỉnh truyền nghề cho cụ Minh, là anh ruột tôi. Thuở ấy phở Bắc không có giá sống và các loại rau lung tung như bây giờ, nhưng vì khẩu vị của người Sài Gòn nên chúng tôi phải chiều theo”.

Ông An - con của cụ Minh - nay là chủ nhân Phở Minh, cho biết ngày xưa ở trong hẻm này có cả loạt quán phở mọc lên, nhưng nay chỉ còn một mình gia đình ông “trụ” lại được. Khoảng thập kỷ 1950, các văn nghệ sĩ, chính khách Miền Nam nườm nượp đến đây bất kể ngày đêm. Hồi đó ai mà không mê phở trong Hẻm Pasteur này. Trong số những thực khách, có lẽ ông Trần Rắc - chủ tiệm giầy trên đường Espagne (Lê Thánh Tông ngày nay) mới thật sự là người có tâm hồn thi sĩ nhất, không kết hợp thơ với... giầy, mà lại kết hợp thơ với phở. Vì khoái phở Minh mà ông đã sáng tác bài thơ tứ tuyệt tặng chủ quán để treo trong quán chơi:

Nô nức đồn vang khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn
Gia vị: tương, rau, ớt, mắm, chanh.

“Thơ Phở” như vậy cũng là đạt rồi, nhất là biểu lộ được cái tâm trạng yêu phở, mặc dù hơi có vẻ... quảng cáo tiếp thị!
Không hiểu ông bà khuất mặt khuất mày nào xui khiến mà tự dưng bữa nay tôi lại nổi hứng, nói nhiều về phở đến thế, chả còn nhiều giấy để nói về những món khác của một Sài Gòn ở vào đầu thiên niên kỷ mới. Hồi trước 1975, ở Sài Gòn có Câu đối phở của ông “thợ sắp chữ” Thầy Khóa Tư như vầy, ông này thì chỉ là.... thợ sắp chữ thôi, chớ không có tâm hồn thi sĩ như ông chủ tiệm giầy:

Tái chín nạm giò vè, tiêu ớt rau thơm giá sống
Sách gầu gân mỡ sụn, tương chanh nước béo hành trần.

Ông này chắc phải là tín đồ của phở nên mới cảm khái mà sắp chữ như thế. Về mặt kỹ thuật thì cũng được đi, nhưng về nội dung thì có người chê phở này không phải là phở Bắc chính cống, vì có cả giá sống, nhưng bớt quá khích một chút thì hiểu đây là Phở Việt Nam, không còn phân biệt Nam hay Bắc nữa, vì dân Bê75, Bê90, Bê2000 hay B gì đi nữa thì vô Sài Gòn cũng ăn phở với giá sống như điên, còn xét về mặt lịch sử thì câu đối này cũng có thể được coi là một bằng chứng "mang tính văn hóa" trong một giai đoạn lịch sử của phở vậy.

Thơ Phở và Câu đối Phở này cũng góp phần đưa phở vào văn học nước nhà, vì trước kia mới chỉ có vài bài tiểu luận về phở của mấy ông nhà văn tiền chiến thôi, mà tôi kêu đại là "văn phở". Vũ Bằng, tác giả “Miếng Ngon Hà Nội” từng mô tả:
“Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt. Thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm, rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực…”

Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” thì mô tả cảm giác về phở:

“Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại...”

Còn "cây" truyện ngắn Thạch Lam thì bình luận:

“Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa”.
Gần đây thì một ông nhà văn nhà báo Hà Nội nhập cư Sài Gòn - cũng có cái tật cột phở vô đàn bà, thậm chí còn coi phở như vợ mình - khi bình luận về phở cũng khẳng định phở ngon thì nước phở phải trong:

“...Người thủy chung với phở bao giờ cũng muốn nhìn tô phở nước trong, giống như người đàn ông trung thành với vợ, chỉ muốn nhìn ngắm nàng trong nét đẹp chính chuyên, không son phấn. Phở cũng vậy. Chẳng có người sành điệu nào lại nỡ tàn nhẫn đến độ cho cả tương đen lẫn tương đỏ vào tô phở của mình cả. Màu sắc ấy không phải là sắc màu cổ điển của tô phở đã định hình từ bao thập kỷ nay”.

Cung cách ăn phở thì vẫn còn là vấn đề tranh cãi, ăn thua quan niệm và khẩu vị của từng người. Một ông nhà văn Nam Kỳ là Trang Thế Hy thì trong lúc nói chuyện phở với bạn bè, đã nghĩ sao nói vậy theo kiểu phổi bò ruột ngựa, phang một câu... dễ xa nhau:

“Tao là dân Nam Kỳ chánh gốc, vô quán phở, thấy tô phở nước trong khá đẹp, hấp dẫn, vậy mà có cha dzọng vô cục tương đen, ngó hết muốn ăn!”

Một số "phở gia" lại còn bàn rằng ăn phở thì ăn vào thời điểm nào mới tuyệt ngon? Ăn lúc sáng sớm thì đã đành là ngon rồi, hầu như đa số dân mình thường ăn phở lúc sáng sớm, bắt đầu một ngày làm việc, coi như bữa ăn sáng, bữa lót lòng. Nhưng có người lại cho rằng ngon nhất vẫn là lúc khuya khoắt "nửa đêm giờ Tý trống canh ba", thả bộ lang thang trên đường phố, bụng đói, là đà con nhạn trong men say lẫn buồn ngủ mà lơ mơ nhớ lại những phiền muộn trong ngày, những bất hạnh trong đời, lúc đó mà "chơi" một tô phở nóng thơm lừng thì sẽ thấy tỉnh hẳn, tỉnh như cái con sáo sậu, để rồi lại thấy yêu đời như... thường lệ! Cũng vì lý do đó mà trong cái phong trào ăn khuya - đang trở thành thói quen của dân Sài Gòn hiện nay - phở vẫn là món được chiếu cố đông đảo.

Nhà văn nhà báo người ta mới dám bình loạn linh tinh các cái như thế, chứ tôi đâu là cái thá gì, lại bất tài vô tướng, cho nên hổng dám bàn ẩu về cung cách ăn phở của người khác, quyền tự do của người ta mà, miễn sao người ta ăn thấy ngon thì thôi, mặc kệ người ta, mình cứ ăn theo cách của mình, tại sao lại chỉ trích người ta, bắt người ta phải giống mình? "Không gì quý hơn độc lập tự do" mà! Ông bô tôi ăn phở kiểu Bắc Kỳ cổ điển, cho nên từ lúc di cư năm 1954 cho đến lúc ăn phở.... cúng, không bao giờ ăn loại rau thơm nào khác rau mùi (ngò) với lý do ngò là rau của phở, húng quế là của tiết canh và thịt cầy, húng giũi là của bò thui bê thui, kinh giới là của bún riêu, tía tô là của ốc ếch v.v... Đời tôi còn đỡ, chớ đời con tôi thì rau gì tụi nó cũng "phang" tá lả, chả còn theo sách vở gì ráo trọi. Con gái lớn của tôi năm nay 41, tâm sự với tôi: "Tiệm phở nào không có ngò gai thì đừng có hòng con vô!". Nhiều lúc nghĩ cũng sợ là cha con tôi làm tủi vong linh ông cụ! Nhiều quán phở Sài Gòn bây giờ dọn ra đủ loại rau thơm, có nơi còn có cả rau xà lách nữa! Từ Bắc di cư vào Nam, phở đã nghiêm túc thực hiện nhuần nhuyễn câu tục ngữ “nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, chẳng những có đủ rau thơm các loại, kể cả rau dấp cá, ngò gai, ngò om (là những thứ rau của canh chua Miền Nam)... mà còn cả giá sống (của hủ tiếu) nữa, giống như mảnh đất Miền Nam rộng mở vòng tay đón nhận dân nhập cư từ khắp miền đất nước, cũng như dễ dàng như đồng hóa mọi khác biệt văn hóa vậy.

Tuy nhiên đến nay vẫn còn một quán phở giữ đúng hương vị Bắc. Ấy là Phở Bà Dậu, người Nam Định, ở cuối Hẻm 288 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ). Giới sành ăn gọi là phở Cây Trứng Cá, vì từ năm 1950, ở trước quán có một cây trứng cá lớn. Cách gọi tên dễ nhớ như vậy rất quen thuộc ở Sài Gòn - Mì Cây Nhãn, Mì Cây Gõ - chẳng hạn. Trải qua bao hưng phế tang thương, cây trứng cá không còn, bà Dậu cũng trở thành "người muôn năm cũ", con trai bà là ông Bình nối nghiệp nhà, cho nên dù quán không có bảng hiệu, người ta cũng có thể gọi là phở Ông Bình, hoặc phở Lâm cũng không sao, vì anh chàng tên Lâm là người thâu tiền. Ở quán phở này, từ trước 1975 và đến cả bây giờ, người ta đã gặp khá nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, nhà thơ nhà văn nhà báo... Ở đây bánh phở sợi nhỏ, mềm nhưng không nát. Nước lèo đậm đà cái vị ngọt thanh, dịu, của xương và tủy bò hầm rục, chứ không phải của bột ngọt, của đường. Các loại thịt nạm, gầu, sụn, gân, giò, vè, nạc... đâu ra đó. Không có bất cứ loại rau gì kèm theo, chỉ có hành tây và những cọng hành trần.

Yếu tố hấp dẫn của bất cứ quán ăn nào cũng không chỉ là cách nấu món ăn, mà còn là cung cách phục vụ, hiểu ý khách. Hồi thời bao cấp, cửa hàng ăn uống còn là của nhà nước, từ anh chạy bàn đến cô thâu ngân bán phiếu đều là cán bộ, thực khách xếp hàng mua phiếu vô ăn bị coi như đi ăn xin, nay thì lại quay 180 độ cái rẹt, trơ trẽn tôn xưng khách hàng là "thượng đế"! Nhưng ở quán phở Minh và phở Bà Dậu thì khác, traœi bao vật đổi sao dời mà thời nào cũng vậy, khách chỉ đến quán vài lần là chủ quán biết ngay cái gu ra sao, và còn nhớ mặt. Sài Gòn hiện nay có cái nạn tốn tiền gửi xe khi đi ăn uống - nhiều khi gửi rồi mà vẫn mất xe như thường - nhưng nơi đây gửi xe không mất tiền, có người trông coi chu đáo. Nếu là khách quen thì cứ việc lững thững bước vào, thong thả ngồi xuống ghế. Không cần lên tiếng gọi, chỉ sau khoảnh khắc, một tô phở đúng ý được ân cần bưng ra, đặt nhẹ nhàng ngay trước mặt, khói nghi ngút thơm điếc mũi. Người đến ăn tưởng mình không phải đến quán, mà có cảm giác như ăn ở nhà người bạn thân vậy.

Cái gánh phở mới xuất hiện trên lề đường Chi Lăng Phú Nhuận nói ở đầu thư khiến tôi nghĩ đến những người ngày xưa từ Bắc vô Nam chỉ có gánh phở trên vai, mà rất tự tin rời bỏ quê nhà đi lập nghiệp. Một gánh phở dựng lên, rồi truyền nghề lại cho con, cho cháu. Và cũng chính nghề ấy đã tạo cho con cháu họ một hiện tại, một tương lai như ngày nay. Con cháu họ hôm nay học lên Đại học, du học ngoại quốc, đi khắp năm châu bốn biển cũng chỉ bắt đầu từ một gánh phở của ông cha. Chính ông Minh, ông An đã tự hào khi tâm sự với khách như thế. Chắc chắn còn có nhiều người bán phở cũng tự hào như thế.

Nhưng phở Hòa thì lại là trường hợp ngoại lệ - ngoại lệ đến cái độ tréo ngoe - vì chủ phở Hòa sau này lại là người Miền Nam, nhưng vẫn tự hào phở Hòa của mình mới là "phở Hòa gin" (từ tiếng Pháp "origine" - nguyên chất, nguyên gốc). Số là khoảng những năm 1950, có một người Bắc di cư vào ở Xóm Mới (Gò Vấp), tên là Hoánh, không rõ họ gì. Cứ vào lúc xế chiều, ông Hoánh đẩy xe phở đến vỉa hè Ngả tư Pasteur - Hiền Vương (Võ Thị Sáu bây giờ), bày ra vài cái bàn và ghế đẩu, bán cho khách ăn tối, ăn khuya. Xe phở ấy có tiếng là ngon với nước lèo trong và ngọt, bánh phở mềm, có đủ loại thịt theo ý khách. Do đó, tuy là xe phở vỉa hè nhưng khách ăn rất đông, nhất là dân chơi khuya từ các hộp đêm, vũ trường ra thường coi xe phở ông Hoánh như điểm hẹn cuối cùng. Để khách dễ nhận diện mà tìm đến, ông Hoánh nghĩ là phải có một bảng hiệu nhỏ treo ở xe phở của mình, nhưng không biết đặt tên gì cho dễ nghe, vì cái tên Hoánh của ông nó kỳ cục quá, ông bèn chọn cái tên Hòa, chẳng có liên quan gì tới ông, có thể chỉ vì cái tên Hòa nghe nó có vẻ... hiền hòa mà thôi. Từ đó xe phở ông Hoánh có tên phở Hòa. Theo lời kể của bà Cao Thị Xiêm, chủ tiệm phở Hòa hiện nay, thì công thức nấu phở từ xe phở Hòa ông Hoánh đến phở Hòa Pasteur ngày nay vẫn không có gì thay đổi. Chẳng những lưu truyền công thức, mà cả cái tên Hòa cũng đứng vững cả nửa thế kỷ. Điều tréo cẳng ngỗng là bà Xiêm lại chẳng có họ hàng bà con hoặc dây mơ rễ má gì với ông Hoánh cả. Bà là dân Nam Kỳ rặt, quê ở Trà Vinh, còn ông Hoánh là dân Bắc Kỳ "ri cư". Nhưng duyên số lại sắp xếp bên cạnh xe phở ông Hoánh có xe nước mía ăn theo của ông Phan Anh Ngoạt - dượng của bà Xiêm. Khi đó vợ chồng cô và dượng của bà Xiêm ở Sài Gòn không có con, mới nhận đứa cháu gái tên Xiêm từ Trà Vinh lên làm con nuôi. Ông Hoánh bán phở được một thời gian thì đổi nghề qua chạy xe, nuôi chim cút... và xe phở được chuyển sang cho ông Ngoạt. Ông Ngoạt vẫn giữ nguyên tên phở Hòa, giữ nguyên cả cách nấu phở và khách hàng quen thuộc. Sau thì ngày một khá giả, xe phở trở thành tiệm phở Hòa đường Pasteur, đứa cháu gái làm con nuôi trở thành bà chủ. Sau 1975, ông Hoánh ra định cư ở nước ngoài, vợ chồng ông Ngoạt cũng ra người thiên cổ.

Trong cái dòng hợp lưu Nam-Bắc ấy, không biết từ bao giờ phở Bắc đã biến thành phở Sài Gòn. Trước hết là sự thay đổi phẩm chất và mùi vị của nước lèo. Phở Bắc chính cống thì nước lèo chỉ là nước hầm xương bò đã lóc hết thịt, hớt bọt rất kỹ. Còn nước lèo của phở Sài Gòn thường cũng được hầm từ xương bò, nhưng lại bỏ thêm tai vị, tôm khô, mực khô, nhiều nơi còn nện cả.... củ cải vô! Vì thế phở Bắc thường hơi gây gây mùi bò, còn phở Sài Gòn thường bị gia vị phụ lấn mùi. Nhưng phở Hòa thì khác, không Bắc rặt mà cũng chẳng lai Nam, mà là phở Việt Nam. Bà Xiêm cho biết phở Hòa không được hầm từ xương, mà từ mỡ, tủy, và gân bao quanh các tảng thịt (mà bà gọi là "da tái"), và cũng được hớt bọt rất kỹ. Vị ngọt của nước lèo phở Hòa là thứ ngọt thanh, không còn gây mùi bò. Một số thực khách, kể cả du khách ngoại quốc, vào tiệm có khi chỉ cần ăn phở "không người lái" (không có thịt) là đủ. Ngoài cái ngọt của nước, cái mềm của thịt, và nhất là mùi thơm của cả nước lèo lẫn các loại thịt chín, phở Hòa ngày nay còn quyến rủ người ăn bởi ưu điểm sạch sẽ, đầy đủ rau, giá, tương, ớt, nhất là tác phong chiều khách của các nhân viên phục vụ. Yêu cầu của khách được đáp ứng rất nhanh. Muốn ăn tái, chín, gầu, giò, vè, sách, nạm, gân... đều có đủ. Người ăn cũng có thiện cảm với những lát chanh mọng nước xắt khéo, những khoanh ớt tươi đầy ụ trên đĩa do chính bà chủ cầm dao xắt hằng ngày. Chính cái mùi thơm, cái vị ngọt mềm thâm niên trên 40 năm trong nghề phở ấy đã tạo nên một sự nghiệp vững vàng. Cái nồi phở liu riu hằng ngày ấy đã nuôi sống, rồi làm giàu cho một gia đình gồm vợ chồng với 6 đứa con (4 trai, 2 gái) nay đều thành đạt. Một cậu đã ra trường là Kỹ sư Điện tử, 2 cậu đang học Công nghệ Thông tin ở Úc, một cậu đang học Đại học Bách Khoa, 2 cô con gái đang học Nghiệp vụ Du lịch.

Kể từ khi đất nước đổi mới, phở Hòa càng đông khách nhờ người dân Sài Gòn bắt đầu kiếm ra tiền, cuộc sống ngày càng khá hơn, Sài Gòn cũng ngày càng xuất hiện nhiều du khách ngoại quốc hơn, chính quyền thành phố thấy có ăn, bèn đòi... liên doanh với phở Hòa, bà Xiêm cũng thấy liên doanh là có lợi cho cả đôi bên, cho nên giờ đây phở Hòa đã trở thành một doanh nghiệp liên doanh nhỏ với 20 nhân viên, công nhân, và đã trở thành địa chỉ ẩm thực quan trọng trong các cẩm nang du lịch của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... đồng thời còn được giới thiệu trên các báo chí ở Mỹ, Úc... Cô Phương Châu - Kế toán viên của Công ty Cổ phần Du lịch Quận 3, là đơn vị nhà nước liên doanh với phở Hòa - cho biết, hằng ngày có đến 600-700 thực khách đến với phở Hòa, trong đó có nhiều khách nước ngoài. Phở Hòa đóng thuế cho nhà nước 25-26 triệu đồng mỗi tháng, con số không nhỏ. Tên “Hòa” cũng được "đăng ký sở hữu công nghiệp" để chống cạnh tranh không lành mạnh, chống kiểu "hàng dỏm, hàng nhái" đang xuất hiện lia chia trên thị trường hiện nay. Lý do là cách nay khá lâu, trên một số tờ báo ở Sài Gòn có một dạo đăng quảng cáo “Phở Hòa đã dời về đường An Dương Vương, gần chợ An Đông”, báo hại khách đến phở Hòa ăn đều hỏi tới tấp, hóa ra phở Hòa An Đông là phở Hòa dỏm, không phải là phở Hòa Pasteur. Mặc dầu đã "đăng ký thương hiệu", nhưng bà Xiêm cũng chẳng kiện tụng gì - vô phước đáo tụng đình mà - cứ để thực khách làm "quan tòa". Một tiệm phở khác mở kế cận phở Hòa lấy tên là phở Hoa (không có dấu huyền). Nhưng chỉ thời gian ngắn, thực khách đã phân biệt Hòa thật với Hòa dỏm, Hòa nhái! Hai tiệm phở dỏm và nhái đó ế ẩm, phải dẹp tiệm! Chuyện ăn uống thì trăm người trăm ý. Không phải ai cũng khen phở Hòa, nhất là những thực khách gốc Bắc vào Sài Gòn sau này, vốn chỉ quen với phở Bắc, nhưng hầu hết giới sành ăn ở Sài Gòn trước 75 - nhiều người từng ăn phở Hòa từ lúc còn là xe phở vỉa hè, nay tuổi hạc đã cao - vẫn là những thực khách trung thành.

Dù bà Xiêm có kiện phở Hòa dỏm ở Sài Gòn thì cũng khó lòng kiện được phở Hòa dỏm ở nhiều nước hải ngoại, mà ra hải ngoại để mở phở Hòa Thiệt, bà cũng chẳng ham. Cùng với mấy triệu người Việt sống ở hải ngoại, mùi phở VN dần dần bay xa khỏi biên giới đất nước. Đã có nhiều Việt kiều từ Mỹ, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc... gửi lời mời với lương bổng, lợi tức hấp dẫn để bà Xiêm qua nấu phở, nhưng bà từ chối. Cũng có người hỏi, sao không mở rộng kinh doanh phở Hòa ra thành một hệ thống gồm nhiều chi nhánh như Phở 2000 chẳng hạn, bà Xiêm cho rằng phải biết lượng sức mình, thành công của phở Hòa nhờ ở phẩm chất, nếu mở ra nhiều địa điểm sẽ không có người trông coi, phẩm chất kém đi sẽ mất uy tín, vả lại căn tiệm bề thế hiện nay - có thể gọi là "Nhà hàng phở " - phục vụ một lần tới 150 thực khách là đã "quá đạt yêu cầu" của bà rồi, bà không quá tham lam, lại đã lớn tuổi, con cái đều thành đạt, bà không ước mong trở thành đại phú. Trong khi bà chủ phở Hòa “chánh hiệu Bà Lang Trọc” trên đường Pasteur bằng lòng với cái tiệm phở duy nhất ở Sài Gòn có tới 600-700 lượt khách mỗi ngày của mình và phát triển dưới hình thức liên doanh với nhà nước, thì bà không thể biết hiện nay trên đất Mỹ và các nước khác trên thế giới có bao nhiêu tiệm phở, lý do dễ hiểu là các tiệm phở ấy không hề có liên hệ bà con thân thuộc gì với bà, có chăng là cùng họ Hồng Bàng. Trên thực tế, tất cả những tiệm phở Hòa hải ngoại đều là phở Hòa dỏm, cũng như những tên gọi phở Công Lý, phở Hiền Vương, phở Pasteur... ở hải ngoại chỉ được dùng để đánh vào lòng hoài niệm của kẻ tha hương.

Tất nhiên là về tình hình phở hải ngoại thì tôi mù rồi, nhưng may là ngày nay nước ta văn minh tiến bộ lắm, ngon lành lắm, nhiều tờ báo có phóng viên thường trực ở nhiều nước trên thế giới - đến cả cái nước Áp-Gha-Nít-Tăng ở mãi tận hóc bà tó kia mà cũng có phóng viên VN ăn dầm ở dề để hằng ngày gởi tin tức bài vở về nước nữa là - cho nên tôi cũng như đông đảo dân Sài Gòn ngày càng được biết nhiều về sinh hoạt của người Việt hải ngoại, kể cả những chuyện khó tin nhưng có thật. Chẳng hạn một bài báo kể rằng ở Cali có ông Y sĩ tốt nghiệp Đại học Y khoa Cali đã bỏ nghề cứu nhơn độ thế để mở tiệm phở, bây giờ có đến 5 tiệm lớn, kiếm tiền còn bộn hơn nghề y sĩ nhiều. Có điều, bề thế nhất vẫn là hệ thống phở Hòa ở Mỹ. Hồi năm 1999 là thời điểm phở tại Việt Nam khủng hoảng vì cơn sốt phọt-môn, thì bên ngoài Việt Nam, phở đã vươn về tới Á Châu, đến tận Hán Thành. Rồi một nhà báo Sài Gòn đi dự SEA Games 19 ở Indonesia, lang thang các đường phố thủ đô Jakarta, đã bất ngờ gặp cái bảng hiệu phở Hòa ở một tiệm phở. Chủ quán phở người Indonesia cho biết đã học nấu phở từ một tiệm phở Hòa ở California. Về Jakarta mở tiệm phở, ông ta đã trương bảng hiệu tiếng Việt, chỉ vì yêu món ăn VN này và muốn giới thiệu với đồng bào của ông, chớ đào đâu ra khách người Việt ở Jakarta! Hương Cảng cũng có một tiệm phở mà ông chủ là ...người Tàu chưa từng đặt chân đến VN v.v... Trong khi bà chủ phở Hòa Pasteur chẳng thiết đem cái thương hiệu của mình ra kinh doanh thêm để trở thành đại phú, cũng chẳng thưa kiện ai, thì phở Hòa (dỏm) ở Mỹ đang bành trướng để hốt bạc. Phóng viên VN ở California gửi bài viết về Sài Gòn cho biết, từ năm 1983, quán phở Hòa đầu tiên mở tại San Jose, đến năm 1995, Công ty Aureflam - sở hữu chủ thương hiệu phở Hòa tại California và phở Công Lý tại Texas - đã mở cả thảy 41 tiệm phở tại Mỹ, Gia Nã Đại, Đại Hàn... trong đó phở Công Lý có 5 tiệm. Người mở tiệm phở, muốn lấy thương hiệu phở Hòa hay phở Công Lý thì phải trả tiền tác quyền 12.500 USD... Ôi, đã chôm thương hiệu của người ta để hốt bạc túi bụi, rồi còn đem bán lại búa xua như vậy, sao mà khéo kinh doanh thế không biết!

Cuối cùng thì phở Hòa Pasteur vẫn không sợ hệ thống dây chuyền Phở 2000 của ông Việt kiều Mỹ Huỳnh Trung Tấn cạnh tranh, mặc dầu hệ thống này được tổ chức kinh doanh theo kiểu Mỹ, có những địa điểm tốt, những cơ sở bề thế. Bởi vì tôi cũng như nhiều dân ghiền phở ở Sài Gòn đều "nhất trí cao" với nhận xét của một ký giả nào đó, rằng Phở 2000 chỉ là "phở cao giá" mà không phải là "phở cao cấp", dành cho những kẻ dư tiền, muốn "tự khẳng định", chớ chưa chắc đã là những địa điểm thu hút người sành phở.

Hồi cuối năm 2000 thì ông Tổng thống Mỹ Lin-Tơn đã đến với phở Sài Gòn. Rời phố đồ cổ vào lúc 11g45 phút trưa, cha con ông Lin Tơn vào tiệm "Phở 2000" tại Cửa Tây Chợ Bến Thành, ở số 1 và 3 đường Phan Chu Trinh. Tất nhiên là trong chuyến đi của ông, từ một chi tiết nhỏ cũng được sắp xếp trước, và chính quyền thành phố chọn món phở cho ông thưởng thức là rất đáng hoan nghênh. Ở Hà Nội đã bị xem kịch Tây, vào Sài Gòn mà lại bị chiêu đãi bít-tết hay bánh bi-dzà thì thảm lắm! Còn tại sao Phở 2000 được chọn, thì lý do rất giản dị - đây là tiệm phở lớn nhất, sạch nhất, văn minh nhất Sài Gòn, chứ chưa hẳn là ngon nhất. Tôi mới chỉ vô ăn phở ở tiệm này được 2 lần, phần vì xa nhà, đường phố khu trung tâm lại kẹt xe thường xuyên, phần vì phở ở đây cũng chẳng có gì thật xuất sắc, không phân biệt được với những tiệm phở ngon khác, giá tiền lại mắc hơn chút đỉnh, nói tóm lại là Phở 2000 chưa "tự khẳng định" được. Tôi là tín đồ đạo Phở, mê phở từ lúc chưa mọc răng. Bà bô tôi kể lại rằng hồi tôi được 7-8 tháng, cho ăn bột mà rất lười ăn, nhưng một lần ông bô tôi gọi phở gánh đi ngang cửa nhà ở đường Hiền Vương (phố Montgrand cũ) Hà Nội, tự nhiên bà bô tôi nảy ra sáng kiến là hòa thêm chút nước phở vô bát bột rồi xúc cho tôi ăn, thế là thằng bé cứ há mồm ra mà ăn lấy ăn để. Lớn lên, tôi giống ông bô tôi ở chỗ chọn phở, không chọn tiệm, bởi thế bố con tôi mới sáng sáng cất công từ đường Hiền Vương, gần hồ Thuyền Quang (Hồ Halais) mò lên tận phố Hàng Vôi để đứng sắp hàng ăn phở gánh Hàng Vôi ngoài vỉa hè, gần Ấu Trĩ Viên Hà Nội. Với Sài Gòn hôm nay, Phở 2000 thì sang nhất rồi, đẹp nhất rồi, sạch nhất rồi, cách sắp xếp, tổ chức cũng nhất, cái gì cũng nhất, kể cả trẻ nhất, nhưng phở thì chưa ngon nhất. Tiệm chưa "tự khẳng định" được, chỉ có khách vô Phở 2000 là để "tự khẳng định", vì toàn là dân sang, ngồi xế hộp, giá chót cũng cỡi Dream xịn, giắt theo điện thoại di động. Ăn Phở 2000 là "tự khẳng định" thành phần xã hội. Thành thử sắp xếp cho ông Lin-Tơn vô Phở 2000 cũng là đúng thôi, vì Phở 2000 là "phở quý tộc", với nhà bếp sạch bóng, tổ chức kiểu Mỹ, nhân viên trên dưới đều mặc đồng phục đẹp mắt, nhân viên nhà bếp thì ngoài đồng phục còn đội nón vải trắng tinh để bịt tóc v.v... Cách nay không lâu, hồi tiệm phở này mới khai trương, tôi đã có hẳn một chuyên đề phở báo cáo bạn hiền rồi, dịp này, cũng xin bổ sung chút đỉnh. Phở 2000 mới chỉ được thai nghén... tình cờ gần đây thôi. Người sáng lập là ông Huỳnh Trung Tấn, tuổi ngoài 40, cái tuổi đẹp nhất để lập sự nghiệp. Gia đình ông Tấn qua Mỹ từ năm 1975, kinh doanh nhà hàng, và ông Tấn cũng là một trong những Việt kiều Mỹ trở lại VN sớm sủa nhất. Từ năm 1989 đến nay, ông đã lần lượt sáng lập nhiều nhà hàng lớn theo thể thức liên doanh ở Sài Gòn như Le Mekong, Vietnam House, Blue Ginger, Lemon Grass v.v... với mục đích là giới thiệu các món ăn VN với người ngoại quốc trong khung cảnh văn hóa VN. Ông Tấn kể rằng trên chiếc Boeing của Hàng không Tân Gia Ba cất cánh từ Cựu Kim Sơn (San Francisco) trong một lần trở lại VN, ông say sưa đọc cuốn hồi ký tựa đề Starbucks Coffee - mà cô em gái tặng ông ở phi trường San Francisco - nói về chuyện làm ăn của tác giả trong lãnh vực mở quán càphê. Tự nhiên ông nghĩ rằng phải làm ăn theo kiểu Starbucks, như kiểu McDonald, Burger King, KFC, nghĩa là đi theo mô thức phát triển hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh, tức là làm franchise. Tôi đâu biết "phen-chai phen-lọ" là cái quái gì, nhưng ký giả Thục Đoan giải thích là "một công ty cho phép công ty khác sử dụng công nghệ và nhãn hiệu nổi tiếng của mình để kinh doanh". Có điều khác ở chỗ, thức ăn nhanh ở đây không phải là ổ bánh mì Bưu Điện, mà là tô phở VN. Do đó ông Tấn quyết định thành lập "Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Phở 2000" với số vốn luật định là 500 triệu đồng VN. Mục tiêu ngắn hạn là sẽ mở 5 tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn, một số tiệm ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang... Hiện nay Phở 2000 đã đăng bộ độc quyền nhãn hiệu trong nước và ở nước ngoài. Dự trù là nay mai Phở 2000 sẽ có những tiệm đầu tiên ở Tân Gia Ba, Hương Cảng, và ở cả bên Mỹ nữa.

Một hệ thống phở tầm cỡ như thế mới xứng đáng đón tiếp cha con ông Lin-Tơn. Cha con vô tiệm thì dân chúng lại tụ tập đón chờ bên ngoài, chờ ổng ăn xong đi ra để được... bắt tay! Trong đám đông có 3 thiếu nữ xinh tươi, bận đồ vía như ngày hội, là Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Kim Oanh, và Vũ Phương Lan, xôn xao bàn tán chỉ trỏ. Từ dưới đường, người ta có thể thấy rõ bố con ông Clinton ngồi ăn tại một cái bàn gần cửa sổ. Các cô cho biết từ 8g30 phút sáng đã đứng đợi ở phía Tòa Đô Chánh cũ, vì theo chương trình Tổng thống Clinton sẽ ghé đây để gặp các nhà doanh nghiệp Mỹ gốc Việt, nhưng các cô không biết là buổi chiều mới đến mục đó. Cô Phương Lan xuýt xoa:
“Bọn em cố đến sớm, xếp hàng đầu tiên sát hàng rào, hy vọng sẽ được bắt tay... “Anh Bill” (?)”.

Ối dzời! "Anh Biu" đào hoa mà ở lại Sài Gòn ít ngày nữa thì cô Phương Lan cũng như khối cô gái Sài Gòn khác sẵn sàng làm những "Monica made in Saigon" ngay thôi! Sau một tiếng đồng hồ ăn uống, anh Biu ra cảng Tân Thuận để gặp gỡ một số nhà doanh nghiệp Mỹ. Ngay sau khi ảnh đi khỏi, không khí tiệm Phở 2000 nhộn nhịp, tưng bừng quá cỡ, cứ là vui còn hơn Tết. Bà chủ Nancy Le (họ Lê) là Việt kiều Los Angeles, về làm ăn ở Sài Gòn từ 5 năm trước đây. Bà đã mở 2 tiệm phở, và Phở 2000 là tiệm thứ 3 mới mở được 1 năm. Phở của bà có đặc tính là nấu bằng nước lọc tinh khiết, các loại rau được rửa và sắp xếp từng lá một. Bà sung sướng khoe là ông Lin-Tơn đã ăn 2 tô phở - 1 tô chín và 1 tô phở gà không lấy da (đã được dặn dò trước) và khen ngon lắm, "gút" lắm. Ổng còn uống hết ly sinh tố xoài, ly cà phê sữa đá, và chai nước suối. Bà cho biết cà phê phải pha loãng và nhiều sữa, vì cà phê kiểu VN rất "nặng" đối với người Mỹ. Bà hớn hở khoe tiếp:

“Chính tôi nấu phở cho ông ấy ăn!”

Cô Trương Thị Phương Hà, kế toán trưởng của tiệm, hứng phấn nói là sẽ giữ lại từ cái ghế ông Clinton đã ngồi, những cái tô, ly, muỗng nĩa, đũa ông đã sử dụng, để trưng bày trong một tủ kính. Cô hãnh diện:

“Em sẽ đề nghị bà chủ viết hàng chữ là “Nơi đây Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã đến ăn phở, và đây là những vật dụng Ngài đã dùng...”
Còn cô Hoàng Kim Vân, 22 tuổi, tốt nghiệp Đại học Tin học Thành phố Nam Định, kiếm việc không ra, chỉ mới vào Sài Gòn làm tại tiệm phở này 3 ngày nên chưa có bảng tên, phải đeo bảng tên của cô Chi làm ca chiều. Cô nói cô là người may mắn nhất, vì mới vào làm đã được bắt tay Tổng thống Mỹ! Cô tỏ vẻ xúc động:

“Sẽ chẳng bao giờ cháu được niềm vinh hạnh như vậy trong suốt đời cháu, dù là với vị nguyên thủ nước nào”.

Trên hai chục nhân viên trong tiệm đều vui sướng, mãn nguyện, dù họ rất mệt mỏi vì căng thẳng
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Tiếng Việt thời thượng
Trịnh Thanh Thủy


Vài nét về Trịnh Thanh Thủy

Bút hiệu khác: Tóc Dài.
Định cư tại Nam California, Hoa Kỳ .
Tác phẩm [in chung]: Giữa L và C ( Tập thơ do Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng phát hành, 2001)
Cộng tác với: Tiền Vệ, Talawas, Chim Việt Cành Nam, Hợp Lưu, Văn, Chủ Đề, Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, Người Việt Hải Ngoại.


Nói đến tiếng Việt thời thượng, chúng ta có thể hình dung hay nhớ đến nhiều cụm từ lạ tai bao gồm cả những tiếng lóng hay ngôn ngữ mạng được ưa thích và sử dụng rộng rãi trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Tỷ như khi vào ăn trong một quán mì gõ chúng ta nghe tiếng gọi:

- Cho 2 cái hầm, 2 bộ hài cốt nghen...

- Thêm “2 xị vô sinh” nữa...

- Chài, trời nóng mà mần vô sinh chi? cho 2 cái “bật nắp là thấy” đi...

Hoặc ngôn ngữ trên một lá thư của 2 học trò teen đang chuyền tay nhau trong giờ học.

“H. à, nhớ su súp ghia mà nghè mơi có ktra, hem đi đc, star life mình “khổ hơn cún” á. Ừ, bi h cóa ai bỉu mình not learn hén, chắc mình sướng die granma lun hén mày. Eh, hn mày nhận đc tn của B. k? Hwa nó vừa bị broke ktra đó. Thấy tía rồi, thôi stop 8, tao xách đik dzìa nhà học thoai, chớ hông là bài nì “dzục cho cún ăn” đóa, tao chưa có chữ nào trong não hết, b h cóa nhét iốt dzô não cũng cóc dzô”.

Nhắc đến những tiếng lóng lạ lùng như trên là nhắc đến một thế giới ngôn ngữ đầy bí ẩn cần phải có giải mã nên tôi định chỉ thu hẹp bài viết này trong phạm vi những tiếng Việt thời thượng có xuất xứ hay liên quan tới những ngôn ngữ khác như Pháp hay Anh chẳng hạn.

Như chúng ta đã thấy, Anh ngữ ngày nay được xem như một sinh ngữ quốc tế được nhiều người sử dụng và giảng dạy như một ngôn ngữ thứ hai trong nhiều quốc gia trên thế giới. Việc sử dụng Anh ngữ như một ngôn ngữ chung cho toàn cầu ngày càng tăng trưởng và đã trở thành một tiện ích. Nó mang lại sự cảm thông trong sinh hoạt toàn cầu không những trong các lãnh vực thông tin, truyền thông, liên mạng mà cả ở những lãnh vực giáo dục, kinh tế, thương mại, nghiên cứu, âm nhạc, du lịch, cũng như các hoạt động tôn giáo, chính trị hay văn hóa khác.

Trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam là một nước mới phát triển. Các nước tiên tiến mang tài chánh và nhân lực vào Việt Nam để đầu tư nên nhu cầu học và hiểu tiếng Anh như một nhịp cầu thông cảm cần thiết hơn bao giờ. Thêm nữa, vì phải mở cửa ngành du lịch, Việt Nam cần phải nói và viết Anh Ngữ thông thạo, ngỏ hầu phục vụ tinh thần giao tiếp cho thật hữu hiệu. Để chạy cho kịp bánh xe tiến hoá toàn cầu, Việt Nam đã du nhập tiếng Anh vào nước như một nhu cầu thiết yếu. Sự ưa chuộng và sử dụng tiếng Anh cho nhuần nhuyễn của người Việt như một hấp lực mạnh mẽ đưa đến một việc lạm dụng không thể tránh. Hậu quả là nhiều thứ tiếng Anh-Việt thời thượng lai tạp ra đời.

Người Việt trong thói quen ứng xử rất thích dùng phương pháp tiện và lợi. Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết không như tiếng Anh là tiếng đa âm tiết nên muốn tạo từ mới phương pháp ghép chữ là một phương pháp khả thi. Do đó chúng ta hay ghép tắt các từ vào với nhau, như “điều nghiên” là từ ghép của “điều tra và nghiên cứu”. Để tân tiến hơn, tiếng Anh được mang vào ngôn ngữ hàng ngày và bỗng nhiên những từ lắp ghép Anh Việt trở thành thông dụng . Nhất là giới trẻ, việc học và dùng tiếng Anh đã biến thành phong trào. Khắp nước đi tới đâu ta cũng thấy thứ tiếng Việt pha tạp mà Việt kiều hay dùng, gọi là tiếng ba rọi. Trong công sở, ngoài xã hội, trên truyền hình, các trang mạng, face book hay blog, đâu đâu cũng có.

Những từ như: show hàng, áo chip hai màu xì-tin, quần xì cực cute, quần sock ngắn, chip ukie, điện thoại Bikini, hot teen múa cột, hot boy nói gì, tiệm bánh snack, slogan thể hiện, đang hot, top tuần..v..v.. đầy rẫy trên báo chí và các trang mạng.

Sự phát triển tiếng Anh quá nhanh mang đến việc nhiều người sử dụng ngoại ngữ một cách cẩu thả mà không nghiên cứu cũng như học hỏi đến nơi đến chốn. Nhưng thái độ dễ dãi và xuề xoà đi tới chấp nhận của người Việt trước những sai lầm đôi khi biến những thứ tiếng Việt thời thượng kỳ dị ấy dùng lâu thành tiếng Việt thực thụ.

Tỷ như chữ Mô-đen mà chúng ta dùng đã lâu nhưng dùng sai ngữ pháp nguyên thủy mà không biết.

Chữ Mô-đen nguyên thủy từ chữ Modèle phát âm trại đi theo tiếng Pháp là Mô-đen. Modèle có nghĩa là: mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu hay mô hình, vật mẫu. Trong tiếng Anh, người ta dùng chữ Model cho nghĩa này. Nhưng khi nói tới nghĩa mới và thời trang thì người Pháp dùng chữ Mode, tiếng Anh là Fashion, trong khi tiếng Việt ta lại dùng chữ Mô-đen cho hai nghĩa này.

Những chữ Modèle, Moderne và chữ Mode có âm giọng giông giống nhau. Người Việt chúng ta chắc khó phân biệt, dùng lâu thành nếp nên phân biệt chi cho mệt, tiện thì dùng luôn, thế là mô-đen được sử dụng với nghĩa thời thượng hay hiện đại trong khi tiếng Pháp phải dùng chữ Moderne hay Modern trong tiếng Anh.

Rốt cuộc, Mô-đen bị Việt hoá với đủ các nghĩa như mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu, mô hình, vật mẫu, mới, thời trang, thời thượng hay hiện đại. Ngạc nhiên hơn, một từ mới sau này phát sinh từ chữ Mô-đen và có một nghĩa khác biệt chẳng dính dấp gì tới cái nghĩa xưa cũ từ lúc nó sơ sinh là từ “Kết Mô-đen” lạ hoắc.

Đây là những ví dụ điển hình trong sự lạm dụng từ Mô-đen:

Nó có nghĩa rất mới, rất tân tiến, đúng thời trang, thời thượng như: “Cực kỳ mô-đen”. Hoặc ngược lại “Lạc quẻ với mô-đen bùng nhùng”. Từ này còn ám chỉ một mẫu hàng “Mô-đen 3100”. Nó còn là tiếng gọi một người mẫu, “Thin nít sờ Mô đen(teenist model)”. Hay là “mô đen sống mình ên”, không gì “vắt vai” đang là môđen của nhiều người trẻ thành đạt, Môđen bây giờ là đi “tàu nhanh”, mô đen Hàn Quốc, mô đen wằn wại. Ghế ngồi chờ xe buýt quá “mô-đen”, Các bạn ơi con gái thời nay mô đen lắm đó, thời trang ý ẹ: Mô-đen dây và rây, Tóc "mô đen" - Nhìn và thấy Mô đen bây giờ là tóc càng dựng càng đẹp.

Và nó còn được dùng cả trong lãnh vực tình cảm như “Tin tức, Trần Kiều Ân kết mô-đen Lam Chính Long”.

Người Việt đã tỏ ra ứng xử ngôn ngữ rất nhanh nhạy trước giai đoạn đổi mới khi đối đầu với lượng ngoại ngữ quá lớn từ bên ngoài ồ ạt đổ vào. Chưa bao giờ tiếng Việt phát triển cực độ như bây giờ. Kho tàng từ vựng của ngôn ngữ Việt Nam ngày một dồi dào thêm và du nhập về những “tiếng lạ” do nhu cầu giao tiếp cùng người ngoại quốc. Hàng ngày chúng ta thấy nhan nhản việc dịch sai, nói sai, dùng sai ngữ pháp khiến sự việc trở thành một trò cười được lưu hành khắp nơi trên mạng thông tin. Chính thói quen thích sử dụng tùy tiện, lại thích tỏ ra chúng ta có óc sáng tạo nên nhiều từ vựng được sinh ra nghe rất ngô nghê và không đúng ngữ pháp nguyên thủy của những từ được vay mượn.

Có lần tôi đọc được thực đơn những thức giải khát của một nhà hàng ở Hà Nội. Họ bán một thứ nước uống gọi là Milk Sex. Tôi ngạc nhiên, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới đoán ra là có lẽ họ bán thứ nước uống giống sinh tố bên Mỹ gọi là Milk Shake làm bằng sữa. Vì khi người Mỹ phát âm Shake, họ nghe không rõ nên tưởng lầm là Sex, rồi tỏ ra sáng tạo hơn sao không gọi là Milk Sex. Thế là thứ nước uống rất Việt Nam gọi là Milk Sex ra đời!!!

Học tiếng nước người không những chúng ta học từ vựng, ngữ pháp, cách đặt câu, cách viết bài mà chúng ta còn học cả văn hoá của ngôn ngữ đó nữa.

Trong việc chuyển ngữ, dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt đã khó, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi người thông dịch phải thật giỏi cả hai ngôn ngữ mà còn cần có kinh nghiệm sống dồi dào trên đất nước của hai ngôn ngữ được sử dụng để hiểu cách dùng cho nhuần nhuyễn.

Do đó vì kém ngoại ngữ mà trong một thực đơn của nhà hàng ở Vịnh Hạ Long món Mực nướng được dịch ra tiếng Anh là ink baked thay vì baked squid mới đúng. Tuy con squid có ink(mực) nhưng con squid(con mực) không được gọi là con ink. Và chữ động từ nướng bake phải có thêm ed để thay đổi thành tiếng tính từ và đứng trước danh từ squid để thành baked squid.

Một nơi khác không ngần ngại dịch phăng món Ốc thành Screw!!! tức là cái đinh ốc thay vì dùng chữ Snail. Và nước đá là Water stone, hi light viết thành Hair light, Fast food viết thành fat food hay fast foot, welcome viết thành wellcome, cua dịch sai thành crap thay vì crab. Sai một ly đi một dặm chữ crap trong tiếng lóng có nghĩa là “cứt”.

Việc dịch sai một vài thực đơn trong nhà hàng có thể đem lại vài trận cười tiếu lâm cho người đọc. Nhưng nó biến thành hỏng trầm trọng khi một nhóm chuyển ngữ gồm các bác sĩ, sinh viên, nghệ sĩ có tên là BSP Entertainment (TPHCM) tung ra một CD

gồm 10 bài hát với tên gọi "Tình ca 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội". nhân đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tặng phẩm này dành cho chương trình "Những tấm lòng với Thăng Long - Hà Nội" là công trình dịch thuật những bài hát viết về Hà Nội nổi tiếng được dịch ra tiếng Anh.

Dịch ca từ không phải là việc dễ, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi một kiến thức Việt và ngoại ngữ lưu loát mà còn phải biết rành âm nhạc cũng như am hiểu đặc tính thơ ca trong ca từ. Không biết vì kém tiếng Anh, thời gian thực hiện lại gấp gáp hay sao mà nhóm BSP đã tung ra một sản phẩm dịch thuật thiếu chuyên nghiệp, kém chất lượng, tồi tệ đến nỗi một bài viết trên báo Lao Động phải kêu lên “ca từ trong CD này đã bị chuyển ngữ một cách vô cùng cẩu thả, thô thiển”(xin xem các link về những bài báo này dưới mục Tài liệu tham khảo).

Bài báo còn dẫn ra những câu dịch sai:

“Hanoi’s this season... absent the rains. The first cold of winter make your towel’s gently in the wind. Flower stop falling, you inside me after class on Co Ngu street in our step slowly return...” - đây chính là phần chuyển ngữ của ca khúc "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa" (Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa/ Cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh/ Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp/ Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về).

Xin trích ý kiến của một số bạn đọc trên mạng sau khi đọc bài báo: Bạn đọc lang doan viết: "Sau khi đọc được lời dịch qua tiếng Anh (Mỹ), tôi phải bật cười vì cách dịch cứ như người mới học sinh ngữ được 2-3 lớp sơ đẳng, hoặc chưa hề tập viết văn chương bằng tiếng Anh. Từ cú pháp, ẩn dụ thật tối nghĩa cho tới văn phạm đều sai. Cho nên, nếu dịch cẩu thả là không thể chấp nhận, vì như vậy là coi thường thính giả trong và ngoài nước, đồng thời thiếu tôn trọng văn hoá Việt. Không những thế, người ta sẽ đánh giá trình độ văn hoá của cả nước khi những tác phẩm này được quảng bá đại diện cho văn hoá VN. Lấy thí dụ nhỏ, cái "khăn" để đội đầu hay cuốn quanh cổ mà dịch thành "Towel" (khăn tắm, khăn rửa mặt, khăn lau xe) thì hết ý kiến!".

Trớ trêu hơn, bạn Nhựt Hồng phát hiện: "You inside me after class" theo nghĩa Mỹ có nghĩa là... "anh và em quan hệ tình dục sau lớp học" chứ chẳng phải "em bên tôi một chiều tan lớp".

Không chỉ dừng ở việc "tàn sát" các ca từ trong ca khúc "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa", kiểu dịch "từ đối từ" sai về cú pháp, ngữ pháp tiếp tục được lặp đi lặp lại trong các ca khúc nổi tiếng về Hà Nội khác như: "Có phải em mùa thu Hà Nội?" (Are you the autumn in Hanoi?): "August autumn, did leaf fall come yellow. Since you've been gone, I miss you silent" - (phải hiểu là: Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ. Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm) hay "One day return, I visit sad Thanglong" (cần hiểu là: Một ngày về xuôi, chân ghé Thăng Long buồn). Còn trong bài "Hà Nội niềm tin và hy vọng" có đoạn "Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô, nghe tiếng cười không quên niềm thương đau" được chuyển ngữ thành "The windy road immense the doorway, hear the laugh but don't forget the pain".

Bây giờ nếu đem phân tích những lỗi lầm dịch thuật đã phạm trong những ca khúc này, chúng ta cần phải học bao nhiêu bài học, viết bao nhiêu bài phân tích về Anh ngữ cho đủ. Nên tôi xin miễn bàn thêm. Chỉ có điều đáng tiếc và đáng buồn không phải ở chỗ khả năng người dịch kém, ca sĩ phát âm không đúng mà ở chỗ sản phẩm kém vẫn được quảng cáo và truyền thông đến người tiêu dùng. Bài quảng cáo “Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa” được đăng trên trang web chính thống của Bộ VHTTDL, trang web của Uỷ ban Người VN ở nước ngoài TPHCM, và những trang thông tin kết nối với bạn bè quốc tế, người Việt xa xứ. Điều này cho thấy cơ quan chức năng cũng tệ không thua gì sản phẩm!!!

Việc toàn cầu hoá ngôn ngữ trong việc dùng tiếng Anh đã mang lại nhiều tiện ích cho Việt Nam. Nó giải quyết được nhiều lúng túng trong việc thiếu từ vựng trong nhu cầu tạo từ mới trong các lãnh vực, kỹ thuật, tin học, kinh tế, y khoa, chính trị, khoa học cũng như văn hoá. Do đó sự ưa thích được gọi là sính dùng tiếng Anh đã lan nhanh như cơn sóng lớn có ảnh hưởng chiều ngang đến ngôn ngữ mẹ đẻ của người Việt và dần dà ăn sâu đến văn hoá theo chiều dọc của bản chất dân tộc Việt. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Việc sử dụng sai phạm, kém hiểu biết, thiếu chuyên nghiệp, cẩu thả sẽ biến thành trò cười cho người ngoài và những người thông hiểu tiếng Anh. Mà trên đà toàn cầu hoá, trên thế giới đã có khoảng trên dưới 500 triệu người đang sử dụng tiếng Anh như là một quốc ngữ, và khoảng phân nửa dân số thế giới dùng Anh ngữ như là một ngôn ngữ thứ hai.

Còn một nguy cơ nữa chúng ta cần lưu ý là đừng để mất bản sắc dân tộc khi đắm chìm trong việc chạy theo lực cuốn hút của tiếng Anh. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại và dừng lại sự say mê lạm dụng tiếng Anh trong đời sống hàng ngày. Đừng để một ngày nào đó nhìn lại một trang viết hay trong một câu nói của một học sinh chỉ còn lõm bõm hai ba chữ quốc ngữ, phần còn lại chỉ toàn là tiếng Anh. Lúc đó chúng ta sẽ đánh mất luôn cái hồn nước cuối cùng của dân tộc.
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Thế Nào Là Tiếng Việt Trong Sáng?


Chữ viết và tiếng nói là phương tiện truyền đạt giữa con người và con người. Loài vật chắc cũng có tiếng nói qua những âm thanh như: hót, kêu, gầm, hú, sủa… để truyền đạt cho nhau nhưng loài vật không có chữ viết. Con người do trí thông minh, do bản năng tiến hóa, lại có ý thức, sau khi sáng tạo ra chữ viết, lần hồi biết tổng hợp, gọt giũa để biến thành văn chương. Còn tiếng nói cũng cải tiến không ngừng. Ngôn ngữ đi như bóng với hình với văn chương, từ thô thiển trở thành thanh tao, từ thẳng thừng trở nên bóng bẩy, từ thô lỗ trở nên ý nhị. Có thể nói văn chương càng phát triển bao nhiêu thì ngôn ngữ càng đẹp bấy nhiêu. Tư tưởng càng phát triển bao nhiêu thì văn chương và ngôn ngữ càng phong phú bấy nhiêu.

Thế nhưng muốn nắm bắt được tinh hoa ngôn ngữ của dân tộc dứt khoát là phải có giáo dục. Một đứa trẻ không được đi học vẫn nói được, nói liến thoắng đủ điều nhưng không viết được và chắc chắn ngôn ngữ rất nghèo nàn và thường mang âm hưởng “chợ đời” chứ không có những ngôn từ của một đứa trẻ được cắp sách đến trường mà ngày xưa gọi là “cửa Khổng sân Trình”. Không những phải học hết Lớp 12 phổ thông mà còn phải bước lên đại học nữa. Một người không thế có tiếng Việt phong phú nếu không học qua các bộ môn như lịch sử, triết học, tôn giáo, luật học, kinh tế học, tâm lý học, chính trị học, xã hội học, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến thức về quân sự, ngoại giao... và ít nhất cũng phải biết qua các tác phẩm văn chương lớn của đất nước - cổ cũng như kim. Chỉ cần dành chút ít thời giờ đọc và nhớ ba tác phẩm như Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Chinh Phụ Ngâm thôi thỉ vốn Việt Ngữ của chúng ta cũng đã phong phú thêm biết là bao nhiêu.

Viết thì ai cũng có thể viết được. Nói thì ai cũng nói được nhưng xin nhớ cho trong bất kỳ quốc gia nào cũng có hai loại: Ngôn ngữ thượng lưu và ngôn ngữ bình dân; văn chương bác học và chương bình dân.

-Ngôn ngữ thượng lưu là lời nói văn vẻ, ý nhị, nhẹ nhàng, lễ độ, dễ nghe, thâm thúy. Còn ngôn ngữ bình dân không phải là xấu, chân tình nhưng mộc mạc, thường thì cọc cằn, thô lỗ và không giữ gìn ý tứ.

-Văn chương bác học là văn chương cầu kỳ, gọt giũa, xử dụng nhiều ẩn dụ, điển tích. Còn văn chương bình dân không cầu kỳ, nghe là hiểu ngay không cần phải suy nghĩ nhiều. Có một điểm chung là dù loại văn chương hay ngôn ngữ nào đi nữa thì nó cũng phải trong sáng, thông dụng và dễ hiểu.

Theo dòng lịch sử, dân tộc ta đã tiếp nhận nhiều nền văn hóa bên ngoài du nhập vào. Trải qua 1000 năm Bắc Thuộc, tổ tiên chúng ta đã không để mất gốc - mà Việt hóa tinh hoa của học thuật, ngôn ngữ Trung Hoa, biến nó thành tiếng Hán-Việt khiến tiếng Việt trở nên phong phú. Rồi thì 100 thuộc Pháp, cha ông chúng ta cũng không để tiếng Việt bị lai căng. Dựa vào tinh hoa của nền văn chương Pháp, từ đó giản dị hóa, trong sáng hóa tiếng Việt. Còn ngày hôm nay, văn hóa Mỹ không vào Việt Nam bằng các tác phẩm văn chương, học thuật mà bằng đồng đô-la, Cola Cola, trò chơi (Games), phim ảnh gợi tình, bạo lực và bắn giết. Sách vở du nhập vào không phải là các tác phẩm văn học, học thuật tư tưởng lớn mà là các tạp chí về sắc đẹp, thời trang, son phấn, nước hoa, quần áo lót v.v.. tràn vào như thác lũ. Qua thương mại, qua các trang điện tử, quảng cáo và giải trí cùng với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, tiếng Việt có nguy cơ trở nên một thứ lai căng hổ lốn trong chớp nhoáng. Xin nhớ cho văn hóa Mỹ là một nền văn hóa áp đảo bởi vì nó là một nền văn hóa tiêu thụ đánh ngay vào thị hiếu cấp thời của con người cho nên các quốc gia chậm tiến nghèo khổ không sao cưỡng lại được. Trước nguy cơ đó đã nảy ra tiếng kêu cứu về tiếng Việt trong sáng.

Nói về tiếng Việt trong sáng thì dễ nhưng nội dung của “tiếng Việt trong sáng” là gì? Theo thiển ý, sự trong sáng của tiếng Việt bao gồm nhiều yếu tố như:

-Không lai căng tức không chen tiếng Tây, tiếng Mỹ vào.

-Không tối nghĩa.

-Không gây hiểu lầm.

-Giản dị. (không cầu kỳ, rắc rối)

-Lịch sự, thanh tao.

Trong khi chúng ta chưa có viện hàn lâm, tạm thời dựa vào các tiêu chuẩn này, chúng ta thử “chẩn bệnh” một loại tiếng Việt mới đang được xử dụng tràn lan ở trong nước và hải ngoại. Loại tiếng Việt mới này chen tiếng Mỹ, sáng chế những danh từ kỳ quặc, khó hiểu mang tính khoe khoang, làm dáng.

1) Nội y: Tại sao lại phải dùng chữ khó vậy? Đây chỉ là thứ quần áo lót /đồ lót của đàn ông hay đàn bà.

2) Triều cường: “Triều cường làm ngập đường phố Hà Nội.” Tại sao không dùng chữ nhẹ nhàng và dễ hiều hơn “ Nước dâng cao làm ngập đường phố Hà Nội.”

3) Các thiết bị siêu trường siêu trọng: Các thiết bị nặng và dài. Các thiết bị quá nặng và quá dài.

4) Xe container: Xe vận tải hạng nặng, xe tải hạng nặng.

5) Các container: Các kiện hàng, thùng hàng

6) Bunker/Boong-ke: Hầm trú ẩn.

7) Blog: Trang tin chuyên đề/ trang chuyên đề. Blogger: Người viết trang chuyên đề.

8) Audio-visual: Âm thanh & hình ảnh/ phần âm thanh & hình ảnh.

9) Bình ắc-quy: Bình điện. Sạc (Charge): Tiếp điện, nạp điện.

10) Trái cherry to, đỏ mọng…Xin nhắc khéo báo phapluattp.vn rằng cherry là trái anh đào.

11) Mát-xa (Massage): Đấm bóp, nghề đấm bóp.

12) Ảnh nude: Ảnh khỏa thân, lõa thể.

13) Hot girls : Gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

14) Ăn mặc hot: Ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

15) Ảnh hot: Ảnh có cảnh khiêu dâm hoặc gái ăn mặc hở hang, khiêu dâm.

16) Bản nhạc ấy hot lắm: Bản nhạc đang được ưa chuộng.

17) Thị trường đang hot: Thị trường bán rất chạy (trái với ế ẩm)

18) Top ten: Mười…đứng đầu. Mười hạng đầu.

19) Email: Điện thư.

20) Logo: Huy hiệu.

21) Mít-tinh: Cuộc biểu tình, buổi tập họp.

22) Tiêm vaccine: Trích ngừa, chủng ngừa.

23) Logic: Thuận lý, hợp lý, lý đương nhiên (không cần tranh biện).

24) Clip: đoạn băng, đoạn thu hình ngắn. Mỹ định nghĩa clip: “A short part of a movie or television program...”

25) Một số danh từ quân sự: Nên sử dụng danh từ có sẵn trong ngôn ngữ Việt vừa mạnh vừa sắc gọn: Ví dụ: Tàu pháo = Pháo hạm; Tàu tuần dương= Tuần dương hạm; Tàu hộ tống= Hộ tống Hạm; Tàu khu trục = Khu trục hạm & Trục lôi hạm; Tàu khinh tốc= Khinh tốc hạm; Tàu vận tải= Quân vận hạm; Cảng quân sự= Quân cảng. Ví dụ: Quân Cảng Cam Ranh để phân biệt với Thương Cảng Cam Ranh; Đội tàu= Hạm Đội. Ví dụ: Hạm Đội Phú Quốc, Hạm Đội 7 v.v..

26) Bắt khẩn cấp: “Cảnh sát bắt khẩn cấp…” nghe nó kỳ làm sao ấy. Tại sao không dùng “Cảnh sát đã bắt ngay, bắt gấp nghi phạm…” hoặc “Tòa ra lệnh tức tốc bắt ngay can phạm”

27) Đóng mới: Đóng tàu là đóng tàu mới rồi, chẳng ai đóng tàu cũ cả cho nên thêm chữ ”mới” là thừa.

28) Cà- phê đểu: Đây là loại “cà-phê giả” nhưng cách dùng chữ của tác giả khiến người đọc hơi khó chịu. Xin nhớ cho có nhiều cách để diễn tả cùng một sự kiện, cách thì thanh tao, cách thì thô tục. Khi một đất nước tiến lên thì mọi thứ cũng phải tiến lên kể cả ngôn ngữ. Ngày nay hình như trên thế giới người ta dần dần loại bỏ những ngôn từ nghe có vẻ kỳ thị, xúc phạm, khinh rẻ hoặc gây ấn tượng bạo động. Chẳng hạn chữ nigger (mọi đen) ở Mỹ không ai dám nói nữa vì nó dùng để hạ thấp người Da Đen. Con người không thể ăn mặc thời trang, đi xe lộng lẫy, ở biệt thự, son phấn đầy người mà lại nói năng thô bỉ. Ngôn ngữ của một dân tộc có “văn hiến” thì mỗi ngày phải mỗi đẹp hơn và thanh tao hơn. Cho nên theo tôi một số ngôn từ sau đây như: đồ đểu, đồ con đĩ, đồ thất học, đồ hèn, đồ ngu, thằng mọi, đồ mất dạy, tiên sư cha mày v.v.. cũng cần phải loại bỏ trong ngôn ngữ Việt Nam.

29) Hoành tráng: Ngày nay ở Việt Nam cái gì cũng “hoành tráng” làm cho một số tính từ diễn tả vẻ đẹp lần hồi trở nên bị “tuyệt chủng”chẳng hạn như: Một ngôi nhà bề thế, một phòng hội khang trang, một khu chợ ngăn nắp, một kiến trúc trang nhã, một lâu đài tráng lệ, một cuộc diễn binh hùng tráng, một cung điện nguy nga, một ngọn núi hùng vĩ, một ngôi chùa cổ kính v.v…Nếu tất cả những tính từ trên được thay bằng hai chữ “hoành tráng” thì tiếng Việt sẽ ra sao?

30) Rất đẳng cấp: Cầu thủ đó rất đẳng cấp, bộ quần áo rất đẳng cấp, chiếc xe thuộc loại đẳng cấp…Bộ kho tàng ngôn ngữ Việt không còn chữ nào để thay cho hai chữ “đẳng cấp” nữa sao? Tại sao không nói: Cầu thủ nhà nghề, cầu thủ quốc tế, cầu thủ đắt giá; bộ quần áo đắt tiền; xe thuộc loại sang v.v.. Ngoài ra tự thân hai chữ “đẳng cấp” chỉ có nghĩa là “thứ bậc” như “đẳng cấp thấp”, “đẳng cấp cao” chứ nó không có nghĩa là “cao, giỏi, sang”. Từ Điển Việt Nam do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành năm 2000 nơi trang 291 định nghĩa: đẳng cấp là thứ, bậc, hạng trong xã hội như đẳng cấp xã hội.

31) Phỏng vấn trực tuyến: Chữ tuyến nghe có vẻ hình học. Nào là trung tuyến, tiếp tuyến v.v…Tại sao không dùng “phỏng vấn trực tiếp” hoặc “giải đáp trực tiếp” tức không qua trung gian nào, mà trực tiếp trên truyền hình hoặc họp báo chứ không chờ tới ngày mai hoặc trả lời bằng thư.

32) Văn hóa ẩm thực: Văn hóa bao gồm nhiều lãnh vực như: cách ăn uống, y phục, nói năng, lễ nghi, chữ viết, giao tiếp, cư xử v.v…Nếu nói văn hóa ẩm thực thì chẳng lẽ lại có thêm văn hóa lễ hội, văn hoá y phục nữa sao? Vậy nói “văn hóa ẩm thực” là không đúng. Đó chỉ là các món ăn và cách ăn uống mà thôi. Khi chúng ta du lịch Hòa Bình chẳng hạn, ngoài việc ngắm phong cảnh, dĩ nhiên chúng ta còn muốn thưởng thức các món ngon, lạ, độc đáo của đồng bào Mường và chỉ có thế. Nếu nói, “Chúng ta khám phá văn hóa ẩm thực của đồng bào Mường” nghe có vẻ “ghê gớm” quá.

33) Giải phóng mặt bằng: Nên thay bằng “giải tỏa mặt bằng” cho nó nhẹ nhàng. Chính phủ có thể giải tỏa một khu ổ chuột để chỉnh trang đô thị. Nhưng nếu nói “ Giải phóng một khu ổ chuột” có thể gây hiểu lầm là cứu dân ở đây ra khỏi cuộc đời lầm than như “giải phóng nô lệ” chẳng hạn.

34) Cảng biển: Nghe rất lạ tai. Tại sao không dùng “hải cảng”? Còn “cảng bay” tại sao không dùng “ phi cảng” ? Trong nước hiện có “Cảng Hàng Không Quốc Tế Đà Nẵng”. Rút gọn hơn chúng ta có thể dùng “Phi Cảng Quốc Tế Đà Nẵng”.

35) Báo vietnamnet.vn: “Những ‘bí mật’ trong hầm đường bộ Hải Vân” Sao dùng chữ “khó” quá vậy? Xin đơn giản thành “Những ‘bí mật’ trong đường hầm Đèo Hải Vân.” giống như “đường hầm Thủ Thiêm”. Nếu chúng ta viết “hầm đường bộ Thủ Thiêm” thì độc giả sẽ nghĩ sao?

36) Cũng báo vietnamnet.vn: “Hội chứng hot girl nude giữa thiên nhiên”. Thực ra tác giả muốn đưa tin: Có một “bệnh dịch” hoặc “thói bắt chước” tạp chí dâm ô Mỹ chụp hình cởi truồng ngoài trời (để nổi tiếng) nhưng lại dùng một đoạn văn thật kỳ lạ.

37) Báo phunutaday.vn: “Thành phố….vừa điều chuyển hai công chức không ’vừa lòng’ dân”. Chữ “điều chuyển” nghe chưa quen, nên nói là “thuyên chuyển”. Nếu trong quân đội thì nói là “thuyên chuyển tới một đơn vị khác”. Còn hai chữ “điều động” thì có nghĩa là điều động binh lực, nhân lực, điều động một lực lượng an ninh v.v..

38) “Bố nghiện ma túy giết con 10 tháng tuổi”: Chữ tuổi ở đây là thừa mà chỉ cần viết “Bố nghiện ma túy giết con mới 10 tháng” thì ai cũng hiểu.

39) “Người cao tuổi được mua vé xe buýt trợ giá”. Nên viết “Người cao tuổi được giảm vé xe buýt”. Viết báo cốt ở nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu.

40) Báo giaoduc.net.vn có tựa đề: “Bé sơ sinh hai đầu ở Sóc Trăng đã tử vong”. Chữ “tử vong” có nghĩa là chết. Còn “thương vong” có nghĩa là vừa chết vừa bị thương. Vậy tại sao không dùng hai chữ “đã chết” cho nó nhẹ nhàng hơn?

41) Cận cảnh (close-up) là ảnh chụp gần, kề sát mặt. Nếu không phải là ảnh chụp gần mà chỉ là khoảng cách bình thường thì không được dùng hai chữ “cận cảnh”.

42) Chùm ảnh: Chữ “chùm” làm chúng ta liên tưởng tới chùm nho, chùm nhãn, dính chùm v.v…Vậy thì nên dùng chữ “một loạt hình ảnh”, “một số hình ảnh”. Ví dụ: Một số hình ảnh về đại hội…

43) Tiền boa: Nói đầy đủ là “pour boire” theo cách lịch sự của người Pháp coi đó chỉ là chút “tiền trà nước”. Vậy thì nên dùng “tiền trà nước” thay vì “tiền boa” vì ông Tây đã rời Việt Nam lâu lắm rồi.

44) Minh họa (Illustrated): Là hình vẽ của họa sĩ để diễn tả, trình bày một cuốn sách, một câu truyện. Nếu ngoài bìa cuốn sách ghi “Illustrated by” có nghĩa là “Vẽ bởi họa sĩ”. Nếu ghi “ photography by”có nghĩa “Hình ảnh của”. Ví dụ, trong một bài viết nói về Khu Trục Hạm Lý Thái Tổ mà chúng ta không có tấm hình của chiếc này và thay thế bằng tấm hình của chiếc khu trục hạm khác thì chúng ta không được ghi “Hình minh họa” mà chỉ cần ghi chú ở dưới tấm hình “Đây là hình ảnh khu trục hạm ABC một loại tương tự” thì độc giả hiểu ngay. Ngày nay câu “ hình minh họa” được dùng tràn lan ở trong nước để phụ chú dưới tấm hình…như thế là hoàn toàn sai. Xin nhớ cho minh họa có nghĩa là vẽ ra, diễn tả bằng tranh chứ không phải bức hình thật hoặc bức hình thay thế. Nếu không biết thì cứ mở sach vở, báo chí Nhật, Mỹ, Nga… ra mà học thì biết ngay.

45) Trồng cây xanh: Trồng cây là đủ rồi bởi vì cây nào lá chẳng xanh? Nói thêm “xanh” là thừa. Nói “trồng cây xanh” chẳng khác nào nói “Trồng gấc đỏ”. Xin thưa gấc nào mà chẳng đỏ? Chúng ta thường nói “Đỏ như gấc”. Tuy nhiên cũng phải để ý là có khá nhiều loại cây lá không xanh mà nâu hoặc nâu đậm. Nếu “trồng cây xanh” thì chẳng lẽ không trồng các loại này sao? Ngày xưa các cụ đã chế giễu cách dùng văn thừa thãi và trùng lập qua hai câu thơ:

Nửa đêm giờ tý canh ba.

Vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi.

46) Báo Tuổi Trẻ đi một tiêu đề như sau “Cầu thủ bóng đá VN luôn luôn thua thiệt cầu thủ ngoại khi tranh chấp bóng tay đôi do hạn chế về thể lực và thể hình.” Câu văn này nặng nề giống như dịch lại từ một đoạn văn từ báo Hồng Kông, Đài Loan. Người ta nói “tranh bóng” chứ không nói “tranh chấp bóng”. Chữ “ tranh chấp” nên dành cho tranh chấp quyền lực, tranh chấp lãnh thổ. Ngoài ra các chữ “thể lực và thể hình” nghe “đao to búa lớn quá” không thích hợp trong lãnh vực thể thao. Chúng ta có hai chữ “sức vóc” vừa giản dị vừa dễ hiểu tại sao không dùng? Xin thưa “sức” là sức khỏe, “vóc” là sự cao lớn, tầm vóc. Nếu thay bằng hai chữ này, bỏ bớt những chữ thừa thì câu văn sẽ gọn nhẹ, từ 27 chỉ còn 19 chữ “Cầu thủ Việt Nam khi tranh bóng luôn luôn lép vế/thua cầu thủ nước ngoài do sức vóc kém.”

47) Báo giaoduc.net.vn: “Cô gái xinh đẹp hát ca trù làm xiêu lòng người nghe.” Ông phóng viên nào đó dùng chữ “xiêu lòng” không đúng. Xiêu lòng có nghĩa là mới đầu không bằng lòng, sau thuyết phục, nói mãi thì “xiêu lòng” tức thuận theo. Tôi cũng đã xem đoạn băng này. Thực ra trong cuộc thi hát, cô thí sinh này còn trẻ, xinh xắn, mới 18 tuổi, mà hát được ca trù (cũng tàm tạm) cho nên chinh phục được hoặc tạo thiện cảm nơi khán giả chứ không phải làm “xiêu lòng” khán giả.

48) Đắng lòng trước cảnh…: Từ trước đến giờ chưa có sách vở nào viết “đắng lòng” cả mà chỉ thấy viết “Đau lòng trước cảnh…” Xin quý ông/bà làm ơn coi lại hai từ này. Bà Huyện Thanh Quan viết “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc”, chứ bà không viết “Nhớ nước đắng lòng con cuốc cuốc”.

49) Báo giaoduc.net.vn: “Chi phí dao động từ 30.000 USD đến 60.000 một năm”. Chữ ‘dao động” ở đây thừa. Chỉ cần viết “Chi phí khoảng từ 30,000 USD đến 50,000 USD một năm” là người ta hiểu rồi.

50) Cũng lại giaoduc.net.vn: “NoithatVP đang thanh lý các sản phẩm tủ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.” Trời ơi! Các sản phẩm tủ là gì? Tại sao không viết, “các loại tủ” cho ngắn gọn và dễ hiểu? Ngoài ra chữ “thanh lý” làm người đọc liên tưởng tới sự “thanh lý môn hộ” tức truy lùng, giết những kẻ phản nghịch trong các môn phái (cũng giống như “thanh trừng” vậy). Do đó chúng ta nên thay thế bằng các chữ giản dị hơn như “giải quyết” hoặc”bán hết” hoặc “tống hết”. Nếu thế thì câu văn sẽ tạm gọn nhẹ như sau: “NoithatVP đang muốn bán/giải quyết hết tất cả các loại tủ xuất cảng sang Nhật Bản.”

51) Báo phunutoday.vn: “Trong tiết trời lạnh giá, boots cao cổ có lẽ là lựa chọn hàng đầu.” Chẳng lẽ tiếng Việt không có chữ nào để dịch chữ boots sao? Xin thưa đó là “giầy cao cổ” hoặc “giầy ống”. Thật lạ lùng! Bao kẻ sống xa quê hương mấy chục năm trời mà vẫn tha thiết với tiếng Việt tinh ròng, trong khi kẻ ở trong nước tiếng Anh tiếng Pháp chẳng bao nhiêu, lại tập viết lối văn hổ lốn chen tiếng Tây tiếng Mỹ vào.

52) Báo vnEpress.net: Có một tựa đề “Gu đàn ông của phụ nữ qua từng độ tuổi.” Xin thưa “gu” (gout) có nghĩa là “sở thích”. Ý của tác giả muốn nói,“Sở thích của phụ nữ về đàn ông tùy tuổi tác.” nhưng lại diễn tả bằng một câu văn thật trúc trắc. Rồi Thời Báo Kinh Tế Saigon Online “Chương trình truyền hình càng lắm scandal thì rating tăng vọt.” Thật lai căng hết chỗ nói! Giống hệt như trẻ con nói tiếng Việt ở Mỹ.

53) Báo Vietnamnet.vn: “Việt Nam trong cuộc chơi quyền lực Mỹ- Trung.” Cuộc chơi quyền lực chính là cuộc đọ sức. Tại sao không dùng hai chữ ấy cho giản dị và sáng sủa hơn?

54) Trang BBC tiếng Việt ngày 1/1/2013: “Ít nhất 60 người đã bị dẫm đạp chết...” Ý tác giả muốn nói “ Ít nhất 60 người dẫm đạp lên nhau mà chết..” nhưng lại dùng một câu văn khiến độc giả có thể hiểu 60 người này bị voi hoặc trâu bò dẫm đạp lên mà chết! Xin nhớ cho khi dùng chữ “bị” tức thể thụ động thì phải nói “bị cái gì” như : bị voi giày, bị xe cán, bị trâu bò húc chết v.v.. Chính mình làm thì không dùng chữ “bị”.

55) Trang VOA tiếng Việt : “Hàng ngàn fan ở Đài Loan đã đến xem buổi ca nhạc..” ; “trang web xã hội”; “vi rút trong bao tử”; “không chịu gia hạn visa”; “một chương trình doping chuyên nghiệp”…và còn rất nhiều nữa. Xin thưa fan là người hâm mộ, vi rút là siêu vi trùng, visa là nhập cảnh, doping là dùng thuốc kích thích. Trang báo mang tên “tiếng Việt” mà thực tế lại là “tiếng Việt lai Mỹ”.

Tạm kết luận:

Viết một bài báo, một bản tin, đặt một tựa đề không phải dễ. Mình viết ra rồi cần có chủ bút/chủ biên duyệt lại. Ở Mỹ mà viết bậy, viết kém thì tiêu tan sự nghiệp, chỉ có nước tìm nghề khác kiếm ăn. Viết bậy, viết nhảm, viết thiếu đứng đắn làm giảm giá trị người viết và xúc phạm độc giả. Nói về chuyện viết văn thiếu đứng đắn tôi có một kỷ niệm thời thơ ấu lúc còn học Lớp Đệ Thất (Lớp 6) năm 1955 ở trong Nam như sau: Trong một bài luận văn mô tả một buổi đi câu tôi đã dùng hai chữ “khoái tỉ” tiếng mà bọn trẻ Miền Bắc hay dùng lúc bấy giờ có nghĩa là “sung sướng”. Chấm bài xong thầy Nguyễn Tri Tài - người Huế - gọi tôi lên nói, “Chữ khoái tỉ không được đứng đắn, con không nên dùng.” Nghe thầy nói vậy tôi “ngộ” ra ngay và cho tới ngày hôm nay, dù đã hơn nửa thế kỷ, tôi vẫn nhớ lời thầy là phải dùng chữ cẩn thận khi viết văn. Đừng tưởng lời nói hay bài viết sẽ qua đi như một cơn gió thoảng - mà nó còn “tạo nghiệp”- nghiệp lành hay nghiệp dữ - tức gây tác hại cho người khác và cho chính mình theo giáo lý nhân-quả của nhà Phật. Trong cuốn hồi ký của một nhà văn xuất bản ở hải ngọai - một ông chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton”. Ông thường chen vào truyện một vài chi tiết khiêu dâm, gợi dục để “câu” độc giả trẻ. Một ngày kia cô con gái về khoe với ông, “ Ba ơi! Con bạn học của con đọc tới cái đoạn…mà ba viết, nó thích quá rùng cả mình !!!” Nghe con gái nói thế ông toát mồ hôi, không ngờ những gì mình viết ra đã ảnh hưởng đến chính cô con gái cưng. Từ đó ông không bao giờ dám viết văn theo cái kiểu chen vào những chi tiết khiêu dâm nữa. Hiện nay chữ “nhí” đang được dùng tràn lan trong nước. Xin nhớ cho chữ “nhí” là tiếng lóng dùng để chỉ “nhỏ, bé” có ý diễu cợt, không đứng đắn. Nếu dùng không đúng chỗ sẽ làm tổn thương người ta. Dù là trẻ em cũng có nhân cách của trẻ em. Chẳng hạn nếu chúng ta nói “ca sĩ tí hon”, “nhạc sĩ thần đồng”, “chú tiểu nhỏ”, “con chim bé bỏng” nghe có vẻ thanh tao hơn là “ca sĩ nhí”, “nhạc sĩ nhí”, “chú tiểu nhí”, “con chim nhí”. Làm phóng sự, viết bản tin phải viết một cách trung thực, nghiêm túc, không bông đùa, châm chọc hoặc khôi hài vô ý thức. Bài viết sẽ bộc lộ tư cách và trình độ của người viết. Người xưa nói, “Văn tức là người”.

Ngôn ngữ và văn chương là tài sản vô giá do tiền nhân để lại, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy cho mỗi ngày thêm sáng đẹp. Do giao tiếp với nhiều nguồn văn hóa ngoại lai, những chữ nào có thể dịch sang Việt Ngữ thì phải cố mà dịch cho được để giữ gìn ngôn ngữ và văn chương Việt cho thuần khiết. Chen tiếng ngoại quốc vào tiếng Việt một cách bừa bãi khiến tiếng Việt trở nên lai căng, hổ lốn. Muốn thế thì phải học hỏi và nhất là phải cẩn thận và viết với tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm có nghĩa là hiểu được hậu quả của những gì mình viết ra. Nếu không giỏi thì cứ học theo người xưa mà viết ra, cố “sáng chế” tức viết bậy, viết nhảm. Chúng ta không nên đùa rỡn, nói mạnh hơn là phá hoại ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc. Học tiếng nước ngoài là để giao dịch, làm ăn buôn bán và nghiên cứu những kiến thức mà sách Việt không có. Học tiếng nước ngoài không có nghĩa là để về hủy hoại tiếng mẹ đẻ hoặc thỉnh thoảng “xổ” ra vài tiếng để chứng tỏ mình văn minh hơn đời hoặc có vẻ “Mỹ” đây. Người Mỹ có bắt chước ai đâu? Họ đứng trên đôi chân của họ. Tại sao ta phải tự ti mặc cảm về ngôn ngữ của dân tộc mình? Chuyện “nói tiếng Tây ba rọi” đã xưa lắm rồi và bị mỉa mai suốt thời kỳ Thực Dân Pháp còn đô hộ nước ta. Sau hết, cũng xin nhớ cho muốn giữ gìn tiếng Việt trong sáng thì tâm hồn mình cũng phải trong sáng trước đã. Tâm hồn trong sáng là tâm hồn của một người yêu nước Việt và tiếng Việt. Khi mình nói mình yêu cha mẹ tức là phải làm sao cho cha mẹ sung sướng. Còn khi mình nói mình yêu tiếng Việt có nghĩa là mình phải làm sao cho tiếng Việt mỗi ngày mỗi trở nên sáng đẹp, thanh tao.

Đào Văn Bình

(California ngày 02/01/2013)
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Không riêng gì các Thày như trong bài mà hầu như phần rất lớn Tu Sĩ của các Tôn Giáo đều giống như vậy thôi.

Các Thầy “Thích Đủ Thứ” đã biến Chuà Chiền Cửa Phật thành các "siêu thị Phật” !!!
Xin mời xem và chuyển tiếp !!! Xin vô cùng cám ơn Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ, Chủ Nhiệm PHTQ.CANADA


TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ


Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó. Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường. Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú. Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng. Thầy có chùa rối thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh. Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn, biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo, biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật. Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền. Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi. Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền. Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật thánh. Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu la đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý thầy. Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan. Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siều huyền hoặc. Số các thầy đang đoạ lạc vào thám ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân. Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trễ đường tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng. Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm xa đọa quý thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực, chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành. Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.

VP.PHTQ.CANADA
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Trong các buổi lễ, Chư Tôn Đức cầu nguyện gì?
Trong các buổi lễ, Chư Phật Tử cầu nguyện gì?
Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi trọng, nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.
Đối với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc, bất như ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yên trong tâm hồn qua cầu nguyện.
Lời cầu nguyện này chỉ giúp tâm trí được bình yên tạm thời. Nếu con người có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểu luật nhân quả, biết rằng: mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đã tạo nghiệp nhân trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo).
Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, do việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng: đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm.
Theo chánh pháp, nên biết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!
Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?
Thí dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả (gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiền tiết kiệm (phước báo). Không có tiền tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúng số để trả nợ chăng ?!
Người có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, động đất, vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo ít hơn, phải chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Người không có phước báo thì lãnh đủ quả báo.
Thời đức Phật còn tại thế, khi chư vị thánh tăng phải đền trả các nghiệp báo cuối cùng, đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:
Dù lánh lên non núi,
Xuống biển hay vào hang
Khi nghiệp báo đã mang
Không ai tránh thoát khỏi.
Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải là van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh, hay năng lực linh thiêng huyền bí nào cả.
Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh. Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.
Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu, nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình, trừ khử tà kiến mê tín, khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối. Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.
- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.
- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!
- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!
- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mang cái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận với quảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêu việt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúng kiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ. Trái lại, đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.
- Ngày nay, người theo đạo Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghi lễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiên nhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết, không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp. Chẳng hạn như: người ngồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bình thường!
- Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu, có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phật giáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánh tín. Không nên tiếp tục để các tà sư - mang hình tướng xuất gia hay tại gia - hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.
Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
Mong lắm thay ! ! !

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ , Chủ Nhiệm PHTQ.CANADA
band4 3G McKeno

Post Reply