Posted: Sat Oct 29, 2011 1:01 am
Sương mù chớm Thu
Ðàm Trung Phán
1. Sáng nay, sau khi thức dậy, tôi thường có thói quen hay nhìn qua cửa sổ xem thời tiết ra sao. Thấy thành phố mờ mờ ảo ảo trong sương mù, tôi thích chí reo lên trong đầu: “À há, hôm nay ta phải đi dạo bộ ngay và sẽ mang theo cái máy hình digital để ghi lại một số hình ảnh của sương mù ban mai!”
Nhìn vào cái hàn thử biểu ngoài trời, thấy 18 độ Celsius. No sweat! Nhưng thực ra, tôi muốn trời hơi lạnh hơn một chút, khoảng từ 12 đến 16 độ Celsius thì mới là “thần tiên” đối với tôi. Nhưng thôi, tôi biết là “ăn mày không nên đòi xôi gấc!”
Tôi khoác một cái áo mùa thu khá mỏng vì lỡ gió lạnh thổi thì làm sao mà tôi có thể đi bộ cho lâu được. Ra đến cánh đồng hoang, tôi chụp vài tấm hình. Qua những kinh nghiệm chụp hình, tôi chụp nhiều “pô” khác nhau để ban đêm tôi sẽ “load” vào computer rồi tôi sẽ giở từng tấm hình ra mà ngắm, tấm nào không ưng ý là “delete” liền.
Tôi tiếp tục đi bộ ra cái park gần nhà mà tôi thường vừa đi vừa tập thể dục, vừa ngắm cảnh để rồi tôi có những lúc thật riêng tư cho chính tôi. Ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng suối, tôi để hồn lắng nghe theo tiếng nước chẩy, tiếng gió lùa và đi vào Thiền Ðịnh. Những “ba chìm bẩy nổi,” những tức giận, sầu muộn... hầu như không còn “exist” trong tôi trong lúc này nữa. Trong tôi và trước mặt tôi chỉ là tiếng nước chẩy, tiếng gió thổi nhè nhẹ trên các cành lá đang bắt đầu đổi mầu, tiếng chim hót, hình ảnh mấy con vịt trời đang bơi lội trên dòng nước.
2. Tôi lôi cuốn sổ bìa cứng, chiếc bút chì “mechanical pencil” ra và ngồi ngay ngắn trên tảng đá dưới bóng mát của cành cây để ghi lại những giòng chữ này trước khi tôi bắt buộc phải trở lại với đời sống hàng ngày của tôi. Nước vẫn chẩy, chẩy hoài không bao giờ ngưng, đời sống cũng thay đổi từng phút, từng giây, từng “sát na” theo danh từ Phật Giáo. Tôi chợt hiểu rằng tôi không thể nào có thể bắt buộc cuộc đời của tôi đóng khung vào những gì mà tôi ước muốn được. “Let go, let it be!,” tôi nhận thức ra được điều này. Tôi đã, đang và sẽ tiếp tục để cho “cây sậy cuộc đời” của tôi ngả nghiêng theo chiều gió cuộc đời để rồi sau khi “gió đã lặng,” tôi sẽ ngồi im trong tĩnh lặng và “kiểm điểm” xem những gì đã thực sự xẩy ra “as is”... Tôi cảm thấy thảnh thơi vì không bị gò bó theo bất cái khuôn phép nào hết.
Nói thì dễ, nhưng đôi lúc thực hành cũng không dễ như mình tưởng.
Tôi đang cố gắng để giữ cho phần tình cảm của mình ở vị thế “Trung Ðạo,” có nghĩa là tôi không muốn quá vui mà cũng chẳng muốn quá buồn. Ấy vậy mà hôm qua, tôi chẳng làm được như vậy. Chả là, tôi quen biết Bác T. từ năm 1975 khi vợ chồng bác di tản và định cư tại thành phố Toronto này. Tôi quen với con trai của bác và tôi cũng đã gặp bác nhiều lần trong các sinh hoạt cộng đồng.
Có lẽ hai bác tương đối là một cặp vợ chồng sống vui vẻ, khỏe mạnh và hạnh phúc vì tất cả mọi người trong gia đình bác còn được sống nguyên vẹn, điều mà tôi cảm thấy vui mừng khi xung quanh tôi và chính tôi đôi khi thường hay phải đối phó với những đổ vỡ. Tôi đi xe điện ngầm (subway) lên phố, tôi thích đi như vậy vì bây giờ tôi không còn phải quá lệ thuộc vào cái “tight schedule” như những ngày còn phải “kéo cày trả nợ đời” nữa. Ghé qua phố Tầu để nghe tiếng Việt, để nhìn những hoa quả nhập cảng từ Việt Nam, Thái Lan và để ăn một bát mì Việt Nam cho “đỡ nhớ nhà.” Nói vậy cho nó “oai” chứ thực ra tôi đang bị “kiến bò bụng” vì quá đói! Tôi đi bộ từ phố Tầu Toronto đến nhà thương thăm bác vì tôi muốn đi bộ cho “tiêu mì” sau bữa ăn trưa.
Bác nằm im trên giường bệnh trông thật là già, hom hem, miệng bị móm và hoàn toàn khác hẳn với khi bác còn khỏe mạnh. Bác nằm im, nhắm mắt, hơi thở yếu ớt và một mắt đã quầng thâm. Tôi đứng ngắm bác một hồi rồi tôi ghé tai bên trái của bác nói to để “giới thiệu” tên tôi. Tôi dặn nếu bác còn có thể nhận ra tôi là ai, xin bác gật đầu cho tôi biết. Không một phản ứng gì. Tôi ghé vào tai bên phải và làm y như vậy nhưng bác cũng chẳng trả lời. Tôi cầm tay bác, tay đã rất lạnh, cả hai tay tôi nắm lấy tay bác để tôi cố truyền hơi ấm cho bác. Tôi nói to để bác nghe và dặn bác nếu bác nhận ra tôi là ai, xin bác hãy siết tay tôi, cũng chẳng thấy một phản ứng gì! Ngay giây phút đó, tôi chợt nhớ đến những giờ phút chót của cha tôi khi cụ nằm trong bệnh viện tại Montreal. Tôi đã thường lái xe từ Toronto xuống Montreal trong 6 tiếng đồng hồ mỗi chiều Thứ Sáu sau khi đã dậy học xong. Lúc này, cha tôi đã hoàn toàn hôn mê, giống như bác ngày hôm nay! Tôi đã từng ghé cả hai tai bên cụ để nói: “Con đây!” những mong để nói cho cụ biết là tôi đang ở bên cụ. Chỉ là ảo vọng mà thôi vì giữa chúng tôi đã có một “bức tường vô hình chia danh giới” giữa cõi âm và cõi dương! Quãng đường từ Montreal về lại Toronto có những giờ phút rất cô độc, xót xa, helpless... thật là khó quên.
Ra khỏi nhà thương, tôi không còn muốn đi shopping ở trên phố như đã định trước nữa và tôi muốn đi thẳng về nhà. Trong lúc chờ Streetcar, có một cái gì thúc dục tôi phải lấy giấy bút ra để ghi lại những gì tôi đang có trong đầu trong bài thơ “Tiễn Biệt” dưới đây:
Tiễn biệt
Dẫu vẫn biết có sinh và có tử,
Nhưng mà sao tiễn biệt thấy buồn tênh.
Ðời trần gian có nhiều lúc gập ghềnh,
Gặp bác rồi, biền biệt, bác về đâu?
Bác nằm im, nhắm mắt chẳng gật đầu,
Giã biệt bác, hẹn gặp nhau kiếp khác!
(Vô Không)
3. Sương mù đã tan, nắng đã lên, ánh nắng của chớm Thu không còn gay gắt như ánh nắng của Mùa Hè nữa. Tôi đứng lên để tiếp tục đi bộ về nhà và bắt đầu một ngày hoàn toàn Vô Thường như mọi ngày.
Toronto, Canada, Tháng Chín, 2004.
(Nguồn: Tác giả gửi qua Thư viện Sáng tạo)