Góc nhỏ của anh 3 Giang

Tung cánh chim tìm về mái trường xưa. Mong tìm bạn học cũ, nay ở đâu xin nhắn đôi lời!!!

Moderator: CNN

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Thương hại

Tácgiả : Gả siêu



Ngày xửa ngày xưa, có một ông Tây chính hiệu “Phú Lãng Sa”, trong người đặc sệt dòng máu “Gô Loa”, nhãn hiệu con gà trống. Thế nhưng ông Tây này lại yêu đến chết mê chết mệt một “cô em Bắc kỳ nho nhỏ”.

Và khi đã yêu ai như điếu đổ, người ta sẵn sàng yêu cả đường đi cùng với mọi tông chi họ hàng. Vì thế, ông Tây này cũng xơi thịt chó như điên, cũng húp canh cua rau đay chùn chụt, cũng dùng cà ghém quệt đẫy mắm tôm và bắn thuốc lào kêu ro ro như bắp nổ. Đặc biệt, ông Tây này đã hết lời ca ngợi tiếng Việt của dân ta.

Hình như trong một bài báo, ông Tây này đã bạo phổi cả gan gọi tiếng Việt của dân ta là “mère des langues”, nghĩa là mẹ của các ngôn ngữ.

Và rồi ông Tây này đã đưa ra lập luận của mình, gã chỉ còn nhớ mang máng, xin ghi lại nơi đây để trình làng, đồng thời có thêm mắm thêm muối tí chút cho rộng đường dư luận.

Ngôn ngữ cổ xưa nhất phải là ngôn ngữ độc âm, tượng hình và tình cảm, giống như một đứa bé khi mới học nói, nó chỉ nói được từng tiếng một và diễn đạt những cái cụ thể, gần gũi với nó nhất.

Dưới góc độ này thì tiếng Việt của dân ta thừa sức qua cầu. Thực vậy, như chúng ta đã thấy tiếng Việt của dân ta tự bản chất vốn đã là một ngôn ngữ độc âm, từng tiếng một và hơn thế nữa những ngôn từ thông dụng, cụ thể và gần gũi nhất đều xuất phát từ….tiếng Việt.

Chẳng hạn như người Việt chúng ta gọi “Ba”, thì người Pháp gọi là papa hay père, còn dân Ăng lê thì gọi là father. Người Việt chúng ta gọi “Má, Mẹ” thì người Pháp gọi là maman, mère, còn dân Ăng lê thì gọi là mOther, người Tàu thì gọi là mẫu…

Riêng cái khoản tượng hình và tình cảm thì tiếng Việt của dân ta hẳn phải ăn đứt thiên hạ.

Chẳng hạn chỉ một màu trắng mà thôi, trong tiếng Việt, đã có biết bao nhiêu mức độ đậm nhạt khác nhau như : trắng bạc, trắng bệch, trắng bong, trắng bốp, trắng dã, trắng đục, trắng hếu, trắng mét, trắng mịn, trắng mởn, trắng ngà, trắng ngần, trắng nõn, trắng phau, trắng phếu, trắng tinh, trắng tuốt…
\

Trong phạm vi tình cảm cũng vậy, chỉ nguyên cái chuyện giận mà thôi cũng đã thấy nhiêu khê và rắc rối : giận bậy, giận cùn, giận dai, giận dữ, giận giỗi, giận hờn, giận lẫy, giận phừng phừng, giận run cả người, giận tím cả gan, giận bể cả phổi, giận sôi cả tim….

Có lần gã định dịch một câu hát của Trịnh Công Sơn qua tiếng Pháp :

- Nắng có hờn hằn lên môi em…

Rốt cuộc, gã đành chào thua. Có thể vì khả năng tiếng “phăng xe” của gã còn yếu kém, nhưng cũng có thể vì cái nắng, cái hờn trong tiếng Việt Nam có những “gam”, những mức độ đậm đặc tuyệt vời khó mà diễn tả.

Gã không chuyên về ngôn ngữ học, nên chẳng hiểu lý luận trên đây của ông Tây này được ban giám khảo chấm cho được mấy điểm.

Riêng phần gã, gã hoàn toàn “ khẩu phục, tâm phục” cách ghép chữ của ông cha ta ngày trước. Gã chỉ xin đưa ra một vài thí dụ điển hình mà thôi.

Chẳng hạn : “học hành”, đã học thì phải hành, nghĩa là phải làm, phải thực hiện thì mới ăn tiền. “Đạo đức” nghĩa là đạo giúp chúng ta trở nên người nhân đức, vì thế đã có đạo thì phải sống tốt lành nếu không thì chỉ bằng thừa mà thôi. “Nhường nhịn” đã nhường nhau thì cũng phải nhịn nhau, dù người ta có chửi cha chửi mẹ, đào mồ tổ tiên ông bà hay cho ăn những thức cao lương mỹ vị thì cũng phải cắn răng chịu vậy, bởi vì đã nhường thì phải nhịn và nhịn như vậy thì lắm lúc cũng…nhục lắm. Thế mới gọi là nhịn nhục chứ.

Trong mục “tán hiêu tán vượn” hôm nay, gã chỉ xin bàn đến hai chữ “thương hại” mà thôi. Đây quả là hai chữ tuyệt vời và hết ý.

Thực vậy, tình thương là một cái gì tốt đẹp như khi cha mẹ thương yêu con cái mình. Tình thương là một lý tưởng cao cả cần phải được cổ võ. Chẳng hạn trước những đồng bào gặp phải thiên tai như bão lụt, chúng ta nên biểu lộ tình thương một cách cụ thể theo kiểu : thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, còn lá rách thì cũng cố mà đùm lấy lá…te tua.

Thế nhưng trong đời thường lại có biết bao nhiêu kiểu thương vô cùng tai hại, mà hậu quả nhiều khi khó lường nổi.

Trước hết trong phạm vi gia đình.

Có những bậc cha mẹ vì thương con, sợ con phải cực, phải nhọc, phải đau nên sẵn sàng “bao cấp”, làm hết mọi việc cho nó, biến nó trở thành một thứ “cô chiêu, cậu ấm”, chỉ biết đòi hỏi, bắt người khác phục vụ, chẳng biết khuôn mình vào một kỷ luật tối thiểu nào cả, luôn ỷ lại và không bao giờ biết tự chủ lấy một ly ông cụ.

Bên cạnh nhà gã có một cặp vợ chồng già sinh được một mụn con trai. Hai ông bà hết sức nuông chiều cậu ấm như người ta diễn tả :

- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

Thấy bọn nhóc tập xe đạp, cậu ấm cũng đòi tập, những hai ông bà kiên quyết nhất trí không cho vì sợ cậu ấm té ngã, trầy da tróc vẩy, toạc đầu xẻ chân…Vì vậy cho tới già, cậu ấm vẫn không biết đi xe đạp và mang một nỗi mặc cảm với chúng bạn.

Có những bậc cha mẹ vì thương con nên hết sức cưng chiều. Nó đòi gì là lập tức cho ngay, thậm chí còn thỏa mãn ngoài nhu cầu của nó. Từ chỗ có tiền, nó đâm đua đòi bè bạn học thói xì ke ma túy. Từ chỗ xì ke ma túy bước sang trộm cắp, khoảng cách rất gần, chả cần đến một cú nhảy vọt.

Gã xin lượm lặt những mẩu tin trong báo Công An để chứng tỏ sự thật bi đát trên.

“…Thành là con út trong gia đình nên rất được ông bố cưng chiều. Cậu quí tử này đã đàn đúm cùng lũ bạn xấu tập tành hút xách. Thương con cách mù quáng, thay vì đưa con đi cai nghiện, ông bố lại còn đưa thêm tiền để nó thỏa mãn cơn nghiện. Ngày 6.11.1997, do không chịu nổi cơn ghiền, Thành đã về nhà dí dao vào cổ ông bố, bắt ông phải đưa tiền cho hắn…

“…Vì cha mẹ cho rằng học nhiều cũng chẳng đi đến đâu, nên đã mười mấy tuổi, Toàn vẫn còn là một “thằng bé lêu lổng”, ngỗ nghịch. Nhà gần chợ, suốt ngày Toàn lê la quán xá, học đòi ăn chơi và không biết từ bao giờ nó đã nghiện…ma túy. Nghe tin dữ ấy, cha mẹ Toàn chỉ còn biết mắng vuốt đuôi một trận te tát, sau đó đâu lại vào đấy. Cuộc mưu sinh cuốn họ vào những lo toan “cơm áo gạo tiền”. Việc Toàn nghiện hút được gia đình mặc nhiên thừa nhận như thể đó là chuyện phải đến với một thằng bé 15 tuổi. Thời gian đầu chưa kiếm được tiền, Toàn tự trích lại một phần thuốc bán được 5.000đ để dành cho cữ ngày hôm sau. Hết tiền thì mua chịu, ký nợ. Cứ như thế, từng ngày từng giờ Toàn lún sâu vào nghiện ngập, lún sâu vào việc buôn bán ma túy…

Có những bậc cha mẹ vì thương con, nên khi con sai lỗi, đã không sửa dạy mà con dấu diếm và bênh vực những sai lỗi ấy. Chẳng hạn như trong trường hợp của Toàn trên kia. Tại tòa án, khi được hỏi thì bà mẹ của Toàn đã thản nhiên trả lời :

- Tôi biết nó hút héroin, nhưng vì nó còn bé, đưa đi cai nghiện thì tội nghiệp…Tôi cũng biết nó bán héroin, mấy lần nó còn nhờ tôi bán giúp. Thỉnh thoảng nó cho tôi ba, bốn chục ngàn. Tôi nghĩ con cái có tiền cho thì xài, không cần hỏi lại.

Rất nhiều chuyện cỏn con không đâu của đám con nít, nhưng chỉ vì bênh con nên đã hóa thành chuyện lớn làm mất đi bầu không khí êm ấm và cảm thông trong khu xóm : bênh con, lon xon mắng láng giềng là vậy.

Tiếp đến trong phạm vi xã hội.

Cũng có nhiều kiểu thương mà rất hại. Gã chỉ xin đưa ra một trường hợp cụ thể đó là nạn ăn xin.

Tác giả Nguyễn Thị Oanh trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật đã phân tích như sau :

“Không nói đến người già cả, tàn tật, cô thế mà ta có nhiều cách nâng đỡ, chứ không chỉ máy móc cho tiền, người còn sức lao động sẽ ỷ lại, chai lỳ. Đó là cái hại thứ nhất.

“Việc kiếm tiền dễ dàng khiến cho nhiều người lấy xin ăn thành một nghề. Như vậy cái hại thứ hai của cử chỉ ban phát là tạo một lớp người ăn bám.

“Hơn thế nữa, ta còn góp phần tạo ra tội phạm là những kẻ giả dạng thầy tu, thương binh và nghiêm trọng hơn nhiều, ta góp tay vào nạn lạm dụng trẻ em để làm công cụ xin ăn. Có em bị gây thương tật, bị cho uống thuốc ngủ và nội chuyện phơi nắng suốt ngày…. cũng đã đủ nhức nhối.

Để gợi lòng thương, dân ăn xin dám làm những chuyện thật tai hại khác. Ngoài việc lạm dụng trẻ em, còn một số mánh đã được báo Công An mô tả.

“…Phổ biến nhất là chuyện tạo ra thương tật giả, lấy sự bi đát ghê rợn để diễn cảm hầu kích thích lòng nhân ái, từ tâm. Những “dân chơi bất cần thân thể” này chẳng sợ hoại thư, chẳng cữ bất cứ vi trùng gì, cứ “triển lãm sản phẩm” là những vết lở loét rất kinh tởm, mủ máu, ruồi nhặng bu đầy, có thế mới ép phê, mới tạo sự xót xa để rồi khổ chủ càng lòi nhiều tiền ra.

Trong phút nói thật, có kẻ đã tiết lộ bí quyết như sau : Ban đầu chỉ là một vết cào xước bằng đá xanh tự làm lấy, tự tạo ra. Rồi một nắm tóc được ngâm lâu trong nước tiểu, rịt vào, băng thật kín lại, vết loét sẽ lan rộng sau một tuần bị bí hơi và không được rửa ráy, bôi thuốc, mà còn phải ăn hằng ngày xôi đậu phộng, bánh tét…để vết thương lồ lộ cho ruồi muỗi bu vào đẻ đái, kết quả một tháng thôi đã quá đủ để bá tánh đi chợ nhăn mặt, sẵn 200, 500 tiền thối đáng gì cho họ làm phước, tội nghiệp.

Để cho mắt sưng lên, chảy cả mủ lẫn ghèn, trông như đui đến nơi, chúng chỉ cần nhỏ vài giọt mủ xương rồng.

Để tạo cảm giác mạnh với một dúm ruột máu me đỏ hỏn lủng lẳng trước bụng, chúng dùng đoạn ruột heo rửa sạch bôi thuốc đỏ, đặt ở bụng, rồi dùng bao nylon ém lại, lấy giây buộc quanh bụng. Qua lớp nylon cáu bẩn thật là khó phân biệt, hơn nữa đã có mấy ai được biết ruột thật ra sao ?

Để vừa bò vừa lết, chúng nằm sấp trên chiếc xe đẩy tự tạo, một chân gập ngược ra sau, buộc cho chặt, sau đó phủ lên trên bằng lớp quần áo cũ rách…

Qua những mánh được xử dụng trong nghề ăn xin như vậy, có lẽ nên tự hỏi xem mỗi khi bố thí, mình sẽ làm cho họ vươn lên hay ngược lại, sẽ làm cho họ ỷ lại, đẩy họ vào chỗ phụ thuộc, ăn bám và đánh mất lòng tự trọng. Thương như vậy quả là thương mà hại.

Sau cùng trong phạm vi quốc tế.

Cũng không thiếu những kiểu thương mà hại. Một nước giàu viện trợ cho một nước nghèo, trước mặt bàn dân thiên hạ, thì đó là một hành động biểu lộ tình thương. Thế nhưng hành động biểu lộ tình thương này không phải là không có những tác hại của nó.

Nếu viện trợ về súng ống, đạn dược, thì họ đẩy chúng ta vào vòng chiến tranh, làm cho quê hương bị rách nát hầu nuôi sống ngành công nghệ chế tạo vũ khí của họ.

Nếu viện trợ về tiền bạc, thì họ làm cho chúng ta bị lệ thuộc một cách êm ái. Khi muốn gây áp lực, chỉ cần cúp viện trợ, lập tức chúng ta bị xính vính và xin qui thuận vô điều kiện như một chư hầu ngoan ngoãn và dễ bảo.

Ngoài ra những đồng tiền bất hạnh này còn tạo ra một thứ phồn vinh giả tạo, ru ngủ chúng ta trong việc phát triển kinh tế, để rồi không cần thắt lưng buộc bụng, ăn xài theo kiểu bóc ngắn cắn dài, con nhà lính tính nhà quan, nên đã lệ thuộc thì lại càng lệ thuộc hơn nữa, bằng không chẳng sớm thì muộn cũng sẽ sụp đổ về chính trị cũng như về kinh tế.

Hôm nay dám xía vô lãnh vực chính chị chính em thì quả là bạo phổi, vì lãnh vực này gã chẳng hề có tí hiểu biết nào sốt, đúng là múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm…Ví bằng có điều gì sai sót, thì gã xin…rút.

Trở về với lãnh vực đời thường nhỏ bé, gã xin kể lại một kinh nghiệm bản thân.

Hồi sống trên Đàlạt, gã có một bà dì. Gia đình bà dì này cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Ông chú đi làm không đủ chi bởi vì họ có những tám đứa con.

Nhiều lúc bà dì đã cầu viện gã giúp đỡ. Hoàn cảnh của gã lúc bấygiờ cũng chẳng khấm khớ gì cho lắm, bởi còn đang trong kiếp học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Chắt chiu vét hào bao thì cũng chỉ được mấy chục ngàn. Mà mấy chục ngàn thì có là bao, đánh vèo một cai là đã hết. Đúng là của vào nhà khó như gió vào nhà trống.

Nằm vắt chân lên trán để tìm kế giúp đỡ sao cho có hiệu quả. Cuối cùng sau nhiều ngày tháng tiết kiệm, nghĩ tới nghĩ lui, gã bèn mua tặng cho bà dì một chiếc máy may cũ hiệu Sinco.

Thế rồi, cũng từ chiếc máy may này, đời sống kinh tế dần dần được khá hơn. Mấy đứa nhỏ đi học về, bèn chia phiên nhau may gia công giúp mẹ. Thời gian sau, bà dì gã tậu thêm được một chiếc máy nữa, vì cũng lắm…con gái. Kinh tế không những được bảo đảm mà còn có mòi phất lên là đàng khác.

Viết đến đây, gã bèn nhớ tới một câu thành ngữ của người Tàu :

- Thụ chi dĩ ngư, cần cung nhất phạn chi nhu, giáo nhân dĩ ngư, tắc chung thân thụ dụng vô cùng. Nghĩa là trao cho người ta con cá thì chỉ giúp được một bữa ăn, dạy cho người ta biết câu cá thì người ta suốt đời được hưởng dụng vô cùng.

Chẳng hiểu câu thành ngữ này có thể trở thành một đường lối cho chúng ta trong việc giúp đỡ người khác và một chính sách trong việc viện trợ cho các nước nghèo hay không ?

Còn gã, khi trích dân câu thành ngữ này của người Tàu, liệu có đáng mặt ….cụ đồ hay “nho chùm” không đấy chứ ?
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Tự hào dân tộc?



Lời mở đầu:


Đây là nhận định và ý kiến cá nhân của người viết mà thôi. Đúng hay sai còn tùy hòan cảnh, kinh nghiệm và sự thẩm định của mỗi đọc gỉa.


TVG.


Cụ Trần Trọng Kim, một nhà giáo lỗi lạc, một học giả danh tiếng và cũng là vị Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam, đã viết trong bộ sử “Việt Nam Sử Lược” (1925) về tính tình, tư cách của người Việt Nam (nguyên văn – trang 7 tiểu mục “Người Việt Nam”) như sau:


“Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, làm năm Đạo Thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà khi đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.


Tâm địa nông nổi hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng Nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.”


Những lời nhận định về người Việt này đã cũ trên 80 năm mà chưa thấy ai lên tiếng phê phán Cụ là “không chính xác,” “sai lầm,” “thiếu công minh,” “thiên vị” hay “sỉ nhục dân tộc!” Nhiều người còn cho là Cụ có nhiệt tâm muốn thành thật vạch ra những cái tốt và cái xấu của người mình để hậu sinh học hỏi, sửa đổi; hầu xây dựng một tương lai trong sáng và tiến bộ cho đất nuớc.


Đất nước vừa trải qua những biến cố nghiêm trọng, lòng người hoang mang, ngờ vực, suy tư… Người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngọai đã có rất nhiều băn khoăn nan giải về vấn đề “mình phải tự nghĩ về mình thế nào?” hoặc “mình nên trả lời thế nào về dân tộc mình trong trường hợp có người ngọai quốc hỏi?” Trong bài nhận định này, tôi xin phép theo bước chân của cụ Trần Trọng Kim để đóng góp một vài ý kiến cá nhân có thể còn rất phiến diện. Rất mong được quí vị đọc gỉa chỉ giáo thêm.


Trong thời buổi này, người Việt, chẳng cần phải tự hào mà cũng chẳng cần phải tự ti. Khi được hỏi mình cứ trả lời cho đúng, đầy đủ, vừa phải, không dư thừa … là được rồi. Chối bỏ nguồn gốc của mình, hay vênh vang ngạo mạn đều hồ đồ cả - Cứ nói sự thật. Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác, cũng có cái hay cái đẹp, cũng có cái xấu xa. Tự hào, hay tự ti, là ở ngay chính con người mình. Nếu mình thật sự giỏi thì chẳng cần biết mình là dân tộc nào, thiên hạ đều phục.


Người Việt chẳng có gì mà phải tự ti. Thế giới còn có nhiều nước tệ hại, kinh sợ hơn Việt Nam nhiều: cướp bóc giữa ban ngày, đĩ điếm đứng đầy đường, dân đen bị bóc lột hành hạ tàn nhẫn hơn, chính phủ độc tài cai trị sắt máu hơn, xã hội bị phân hoá khủng khiếp hơn, tham nhũng ở nhiều nước còn tàn chi hơn… (tôi không tiện liệt kê tên các quốc gia này vì vấn đề tế nhị!) Tóm lại, chẳng có lý do gì phải tự ti mặc cảm.


Người Việt Nam cũng chẳng có gì quá đáng để tự hào. Tự hào thế nào được khi quốc gia bị bêu riếu mọi nơi là lạc hậu. Tự hào thế nào được khi quốc tế liệt kê Việt Nam trong danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo tận mạng, tham nhũng như ranh, dân trí đội sổ, dân chủ có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời… Chắc chắn sẽ có người sẽ giận dữ lên tiếng nhắc nhở tôi về lịch sử vẻ vang của Việt Nam, cái tài quân sự của người Việt, đánh thắng đế quốc Mông cổ; và mới đây đánh thắng luôn một lúc 3 đế quốc. Trong vấn để chiến thắng trong lịch sử này, tôi xin dẫn một câu chuyện điển hình về đại sứ VC tại Thái Lan mới đây để quí vi suy gẫm. Đại sứ VC đã trình bày một cách tự hào về Việt nam với Quốc Vượng Thái Lan là:


”Nước Việt Nam chúng tôi rất tự hào vì đã đánh thắng 3 đế quốc.”


Quốc Vương Thái Lan điềm đạm trả lời đại sứ VC là:


“Nước Thái lan chúng tôi cũng rất tự hào vì không phải đánh nhau với một đế quốc nào cả!” (nên biết Thái Lan cũng không phải đánh nhau với quân Mông cổ!)


Lịch sử Việt nam hiện nay đã được viết dài dòng về công cuộc đấu tranh chống Pháp dành độc lập cho 25 (?) triệu dân Việt. Kết quả đưa đến việc thực dân Pháp đầu hàng sau trận Điện Biên Phủ 1954. Đồng thời, lịch sử thế giới cũng ghi lại là Thánh Gandhi của Ấn độ, dành lại độc lập cho 600 triệu dân Ấn độ mà không phải đổ một giọt máu nào. Ngay như thiên tài quân sự Tổn Tử (trong “Binh pháp Tôn Tử,” trang 4, Thiên thứ 3 “Mưu Công”) đã định nghĩa thế nào là “Quân sự giỏi” như sau (nguyên văn):


“Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn... Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.


Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì… Cho nên người giỏi dụng binh, thắng được địch quân mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất định phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn dành được thắng lợi hoàn toàn.”


Như vậy, “thắng mà không phải đổ một giọt máu nào!” mới gọi là giỏi. Chứ còn phải nướng vài triệu nhân mạng để giải phóng vài chục triệu nhân mạng thì không biết phải nói hay ở chỗ nào?… Cũng nên biết thêm, thực dân Pháp mặc dù không bị thua trận ở Algeria, nhưng thực dân Pháp đã phải tự động trả độc lập cho Algeria (hoàn cảnh quốc gia này bị Pháp đô hộ giống y hệt như hòan cảnh của Việt Nam) vì chính sách thực dân đã bị xem là lỗi thời, bị quốc tế phỉ báng…


Hiển nhiên, nhiều người ngoại quốc đã có sẵn những thành kiến về người Á châu nói chung (và người Việt Nam nói riêng) là hay ăn cắp vặt, lười biếng, ở bẩn thiếu vệ sinh… thì mình cũng giải thích với họ là dân tộc nào cũng có kẻ thế này người thế khác; Hoặc gặp kẻ tán tụng dân tộc mình (phần lớn vì vấn đề thông lệ giao tế, không biết họ có thành thật hay không?) như là: “À! Anh thuộc về dân tộc vẻ vang nhất của thời đại…” Thì cũng từ tốn cố giải thích với họ là bây giờ là thế kỷ 21 rồi, những chuyện đánh nhau không cần thiết đó đã xưa rồi, bỏ qua đi tám, lập lại cũng chẳng có ích lợi gì. Những “vẻ vang” đó không thể tự nhiên mang lại no ấm, hạnh phúc hơn cho dân tộc…


Hãy nghe một nữ sinh viên Việt Nam du học (bây giờ còn được gọi là du sinh) ở Singapore (Tân Gia Ba) đã tâm sự như sau:


“Em chả dám bàn về chính chị chính em gì hết. Bởi vì bố mẹ bảo em là con gái không nên xen vào chuyện làng chuyện nước!


Năm 2001, cả giòng họ nhà em chắt mót lắm mới đủ tiền cho em đi Singapore du học tự túc. Thời gian mới qua em rất bất ngờ vì người dân bên đó hòa đồng và mến khách còn hơn cả cái kiểu tiếp khách của các bác trong các chương trình du lịch bên mình nhiều lắm. Em có một cô bạn gái người Singapore bên đấy. Hôm nọ, cô ấy rủ em đến nhà mấy người bạn Singapore chơi. Cô ấy lại dặn em là ‘khi người ta hỏi thì đừng bảo là người Việt Nam nhá!’ Em ức lắm và vì tự ái dân tộc nữa nên đến lúc mấy người kia hỏi em cứ nghênh mặt lên và trả lời ngay: ‘I am Vietnamese.’ Úi giời ơi! Sau câu trả lời ấy thái độ của cả nhóm thay đổi ngay. Cả buổi chẳng có ma nào hỏi han gì đến em câu nào nữa. Khi về cô bạn kia mới giải thích cho biết phụ nữ Singapore rất có ác cảm với phụ nữ Việt Nam bởi vì 80% phụ nữ Việt Nam qua Singapore đều làm… hết. Họ không muốn thân với em vì sợ em sẽ cướp chồng họ.


Đấy! Các bác cho em lời khuyên là có nên nghênh mặt bảo mình là người Việt Nam nữa không???”


Chúng ta nên buồn năm phút!! Hay nên tự hào năm phút?!


Nghiêm chỉnh mà nói cho nhau nghe, hay để dạy dỗ con cái thôi… là Việt Nam có nhiều cái rất đẹp và đáng tự hào. Bởi vì một cô gái xấu xí đến đâu, nếu nhìn kỹ vẫn tìm thấy một vài nét đặc biệt. Chẳng hạn cái thông minh cũng có thể làm mờ các khuyết điểm khác đi. Đất nước không thể vì một nền kinh tế chậm tiến, lạc hậu, nghèo đói, bị đè đầu cưỡi cổ triền miên mà người dân phải cho rằng mình đành chịu đựng một sự nhục nhã. Lịch sử Việt Nam dài hơn 4000 năm thì 60 hay 100 năm đâu có nghĩa lý gì. Nếu phải so sánh với các nước khác trên thế giới thì vấn đề lạc hậu, xuống dốc như thế này phải làm các ông lãnh đạo cảm thấy xấu họ mới đúng. Người dân đen không có gì phải xấu hổ cả. Kể cả cô em gái du học ở Singapore!


Ở hòan cảnh nào cũng vậy. Không ai muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng phải nói cho nhau nghe là ở Việt Nam hiện nay, lãnh đạo không hề để ý gì đến văn hóa Việt Nam; cho nên nền văn hóa cứ thế mà tụt dốc phi mã. Các lãnh tụ “siêu việt,” “kiệt xuất” hoang tưởng chỉ có một cách, một phương thức một bài duy nhất dùng để phô trương, tự hào về Việt Nam là “chiến thắng vinh quang;” ngòai ra không có một thực chất hay một khả năng nào có thể dùng để xây dựng, phát triển dân giầu nước mạnh được. Nhật Bản sau 30 năm bại trận, từ đống tro tàn, không tài nguyên… trở thành một siêu cường của thế giới. Việt Nam sau 30 năm chiến thắng vinh quang, với tài nguyên dồi dào… vẫn không làm nổi một cái đinh ốc cho ra hồn. Hoang tưởng là ở chỗ đó.


Ở ngọai quốc, khi nói đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến các vấn đề “nghèo,” “cộng sản,” “vòng lẩn quẩn cộng sản - nghèo…” tòan những cái “negative values;” chứ chẳng thấy “vinh quang” ở đâu cả? … Không hiểu dân tộc Việt Nam mắc nợ gì với CS mà CS cứ đeo dính dân tộc mình hoài vậy? (nên biết trên thế giới có trên 193 quốc gia – kể cả Vatican City - nhưng chỉ còn vỏn vẹn có 4 dân tộc “anh hùng” vẫn còn mắc nợ CS thôi!?)


Mỗi người có quan điểm chiến lược khác nhau; Có mức độ kỳ vọng khác nhau. Nhưng tôi nhìn nhận là người Việt có một số ưu điểm như sau:


1- Chịu được gian khổ (bị đô hộ trên 1000 năm vẫn sống; ăn “bobo,” khoai sắn độn dài dài vẫn sống; bị tù đày dài dài vẫn sống; nhịn đói 10 - 20 ngày trên biển vẫn sống, …)


2- Tương đối dễ hòa và hội nhập với nền văn hóa dị biệt của nước người


3- Tương đối chăm chỉ so với một số dân tộc khác


4- Tương đối thông minh (không ngu quá!)


Chỉ có cái điểm “chịu đựng” là coi bộ nổi bật. Ba điểm còn lại cũng còn lờ mờ, khó nói, không rõ cho lắm! Nhưng mà dân tộc nào chả thế! Không chịu đựng được thì đã họ tự sát hết từ lâu rồi còn gì. Mà đâu có thấy dân tộc nào tự tử ào ào một lúc chỉ vì khổ quá đâu?


Nói về “văn hoá lưu vong” dường như chỉ có Do thái và Việt Nam có. Nhưng so sánh Do thái và Việt nam có vẻ không công bằng. Dân Do thái bỏ đất đai ra đi vì bị các áp lực tôn giáo (Hồi giáo) và chủng tộc (Ả rập) ở Địa trung hải quá mạnh. Nếu ở lại họ sẽ bị tiêu diệt, bị xóa sổ. Dân Việt Nam bỏ đất nước ra đi bởi vì chính trị của người chính người Việt Nam chứ không phải vì áp lực của lân bang (hãy xem lại lịch sử thấy là dù Tầu có đánh mạnh đến đâu đi nữa, thì người Việt vẫn bám lấy đất và chiến đấu đến cùng!) Cái giống nhau là dân Do thái và dân Việt sống rải rác ở nhiều quốc gia Âu châu vẫn nhất là ở Hoa kỳ. Bây giờ hãy nhìn dân Do thái và dân Việt lưu vòng trên đất Mỹ. Chúng ta tìm thấy rất nhiều chuyện để học từ dân Do thái.


Người Do thái ở Mỹ không phải là những người “…bài bác nhạo chế nhau… thường thì nhút nhát… hay khiếp sợ… tâm địa nông nổi hay làm liều… không kiên nhẫn… hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài… hiếu danh vọng… thích chơi bời, mê cờ bạc… Kiêu ngạo và hay nói khoác… (nguyên văn lời của cụ Trần Trọng Kim đã viết ở phần trên!)” như dân Việt lưu vong. Ngược lại, dân Do thái (lưu vong) gián tiếp chỉ huy mọi chính sách của Mỹ: người Do thái gần như hoàn toàn kiểm soát nhiều lãnh vực quan trọng nhất trong sinh hoạt kinh tế (nhà băng, thị trường chứng khóan..) và khoa học (giáo sư đại học, khoa học khảo cứu gia, bác học…) và quan trọng nhất là hoàn toàn kiểm soát “media” (truyền thông, báo chí, kỹ nghệ phim ảnh, truyền hình...) ở Hoa Kỳ, Chỉ riêng với vấn để truyền thông (“media”) này, người Do thái đã dùng nó để hướng dư luận và quan điểm của dân Mỹ và đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách lãnh đạo đối nội cũng như đối ngoại của Hoa kỳ theo các chiều hướng có lợi cho quốc gia Do thái. Vì vậy, Do thái chỉ có khoảng 3 triệu dân vẫn đánh thắng một cách rất dễ dàng các liên minh quân sự của Ả Rập có đến trên 100 triệu! Người Do thái lưu vong không cần phải lên tiếng tự hào về dòng giống Do thái của họ. Các dân tộc khác sống trên đất Mỹ phải tự nhiên nể và sợ họ là đằng khác!


Dân Việt lưu vong không có cái gì phải xấu hổ về sự lưu vong của mình. Có xấu hổ hay không là những các nỗ lực khoe khang hoang tưởng, phỉ báng lẫn nhau, ném bùn vào mặt nhau, đâm sau lưng nhau ở hải ngoại. Dân Việt Nam lưu vong mình nên cố gắng nhìn bài học lưu vong của dân Do thái để xây dựng một niềm tự hào, một sức mạnh lưu vong riêng cho chính mình.


Lúc nào cũng ra rả chiến thắng này, chiến thắng nọ; nhưng nhìn lại xem ai? phe nào? là những người thực sự chịu đau khổ. Thực tế cho thấy “kẻ thua” thì ngoài một số ít chết (tỉ lệ số chết quá nhỏ so với dân và quân Việt bị chết!) chẳng thương tổn gì gọi là quá đáng cả. Họ vẫn là cường quốc, vẫn mạnh giỏi. Còn nước Việt Nam dân số đứng thứ 13 trên thế giới, với diện tích thuộc hàng trung vẫn bị coi là “nhược tiểu” (hãy xem nước Đức với diện tích và dân số như Việt Nam mà không bao giờ bị xem là nhược tiểu!) mà lại có về hài lòng! Tự sướng tự rên! Tự hào! Không biết lấy ở đâu ra? Tại sao chúng ta không làm cho mình thật mạnh để không nước nào dám xâm lấn, dám xâm lăng, dám cai trị chúng ta? Chúng ta tự hào thông minh, nhưng đó chỉ là cái thông minh vặt. Chúng ta dùng những “thành tích” nổi bật của một số nhỏ người Việt ở nước ngoài để cho rằng Việt Nam giỏi, nhưng đó chỉ là cái “tâm lý nhược tiểu.” Chúng ta phải dùng những cái “không phải của mình” để “tự khen;” đem những lời khen “ngọai giao” của người ngoại quốc để “tự thỏa mãn” cái tâm lý nhược tiểu của mình. Những người được đào tạo tài giỏi ở nước ngoài là nhờ “tài của nước ngoài” chứ không phải cái “tài của nước mình,” chưa đáng được dùng để gọi là “tự hào dân tộc.” Phải chờ đến lúc có du sinh ngọai quốc nài nỉ, nộp đơn xin được đến “du học” ở Việt Nam để học cái tài của nước Việt mình thì mới tính đến chuyện “tự hào” cũng chưa muộn!


Nếu chúng ta không suy gẫm kỹ lưỡng và đánh giá cho đúng con người mình, không dám nhìn thẳng vào sự yếu kém chung của mình, mà chỉ nhìn vào một vài “thành tích nổi bật lẻ tẻ” rồi tự hào, từ mãn thì đến muôn năm nữa vẫn không thoát ra khỏi cái thân phận nhược tiểu. Như vậy có một vấn để quan trọng thấy rõ không chối cãi được là vấn đề “lãnh đạo” (kể cả lọai lãnh đạo “sắt máu” như Hitler của Đức quốc xã!). Lãnh đạo sáng suốt sẽ đưa đất nước vượt lên các yếu kém lạc hậu, các chèn ép của quốc tế. Thật là buồn, nếu chưa muốn nói là một sự sỉ nhục phải là công dân dưới chế độ CS, đã và đang phải chấp nhận những kẻ không ra gì lãnh đạo mình. Đó là cái lãnh đạo thiếu đạo đức, lãnh đạo đang hủy họai đạo đức, đang hủy họai truyền thống tốt lành của xã hội Việt Nam; lãnh đạo dốt nát, độc ác, lãnh đạo lừa dối hành hạ dân lành… Ở Việt Nam bây giờ sự dối trả là căn bản cho mọi sinh hoạt của xã hội. Dối trá từ việc học hành, thi cử, việc làm, sản xuất cho đến thái độ cư xử với những người chung quanh… với một đất nước như vậy thì chỉ còn có các bác thật “anh hùng” và thật “kiệt xuất” mới dám có “can đảm” cảm thấy tự hào vì nó.


Cái óai oăm ở đây là hình như là người dân Việt Nam ở trong nước chưa cảm thấy có nhu cầu cần thiết để thay đổi chế độ và đòi hỏi thêm quyền chính trị. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, người Việt Nam mình giỏi “chịu đựng” mà! Ừ thì chịu đựng nghèo, chịu đựng đói khổ đã đành; nay thậm chí còn giỏi chịu đựng cả sự sỉ nhục! Chưa có nhu cầu thay đổi, thì đào đâu ra động lực thay đổi. Không có động lực thì cũng kể như cứ việc thong thả nằm yên theo kiểu “con rùa lật ngửa” cho nó được việc! Cho qua ngày qua tháng! Muốn đi đến chỗ “có động lực” thì phải có một bộ máy giáo dục, thông tin hữu hiệu để giải thích cho mọi người hiểu tại sao cần phải có sự thay đổi (Nên biết “Lãnh đạo cũng giống như tã lót. Nó cần phải được thay thường xuyên – vì chung một lý do!) và thay đổi sẽ đem lại cho họ và con cháu họ những ích lợi gì. Nói tóm lại, đây là một chuyện to tát phải làm. Rất tiếc công việc này còn to tát hơn vì CS đã biến một khối 83 triệu người Việt thành mù, điếc và câm từ khuya rồi. Người có can đảm đi khai sáng họ sẽ bị lên án là “phản động!” Người muốn đi chữa bệnh nan y (Mù câm và điếc) sẽ phải trả giá rất đất như bị tù đày, bị bao vây an sinh… Thành ra, chỉ còn một giải pháp tiêu cực là đợi cho tham nhũng đến cùng cực, sự suy sụp đạo đức xã hội đến tột đỉnh thì CS sẽ tự nó hủy diệt nó! Cái giá của sự chờ đợi này có thể con đắt hơn mấy lần đi tù, bị bao vây kinh tế mà rất ít người biết…


Đôi khi mình cũng cần soi gương, không phải để tự ti hay tự hào, mà để tự đặt câu hỏi cho mình. Tự hỏi mình là tại sao người Việt thông minh mà dân tộc mình vẫn phải chịu nghèo đói; tại sao người Việt chăm chỉ mà vẫn còn người Việt đi làm thuê làm mướn với lương rẻ mạt ở những quốc gia cũng chẳng hơn Việt Nam bao nhiêu như Mã lai, Ba lan, Hung gia lợi…; Có lẽ vì vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật, vẫn ngủ quên trên chiến thắng; vẫn coi thường những dân tộc khác mà không biết là họ khôn ngoan hơn mình.


Đôi khi cũng nên nhìn vào gương để thấy mình còn may mắn vì nước Việt Nam mình ít ra chưa biến thành một Tây tạng hay một Đài loan thứ hai. Cứ đem cái quá khứ vẻ vang của dân tộc ra mà tự hào thì cái hiện tại chỉ càng làm cho mình đau lòng thêm. Hãy nhìn các anh hùng dân tộc đã đứng lên chiến đấu dành độc lập cho đất nước. Nếu chỉ mấy ông ấy đứng lên một mình không thôi thì có lẽ đã bị Tầu hay Tây (hay Mỹ) nó mượn chỗ đội nón từ khuya rồi. Làm quái gì mà có được “chiến tích thần kỳ.” Các ông ấy phải cần có sự hy sinh vô bờ vô bến của dân ngu khu đen nữa chứ!!! Lãnh đạo đến; rồi lãnh đạo lại đi (hoặc bị tiêu diệt!) Nhưng dân thì muôn đời vẫn còn. Cổ nhân đã nói : “Quân nhất thời; Dân vạn đại!” là vậy. Dân tộc và nước Việt Nam đã bị vùi dập nhiều rồi; không đáng phải bị lãnh đạo (bất xứng) vùi dập thêm.


Lời Kết:


Trước khi muốn chạy, thì phải tập đi cái đã. Dù có muốn hay không, dù đã sửa sắc đẹp tòan diện rồi, mình cũng vẫn là người Việt Nam, điều đó không thể chối cãi được. Câu hỏi đơn giản là mình có tự hào về bản thân mình không? Nếu mình không có tự hào cá nhân thì cũng chưa nên bàn đến tự hào dân tộc.


Tự hào thì có nhiều thứ lắm. Lịch sử liệt kê ra hai loại tự hào là


- Thành quả quân sự (chiến tranh - Chiến tranh lại được chia ra làm hai loại: chiến tranh tự vệ và chiến tranh xâm lược mà ông cha mình gọi là “mở màng bỏ cõi!”).


Oái oăm là cả người tự vệ lẫn người xâm lược cùng tự hào một lượt. Người xâm lược tự hào về sức mạnh. Xâm lược thành công nhanh chóng trong một thời gian ngắn được xem như một niềm tự hào, một chiến tích vẻ vang… Người đấu tranh tự vệ giữ nước tự hào về sự kiên cường, bất khuất, anh dũng.


- Thành qủa xây dựng: Các nước giàu mạnh tân tiến ngoài cái tự hào chiến tranh họ còn tự hào về các công trình xây dựng lớn lao, nền kinh tế khoa học kỹ thuật vượt bực góp phần vào sự phát triển chung của thế giới.


Nhưng thật buồn là Việt Nam ta, cho đến nay chỉ có một cái tự hào về chiến tranh thôi! Tự hào chiến tranh cuối cùng là chiến thắng trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước!” Cái chiến tranh này xẩy ra đúng vào lúc thế giới đang ở giai đoạn chiến tranh lạnh (giữa “Tây Phương và Nga sô” hay là “Thế giới Tự do và Cộng Sản quốc tế”) thì chỉ riêng có một mình Việt Nam là nhào đầu vào chiến tranh nóng thôi! Việt Nam thắng trận có nên tự hào không? Có lẽ có! Nhưng đó là tự hào của người Cộng sản chứ không phải là tự hào của “Tổ quốc Việt Nam.”


“Giặc Mỹ” đến giúp Nam Hàn tự do đánh nhau với CS Bắc Hàn trước khi có chiến tranh nóng ở Việt Nam. Bây giờ là năm 2007, chiến tranh nóng Việt Nam đã nguội ngơ rồi! Dân tộc Việt Nam đã trở thành “dân tộc anh hùng rồi!” Bắc Hàn và Nam Hàn đã đồng ý chia lãnh thổ từ lâu rồi; “Đế quốc Mỹ” vẩn còn có quân đội đóng ở Nam Hàn. Đã có ai thấy là “đế quốc Mỹ” cướp một tấc đất nào của Nam Hàn không? “Đế quốc Mỹ” còn ở đó giúp Nam Hàn tự do phát triển thành một sức mạnh kinh tế giầu có nhất ở Á châu mà nhiều con gái nước Việt anh hùng muốn sang làm cô dâu! (Không thấy có cô gái Việt Nam nào muốn sang làm cô dâu ở Bắc Hàn anh hùng cả! Lạ nhỉ!!!)


Trần Văn Giang
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Tôi sẽ không bao giờ than phiền nữa




I AM THANKFUL:
FOR THE WIFE
WHO SAYS IT'S HOT DOGS TONIGHT, BECAUSE SHE IS HOME WITH ME,
AND NOT OUT WITH SOMEONE ELSE.

Vợ tôi chỉ có hotdogs chiều nay, tôi không phiền cho rằng nàng lười nấu nướng, mà phải vui vì nàng không ra đường cặp kè với ai khác. Cảm ơn Trời, tôi vẫn còn có một người vợ tốt...

FOR THE HUSBAND
WHO IS ON THE SOFA BEING A COUCH POTATO, BECAUSE HE IS HOME WITH ME
AND NOT OUT AT THE BARS.

Chồng tôi cứ ngồi salon coi TV, tôi không buồn vì chàng vẫn ở nhà với tôi, thay vì ra bar nhậu nhẹt tốn tiền rồi đánh lộn, say rượu lái xe... Cảm ơn Trời tôi vẫn còn người chồng tốt, vẫn hơn chị bạn tôi đang sống thui thủi một mình.


FOR THE TEENAGER
WHO IS COMPLAINING ABOUT DOING DISHES BECAUSE IT MEANS SHE IS AT HOME, NOT ON THE STREETS.

Con gái tôi cằn nhằn vì bị bắt rửa chén. Tui không phiền vì nó vẫn còn là đứa con ngoan không ra đường lêu lòng.

FOR THE TAXES I PAY
BECAUSE IT MEANS I AM EMPLOYED .

Tôi bị đóng thuế nhiều, nhưng không phiền vì điều đó chứng tỏ là tôi còn việc làm khi kẻ khác phải thất nghiệp.

FOR THE MESS TO CLEAN AFTER A PARTY
BECAUSE IT MEANS I HAVE BEEN SURROUNDED BY FRIENDS.

Sau buổi party khi các bạn đã ra về tôi phải cực nhọc lau chùi, nhưng vui vì tôi có được một vòng rào bạn hữu.

FOR THE CLOTHES THAT FIT A LITTLE TOO SNUG
BECAUSE IT MEANS I HAVE ENOUGH TO EAT.

Quần áo lúc này hơi chật, nhưng tôi không than phiền vì điều đó có nghĩa là tôi được no nê sung túc.

FOR MY SHADOW THAT WATCHES ME WORK
BECAUSE IT MEANS I AM OUT IN THE SUNSHINE

Đi giữa trời đứng bóng nóng nực tôi không buồn phiền vì được sống thong thả tự do dưới ánh mặt trời.

FOR A LAWN THAT NEEDS MOWING,
WINDOWS THAT NEED CLEANING,
AND GUTTERS THAT NEED FIXING
BECAUSE IT MEANS I HAVE A HOME

Sân cỏ cần được cắt, cửa sổ cần được lau chùi và bao nhiêu công việc nhà đang chờ đợi nhưng tôi không phiền lòng than thở vì tôi vẫn còn được một mái nhà cho gia đình mình.

FOR ALL THE COMPLAINING
I HEAR ABOUT THE GOVERNMENT
BECAUSE IT MEANS WE HAVE FREEDOM OF SPEECH.

Và những lời than phiền về chính phủ mà tôi nghe đầy tai, nhưng không phiền vì được sống trong một quốc gia có Tự Do Ngôn Luận.

FOR THE PARKING SPOT
I FIND AT THE FAR END OF THE PARKING LOT
BECAUSE IT MEANS I AM CAPABLE OF WALKING
AND I HAVE BEEN BLESSED WITH TRANSPORTATION .

Bãi đậu xe chật ních, tôi chỉ tìm được một chỗ đậu xa lắc xa lơ, nhưng vui vì mình còn có một cái xe để di chuyển và còn mạnh khỏe để đi bộ.

FOR MY HUGE HEATING BILL
BECAUSE IT MEANS I AM WARM.

Tiền điện mùa đông này cao quá, nhưng tôi không than thở vì tôi vẫn còn được sưởi ấm, so với những người phải sống trong giá lạnh.

FOR THE LADY BEHIND ME IN CHURCH
WHO SINGS OFF KEY
BECAUSE IT MEANS I CAN HEAR.

Ở trong nhà thờ, cái bà đứng sau tôi hát sai điệu nhạc hết trơn nhưng tôi không lấy làm phiền vì thính giác của mình vẫn còn tốt trong khi kẻ khác không còn khà năng nghe được.

FOR THE PILE OF LAUNDRY AND IRONING
BECAUSE IT MEANS I HAVE CLOTHES TO WEAR.

Đồ đạc quần áo chất đống để chờ tôi giặt, ủi, nhưng tôi không phiền vì mình vẫn còn có nhiều quần áo để mặc.

FOR WEARINESS AND ACHING MUSCLES
AT THE END OF THE DAY
BECAUSE IT MEANS I HAVE BEEN CAPABLE OF WORKING HARD

Sau một ngày làm việc tôi mệt mỏi và đau nhức các bắp thịt, nhưng tôi vui vì mình vẫn còn có khả năng làm được những việc nặng nhọc.

FOR THE ALARM THAT GOES OFF
IN THE EARLY MORNING HOURS
BECAUSE IT MEANS I AM ALIVE.

Buổi sáng ngủ ngon mà bị đồng hồ báo thức, đáng lẽ phải càu nhàu, nhưng tôi vui vì biết mình còn sống.

AND I AM THANKFUL:
FOR THE crazy people I work with
BECAUSE they make work interesting and fun!

Với những người làm việc chung với tôi, có nhiều tính khí khác lạ, tôi không phiền vì chính nhờ họ mà công việc không trở nên buồn tẻ mà trái lại thêm thích thú.

AND FINALLY, FOR TOO MUCH E-MAIL

Và cuối cùng nhận được nhiều e-mail quá tôi không phiền, vì điều đó chứng tỏ rằng tôi có nhiều bạn.

BECAUSE IT MEANS I HAVE FRIENDS WHO ARE
THINKING OF ME.
SEND THIS TO SOMEONE YOU CARE ABOUT.
I JUST DID.


3G McKeno sưu tìm trên Internet
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Vợ Hiền
Tràm Cà Mau




1.
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.


Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.
Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.


2.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là "tam thập nhi lập". Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng. Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng "chuyên chính" của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:
- Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.
Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt! Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về. Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.
Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá, chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?


3.
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.
Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:
- Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?
Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:
- Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.
Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng.. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi.


Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.
Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt.
Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:
- Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi..
Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ. Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.


4.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:
- Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.


Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép. Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:
- Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.
Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:
- Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.
Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:
- Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.


Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:
- Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.
Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng. Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại.


5.
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:
- Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.
Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:
- Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.
Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.


Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.
Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
- Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.
Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.


6.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:
- Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.
Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.


Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới. Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ.. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình....


Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy? Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản. Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền....


7.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực.. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:
- Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.


Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.
Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:
- Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.
Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.


Cùng với bạn bè cũ mới, chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm..


Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.
Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên...Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.


Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.
Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tráng xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.


8.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới....
Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn.
Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà. Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã...


Nhiều đêm Mai thì thầm:
- Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? ...
Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.
Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.


Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền ....


Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:
- Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.
Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn...


9.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
- Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?
Nàng nói:
- Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả.. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.


Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.


Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.


Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ. Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.


10.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang... Mai cười mà nói:
- Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học.

Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:
- Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.


Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.


Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.


Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác.

Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn.. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.


Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe."


Mai kết luận rằng: "Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương".


11.
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh.. Phần nàng, thì luôn luôn: "Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi".. Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.


---
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Long, Tuấn, Giang & HNC 58-65 tai Nam Cali

Tân Niên 2010




Image

Image

Image

Image

Image

Image
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

CẬU ÁNH ĐI SỨ

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Mấy hôm rầy làng lưới ta rôm rả tin tức ngài dân biểu Cao Quang Ánh đi sứ cố quốc. Đại diện một nhà nước đi thăm viếng xã giao, hay bàn bạc quốc sự với một nhà nước khác là đi sứ chứ gì, có đúng không thưa quí vị? Ngài Cao Quang Ánh là dân biểu Mẽo gốc Mít sang nước Annamít bàn chuyện nước, nói là đi sứ cố quốc cũng không sai chứ, có phải không? Cậu Ánh tuổi trẻ lại tài cao, làm tới chức Dân Biểu Quốc Hội Hoa Kỳ là một vẻ vang lớn cho người dân VN tỵ nạn chúng tôi.

Thấy ngài được đi sứ trở về cố quốc, ai ai trong chúng tôi cũng nhìn về ngài mà trông đợi. Nhìn mấy tấm ảnh của phái đoàn đăng trên mạng, thấy ngài còn trẻ quá, giống y một anh sinh viên mới ra trường, nên kẻ hèn này xin phép được gọi ngài một tiếng bằng “Cậu” để tỏ ra cái tinh thần “thấy người sang bắc quàng làm họ” chứ chả có ý gì đâu. Cậu tha lỗi cho và đừng trách nghe.

Có 2 tấm ảnh cậu đăng trên Net. Một tấm cậu chụp chung với hai ông Mỹ mà một ông gốc Nhật Suzuki, Honda gì đó, và một thằng CS tên Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng ngoại giao. Một tấm khác, tên thứ trưởng ôm vai bá cổ cậu trông thấy mà ham, đậm đà tình nghĩa quá chừng chừng. Trên cả hai tấm ảnh, cậu dân biểu trông nhỏ như đứa bé, giống một con nai tơ lọt thỏm giữa mấy con voi rừng đồ sộ. Tên VGCS ăn uống cái giống gì mà cũng to con như Mỹ vậy. Cái vụ cậu Ánh nhỏ con như rứa mà được đi sứ nước ngoài thì thật là hiếm có. Kẻ hèn này còn nhớ chuyện nước Tầu (lại Tầu???) thời Chiến Quốc, tể tướng nước Tề là Án Anh đi sứ nước Sở. Ông này cũng nhỏ thó, còn nhỏ hơn cậu Ánh nữa, nên khi đi sứ, bị vua tôi nước Sở coi thường và chọc quê quá chừng.. Chuyện ngộ lắm, xin trích lại mấy đoạn hay hay mời bà con làng lưới đọc chơi cho vui. Chuyện thế này:

(trích)

Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều tỏ ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống. Quan đại phu nước Tề là Án Anh phụng mệnh Tề Cảnh Công sang sứ nước Sở. Sở Linh Vương bảo các quan triều thần rằng:

- Án Anh không đầy 5 thước, mà chư hầu ai cũng khen là người hiền. Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả. Ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục để tỏ cái uy của nước Sở, các người nghĩ xem có kế gì?
Quan thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng:
- Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới làm sỉ nhục đuợc hắn.
Viễn Khải Cương liền đem mưu kế tâu với Sở Linh Vương. Vương nghe lời. Đêm hôm ấy, Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông môn, vừa vặn độ 5 thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữa lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào. Được một lúc, Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông môn, thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa. Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà báo Án Anh rằng:
- Ngài đi qua cái chỗ ấy cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa.
Án Anh nói:
- Đó là lỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi. Có sang nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang nước người thì tất phải đi cửa người.
Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo Sở Linh Vương. Vương nói:
- Ta muốn dỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn dỡn lại.
Sở Linh Vương truyền mở cửa thành cho Án Anh vào.

(hết trích)

Trong khi chờ đợi được triệu kiến, sứ giả Án Anh của nước Tề cũng còn bị nhiều giới chức quan lại trong triều đình nước Sở bầy trò diễu cợt, nhưng ông đã dùng tài ăn nói làm cứng họng được bọn người này. Trong buổi triều yết đầu tiên, Sở Linh Vương vẫn còn muốn thử tài (hay làm nhục không biết) Án Anh một lần nữa trước mặt quần thần. Câu chuyện như sau:

(trích)

Sở Linh Vương ra ngự triều. Ngũ Cử (tổ tiên của Ngũ Tử Tư) đưa Án Anh vào yết kiến. Sở Linh Vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng:
- Quái lạ, nước Tề thiếu người hay sao?
Án Anh nói:
- Người nước Tề tôi hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người.
Sở Linh Vương nói:
- Thế thì sao lại sai đứa bé này sang sứ nước ta?
Án Anh nói:
- Nước tôi vẫn có lệ: người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, người bé sang sứ nuớc bé. Tôi ngưòi bé nhỏ mà hèn mạt, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở.
Sở Linh Vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm la. Gặp bấy giờ có chức giao nhân đem dâng hợp hoan quất (quít). Sở Linh Vương cầm ngay một quả đưa cho Án Anh. Án Anh cắn ăn cả vỏ. Sở Linh Vương cười mà bảo rằng:
- Ngưòi nước Tề dễ thường không ăn quít bao giờ. Cớ sao lại không bóc vỏ?
Án Anh nói:
- Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi không được phép bóc vỏ mà quẳng đi. Nay Đại Vương đưa cho tôi, cũng như Chúa Công tôi (tức Tề Cảnh Công) đưa cho tôi vậy. Đại Vương không truyền cho bóc vỏ, nên tôi phải ăn cả.
Sở Linh Vương có ý kính phục, mời ngồi uống rượu. Được một lúc, có 3, 4 người võ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm. Sở Linh Vương hỏi:
- Tên tù ấy người ở đâu?
Võ sĩ tâu:
- Người nước tề.
Sở Linh Vương hỏi:
- Tên tù ấy phạm tội gì?
Võ sĩ tâu:
- Tội ăn trộm.
Sở Linh Vương quay lại bảo Án Anh rằng:
- Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao?
Án Anh biết là Sở Linh Vương cố ý bầy ra để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng:
- Tôi nghe nói thứ quít ở Giang Nam , đem sang trồng ở xứ Giang Bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau. Nay người nước Tề, khi ở nưóc Tề thì không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì người nước Tề!
Sở Linh Vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng:
- Ta định chế nhạo nhà người, chẳng ngờ lại bị nhà người chế nhạo.
Sở Linh Vương tiếp đãi Án Anh rất lễ phép, rồi tiễn về nước Tề.

(hết trích)

Nhân việc Cậu Dân Biểu Cao Quang Ánh đi sứ nước Vẹm, cũng tiện thể, ôn lại câu chuyện Tể Tướng nước Tề đi sứ sang Sở, kẻ hèn này xin có một vài nhời bàn Mao Tôn Cương dưói đây:

1. Cả hai nhân vật cổ kim này đều có một ưu điểm giống nhau là nhỏ con và thấp. Án Anh lại còn có cái lưng hơi gù. Thứ lùn mã tử vậy mà gớm lắm chứ chẳng chơi. Nhất lé nhì lùn mà, không ăn trùm thiên hạ thì cũng hơn được khối người. Án Anh tuy được tiếng là người hiền, nhưng hiền chưa chắc đã giỏi. Cậu Ánh nhìn mặt có vẻ ngây thơ cụ, không biết có hiền hay không, nhưng hơn tể tướng nước Tề mấy cái bằng Ph.D là cái chắc. Đối đáp với bọn vua tôi nước Sở, Án Anh tỏ ra biến báo lanh lẹ, có lý sự, nhưng chẳng qua cũng chỉ là lý sự cùn với mấy chuyện lặt vặt. Cậu Ánh thì khác hẳn. Cậu nói ít, nhưng lời nói của cậu mang tính rất chiến lược. Cậu chỉ tuyên bố một câu, một câu thôi, đã cho cả bàn dân thiên hạ thấy được tương lai sáng lạn của cả hai nước Mỹ Việt thế nào rồi. Cậu nói thế này:



“Dù còn bất đồng ý kiến trong một số vấn đề, nhưng tôi hy vọng hai bên sẽ hiểu nhau hơn và cùng làm việc cho tương lai của hai nước.”



Đấy là sự nhìn xa trông rộng, cái hơn của một con người thời nay có “Mỹ học” là như vậy. (xin đừng lầm với mỹ học = Esthetics or Aesthetics).

2. Cũng nhờ có câu tuyên bố này mà mấy anh già lẩm cẩm như chúng tôi mới được sáng mắt, sáng lòng. Trước đây kẻ hèn này những tưởng tư bản và cộng sản là những thực tế không những đối lập về lập trường, tư tưởng, mà còn đối nghịch trong các chủ trương và hành động nữa, nên không thể dung hợp được. Chỉ có triệt dứt nhau thôi chứ nói gì đến tương lai. Ai ngờ giữa tư bản Mỹ và cộng sản VN chỉ có bất đồng ý kiến về một số vấn đề nhỏ nhặt thôi.



Thế mà trước kia không biết sao, Mỹ uýnh nhau vói VGCS chết chóc, sứt càng, gẫy gọng không biết bao nhiêu mà kể. Thật là uổng phí xương máu.. Nay cậu Ánh mới khai sáng cho, thật là phước đức.

3. Nhìn thấy cái hình tên Nguyễn Thanh Sơn bá vai bá cổ cậu Ánh thân mật, kẻ hèn này mừng đến rơi nước mắt. Trông cảnh tượng giống như người cha ôm đứa con. Người cha chứng tỏ rất thỏa mãn với đứa con trai của mình. Lối ngoại giao bá vai bá cổ do từ bà đệ nhất phu nhân Mỹ ôm eo Nữ Hoàng Anh mới “lancer” lên, bây giờ thịnh hành khắp nơi. Ấy vậy mà có nhiều người nghi ngờ về sự lợi hại của nó.. Ôm nhau, người ta có thể tỏ tình nghĩa với nhau, nhưng cũng có thể dí lưỡi dao nhọn vào bụng nhau dễ dàng hơn nhiều. Những người lớn tuổi thường lo xa là vậy.

4. Còn chuyện này nữa, cậu Cao Quanh Ánh nói là đi để tìm hiểu. Không biết cậu tìm thấy cái gì và hiểu được ra sao. Giáo xứ Đồng Chiêm, gần Hànội bị công an đập bỏ Thánh Giá và đánh người gần chết ngay trong thời gian cậu Ánh có mặt tại Hànội, cậu có thấy không? Những người này vừa là đồng bào, vừa là dồng đạo của cậu nữa đấy. Theo ngu ý thì chẳng qua là bọn VGCS muốn bắt chước trò chơi của Sở Linh Vương, thử tài ứng phó của cậu xem sao đấy thôi. Không biết cậu sẽ ứng xử ra sao. Nhiều người bạn của kẻ hèn này cho rằng lờ đi như không biết là cách ứng xử khôn ngoan nhất, hợp thời nhất, và có lợi nhất. Chắc chắn nếu là Án Anh thì ông ta không không thể khôn hơn thế được. Mất mạng như chơi.

5. Sau hết, xin có đôi lời đối với một số quí vị hơi nóng nẩy đã nặng lời với cậu Cao Quang Ánh. Quí vị nên hiểu rằng Cậu Ánh là dân biểu của Quốc Hội Mỹ, chứ không phải dân biểu của Quốc Hội VNCH. Người ta bầu cậu để cậu làm việc cho nước Mỹ, chứ không thể đòi hỏi cậu phải làm việc cho VNCH của chúng ta được. Mà việc của nước Mỹ với việc của VNCH thì khác nhau một trời một vực như chúng ta đã biết, chúng tôi xin đươc miễn dài dòng ở đây. Không thể bắt con heo kéo cầy, hay bắt con trâu giữ nhà được. Vậy thì xin đừng bắt cậu Ánh phải làm thế này, làm thế khác như ý mình, kẻo tội cho cậu. Ăn cây nào, rào cây đó, không phải là đạo lý của dân ta sao? Cậu Cao Quang Ánh thông minh và tài giỏi chẳng bao giờ đem cái đạo lý cổ lỗ sĩ kia ra để mà tự cắt cổ mình đâu.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Bức thư gửi những kẻ còn mù quáng tin vào Cộng Sản Viet Nam


Lê Trung Thành.
Sinh viên du học ngành kiến trúc



Đài Loan 13/03/2009



- Viết cho “bác” ở dưới địa ngục để báo cho “bác” biết dù tôi đã bị Đảng của “bác” nhồi sọ suốt 2 chục năm nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo.

- Viết cho dì của tôi đang vất vã kiếm kế sinh nhai nuôi đàn con nhỏ.

- Viết cho dượng của tôi đang ngày đêm canh giữ trên hòn đảo Trường Sa “còn sót lại”.

- Viết cho anh chị tôi đang hăng hái dấn thân “vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”.

- Viết cho bạn tôi tốt nghiệp đại học loại khá, thất nghiệp, đóng tiền nhà thì hết tiền ăn, muốn ăn thì hết đóng tiền nhà.

- Cũng viết cho bạn tôi, con một gia đình quan chức giàu có nhưng đang sống mất phương hướng trong xã hội lộn ngược này.

- Và viết cho thằng em tội nghiệp của tôi đang ngồi trên ghế nhà trường, miệng đọc ê a, mặt mày ngơ ngác.





...



Ngày mùng 02/09/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố “độc lập” để rồi hàng năm vào cái ngày tối tăm đó đất nước mình dẫu đói nghèo vẫn phải oằn mình tổ chức “quốc khánh” rình rang tốn không biết bao nhiêu là tiền của, phô diễn cờ hoa rợp trời, quan chức đua nhau đọc diễn văn với các bữa tiệc xa xỉ vô tội vạ, cùng lúc đó thì hàng triệu người khác đang còng lưng trên những cánh đồng cằn cỗi với cái bụng đói meo, tất cả chỉ với một mục đích ca ngợi sự vẽ vang của Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp dành “độc lập” cho dân tộc.



Nhưng giờ đây nhân loại đã bước vào kỹ nguyên tin học với tốc độ truyền tải thông tin vô cùng khủng khiếp mà chắc chắn ông Hồ không thể nào tưởng tượng nỗi, người Việt Nam giờ có thể dễ dàng tiếp cận hơn với nhiều “thông tin ngoài luồng”, nhiều anh chị mặt đỏ bừng bừng khi vô tình đi lạc vào một “website phản động” nào đó, một người bạn cũcòn kín đáo gởi tin nhắn vào blog của tôi với nội dung như sau: “lâu rồi mới vô đọc blog của mi, phản động quá, tau không có đủ can đảm để đọc hết bài nữa, lo học đi mi, việc nước đã có nhà nước lo ”. Và nhiều lần tôi đã cố giải thích cho bạn tôi hiểu rằng thực ra sau mùng 02/09/1945 nước ta không hề có độc lập, đó chỉ đơn giản là việc thay thế Chủ Nghĩa Thực Dân bằng Chủ Nghĩa Cộng Sản, mà chính ông Hồ là tay sai và lá cờ đỏ sao vàng mà ông ta mang về ngang nhiên bay trên bầu trời nước ta từ đó. Bài học năm xưa, lợi dụng người dân ít học ông Hồ đã khéo léo che đậy Chủ nghĩa Cộng Sản bằng cách kích động lòng yêu nước, bao nhiêu triệu người đã bỏ lại tuổi thanh xuân trong cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, chữ “cứu nước” là chữ linh thiêng nhất của Dân Tộc chúng ta vì nó gắn liền với suốt chiều dài lịch sử của Dân Tộc. Vì hai chữ đó người Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả.



Nhưng than ôi, tất cả đã bị lừa và ngày hôm nay vẫn tiếp tục bị lừa. Dân tộc ta đâu thiếu người tài, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Lý Đông A, Huỳnh Phú sổ ... nhưng chỉ có Hồ Chí Minh là người gặp thời, thời của quỷ, chính xác là thời “quỷ đỏ” lộng hành, với tham vọng nhuộm đỏ cả địa cầu. Chúng ta hãy tưởng tượng xem nếu như ngày hôm nay khắp hoàn vũ này nước nào cũng bị áp bức bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản thì sẽ ra sao ? Xin thưa tất cả hơn 6 tỷ người sẽ sống trong “ thế giới đại đồng”, lúc đó kinh đô ánh sáng Paris sẽ tăm tối như Bắc Hàn, và người dân Newyork cũng sẽ chèo thuyền đánh cá trên phố giống như Hà Nội của chúng ta. Tất cả sẽ bình đẳng, ai sinh ra cũng đói khổ như nhau, ai cũng mất nhân quyền như nhau, cũng được Đảng nhồi sọ như nhau, sẽ không còn ai ganh tỵ ai, tất cả sẽ không còn đấu tranh, cứ như thế sinh ra làm nô lệ, không chết vì già thì cũng chết vì kiệt sức. Đó là viễn cảnh một trái đất màu hồng của máu và nước mắt.



Chính vì hiểu được hiểm hoạ đó nên nước Mỹ với vai trò là một siêu cường có trách nhiệm phải đi tiên phong lãnh đạo các nước khác trong việc chặn đứng sự bành trướng của khối Cộng Sản trên thế giới, thế nên việc “ngụy Hồ” kêu gọi “chống Mỹ cứu nước” trên thực chất phải được hiểu đúng đắn là chống Mỹ cứu Chủ Nghĩa Cộng Sản. Chỉ có người dân quê thật thà chất phác là mù quáng tin theo những khẩu hiệu ngụy tạo đó, và có lẽ nếu tôi sinh ra dưới xã hội miền Bắc vào thời đó tôi cũng sẽ yêu nước mù quáng, sẽ cầm súng đi đánh Mỹ, sẽ nuôi giấu cán bộ, sẽ liều chết trong các cuộc xung phong, và nếu không bỏ mạng thì sẽ may mắn được sống cuộc sống ‘hoà bình” với tay cụt, chân cụt, đang ngồi chờ khách bơm xe ở dọc đường, hay về nhà đi cày với mảnh ruộng bé hơn hồi còn chiến tranh, vì hoà bình rồi thì người ta biến nó thành sân gôn hay các khu rì sọt để “sánh vai với các cường quốc năm châu”, rồi đời sống quá khổ, quá oan ức tôi cũng sẽ đi khiếu kiện như bao người khác, tôi sẽ kêu “thủ tướng ơi cứu dân”, “quốc hội ơi cứu dân”, đến một lúc kêu hoài chúng nó không nghe thì có khi với bản tính ngông cuồng cộng với việc hết đường sống, tôi lại đánh bom cảm tử cũng nên... Chính vì thế nên tôi muốn nói rằng nếu không có lá cờ đỏ của ông Hồ mang về thì sẽ không có quá nhiều bi kịch trên đất nước như ngày hôm nay. Tất nhiên lịch sử không bao giờ nói nếu.



Và ngày 30/04/1975 , là ngày mà triệu người vui, triệu người buồn, nhưng triệu người vui kia thì cũng mếu máo không lâu sau đó. Từ đây nửa nước Việt Nam tự do đã chìm vào biết bao nhiêu khổ đau mà kể cho hết. Vết thương lịch sử này ngoài trách nhiệm của người Việt, cũng không thể không nhắc đến việc Mỹ đã phản bội đồng minh, vì cục diện chính trị lúc đó và vì chiến lược lâu dài, Mỹ đã để cho màu đỏ của máu loang lổ trên khắp miền Nam sau khi ký kết hiệp định Paris 1973, hiển nhiên Mỹ không thể thả nổi cho khối Cộng Sản bành trướng sang đến Mỹ nhưng ở một chừng mực nào đó vì lợi ích của nước Mỹ được cân nhắc kỹ càng thì Mỹ sẳn sàng thoả hiệp với Cộng Sản cho dù thoả hiệp đó sẽ giết chết hàng triệu người hay cả một dân tộc khác. Gần đây nhất trong bộ phim “Việt Nam Việt Nam“ của đạo diễn John Ford được công bố sau 37 năm bị giấu kín, thượng nghị sĩ Ronald Reagan đã thừa nhận ".. chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho loại hoà bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thệ hệ sinh tại Viêt Nam về sau". Mỹ đã thua Cộng Sản trên chiến trường Việt Nam, nhưng trên chiến trường thế giới thì Mỹ đang thắng sau khi một loạt khối Cộng Sản Đông Âu và Nga Xô xụp đổ, đến trong tương lai gần thì Trung Cộng, Bắc Hàn và Việt Cộng cũng sẽ chịu chung số phận với ông tổ của chúng mà thôi.



Biết chắc chắn là Cộng Sản phải đến hồi suy vong nhưng cái hậu quả của nó để lại sau 33 năm hà hiếp dân tộc mới ghê gớm thay, biết bao nhiêu năm nữa mới phục hồi được môi trường sống đang bị phá hoại, bao nhiêu năm nữa mới cải thiện được nòi giống đang ngày một bệnh hoạn, và bao nhiêu năm nữa mới làm sáng lại đạo đức nhân phẩm của người Việt khi ngày một băng hoại. Tôi cảm thấy tiếc nuối vô cùng, tiếc cho cơ hội được sống tự do hạnh phúc của người Việt đã vỡ tan tành, tiếc cho những ai chưa từng và đã từng được “ghé bến sài gòn, là nơi du khách dập dồn từ 5 châu tới viếng thăm thủ đô, dòng sông chen chúc tàu đò, ngựa xe buôn bán hẹn hò, người dân no ấm sống đời tự do”, tự do thì đã mất,tiếc nuối cũng đã muộn, mong sao con cháu thế hệ sau sẽ khắc cốt ghi tâm bài học của một nước nhược tiểu phải gánh chịu.



Sau mùng 02/09/1945, ông Hồ đã đưa đất nước vào con đường khánh kiệt với những cuộc chết chóc triền miên chỉ vì ích kỷ thủ đắc riêng cho cái bản ngã đầy ắp tính man rợ của Quốc Tế Cộng Sản. Ở thời chiến thì người dân chết theo kiểu của thời chiến, nay thời bình thì chết theo kiểu thời bình, ví như giết “cường hào ác bá” trong cuộc cải cách ruộng đất, thảm sát hàng ngàn người dân vô tội ở Huế trong trận Mậu Thân, hay trên đại lộ kinh hoàng Việt Cộng đã hả hê mở một bửa tiệc thịt người khi nả đại pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly vào người dân Quảng Trị đang rồng rắn kéo nhau dài hàng chục kilômét vào Huế để lánh nạn Cộng Sản, còn giờ đây thì người dân mất đất mất ruộng đói mà chết, ra đường sập hố ga hay xe đụng mà chết, ăn uống ngộ độc mà chết, đi làm giấy tờ bị hành lên hành xuống tức mà chết ... & ... rất nhiều kiểu chết và cứ ở đâu có Cộng Sản thì ở đó có phi lý, có bất công, có mùi tanh của máu, có xú uế của xác người nên người ta còn gọi cờ đỏ sao vàng với một cái tên dễ nhớ khác : Cờ Máu.



Ngày hôm nay vui mừng lắm khi ngày càng có nhiều người trẻ yêu nước chống Cộng quyết liệt, nhiều người không chống Cộng nhưng cũng yêu nước quyết liệt, nhưng tất cả nên là những người chịu khó tìm hiểu lịch sử trước đã.



Hãy nhìn xem cả thế giới đều rùng mình khi nghe nhắc đến Chủ Nghĩa Cộng Sản, và Quốc Tế Cộng Sản bị toà án thế giới lên án với tội ác chống lại hoà bình thế giới, tội ác chiến tranh, và tội ác chống lại con người. Những năm gần đây người Tàu Tự Do đã ra mắt tác phẩm Cửu Bình (9 bài bình luận về Đảng Cộng sản Tàu), tác phẩm đã phơi bày những tội ác những cuộc giết người man rợ mà Trung Cộng đã gây ra và vạch trần bản chất lưu manh tà giáo, phản con người, phản vũ trụ của Chủ Nghĩa Cộng Sản, người đọc sẽ không khỏi kinh hoàng và thương cảm cho dân tộc Trung Hoa luôn vổ ngực xưng hùng xưng bá giờ đây thê thảm đến như vậy, thật là khủng khiếp khi nhận được con số thống kê của thời báo Đại Kỷ Nguyên từ ngày 03/12/2004 cho tới nay 13/03/2009 chỉ vỏn vẹn 4 năm 3 tháng mà đã đã có 51.193.607 người ký tên ủng hộ việc dẹp bỏ Đảng Cộng Sản, tính ra trung bình một ngày gần 10 ngàn người thức tỉnh, điều đó như như báo trước cái chết của Chủ Nghĩa Cộng Sản trên đất nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian. Còn ở Nga từ sau năm 1991 đã thay lá cờ búa liềm bằng lá cờ ba sọc trắng xanh đỏ có từ thời Nga Hoàng, những tượng đài Lênin đã bị tháo bỏ, viện Lênin nay đã đổi tên là Medical Biological Technologies, và nước Nga đã có kế hoạch sẽ mai táng cái xác ướp Lênin vào năm 2010, trong khi ở Việt nam thì trẻ con cứ thắc mắc rằng “ ông Lênin ở nước Nga, sao ông lại đứng vườn hoa nước mình ...”, tất cả các lĩnh vực nghệ thuật, hội hoạ, văn thơ, phim ảnh, âm nhạc ... “trăm hoa đua nở” thoả sức vạch trần tội ác Cộng Sản cho người dân được biết, người ta cũng đã đưa tội ác của chủ nghĩa cộng sản vào chương trình giáo dục học đường và rất nhiều lần trong những tiết học các em bé đã phản đối kịch liệt vì cho rằng làm sao mà con người có thể đối xử với nhau còn tệ hơn cầm thú như thế được ?! Thầy giáo chỉ biết nhăn mặt mỉm cười, đã qua rồi các em yêu mến ! qua rồi “thời đại của những lời nói dối tuyệt vời”.



Tôi nêu lên những điều này vì muốn nói rằng xã hội Việt Nam rồi cũng sẽ phải trãi qua những giai đoạn y như thế, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam, quốc ca sẽ không còn “xây xác quân thù”, lăng Hồ Chí Minh sẽ bị phá bỏ, tiền Việt Nam sẽ phải có hình hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo ...tất cả 64 tỉnh thành mỗi tỉnh sẽ có một viện bảo tàng tội ác Cộng Sản, cả Dân Tộc sẽ bừng tỉnh, cả Dân tộc sẽ xót xa đau đớn chen lẫn hạnh phúc trước quá nhiều sự thật sẽ được phơi bày, tất cả sẽ phải tiếp tục đấu tranh lâu dài và gam go trước là để lập lại trật tự xã hội, sau là để hoàn thiện dần dần nền dân chủ mà những nước láng giềng như Thái Lan , Singapore , Đài Loan , Nam Hàn, Nhật Bản đã bỏ quá xa rồi. Càng nhìn lại lịch sử rồi đối chứng với hiện tại thì tôi lại càng căm phẫn tột cùng, khi gần 40 ngàn người Việt Nam đã hi sinh dưới lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc chiến biên giới với Trung Cộng vào những năm 1979, để rồi hôm nay vì quy phục quan thầy Bắc Kinh mà những hy sinh mất mát đau thương đó trở thành đề tài cấm kỵ trên tất cả các phương tiện truyền thông trong nước, học sinh thì không được học, sử gia thì không được đào sâu phân tích, nhà văn nhà thơ thì không được tự do xuất bản, ngay đến cả những người đồng đội anh dũng năm xưa, giờ đây cũng chỉ dám “đặt vòng hoa trong tâm tưởng”. Trong khi đó lại có đến 40 nghĩa trang “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ TC” trên đất nước Việt Nam . Tác phẩm Ma Chiến Hữu của nhà văn Tàu Mạc Ngôn viết về cuộc chiến biên giới 1979, được phát hành trong nước với lời giới thiệu của nhà xuất bản như ca tụng về chủ nghĩa anh hùng của những người lính TC đã xâm lược giết hại người dân Việt Nam. Và gần đây với “Vụ án Bôxít ” Trung Cộng đã âm thầm hủy diệt môi trường sống của người Việt đồng thời ngang nhiên đưa hàng ngàn công nhân chiếm đóng Tây Nguyên và những công nhân đó sẳn sàng cấm súng bất kỳ lúc nào, và tôi dám chắc rằng một ngày rất gần đây thôi chúng ta sẽ được nghe phát ngôn bộ ngoại giao Việt Cộng Lê Dũng hùng hồn lên tiếng “ Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử về chủ quyền của mình đối với "Tây Nguyên”, rồi cũng giống như Hoàng Sa Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc mà thôi, việc của báo chí thì cứ lu loa khẳng định chủ quyền, còn việc mất đất mất biển là chuyện quốc gia đại sự nên chỉ một mình Đảng biết Đảng giải quyết.



Nói như thế để thấy rõ bản chất vong nô của Việt Cộng và bản tính bá quyền lưu manh của Trung Cộng, dù chúng nó thân thiết với nhau hay chúng nó quay sang đánh nhau thì chỉ có nước mình nhiễm độc, nước mình mất, dân mình khổ, dân mình chết thôi, chứ nhà nó vẫn to, xe nó vẫn sang, trương mục ngân hàng vẫn kếch xù từ sức lao động của nhân dân, và dù bè lũ chính trị bộ có chạy theo Tàu hay theo Mỹ đi nữa nhưng chắc chắn rằng không có tên nào theo Dân Tộc mình, đối với chúng là nước Tàu hay nước Việt Nam có khác gì nhau, Tố Hữu đã báo trước rồi mà: “bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”.



Tôi biết nói những điều này với những người đã bị Đảng nhồi sọ quá lâu sẽ bị họ đấu tố là việt gian phản động, họ sẽ dùng những lý lẽ như nhờ ơn “bác” ơn Đảng mà mới có ngày hôm nay độc lập tự do hạnh phúc, nhưng việc tôi sinh ra và lớn lên dưới lá cờ đỏ sao vàng không có nghĩa là nhờ lá cờ đó mà tôi được sống được học tập ... mà đúng ra vì “nó” mà tôi phải mất đi rất nhiều thứ vốn dĩ là quyền cơ bản của một con người. Nói dễ hiểu cũng giống như việc người ta nuôi nhốt những con chim từ lúc nó lọt lòng, khi lớn lên nó sẽ quanh quẩn với cái lồng, sống với “tư tưởng ăn ỉa có người dọn” trong khuôn khổ của cái lồng, được quyền tự do hót nhưng thường thì khi từ nhỏ người ta sẽ dạy cho nó hót những câu “đúng đắn và lặp đi lặp lại ” đại loại như “líu lo líu lo, Vì Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa - vì lý tưởng của bác Hồ vĩ đại - sẵn sàng” hay “ huýt, huýt, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh” ... những chú chim hót hay này sẽ được người ta cho hưởng những đặc quyền đặc lợi, thức ăn ngon, chổ ở đẹp ... Còn tất nhiên biện pháp tốt nhất dành cho những con chim suốt ngày gào thét “két két, tự do, dân chủ, nhân quyền ” điếc tai thì sẽ bị đưa vào những “chuồng cải tạo ” với những tội danh rất lạ tai như “Phản động” “thế lực thù địch” “chống phá nhà nước XHCN” “âm mưu diễn biến hoà bình” ... và cải tạo đến chừng nào chịu hót đúng bài thì thôi, còn không thể cải tạo thì tìm mọi cách loại bỏ khỏi đời sống của loài chim. Cũng vì hoàn cảnh sống trong lồng tù túng cứt cơm lẫn lộn như thế, nên khi nghe thấy những chú chim khác hót ca kể về đời sống văn minh của loài chim tự do, nhiều chú chim trong lồng rất hoang mang không biết có thật mình đã bị đánh lừa suốt quãng đời qua không ? dù sao may mắn thay cho nòi giống của loài chim vẫn còn nhiều những con chim đại bàng khao khát tự do, phá cũi xé lồng oai hùng tung cánh tìm về với bầu trời xanh lơ. Này bạn tôi ơi ! đất nước mình có độc lập không khi đất nước bị lèo lái bởi những thái thú của Tàu Cộng, tự do là gì khi đến lòng yêu nước cũng bị tước đoạt, và hạnh phúc ở đâu khi hàng chục triệu người trên đất nước mình vật lộn kiếm ngày 2 bữa ăn không nỗi.



Khi nhìn thấy các mẹ các chị cầm cờ đỏ ảnh “bác” đi khiếu kiện, thấy sinh viên học sinh yêu nước mang cờ đỏ đi biểu tình chống Tàu Cộng, thấy các anh lính gìn giữ tổ quốc nơi biên ải xa xôi hay trên các vùng hải đảo mang theo lá cờ đỏ sao vàng, tôi đã thốt lên, các anh ơi ! các chị ơi ! các mẹ ơi ! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập

tự do hạnh phúc.



Lê Trung Thành.

Sinh viên du học ngành kiến trúc
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Đi Tìm Vui Thú Điền Viên



Tràm Cà Mau
(Viết tặng anh chị NDK,THQ)



Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu : Một mai một cuôc, một cần câu của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến ? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không ?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi tú tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí , làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bĩnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp :

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

“Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà , mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tàng ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn , để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng . Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi chạy bộ , ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ.”

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung sướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm :

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống, bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng về tù , và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao. Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới. Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật, đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà, không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy. Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc. Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít.

Không biết làm gì hơn, tôi cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết. Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng quận . Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa chửa.

Khi tôi đến công ty điện, công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào. Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa, chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người tìm chốn lao xao”. Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên , mùa hè ban đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng “ Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai, tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40. Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng, không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy, và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp. Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì. Tôi nhãy xuống xe, đứng cong lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc . Họ à à gật đầu và cười, nói “ Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu,đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi, thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay, và lắc đầu, có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được. Tôi đang phân vân, chưa biết phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra, như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc. Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả, khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho thêm tiền, tiếc của la lối:

“Không làm được gì mà anh còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà, xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói : “ Mà nha na, mà nha na” ( manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “ Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ, tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi. Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp ,được đi làm và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi. Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được. Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đải hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi làm tiệc đải Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm. Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi , bỏ lên xe kéo, và mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức , như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến . Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”,

“Con nào chết thì đem nấu cháo ăn” Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông thấp , thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng. Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con vịt hở Ba?” Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vã lại, theo luật quyền Anh, đây là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”

Tôi trả lời chưa xong, thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng. Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn. Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con,mỗi người vài chục hột ăn chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.
Thế là chúng tôi mất thêm một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ , ban đầu thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt,vịt xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ, thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao, dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo . Đào hồ xong, thì phải xả nước vào , và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn, mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo : “ Hãy mua ống nước bằng nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng gìan gỗ cho khổ công mà mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống, vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo. Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con,ăn mãi cũng chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy,vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành,và sai thì sửa, và càng sửa thì càng sai.

Mùa đông đầu tiên, một buổi sáng thức giấc , dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều nơi bị vở, khi đá tan, nước chảny lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng, mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi, tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra mà cầm cố. Thôi thì cũng liều - Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là người tốt - Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền, chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng. Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển ngâm nga: “ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người tìm đến chốn lao xao..”, và thấy ông Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc. Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc, đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ỷ dốc là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ “.

Vợ tôi như bắt được ý, hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm hoài không hết”

“Những việc thường thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán. Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Rán thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán. Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt, mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào, rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích , để vài ba con kêu chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế, chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh, con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem, thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà, con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới . Tôi chạy ngược chạy xuôi tìm hãng khai thac dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại, xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn, lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn. Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó, cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra . Vợ tôi đứng la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá, có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”
Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh, dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài. đi học về là ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau, thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn, có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri, đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi thấy nhiều cặp ngọc dương ( dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh thì thầm: “ Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món đặc biệt, mà ông nói đùa là món “ Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát, có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn vào là nghe máu chuyển rần rật , mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người Ấn Dộ và Trung Hoa biết món ăn nầy nên đông con là phải.”

“Nếu có thêm rượu thuốc toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” - Bạn ông anh tôi tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu, uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri, thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê. Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây, đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao nhiêu mùi hôi đều ra hết.”

Vợ tôi xemn vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “ hà nàm” cho mà ăn. Cái bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn, nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê “ hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó, tôi nằm chờ kết quả của dê “ hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả, và ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao, tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy mà”

Bọn dê sinh sản nhanh, mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay dọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân - Mà ngày nào không gặp nhau chứ - Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh mua thêm về làm chi ?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát ra được cái “ vui thú điền viên “ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng. Hai vợ chồng đi làm công , chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều. Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ, cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có nói rồi: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”. Lỗi tại mình, không chịu hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng. Nên mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau
(Viết tặng anh chị NDK,THQ)
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

CHUYỆN TẢN MẠN HẬU THÁNH NỮ …..


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Sau khi bài viết “Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội” được gởi đi, không ngờ Làng Lưới ta sóng gió lại nổi lên như thế. Giữa tình huống thê thảm, người viết, có khách mộ điệu gởi hoa đến tặng, nhưng cũng có người đổ phân lên đầu, nhiều kiếm khách vô tình gặp chuyện giữa đường rút dao tương trợ, nhưng cũng không thiếu kẻ nhào đến tặng cho những nhát đâm trí mạng. Tất cả xin nhận ở đây của kẻ hèn này một lời cám ơn chân thành. Được tặng hoa, tất nhiên ai cũng thích. Bị đổ phân lên đầu, đi tắm xà bông thơm là xong ngay. Cũng may là ở đây có nước sạch mà tắm. Còn như ở bên nhà toàn nước dơ, gặp cảnh ngộ như kẻ hèn này, tắm nước dơ xong lại phải lấy máu để tắm lại, mất công lắm. Nước dơ rửa bằng máu mới sạch là khám phá quan trọng của vua Hàm Nghi, chứ không phải của hèn này. Gặp chuyện xui giữa đường được hiệp sĩ giúp đỡ không phải may mắn thì là gì?

Bài nghị luận rất tầm thường nhưng đã đem lại cho người viết khá nhiều chuyện, vui có, buồn có, ngộ nghĩnh cũng có nữa. Trước hết xin nói về chuyện ngộ nghĩnh. Đó là một áng văn tuyệt tác, bất hủ, ngưòi viết chưa từng bao giờ gặp.

Chúng ta lớn nhỏ ai cũng đã từng cắp sách đến trường. Trường phổ thông nào cũng có các môn học khác nhau. Mỗi môn một ông thầy. Môn toán có thầy dậy toán, môn văn có thầy dậy văn v.v. Ở trường, học trò viết một bài luận văn nạp cho ông thầy. Chỉ duy có một mình ông thầy đọc rồi phê điểm. Do đó, giá trị của một bài văn trong lớp học, căn cứ trên số điểm ông thầy phê là công bằng, bởi vì chỉ có một người đánh giá bài văn là ông thầy, theo những tiêu chuẩn của trường qui.

Người viết văn, viết báo cũng vậy thôi, họ cũng ví như một em học trò. Ngôi trường họ học tập lớn hơn một trường phổ thông nhiều, gọi là trường đời. Bài viết của họ, nếu chỉ đăng trên một tờ báo chợ vài ba trăm số, thì ảnh hưởng là giới hạn. Nhưng nếu nó được đăng trên tờ “Báo Trời” (internet) thì khắp thế giới ai cũng có thể đọc được. Cái khác biệt duy nhất của cái trường đời này là ở đây có rất nhiều thầy. Một độc giả là một ông thầy. Mỗi ông thầy môn văn của cái trường đời này phê điểm bài vở cho học trò thường hay dựa trên chủ kiến, khuynh hướng, và sở thích riêng của mình, không căn cứ vào một mực thước chung nhất định nào cả.

Bài Thánh Nữ … vì chẳng ra làm sao cả, nên được các ông bà thầy phê điểm F (fail) nhiều lắm, kể ra không hết. Họ toàn là những chiến sĩ chống cộng cùng mình cả. Đặc biệt có một lời phê ngoại hạng như thế này: “Thật đáng nguyền rủa vì giờ này còn có những thằng mất dậy như Trịnh Du, tiếp tay phổ biến bài vở chửi rủa những người đấu tranh trong nước của hai thằng chó đẻ Hà Tiến Nhất và Hà Văn Sơn … Cộng đồng tỵ nạn sẽ đào thải bọn súc vật chúng bay. Tổ cha chúng bay, một bọn chó đẻ.” Phải thừa nhận rằng, đây là một câu văn tuyệt tác. Phải là đỉnh cao trí tuệ, cỡ viện sĩ hàn lâm văn học quốc gia mới sáng tác ra được áng văn như thế. Kẻ hèn này đã mất công lục lọi trong các kho tàng văn chương của nước nhà, mà không tìm ra được một tác giả nào viết được câu đó. Cuối cùng thì mới nghiệm ra rằng, các quốc gia Âu Mỹ ngày nay vẫn còn ở vào một thời kỳ văn minh bậc thấp so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Âu Mỹ đã qua thời kỳ đồ đá, đồ đồng, và mới bước vào thòi kỳ đồ điện. Trong khi đó, nước Tầu, Cu Ba, Việt Nam v.v. đã có những bước nhẩy vọt, tiến lên thời đại “Đồ Đểu” từ lâu rồi. Mỹ và Âu Châu bước vào thời kỳ Đồ Đểu để bắt kịp VN chắc còn phải lâu lắm. Áng văn trác tuyệt trên đây nhất định chỉ có thể xuất hiện vào thời kỳ Đồ Đểu tại nước cộng hòa xã hội chữ nghĩa VN, chắc chắn nó đã vượt qua chúng ta, những người đang sống tại các nước Âu Mỹ, cả một thời đại (era), nghĩa là trước hàng ngàn, hàng vạn năm. Như vậy có thể nói, chúng ta đã quá lạc hậu rồi!

Sợ mất thì giờ của bạn đọc, những dòng tản mạn này chỉ lướt qua phần bình văn, dừng lại ở một điểm tiêu biểu nhất thôi, không dám dài dòng. Phần tản mạn chính yếu là việc người viết xin được thưa chuyện với nhà văn, nhà báo, trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, và cũng nhân thể, ghé qua đáp lễ cụ nhà giáo Nguyễn Phước Đáng một chút cho phải phép, vì chỗ cụ giáo với chúng tôi còn có một chút giao tình.

Sau khi thiên hạ đã chê, khen Thánh Nữ ….. chán chê rồi, thì cụ nhà giáo Nguyễn Phước Đáng có đưa lên Net một bài tổng kết. Nhà giáo có khác, cụ rất là mô phạm và đắc nhân tâm. Cụ nhà giáo hạ bút viết thế này: “Tôi tổng kết, thấy được 2 điều về Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, mà tôi rất phục tài viết văn của Anh (Tôi phục tài viết văn của Anh, còn cái tâm của Anh thì tôi cứ phân vân xét nét):

1) Hể có một người nổi danh làm bất lợi cho CSVN thì Anh Duyên Lãng lên tiếng hạ uy tín người đó, như Nguyễn Chí Thiện, Tô Hải, Lê Thị Công Nhân.

2) Bây giờ, những người cùng "chiến tuyến" với Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất (bênh vực Anh Duyên Lãng trong chuyện Ls LTCN) là Aladin Nguyễn, Kim Âu Hà Văn Sơn, Hồ Công Tâm. Tôi rất đau lòng thấy Anh Duyên Lãng Hà Tiến Nhất bị liệt kê chung danh sách với những người nầy (mà ông Tôn Thất Sơn cho chết danh là những NGƯỜI THIẾU TỬ TẾ).

Trước hết chúng tôi xin thành thật cám ơn cụ giáo đã dành cho chúng tôi một cảm tình đặc biệt trong lối viết. Mỗi lời của cụ đều cố ý đắn đo. Văn phong của cụ nhẹ nhàng và trang nhã. Chúng tôi xin vắn tắt về 2 điểm tổng kết của cụ như sau:

Điểm 1. Cụ phân vân xét nét cái tâm của kẻ hèn này thế nào là quyền của cụ. Cái tâm của kẻ hèn này ở trong bụng, rất tiếc, không thể moi nó ra ngoài cho cụ thấy được. Chúng tôi chỉ xin thưa với cụ thế này là, tất cả các vấn đề chúng tôi đề cập tới, dù là vấn đề liên quan đến tôn giáo, các nhân vật được nói đến, chúng tôi đều đã suy nghĩ trước khi viết, và khi viết, chúng tôi đứng trên quan điểm và lập trường quốc gia dân tộc, đặt sự kiện và con người trước quyền lợi của đất nước mà nhận xét hoặc phê bình. Chúng tôi không bao giờ đánh phá ai, mà chỉ đem con người cùng với hành động và lời nói của họ ra để phân tích, nhận định, hoặc phê phán trên bình diện quyền lợi dân tộc, và chỉ viết với tinh thần “quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”. Hay, dở, đúng, sai v.v. đều dựa trên những dữ kiện thực, không suy đoán, mà luận giải. Cụ thấy đấy, có bao giờ chúng tôi nói không bằng chứng cùng với luận chứng của chúng tôi đâu? Cụ cho rằng tôi luôn luôn tìm hạ uy tín của những người nổi danh làm bất lợi cho CSVN là võ đoán mất rồi. Nếu chúng tôi viết thiếu khách quan và vô bằng chứng, xin cụ cứ tự nhiên phản biện một cách vô tư và thẳng thắn. Chúng tôi tôn trọng mọi ý kiến phản biện nhưng phải tôn trọng sự thật.

Điểm 2. Việc cụ đau lòng thấy tôi bị liệt kê trong nhóm người thiếu tử tế thì xin thưa với cụ thế này. Một lần nữa, tôi rất cảm kích trước cảm tình cụ dành cho tôi. Nhưng việc tôi đứng ở đâu, đứng với ai, chuyện đó không quan trọng. Cụ có lòng thương lo cho, nhưng xin cụ an tâm. Hôm qua Chúa Nhật, sáng đi lễ nhà thờ, nghe ông cha đọc Thánh Kinh, thấy Chúa bị người Do Thái liệt vào thành phần gian ác trong xã hội. Tôi là một tín đồ của Chúa, thấy Chúa mà còn bị coi là tên gian ác, kẻ tín đồ này được BS Tôn Thất Sơn kể vào hạng người thiếu tử tế nào có nhằm nhò gì. Vả lại, như cụ thấy ở trên, người ta còn gọi tôi là thằng chó đẻ thì cái tiếng “người thiếu tử tế” nào có đáng gì. Căn cứ trên bậc thang giá trị xã hội, người thiếu tử tế còn đứng trên thằng chó đẻ xa lắc xa lơ, cụ giáo thấy không. Như vậy nếu may mắn được bước lên ngồi chung chiếu với các vị Aladin, Kim Âu, Hồ Công Tâm, kẻ hèn này không đáng kể là còn may mắn lắm sao?

Bây giờ xin tản mạn về chuyện chúng tôi được nhà văn, trung tá Nguyễn Đạt Thịnh (NĐT) tặng nón cối được rồi. Có nhiều vị trên Net đã đưa ra nhận định về bài viết của ông NĐT, cho nên ở đây chúng tôi cũng chẳng dài dòng làm chi, bằng thừa thôi. Về bài viết của tôi: Thánh Nữ, Đứa Con Của Thằng Cuội, ông NĐT đã chỉ phê bình phần hình thức với những lời lẽ phỉ báng và mạ ly, mà không đả dộng gì đến phần nội dung. Đó là một thiếu sót rất cơ bản của một bài bình luận hay phản luận. Ông NĐT là một nhà văn, nhà báo có tầm cỡ, một vị trung tá của QLV NCH không thể không biết điều đó. Tuy nhiên, chúng tôi không kể nó là chuyện đáng đem ra bàn. Chuyện đáng bàn ở đây là cái “order đặt hàng” mà ông NĐT cho rằng chúng tôi, Duyên Lãng Hà Tiến Nhất, đã nhận được. Ông NĐT viết: “Hay ông (ông đây là tôi, Duyên Lãng Hà Tiến Nhất)có nhu cầu mạ lỵ những người chống Việt Cộng để thỏa mãn một cái order đặt hàng? Tôi có mạ lỵ ai đâu. Tôi nói có chứng, luận có cứ đàng hoàng mà. Ông NĐT cứ đọc kỹ mà xem.

Nói thế nào thì nói, câu viết của ông NĐT chỉ có một lối giải thích duy nhất, đó là Duyên Lãng Hà Tiến Nhất là một kẻ bán chữ kiếm ăn (viết theo đơn đặt hàng). Ai đặt hàng ông NĐT không nói ra, nhưng còn ai vào đây được nữa, ngoài bọn VGCS? Tôi không nói sai chứ? Trong bài viết của mình, ông NĐT đứng từ trên cao ngó xuống, quyền uy, rút gọn tên tôi lại còn là: Lãng. Một chữ thôi, thế cũng tiện. Thú thực, nếu ông NĐT không hành sử như thế, có lẽ tôi đã quên béng ông là Trung Tá Trưởng Phòng Báo Chí, Cục Tâm Lý Chiến mất rồi. Còn chữ “đểu cáng” ông tặng cho tôi nữa, xin ông lấy lại xài thoải mái đi, hay cho con cháu xài cũng được. Lãng đểu cáng, hay lắm đấy, nhưng chúng tôi từ tấm bé chưa xài những từ ngữ cao quí như thế bao giờ. Vậy từ đây trong bài viết, chúng tôi xin được tự xưng là “Lãng” vói ông NĐT như ông đã ưu ái gọi tôi.

Trung tá NĐT không biết tên Lãng này, chứ nó biết ông hơi kỹ đấy. Ngày xửa ngày xưa, mỗi lần bước vào Phòng Báo Chí, Cục Tâm Lý Chiến để thăm thằng bạn, thằng Lãng đứng nghiêm “phắc” chào ông trung tá trưởng phòng NĐT, được ông ném lại cho cái nhìn nửa con mắt thôi thì đã mừng lắm rồi. Cũng xui cho Lãng tôi, gía như ông đại tá Nguyễn Huy Hùng, nhà trung gian uy tín, không forward bài Thánh Nữ … rác rến cho ông NĐT, thì nó đâu có được cái diễm phúc đội nón cối. Đ/T Hùng không nhớ, chứ Lãng tôi đã có lần tại cục Tâm Lý Chiến, được hân hạnh đứng hầu chuyện ông cùng với ông Đ/T Đỗ Sinh Tứ, dân biểu Quốc Hội, trong văn phòng của Đ/T Tứ rồi đấy. Vì cái order đặt hàng mà bề dưới bắt buộc phải chạm mặt với bề trên, chứ không thì dù thế nào với các bề trên, thằng Lãng cũng xin kính nhi viễn chi cho phải đạo.

Nói một câu thật, ngày xưa có một lần, một lão nhà báo Mỹ gởi order đặt mua hàng của thằng Lãng này nhưng nó không bán. Tuy thứ hàng này chỉ là mớ tép vụn chẳng đáng gì, nhưng thằng Lãng kênh kệu bảo rằng: đánh đĩ chín phương cũng còn phải chừa một phương để lấy chồng. Đói thì đi ăn mày mà sống. Chuyện order đặt những thứ hàng lớn, quan trọng như nhà văn NĐT nói đây thì quả thật thằng Lãng này không có, và không có khả năng làm ra để bán. Nói thế có nghĩa là, Lãng tôi hoàn toàn không có tài năng và trình độ bán chữ nghĩa để kiếm sống như ông nhà văn NĐT tưởng tượng đâu. Không tin, trung tá NĐT có thể hỏi nhân viên của ông thì biết. Họ ở ngay Mỹ này thôi. Nếu cần, Lãng tôi sẵn sàng cung cấp số phone và địa chỉ cho Tr/T Thịnh để ông kiểm chứng. Hơn nữa, ông NĐT còn có thể kiểm chứng lời của thằng Lãng này với các vị đồng nghiệp, và đồng cấp bậc với ông trong ngành thông tin báo chí quân đội của chúng ta ở Saigon nữa. Các vị này đều đã từng giữ chức vụ Phát Ngôn Viên Quân Sự, làm việc tại Tổng Cục CTCT. Thằng Lãng là nhân viên thừa hành của quí vị này nên bảo đảm họ rành sáu câu về khả năng của nó lắm.

Nói một cách tổng quát là, không phải bất cứ ai viết lách là có người đặt order mua bài đâu. Nhiều nhà văn có tiếng mà còn đói nhăn, rách như tổ đỉa:

Thời thế vẫn thấy khó
Nhà văn Annam khổ như chó.

Đấy, chính nhà văn than đấy, ông NĐT không thấy sao. Được VGCS order đặt mua bài thì đã phúc cho những nhà văn Annam tỵ nạn đói rách rồi đấy. Chưa đến lần thằng Lãng vô tài bất tướng này đâu.

Đấy là nói về người bán. Về phần người mua, tức người đặt order, thì cũng thế thôi. Tất cả đều nằm trong qui luật của thị trưòng. Người order đặt hàng chẳng ai dại gì bỏ tiền ra để mang về hàng dổm. Muốn có hàng xịn, người mua thường tìm đến những cửa hàng nổi tiếng, những hãng sản xuất đã cầu chứng hẳn hoi, chứ ai ra chợ trời kiếm đồ không có trade mark bao giờ. Vậy thì điều hợp lý nhất phải là, nếu VGCS cần order đặt hàng một bài viết, chúng phải tìm đến một nhà văn, nhà báo đã thành danh, có uy tín, đi kiếm thằng Lãng vô danh tiểu tốt này để ăn cái giải gì, thưa nhà văn NĐT? Thằng Lãng ngu dốt này suy nghĩ như thế có đúng không, thưa ông?

Chuyện tản mạn sau cùng là vấn đề những lời tuyên bố của Ls Lê Thị Công Nhân và của Lm Nguyễn Văn Lý. Chẳng phải là kẻ hèn này muốn bới bèo tìm bọ, nhưng là những việc có thật trên giấy trắng mực đen, mà suy nghĩ cạn cùng, kẻ hèn này vẫn không tìm ra được lời giải đáp. Trong audio hội luận giữa cô Luật sư, DBB Cao Quang Ánh và nhà báo Đương Phục ngày 10-3-2010, cô Lê Thị Công Nhân phát biểu:

“Yếu tố thứ hai là những điều mà tôi mong muốn được gởi đến cụ thể như anh Dơ-dép Cao là Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc Hội (Việt gian Cộng Sản ) Việt Nam. Gần đây là Quốc Hội Việt Nam gần như là Quốc Hội Hoa Kỳ, một phần bản chất cũng cần phải thay đổi quốc hội dân chủ, hoàn toàn của nhân dân và vì nhân dân thì mối quan hệ giũa hai nhà nước hai quốc hội bằng nhau là ngang hàng các nghị sĩ. Tôi mong muốn rằng sẽ có nhiều hơn những “cuộc giao liên”, những cuộc làm việc giữa hai quốc hội cho dù quốc hội Việt Nam có thấp kém, có tệ đến đâu đi chăng nữa .

Bây giờ cái việc mình thấy người ta không tốt mà mình cứ để mặc kệ người ta thì bao giờ người ta mới thay đổi đây? Đấy! Anh có nghĩ là tôi mong Quốc hội Hoa Kỳ sẽ à..à.. Quốc Hội Hoa Kỳ Việt Nam như vậy rồi, tôi phải nhấn mạnh thêm là vì cái .. phải mạnh dạn hơn nữa, khoan hòa hơn nữa để có cái “mối giao liên” tìm hiểu Quốc Hội Việt Nam mà từ đó Quốc hội Việt Nam có thể đại biểu Quốc Hội Việt Nam theo chân Quốc Hội Hoa Kỳ mà người ta sẽ biết , mà người ta sẽ có thủ tục nhất định.

Nói một (1) lần không được, nói hai (2) lần không được. Khi mà nói lần thứ 100 thì chắc chắn là bắt buộc sẽ có ảnh hưởng rất là tích cực. Không nên làm cắt đứt quan hệ với Việt Nam , không nên tuyệt giao mà chúng ta phải nghĩ là chúng ta cần đến với nhau. Đấy! cho dù có thế nào chăng nữa. Bởi vì những gì phân biệt thì phải cần đến nhau. Tôi nghĩ rằng cái biện pháp cuối cùng có lẽ không còn gì để mà nói nữa. Cái tốt đẹp là cái bản lĩnh của chúng ta chính là cái mà chúng ta đừng dùng đến biện pháp cuối cùng. Tôi cũng chưa hiểu lắm vì tương đối mỗi ngày một khó mà bốn năm nay mối quan hệ giữa hai quốc hội đấy như thế nào.

Tôi chỉ mong rằng đẩy mạnh bao nhiêu, đẩy mạnh hợp tác làm việc chắc rằng thì tôi tin chắc rằng Quốc hội Việt Nam có nhiều điều tốt đẹp với Quốc Hội Hoa Kỳ. Nhưng những cuộc “giao lưu” ngày càng nhiều, ngày càng rộng rãi .Phương pháp đó .. Quốc hội Việt Nam sẽ nhận được ảnh hường tốt hơn. Trước hết là đại biểu Quốc Hội..họ tham gia gặp gở làm việc nghị sĩ Hoa Kỳ là những người được họ cho là rất là đáng tin cậy … khó có sự thay đổi . Tôi tin chắc là Cộng Sản không thể thay đổi được. Tôi nói là như vậy đó.”

Sau đó, Lm Nguyễn Văn Lý lại nói khác với bà Phó Đại Sứ Mỹ như sau: “Quý vị cố gắng giúp chúng tôi tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội cộng sản năm 2011 cho thật hiệu quả. Đây là một hình thức dân chủ giả hiệu và áp đặt, hoàn toàn không giống như các cuộc bầu cử Quốc hội ở những nước dân chủ tự do. Giúp như thế là quý vị giúp tôi chữa lành khối u sau ót tôi đây này ! Phần Khối 8406 của chúng tôi thì cũng sẽ lên kế hoạch tẩy chay nó cách quyết liệt.”(trích bản tin của phóng viên FNA tức Lm Phan Văn Lợi gởi ra từ quốc nội ngày 24-3-2010)

Rõ ràng là trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Tóm tắt là cô Luật sư thì kêu gọi Mỹ giao lưu mật thiết với quốc hội CSVN, không nên tuyệt giao với nó, còn Lm Lý lại nhờ Mỹ giúp tẩy chay cái quốc hội này. Nếu cô Lê Thị Công Nhân và Lm Nguyễn Văn Lý thuộc hai tổ chức khác nhau thì chúng ta không có gì để nói. Nhưng đàng này cả hai đều ở trong cùng một tổ chức, và nắm những địa vị quan trọng của tổ chức, nên mới là chuyện nhức đầu. Thông thường thì ngay lập tức sau khi xẩy ra chuyện tréo cẳng ngỗng như trên, Khối 8406 và đảng Thăng Tiến phải đưa ra những lời cải chính, hơặc giải thích sao đó cho phù hợp với lập trường và đường lối của tổ chức để tránh dư luận xuyên tạc. Nhưng cho đến nay, cả Khối 8406 lẫn đảng Thăng Tiến đều không nói gì cả. Như vậy thì những người có tâm huyết, đang cần quan tâm đến các vấn đề của đất nước sẽ nghĩ sao.

Phải chăng đây là đường lối “Đồng Tiền Hai Mặt” trong sách lược đấu tranh của Khối 8406 và đảng Thăng Tiến? Mặt nào cũng là đồng bạc cả.

Muốn mua hàng của VGCS thì giơ mặt A, mặt của cô Ls Lê Thị Công Nhân, mua hàng của người tỵ nạn thì giơ ra mặt B, mặt của Lm Nguyễn Văn Lý. Thế nào cũng vẫn mua được hàng.

Ngân hàng nào phát hành tờ giấy bạc “passe-partout” này thật là siêu, ăn trùm tất cả. Không biết giải thích cách này có đúng không?

Bài viết vì là những chuyện tản mạn nên không có kết luận. Xin cáo lỗi cùng quí bạn đọc.



Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
band4 3G McKeno

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Post by linhgia »

Nhận xét của Ông Hồ Công Tâm
V/v ông Nguyễn Đạt Thịnh mạt sát ông Duyên Lãng Hà Tiến Nhất


Thưa Quý Vị,

Giữa Nguyễn Đạt Thịnh và Hà Tiến Nhất, phải thưa ngay rằng tôi chưa từng quen biết anh Hà Tiến Nhất. Nhưng tôi đã được hân hạnh quen biết anh Nguyễn Đạt Thịnh!

Thỉnh thoảng, khi anh còn cư ngụ ngoài hải đảo Hawai, được anh gởi bài cho tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn do tôi chủ trương. Đôi khi được anh có nhã ý tặng cho một vài cuốn truyện anh mới cho xuất bản. Tôi lại có dịp may mắn được diện kiến, chuyện trò với Nguyễn Đạt Thịnh, một bậc đàn anh, cả về hai phương diện tuổi tác lẫn kinh nghiệm cầm bút mà tôi từng quý trọng, lần đầu tiên trong dịp nhà thơ Trạch Gầm về Houston ra mắt tập thơ Vụn Vặt của Trạch Gầm hồi tháng 7 năm 2008.

Thỉnh thoảng, tôi vẫn đọc bài của anh Thịnh được post trên Net một cách thích thú. Nhưng hôm nay tình cờ được đọc bài anh Thịnh viết phê bình anh Hà Tiến Nhất viết về Lê Thị Công Nhân.


Tôi không ngờ anh Thịnh bỗng nhiên lại có một lập luận hồ đồ và một giọng văn khinh bạc và miệt thị tác giả Duyên Lãng Hà Tiến Nhất khác lạ đến thế.


Lòng tôi hụt hẫng, chùng hẳn xuống, như vừa mất mát một vật trân quý.

Tôi không dám nghĩ Nguyễn Đạt Thịnh viết bài phê bình Duyên Lãng Hà Tiến Nhất là do đơn đặt hàng, mặc dầu anh cộng tác viết bài cho một vài tờ báo có được trả thù lao nhuận bút.

Hay là kinh nghiệm về Cộng Sản của anh Thịnh chỉ có trên sách vở tài liệu bằng tiếng Mỹ, tiếng Pháp, chứ chưa kinh qua thực tế với xã hội hoặc nhà tù VGCS.

Hay là do tuổi đã cao khiến ngòi bút anh không còn minh mẫn, sắc bén như xưa nữa? Đầu ó c tôi suy nghĩ miên man và buồn ơi là buồn!

Thật là một việc đáng tiếc xẩy ra giữa những người cầm bút cùng chung giới tuyến!

20/3/2010


Hồ Công Tâm


-------------------------

Tự do ngôn luận

Nguyễn Ðạt Thịnh


Như mọi người, mỗi ngày tôi nhận hàng trăm cái e-mail, trong cơn sốt e-mail thời đại; tôi chỉ đọc thư người quen, và đọc vài bài viết được những nhà trung gian uy tín giới thiệu; những mail khác tôi “select all” và “delete”.
Tôi nghĩ đó là thái độ chung của người Việt hải ngoại đôi phó với những xe rác e-mail khổng lồ, nhiều cái mang nội dung vô cùng bẩn thỉu. Tôi từng đọc những chữ chỉ được phát ngôn trên những khuôn miệng giang hồ, anh chị, và tại những khu mạt hạng của xã hội; nhưng, vì thương yêu quyền tự do ngôn luận, tôi chấp nhận những rác rến đó trôi vào thùng thư của tôi. Ðổ rác âu cũng chỉ là cái giá mà tôi trả cho quyền tự do cao quý này, cái giá, nghĩ cho cùng, cũng không lấy gì làm đắt.

Một trong những nhà trung gian tôi tín nhiệm là ông Huy Hùng, một vị đại tá boss của tôi những ngày trước 1975; tôi kính trọng đại tá Hùng, không chỉ vì cấp bực, mà còn vì tư cách rất thánh thiện của ông. Suốt nhiều năm làm việc dưới quyền ông, tôi chưa thấy ông có một tiếng xàm xỡ.

Nhưng lần này tôi trách ông đã giới thiệu bài “THÁNH NỮ, Đứa Con của Thằng Cuội”, tác giả là ông Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất. Ông Duyên Lãng viết bài này để chỉ trích cô Lê thị Công Nhân và Linh mục Nguyễn Văn Lý.

Trong số những người của hai tổ chức mẹ con này (Khối 8406 và Thăng Tiến) có hai nhân vật nòng cốt là Lm Nguyễn Văn Lý và Ls Lê Thị Công Nhân, bị VGCS cho đi nằm ấp,” ông Duyên Lãng viết. “Hai người cùng vào một cái lò đúc của VGCS, và ra lò trong cùng một thời gian, trở thành hai “tác phẩm” khác nhau mỗi người một vẻ. Ông linh mục thành anh “thương binh chống nạng cầy bừa”. Còn cô gái, với hào quang “Người Con Của Thượng Đế”, xuất hiện trước đám quần chúng mà đa số thật là vô tư lự. Nhưng cũng đã có người tinh mắt nhìn ra cô gái chỉ là miêu duệ của dòng nhà cuội. Thật bất ngờ, tính chất cuội trong cái hào quang Người Con Của Thượng Đế của cô gái, không biết vì vô tình hay quá tự tin, lại do chính cô tự phô bầy ra.”

Nhận xét về hai chiến sĩ đấu tranh đòi hỏi tự do và nhân quyền cho người Việt Nam, vừa ra khỏi ngục tù Việt Cộng, bằng giọng nói khinh bạc, đểu cáng đến như vậy, thì quả là không còn tĩnh từ nào có thể đi đôi với cái tên Duyên Lãng của ông này.

Ông Duyên Lãng công bằng? hay ông Duyên Lãng yêu nước? Hai tĩnh từ “công bằng” và “yêu nước” đều không thích hợp, không đi đôi được với cái tên Duyên Lãng. Ông không công bằng khi vô cớ và thiếu chứng minh, chỉ trích hai nhân vật đáng kính phục hơn là đáng chỉ trích; và ông không yêu nước khi ông thui chột ý chí tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ bằng cách chỉ trích hai chiến sĩ tiên phong trong cuộc đấu tranh này.
Ông Duyên Lãng bảo Linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Công Nhân ra khỏi tù (mà ông gọi là ra ‘”lò”) và “trở thành hai “tác phẩm” khác nhau, mỗi người một vẻ”!

Thưa ông, họ là tác phẩm của ai? Mặc dù không nói huỵch toẹt ra, nhưng rõ ràng ông ám chỉ là họ ra khỏi “lò đúc” Việt Cộng, và trở thành một sản phẩm của lò đúc này. Tôi nghĩ khác, và qua giọng văn của ông, tôi biết ông không đồng ý với tôi: tôi mãnh liệt tin tưởng hai vị anh hùng và liệt nữ này là tác phẩm của mẹ Việt Nam; vì yêu thương nước Việt Nam, yêu thương người Việt Nam mà họ tay không dấn thân vào cuộc đấu tranh với bạo quyền Việt Cộng, không chỉ hung ác, tàn nhẫn, mà còn vô cùng thâm độc, mưu mô, và nhiều thủ đoạn.

Chúng bôi nhọ hai chiến sĩ chúng không giam giữ được nữa.
Linh mục Lý bị stroke 3 lần, do đó ông đi đứng khó khăn và phải sử dụng một loại gậy xe có bánh. Ông Duyên Lãng diễu cợt tình trạng bệnh hoạn của Linh mục Lý bằng một câu hát của Phạm Duy: Ông linh mục thành anh “thương binh chống nạng cầy bừa”! Tôi đánh dấu chấm than sau câu nhận xét của ông Lãng, vì quả thật tôi không biết phải chê trách bằng chữ nào cho đủ.
Chưa một người Việt Nam nào nỡ nặng lời chế diễu một anh hành khất đi xe lăn, đến xin tiền người đi đường bị đèn đỏ chặn lại trước mỗi ngã tư; nguyên cớ nào khiến ông Duyên Lãng nỡ nặng lời với một chiến sĩ nhân quyền như vậy.

Bôi nhọ cô Công Nhân, ông Duyên Lãng viết, “Thế nhưng rất đáng tiếc, vật đã đổi, sao đã rời, Lê Thị Công Nhân hôm nay không còn phải là cô Lê Thị Công Nhân ngày hôm qua nữa. Cô đã khác, khác với người mà trước đây tôi khâm phục. Lê Thị Công Nhân khác thế nào, và tại sao lại ra khác, thì đó là những vấn đề người viết bàn tới trong bài này”.

Duyên Lãng không bàn ngay về việc cô Công Nhân “vật đổi, sao dời”; ông còn có nhiệm vụ dèm xiểm thêm nhiều nhân vật khác. Ông viết, “Chẳng hiểu làm sao mà trước đây có một thời kỳ, trong nước, ngoài nước, phong trào, tổ chức, đảng phái chính trị mọc ra như nấm. Người dân quèn cứ ngớ ra, tưởng phen này, nói theo Ls Đinh Thạch Bích, VC đã được Mỹ đỡ xuống khỏi lưng cọp, và chúng đã cho bầu cử đa đảng rồi. Nhưng, thời gian trôi cứ trôi, mọi chuyện vẫn cứ “vũ như cẩn”. Thuở trời đất trăm hoa đua nở đó, có Khối 8406 và đảng Dân Chủ là bề thế hơn cả. Đảng Dân Chủ gồm toàn họ hàng con cháu nhà Cuội, như cuội Hoàng Minh Chính, cuội Trần Khuê v.v. hợp tác với bọn chính khứa lưu manh tại hải ngoại, như Nguyễn Xuân Ngãi và đám lâu la Việt Tân (VT).

“ Bọn này cuội quá nên mất tín nhiệm với người dân ngay từ đầu. Trái lại, Khối 8406 và đứa con đẻ của nó là đảng Thăng Tiến VN, được hình thành do một vài nhà tu hành cùng với một số các bạn trẻ giầu lòng yêu nước, nên được quần chúng tin tưởng hơn. Thế nhưng, vỏ quít của người dân dầy thì VGCS lại có móng tay nhọn. Trong Khối 8406 và đảng Thăng Tiến, những thành phần chỉ có năng khiếu chạy cờ thì VGCS cứ để cho nhởn nhơ ở ngoài nhà tù mà chạy cờ. Còn những thành phần cốt cán, khó trị, thì chúng cho đi nằm ấp hết. Ở trong ấp, ai cải tạo được thì chúng cải tạo. Người không cải tạo nổi, thì hoặc bị chúng nhốt không có ngày ra, hoặc có trở về thì chắc chắn phải thành thân tàn ma dại, chỉ còn nước chờ ngày làm bạn với ông Sáu (tấm) là xong. VGCS xứng danh là lưu manh, bịp bợm số một trên thế giới ở chỗ là, sau khi đã triệt hạ thành phần lãnh đạo của Khối 8406, chúng không ra tay dẹp tổ chức đó, mà chúng cài người vào trong, để biến tổ chức thành công cụ phục vụ cho chúng. Nhìn vào thành phần lãnh đạo và các hoạt động của Khối 8406 hiện nay, người ta không còn nghi ngờ gì về chuyện này.”
Duyên Lãng muốn nói thành phần lãnh đạo của khối 8406 hiện nay là nguòi của Việt Cộng gài vào! Lại một dấu chấm than khác; tại sao Lãng lại ác độc cắm cờ đỏ lên nóc giáo đuờng? Tại sao anh ta lại muốn quần chúng hoài nghi tính chống Cộng của khối 8406? Chỉ có một cách trả lời: anh muốn làm tổ chức chống Cộng 8406 yếu đi.

Cắm ngọn cờ “công cụ phục vụ cho Việt Cộng” lên nóc nhà thờ xong, Lãng trở lại với cô Công Nhân và 3 năm tù của cô.
Lãng viết, “Vài ba năm tù, mười năm tù, hay lâu hơn nữa, thời gian ở tù không phải là cái thước đo giá trị của đấu tranh. Giá trị của một cuộc đấu tranh là mục tiêu tranh đấu, và sự kiên định lập trường cho mục tiêu này. Nguyễn Thái Học bị Pháp bắt và ở tù chỉ có 4 tháng (2-1930 đến 6-1930) rồi bị đưa lên đoạn đầu đài. Mặc dù cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái không thành, nhưng ông vẫn là một vị đại Anh Hùng của dân tộc, được toàn dân kính mến. Ls Lê Thị Công Nhân, sau khi ra tù, thường cứ nhắc đi nhắc lại, và hình như có ý khoe khoang cái thời gian 3 năm tù của cô. Điều này cũng là tâm lý tự nhiên, và cũng tốt thôi. Nhưng cái thực sự quan trọng trong công cuộc tranh đấu là lập trường của cô thì xem ra đã biến đổi nhiều. Tôi dùng chữ “xem ra” để nói lên sự dè dặt khi lên tiếng về một sự việc quan trọng. Chúng ta hãy nghe lời đanh thép của người tù Lê Thị Công Nhân khi cô bước chân vào nhà tù: “Tôi khẳng định với tất cả lương tâm và trách nhiệm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam tôi sẽ chiến đấu đến cùng dù chỉ còn một mình tôi đấu tranh”… “Và CSVN đừng có mong chờ bất cứ một điều gì, dù thoả hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phiá tôi. ” Câu nói có thép và lửa này, nội dung không khác gì lời từ biệt đồng bào của anh hùng Nguyễn Thái Học trước khi ông bước lên máy chém: Không thành công cũng thành nhân. Nhưng ngưòi trí thức trẻ Lê Thị Công Nhân sau khi vừa bước chân ra khỏi cổng nhà tù, trong lời nói của cô lửa đã tắt ngúm, và thép đã hoá bùn.”

Nguyên nhân nào khiến ông Lãnh có thể võ đoán như vậy? Ông viết, “trong một cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Dương Phục, cô nói: (vì âm thanh không tốt, chúng tôi không ghi được nguyên văn, nhưng đại để là) : Quốc-hội Mỹ và Quốc Hội VN cần phải giao lưu và làm việc với nhau. Mong Quốc Hội Mỹ hãy khoan hòa, bao dung, và giúp đỡ Quốc-hội VN, đừng đẩy họ vào con đường cùng. Cho dù 1 lấn, 2 lần, 5 lần hay 100 lần hoặc hơn nữa, Quốc Hội Mỹ cũng vẫn tiếp tục giúp đỡ Quốc-hội VN, như thế thì mới mong thay đổi được.”
Thật hết chỗ nói: chỉ vì một câu nghe lõm bõm (vì âm thanh không tốt) mà ông Lãng đã buộc cô Công Nhân vào tội “lửa đã tắt ngúm, thép đã hóa bùn.”

Tôi thấy không cần trích thêm những đoạn sau bài viết của Duyên Lãng, vì ngần đó lập luận của ông cũng đủ cho thấy dã tâm bôi nhọ hai chiến sĩ dân chủ vừa được trả tự do. Câu hỏi cần đặt ra là tại sao ông Lãng lại làm như vậy; ông ta thù oán gì linh mục Lý, cô Công Nhân, ông Hoàng Minh Chính, ông Trần Khuê, ông Nguyễn Xuân Ngãi?
Hay ông có nhu cầu mạ lỵ những người chống Việt Cộng để thỏa mãn một cái order đặt hàng?

Nguyễn Ðạt Thịnh
band4 3G McKeno

Post Reply