Những Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối (truyện dài)

Truyện dài, truyện ngắn, tùy bút ...
Post Reply
tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Những Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối (truyện dài)

Post by tinhhoaihuong »

Phần Thứ Nhất
Chương 1

Nghẹn Ngào Nỗi Đau





Bầu trời xanh lơ điểm những hoa mây trắng qùy gối trên mặt hồ sáng loáng như tráng men, mây vắt qua sườn đồi buồn thiu. Mấy con đường mòn đất đỏ vắng tanh bò trên sườn dốc đầy cỏ vàng úa ru tôi vào mộng tưởng hoài mong luyến nhớ vô vàn. Sương mù trắng xóa luôn bàng bạc giữa lưng trời, sương muối to hạt rơi rơi dày đặc bao phủ núi đồi và thấm ướt mái tóc tôi bám bụi nhụy hoa mimosa rung rinh. Có cái lạnh cuối xuân len lén bay về làm tê tê bờ môi vụng dại, lành lạnh ơn ớn, khiến hai gò má ửng hồng. Trong vùng sương mù trắng xóa dày dặc, tôi an phận giữa tiếng tíu tít và giọng cười của các cô gái xa xa vẵng lại. Những tà áo dài trắng hòa với sương mai quyện lẫn vào nhau, mờ mờ lung linh trong màn sương mênh mông… Họ đang vui tươi ôm cặp đến trường.
Tôi chợt cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui khi ngày ngày tôi vẫn bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc đến nơi dạy học. Vợ chồng tôi đã có bốn con. Chồng tôi (Luật) phục-vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng được bao lâu, nay cơn giông đang thấm ướt mái tóc khi tôi đứng lớp giảng bài, thì Luật hớt-hải chạy đến. Có điều gì lo nghĩ đắn đo hay sao khi nhìn vào mắt tôi, Luật đã vội vàng cụp mắt xuống quay đi lãng tránh báo tin động trời chẳng lành:
- Mười ơi! Có lệnh từ thượng cấp cho ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con di-tản gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, cán bộ, nam công chức, thì tuyệt đối phải tử-thủ tại Đà Lạt.
Những khung cửa kính kêu rè rè, vở loảng-xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. Ngoài xa, xa mãi tận hướng Du Sinh, hay Suối Vàng thì phải, từng hồi pháo-kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét tởm lợm, cùng sức nóng rợn người. Lịch sử Việt Nam đang còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn dày vò, bi thảm tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh hung tàn. Tôi sực nhớ đến ngày 9 tháng 3 năm 1974, tại trường Tiểu-học Cai Lậy có loạt đạn 82 ly nổ, hằng trăm trẻ em vô tội chết thảm thiết. Thương tâm xiết bao! Tôi nhớ vào khoảng năm 1973 có một thời người ta ùn ùn leo lên núi Lâm Viên để xin nước của Phật Bà ban phước cho bá tánh, hầu trị tà ma hay bệnh tật. Bà chị ruột của tôi đã đi. Và nữa… một số thị dân Đà Lạt nhiều người truyền tin cho nhau rằng: “Từ những cánh rừng suốt ngày đêm đã xuất hiện nhiều đàn sâu róm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu róm chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe khách, xe đò, xe nhà đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang… đều thấy”. Tôi không biết chuyện đoàn sâu róm bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Cao Nguyên thời ấy, đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện lên chỗ nọ chỗ kia, có cả chuyện mặt trời xoay quanh phụ nữ tiên đứng trong vầng mây ...và đoàn sâu róm xuống vùng biển nầy.
Bây giờ, tôi nghe Luật báo tin sét đánh ngang tai. Tôi càng run sợ tột cùng! Phải cho các em dọt lẹ mà thôi. Tôi thều thào dặn-dò học sinh lo chạy nhanh về với gia đình. Trong trường tôi có cô Phùng dạy sát bên vách lớp. Phùng xin chúng tôi cho vợ chồng và đứa con đi theo. Cuối cùng chúng tôi đồng ý cho ba người ấy đi nhờ xe nhà về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về Sài Gòn bị phong toả, bế tắt, đường bay không có, chính phủ trưng dụng cả hàng không dân sự để làm những việc hữu ích khác. Duy chỉ còn một quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết là chưa bị mất, chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao. Không có một chiếc xe đò chở khách nếu ai may mắn lắm, hoạ may chủ xe cho lên ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người đắt gấp mười lần giá thường ngày. An toàn nhất là ngoại trừ ai có xe nhà.
Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 của mình chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng không biết lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:
- Nhanh lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà. Mẹ, em và các con, cứ lo đi đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gửi từ từ những thứ cần thiết theo xe đò xuống Nha Trang, cho mẹ con em dùng sau.
Trong khi chờ đợi Luật đi kiểm soát xe cộ, châm xăng, dầu nhớt vào xe hơi đầy đủ. Tôi không giàu có lắm, nhưng giờ đây thì thứ gì cũng có thể không còn, tuy lòng tin yêu độ lượng và tự trọng thì tôi không thiếu. Cái gì đời cũng ưu ái cho tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài trái dưa lên nóc, chẳng biết xe và dưa sẽ đỗ lăn mất lúc nào. Tôi dặn dò các con thu xếp gọn gàng những sách vở bút viết cần thiết, bỏ vào mỗi cái cặp riêng của con nên mang theo. Tôi không còn tâm trí để nhớ một cái gì. Vì ngôi nhà đồ sộ nầy sẽ buồn tênh và trống trải, mất mác hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không bao giờ đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết ở nhà mình cả gia tài cồng kềnh quý giá nặng nề, do công khó lao nhọc bao năm vợ chồng tôi từng mua sắm và dựng xây.
Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thật to, dùng khăn ẩm vắt ra từng nắm nhỏ. Tôi gói chà bông, vài ký lạp xưỡng, khô cá, khô bò, mấy kí giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, hai thùng mì gói, mươi bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì, ba tê gan và bơ sữa, muối, đường. Có sẵn nồi xôi đậu xanh, nồi cá thu kho măng với thịt ba rọi, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu còn đầy do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi. Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi lành dữ ra sao, các con trẻ bé dại cùng đi với bạn bè, trên dưới hai mươi mấy người chung chuyến ở hai chiếc xe khác. Nếu bị lỡ đường, chúng tôi sẽ có thức ăn để chia sẻ cho nhau lót dạ. Tôi bỏ trên xe một thùng nhựa 20 lít nước lọc. Hai cái bô có nắp đậy. Mùng, mền, quần áo len, quần áo mỏng, giày, dép linh tinh... cho mẹ chồng, tôi, và các con chu đáo, tươm tất.
Các bạn thân hẹn nhau tập họp ở nhà tôi. Đã gần đến giờ hẹn, nhưng không thấy Luật đâu cả, tôi quá sốt ruột lo lắng vô cùng. Thì ra Luật chạy vào trong Hà Đông báo tin cho gia đình ông cậu Cương của anh, và gia đình bà Tề lo liệu di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết chuyện nhốn nháo ngoài phố ra sao. Thế là Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán hai cây vàng. Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc, năn nỉ mà chả ai thèm mua giúp. May sao có bạn của Luật là chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa đến nhà mua giúp cho cậu. Kim Ngọc chạy giặc có những bọc vải ruột tượng, túi áo túi quần cả gia đình đâu đâu cũng vàng là vàng nặng trĩu. Họ rất sợ mất mạng vì thời buổi loạn ly có hằng tá vàng chình ình cả đống thế kia, chẳng thể nào thu dú đâu được. Gia đình anh cần đi chung với bạn bè, dẫu sao có đông người thân thuộc, là điều rất mừng. Anh tin bạn có thể gửi nhờ bạn mang mấy bọc vàng không sợ bị cướp giật giữa đường. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chả lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng ra? Mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Anh móc túi lấy bốn trăm ngàn đưa cậu, đó là anh trả cho cậu giá rất cao, coi như cho tiền chứ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy nhanh về nhà thu xếp.
Đúng hai giờ chiều là lên đường. Dưới chân đèo Krong Pha nhìn lên Đà Lạt tít mù cao, những bè mây trắng xoá kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi như hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn sô tang mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẩm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, nay hầu hết cây cối xơ xác héo úa. Tôi thực sự xa nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó, còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi, người thân, xóm làng hiền hòa. Không hiểu họ sẽ xoay-xở ra sao khi tiếng đạn pháo ngày càng đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Đoàn xe nhà chúng tôi gồm ba chiếc chạy tới Krông Pha, tôi mới định tâm nhìn mà biết là hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển như xe hơi nhà, xe jeep, xe GMC, xe honda, xe lam, xe ngựa, xe bò... kể cả những người gánh gồnh, vai mang lưng cõng, đều nối đuôi nhau tất tả đi bộ, bàn chân họ cột những tấm quần áo chen lấn trên đường nhựa nóng muốn rộp da, con đường ngày xưa rộng thênh thang nay chật như nêm. Họ lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đi đông hơn kiến. Những bộ hành kiên nhẫn đi vội vàng, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao như thế, lòng tôi bỗng bâng khuâng nỗi đau xót, tim chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi.
Dòng người đen nhịt nối đuôi nhau đi chỉ một chiều xuôi về miền biển… Tôi chẳng thấy ai đi ngược lại hướng núi nơi chúng tôi đang đi xuống. Mãi đến gần buổi hoàng hôn khi gần tới Phan Rang đầy gió cát và nóng bức xé da, tôi định thần nhìn quanh, thấy hàng hàng lớp lớp xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe lam, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô, cùng bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, chen chúc với người và người… tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên con đường chật như nêm, hổn-độn nối đuôi nhau chạy đi, chạy đi... ứ nghẽn. Súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành những đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời. Gầm rú. Hò hét. Chửi rủa. Đánh đập. Đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng! Những xe khác không còn yêu xăng, nên xe ù lì nằm ụ từng đống trên đường chẳng thèm nổ chạy nữa rồi!
Chúng tôi ôm nhau ngồi lặng-lẽ trên xe, cúi mặt thút-thít khóc, lòng tôi rối bời, ngổn-ngang trăm mối, lo-sợ tột cùng. Tôi cho con nhỏ mẹ già di tản, thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi, đông kinh khủng thế nầy. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc và sợ hãi hơn khi bóng đêm bao trùm xuống vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa đinh tai nhức óc mỗi đêm thế nầy!? Lương quân-nhân, công-chức, như “tiền lính tính liền”, rồi sẽ ra sao đây khi bồng bế nhau chạy về nơi vô-định? Mấy lúc trước tôi đã bòn nhặt cất dấu được một số tiền kha khá, (đề phòng khi hữu sự bất chợt như bây giờ, thì có mà chi dùng). Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, anh nghe bạn than thở, là thể nào anh cũng “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được, để anh mang tiền đi đưa cho bạn bè mượn. Cả chục lần thấy chồng ỉ ôi thở vắn than dài, “dằn vặt đay nghiến” tôi như thế rồi. Dù tôi đã quyết dú đút đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạt lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời anh ngọt ngào yêu cầu. Vã lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, bo bo giữ kỹ, thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha. Tôi “dại lòng” trút hết hầu bao, đưa tiền để anh đem cho bạn mượn trước mặt tôi. Thật ra tôi cũng biết hoàn cảnh tùy gia đình mỗi người bạn đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng nhưng quá khốn đốn mới muối mặt nhờ giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi nên tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, thì nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, bữa đói bữa no, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó là tôi cảm thấy quá sợ hãi!
Gió lồng lộng thổi những hàng lau lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi những trái hỏa châu mắt thần bùng nở đỏ bầu trời nghiệt ngã đang đè lên đầu nhân thế, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay vội vã như đàn cừu hốt hoảng té chạy tứ táng trên đồi cỏ khô. Tiếng súng đạn bay vút lên không trung, tạo thành những màn nhện đỏ au đan chéo qua chéo lại, cũng có đường cát tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù tiếng đạn nổ dòn, hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, tiếng côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường bất tận… Đêm cuốn đi bởi dòng cuồng lưu cuồn cuộn xô đẩy nhau chảy theo dòng người đang tìm cách thoát thân khỏi tai trời ách nước. Trời sập tối thì chúng tôi đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu. Có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhất bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt nhất của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật-Nga từ 1904 > 1905 là thế, nay im lìm câm nín.
Đoàn chúng tôi cùng đi gồm: gia đình Trần Văn Ngọc: (mười chín người). Gia đình tôi (sáu người; trừ Luật phải tuân lệnh thượng cấp cùng quân nhân ở lại “tử thủ Đà Lạt”). Gia đình cô Phùng (ba người). Gia đình anh Bàn (mười người). Gia đình Kim Ngọc mười (họ từ giã chúng tôi đi về hướng Phan Thiết, có thân nhân ở đó). Nhà anh chị Trí ở Cam Ranh, (mười tám người, và họ hàng di tản). Nay ở tại nhà anh Trí có thêm đoàn chúng tôi, vị chi tại nhà có cả thảy là 55 người! Kinh khủng quá. Anh chị Trí, mẹ anh, em gái và các con anh chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rã chào đón. Chúng tôi đến bất ngờ, tôi, Phùng, gia đình Ngọc, Bàn, cùng hùn tiền đưa chị Trí nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp vài bữa. Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau thấy chị Bàn nhét tiền vào túi, chị Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ cá. Phút chốc hai ba nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc, đã đọn lên đầy nhóc. Những người mới tới dùng bữa no nê ngon lành. Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá chỉ ăn nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần. Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần chúng tôi an toàn tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là hai gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng gia đình Ngọc. Quý. Cúc. Bàn. Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh trước kia dạy học ở Đà Lạt, hai năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang. Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không?! Còn Phùng về Nha Trang thì bà con hai họ nội ngoại nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, và tìm cách trở về Sài Gòn. Tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi.
Bốn giờ sáng hôm sau, chị Trí lo dậy nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi thật to như hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy quá rẽ so với Đà lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, tất cả ba đoàn xe chúng tôi từ giã anh chị Trí, lên đường đi Nha Trang. Khi tôi tới chỗ trạm đổ xăng, vì xe hơi của tôi cũng cạn, tôi đi tìm hầu hết mấy trạm xăng, không có nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói từ đây về Nha Trang các trạm xăng đều bị hết, khan hiếm, đóng cửa không có xăng từ một tuần nay. Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ hơn mười lít dự trữ, nhưng tôi đã ỷ y là dọc đường có thiếu khối gì trạm xăng, mà lo, nên tôi đã chia xăng cho hai chiếc: xe be, xe lam; là bạn tôi đi cùng đoàn. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, (dù xe của họ cũ, coi thổ tả). Thế là tôi đành bỏ chiếc xe hơi Peugeot 404 mới mua của mình nằm ụ tại Cam Ranh, đúng như Luật nói: Tôi đã bỏ lại tất cả của cải qúy giá, bỏ của hết, chạy lấy sáu mạng người. Mẹ con tôi, mẹ con cô Phùng leo lên xe lam của Qúy chật cứng những đàn bà, trẻ con, cả thảy là mười sáu người. Mẹ Luật và đàn ông, phụ nữ mạnh khỏe khác thì leo lên chiếc xe be không mui. Dạo trước xe be nầy dùng chở cây gỗ, nay chở người. Khoảng hơn hai chục người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi không có bờ vách, họ dùng những sợi dây dừa cột chặt thân nhau (dây nầy xưa dùng cột gỗ) vào với một cây gỗ qúy và đống đồ đạc cao chất ngất. Xe be và xe lam chạy chậm rì, nhưng tôi vẫn lo sợ người ngồi trên xe be có thể lọt xuống đất! Xe không thể chạy nhanh trên đường dài ngoẵng có đủ mọi thành phần và tầng lớp… đông hàng vạn người gánh gồnh đi bộ, có đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng có những chiếc xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật. Xe không có mui che mặt trời nên càng nóng rát. Nhóm người lết bộ tay bồng tay bế các em nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày trẻ lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi lòng thòng. Đến gần ngả ba thì có một chiếc xe hàng mui xe bẹp dúm, bốn bánh xe chổng ngược lên trời quay tít, người trong xe hò hét, máu me lênh láng. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt nhìn đi chỗ khác, tôi tột cùng run rẩy hoảng sợ, tim như muốn bay bổng lên chín tầng mây.
Xe lam của Quý bị hư, cũng do chất đầy người và quá nóng máy, xe lam nhích chạy đường trường không có đèn. Chiếc xe be phải đi sát phía sau dọi đường cho xe lam chạy thật quá nguy hiểm. Đèn pha của xe GMC nào đó dọi sáng trưng, suýt tí nữa thì xe lambretta của Quy chồm tới rất sát xe khách trước mặt, hoặc là chúng tôi nằm gọn dưới lòng xe be! Anh tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng. Bốn bánh xe GMC rít ken két dưới mặt nhựa, tỏa khói khét lẹt. Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy, anh ta đã trải qua bao xuân xanh khiến da mặt anh càng sạm đi trong lúc hiểm nguy nầy? Cả bộ quân phục mặc trên người hình như càng bạc phếch phong trần, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe? Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ con trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết trên đường nhựa, chúng hốt hoảng mệt mỏi quýnh quáng bám theo chân người lớn. Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, nhanh nhẹn, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn sẽ xảy ra không thể lường! Trong lòng tôi ấm ức vì chuyện bỏ lại chiếc xe 404 để leo lên chiếc xe thổ tả nầy! Biết làm sao được khi mình có lòng nhân không hề tính toán đã trút hết xăng cho xe bạn!
* * *
Từ Cam Ranh khởi hành lúc mười giờ sáng, mà mãi đến mười giờ tối đoàn xe ì ạch nầy mới đến Nha Trang. Các ngã ba ngã tư dòng người đang cố chen lấn, giành cướp tí đất sống, vội vàng sát nhập chung nhau để trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang… Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn hay cần liên lạc, thì biết mà tìm nhau. Chúng tôi chia ra nhiều hướng: Gia đình Phan Bàn ở nhờ với bà con của họ tại đường Nguyễn Tri Phương. Đại gia đình Trần Ngọc ở nhà bà con. Vợ chồng Phùng, bà mẹ Luật, tôi, và bốn con thì về nhà bà cô của Phùng. Có thêm chúng tôi, nhà bà cô hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém, dáo dác nhìn trước ngó sau rù rì. Họ tỏ lộ vẻ khó chịu ra mặt bất an sợ sệt điều gì lạ lắm. Hay là họ sợ mẹ con chúng tôi biết họ quá giàu, sinh ra trộm cướp của họ chăng? Sống tại nhà bà con của Phùng ba ngày ba đêm, tôi sợ các con ồn ào, làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Tiểu-học, ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều chúng tôi mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ cơm tối mịt, chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới nền gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà, mẹ con bà cháu đều chui vào nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. Năm giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt thầm lặng vẫn tuôn trào.
Thái độ ngược đãi ấy đã được khẳng định mọi điều dứt khoát rằng: Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang có đủ điều kiện trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi. Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn là mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn ở Nha Trang trong thời gian vài tháng. Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, tôi cũng cảm thông vì nhà nầy không phải là nhà của Phùng. Dẫu sao Phùng có áy náy và hổ thẹn với Luật và tôi. Qua ngày thứ bốn, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn. Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt ông chồng Phùng sẽ về sau lưỡng tiện đôi đàng, Phùng sẽ ú ớ ù lì ngơ ngơ ngáo ngáo, là huề cả làng, khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Mặc tôi xử trí ra sao thì ra. Họ thật là “siêu tổ chức”.
Tôi thật ngây thơ, việc vợ chồng Phùng hứa suông chẳng khác nào đem con đi bỏ chợ. Thà rằng tôi ở lại Cam Ranh, dù sao gia đình anh chị Trí cũng là chỗ thân tình. Vã lại họ còn nợ tôi một món tiền hai trăm ngàn đồng, (do Luật “hứng nợ” đưa cho Trí). Rồi sau nầy cộng thêm nợ mới là Trí nợ một số tiền khổng lồ: Trí bán năm trăm căn nhà tiền chế Mỹ đã tháo gỡ cho dân ấp Vĩnh Linh. Tiền bán nhà Trí thâu tóm hết, vung vít tiêu xài, Trí không chuyển trả cho tôi và ai trong nhóm. Ý của tôi muốn nấn ná ở lại Cam Ranh mười ngày nửa tháng, tại nhà Trí cũng có ý muốn Trí trả bớt tiền cho tôi, sau nữa là để tôi giữ liên lạc dễ dàng với Luật. Dù sao đường đi từ Đà Lạt về Cam Ranh, cũng gần hơn đi Nha Trang, và nơi nầy chưa bị phong toả.


_ * _


thh
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Phố Biển Bơ Vơ

Post by tinhhoaihuong »

Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối
Phần Thứ Nhất
Chương 2


Phố Biển Bơ Vơ




Thứ Hai, ngày 24-3-1975.- Có căn nhà đang cháy trong xóm đìu hiu, (do một người đàn bà bày bàn cúng ra giữa sân nghi ngút khói hương, đã bị gió tạt vô nhà). Bà ta hì hụp khấn vái kêu xin Trời Phật ban ơn lành... cho sống lâu trăm tuổi. Cứ thật thà mà nói, sau vụ bàn thờ ông cha cố tổ bị rầm rộ xuống đường năm xưa, thì tôi có ít thiện cảm để vãng lai tới chùa thăm viếng ai. Điều mà xưa kia tôi rất trang trọng, mến thích tới lui nơi quý “tăng bào lão trượng”, hầu ân cần chia sẻ chum cà, lọ tương, hủ đậu, chùm cây trái ngọt ngon sâu nặng tình nghĩa đậm đà. Vã lại chồng tôi vẫn nghĩ mình già rùi, “gần đất xa Trời”, can chi mà phải sợ chết, lo nọ lo kia cũng rứa hử? Tôi gân cổ lên cãi lại anh:
- Anh nói thật tức cười. Có ai đang sống ở trên đời nầy, mà “gần Trời xa đất” mô nà! Vậy thì đất phải gần hơn Trời là cái chắc. Ta đang đạp hai bàn chân trên đất đi hà rằm đây nè. Khi nào chết mới gọi là “gần Trời xa đất”. Vì ai ai cũng muốn lên Thiên Đàng cả. Chẳng ai muốn xuống đất hỏa ngục ở với Diêm Vương.
Chúng tôi vơ quần áo ra đi lang thang ngoài đường như thế, ban ngày đi ra biển ngồi dưới những gốc dừa, tối về thì xin vào ngủ nhờ ngoài mái hiên của trường Tiểu-học. Qua ngày thứ tám thì gia đình bà Niềm ở đối diện với nhà bà cô của Phùng, thấy thương mẹ con chúng tôi bơ vơ nheo nhóc, họ động lòng trắc ẩn kêu chúng tôi cho đến ở nhờ. Tại đây có một phòng riêng rộng rãi đầy đủ giường nệm mền gối. Muốn nấu ăn thì có sẵn bếp, cứ tự túc. Tôi ứa nước mắt mà mừng vui khôn tả xiết. Thế là cả nhà tôi tíu tít vui vẻ dọn qua bên đường. Vẫn biết là ông bà Niềm quá tốt, nhưng sợ các con thơ dại quậy phá, nên tôi không dám làm phiền họ. Ông bà Niềm có hai người con. Một anh con trai đi lính Nhảy Dù. Một cô con gái tên Thúy Lan làm ở Hàng-không Quân-sự Nha Trang.
* * *
Dưới những gót chân bé tí lún xuống bờ cát mịn, từng vệt chân trần nhòe đi trong sóng khẽ khàng vỗ tan bọt nước. Tôi rón rén bước trên nền cát ẩm với ước mong tí chút hạnh phúc lướt thướt lan theo từng ngấn sương khuya rơi rụng nhạt nhòa trên phố biển. Lòng vẫn dạt dào nỗi hoài mong tiếc rẻ bao nhớ nhung hao gầy. Nỗi nhớ làm cảm quan và lòng mình mềm nhũn, choáng váng, thẩn thờ tiếc nuối, nghẹn ngào tức tưởi bao mộng mơ bạt ngàn lắng đọng. Ngày ngày mẹ con tôi vẫn đi tản bộ ra bãi biển, tắm, ăn cơm hàng cháo chợ. Nhưng chỉ non tuần sau, tôi phải tính đến chuyện tự nấu ăn. Tôi tiếc hùi hịu vì đã để trên chiếc xe nhà của mình ở Cam Ranh hết mọi thứ, chỉ mang đi những túm quần áo cần thiết. Bây giờ tôi mua một cái lò than, các con tôi ra đường nhặt cây khô mục, lá khô, bả mía, để nấu cho đở tốn tiền mua củi. Tôi phải tính toán cân nhắc kỹ từng từng đồng nơi xứ lạ phương xa: mua một nồi nhôm to ấu cơm, một nồi nhôm nấu canh, một nồi nhỏ dùng kho cá, một bình nhôm nấu nước, mua muỗng, đũa, sáu cái tô nhựa, dùng cho khỏi bị bể. Tôi mua củi, gạo, rau, cá. Có ngày trời nắng oi ả, có ngày mưa ào ào, bầu trời miền biển khác hẳn với khí hậu thoáng mát ở miền núi, làm các con khó chịu, mặt mũi lúc nào cũng đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, rôm sảy nổi lên từng đám dày, ngứa ngáy. Chúng ngồi đâu là hai tay gãi sồn sột móc chỗ nầy cào chỗ nọ như mấy chú khỉ con. Tôi lo sợ các con lạ nước lạ cái, sinh ra ốm đau thì nguy.
Sáng sớm, khi các con còn ngủ, tôi lò mò đi chợ, về nhà vội nấu một bữa ăn, mà chia làm hai lần: Một phần ăn vào lúc mười giờ sáng. Một phần khác tôi múc ra trước, để dành ăn vào lúc năm giờ chiều. Cứ ăn uống dọn dẹp rửa ráy xong, mẹ con bà cháu đều tản bộ ra đường nầy qua đường nọ. Chúng tôi thường đứng lại hằng giờ trước cổng một ngôi nhà xinh xinh phủ đầy hoa giấy, thèm thuồng cuộc sống ấm áp gia đình, mà ngậm ngùi buồn xo. Bước chân ngập ngừng e ngại bỗng dưng tôi chùng bước, len lén nhìn vào. Dẫu rằng ngôi nhà bên trong hàng dậu thưa ấy, tuy lạ mà rất quen thuộc trong lòng tôi. Hình ảnh hai ông bà cụ nơi bồn hoa thắm đỏ vớì vòi sen phun nước, bước chân họ chậm chạp di động, khẽ khàng dẫm trên nền gạch, khiến lòng tôi chùng xuống nỗi tiếc xót ngậm ngùi.
Tôi nhớ những bọt nước đã rơi xuống vệ cỏ ven đường. Con tim tôi rung lên từng chặp như nhắc nhở tôi nhớ về hàng hoa anh đào thuở nhỏ trong ngôi biệt thự của ba má ở tại đường Quang Trung (dưới ga Đà Lạt) mà nấc lên từng cơn. Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng đôi mắt cứ dán chặt vào mỗi gốc cây trong ngôi nhà nầy. Tưởng như mới ngày nao tôi đứng tỉa cành già hái lá vàng trên cây cảnh ấy nhỉ!? Nay đã ba mươi năm rồi! Cảnh vật và con người từ tha nhân cho tới chính mình đã biến dạng ngoài sức tưởng tượng! Không ai có thể cứu lấy mình, chứ nói chi đến chuyện cứu người. Thời buổi nầy “làm người” thật khó khăn: Nếu tôi có chút của cải, có máu mặt xí, thì bị hàng xóm và bạn bè dòm ngó và coi chừng… tôi là gián điệp! Nay tôi làm tên hành khất, thì bị coi là bôi bẩn chính thân, bị miệt thị, bị xô ra khỏi xã hội và tụt xuống đáy bần cùng. Thật khó sống làm sao khi người dân thị thành vẫn tấp nập, dáo dác ùn ùn kéo nhau đi đâu mà đông đúc quá?
Bình minh dâng cao trên đầu hay hoàng hôn tàn dần, bóng râm từ các vách đá lan ra, buông xuống đường chân trời xa tít tắp một màu đen. Mẹ con bà cháu tôi không biết làm gì, là ra biển ngồi hóng gió. Chúng tôi ngồi nhìn từng con tàu lớn đậu ngoài xa xa, các con tưởng tượng nhiều điều thú vị, các con theo dõi và biết ngày nào con tàu nầy đến bến, ngày nào con tàu kia đã ra đi. Tàu thuyền trên sóng nhấp nhô, có chiếc lênh đênh trên đại dương, chiếc ra khơi, chiếc vào bến đậu. Tuy mục đích có khác nhau, nhưng con tàu cùng lênh đênh bồng bềnh chơi vơi cỡi trên ngọn sóng lớn. Tôi không dám ước mơ hay hy vọng, dù niềm hy vọng bé tí xíu. Tôi giống như ông lính già cô độc, hụt hẫng, run rẩy trong một pháo đài bị vây hãm.
Trời và biển Nha Trang xanh lồng lộng, gió hây hây thổi. Mặt biển là thảm hoa cương óng ả lấp lánh mênh mông. Thấy trẻ nhỏ vô tư nô đùa trên biển, các con ưa thích vỗ tay và ngẩn ra nhìn. Dù bảo thế nào các con vẫn e dè, sợ sệt vì các con không quen, chưa bao giờ cởi áo quần ra giữa chỗ đông người. Tuy các con đến với biển mỗi ngày, nhưng chúng chưa dạn dĩ. Nhìn sóng biển trắng xoá xô bờ, các con nhút nhát co chân, cảm thấy sợ. Các con chỉ dám xăn quần lên tới đầu gối, hay mặc áo quần dài mà reo vui bì bõm vọc nước sát bờ, khi sóng vừa bén chân, các con cảm thấy chóng mặt, vội vã túm nhau chạy lên cát khô, y như các con sợ nhúng chân vào nước nóng.
Cái thú duy nhất của các con là cùng nhau chạy đi rượt đuổi những con còng. Kể ra các con cũng khôn, biết mò ra chỗ để bắt ốc, bắt còng về luộc ăn. Con còng, con ốc cũng khôn không kém. Con còng chạy rất nhanh, thoáng một cái, chúng cố tìm mọi cách thoát thân đằng nào thật lẹ. Bao nhiêu lần các con không bắt nỗi. Nhưng có một hôm các con tôi làm thành một hình tròn to, rồi từ từ khép chặt vòng tròn vây quanh mấy chú còng lêu khêu. Ba đứa con bò chầm chậm bò dần dần tới bên con còng, và các con đồng loạt ụp cả người lên con còng què chân ngố ngáo. Tôi cười thầm: “Con còng bị què làm chi tội rứa, nên mới bị trẻ bắt sống hỉ!”. Thế là chú còng bẹp dí. Bé Tu giơ chú còng lên trời, cười ha hả. Có một hôm, mấy con đang tắm, thì bé Hy ị ra quần, thối um. Cả nhà cười vang. Tôi thương các con bị đói khát nhưng biết thân phận mình con không dám đòi quà bánh. Bé Dzu mười tuổi, bé Tu tám tuổi thường cõng bé Tồ một tuổi trên lưng, Tu dụ em đi ra ngoài gốc phượng nhặt hoa rơi, mấy anh em xếp thành từng đống cho em chơi để em nhỏ quên đói, không đòi bú mẹ. Khi ta có đủ thứ trong tay, mình xem thường các thức ăn. Nhưng, bây giờ sống trong cảnh đói khát, nằm gai nếm mật, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ, bơ vơ bất vất, thì dù những thức ăn tầm thường nhất, tôi cũng quý. Mới thấm thía buồn và cảm thấy đau nhừ, như ai dần từng khúc ruột, tôi tiếc ngẩn ngơ những cái đã mất.
Thật ra, chúng tôi đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chẳng ai cấm tôi gào thét, thi gan cùng biển cả mênh mông. Nhưng tôi không còn tâm trí nào mà tắm táp thoải mái ngoài biển. Tình cảnh mẹ con tôi bây giờ là thế! Chín giờ tối về ngả lưng trên cái giường rộng. Có một điều là muỗi. Vô số muỗi nên dù ngày nào ở nhà, không đi biển, thì bà cháu mẹ con ở ngoài sân trường học, hay ở trong nhà có quạt máy vù vù trên trần nóng hầm hập, chúng tôi vẫn dùng quạt giấy, quạt phành phạch suốt. Cuộc sống di tản của chúng tôi có lẽ từ nay là những ngày tháng mòn mỏi đợi chờ thật dài. Khiến tôi mất hẳn ý niệm về cuộc sống. Tôi như con ốc sên nhút nhát thu mình trong vỏ mất hết bản năng sinh tồn. Nhụt chí và chán nãn dường bao! Thời gian nhàn hạ ở đây thật vô vị và mù tịt, tôi không hề biết ất giáp gì về chuyện trong nước đang hỗn loạn. Ngày nào cũng như ngày đó do nỗi lo lắng, sợ hãi đói khát cứ trỗi dậy trong lòng tôi. Sự khốn cùng càng tăng mãi. Niềm hy vọng mỗi lúc một vơi cạn.
***
Mẹ con chúng tôi đến thăm Oanh, nhà Oanh ở trong một biệt thự nho nhỏ xinh xinh tại Xóm Mới, có vườn cây rợp bóng im mát, gia đình ba má Oanh là người Huế, hiền lành, vui vẻ thực thà. Hai bạn gặp nhau mừng rỡ trào nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi thì thầm chuyện trò. Từ thành đến tỉnh, đâu đâu cũng bàn tán xì xào chuyện chính trị và chiến tranh mà tôi chúa ghét. Mặc dù ba má Oanh có dành cho gia đình tôi một phòng nhỏ, nhưng tôi sợ các con dại sẽ làm phiền họ, nên từ chối. Tôi nghe chán tai: Khi thì đã mất nước tới đèo Hải Vân. Mất nước tới Đà Nẵng... Có lẽ đất nước nầy chia ra làm ba thành phần. Lại nghe đồn từ vĩ tuyến 13 trở vào Cà Mau, là của chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tin Bỏ vùng nầy, bỏ vùng kia. Khi thì nghe người ta bàn tán Việt Nam sẽ trung-lập. Sẽ có chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt. Sẽ hoà bình: Đó là tiếng pháo bông nổ lớn trong đêm tối đen mừng ngày đất nước thanh bình, hay báo nguy lầm than, cơ cực, nghèo đói, chia ly, và thanh trừng nhau tràn ngập trên đất Việt vào một ngày không thể ngờ tới?!
Trong khoảng thời gian qua, Luật theo lệnh thượng cấp phải tử thủ ở Đà Lạt, anh đã gửi về địa chỉ nhà Oanh cho tôi thêm quần áo, mền, mùng, nồi niêu son chảo, vân vân… cùng tám chục ngàn đồng tiền lương hai tháng của vợ chồng chưa kịp lãnh. Anh gửi nhờ những chuyến xe quen, người chủ xe đò đã đến giao cho Oanh, nhờ Oanh chuyển cho tôi, cùng mấy lá thư Luật dặn dò mẹ con tôi “phải cố gắng, bằng mọi cách tìm đường di tản về Sài Gòn” gấp. Anh báo là đã mất Bamêthuột và Huế. Oanh kiểm chứng tin Luật đã báo, thì đúng y bon, bà con của Oanh từ Huế, nườm nượp di tản bằng thuyền đánh cá của họ chạy ra Nha Trang, họ kể lại là Huế đã đi vào cửa ngỏ cuộc chiến. Nghe đâu Đà Nẵng rất lộn xộn, gần như thất thủ nơi ấy. Gia đình Oanh không tính đi đâu cả, có chết thì chết ở xứ nầy, vì họ còn một bà cố già lụm cụm tám mươi tuổi, nếu đem theo chạy loạn thì không được, mà để cụ ở lại một mình với mấy căn biệt thự, càng không thể. Tôi chỉ nhận tiền Luật gửi về Oanh, còn tất cả đồ dùng kềnh càng, tôi gửi lại trong nhà kho của Oanh. Tôi hốt hoảng chạy tới nhà của anh chị Bàn đã thuê, hầu báo tin chẳng lành, cùng những lời Luật nhắn nhủ. Tôi vui mừng thấy gia đình Ngọc, Quý, Cúc đã về tá túc ở đây vài hôm trước rồi. Các bạn khuyên tôi nên về ở chung nhà, nếu có bề gì, thì hú nhau một tiếng, cùng giúp nhau chạy. Tôi nghe phải, nên về nhà bà Niềm thu dọn ít bọc quần áo trẻ nhỏ, cám ơn ông bà chủ nhà, rồi đến ở chung với các bạn.
Chủ Nhật, ngày 30-3-1975 - Đến ở trong ngôi nhà tôn vách đất thấp lè tè, nóng như thiu đốt. Chúng tôi góp chung tiền ngày ngày đi chợ nấu ăn hai bữa, một bữa ăn lúc mười giờ rưỡi, (thay cho buổi sáng và trưa nhập thành một bữa). Một bữa ăn lúc sáu giờ chiều. Ngày nào cũng từng ấy thứ: Nồi cơm thật to, nồi canh rau muống trộn mì gói hiệu ba con tôm to tướng, cá kho rim thật mặn đổi món mỗi ngày. Họ nấu ăn bằng bả mía phơi dôm dốp vài nắng, thì khói bay mù mịt, cay xè mắt, nước mũi chảy tùm lum. Ba thằng con trai lớn, (hai đứa con của Ngọc, một đứa con của tôi) thay nhau nằm dài xuống đất, phồng má thổi lửa phù phù. Bụi tro, khói, đất, bay lên đầu cổ, mặt mày chúng đỏ rần. Dù ở đây có phần tù túng khổ sở hơn ở nhà bà Niềm, nhưng có bạn cùng cam chịu đựng, tôi cảm thấy đỡ sợ, yên tâm hơn.
Sau những bữa ăn sum họp vội vã, nhà nào nhà nấy ai ai cũng tự ra ngoài đường, ngoài chỗ đông người, để nghe ngóng thu nhặt tin tức. Chúng tôi lo lắng sợ hãi, cùng đường quẫn trí, rối bời đầu óc, bồn chồn cùng nhau bàn lui tính tới hết cách. Kết luận cuối cùng là giả thiết từ bây giờ cho đến khi nào Nha Trang bị lung lay, nếu trong nhóm nầy ai có phương tiện thuận lợi nào, thì cứ lo cho gia đình đó vượt thoát. Chứ sợ e lúng túng với một đám trẻ con trên dưới mười sáu đứa, không kể người lớn, đông người như thế nầy, thì chẳng biết làm sao có thể di chuyển chung chuyến xe, chuyến tàu, như khi chúng tôi ở Đà Lạt đã cùng nhau chạy đi. Tôi thật buồn và vô cùng tuyệt vọng nghe chị Bàn đã đi thu lượm tin tức ở ngoài bến xe về, chị nói:
- Ngày 11-3-1975. mất Ba Mê Thuột.
- Ngày 26-3-1975. Huế đã thất thủ. Bây giờ là Đà Nẵng. Ở các bến xe khách, hải cảng, cũng như ở phi trường dân sự, người ta đông hơn kiến, chen chân không lọt. Đông vô số kể. Ai muốn đi về Sài Gòn, thì phải ghi tên trước cả tuần, sau khi được gọi, phải mua một chỗ ngồi cả bạc triệu, hay đóng mỗi đầu người hai lượng vàng. Ai muốn sống cứ thế mà tính, không cò kè bớt một thêm hai. Nếu chần chờ không kịp nộp tiền, thì có người khác “xí phần” đưa tiền hoặc vàng ra ngay. Chiều nào cũng thế mẹ con bà cháu nhà tôi không biết làm gì cho hết thì giờ nhàn chán và nôn nao lo lắng, nên chúng thơ thơ thẩn ra biển. Con sóng lớn ập tới, tôi bị lún xuống sâu tưởng chừng như muốn quỵ đôi chân. Tôi bị hất lên hụp xuống và chao đảo khi hai tay đập loạn xạ trên mặt nước. Càng vùng vẫy tôi tưởng như đang nhận chìm mình tụt tong tong xuống vực sâu. Tôi sợ.


_ * _


thh
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Post by tinhhoaihuong »

Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối
Phần Thứ Nhất
Chương 3


Ân Tình Ấy Không Thể . . .





Thành phố thơ mộng đầy cát trắng với những hàng dừa nghiêng mình soi bóng ven bờ biển Nha Trang tuyệt vời, nay đã có nhiều tiếng nổ và tiếng động quái dị lan nhanh theo xe cộ tất tả chạy ngược xuôi. Họ bồng bế nhau dứt khoát ra đi quay lưng ngoảnh mặt phản bội với quá khứ đã một thời nâng họ lên đài danh vọng. Từ nơi vừa vội vàng đến chưa quen thuộc phong thổ, chưa trìu mến luyến lưu gửi lại bạn và tôi niềm tin vui sống, thế mà tôi nơm nớp lo âu mong muốn tất tả rời xa chốn nầy để ra đi chạy trốn, nhưng biết làm sao trốn đi đâu!? Đi đâu? Chính nơi đến và sẽ ra đi trong sự ngao ngán, phiền muộn lo lắng băn khoan tột độ cùng trái tim dày vò tan nát đau buồn! Tôi cúi mặt loay hoay len lén đào tẩu chính bản thân khi nắng chiều lịm dần vào bóng tối. Nơi sinh mạng con người bây giờ đang rớt vào cảnh lâm nguy khẩn cấp và rẻ hơn cỏ rác. Cảm nghĩ chân tình của tôi thẩm thấu và bùng vỡ qua những đường đạn đạo xuyên trong buồng phổi, trái tim, túi mật lá gan mình.
Một chiều bất ngờ vào đầu tuần tháng Tư, tôi gặp Thúy Lan (người bạn sơ giao trong những ngày mẹ con tôi ăn bờ ngủ bụi tại miền cát trắng) Thúy Lan mừng lắm, hỏi:
- Sao chị không lo ôm con chạy vào Sài Gòn gấp đi. Ở đây sắp mất rồi. Không biết sao?
Tôi khóc ròng. Như ếch ngồi đáy giếng, như trâu chậm uống nước đục, tôi nào hay biết gì về bàn cờ thế cuộc từng giờ chong chóng đổi thay và sự triệt thoái của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Vã lại, nếu biết, tôi cũng không thể chen chân đến rừng người ở bến xe, bến tàu, phi trường, hải cảng, hay bất cứ nơi nào có thể vượt thoát, khi đêm đêm nằm chập chờn trăn trở trên giường lạ, mơ từng cơn ác mộng mà giật thót người đã xốc ngược tôi ngồi bật dậy, mồ hôi hột vã ra như tắm ú ớ gào rú rên la. Tôi chỉ còn hai bàn tay trắng cắp kè kè một nách bốn đứa con thơ với một mẹ chồng bảy mươi tuổi! Tôi không thể làm gì hơn. Không thể!
Thúy Lan cúi đầu suy nghĩ giây lát. Cô vội lấy giấy bút ra hí-hoáy viết, rồi đưa tôi, dặn dò:
- Chị đưa con đến địa chỉ nầy, sẽ có người giúp về Sài Gòn ngay. Đi gấp nha. Chào chị, em rất bận.
Như kẻ chết đuối gặp chiếc phao, tôi không ngớt cám ơn bạn nhỏ, mừng kinh khủng tôi cầm chặt tờ giấy thế mà vẫn sợ rơi, nên đứng lại, vừa thở dốc tôi cẩn thận xếp tờ giấy Thúy Lan viết bỏ trong túi áo, rồi gài cây kim băng to lên túi áo cho chắc ăn. Tôi cắm đầu chạy thục mạng mà mừng khôn tả xiết. Tôi đã gặp quý nhân Thúy Lan tận tình giúp đỡ, (như một phép lạ không một điều kiện hay do một sợi dây tình cảm luyến ái nào ràng buộc, ngoài lòng nhân và đức ái của cô). Còn tôi, có thể do hồng phước nhân đức của cha mẹ để lại, kiếp nầy cha mẹ tôi ăn ở hiền lành đức độ đã ra tay làm phước nhiều, nên bây giờ con cháu được hưởng lộc chăng!? Tôi vội về gặp các bạn báo tin là tôi đã có phương tiện di chuyển về Sài Gòn. Đồng thời biết gia đình Trần Văn Ngọc cũng chờ chuyến xe về Sài Gòn có lẽ ngày mốt là xong. Riêng gia đình chị Phan Bàn quyết định chờ tin tức anh Bàn, nên họ ở lại Nha Trang. Tôi vội lo thu dọn mấy túm quần áo mang theo phòng thân. Tôi bịn rịn chào các bạn.
Mẹ chồng cùng hai con lớn ngồi một chiếc xích lô. Tôi và hai con nhỏ ngồi một chiếc xích lô khác. Vì đi bộ từ đây đến phi trường rất xa. Ngộ lỡ bị trễ giờ phi trường khoá cổng, không cho ai vào nữa, thì nguy to. Trước khi lên xe xích lô, tôi mua sáu ổ bánh mì nhỏ xíu (không có nhưn), để phòng hờ. Vì lúc mười giờ sáng nầy các con chỉ ăn qua loa nửa chén canh bún lỏng bỏng nấu với rau muống, thay thế cơm cho cả ngày, tất sẽ bị đói meo. Trên bước đường lưu lạc từ Nha Trang về Sài Gòn, không biết sẽ diễn ra bao điều âu lo khác, vẫn cần có tiền tôi mới có thể quyết định mọi việc nơi phương xa xứ lạ. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô, các con tôi rất thích thú hí hửng vui mừng, vì ở Đà Lạt các con chưa hề thấy loại xe xích lô. Đặc biệt ở Nha Trang là đa số các chàng trai trẻ làm nghề “chạy xe rong” nầy hồn nhiên vui nhộn, đa số họ ưa rung chuông inh ỏi và ca hát nghêu ngao trên đường đi, nghe thật vui tai.
Xuống xe xích lô tôi vội trả tiền, lật đật chạy tới xuất trình giấy tờ ở trạm gác cổng doanh trại Không-quân Quân sự. Tôi trở lại chỗ mấy bà cháu đang ngồi bên vệ đường lấy bánh mì ra cho bà và mẹ con ăn. Các con ăn hết ổ bánh mì vẫn thòm thèm hoặc còn đói. Bé Tồ đói nên quấy hơn mọi ngày, con cứ rúc vào vú mẹ đòi bú vú da, khổ nỗi từ ngày “chạy giặc” đến giờ, bao nhiêu năng lượng đã cạn kiệt, thì làm sao có thể vắt ra sữa cho con! Tôi muốn mua bánh mì cũng không thấy khu nầy có câu lạc bộ, không một hàng quán, hoặc có người gánh hàng rong đi lại bán dạo ở bên ngoài. À, đây là khu quân sự mà. Khoảng mười lăm phút sau thì đóng cửa cổng gác. Ôi đại phước! Nếu chúng tôi chậm vài phút thì hết cách rồi! Thật là chỉ có Trời có mắt cứu nguy. Tôi dặn dò các con ngồi một chỗ với nhau, không được chạy lung tung sẽ bị lạc mất.
Chúng tôi được gọi tên vào cổng và dồn chúng tôi ngồi xuống một góc ở ngoài sân dưới hàng phượng đỏ rực, cùng những người lạ khác rất đông chờ đợi gọi tên để vào trong văn phòng làm việc. Qua những thủ-tục do an ninh Quân-cảnh kiểm soát chặt chẽ, trật tự, cần thiết, cấp bách. Những đoàn dân di tản được lọc lại thành từng gia đình, có ông thư ký đánh máy tốc hành ghi rõ tên họ trong danh sách chuyến bay. Họ dẫn gia đình tôi qua một phòng trong phi trường. Ở đây đã có rất nhiều người im lặng hoặc rù rì chuyện trò nho nhỏ. Thỉnh thoảng có một quân nhân Việt Nam áo quần tươm tất ra đứng trên thềm nhà, anh ta gọi từng tốp người có tên trong danh sách đã ghi, dù máy phóng thanh mở hết cỡ mà vẫn nghe không rõ, vì do những chiếc máy bay quân sự luôn gầm rú ngoài phi đạo làm điếc tai. Thời gian mỏi mòn chờ đợi dần qua, thoáng chốc gia đình tôi đến lượt được gọi tên. Họ dẫn chúng tôi vào đứng xếp hàng trước một phòng khách rộng đông người gấp hai lần ở ngoài sân. Những dãy phòng ăn thông với nhau có điện giữa ban ngày sáng trưng, có máy lạnh mát rượi. Mặc dù trên đầu phi cơ quân sự không ngớt gầm rú, nhưng nơi đây không đến nỗi ồn ào chen lấn, có trật tự hơn.
Nhìn những mệnh phụ phu nhân phù phiếm rực rỡ xa hoa quần là áo lụa chưng diện trong phi trường, mà bẽn lẽn! Giờ phút vắt giò lên cổ “tẩu thoát thân” nầy, nhưng lắm bà trưởng giả còn có thì giờ tô tréc phấn son cẩn thận, mái tóc chải bồng, móng tay móng chân đỏ chói, đi sau đuôi mấy bà có vài cận vệ tay đùm tay xách cong lưng chạy lui chạy tới khệ nệ khiên vác nhiều chiếc va ly da cồng kềnh khá nặng và đắt tiền mới toanh. Thùng giấy to đặt dưới chân họ mới và sạch sẽ. Những người cùng vào xếp hàng ở đây thân tỏa mùi nước hoa Ici, Neblina, hoặc Ode à L’amour rất thơm. Còn loại túi xách tay là thứ sang trọng mang hiệu: GUCCI made in Ilaly– LOUIS VUITTON Paris – SIENNA RICCHI ở hải ngoại du nhập về Việt Nam.
Tuyệt nhiên không một ai có “tay nải” cũ mèm bẩn thỉu xấu xí dị hợm, khiêm nhường, nghèo nàn coi thô thiển quê mùa hết chỗ nói như hành trang của tôi. Đến nơi nầy, tôi mới nhận thấy tình cảnh hèn kém chua xót bi thương cùng khổ của mình trong những ngày ly tán trắng trợn phơi bày quá tệ, quả là đáng thương xót xiết đỗi! Tôi lúng túng ngượng ngùng cúi xuống len lén che dấu gói hành lý thô thiển hèn kém dưới gót chân kẻ làm vợ, làm mẹ đã mười năm qua vẫn thấp hèn với anh chồng lính. Tôi cảm thấy thật buồn vì số phận mình sao đắng cay bạc bẽo, khổ cực và phũ phàng tệ mạt đến thế. Tôi đau xót không kém phần tủi hổ̉ (thật phí hoài không gian và thời gian về tuổi trẻ tràn đầy nhựa sống: một thiếu nữ tri thức nổi danh người đẹp biết chừng nào khi trao thân cho người chồng không danh phận, để rồi anh ấy đã đẫy vợ con đến bước đường cùng nầy). Tuy nhiên lúc ngồi bó gối trên nền gạch vò đầu bứt tóc bứt tai suy đi nghĩ lại cho cùng thì... bộ quân phục của chồng tôi và những bộ áo tác chiến mà những quân nhân đang mặc trên người kia, nào có khác chi nhau!? Đó là niềm vinh dự tự hào rất kiêu hãnh của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (và dĩ nhiên cả cô vợ lính tự hào về phong độ: quốc hồn quốc túy quốc ca quốc thiều quốc huy quốc thể quốc gia Việt Nam); đồng thời mỗi người không phân biệt cấp bậc quan hay lính: họ đều gánh vác trên vai tất cả trọng trách, nghĩa vụ, bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông và quyết giữ gìn quê hương an thịnh trường tồn. Nếu có người đi di tản về Sài Gòn đông đúc kinh khủng, ấy là do ai ai cũng mong Mỹ và quân-lực Việt Nam Cộng Hoà ra tay làm việc nghĩa cứu vớt mình thoát nhanh ra khỏi vùng đất khốn đốn, nơi có nguy cơ khói lửa chiến tranh ập vào, hay có thể sẽ bị xâm chiếm, bị bom đạn tàn ác dội lên đầu không tiếc thương. Thế thôi.
Lần chót, chúng tôi được gọi ra ngoài sân bay đứng chờ gần chiếc phi cơ quân sự khổng lồ quay cánh quạt vù vù. Họ đang gọi tên những tốp dân đã ghi danh trước tôi đi lên chiếc phi cơ nầy. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tóc tai quần áo mọi người bay phần phật. Hai tay các con tôi nắm chặt lấy hàng dây thép gai, hoặc những cột trụ rào sơn màu trắng xanh xanh đỏ đỏ. Đây là lần đầu tiên trong đời các con tôi được thấy tận mắt những chiếc phi cơ to tướng gần thật gần. Các con vui mừng chạy ra dán mũi sát vào cửa kính, con ở lì một nơi để chằm chằm xem những chiếc phi cơ bay lên, đáp xuống. Chốc chốc các con lại hí hửng chạy vào chỗ tôi ngồi: khoe đã thấy nhân viên hàng không lo tới tấp bốc hàng, hoặc có chuyện lạ xảy ra những gì. Bé Bi chạy tới một chiếc thùng gỗ trèo lên đứng ở đó, để nhìn những chiếc máy bay cho rõ, rồi con lại tụt xuống đất, chạy đến chỗ gần cánh cửa sắt. Bé Bi dù sống cảnh di tản màn trời chiếu đất, ăn uống thất thường nhưng vẫn còn là đứa trẻ bụ bẫm, tròn trịa mủm mỉm xinh xắn, bé mặc bộ đồ bay màu xanh da trời, nên ai nhìn bé Bi cũng thấy cháu hồng hào dễ thương. Chiếc phi cơ khác từ từ quay đi ra phi đạo thì gió từ những cánh quạt ào ào thổi, làm cho mọi người đứng bên hàng rào muốn té nhào. Không hiểu sao Bé Bi nắm lấy tay một bà Mỹ mặc áo đầm vàng, bà có đôi mắt xanh ngọc, mái tóc vàng hoe. Bà ta ngập ngừng chốc lát rồi đặt chiếc va ly xuống đất, bà lấy trong giỏ xách một hộp bánh ngọt đưa cho bé Bi, bà chỉ tay về phía cửa kính bên trong hàng rào, nơi mọi người đang đứng chờ. Nhưng thằng bé không nghe, không hiểu, hoặc mãi nhìn những chiếc phi cơ, mà nó nắm chặt váy đầm bà Mỹ kéo rị lại. Bà Mỹ trắng nầy cứ nhìn bé Bi và nhìn quanh quất hoài. Có lẽ bà Mỹ nghĩ con cái nhà ai bị thất lạc trong lúc cả nước hổn độn chạy loạn?! Đến phiên bà Mỹ tiến bước ra cổng phi trường để lên chiếc máy bay kia, thì thằng bé nhà tôi vẫn túm chặt váy áo bà Mỹ líu ríu đi theo bà, nhưng thằng bé Bi bước đi mà luôn luôn ngoái cổ lại đăm đăm nhìn chiếc phi cơ đáp xuống trên phi đạo.
Tôi cúi đầu vạch áo cho bé Tồ mút vú da, khi ngẩng lên nhìn ra hướng phi cơ, tôi thấy có đứa nhỏ con ai hình như giống con trai của mình, mà đang nắm chặt váy của một phụ nữ Mỹ khiến váy đầm bà ta giảng dài ra lôi theo thằng nhỏ?! Quay lại nhìn lui nhìn tới, nhìn quanh, thì quả thật tôi thấy thiếu mất bé Bi, nó không còn đứng trên cái thùng gỗ kia nữa. Tôi hốt hoảng bỏ thằng bé Tồ đang cắn kéo cái vú của tôi dài ngoẵng ra đau điếng.
Tôi đứng phắt dậy hoảng hốt kêu réo to thật to:
- Bé Bi. Bé Bi. Úi Trời ơi! Mẹ đây nầy con.
Khổ nỗ̉i thằng bé không thể nghe được vì tiếng phi cơ nổ ầm ầm inh ỏi gầm rú. Đồng thời lúc đó con trai trưởng của tôi là bé Dzi nghe tôi la hét, con nhìn thấy tôi chỉ tay về hướng bé Bi, bé Dzi cũng thấy bé Bi ngố ngáo từ từ theo đoàn di tản đi ra ngoài chiếc C 130 khác. Bé Dzi hoảng hồn nhanh nhẹn bò lòn qua lớp hàng rào sắt, con tức tốc chạy chạy... chạy rõ nhanh tới bên bé Bi, lôi giật thằng em đứng khựng lại. Thằng bé Bi ngơ ngác nhìn lên bà Mỹ, nó vội buông váy của bà ta ra. Hai anh em túm cánh tay nhau cùng tất tả chạy về chỗ cũ. Hú hồn hú vía! Tôi mừng rỡ điên người mà khóc hụ hụ hụ, vừa bai bải la mắng mấy đứa con trước mặt mọi người lạ không biết xấu hổ, chỉ vì tôi sợ mất con. Kể từ giờ phút đó, tôi lấy một sợi len dài cột cườm tay đứa nầy dính với cườm tay đứa kia, và bắt các con ngồi bệt xuống nền gạch ở yên một chỗ, không được đứng dậy xớ rớ dòm ngó chi cả. Tôi giữ các con chằn chằn sát bên.
Thật ra, nào biết đâu bé Bi lúc đó mới năm tuổi, nếu con đi với bà Mỹ, thì sau nầy con không biết cha mẹ là ai! Ở nơi xứ văn minh tột đỉnh giàu sang kia, có thể đời con sẽ ấm êm sung sướng hạnh phúc hơn ở với cha mẹ chăng?! Cũng có thể... ngược lại. Nhưng... Thôi con ơi, nếu con ở nơi quê hương với tổ tiên ông bà cha mẹ, có đói khổ nghèo hèn, cũng còn mẹ cha anh em ruột thịt yêu thương chí tình đùm bọc ủi an sum họp bên nhau. Sau nầy nếu gia đình mình có may mắn trở lại giàu sang như xưa, hoặc vô phúc lâm vào cảnh hoạn nạn đói khổ, thì mình cùng chia sẻ ngọt bùi, dắt díu nhau mà bước trên con đường gian truân. Mẹ không thể rứt ruột đem con thơ đi bỏ chợ bơ vơ lạc lõng ở xứ người lạ hoắt cho đành. Xin lỗi con.
Đợt người di tản thứ ba đã tuần tự được gọi tên lên phi cơ. Tôi lo lắng nghĩ vơ nghĩ vẩn và cảm thấy bồn chồn nóng ruột lạ lùng, chỉ sợ bị sót tên, hoặc vì lý do nào đó bị đình chỉ chuyến bay. Thì chết thôi! Hai sĩ quan Không-quân đã đọc danh sách lúc nãy đích thân dẫn đoàn người di tản, trong đó có tên gia đình tôi mang số chuyến bay 449 A. Tôi để các con đi trước, cườm tay con vẫn cột sợi len mà run run leo lên chiếc phi cơ C–130 “há toát mồm”. Lúc ở xa xa trong khu hành lang tôi nhìn thấy chiếc phi cơ nhỏ, nhưng khi đến bệ cầu thang sắt nối liền với đuôi phi cơ, thì thấy phi cơ nầy to lớn lạ thường. Từ đuôi máy bay dọc theo lòng phi cơ có bốn hàng ghế, hai hàng ghế giữa đâu lưng vào nhau, bốn hàng ghế đệm bọc nhung màu huyết dụ rất êm đang “mở cái đuôi toang hoác mồm ra”, để lần lượt đón từng gia đình trèo lên. Chúng tôi run rẩy leo lên phi cơ vẫn nổ máy ầm ầm, quay đều chong chóng. Bà cháu mẹ con tôi ngồi ở hàng ghế tít trên cùng, gần cửa phòng lái. Chiếc máy bay nầy mang chúng tôi ra khỏi vùng đại nạn khói lửa binh đao. Biết đâu nơi Nha Trang sẽ diễn ra bao đau thương tàn khốc nay mai.
Ôi! Sung sướng làm sao! Hạnh phúc vô ngần khi tôi ngồi trong lòng phi cơ, mà cảm thấy như đời bay bổng lên đào nguyên tiên cảnh. Chiếc “mõm hàm ếch” từ từ khép miệng lại, nhốt trọn mấy trăm dân di tản vào trong lòng phi cơ. Các con lớn đứa nào đứa nấy tóc tai quần áo ướt nhẹp mồ hôi, hai má đỏ rực vì nóng, chúng được tháo sợi len rồi, cứ chồm ra nhìn xuống những ô cửa vui vẻ hí hửng cười nói huyên thuyên. Nhiều lần mỗi khi đi đâu chơi, tôi đều mua dự phòng bánh mì kẹp gà, ba tê, thịt nguội, hoặc chuối, nước lọc, đựng trong giỏ xách để cho các con ăn. Nhưng bây giờ sống trong cơn hoạn nạn, lại bất ngờ được ra đi quá đột ngột, không chuẩn bị chu đáo, nên mọi thứ đều thiếu thốn. Bé Tồ lúc đó quậy tưng trời, mệt hết sức, phần vì tiếng động cơ gầm rú đinh tai nhức óc khiến con sợ hãi. Phần vì nóng nực kinh khủng, mồ hôi con vã ra như tắm ướt hết áo quần. Phần nữa là con đói bụng đòi bú. Khổ nỗi hai bầu vú tôi nhăn nhúm teo tóp sát vào xương sườn thì còn gì có sữa cho con! Chẳng cần biết xấu hổ khi tôi vạch áo trước bao nhiêu người lạ, để vắt hai đầu vú teo tóp hoài vẫn không còn một giọt sữa. Bé Bo cứ chui rúc đầu vào tìm vú mẹ, bú bú, mút mút, con lại giẫy nẩy lên, chướng quá chừng con nhả vú ra, vật vã khóc la.
Lúc đó, có một người đàn bà trung niên thanh lịch xa lạ, ăn mặc gọn gàng trang nhã, ngồi đối diện với tôi, bà ấy cầm cái quạt giấy quạt hoài cho mẹ con tôi, sau đó bà đã đưa cho tôi ổ bánh mì:
- Chị đút cho cháu ăn. Chắc là cháu đói bụng đấy.
Tôi nghẹn đắng cổ chua xót lí nhí cảm ơn bà và cầm ổ bánh mì kẹp thịt xé nhỏ ra đút từng miếng cho con ăn. Bé Tồ nín khóc mặc dù con cứ nấc lên từng hồi. Con ăn ngấu nghiến hết gần một phần ba ổ bánh mì, rồi con đẫy tay tôi ra, bé Tồ đưa phần bánh mì còn lại cho các anh nó. Mấy anh em ỏn ẻn cười hì hì... thay phiên nhau mỗi đứa e dè cắn một miếng bánh mì nhỏ nhai bỏm bẻm. Người đàn bà đó thân thiện mỉm cười nhìn chằm chằm mấy đứa con tôi. Bà ấy nói:
- Các con của chị rất đẹp và ngoan quá.
Tôi e ấp mỉm cười. Bà ấy lại lúi húi lục tìm trong giỏ xách sang trọng ra một hộp bánh lạt và chai nước lọc, bà đưa cho tôi. Giỏ xách của bà bây giờ đã xẹp lép. Tôi không bảo nhưng ba đứa con lớn hớn hở vui vẻ hí hửng nhìn nhau, chúng đều vòng tay cúi rạp đầu sát xuống gần đùi nó để cảm ơn người đàn bà rất to. Chúng bắt chước làm giống nhau như chú khỉ; khiến ai nấy ngồi chung chuyến máy bay đều cười ồ. Tôi nhìn người đàn bà xa lạ lại ấp úng lí nhí cám ơn và lặng lẽ cúi đầu xuống trên mái tóc thằng bé nhỏ mà quệt nước mắt. Tôi cho các con ăn uống xong. Thế là bé Tồ dụi đầu vào ngực tôi ngủ vùi.
Máy bay hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phía dành riêng cho khu phi cơ quân sự cũng ồn ào náo nhiệt đông đúc kinh khủng. Chúng tôi được leo lên một chiếc xe bus chở free ra lối Bảy Hiền. Tôi xin họ xuống xe. Tôi bước đi chân thấp chân cao cứ hẫng lên như người đi trên mây. Tôi nghĩ mãi không ra và không thể nào ngờ được là mình có diễm phúc vinh dự đến thế nầy: Khi xế chiều ông sĩ quan Không–quân Việt Nam ở Nha Trang gọi tên tôi, và đưa cho tôi tờ phê duyệt “Thuận” do vị một Trung-tá ấn ký (tôi không thể nhớ rõ tên vị ấy. Ôi! Trí óc của tôi lúc đó thật tồi, tôi chỉ biết lo lắng về “cái tôi” hiện tại, mà không hề nghĩ đến ai- thì bây giờ biết làm thế nào nhớ rõ tên họ và ân tình không thể trả đền nầy!). Trên tờ giấy ghi “thuận” không hề có con dấu: “Nhất thế. Nhì Thân. Tam ngân. Tứ chế” gì cả. Thời gian loạn lạc nầy thật sự tôi biết chắc chắn một điều là: trong trường hợp hổn loạn cao độ, thì dù di chuyển bất cứ phương tiện nào gần hoặc xa, đa số ai có thế lực, có “chi địa, chi vàng” mới có thể thoát thân. Ấy thế mà chúng tôi nghèo rớt mồng tơi, vẫn có người chính thức công nhận cho chúng tôi đường hoàng leo lên “tàu bay free”! Ơn cứu mạng nầy gia đình tôi xin vô vàn tạ ơn “người”. Lòng tôi khấp khởi vui mừng khôn xiết. Khi đã ngồi an toàn yên ổn một nơi sang trọng thế nầy, tôi nhìn lui nhìn tới không thấy ai lưu ý đến mình, tôi len lén thò tay xuống nhéo ở bắp đùi mình mấy cái, xem thử mình có nằm mơ, hoặc thân mình có đau điếng vỡ mộng hay không! Bởi vì tôi vẫn chưa dám tin chắc là mình sung sướng hạnh phúc may mắn được hãng Hàng-không Quân-sự “biếu” cho tờ giấy chứng nhận được “đi không”, “đi chùa” tuyệt vời như thế nầy.
Lòng tôi rối bời sầu nhớ hình ảnh đóa hoa hồng tươi thắm óng vàng đang gục đầu bên ngăn kéo kỷ niệm bảng lảng dáng hoàng hôn hắt hiu hư ảo thuở nào! Ôi! Đó là những đóa hồng nở rộ trong trái tim nhân-ái hiếm thấy. Không cần biết tôi là ai, họ tận tâm giúp đời vô vụ lợi, tấm lòng họ tận-hiến cho bổn phận, trách nhiệm, và nghĩa vụ cứu người. Những vị ân nhân đức độ mà tôi không hề biết mặt nhớ tên. Những người tình cờ biết một lần, quen sơ sài chỉ một ngày, rồi xa nhau muôn thuở không bao giờ tìm thấy lại, mà suốt đời tôi vẫn luyến nhớ thầm mong tái ngộ. Tôi xin trân trọng cúi đầu tạ ơn vị Trung-tá Không quân vì không hân hạnh nhớ tên “ngài”. Tôi vô cùng cảm-kích những tấm lòng cao cả, cảm ơn gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan vô vàn. Cám ơn người đàn bà thanh lịch ngồi trên phi cơ đã cho các con tôi một miếng khi đói.
Ân tình nầy suốt đời tôi không thể trả đền, xin trọn kiếp mang theo kính nhớ trong lòng. Biết làm sao bây giờ! Dù mai sau nếu tôi sẽ trở lại sung túc giàu sang như thuở xưa, hoặc tôi chỉ là một người vợ lính quèn hèn mọn tầm thường: tôi nguyện sẽ cố gắng viết những bài văn (dù hay hoặc dỡ), thành tâm tạt cốt “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm” để ca tụng những vị anh hùng nhân cách thầm lặng xã thân giúp đời vô vụ lợi. Một lần nữa tôi không bao giờ và chẳng thể nào quên: những người đã âm thầm lặng lẽ ưu ái ban tặng free đặc ân cao qúy tốt đẹp cho riêng gia đình tôi, và cho Đời. Nguyện xin Thượng Đế trả công bội hậu ban đến họ được hạnh phúc trường tồn.



_ * _


thh
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
NHA TRANG 1 cat bobien.jpg
NHA TRANG 1 cat bobien.jpg (141.79 KiB) Viewed 244364 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Post by tinhhoaihuong »

Chương 4

:evil:

Niềm Đau Ruột Dư Thịt Thừa



Thứ Năm, ngày 10 - 4 -1975.- Bà cháu mẹ con tôi đùm túm dắt díu nhau leo lên hai chiếc xích lô chạy xuống hướng Ông Tạ, rẽ vô nhà anh chị Tạo (anh Tạo là anh cùng cha khác mẹ của chồng tôi). Mọi người ở trong nhà sửng sốt, nhốn nháo giây lát, rồi họ hét lên ríu rít mừng rỡ chào đón chúng tôi. Chuyện trò xôn xao hỏi han nhau đủ mọi thứ nghe rôm rã. Phút chốc buổi cơm chiều đơn sơ dọn ra.
Nhà anh chị Tạo chật như nêm, chen chân không lọt trong một chu vi quá hẹp: 3m x 8m. Nhà bếp sát bên một cầu tiêu nhỏ xíu bị nghẹt ứ cứt đái lềnh bềnh. Trên con đường hẽm hầm hập nóng và bẩn thỉu, bước tới đụng người bước lui đụng người chen lấn nhau, vì ngay ngoài hiên nhà nầy là chỗ người khác xin ngồi nhờ bán bán mua mua ồn ào náo nhiệt sát từ chợ Nghĩa Hoà. Trong nhà, vợ chồng con cái anh đã là mười hai người. Cộng thêm bảy người em họ là chú Hồng di tản từ Ba Mê Thuột về đây cả tuần. Nay có thêm sáu người (gia đình tôi) về tá túc nữa. Thật đông hết biết trong căn nhà rất tối tăm chật chội, lụp xụp. Chúng tôi trải chiếu nằm xếp lớp bên nhau như cá mòi, trên gác xép tối om, thấp lè tè nóng như trong lò lửa. Anh Tạo chia cho bà nội ngủ với chị Tạo ở nhà dưới.
Ngay hôm sau gửi cháu cho bà nội trông coi, tôi đi xe bus xuống đường Trần Cao Vân. Giờ cao điểm thì hàng ngàn xe đạp, xe Honda chạy thành giòng không bao giờ dứt trên những con đường luôn luôn đông như nêm vào giờ đến công sở, đến trường học, hay tan trường sở. Trên lề đường chen lấn cả ngàn người đi bộ, với kẻ gồng người gánh bán hàng rong lấn chiếm ra lòng lề đường vô số kể người là người! Tôi trình diện tại phòng Giáo-dục. Tại đây tôi gặp lại hầu hết bạn bè ở Đà Lạt. Không ngờ họ lanh tay lẹ chân đến trình diện Ty trước tôi cả tháng, họ hay hơn tôi nhiều. Tôi làm giấy tờ chờ lãnh lương tại chỗ. Thế là, ngày ngày tôi phải đến Ty trình diện, chờ đợi mọi tin tức cập nhật. Nếu ngày nào tôi không đi trình diện Ty, thì coi như tôi bỏ nhiệm sở và bị sa thải. Tôi xin về dạy trường gần khu Ông Tạ. Nhưng hầu như không ai có thì giờ để lo cho đám giáo chức lao nhao khổng lồ ùn ùn về Sài Gòn lánh cư nầy cả. Tình hình chung trong cư dân Sài Gòn xét ra rất phức tạp, hỗn độn, rối loạn lắm.
Chúng tôi ở đây chỉ được vài ngày vui vẻ thôi. Mấy đứa con tôi lạ người lạ chỗ, ngày ngày không biết làm gì cứ đứng quanh quẩn bên bà, liền bị anh Tạo quát mắng la rầy đuổi chúng đi ra xa bà, không được quấy rầy bà nội. Anh Tạo không biết rằng các con tôi quyến luyến yêu thương bà nội, ưa gần gũi bà nội còn hơn cha mẹ nó. Suốt ngày các cháu chơi đùa với nhau, quanh quẩn bên bà nội mến tay mến chân, thân quen rồi. Nay anh Tạo bắt chúng xa bà, chúng ngỡ ngàng, không chịu, cứ khóc mãi. Mang tiền về nhà, tôi liền đưa chị Tạo ba chục ngàn đồng để đóng góp chung vào tiền chi phí ăn uống. Ở nhà anh Tạo con cái tôi cũng không yên thân. Anh ta bắt tôi phải bế bé Tồ đi trình diện ở Ty đông nghẹt người. Nơi đây chỉ có người lớn, đàn ông đàn bà. Tuyệt nhiên không có một đứa trẻ nào có thể giam mình trong những căn phòng chật cứng người to lớn đi lại. Thế nên, tôi bế con đi trình diện Ty được bốn ngày. Hôm sau, tôi đành để bé Tồ ở nhà.
Từ Ty trở về nhà, ba đứa con đón tôi ở ngoài đường:
- Mẹ ơi! Ở nhà bé Tồ đói bụng, em đòi ăn cơm. Bác không cho ăn. Bác lấy roi mây đánh mấy anh em con. Bác nói “tụi bây phải dắt em đi chỗ khác, phải cõng em đi chỗ khác, không được về nhà. Khi nào mẹ mày về, thì cõng nó về. Nó quấy bà”. Con bị đòn, đau quá mẹ ơi!
Chị Tạo có đứa con bảy tháng tuổi, chị vẫn bế nó suốt ngày nằm trên võng đó. Thì sao? Tôi vạch lưng mấy đứa con ra, quả thật có lằn ngang lằn dọc trên lưng và mông đít. Tôi về hỏi bà nội, me đáp:
- Phải. Me tính xới cơm cho bé Tồ ăn trước, vì nó đói. Nhưng bác ấy không chịu, bác nó la me là: “Bà cứ chìu, cho chúng nó hư. Đánh thấy mẹ chúng nó đi”.
Tôi nghe mà vuốt giận chịu nhục, có ý muốn cố ở nhờ trong nhà họ. Tôi biết anh chị Tạo lòng dạ hẹp hòi, ích kỹ, nhỏ mọn, ghen ghét mẹ con tôi (vì bà mẹ ghẻ của họ ở với chúng tôi, và ân cần săn sóc thương yêu các con tôi). Dĩ nhiên là bà nội phải thương các cháu nầy hơn các cháu con của họ, bởi vì bà sinh sống với chúng tôi bao năm nay. Bà cháu mẹ con nhà tôi có sự quyến luyến yêu thương nhau, là dĩ nhiên rồi. Trong khi vợ chồng họ chẳng chăm sóc yêu thương gì bà mẹ kế, họ không ở với bà mẹ ghẻ ngày nào đâu. Chỉ một chuyện nhỏ nầy: khi thấy tôi ủi áo dài để đi trình diện, thì hôm sau anh chị dấu cất cái bàn ủi trong tủ, khoá lại. Tôi hỏi mượn bàn ủi, chị nói:
- Thế là mất rồi. “Xím” ủi xong là phải cất đi. Mất rồi.
Tôi nhìn mấy đứa con anh chị là biết ngay chị nói dối. Nhưng chị cứ buộc tội là tôi để bàn ủi hớ hênh, nên mất rồi. Nghĩ thật tức cười! Ủi đồ trên gác xép kín như bưng thế nầy, chỉ có vài cửa sổ chấn song sắt dày cui, trên gác không có cửa lớn ra ngoài trần nhà lợp tôn. Con chuột lủi vô nhà e còn chưa lọt. Còn tên trộm có muốn ăn cắp thì phải vào nhà dưới, rồi mới leo lên cái thang dựng đứng đặt sát chiếc giường rộng, là nơi tụ tập thường xuyên không dưới mười người. Tên ăn trộm có giỏi cỡ nào, có tài thánh gì cũng không thể lọt qua quanh ba bên bốn bề trong dãy hàng xóm!
Sau ngày bị vu khống tôi làm mất bàn ủi đó, thì hôm nào trình diện tôi cũng mặc quần áo nhàu nát ra đi. Thật xấu hổ cho một giáo chức “chỉnh tề”. Hể tôi đi vắng thì thôi, về nhà là có đủ thứ bực mình: Bác Tạo hết đánh đứa nầy, phạt quỳ đứa nọ, giam đói đứa cháu khác, tôi không ngờ “tình khúc ruột thừa thịt dư” nầy thua xa gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan, cô Oanh và các bạn tôi ngày cũ, khiến tôi bực tức không thể nào chịu nỗi. Một buổi trưa trời nóng như thiu đốt, nắng chói chang từ trên xe bus trụt xuống, tôi đã thấy bé Dzi, bé Tu cõng bé Tồ cùng đứng ở trạm xe. Dưới đất, bé Bi đang ăn củ khoai lang còn dính đất. Sợ mất hồn mất vía, sợ các con đi lạc hay bị bắt cóc, tôi vội chạy tới bế bé Tồ. Mấy đứa con mặt mày lem luốt, đều khóc:
- Bác Tạo đuổi tụi con đi. Bác nói: “Chúng mày chỉ giống con mẹ mày. Lo cút xéo đi cho rãnh mắt tao”.
Con đã trả lời:
- Con thì phải giống cha mẹ, chứ bác.
Bác Tạo trai liền lấy cái roi da cá đuối treo trên tường, bác quất vào lưng con. Bác nói con dám “trả treo”. Em Tu thấy bác đánh con, thì chạy tới can. Bác cũng quất túi bụi vào người em nữa. Hụ hụ hụ...
Nói xong, hai con lớn oà khóc và vạch lưng, tụt quần xà lõn ra cho tôi xem. Nào lằn ngang, nào lằn dọc từ trên lưng xuống mông, bầm tím hơn lần con bị bác cho ăn roi vọt trước kia. Bác đánh cháu nhỏ còn hơn tra tấn quân thù.
Tôi hỏi bé Tồ:
- Tại sao con khóc, để anh bị đòn oan.
Thì con chỉ vào bụng và bập bẹ nói:
- Con đói… b…ụng.
Tôi giận run và nghĩ: “ Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”. Các con quá đói khổ rồi, chẳng lẽ cứ bị khổ sở, đánh đập vô cớ hoài sao. Có lẽ mình nên dời đi chỗ khác sống thì hơn. Tôi ẳm bé Tồ và tay dắt bé Bi về nhà. Các con sợ sệt lẽo đẽo theo sau len lén núp sau lưng mẹ. Thấy họ, trong lòng tôi tức giận sôi lên. Chẳng thà họ cứ thẳng thắng nói không cho gia đình tôi ở nhờ, không nên kiếm cớ nầy cớ nọ mà đánh chửi đuổi chúng tôi đi, làm cái ngữ nầy ai chịu thấu! Đã mất tiền đưa cho họ thoả đáng, ăn ở chưa trót mười ngày. Chứ có phải chúng tôi ăn chực ở chùa đâu. Chắc họ muốn “vòi” thêm tiền? Họ nghĩ tôi nổi tiếng giàu có, trước khi chạy giặc tôi có xe hơi nhà lầu, mà “trùm sò” không chịu rỉ thêm tiền ra hậu hỉ! Họ đối xử không tốt, thế mà chúng tôi phải mang ơn mang nghĩa. Con cháu mới lên bảy lên mười, nếu có lầm lỗi, thì bắt nó nằm xuống, răn dạy đôi ba roi. Tôi cám ơn không hết. Chứ lẽ nào dùng roi cá đuối hành hạ mà thẳng tay đòn vọt đau đớn tra tấn cháu?! Chỉ vì: “chúng mày giống con mẹ mày”. Con không giống cha giống mẹ, chẳng lẽ giống ông bà hàng xóm à?
Tôi về nhà đặt bé Tồ xuống thềm, nói luôn một hơi:
- Mấy đứa con em, nếu không đúng, không phải, thì anh chị bắt chúng nó nằm xuống giường, mà răn dạy và đánh vài roi vào mông. Em phục, cám ơn anh chị và không dám nói gì. Nhưng tại sao anh lại lấy cái roi cá đuối quất túi bụi vào lưng vào cổ cháu vậy? Em hỏi anh: Các cháu có tội nặng không, mà anh nỡ lòng hành hạ chúng? Anh chị đánh đập cháu chỉ vì nó đói, xin ăn cơm. Anh chị coi nè, có được không?
Tôi lôi con tới trước mặt họ vạch lưng, vạch mông ba đứa con lớn lên, cho cả nhà xem. Bà nội lúng túng nói:
- Thằng Bi đói bụng. Bác mày chưa nấu cơm. Nên tao tính bế nó, thí dỗ cháu tị. Thì nó nín í mà.
Anh Tạo đốp ngay:
- Bà không việc gì phải thí dỗ cho chúng hư đốn, quen đi. Quấy không ai chịu nỗi. Lúc nào mặt mũi cũng đỏ kè, sãy sài, khóc nhè mãi. Bố ai chịu nỗi sự ồn ào và hư đốn, hử!?
Khi đó, tôi không thể nhịn anh ta, tôi vừa khóc vừa gào lên:
- “Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Ngoài miệng thì nói nam mô. Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm”. Một ngày anh biết ăn ba bữa đàng hoàng với rượu đế và thức nhắm ngon lành. Có ngày nào anh nhịn nỗi không ăn nhậu hử! Các cháu cũng vậy. Cháu anh đói, đòi ăn, thì anh cấm. Nó khóc, anh cấm không cho bà dỗ cháu. Là sao!?
- Bà về đây là để bà nghỉ ngơi. Không phải làm gì sớt.
- Sao anh quá nhỏ mọn vậy? Chẳng lẽ từ xưa đến giờ thấy cháu đói, mà bà không cho cháu ăn. Bà nội không bao giờ làm vậy. Vã lại, anh chị không nên hẹp hòi vì miếng ăn, tôi đã gửi anh tiền cơm nước đàng hoàng, đầy đủ. Tôi lầm tưởng là mình có bà con ruột thịt, nên về nhà anh chị ở, nương tựa lẫn nhau lúc khốn cùng, cho có anh chị, có em, có mẹ có con. Nay anh chị muốn đuổi thì anh nói. Tôi sẽ dọn đi ngay. Chứ anh chị không được hành hạ chúng tàn nhẫn, vô cớ đến thế nha. Anh chị cư xử còn thua xa một gia đình bà Niềm xa lạ ở Nha Trang đối với chúng tôi rất tốt. Anh cứ hỏi me thì rõ.
Nói xong tôi chạy vào nhà, leo lên thang gác vơ quần áo của các con, tộng vào túi vải cũ, tôi hầm hầm kéo xềnh xệch ba túi vải xuống thang gác. Tôi dặn mấy đứa con đứng chờ ngoài hè, rồi chạy ra ngoài ngả ba Ông Tạ, tôi gọi chiếc xe ngựa vô hẽm, xe ngựa đậu trước cửa nhà. Tôi chất đồ, các con liền leo lên xe. Tôi nói với bà nội:
- Me cứ ở đây cho khoẻ. Chúng con phải đi, không thể ở đây để người ta hành hạ tàn nhẫn cháu như thế được.
Bà nội chưng hửng, ú ớ, ngại ngần, bà không biết tính toán làm sao cho phải phép. Một bên là mẹ ghẻ con chồng bà, một bên là con dâu cháu nội ruột của bà. Tôi đưa cho bà mười ngàn đồng, để bà có tiền dằn túi ăn quà vặt. Rồi tôi giận run quay lại, trừng mắt nói với họ, như hét:
- Anh chị tưởng là: nếu chúng tôi không có bà, không có anh chị, thì chúng tôi không có chỗ nương thân, sẽ chết bờ, chết bụi hay sao? Còn mẹ cứ ở lại nhà nầy ăn uống thoải mái, vì con đã để tiền trả tiền cơm trước đây rất nhiều. Nếu con và bốn cháu có ăn ở lại vài tháng cũng không vơi hụt! Anh chị nè, mẹ ghẻ của anh chị hôm nay và sắp tới có ở lại đây, như ý anh chị muốn chia rẻ chúng tôi, thì me cũng không phải ăn bám ăn chực cơm canh chờ ở nhà anh chị đâu. Anh chị cứ coi bà nội như người dưng ăn cơm tháng nhá. Anh chị không phải nuôi nhá. Sau nầy anh chị đừng kể công là: khi tôi ra đi đã để gánh nặng lại, cho nhà anh chị lo. Nhá. Ổn định gia đình tôi sẽ về rước bà nội đi. Vì anh chị chỉ biết có tiền thôi. Ăn ở với nhau khi tôi có tiền thì anh anh chị chị em em. Khi muốn trở mặt thì anh chị dở dóc đủ điều tệ mạt hết chỗ nói.
Vừa nói, tôi giận dữ móc túi quăng ra thêm nắm tiền vung lên trên giường, ngay dưới chân chị Tạo (đang nằm ru con trên võng móc ngang giường). Tôi chỉ ném ít tiền lẻ khoảng hai ba ngàn thôi, chứ ngu gì tôi móc cục tiền lương vay trước hai tháng thật to ra quăng vào mặt họ. Bộ ngu sao mà ném tiền hết để mẹ con tôi lưu lạc bị chết đói! Cứ chửi một trận cho đã rồi từ nhau là vừa. Người dưng thật ra còn tốt hơn họ hàng. Chính tôi cũng không ngờ sao tôi trở nên hung dữ như thế! Tính nết tôi bình thường biết giữ thể diện, sợ xấu hổ, hiền lành, không mấy khi to tiếng. Nhưng nay đụng chuyện “quá độ”, quá trí khôn rồi, thì tôi cóc cần, cóc sợ. Có phải do thấy các con đít bị rỉ máu, lưng sưng húp bầm thâm thì… “máu chảy ruột mềm” chăng?
Con ngựa hí vang, nó đứng ngoài trời nắng chang chang, bốn vó dậm trên mặt đường kêu lóc cóc nhịp nhàng. Tôi leo lên xe ngựa, năm mẹ con ra bến xe đi Hóc Môn. Nếu biết tình nghĩa “bà con nhạt hơn nước ốc” như thế nầy. Chẳng thà chúng tôi ăn ngủ ở đầu đường xó chợ cho xong, chẳng phiền ai, con cái không bị hành hạ khổ sở thế nầy. Mỗi khi tôi thò mặt về nhà nầy, thì tôi nghe đủ thứ chuyện đinh tai nhức óc, muốn điên đầu. Nay, tôi đùng đùng túm đồ đạc dẫn các con ra đi. Thì họ ngẩn tò te và im phăng phắc. Có lẽ họ không ngờ là tôi dám làm chuyện động trời như thế. Họ cũng mắc cỡ với hàng xóm láng giềng đang bu lại đông đúc xem tuồng chăng?
Các con tôi hí hửng mừng rỡ reo vui khi lần đầu tiên được ngồi xe ngựa. Cũng như được thoát ra khỏi căn nhà nóng hầm hập, chật chội và nhất là luôn bị bác Tạo của chúng nó trù dập, tra khảo, đánh đòn cháu tươm máu đít, vì những chuyện không nguyên cớ chính xác. Dẫu chúng chưa biết rồi đây miền đất mới sẽ cho chúng ấm no, hay đói lạnh thế nào. Nhưng chúng biết chắc chắn rằng đã thoát ra nơi tột cùng kinh dị, là các con vui mừng rồi.
* * *
Các con tôi hí hửng mừng rỡ reo vui khi lần đầu tiên được ngồi xe ngựa gõ móng lóc cóc trên đường nhựa, cũng như con được thoát ra khỏi căn nhà nóng hầm hập, chật chội và nhất là luôn bị bác Tạo trù dập, tra khảo đánh đòn cháu tươm máu đít, vì những chuyện không nguyên cớ chính xác. Dẫu chúng chưa biết rồi đây miền đất mới sẽ cho ấm no, hay đói lạnh thế nào. Nhưng các con biết chắc chắn rằng đã thoát ra nơi tột cùng kinh dị, là các con vui mừng rồi.
Khi mấy mẹ con trụt xuống xe đò Sài Gòn Hốc Môn, thì tôi thấy hai cháu Sơn, Nhân đang đứng chơi ở ngoài ngả ba trại Lam Sơn (Thành ông Năm). Chúng tôi mừng rỡ ôm nhau mà khóc ở ngoài đường. Tại nhà chị Sáu (chị mẹ goá con côi có năm người con: ba đứa con trai lớn đang đi lính. Hai đứa nhỏ dưới mười lăm tuổi đi học). Trong nhà nầy có gia đình chú Ri (là em ruột chồng chị, gồm mười hai người từ trên Tây Ninh chạy loạn về đây tá túc. Nay có thêm sáu người chúng tôi, vị chi trong nhà chị Sáu có tất cả là hai mươi bốn người lớn bé đông đúc, ngày đêm chui ra chui vào ở một căn nhà nho nhỏ của trại gia binh. Tối tối mọi người cùng trải chiếu ra nằm la liệt trên nền xi măng đã lau chùi sạch sẽ, hoặc nằm ra cả ở ngoài mái hiên mà ngủ. Tôi góp tiền với hai gia đình kia đi chợ nấu ăn chung. Mỗi bữa ăn chia ra làm hai mâm to: Một mâm người lớn. Một mâm trẻ nhỏ đông đúc, nhất là bầy con của chú thím Ri lút chút lít chít nheo nhóc la khóc suốt ngày đêm. Mặc dù góp gạo nấu cơm chung, nhưng phần ăn thì họ chia không công bằng. Ví dụ như các con tôi họ xới chén cơm rời rời xôm xốp, nhưng con chú thím Ri thì họ (tự tay thím Ri phân phát) xới chén cơm ém thật chặt xuống đáy chén, ở bên trên họ chêm cho rời rời, và múc nhiều thức ăn cho các con họ thứ nào ngon. Miếng ăn là miếng tồi tàn mà, chấp nhứt làm chi! Tuy biết vậy đầu óc tôi không căng thẳng, mà có phần thảnh thơi được ít ngày. Tôi ăn cơm ngon nhưng luôn mất ngủ, vì kể từ khi rời Đà Lạt di tản đến nay, tôi sống trong cảnh màn trời chiếu đất, nằm lăn lóc ở bụi bờ, không giường nệm êm mền ấm như ở Đà Lạt đâu. Vì thế, khi đặt lưng xuống chiếu là toàn thân đau nhức rần rần. Mỗi ngày tôi bế con ra ngoài ngả ba Lam-Sơn Hóc-Môn, thì thấy xe GMC từ ngả Trảng Bàng– Tây Ninh chở binh lính đầy nhóc trên xe, xe nườm nượp chạy đi chạy về trên quốc lộ nầy tấp nập. Thỉnh thoảng súng lớn đạn nhỏ từ trong Thành Ông Năm câu đi đâu đó uỳnh uỳnh uỳnh… làm rung động cả góc trời.
Tôi ở nhà nầy một tuần, thì Luật ở Đà Lạt chạy thoát về Sài Gòn, anh đến nhà chị Sáu, mặt hầm hầm. Dĩ nhiên Luật ghé nhà anh chị Tạo ở Sài Gòn trước, và đã nghe họ “tả oán” mẹ con tôi đủ thứ chuyện xấu, (người ta nói sau lưng mình, dĩ nhiên mình xấu, họ tốt; trước khi Luật nghe vợ con phân bày phải trái). Luật là người đàn ông độc đoán, gia trưởng, kẻ cả, ít khi anh lắng nghe điều hay lẽ phải, anh chỉ nhìn sự kiện đã xảy ra, rồi vội vàng kết luận. Tôi vừa mừng rỡ vừa sợ. Phải!
Thú thật là tôi rất sợ chồng. Luật có “cái uy” để anh “trị” tôi. Luật tức giận ngồi phịch xuống sofa, anh nói như hét trước mặt mẹ con chị Sáu, gia đình chú Ri, và mẹ con tôi. Anh khóc hụ hụ:
- Em tưởng là tôi bị kẹt lại Đà Lạt, thì tôi không thể thoát đi được, hay tôi đã chết rồi. Em làm kẻ tình vờ, tình lờ, tình hờ, không bao giờ gặp lại tôi hay sao!? Nên em lo từ bỏ họ hàng của tôi sớm. Hử?
Thím Ri tỏ vẻ khoái chí lết đít xích lại gần Luật để nghe cho rõ, cho biết chuyện riêng tư. Đại loại là thím tưởng giữa tôi và Luật có “sứt mẻ” vợ chồng gì đó. Thím là hạng đàn bà ưa tò le mách lẽo, tọc mạch tò mò nghe ngóng chuyện người khác, và ưa đưa chuyện. Còn chị Sáu thì chưng hửng ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra với Luật. Nhưng chị tôi ôn tồn, khéo léo an ủi vỗ về Luật:
Cây khô nghe sấm nứt chồi.
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương.
Cãi nhau là chuyện bình thường.
Cãi xong tâm sự trên giường cả đêm. (cd)


_ * _



thh
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Post by tinhhoaihuong »

:shock:
Những Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối
Phần Thứ Nhì
Chương 5


Tình Hờ Vờ Hối Hả Tình Lờ





Con đường dốc đứng bên cạnh rừng đầy lá thông khô được sương chiều rửa sạch trơn, trơn bóng láng mướt ve vuốt đôi chân êm ái, mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Luật muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung nâu nâu, mượt mà, mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về… Khi đất nước còn thì người lính là con cờ thí thân trong chiến tranh, họ gánh trên vai biết bao cơ cực lầm than, nhọc nhằn, khổ sở, chua xót, đắng cay, trăm bề o ép. Trước đám sương mù dày đặc kia là tương lai mù mịt, nơi con đường tiến thân để giành lại, giữ lại, không biết sẽ bắt đầu từ mấu chốt nơi đâu?! Lúc nầy, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam xoay quanh cơn lốc chính trị kinh hoàng vô cùng, giống như hai dòng nước ngược đục ngàu xô vào nhau toé lên thành những cơn triều cường sóng thần đảo điên nhất. Họ chẳng thể chí tình thiết tha yêu thương ôm trọn quê hương ở trong lòng, khi Trọng Luật cùng hầu hết quân nhân đã nghe lệnh cấp trên ban ra rành rành là: quân nhân cán bộ các ban ngành, thanh niên nòng cốt tuổi trẻ phải ở lại “tử thủ” tại mỗi đơn vị từ giữa tháng Ba năm 1975 tới giờ phút cuối cùng (còn ông già bà cả trẻ con phụ nữ cho di tản ra khỏi Đà Lạt Tuyên Đức). Tin như thế loan ra nhiều ngày, hầu hết ai ai cũng chắp bắp an tâm vững chí đồng lòng cương quyết trụ ở lại 24/24 giờ nơi những tuyến phòng thủ.
Té ra, có nhóm người cao cấp đã làm cuộc tình lờ lo cao chạy xa bay chuồn đi khỏi Đà Lạt và kể cả ở Thủ đô Sài Gòn tự lúc nào lâu lắm rồi, họ rũ bỏ sau lưng sự đau thương cùng khó ấy: cho người khác âm thầm ở lại chịu trận gánh gồnh gian nan khổ đau, mà lính tráng trai trẻ chẳng hề hay biết. Súng ống đạn mìn nổ dậy trời! Tưởng chừng như hai phe đang giàn quân ngoài mặt trận đánh nhau. Nhưng thật tình phía Việt Nam Cộng Hoà có lệnh rút lui, bỏ ngỏ, chứ nào có đánh đấm gì cho cam. Tai biến đến, khẩu lệnh chỉ rò rỉ ra, tức là láo pháo rỉ tai nhau về việc quân nhân triệt thoái rút bỏ Đà Lạt trong vài giờ rất ngắn ngủi vào phút chót mong manh và hối hả, thì đám quân nhân thanh niên tráng niên nầy chưng hửng bàng hoàng trở tay không kịp. Lúc biết ra cớ sự thì không tìm thấy đường đi lối về nơi đâu, đi tới mắc thác, mắc hồ, đi lui mắc núi, mắc đèo. Các cửa ngỏ hậu phương, kho lương thực, quân trang quân cụ, khu nầy, sở nọ, ty kia mở toang hoang, kể cả nhà thường dân vắng chủ đều bị cướp bóc, đốt phá cháy rụi. Một phần do họ hủy diệt hồ sơ mật, một phần do nhóm tự xưng là “cách mạng” khích động kẻ gian thừa nước đục thả câu mặc tình tung hoành thao túng.
Đám trai trẻ cương nghị và oai dũng tử thủ nầy thì như rắn mất đầu, như đàn gà con mất mẹ. Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1975 Luật và “nhóm tình hờ” tử thủ quyết giữ gìn quê hương cuối cùng đành phải rời bỏ Đà Lạt (mới biết tin tức triệt thoái chậm chạp, trể tràng bị dấu kín như bưng), thì mạnh ai nấy dọt, họ luống cuống hốt hoảng băng đèo vượt suối chạy thừa sống bán chết tan tác trong rừng sâu. Thế là không còn cảnh tình đồng đội keo sơn như cá với nước, như cây cần đất rễ cây liền cành, mà thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy chạy thiếu sống bán chết tự lo thoát thân. Luật cảm thấy chua xót đắng cay nhục là ở chỗ đó. Tệ là ở chỗ đó. Đau là quặn thắt lòng ở chỗ khúc ruột thừa. Nhóm Luật là những người lính chiến đấu dũng cảm cuối cùng lìa bỏ quân ngũ, bỏ đơn vị, ngao ngán mặc bộ đồ dân sự để đứng lên tự lo cứu cho chính bản thân trong cơn biến loạn ngặt nghèo lâm nguy hấp hối. Lúc bây giờ không có người chỉ huy thì quan như lính có nhiều ý kiến, ý cò, tự vạch ra cho mình con đường sống mới. Luật cùng sáu anh khác vứt bỏ hết tất cả lon lá mũ mão hành trang rối rắm trên đầu trên vai, chỉ mang một đôi giày ba ta cũ, một bộ quần áo dân sự, mấy chục ngàn tiền lương, một chiếc đồng hồ Omega, một cái nón thường dân đội đầu. Họ xin đi chuyền từng đoạn xe đò, xe tải, xe GMC từ Đà Lạt xuống tới Phan Rang, xe hết xăng họ chạy bộ chen lấn nhau mà xéo bước, họ thở dồn dập gò lưng chạy thục mạng từng đoạn ngắn, ra tới Cam Ranh thì nhóm Luật đã bị lạc mất nhau.
Người đi lánh cư đông kinh khủng bất ngờ gặp gỡ nhau giữa trùng trùng lớp lớp, trên bước đường chạy loạn những kẻ sống còn mong vượt qua gian nguy khổ ải. Ngày chạy bộ với những người dân tay xách tay mang đùm đề vợ con, chân thấp chân cao khổ ải mệt nhoài. Đêm đêm ngủ với người thoi thóp, nằm với những xác chết cứng đơ giữa đồng không mông quạnh. Luật mong tìm làn hơi ấm bên người lân cận, hầu hổ trợ tinh thần, nương nhờ lẫn nhau. Nào ngờ, khi hoàn hồn bừng mở mắt ra ngoảnh nhìn lại mới biết đó chỉ là những thây ma. Luật lả người đi vì sợ hơn vì đói, khát. Phải! Giữa cảnh màn trời chiếu đất, trong tay không có một cây que để phòng thân tự vệ. Mà cuộc sống vẫn vô cùng mong manh và hối hả. Con người trở thành da bọc xương ngơ ngơ ngáo ngáo ngố ngố ngờ nghệch chưa biết mò mò đi đâu và không tri thức giữa những nấm mồ xanh đắp sơ sài tươi mầu đất chưa non cỏ. Màn đêm tiếp nối bóng tối và đồng lỏa với mọi tội ác. Đã thế, đêm đêm từng đàn chó hoang ốm đói tong teo gầm gừ cắn xé nhau, tranh giành xương cốt nhai ngấu nghiến nghe kêu rào rạo từ mấy thây ma cứng đơ thum thủm. Bầy chó nhe răng tru hú lên từng hồi thật hoang dại dã man, nghe rợn tóc gáy. Luật đối mặt với tận cùng bi thiết thảm sầu cay cực, chiến tranh tàn ác đã lột da con người, vô cùng trần trụi thô thiển đến tận xương tủy. Và, những vết thương hoác miệng từ dĩ vãng, hiện tại và có thể trong tương lai… đã để lại trong lòng Luật nóng bỏng, sâu sắc nhói buốt rung lên từng cơn quặn lòng đau khủng khiếp.
* * *
Khi bình tĩnh lại đôi chút, Luật đã từ tốn kể lại chuyện anh chạy nạn từ Đà Lạt về Cam Ranh, Nha Trang, anh đi bộ nhiều ngày rất khổ sở điêu đứng gian truân không tả xiết để chạy vô Sài Gòn. Luật kể cho vợ con và gia đình chị Sáu, chú Ri nghe những điều rùng rợn không sao tả hết vào những giờ phút cuối, trước khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa triệt thoái khỏi Đà Lạt. Nghe mà rùng mình. Ở lại nhà chị Sáu hai ngày, sau đó Luật thu xếp cho vợ con lên Sài Gòn. Chúng tôi đến ăn ở tạm tại nhà dân biểu Tony Tẻh. Bởi Luật thường đi công tác với những ông bà dân biểu Thượng-Viện, Hạ-viện, Nghị-viên, Luật ưa về hội họp, thăm viếng anh Nguyễn Đức Xích (là bà con ruột thịt bên ngoại của tôi), anh tiếp xúc với các vị Tướng Tá “có tầm cỡ” không hà. Nói chung, Luật chí tình nhiệt tâm với bạn, không quản ngại bỏ tiền túi ra, bao cho bạn đến bến đến bờ. Nhất là Luật đã chu toàn, ráo riết lo vận động cho anh bạn thiểu số Toneh Tẻh đắc cử dân biểu vào quốc hội, làm tôi mệt lắm. Trong thời gian Toneh Tẻh vận động tranh cử, tôi luôn “hầu bạn” cơm ngon canh ngọt, cá tươi chiên dòn, thịt heo kho trứng vịt, thịt bò lúc lắc, bún bò giò heo, bánh xèo, phá lấu, xôi thập cẩm tự nấu, vân vân... Các thức ăn để trên bàn có lồng bàn đậy kín hẳn hoi, (hoặc chờ họ về mới hâm nóng). Mẹ con tôi ăn cơm trước, họ không bị mẹ con nheo nhóc quậy phá ồn ào. Khi nào “hai ba bốn ông tướng” ấy về, thì họ vui vẻ ung dung rỉ rả ăn uống no say nói chuyện thời sự, chuyện chiến tranh, chuyện thế giới, kể cả chuyện tiếu lâm.
Đôi khi Tẻh ở dưới quê tại Đơn Dương bất ngờ vào nhà tôi nghỉ ngủ. Dù sớm hay muộn, thế mà tôi phải bò dậy ra vườn rượt bắt con gà, (con vịt), vô bếp cắt cổ, mổ bụng con gà (hoặc con vịt), làm thức ăn hầu tiếp bạn của Luật, tôi lo cho bạn một vài năm như thế. Gia đình Tẻh nghèo lắm, không thể có tiền đi vận động đây đó xã giao. Thế là Luật đứng ra làm đầu tàu (trong một nhóm bạn thân nhiệt tình lo cho Tẻh đầy đủ hết biết). Họ lo cho cá nhân Tẻh lên danh phận có chức có quyền đã đành. Ấy thế mà cả gia đình vợ con (đông đúc những mười mạng) của Tẻh, thì nhóm Luật cũng xoay xở đi xin tiền các nhà hảo tâm, ân nhân, xin ở trại cưa, chủ đồn điền… đâu đó, hầu cung ứng cho gia đình Tẻh mỗi tháng. Tẻh hứa hẹn chắc chắn khi đắc cử thì anh sẽ… “chu đáo lo cho dân”. Nhiều tháng qua nhóm người nầy (Luật, Ngọc, Minh, Trí, Cương v.v…), không đi xin ai được, họ cùng nhau ứng tiền túi ra đưa cho Tẻh. Rồi như “thông lệ” cứ đến tháng thì bà vợ của Tẻh đến nhà tôi lấy tiền. Bà chị nói:
- Chị ui! Ông Tẻh ra đi, có nói tui đến nhờ bà chị giúp tiền mua cơm gạo. Nhà tui hết sạch mọi thứ rồi.
Ông bà Tẻh làm y như tôi là ngân khố, kho gạo, vựa lúa, tôi có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ lo cho gia đình họ ấm no!? Nói với chị Tẻh thiểu số nầy hoài, thật mệt. Vì chị ngu ngơ dấm dớ mà khôn vặt không chịu thông cảm, chị cứ đứng ù lì… ù ù cạc cạc ranh ma, ì thộn ra đứng chần dần cả buổi trước cửa, chị không dám hay không chịu vô nhà. Nói nào ngay nhà tôi “nom rất bề thế” ở mặt tiền đường Đoàn Thị Điểm ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt, nền láng gạch bông bóng lưỡng đầy đủ tiện nghi, rộng 5m sâu (dài) 40m phủ bì, còn dư 10m cho sân sau rợp bóng cây. Chị Tẻh cứ đứng hoài đứng hủy chờ đến khi nào tôi văng tiền, văng gạo (hoặc văng “cái nhu cầu của chị”) ra, thì chị mới chịu đi.
Chị Tẻh chả hiểu rằng “anh chị Tẻh” đối với riêng tôi không là cái đinh, cái thá gì. Vậy mà, tôi phải cắn môi bặm miệng nghiến răng trèo trẹo để “giao hảo” vì danh dự và “lệnh lạc” của đức ông chồng! Có nhiều lần, Luật về nhà nói tôi đưa tiền cho Tẻh “mượn”, để anh ta đi lo công chuyện áp phe áp phẩy chi chi đó. Vài ba lần đầu, tôi bấm bụng lấy tiền lương của gia đình trích ra đưa cho Tẻh mượn. Nhưng hôm nay, tôi biết là trong tủ chỉ còn đủ tiền đi chợ nửa tháng. Nếu đưa cho Tẻh mượn nữa, thì có lẽ nhà mình nhịn đói vào tuần cuối tháng mất (đưa cho Tẻh mượn hoài, coi như chả bao giờ ảnh nhớ trả nợ)̣. Tôi làu bàu:
- Làm như nhà mình là kho bạc, hay có tiền núi sao?
Tôi không chịu xì tiền ra, thì Luật cự nự, mắng nhiếc tôi:
- Lên chùa thấy bụt muốn tu. Về nhà ngó vợ muốn xù em ngay. Bấy lâu vắng mặt khát khao. Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra!!! (1) Người gì mà ngu lạ, chỉ biết tham tiền, phải thả con tép mới câu được con tôm hùm. Em có tiền là mờ mắt, chả biết giúp người hoạn nạn.
Úi cha! trong lòng tôi ức lắm giận sôi lên. Tôi đi dạy về mệt đừ vì lo làm cơm và giặt quần áo dưới bếp, nghe anh nói mà tai lùng bùng mắt tóe lửa, giận run. Bỗng dưng ở đâu Luật vất vả mời, rước, cõng, tha “cái nợ đời bạn với bè” về nhà nầy, cho bận tâm điêu đứng vợ con quá sá vậy hổng biết!? Tôi chưa kịp phản ứng, thì Luật nhảy tót một lần hai bậc cấp lên lầu vào phòng ngủ, anh móc túi quần lấy chìa khoá mở tủ rột rột, Luật gom tiền và hầm hầm đùng đùng bỏ đi một nước. Bạn là trên hết, bạn là số một của đời Luật mà. Tôi đứng dậy vội lau khô tay, lật đật leo lên cầu thang lầu chạy vô phòng mở tủ ra kiểm: tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn lại xem. Trong tủ vòng vàng xuyến nhẫn còn nguyên, duy chỉ còn tám trăm đồng thì có thấm vào đâu so với nửa tháng chợ!? (không kể nếu có những bất trắc, ốm đau, thuốc men, mua sữa cho các con, hay những chi tiêu vặt cần trong gia đình, thì đào đâu ra đây hở trời!?). Tôi khổ hết biết, tức quá tôi đập tay xuống nệm bộp bộp, nằm úp mặt xuống gối, gào lên và bật khóc hù hụ. Luật vẫn luôn vô tình đến cái độ ấy: “Ai lo mặc ai. Ráng mà xoay xở. Ai chết mặc ai. Tiền nầy tao đem cho bạn bỏ túi”. Thật tình là tháng đó mình ên tôi vắt giò lên cổ chạy ngược chạy xuôi, chạy đi mượn tiền cô bạn, mượn anh chị, để bù đắp vào khoảng tiền Luật đã “xoáy” bằng được, đem đi cho bạn gây dựng sự nghiệp!
Tức cành hông, điên tiết. Ấy thế mà tôi không đành “tình vờ bỏ anh”. Vì sao!?:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng.
Chết thì chịu chết, buông chàng không buông.
Phòng loan trải chiếu rộng thình.
Lăn qua đụng cái gối tưởng bạn mình, anh ơi! (cd)
Nhất là Luật nhiều lần ngọt ngào, đằm thắm nỉ non ngâm những câu thơ trữ tình (vã chăng do tôi mê thơ, mê đàn, mê hát, anh đánh trúng yếu điểm tim đen vợ) anh theo bén gót chân tôi bám riết không hề “xa” nửa bước:
Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?
Là những gì rung động trái tim ta.
Làm cho ta cảm thấy nổi da gà.
Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét...
Là hợp “gu” vì cùng chung tính nết (!?)
Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa.
Là nụ hôn. Ôi rợn cả thịt da.
Là ẻo lả vòng tay nhưng rất chắc. (2)
Hoặc có nhiều khi Luật đã âu yếm ôm tôi vào lòng hun hít hú hí:
Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa.
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều.
Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh.
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình... dễ thương (cd)
Khi Toneh Tẻh đã thành công trên con đường danh vọng rồi, thì anh ta không nhớ những ngày cơ hàn, nhớ về bạn xưa gì ráo. Tẻh có những “cái ngu lỏi đời đáng sợ” là không nhớ ai đã nhiệt tâm trong những cuộc vận động ráo riết, do ân nhân, thân nhân âm thầm ưu ái đóng góp sức lực, tiền bạc giúp anh? Những người đã hy sinh hạnh phúc, gia đình và có thể nói là cả tính mạng nữa. Tẻh quên hết chuyện nợ nần gia đình vợ con ở Đà Lạt, mặc ai lo gì thì lo. Ra sao thì ra. Tới đâu thì tới. Tony Tẻh ở Sài Gòn làm dân biểu mới chỉ bốn năm tháng đầu, Tẻh đã “quơ” ngay một cô “Ba Tàu tình hờ”, dẫu sao thì cô nầy cũng trắng da dài tóc, mập ú nà ú nần, mắt híp, tươi tắn trẻ trung; hơn bà vợ Thượng già đen dòn quê mùa cũ mèm của Tẻh. Trong bữa ăn đầu tiên ở nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương, Tẻh đã chọc ghẹo nàng tiếp viên:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
Em xinh em hút thuốc lào cũng xinh.
Nếu mà không lấy đặng em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu (1)
Nàng đi học ở trường Tàu đã đành, nàng lại biết đọc biết viết tiếng Việt kha khá, liền đối đáp ngay:
Tu đâu cho em tu cùng.
May ra thành Phật thờ chung một chùa.
Phải chi cắt ruột đừng đau.
Để em cắt ruột em trao anh mang về (1)
Tuyệt vú mèo chưa! mây mưa nước nôi “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” nhỉ! Thế là Tẻh mê em tít thò lò, mê em híp mắt, si mê “ẻm” ngay từ “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tẻh thèm “ẻm tình hờ” quá cỡ thợ rèn. Cá đã cắn câu do mấy anh xì thẩu cố gài độ,̣ muốn câu móc anh chàng xứ núi già còn “dại gái” tòn ten tỏn tẻn với cô ả ỏn ẻn, ngỏ hầu bọn tài phiệt dễ bề móc nối xí xa xí xô “làm ăn chuyện lớn” ở nhiều mặt thiết thực khác. Tẻh híp mắt với danh vọng, lạm dụng tình thân, an nhàn sung sướng riêng bản thân về quê xây một căn nhà đồ sộ, mua nhiều hecta đất, mua đàn bò, mua một căn nhà gạch xây sang trọng ở cuối đường Hoàng Diệu. Ở Sài Gòn Tẻh mua sắm cho bà bé nầy không thiếu thứ gì sang trọng trong một ngôi nhà thuê bao rộng rãi tiện nghi tại Hoà Hưng. Đầy đủ. Trọn vẹn, Tẻh càng vinh thân phì da sung sướng tê người. Bà vợ bé của Tẻh béo ơi là béo phì còn trẻ, nói tiếng Việt trọ trẹ, nhưng hiểu nhiều, nói nhiều nói luôn mồm nghe thật tức cười. Hạnh phúc ào ào trút xuống lưng, trút xuống vai anh ta:
Trẻ em thường thích ở trần.
Nhưng mà người lớn muôn phần thích hơn.
Nhớ hôm bụi chuối sau hè.
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con. (2)
Năm sau “con đĩ Ba Chệt*” (*là do bà vợ lớn của Tẻh dám trịch thượng ám chỉ bà nhỏ kia thôi, còn tôi... có đánh chết tôi, thì tôi chả dám) đã “sản xuất” cho anh ta một con bé ngo ngoe bụ bẫm. Trong khi chúng tôi muốn khuynh gia bại sản. Mỗi lần nghe tin Tẻh về quê, Ngọc, Luật lái xe jeep đến nhà. Tẻh tiếp bạn nhạt nhẽo, gượng gạo, lãnh đạm, ú ớ ù ơ lầm lì. Nhiều khi Tẻh né tránh không giáp mặt. Người gì mà quá đổi tệ bạc vô ơn đến thế không biết. Hầu như chuyện nợ nần, đền ơn đáp nghĩa những ân nhân, thân nhân Tẻh coi như pha. Chức phận của Tẻh chỉ là hư danh, thực tế Tẻh chưa giúp ích thiết thực cho cư dân ở Tỉnh nầy và cho đời (nói chung), và cho nhóm tôi. Tôi quên nói là sau khi “Tẻh hiền lành” (trên vài khía cạnh nào đó) với tư cách là đồng viên ở pháp nhiệm I và II đắc cử dân biểu, thì bao nhiêu lời hứa hẹn, (nợ nần tiền bạc xưa của Tẻn chưa trả cho tôi), đều bay theo bà bé nầy. Gia đình tôi và các bạn đã gieo lúa trên đá rồi.
Tại nơi nhà Tẻh ở Hòa Hưng hôm nay vừa có thêm gia đình bà vợ lớn và năm đứa con Tẻh gùi những cái gùi to lớn lánh nạn về Sài Gòn. Mỗi buổi sáng bà bé ngủ dậy lúc sau chín giờ, bà ta ẳm con nhỏ một tuổi đi chợ xong, bà bé về nhà quăng giỏ xách cái bạch xuống nền gạch, giống như bố thí, thì tôi và bà vợ lớn của Tẻn lo xúm lại nấu nấu, xào xào, chiên chiên vài món ăn, rồi xúm xít ăn với nhau, bà bé không hề ăn, chỉ ngồi trên võng ôm con đong đưa và nhìn ngó chúng tôi chằm chằm, và nói nói nói... Ăn uống đạm bạc như thế, khiến bà vợ lớn tức giận. Hầm hầm mặt, bà nói nhỏ với tôi:
- “Ớt nào mà ớt chẳng cay. Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Con đĩ Ba Chệt*” nầy đã cướp chồng tôi. Nó cướp hết tiền của trong gia đình tôi. Vậy mà nó cho cả nhà mình ăn uống tầm thường hí. Trong khi ngày ngày nó đi chợ ăn quà, chiều chiều nó đợi ổng về, là nó tót đít đu lên sau xe honda, ôm siết, bu ổng chở đi ăn tiệm sang hà, nè:
Bồ hay mơ mộng mông lung.
Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
Bồ luôn đòi hỏi đủ điều.
Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.
Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm.
Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
Bồ nào nghĩ đến tương lai.
Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau. (2)
Tôi khuyên can hoài, năn nỉ mong bà có thể hòa thuận đôi đàng thân ái xí, bà cũng chưa nổi sùng, nên nguôi ngoa nhẫn nhịn đôi chút. Nhưng tối tối, khi “hai ông già bà trẻ phong lưu” hú hí du dương đi ăn cơm tiệm về, thì ông Tẻh ỏn ẻn chào hỏi bà lớn xí, nói lí nhí vài ba câu tiếng Thượng xã giao qua loa lạt lẽo, rồi ông lẽn vô phòng bà bé, khóa chặt cửa ở riết, cho đến sáng hôm sau ông vội vàng ra đi. Chỉ vì ông trót “trồng trầu thì phải khai mương. Làm trai nhiều vợ biết thương vợ nào”? Điều kém tế nhị trắng trợn và không biết cách xử trí nầy, khiến vợ lớn cáu tiết, bà nỗi cơn ghen bốc lửa tam bành lục tặc, không thể ngậm câm nhìn cảnh chướng tai gai mắt làm ngơ hoài, nổi sùng lên bà tức giận không thể tả, vợ Thượng ngồi chờ sẵn ở phòng khách, (nơi gia đình bà lớn đang trải manh chiếu ra sàn gạch ngủ mỗi đêm, cạnh ngoài cửa phòng ngủ của họ, thiệt là không công bằng!).
Khi hai anh chị “Thượng-thư và Tàu ú nù đĩ-ba-chệt*” (*bà vợ lớn vẫn trịch thượng thẳng thừng ù ơ như thế, có lẽ không chua ngoa lắm hì) ung dung vui vẻ trở về sau buổi ăn cơm ngon lành ngoài tiệm. Bà bé vừa bế con nhỏ tọt vào phòng ngủ, thì bà lớn không thể nín câm nữa, bà túm ngay cổ áo đức ông chồng, khiến ông lớn bị bất ngờ chao đảo chới với tay chân. Bà lôi giật ông xềnh xệch quay ngược ra phòng khách, bà lớn trợn trừng tráo trưng nghiến răng chửi chồng một tràng tiếng Thượng pha tiếng Việt, lẫn tiếng Tây, chêm chút chút tiếng Anh.
- Nè ông Tẻh đừng tưởng bở nhá, tuy tui là người Thượng nhưng theo học trường đạo do soeur Tây ở Couvent des Oiseaux dạy đàng hoàng. Tui biết ông chê tui già, quê mùa, xấu xí, có thể không xứng với một dân biểu, (tui rành ba bốn ngôn ngữ mà ông chê, là lầm đấy)! Ông sinh ra ở chế độ mẫu hệ mà có cái tội tày trời ngang nhiên “tự tiện” dấu nhẹm tui con mụ kia, con riêng, và giờ đây “con đĩ” mang thêm một cái bầu bảy tháng. Úi Trời! đầu năm một đứa, cuối năm một đứa. “Trứng rồng lại nở ra rồng. Liu điu lại nở ra dòng liu điu” (cd). Đồng vợ đồng chồng, con đông mệt quá! Chẳng lẽ tui để cho ông mang tiếng sở khanh quất ngựa truy phong: “Yêu em mấy núi cũng trèo. Đến khi em chửa mấy đèo anh cũng dông” sao cho đành! Ha!
Ông lớn đứng như trời trồng cúi đầu im lặng chịu trận làm tình vờ! Thôi thì... ráng nhịn nhục ngoảnh mặt làm kẻ tình lờ. Bà thấy thế cũng nén giận. Nếu bà biết trước hoàn cảnh éo le và “nghịch đồ” như thế, bà lớn sẽ nằm lì tại Đà Lạt, không thèm vô ở cái nhà đầy dẫy chuyện buồn, xáo trộn đủ thứ kỷ cương, không có “tôn ti trật tự phân giai cấp lớn bé” chi cả. Bây giờ bà lớn nằn nặc đòi ông lớn một hai là:
- Tui nói cho ông Tẻh biết, ông phải đưa ngay tiền của, đưa hết tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn tay hòm chìa khóa ra, để tui quán xuyến. Người ta nói: “có tiền mua tiên cũng đặng” thì nhằm nhò gì chuyện ông Tẻh có con qủy cái ú nần lùn xủn mắt ti hí kia! Tui sống với ông có giá thú hẳn hoi, còn con kia nếu ông khai gian làm giá thú giả với nó, thì tui cho cả lũ vô tù mút chỉ cà tha. Tin đi, rồi một mai lá rụng về cội, ông chẳng tiếc cái tình vờ ấy, mà ông sẽ quay về “cây đa bến cũ con đò năm xưa” cho coi! Ông và nó không có một đồng xu dằn túi, thì mẹ con tình lờ ấy phải ra đi khỏi ông, là nơi trơ trẽn hắc ám đầy chướng tai gai mắt. Coi ai chết nhăn răng cho biết mùi đời cái tình hờ mà ông cho tôi nếm hôm nay. Há...
Tôi thừa nhận là bà lớn tuy ở chung một nhà với bà bé, dù bất bình và rất ghen lẫn yêu thương chồng con lắm. Nhưng bà lớn khá biết điều, bà chỉ béo ngắt xí, cằn nhằn lải nhải dày vò ông chồng biết cúi đầu hổ ngươi đỏ mặt tía tai ti tí. Bà lớn có bản lĩnh, lịch sự nghiến răng trèo trẹo vào sát bên mang tai chồng, khiến ông lớn thật sự run sợ. Bà biết giữ danh dự cho ông chồng dân biểu! Khâm phục.

* *



(1) ca dao
(2) thơ tiếu lâm & sưu tầm lượm lặt đó đây.
thh


Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
e 32 nam minh trg suong.jpg
e 32 nam minh trg suong.jpg (24.13 KiB) Viewed 244273 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Những tháng Năm Vô Cùng Đen Tối - Ch 8

Post by tinhhoaihuong »

Chương 8

Giọt Buồn Lưng Mây




Khổng Tử đã nói: “Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”.
Cũng như cổ nhân Nguyễn Trường Tộ đã nói: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu thị bách niên thân”.
(Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm).
Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, oằn vai nặng gánh, lưng gồnh mối thù phân chia hai miền Bắc. Nam: Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài… từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương nghẹn ngào đớn đau phân giới. Họ quyết ở lại dựng nước và giữ nước. Một thời gắn bó keo sơn mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược chính trị sục sôi. Họ vẫn chia nhau ra trấn giữ đất nước, cố duy trì sự tồn-hưng một quốc gia trong thời chiến tranh: Giống như Mã Viện xưa đã nói:
- “Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng qúy. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì"! Phân chia là thế! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong ước tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì “Quan, Tướng và Lính” đều có ước vọng giống nhau. Hôm nay có trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng đã chia phần đều nhau: Là vậy. Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường: để hộ tống từng đoàn dân di tản tất tả chạy dọc theo ven những quốc lộ trên triền quê hương.
Sau 21 giờ - ngày 29-4-1975 - thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ ở phòng ngủ Hotel Hưng Đạo 2 đã tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng: Tôi âm thầm quan sát “những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống”: Nào là: Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân... có ba Lữ đoàn Dù. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhứt. Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các chiến hữu Sư-đoàn 5 – 18 – 22 – 25, ngỏ hầu chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội. Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi âm thầm ra đi. Súng dài gác bên nhau, mũi súng chụm vào chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ hay chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng lại đeo lên vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời thượng cấp, từ từ rút lui có quy củ trật tự tôn nghiêm trong hàng quân ngũ. Họ nhìn nhau lặng lẽ nhếch miệng cười, qua cái bắt tay giã từ vừa đủ chặt, dường như âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng họ sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện. Từng tốp lính mười tốp bảy người, nhiều vô số đang nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gác lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vĩa hè, quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ quê hương trong giờ phút lâm nguy khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ lập loè loé lên trên bờ môi khô. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ tủi hận đầy bi ai. Có người đang mặc áo giáp, đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác. Có người đội mũ sắt, hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đèo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào thượng cấp.
* * *
Bỗng dưng tình hình chính trị quyết liệt căng thẳng, vận nước đột biến từ góc 45/o, chỉ trong một tuần ngắn ngủi, vụt nhảy tọt lên 360/o nhanh như chớp. Khiến tôi vô cùng hoang mang, bàng hoàng sửng sốt, lo lắng, buồn phiền, bối rối tột cùng. Trở lui mắc núi, đi tới mắc sông, xoay quanh mắc vòng lẩn quẩn đủ mọi thủ thuật rối rắm. Mặc dù các bạn trong nhóm có nhiều sáng kiến, có nhận thức thời cuộc chính xác và quyết định đúng đắn, nhưng dẫu sao ở nơi xứ lạ quê người ồn ào náo nhiệt tột cùng hổn loạn thế nầy, bốn anh ấy giống chú khỉ bị nhốt trong chuồng kín ở hotel Hưng Đạo 2: lòng và trí nóng như lò lửa, thì có tài giỏi đến mấy, cũng không biết đâu mà mò. Tuần trước, bốn anh trong nhóm chờ đợi bầy trẻ nhỏ ngủ yên, liền khều mấy bà qua phòng tôi, để bàn tính chuyện lủi xuống miền Tây. Vì, nghe nói tại miền Tây hoàn toàn bình yên tĩnh mịch. Vã lại Ngọc đã cho ba của anh đi xuống miền Tây dò đường đi nước bước trước rùi. Ngọc dặn dò ông ba nếu thấy tình hình bất ổn, thì ông lo tìm đường trở về Sài Gòn, hoặc đi ra Phú Quốc. Ngọc sẽ đưa bầu đoàn thê tử, “hò” bạn bè cùng nhau ra đi. Ý kiến cuối cùng: mình phải sáng suốt dứt khoát ra đi, khi thấy quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã triệt thoái hết về miền Nam, thì ở miền Tây ắt sẽ còn là nơi vững chắc như đinh đóng cột.
Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng đại lộ Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng: “Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi con ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây! Hở Trời!? Tôi vô cùng hối hận khi đưa gia đình về đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế”!
Trên những con đường lớn nhỏ đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về! Đi đâu?! Về đâu?! Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân. Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những đại lộ, gần trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị.
Thế mà bà mẹ Ngọc và hai cô Quy, Cúc, ung dung dẫn nhau đi từ hotel Hưng Đạo 2 tà tà qua chợ Đũi, xuống chợ Thái Bình dạo chơi, rồi ba mẹ con tấp vào ăn bún ốc, bún thịt nướng, ăn xoài, dưa hấu, thơm. Họ ăn xã láng... ăn đã đời. Mấy tháng trước lo lánh nạn súng ống từ Cam Ranh chạy riết về đây, ăn uống có phần tiết kiệm khổ sở. Bây giờ yên ổn nơi thành phố vinh sang giàu có, họ cũng sẵn tiền dư bạc rủng rỉnh như ai, ngày ngày ở không trong phòng ngủ không biết làm gì, chẳng lẽ có bộn tiền có vàng leng keng trong túi, nhịn thèm mà “ăn mì ngóng cháo ngó” sao. Thế là ngày ngày họ đem con cháu đi ăn hàng xã láng cho đã. Lúc nào về phòng ngủ cô Cúc cũng khệ nệ bưng thêm: Khi thì nãi chuối già hương to bự sư, mít ướt, mít ráo, hoặc một chục xoài cát thơm lựng. Do mấy bà vợ thừa nước đục thả câu, được đằng chân lần lên đằng đầu, cô Cúc cô Quy tha hồ leo lên đầu lên cổ đức ông chồng nhẫn nhịn hiền lành, thì vợ tha hồ ăn hiếp chồng. Cánh đàn ông nầy yêu quá hóa sợ mấy mụ vợ một phép, mặc “bà” muốn làm gì thì làm, lớp đàn ông im re xép ve:
Lỗ mũi mười tám gánh lông.
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o.
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà.
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm.
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. (cd)
Sau vài ba ngày no say ăn uống thì bà cụ Tài đau bụng, trên ói dưới té re, thổ tả thổ te tá lả hoài! Bà cụ Tài tái phát bệnh đau bao tử ói ra máu tươi, máu bầm, máu loãng, rồi ói ra mật xanh mật vàng. Bà ôm bụng gò lưng quằn quại rên la dữ dội. Anh Ngọc vội vàng thuê xích lô chở bà đi cấp cứu tại bệnh viện Sài Gòn. Đã biết là bà cụ đau bao tử kinh niên, mà còn dám “tộn” mấy thức ăn mát mẻ thế, nếu bà không đau bao tử, cũng bị té re là cái chắc mà! Không biết bà cụ trúng độc do ăn bún ốc, hay cụ ăn quá nhiều thứ mà “trúng thực”? Ngày ngày chúng tôi ghé vô bệnh viện thăm, thấy bà cụ có phần thuyên giảm. Ngọc bảo cô Cúc ở lại bệnh viện trông coi mẹ. Còn anh sẽ đưa vợ con, gia đình cô em gái là Quy, cùng chúng tôi đi xuống miền Tây trước. Lúc nào bà mẹ khoẻ hẳn, thì cô Cúc sẽ đưa mẹ đi xuống Bạc Liêu. Nghe thế, bà mẹ Ngọc dù rất yếu, bà lắc đầu quầy quậy, giẫy nẩy lên, chồm dậy khăng khăng nhất định đòi trở về hotel. Nếu có đi đâu, mà bà đi không nỗi thì cõng bà đi cùng, chớ không trước không sau gì cả. Bà rất sợ con trai bỏ rơi. Bà thất kinh hồn vía, không dám kêu rêu con dâu bắt bà nhịn đói, không rên siết trước mặt Ngọc, bà không dám ăn uống bậy bạ nữa.
Ngọc đành chìu ý mẹ già, anh đưa mẹ về nghỉ tại hotel Hưng Đạo 2. Thật kinh hồn, chúng tôi chỉ sợ lây lan hết cả đám, thì khốn. Bà phải ở cách ly mình ên. Ngọc đi rước bác sĩ tư đến khám bệnh ghi toa, liền đi mua thuốc về cho bà uống. Anh Bàn phụ Quy, Luật, khiêng những tấm nệm chuyển qua phòng của tôi, đặt nệm ở giữa nền gạch cùng nằm xếp lớp với nhau. Bốn gia đình ngủ chung hai phòng cho ấm áp tình người. Chúng tôi cảm thấy vui vui, cũng đỡ lo sợ và buồn. Do thế, chuyện dự tính cả nhóm về miền Tây trước ngày 30-4 đã không thành. Phần vợ chồng tôi, khi thấy tình hình bất an, thì Luật chạy đến nhà anh Tạo rước bà mẹ anh xuống ở phòng ngủ. Tôi đến nhà Yến Nga để hỏi thăm tin tức. Ở nhà, bốn đứa con của tôi tự trông coi nhau. Chẳng may bé Tồ bị đau bụng ỉa chảy té re. Bé Tu thay đồ cho em, giặt giũ áo quần, lau chùi phòng sạch sẽ. Bé DZi tắm rửa cho em, cõng em và dỗ em ngủ. Bé Bi sợ hãi chui vào gầm bàn trốn, và ngủ quên trong xó góc. Khi trở về phòng trọ, nghe các con nói lại, tôi sợ hết hồn. May mắn là bé Bi chỉ đi cầu hai lần. Tôi cho con uống thuốc, (tôi đã mua sẵn đầy đủ mọi thứ thuốc dự trữ phòng hờ). Ngày hôm sau con đã thuyên giảm nhiều. Tôi lo sợ là con bị lây chứng thổ tả từ bà cụ mẹ của Ngọc thì khốn!
Chỉ trừ những đứa trẻ ngây thơ vô tội là ngủ chập chờn trong bóng tối mờ mờ. Còn mọi người lớn thì tắt hết đèn đóm, ngồi tụ vòng tròn lại một góc phòng, nơm nớp lo sợ và mong trời mau sáng. Ngoài đường vắng ngắt đến ghê rợn, khuya Sài Gòn càng khuya càng hoang vắng lạnh lẽo, bầu trời vần vũ mây đen báo hiệu cơn mưa đầu mùa. Đến năm giờ sáng thì quả thật trời đổ cơn mưa rả rích, kéo dài hơn hai giờ trông thật ngao ngán. Cánh đàn bà lo chuẩn bị làm mì gói cho cả nhóm ăn, uống nước suối Vĩnh Hảo. Bốn người đàn ông bàn tính với nhau là: để tránh tai mắt người khác tò mò dòm ngó, và nơi nơi không biết tông tích của mình làm gì, ra sao, đi đâu, thì bốn anh sẽ đưa từng nhóm ra đi. Điểm hẹn là ở nhà thờ Ngã Sáu (nhà thờ thánh Jeanne D’ Arc, trong khu nghĩa trang Huê kiều, do người Pháp gọi là Plaine Des Tombeaux, ở 116b Hùng Vương, phường 9 quận 5). Luật hướng dẫn lộ trình chu đáo, anh nhắc đi nhắc lại ai không nhớ, thì ghi vào sổ tay, kẽo nơi xứ lạ không thuộc đường, lớ quớ sẽ lạc nhau. Cứ mươi phút là có một nhóm rời phòng ngủ. Làm như chúng tôi đi quỵt nợ, trốn nợ tiền phòng không bằng. Mặc dù chúng tôi đã chi trả hết tiền ba phòng nầy, và đặt cọc phòng thêm trước mười ngày. Anh Bàn không có vợ con gia đình bận bịu lu bu bên cạnh, nên anh rảnh tay dìu bà cụ Tài bệnh hoạn, cùng cô Cúc ẵm đứa con gái ba tuổi ra đi đầu tiên. Kế đến là gia đình Quy. Gia đình Ngọc, sau rốt là gia đình tôi gồm bảy mạng lủi thủi ra khỏi hotel. Tôi đứng trên cửa sổ tầng hai nhìn mấy anh chị lạ nước lạ cái cúi đầu lầm lủi ra đi, nhất là những đứa trẻ yếu ốm xanh xao, ngây thơ, hồn nhiên vô tội. Sao ai nỡ lòng để con em sớm bơ phờ nếm mùi đau khổ, gánh lấy nỗi ưu phiền, cơ cực đắng cay cuộc đời làm vậy! Tôi cảm thấy thật buồn.
Bốn nhóm gặp nhau ở nhà thờ ngã sáu rồi, lúc đó đã có nhiều người đi bộ, đi xe đạp, xe honda, xích lô qua lại trên đường đông đúc hơn. Tuyệt nhiên không thấy xe nhà, taxi hoặc xe bus. Chúng tôi ngoắt mãi vẫn không có chiếc xích lô máy, hay xích lô đạp nào chịu ngừng. Chẳng biết họ vội vã chạy đi đâu! Mãi về sau lâu thật lâu mới có hai chiếc xe ba gác trờ tới. Luật mặc cả giá xong, liền cho hai bà cụ cùng bầy nhóc ngồi lố nhố trên xe. Bốn anh kia phụ hai ông ba gác đẫy xe đi tà tà. Chúng tôi dắt díu nhau lẽo đẽo đi xuống khu Chợ Lớn. Quang cảnh ở Chợ Lớn khác hẳn ở khu Sài Gòn. Nơi đây ồn ào náo nhiệt đông đúc, người ta tụm năm tụm mười đông đen trên đường phố xí xa xí xô đi đi, nói nói, la la mắng chửi om sòm buôn buôn bán bán đủ mọi thứ. Thỉnh thoảng mới có chiếc xe bus khác tuyến đường chật như nêm vút qua chạy về hướng xa cảng miền Tây. Ngọc vào nhà bạn thân cùng làm việc ở gần chợ Tam Biên, để dò hỏi tin tức cập nhật. Luật cũng có bạn Thành ở đường Nguyễn Tri Phương. Lúc bạn hai đến nhà đó, mọi người trong nhóm ngồi bệt ngoài vĩa hè nghỉ mệt chờ đợi Luật, Ngọc vào hỏi thăm tin tức. Kiểm chứng lại những tin nghe ngóng suốt dọc mấy lộ trình, thì mỗi người nghe một cách khác hẳn, người nói thế nầy, người nói thế nọ càng hoang mang, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng, rối tung rối mù, không phân định được điều gì xác thật là đúng, điều gì sai. Toàn nghe những tin vu vơ mù mờ như vịt nghe sấm. Chúng tôi không rành đường dưới khu Chợ Lớn, nên cứ đi lo lắng sợ sệt đi lung tung loanh quanh đường nọ qua đường kia, đi vòng vòng khá xa Chợ Lớn. Chẳng biết tại sao chúng tôi quay trở về ngã Bảy? Khùng thiệt. Cuộc ra đi nầy thật vô duyên ngớ ngẩn hết chỗ nói. Thế là chúng tôi mò mẫm tìm về nhà thờ Huyện Sĩ. Tôi bàn với Luật để tôi đến khách sạn Hưng Đạo 2 lấy lại những đồ dùng cần thiết, đem đến nơi nầy. Luật quát mắng tôi:
- Coi chừng tiếc của mà toi mạng. Bỏ hết.
Tôi tiu nghĩu buồn xo theo các bạn vào cha chánh xứ xin cho ở nhờ ngoài vĩa hè trong khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ hình cung nhọn oai dũng với công trình thiết kế quy mô, đặc thù, tinh xảo, khang trang xinh lịch, còn được gọi là nhà thờ Chợ Đủi xây năm 1902. Thiết kế giáo đường do đức cha Bouttier kiến trúc theo phong cách gothique tuyệt tác tinh vi, cao sang với vật liệu đá granit. Do ông bà Huyện Sĩ Lê Phát Đạt giàu có nhất thời ấy bỏ tiền ra xây dựng. Sau khi tạ thế hai ông bà có mộ xây bằng đá cẩm thạch ở hậu cung.
Hầu hết mọi người quá mỏi mệt ngao ngán chán chường, chẳng thiết tha sự gì ngồi bó gối ủ rũ buồn chán nơi xó góc trong một lớp học bỏ trống. Ông trùm họ đạo nầy đi lễ về ngang chỗ chúng tôi đang ngồi co rúm một xó, thấy chúng tôi hốc hác, trẻ con bơ phờ lem luốc nằm la liệt lăn lóc trên vĩa hè nóng và hanh nắng. Ông vào tận nơi tôi ngồi ân cần hỏi thăm qua loa, rồi ông bảo tôi cử đại diện vài người đến nhà ông, để ông tiếp tế cho ít thức ăn. Cô Quy, Cúc và tôi lẽo đẽo theo sau lưng ông đến bên hai cánh cổng sắt màu xanh kín mít to cao lút đầu người.
Mở ổ khoá cánh cửa sắt nhỏ phụ kế bên, ông mời ba chị em vào nhà ba tầng lầu có vườn cây trước sân mát mẻ, rộng rãi, ngôi nhà bề thế sang trọng xây đá hoa cương lát gạch men bóng láng. Ông mời chúng tôi ngồi ở sofa da nhung đỏ. Ông đi xuống nhà bếp. Chúng tôi chưa kịp quan sát kỹ lối trang trí tân thời trang nhã vinh sang trong phòng khách, thì bà vợ ông trùm và mấy con cháu gì đó từ phòng bên cạnh, xách ra ba bốn tụng đồ ăn thức uống đầy nhóc, nhiều nhất là mì gói, bánh mì khô, cá khô, tôm khô, khoai lang, dưa leo và củ sắn. Thêm một tụng quần áo trẻ con, một tụng nhỏ hơn bốn tụng kia đựng độ năm bảy lít gạo, (bà vợ chu đáo lo đầy đủ, hình như bà đã nghe ông chồng kể lại, hay là gia đình họ đã từng làm việc thiện nầy, tôi không biết). Ba chị em tôi cảm động ứa nước mắt, rối rít cảm ơn lòng từ bi thiện nguyện của ông bà trùm họ đạo Huyện Sỹ. Khệ nệ bưng các giỏ xách về lại góc trường học, chúng tôi cảm thấy có phần vui vẻ an tâm. Cô Quy, Cúc và chị Ngọc chia nhau áo quần con trẻ. Còn tôi không nhận (vì đang có, tôi đã vứt bỏ lại ở hotel nhiều lắm, chỉ mang đi những bộ quần áo cần thiết, vậy mà các con mang vác còn không nỗi, nữa là tham lam chi mà quơ vô thêm sao).
Mấy chị em rủ nhau đi ra chợ Đũi mua hai cái nồi lớn, mua tô chén, muỗng, đũa, rổ, rá, củi, ba bó rau muống, mắm muối, chút bột ngọt, chuối cau, mua bình để nấu nước, mấy chai ni lông đựng nước (vã chăng thấy ăn uống tầm bậy tầm bạ ở ngoài chợ, sợ trúng nước đi “ị” té re như bà cụ Tài, thì khốn; chúng tôi không dám uống nước trà đá bán sẵn). Có tiền là có của tươi rau ngon mà xài tận tay ngon lành. Về lại chỗ cũ, Ngọc xin bà từ trông coi nhà thờ cho mượn hai cái lò để nấu ăn. Bà từ vui vẻ bảo chúng tôi cứ vào trong bếp tự tiện nấu nướng, khỏi mua củi hay mượn lò làm gì mất công. Nhưng chúng tôi không lấy củi của bà. Phụ nữ xăn tay áo lên lo làm bếp. Đàn ông đi tắm rửa cho con cháu, và tắm rửa chính họ ở ngoài giếng hay ở vòi nước. Chẳng mấy chốc nồi cơm trắng, canh mì gói nấu kèm với rau muống, trái bầu xắt nhỏ, khô cá sặc nướng, mọi thứ đã chín. Sau một ngày nhịn đói nhịn khát, kéo nhau đi thất thểu lang thang cầu bơ cầu bất ở ngoài đường mệt mỏi rã rời. Giờ đây cả nhóm ngồi bệt dưới nền xi măng, quây quần quanh hai mâm cơm nóng sốt. Một mâm dành cho trẻ con được cho ăn trước. Một mân cơm của người lớn thì ăn sau. Đây là buổi cơm tối thanh đạm, nhưng quả thật lần đầu tiên trong những ngày xa xứ, kể từ khi tôi về Sài Gòn ăn bữa cơm nầy cảm thấy rất ngon miệng. Thiệt đúng:
Đầu tôm nấu với canh bầu
Chồng chan, vợ ngó lắc đầu “ham ăn.”
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Mai sau có lúc nấu chung một nồi! (cd)
Lúc đó có hai gia đình ở Huế, Đà Nẵng di tản vào Sài Gòn, họ cũng tay xách tay mang, con cái đùm đề vừa vào xin ở nhờ, kế bên lớp học cạnh chúng tôi. Luật, Ngọc qua bắt chuyện hỏi thăm, rồi mời cả sáu người ấy qua bên lớp học nầy, vì chúng tôi nấu cơm và canh thật nhiều, nên nhân tiện mời họ dùng cơm. Hai người đàn bà tỏ vẻ e dè khách sáo hơn hai ông kia. Nhưng khi thấy chúng tôi thành thật chứ không qua loa mời lơi, họ cũng vui vẻ nhập vào nhóm. Cô Cúc đi lấy chén đũa của bọn trẻ vừa ăn xong, chạy ra vòi nước rửa sạch và đem vô. Chúng tôi vừa ăn vừa tỉ tê trò chuyện. Chỉ vài giờ ngắn ngủi, chúng tôi đã thông cảm và hiểu thấu những gian khổ, cơ cực trên bước đường gian truân lưu lạc, đồng hội đồng thuyền thật hợp ý nhau. Được biết hai gia đình Tâm và Phương có ý muốn về Phú Quốc, vì hồi xưa họ đã sinh sống ở đó. Nghe bạn mới tâm tình, chúng tôi hoan hỉ vui mừng như mở được tấc lòng. Vì quả thực chúng tôi rất muốn đi Phú Quốc, mà ngại một nỗi không rành đường, không biết lối mô tê, sợ lạc vào “mê cung Vẹm”, nên quá ngại ngùng. Tâm nói:
- Năm giờ sáng ngày mai phải ra bến xe bus Sài Gòn, đón xe đi một lèo tới xa cảng miền Tây, xe không ngừng ở mấy trạm phụ. Một ngày chỉ có ba chuyến xe bus đông nghẹt thôi.
- Thì ra bây giờ tôi mới hiểu: nguyên ngày nay chúng tôi đón xe bus lẻ tẻ dọc đường tới Chợ Lớn, mà chả thấy chiếc nào ghé trạm, là do vậy.
Thế là mọi người bảo nhau đi ngủ sớm. Phụ nữ rửa dọn nồi son chén bát, lau chùi chỗ nằm dưới nền xi măng, (vừa dùng nơi ăn cơm). Đàn ông lo lùa bọn trẻ về lớp học bên hông nhà thờ, để dỗ con cái ngủ. Chị em phụ nữ xin đi tắm nhờ ở nhà bà từ. Cũng may là ở trong miền Nam lúa gạo dồi dào cò bay thẳng cánh, hầu kịp thời cung ứng cho cư dân ở miền Cao Nguyên và miền Trung, sau mỗi khi thấp kém mùa màng hay thiên tai lũ lụt. Chúng tôi mò tìm về miền Tây là phải lắm. Thật cám ơn nông dân và cư dân ở miền Tây Việt Nam hết sức. Những giọt buồn lê thê xin gác lưng mây bay bay sau triền đồi Đà Lạt xa mờ xa nhé! Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão. Dù cuộc chiến tranh biêu riếu đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng? Ví dù như thế thì họ và tôi hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tin các cấp chỉ huy đã và đang dấn thân từ các nơi còn trụ lại, rải rác khắp nơi… có thể là:
- Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
- Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
- Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
- Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn… trấn giữ.
"Quốc hữu phân tắc thực" (nước có người giỏi, thì nước mới vững chắc). Mặc dù giàu sự dũng cảm hào hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: từ tất cả các binh chủng đang ở lại rải rác trên quê hương nầy; họ có kiên cường bất khuất anh dũng và oanh liệt; để quyết chiến đấu tại các chiến trường sôi động khói lửa, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào. Nhưng nếu họ không còn những vị “thủ lĩnh”, họ đã mất cấp lãnh đạo. Hoặc giả họ không có những vị chỉ huy nữa. E là thua chắc!
“Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!” (*3)


* * *


(1cd) = ca dao.
(2*) Thơ Tình thh
(3*) câu thơ của Nguyễn Gia Thiều.



tìnhhoàihương
Kính mời qúy độc giả xem thiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
vuotb ditan xe do.jpg
vuotb ditan xe do.jpg (20.96 KiB) Viewed 244212 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Hoang Dại Vết Chân Trần Trên Đường Quê

Post by tinhhoaihuong »

Những Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối
Phần Thứ Nhì
Chương 9


Hoang Dại Vết Chân Trần Trên Đường Quê





Sài Gòn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, không gian se lạnh khi màn sương nhợt nhạt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư vẫn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Bốn giờ khuya chị Ngọc và tôi dậy sớm, tôi nấu nước sôi chờ nguội để đổ vô bốn chai ni lông to. Tôi nấu ba lít gạo, rang đậu phụng làm muối mè. Chị Ngọc nấu canh mì gói trộn chung với rau muống, và chiên khô cá. Cơm chín, hai chị em lấy khăn ướt mỏng để nhồi cơm nóng thành từng nắm cơm vắt, xắt lát vừa vừa, tôi bỏ cơm vô hộp ni lông mang theo cho mọi người ăn ở dọc đường. Tôi gọi bọn trẻ dậy sớm, cho con cháu ăn chút canh mì gói. Các con cháu còn ngái ngủ nên ăn rất uể oải. Có lẽ do hôm qua đi bộ nguyên ngày giữa trời mưa, trời nắng chang chang nóng như thiêu đốt, nên bọn trẻ thấm mệt, rã rời, lừ đừ thân xác chăng? Sau đó phụ nữ lo quét dọn, rửa chén bát nồi niêu sạch sẽ, bỏ vào mấy cái bao cói (hôm trước ông bà trùm đã cho quà). Cô Quy và tôi bưng xách mấy giỏ mùng, quần áo linh tinh. Một lần nữa, tôi soạn mấy túi vải các con, (tôi đã may ngày hôm trước). Tôi chọn lọc ra mấy bộ áo quần gọn nhẹ, bỏ vào những túi vải cho các con mang theo thay đổi dọc đường. Những thứ ấy đem gửi nhờ ở nhà bà từ, xin cất dùm. Bà từ nói:
- Chị cứ để ở bên vĩa hè, không có ai lấy lầm đâu”.
Chúng tôi ra đi. Luật một tay dắt bé Bi, tay kia xách giỏ cơm vắt, muối mè, khô cá. Bà mẹ Luật mang túi vải bỏ thêm hai chai nước. Tôi bế bé Tồ, một khuỷu tay kia móc thêm hai túi xách quần áo, (của tôi và của bé Tồ). Bốn gia đình bạn thân là: Ngọc. Quy. Cúc. Bàn cùng nhập với hai gia đình mới là Phương, Tâm; tất cả hăng hái nôn nao vui vui lên đường. Chúng tôi lặc lè đến trạm xe Sài Gòn, kịp lúc có chừng năm chiếc xe bus từ các hướng đi khác nhau, vừa trờ tới. Các anh nhanh nhẹn lùa đám trẻ, đàn bà, lên xe bus đi ra Xa Cảng. Trên xe lác đác ba người khách. Nhóm chúng tôi ngồi sát gần nhau, người lớn cho trẻ con ngồi trên đùi mình yên ổn xong. Nhìn lui nhìn tới chỉ thoáng chốc thì người và người ở đâu túa ra đông nghẹt, chỉ có người lên xe không có người bước xuống. Hai hàng ghế kín mít không còn chỗ ngồi, hành khách đứng chật cứng trên lối đi lại. Thật là may, nếu chỉ chậm trể mươi phút nữa, kể như nhóm chúng tôi không bao giờ chen chân lên xe bus nỗi. Quang cảnh tại bến Xa Cảng miền Tây lúc tửng bưng sáng vô cùng náo nhiệt, hổn độn kinh khủng. Những trạm bán vé đông nghẹt người chen lấn ồn ào hơn vỡ chợ. Thế là nạn ăn trộm, cướp bóc, giật giỏ xách, móc túi, bấm dây chuyền, giựt bông tai, bốc hốt, mò mẫm bóp vú... loạn xạ. Dưới đất thì bọn du thủ du thực rượt đuổi huyên náo, đánh lộn, chửi bới inh ỏi cả một vùng.
Tới Xa Cảng miền Tây, đàn bà trẻ con nhóm tôi ngồi xép nép chò hỏ ở một góc kín sát ngoài cửa bến gần bức tường gạch, tạo thành một vòng đai tròn sát bên nhau (cho bọn trẻ con ngồi ở giữa), các con cháu đứa ngồi đứa nằm gối đầu lên những túi đồ đạc hèn mọn lỉnh kỉnh mang theo. Những người khách đi tới đi lui tò mò đứng lại lỏ mắt nhìn ngó lom lom bầy trẻ bị cái nóng Sài Gòn thiêu đốt, khiến mồ hôi mồ kê chảy ra như tắm, mặt mày con trẻ xứ Đà Lạt đa số xinh xắn, hai má đỏ au như dồi phấn, mắt to sáng môi tươi (suốt hai tháng nay bọn chúng sống lăn lóc, cực khổ, cù bơ cù bất, thiếu ăn thiếu ngủ, mà còn xinh như vậy!). Nhìn những đôi mắt phượng long lanh phảng phất mặt hồ thu Đà Lạt mơ màng, hai gò má phinh phính nõn nà hồng phấn của các cháu bé, khiến ai cũng thèm cắn một cái ghê! Họ trầm trồ khen bầy nhỏ xinh đẹp là phải! Chúng tôi giữ bọn trẻ chằng chằng, chỉ sợ mình sơ ý bọn trẻ sẽ bị bắt cóc, thì chết!
Mới tửng bưng sáng mà quầy bán vé treo bảng hôm nay “hết vé” rồi!!! Sáng nay chúng tôi chẳng thấy các phòng vé mở cửa bán vé. Nghe nói ngày mai có thể không có xe đi Rạch Giá. Mấy ông trong nhóm tôi đi đến phòng bán vé ở trạm xe Xa Cảng cứ kiên nhẫn xếp hàng chờ đợi mua vé, họ đứng mỏi rã rời chân từ chín giờ sáng, mà mãi tới bốn giờ chiều mới mua được vé xe đi Rạch Giá cho ngày mai. Mém chút nữa thì chả còn vé để mua. Vé xe khan hiếm đến độ chỉ bán có bốn năm người đứng xếp ở hàng đầu, đã đóng cửa với ghi chú: “hết vé” Thế là bao nhiêu vé đều tộn ra ngoài bán giá chợ đen, họ chả sợ bể mánh bể mung giữa chợ đời bát nháo! Bà sương phụ háy một cái thiệt dài cầm loa oang oang nói:
- Để tránh tình trạng ứ đọng hành khách, cũng như nạn lưu thông trì trệ, hay kẹt xe. Khi nào những đoàn xe hiện đang chờ trực tuyến đã xuất phát. Thì phòng vé sẽ tiếp tục mở cổng chính, cổng phụ, cho đoàn xe đậu từ ngoài đường vào bến chờ đợi lấy tài.
Úi Trời! Cả nhóm bàn nhau là nên ở lại bến xe, ngủ đêm tại nơi nầy. Nếu chúng tôi quay trở về lại nhà thờ Huyện Sỹ, cả “bầu đoàn thê tử” đùm đề lôi thôi lốc thốc toàn trẻ con nheo nhóc, người già yếu đuối và đau ốm, đàn bà lụ khụ thì quá bất tiện. E rằng ngày mai chúng tôi không thể đến đây. Biết có ra xe bus đúng giờ không? Có chen chân với hành khách để lọt vào cổng Xa Cảng, mà leo lên xe đi về miền Tây không!? Quyết định như thế thật đúng. Vì, sáng hôm sau, thỉnh thoảng tôi nghe thông báo ở trên loa phóng thanh rằng: Hét vé.
* * *
Nhóm phụ nữ yên ổn ngồi trong lòng xe đò cũ kỹ chật như nêm xong, thì đa số đàn ông phải leo lên ngồi trên mui xe, chẳng thể phản đối, hay càu nhàu cằn nhằn la mắng gì! Ai có vé mà không chịu đi chuyến nầy, thì chủ xe lập tức hoàn trả tiền vé lại cho cố chủ. Sẽ có người khác không ngủ qua đêm ở trạm bán vé vui vẻ mua vé chợ đen cao gấp năm lần tiền vé chính thức. Sao không ham. Chờ đợi giá biểu mới phiền toái và lâu lắc. Tự mình muốn cần đi đó đi đây chớ ai bắt. Thế nên lớp trai tráng ép bụng chịu thiệt thòi ngồi bó gối chút, hoặc ngồi lắt lẻo phơi đầu ngoài trời mưa tầm tã hay nắng chang chang một xí. Cũng đành!
Ông tài xế bảo tất cả mọi người xuống xe, chỉ trừ những ông bà già yếu ốm và trẻ con thì được ngồi trên xe. Còn mọi người khỏe mạnh phải đi bộ xuống phà Bắc Mỹ Thuận. Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn. Tôi mua cho cả nhóm bánh mì thịt, trái cây đủ loại, nào là mận, đào, chôm chôm. Bánh trái kẹo mứt bán nhiều vô số, mà thật rẻ. Thú vị nhất là các em bé bán chim cút lanh lẹ vui vẻ rao hàng:
. . . Ăn chim em đi anh.
Nè chim em mập lắm.
Nè chim em ít lông.
Chim em vừa mới lớn.
Anh ăn chim em không.
Chim em toàn những nạc.
Chim em chẳng có xương.
Anh sờ đi: toàn thịt.
Lại to hơn chim thường.
. . . Xe chuyển bánh nhè nhẹ.
Cô em còn ghé theo.
Chim em, chim rất nhiều.
Lần sau anh mua nhé. (1)
Đoàn xe lại bon bon lên đường xuôi về hướng Rạch Giá. Trùng dương sóng vỗ mênh mông, bạt ngàn nước cuồn cuộn nhấp nhô bên mạn phà to tướng, êm êm. Lần đầu tiên xuôi về miền Nam trù phú tôi cứ tưởng chỉ có phà Bắc Mỹ Thuận là to lớn sầm uất thôi. Nào dè, một lần nữa tài xế gọi mọi người xuống xe, để qua phà, thì tôi càng sửng sốt mở rộng tầm mắt nhìn Bắc Cần Thơ bao la, bát ngát, mênh mông sông nước rộng kinh khủng! Bờ nầy và bờ kia xa tít mờ xa ngàn trùng. Đúng là “đi cho biết đó biết đây. Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”. Đặc sản nổi tiếng nhất vùng là Bưởi Năm Roi múi to nhiều nước và ngọt lịm. Vú Sữa Lò Rèn vỏ mỏng hột nhỏ, khi trái vú sữa chín thì vỏ giống màu cẩm thạch, ruột trắng sữa. Có Dừa Sáp Cầu Kè nhiều nước và cũng ngọt lịm. Mít ruột đỏ múi dày giòn thơm ngon, và cả Dưa Bồn Bồn. Vân vân… như câu ca dao:
Bánh tráng Mỹ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
Măng cụt Hàm Luông.
Vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
Anh đây nói thiệt sao em còn so đo! (cd)
Ôi! Bao nhiêu là quà bánh đặc sản tươi rói ngon lành ở miền quê đều tập trung ở hai bến phà đông đúc, vui vẻ nhộn nhịp, tưng bừng nầy. Chị em chúng tôi chọn mỗi người mua một loại trái cây khác nhau, để mọi người trong đoàn ăn nếm cho biết vị ngon của lạ trên quê hương.
Bến Tre giàu mía Mỏ Cày.
Giàu nghiêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Bến Tre biển cá sông tôm.
Ba Trì muối mặn Giồng Trôm lúa vàng.
Biên Hòa có bưởi Thanh Trà.
Thủ Đức nem nướng Điện Bà Tây Ninh. (cd)
Xe vun vút chạy qua bao nhiêu cầu, bao nhiêu phố xá, ruộng lúa vừa gặt xong còn trơ cuống rạ, vô số cò diệt, le le, bay thẳng cánh, ngút ngàn. Vườn tượt kinh rạch làng mạc sông nước hai bên chập chùng. Quê hương mình muôn màu muôn sắc, mỗi nơi có một vẻ đẹp tuyệt vời riêng với mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Trên ghe thuyền thương hồ mái chèo tung tăng quẫy nước, vẵng tiếng hò câu ca vọng cổ đó đây, chen lẫn với những cây đàn cò, đàn guitar cùng tiếng trống bập bùng rộn rịp bồng bềnh nhấp nhô trôi theo ghe thuyền sông nước mây trời. Có chợ nổi lớn và các mặt hàng hóa treo lên một cây sào cao, hoặc bỏ trong nhiều giỏ cần xế to, nào là Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ, chợ nổi Phụng Hiệp bán rùa, chim, sóc, kỳ đà… rắn đủ loại quanh năm, chợ rất lớn là nơi tuyệt vời to nhất. Chợ nổi Cái Bè. Những chợ nổi ở miền Nam ôi bán mua bạt ngàn đủ loại trái cây, dừa, dưa hấu, gạo củi, rau, tôm cá, áo quần, mùng mền gối chiếu, kể cả các mặt hàng ăn uống nhậu nhẹt như: Bánh cuốn, phở gà, cháo vịt, cơm, bún, vân vân... và vân vân... đều được bán trên sông ròng nước lớn.
Lòng tôi cảm thấy nao nao cảm xúc ngọt ngào dịu nhẹ lâng lâng dịu nhẹ dạt dào ngẩn ngơ. Hạnh phúc lang thang rót rót tơ vàng trong lòng tôi trôi theo dáng hoàng hôn hây hây, lung linh huyền ảo với sóng trường giang rộn ràng đập bên mạn thuyền thao thức. Cảnh vật huyên náo vui nhộn không kém phần đặc biệt thi vị thơ mộng: đã thể hiện vào câu hò, điệu lý, được lưu truyền từ xưa đến nay:
Dòng sông thì rộng mênh mông.
Áo em lại thắt lưng ong làm gì?
Anh từ Xà No đến.
Em từ Ba Láng sang.
Sợi tình yêu ai dệt.
Trên mặt nước mênh mang.
Bảy sông dồn nước cuồn cuộn nước.
Phù sa lớp lớp quyện phù sa... (2)
Ngồi trên xe ở quảng đường từ Sài Gòn tới Tỉnh Kiên Giang là ngút ngàn 250 km, đường dài khá dài hay lắc lư giồnh xóc, nên ai nấy đều hốc hác, mệt mỏi, bơ phờ, lừ đừ, choáng váng. Hà Tiên và Rạch Giá cộng lại hợp thành Tỉnh Kiên Giang gồm bảy Quận: Kiên Lương. Kiên An. Kiên Bình. Kiên Tân. Kiên Thành. Phú Quốc. Tỉnh Kiên Giang bắc giáp Campuchia, đông bắc giáp Tỉnh Châu Đốc & đông giáp Tỉnh An Giang Phong Dinh, đông nam giáp Tỉnh Chương Thiện. Nam giáp Tỉnh An Xuyên. Thắng cảnh và di tích có: Đình Nguyễn Trung Trực (đền thờ còn có tên Nam hải Đại tướng quân) tại khu bến cảng Rạch Giá. Có chùa Tam Bảo tại phường Vĩnh Bảo. Lăng Mạc Cửu là người có công khai phá đất Hà Tiên. Ở tại Rạch Giá có nhiều kinh rạch, sông ngòi chằng chịt nầy có diệt, chàng bè, le le ở đâu mà kêu inh ỏi, bay lượn trên không trung rồi đậu trên những cây cau, dừa..., nhiều vô số kể. Cò, chàng bè, diệt về làm tổ, mùi phân hôi kinh khủng, thật khó ngửi. Vài người trong nhóm bị chúng "ị" dính trên tóc, vai, cùng áo quần. Tới cầu sắt lót ván dày cả tấc hơi thưa. Bên tay mặt là Ty Bưu Điện, Ty Ngân Khố, Toà Hành Chánh có đình thờ vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, vị anh hùng đã đốt tàu Tây ở sông Nhật Tảo.
Xe xuống tới bến đậu Rạch Giá, tất cả hành khách đã mỏi nhừ, toàn thân ê ẩm, mệt lắm! Mệt nhất có lẽ là đám đàn ông đã ngồi trên mui xe khi trời mưa hoặc nắng chang chang, ai nấy đều đổ mồ hôi hột, quần áo xốc xếch, lấm lem khói và bụi đỏ đường trường. Tâm và Phương đi vội tìm nhà người quen cũ, chẳng may những người thân xưa nay đã dời đi làm ăn tận miệt Châu Đốc, hay Cầu Ngang gì rồi. Ai nấy đều cảm thấy vô cùng thất vọng, càng bơ phờ mỏi mệt và chán ngán, bơ vơ trên đường Nguyễn Trường Tộ. Bỗng nhiên trời kéo mây đen và đổ mưa xối xả. Nhóm chúng tôi vội vàng chạy đến núp trong một ngôi nhà thờ tô màu gạch hồng. Nhà thờ vắng hoe Không một bóng người đi cầu kinh dâng lễ, giáo đường an tọa bên cạnh một trường học gạch màu hột gà xinh xinh, cửa lớp sơn màu xanh biển, bốn bề cổng đóng kín cửa cài then cẩn thận, mấy cây phượng đỏ đứng giữa sân tả lả lìa cành. Thật ngao ngán buồn xo những vết chân trần lạnh giá đang dẫm trên đất bùn quê hương sau cơn mưa giông. Thì ra thi sĩ Kiên Giang (Hà Huy Hà) đã từng nhỏ những giọt thơ tình say đắm bất hủ trong bài: “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” có thể là ở nơi nầy chăng:
. . .Trường anh ngó mặt giáo đường.
Gác chuông thương nhớ lầu chuông.
U buồn thay! Chuông nhạc đạo.
Rộn rã thay! Chuông nhà trường.
. . . Tôi đang dẫm lên ngàn xác phượng đỏ rực rỡ dưới gót chân hoang lúng túng buồn xo và ngại ngần rón rén bước. Hoa phượng đỏ bay tản mạn trong nền trời u ám buổi chiều hôm, giống như từng khối buồn đọng xuống vũng tâm tư tím ngắt, ưu sầu, tối đen. Nhìn quanh, tôi thấy khu xóm nầy trống vắng, đơn điệu quạnh hiu quá chừng. Có lẽ tôi là người khách lạ ở trên quê hương của chính mình đang ngẩn ngơ đứng tư lự, bơ vơ lạc lõng giữa thôn xóm buồn bã đìu hiu?! Nhóm tôi lủi thủi lê bước đi qua xóm đạo, tấm lưng còng xuống bao cố gắng chống chọi dưới sức nặng thăng trầm thương đau. Nơi có những “con đường đất đỏ bụi phủ mờ gót lạ” vắng ngắt buồn vời vợi trầm lắng sao đâu, buồn đến rờn rợn từng sống lưng gáy tóc. Đi trên xóm đạo nầy; khiến tôi nhớ bài thơ “Tha La Xóm Đạo” của thi sĩ Vũ Anh Khanh (ông tả về Tha la Xóm Đạo ở Tây Ninh, nhưng… ở đây là một xóm Đạo, cũng như tâm tư của tôi khi lạc bước hồng trần và hơi giống nơi kia):
. . . Đây Tha La một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt cây lành im bóng lá.
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ,
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ.
Về chi đây hởi khách, có ai chờ! Ai đưa đón?
Xin thưa, tôi lạc bước,
Không là duyên, không là bèo kiếp trước.
Không có ai chờ, ai đưa đón tôi đâu.
Rồi lặng yên khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ.
Nay tôi tận mắt ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên tuyệt diễm hữu tình, và chứng kiến cảnh đời lênh đênh sông nước, muộn phiền, trầm uất. Tôi là người khách lạ lạng quạng bước thấp bước cao lạc lõng nơi đây, thật vô cùng đơn độc, xa lạ trên chính quê hương Việt Nam cẩm tú dấu yêu, mà chưa một lần tôi ghé qua để hân hoan ngắm nhìn. Có thể đây là lần đầu tiên tôi biết phong thổ miền Nam quê hương dấu yêu, dù chỉ một lần nhưng một đời hoài niệm. Tôi cảm thấy bùi ngùi xót xa, hụt hẩng dâng tràn bao khái niệm sâu lắng mơ hồ trong kiếp sống. Lòng tôi quặn lên nỗi vò xé giao động mạnh, từng cơn nghẹn đắng cổ, đau đớn, mất mác, chua cay khôn lường trào sóng. Ôi! Thấm thía buồn. Tôi đứng lặng một hồi khá lâu, dường như chôn chân trước giáo đường: Không ngờ thi sĩ Kiên Giang & thi sĩ Vũ Anh Khanh đã gây cho tôi nỗi xúc động sâu xa ngút ngàn thăm thẳm đến thế! Qua thơ ca của các ông, và nay tận mắt nhìn trời nhìn đất nhìn mây bay, lòng tôi trĩu nặng ưu buồn, phiền não kỳ lạ! Tôi đi về miền Tây, nhìn tổng thể và khái quát thì đây là một nơi hình thành bởi phù sa và những giồng cát màu mở trù phú phì nhiêu, là miền đất hứa hẹn sung mãn giàu mạnh, tôi cảm thấy cái gì cũng mới lạ, vui thích khi xe từ Xa Cảng chạy về Long An giữa hệ thống Đồng Nai và sông Cửu Long, là cửa ngỏ nối liền từ các đồng bằng nhà cửa thôn quê, sông ngòi kênh rạch chằng chịt, ruộng vườn xanh tươi chạy thẳng tắp. Đồng thời phong cảnh nhà cửa cây cối trải ra bởi hai triền sông lớn là Vàm Cỏ Tây và Vàm Cỏ Đông. Tôi nôn nao bồn chồn muốn nhìn ngắm từng gò, đồi thấp, đồng bằng phì nhiêu, chốn danh lam thắng cảnh gần gần những vùng xe đò vừa bon bon đi qua. Thật là thú vị và mến thích quê hương giàu đẹp xiết bao! Cảnh đồng quê gợi lên trong tôi bao ý thơ:
Hoàng hôn buông những chiều không tròn ý.
Hoài trống vắng xin đời chút thi vị!
Bỗng nghẹn ngào thấy trời đất phân kỳ.
Thế giới nào đưa anh đến gần tôi.
* Tình trao tặng rực đồng hoa lúa mới:
Mắt trìu mến chiều buông tình dịu vợi.
Mình hiểu nhau sâu sắc nhớ đầy vơi…
Trên thế trần vun hạnh phúc nhỏ nhoi.
* Tuổi vàng anh đời tươi vui một thuở.
Kết chúng ta xích gần lại bên nhau.
Đối diện tình trường se thắt tim đau…
Đời muốn vui trên tuyến đường sum hiệp.
* Đồng cảm tin yêu không nhiều hạn hẹp.
Anh và tôi nụ chân tình quá đẹp!
Có mấy lần tôi hỏi: "Bạn ở đâu"?
(Nơi mình về ngấn nước chảy loanh quanh…
* Nhặt niềm vui lẫn nỗi đau song hành.
Chín Rồng chiều Vàm Cỏ ngàn tơ vướng.
Vĩnh Bình Sa Đéc bằng hữu Vĩnh Long.
Bến tình Sông Hậu trên đỉnh yêu thương).
* Vâng! Tôi chúc bạn: "hạnh phúc an khương" (*)


* * *


(1) Thơ sưu tầm & lượm lặt.
(2- cd) = ca dao.
(3) Thơ: tìnhhoàihương


Kính mời qúy độc giả xem thiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
VUOT BIEN DITAN 30.jpg
VUOT BIEN DITAN 30.jpg (44.62 KiB) Viewed 244153 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Ngố Ngáo Ngu Ngơ & Dấm Dớ. . .

Post by tinhhoaihuong »

:evil: :oops:


Tháng Năm Vô Cùng Đen Tối
Phần Thứ Nhất
Chương 10


Ngố Ngáo Ngu Ngơ và Dấm Dớ



Chiếc xe đò cà tàng, thổ tả, lọc cọc, rệu rạo lăn bánh trên những cục đá dăm khi hoàng hôn nhè nhẹ quệt đường nắng yếu ớt, sóng sánh trên dòng sông mờ mờ, thì chúng tôi thực sự đặt chân về miền Tây lúc trời mưa thật lớn. Nhóm tôi đã trải qua một đoạn lãng du dài dằng dặc giữa trời đất tĩnh lặng bao la, hoang sơ, lãng mạn trên nẽo đường gió bụi trôi về xứ lạ, nơi vừa cũ vừa mới, vừa họa, vừa phúc, vừa lương thiện, từ bi lẫn tội ác quyện bện vào nhau, mà tôi không ngờ! Nhưng lòng trí ai nấy đều nôn nao, bồn chồn, lo âu thấp thỏm: vì xứ lạ phương xa, mà đa số bạn của tôi và tôi chỉ biết ngao du qua sách vở, chứ tôi chưa hề thú vị chứng kiến sông nước ruộng đồng bao la, vườn tượt xanh um bóng mát, như nhà thơ Bùi Giáng đã nói:
Chào Lục Tỉnh thu về xuân nức nở.
Ở trong cây trong lá ở bên sông.
Dòng nước chậm chần chờ con sóng chở.
Còn không em? kỷ niệm ở bên lòng!
Và:
Chưa đi chưa biết Bến Tre.
Đi rồi mới biết toàn tre với dừa.
Dừa to dừa nhỏ dừa vừa.
Trèo lên tụt xuống nước dừa đầy tay. (2)
Xuống đến Rạch Giá cảnh vật thôn quê thơ mộng nhưng đa phần nhà cửa cư dân vắng vẻ, xóm làng quạnh hiu vô cùng, thì nhóm tôi hoàn toàn bị lạc lõng, xa lạ, đơn độc buồn thiu đến độ nào. Chúng tôi líu ríu dắt díu nhau đi tới chỗ lạ cái, lạ nước, lạ hoắc, thật lúng túng bất tiện trăm bề. Nhóm người già trẻ lớn bé nầy chẳng hiểu sao lòng cảm thấy bất an, lo sợ, e dè, lấp ló thập thò, kín đáo dè dặt ngó quanh, nhìn trước ngó sau lén lút như kẻ gian, kẻ trộm, hết cả đám có miệng mà như câm, không ai dám hỏi thăm khi dân địa phương nhìn chúng tôi chằm chằm, xoi mói. Không có bản đồ địa phương, không rành phong thổ cũng như tập quán nơi đây, không thấy xe xích lô, không tìm ra khách sạn hay phòng trọ nào. Thế nên đã nhiều giờ nhóm tôi đi lạc lung tung. Sau đó:
Hỏi em, em đã đi rồi.
Hỏi chim, chim chỉ mỉm cười bay đi,
Hỏi cha, cha chẳng biết gì.
Hỏi sư, sư bận vội về tụng kinh.
Hỏi cô hàng xóm làm thinh.
Hỏi nàng bán bánh cười tình không hay.
Nhìn trời một đám chim bay... (2)
Duy có điều quan trọng là dù chúng tôi ngu ngơ ngố ngáo nơi quê hương thân yêu, cũng phải cương quyết rứt áo ra đi, phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Đang ngơ ngác, bồn chồn, lo lắng khi trời đã về chiều, mà chân chồn gối mỏi, đúng lúc đó chúng tôi văng vẵng nghe:
Đạt là chàng trai yêu xứ Đà Lạt.
Anh “pLê mê” đi lính ở Plei-me.
Cầu ma bà xã tui đi Cà Mâu.
Cây còn xa quê mình nhớ con cầy.
Lợn sang đồng lo chạy rông Lạng Sơn.
Hiền ta ra hiên tà thấy Hà Tiên.
Chúng ta hoan hỉ tá chung chiếc thuyền.
Ngày mai anh Viễn định xuống Vĩnh Điện.
Cao Bằng đau bụng đụng bao căng bào.
Trai Hà Giang chỉ cơm hỏi hàng gia?
Đi Lai Châu gót chân mình lâu chai.
Gái Hà Đông đa hồng hỏi Đông Hà.
Cán ngố trên rừng cố ngán không khóc.
Con cóc vàng trên đàng bị cán vọc
Tớ chổng khu hỏi chủ không chổng khu?
Cù Lao Chàm càm ràm chú cào lu.
Tên “Plu-kê” chạy rông đi Plei-ku.
Quê hương vạn thuở hang vượn lu bù… (1)
Chúng tôi tần ngần do dự đứng khựng lại trầm lặng hồi lâu, lắng nghe bọn trẻ choai choai dé dé xíu xíu khoảng độ tuổi mười lăm mười sáu, có lẽ là nam nữ sinh trường Trung–học gần đó đang ngồi trên sân đình, các em vui vẻ trao những câu “thơ thẩn tiếu lâm dám xướng ngôn vô loại” lên đấy, cười ha hả mà không sợ bị bọn du kích 30 tống giam, thì trong dạ tôi vui mừng như mở cờ, ruột hớn hở đánh lô tô tưng bừng mà nghĩ rằng: “ở đây có lẽ còn khá tự do dễ chịu, chắc là còn thoải mái yên bình ca hát, ngâm thơ, hát câu vọng cổ... bên sông nước mơ màng”: cũng có thể làm cho người lạ xích lại gần kề, thân ái gợi chuyện làm quen, làm thân một cách dễ dàng, cởi mở. Anh Bàn liều đi tới hỏi thăm đám trẻ, các em trai lanh lẹ vui vẻ chỉ lối đưa đường cho nhóm tôi biết: nên đi về hướng chợ nhỏ ở xa xa. Mấy anh dấm dớ dò dẫm qua một chiếc cầu gỗ cũ, tới trạm mua vé tàu thủy, dự định ngày mai cả nhóm sẽ đi Phú Quốc.
Chiều tà ở tại Rạch Giá từ bước chân khách lạ cô đơn trên đường chiều khiến lòng tôi buồn vô hạn, đứng trên cầu gỗ nhìn về phía góc vườn dừa rợp bóng nhà ai sông nước chập chùng. Có chút tâm hồn đa cảm và nhạy cảm... khiến tôi cảm thấy nơi đây thật sự kỳ diệu thanh bình lãng mạn lắm. Lòng tôi càng xúc cảm vấn vương nỗi buồn thê thiết, khi thấy mấy giang thuyền lạnh lẽo lắc lư nằm im ỉm, trơ trọi bên những cầu tàu quạnh vắng, làm thức dậy trong tâm trí tôi hình ảnh dĩ vãng lãng đãng mộng mơ thiết tha thật gần; nhưng bây giờ đã rời xa... xa mờ xa nơi chân trời mê-hoặc, xao xuyến mông lung bao tiếc nhớ, bâng khuâng lặng lờ nỗi đau sâu thẳm: Đâu rồi những anh thủy thủ phong trần trẻ trung vui tính ưa huýt gió, vui vẻ, xinh lịch, oai hùng, hào hoa trong bộ quân phục Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trắng tinh, mặc bộ quân phục với niềm kiêu hãnh vinh quang hào hùng trong dĩ vãng? Mặt nước có còn in bóng chàng trai phong sương đa cảm, đa tình vu vơ nhìn mây trời xanh bát ngát? Dưới đáy thuyền sóng cả cuồng phong thịnh nộ ngày ấy vỗ nước bồm bộp vào mạn thuyền, đẫy đưa anh lính Hải-quân có cuộc sống hào hoa phong nhã lang bạt xây mộng giang hồ đi tứ xứ! Ý chí của bạn và tôi bây giờ chỉ còn là ảo ảnh: trăng tròn giữa lòng sông lắc léo dòng chảy trên luống đời điệp trùng bóng tối. Tiềm ẩn trong tâm hình ảnh đường chiều nâng ước vọng dâng cao với bài thơ: Vừng Quang Rạng:
Thuyền Hải Quân chập chùng lướt biển mặn.
Anh sông hồ đời dọc ngang áo trắng.
Tình sao biển trùng phùng hội hoa đăng.
Giang hà kinh lạch sớm chiều mưa tuông.
* Hoàng hôn về tàu nhấp nhô lên xuống.
Cánh buồm căng gió tơ rung vương vướng.
Sóng thủy triều đùa giỡn ánh tà dương.
Cỏ bên đường ủ vệt trăng nghê thường.
* Em e ấp đứng dưới hàng thùy dương.
Anh ngẩn ngơ khuya Vàm Cỏ ven đường.
Mây âm thầm xõa tóc trên ngấn sương.
Tiếc thương ơi! Ngày quê hương bất hạnh!?
* Bao năm triền lá đổ… biệt ly anh.
Chiều Sông Hậu vàng phai áo mong manh.
Dòng đời muôn lối bóng ai dãi dầu.
Gót giày đinh xưa nốt nhạc... Hải âu
* Như tình ta hoang phế; anh ở đâu?
Chắp đôi tay nhìn Thượng Đế nhiệm mầu.
Đường hải trình vạn dặm quá băn khoăn!
Sóng trùng dương xin kỳ ngộ Bích Câu.
* Ở phương nầy chờ đợi những canh thâu.
Nếu ngày mai anh quá bước lên cầu.
Giữa nhịp nối em quỳ trên bệ đá.
Vừng quang rạng mình nhớ nhau dài lâu... (1)
* * *
Đến gần chân cầu sắt dày cui lót gỗ bên kia trạm vé, thì có một khu nhà tôn chen lẫn nhà lá tồi tàn, nhưng đã đem lại lòng tôi sự ấm áp rộn ràng rạo rực niềm vui, chen lẫn sự xót xa chân thật: khi tôi nhìn cư dân địa phương vất vả, thiếu thốn, nghèo nàn. Các anh vào thuê mấy chỗ trọ. Không phải là phòng trọ như ở nơi khác có phòng riêng sạch sẽ tươm tất, mà lán trọ ở đây giống như khu nhà trống tập thể, hoàn toàn không có cửa nẽo, chỉ là những hàng ghế bố cũ mèm nối dài, mái lợp lá dừa trống trơn, hơi giống patio bốn bề lộng gió. Nước mưa lộp độp trên mái lá, bùn đen sền sệt dưới chân ghế bố luôn luôn ướt nhẹp, mốc xì, đen thui, ghế bố có nhiều gián, rận, rệp hôi rình, thậm chí có cả chí mén, chí cồ bò lổm ngổm trên gối. Thế nhưng người ra kẻ vào lội nước lủm bủm vẫn tấp nập ồn ào ngược xuôi đông đúc lắm.
Chị Ngọc, Cúc, tôi vội vàng xẹt ra khu chợ xép nhỏ gần xịch một bên, chị em tôi chẳng buồn hỏi khu chợ nầy có tên gọi là chợ gì. Mỗi quầy hàng là một cái chòi bằng tre lợp lá dừa, giống túp lều nho nhỏ luôn kêu kẽo kẹt, nước bùn đen đen đọng dưới chân cột và trên đường nhựa. Quán xá lộn xộn, họ bán đủ thứ: cá, tôm, sò ốc, rùa, ếch... Úi trời! có nhiều con rắn uốn éo thân, cái lưỡi chẽ đôi thò ta thụt vô còn sống, cả những chú chuột đồng lông lá lưa thưa có móng nhọn dài to bự sư. Coi thật gớm à! Chị em tôi mua nhiều tôm tươi, cá trê vàng, cá sặc bướm, cá sặc rằn. Rồi day qua hàng khô mua gạo, mua một trái thơm, rau sống, cà chua, mua củi. Họ thật thà hào phóng bán trái cây tươi rói, tính một chục là 16 trái xoài bóng láng, mập ú, thơm ngon. Họ không nói thách, không làm hàng màu mè: không chất thứ to bỏ làm hàng mặt ở trên, trái nhỏ chêm ở dưới thúng, mà có sao họ bán vậy. Dân quê và dân chợ đa số khá hiền lành chất phác, vui vẻ chăm chỉ thật thà. Họ nói ở đây cái gì cũng tươi và rẻ nhất là: cá, tôm... Nhưng họ khó kiếm ra tiền, vì nhà nhà ai ai cũng có cá, có tôm. Thịt ếch và các loại cá ở miệt nầy càng rẻ rề, thì đem bán cho ai đây, để có tiền xây xài?
Chúng tôi xin bà chủ nhà trọ cho mượn mấy cái son nồi, nấu nhờ bữa cơm tối. Bà chủ nhà vui vẻ dễ dãi nhận lời. Chị em tôi xúm lại người nấu cơm, người làm cá, lớp kho, lớp nấu, chiên xào... Đây là bữa cơm đặc biệt đầu tiên, có thể cũng là bữa cơm cuối cùng tại Rạch Giá. Nhóm chúng tôi ăn uống no nê, dư dả và rất ngon miệng. Sau đó chị em bưng nồi niêu son chảo ra bờ kè rửa ráy, rồi trả lại cho bà chủ nhà tốt bụng. Chị em cho các con ra sông tắm gội sạch sẽ.
Khi màn đêm buông xuống, tôi nhìn bên kia kinh lạch tối om vì không có điện, bên nầy ngọn đèn đường tù mù hắt ánh sáng yếu ớt vàng vọt, giống như đèn đêm lốm đốm lập lòe ở khu nghĩa trang, thiệt cảm thấy quá nãn. Đêm buồn nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên lá, gió lồng lộng rít rít từng cơn, thổi bay tấm mùng vải cũ ố vàng đen đen, khiến cái lạnh càng về khuya càng ngấm xuyên qua da thịt tôi thêm dúm dó và rùng rợn. Bầy trẻ suốt ngày đi đường quá vất vả, nên tắm gội xong, chúng vừa đặt lưng xuống ghế bố, là đã “phè cánh nhạn” ngủ say. Riêng bọn già nầy thì bồn chồn, băn khoăn, lo lắng, không sao chợp mắt, dù chỉ vài phút. Thỉnh thoảng có đám tuần tra đi ngoài đường nói cười rổn rảng sát ngay bên ghế bố nơi Luật nằm. Tôi không biết họ đang oang oang chửi gì, chửi ai!? Chửi số phận nghiệt ngã đã trao cho họ: phải xách súng đi ngày đêm kiểm soát dân; từ buổi giao thời mới có “tự do hạnh phúc”?! Hoặc hắn tự chửi mình ngoảnh mặt làm lơ nhìn người khác hả hê trả thù dân tộc!? trợn mắt sung sướng nhìn đồng bạn tuông trào những lời cay độc, hét to từng tiếng lát gừng thị oai:
- Tên gì?
- Ai đó?
- Đi đâu?
- Kiểm tra giấy tờ.
Anh em thằng Tùng (con của Ngọc) giật mình thức giấc vì tiếng quát, thằng Thắng xù xì hỏi anh nó:
- Mấy ông kia có phải là lính mình không anh Hai? Lính Thủy Quân Lục Chiến mặc đồ đen, quàng cờ xanh đỏ, cánh tay đeo băng đỏ đó anh.
- Tầm bậy tầm bạ! Mầy đoán già đoán non, mà ngu như bò! Thủy-quân Lục-chiến oai lắm, họ mặc đồ xanh rằn ri, đội mũ màu xanh cứt ngựa, mang giày đinh.
- Vậy à… em cứ tưởng mấy ông kia là người trong đảng ca ca ca chi đó.
- “Ca ca” tiếng Tây nôm na là cứt nghen. Còn đảng K K K... là là… thời da trắng ám sát da đen, khi Nam Bắc phân tranh bên xứ Mỹ. Không có ở đây! Biết không?
- Thì… thì em thấy mấy ông du kích nầy có khác chi…
- Xuỵt! Mầy có câm ngay cái miệng ưa bép xép không!?
- Em không biết, mới hỏi chút xíu, anh làm gì dữ vậy!
- Coi chừng cái... bản mặt đó. Thấy thì biết.
Nghe hai cháu nhỏ “nóng ruột” từ lời nói, còn tôi “nóng ruột ứa gan” từ trong tim! Thành phố khiêm nhường bé nhỏ nầy đã trở nên trơ tráo hơn, khi có quân giải phóng miền Nam tới với những thứ lạ, thứ mới, có ít thứ tốt và nhiều thứ xấu, lắm thứ dữ. Một ông già chệnh choạng thất thểu bước thấp bước cao, và mấy thanh niên đứng xớ rớ dưới cột đèn mờ mờ, ông già ấy đã bị móc túi, không còn giấy tờ tùy thân, không có tiền xì ra. Cha con ông cháu nói dai, ú ớ van xin lằng nhằng lải nhải, liền bị một du kích địa phương dùng báng súng đập ông già bể một mé đầu, vọt máu tươi. Tên du kích ấy bắt ông già bó gối, hai tay đan vào nhau, chấp lên đầu chung với đám thanh niên: Khổ thiệt, ở thời buổi giao thời nầy, sao ông dám mở miệng phân bua, với ai hì! ông lẩm cẩm không nhớ cho:
Phong lan, phong chức, phong bì.
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn.
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra.
Chỉ còn cái phong thứ ba.
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui. (2)
Bị thương ngoài da rồi sẽ có ngày lành, nhưng tổn thương trong lòng dù không ai trông thấy (vì chuyện không đáng), nhưng đau dài lâu. Luật tức giận cành hông, anh dợm đứng lên nhảy ra can thiệp, nhưng Ngọc nhanh tay lôi giật Luật và ra dấu im re nằm xuống câm mồm, coi chừng đầu không phải phải tai. Cổ họng ai nấy đều đắng nghét như ngậm vốc trà khô. Trà đắng có thể không thích nghi với thổ địa bởi tại phong sương, hoặc trà chát, chua, bởi tại tình người? Vã chăng, khi chiều chúng tôi nhìn “mấy tên 30”, hoặc ngó ai ai thì cũng thấy họ tò mò nhìn sững mình không chớp mắt, chả biết đâu là thù, mô là bạn! Nhiều người ra vào ở phòng trọ nầy mặt lạnh như tiền. Chớ tôi có tật gì mà giật mình!? Đúng. Một số ít dân cách mạng lâm thời đội mũ tai bèo, mang súng AK trong buổi giao thời, bên cánh tay cột khăn vải đỏ, cổ mang màu cờ nửa xanh nửa đỏ, họ hầm hầm nhìn ngó chúng tôi trừng trừng, nhìn muốn nổ con mắt, muốn trợn trừng tráo trưng ăn tươi nuốt sống.
Nếu ví như có những điều tự trong thâm tâm qúy vị đang trong sáng, bỗng một sớm một chiều trở nên âu sầu, băn khoăn, suy tư, lo lắng, bâng khuâng ray rứt về cái ngày ngày 30-4; ngày lịch sử bất hạnh là một giòng chảy không bao giờ chảy ngược lại! Hoặc giả qúy vị hay tôi cầm bút viết lại, nói ra, lượt thuật, lượm lặt sưu tầm đó đây nhã ý là: do ta chỉ ước mong bộc lộ những uẩn khúc quá đau lòng tự thâm tâm trong đời sống thực. (Có lần tôi đã nói: “tôi không hề lên án ai, xúc phạm ai, bới móc ai một điều gì! Cho dù con người ấy, xã hội ấy sau 30-4-1975; đã đả thương tôi đớn đau trầm trọng cách mấy đi chăng nữa! Tôi vẫn rộng lượng sẵn sàng bỏ qua & tha thứ. Vâng)! Thì xin qúy vị tha cho tôi, đừng vội thẩm định tôi khuynh tả hay thiên hữu: Do thân tình ghi lại loạt chuyện (mà bạn TtTm hoặc tôi kể) để con cháu chúng tôi ngày ấy chưa thành nhân, thành danh, ngày nay sẽ hiểu rằng: Tình Đời và Tình Người rất cần thiết, dù có tiền rừng cũng không thể mua được thanh danh. Hũy hoại thanh danh dù một lần, một ngày làm mất danh dự, nhưng đã lưu lại suốt đời. Nếu tôi hoặc bạn tôi cố chấp, thì chẳng khác nào như con dơi vắt mình trên cành: con dơi chỉ thấy một phần nhỏ xíu dưới cành, mà chẳng thể nhìn thấy cả toàn cây.
Con cháu tôi nghe, thấy, biết sự hung ác kia... thì bây giờ nên tôn trọng nhân cách sống, cư xử với nhau hòa ái, bao dung, vị tha; vẫn trân qúy đáng ngưỡng phục, hơn sự thô lỗ bạo tàn rợn người. Con chuột chỉ là con vật loắt choắt tẻo teo, chuyên đi phá phách hại ruộng hại đồng áng cỏ cây nhà cửa, dù nó có uống nước trong, hoặc mò mẫm lặn lội húp nước đục, thì chỉ no được cái bụng bé tí teo. Chuột vẫn là giống chuột lủi tanh hôi, có khi truyền đến ta bệnh dịch hạch nguy hiểm đáng sợ. Chuột nhớp nhúa không thể làm điều gì cao sang, ích lợi cho đời. Nhưng… bây giờ thì nó có hóa thân làm con chuột hét ra tiếng người thị oai, cốc lốc, lấc xấc, có hét tướng lên trong màn đêm u tịch, càng khiến người rất sợ hãi, không dám hó hé dáo dác len lén nhìn quanh, mà phải nằm im ru trong mùng lim dim hi hí ngó trộm.
Có miệng không nói lại câm.
Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa.
Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa.
Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền.
Xuất trình giấy phép liên miên.
Chứng từ thị thực ở miền nào qua. (2)
Khoảng mười hai giờ khuya, có một toán choai choai dé dé xíu xíu bặm trợn khác lại xồng xộc vô nhà trọ, vếu váo tốc ngược mùng của mọi người lên, chúng giựt giọng gọi những khách trọ đêm dậy để kiểm soát giấy tờ tùy thân. Qua nhiều thủ tục khám xét gắt gao, những túi hành trang vải, (mà tôi đã may hôm 28-4-1975). Họ lừ mắt trợn ngược, hất hàm chĩa súng vô bụng, gặn hỏi khách trọ cộc lốc đủ thứ chuyện không có chủ từ danh từ:
- Tránh qua bên kia, đứng xếp hàng.
- Trước ở đâu?
- Làm gì?
- Nay đi đâu?
- Đưa coi giấy tờ.
- Còn có gì dấu đút ở đâu không?
- Có lệnh không được đi đâu hết.
Nhóm tôi nói: hồi trước gia đình đã sinh sống ở Phú Quốc. Nay có tự do, hoà bình, thì muốn về lại chỗ cũ sinh sống.
Trăm năm trong cõi người ta.
Ở đâu cũng được đi ra đi vào.
Xa xôi như xứ Bồ Đào.
Người ta cũng được đi vào đi ra.
Đen đủi như Ăng Gô La.
Người ta cũng được đi ra đi vào.
Chậm tiến như ở nước Lào.
Người ta cũng được đi vào đi ra.
Chỉ riêng có ở nước ta.
Người ta không được đi ra đi vào. (2)
Người ta nói: Ông Trời có mắt nhưng do ổng ở xa lắm, nên có mắt cũng như mù! Úi Trời đất thánh thần thiên địa ơi! giờ nầy qúy ngài hiền đức thánh nhân ở trên thiên đình: lo đi rong chơi, ngao du nơi biển sâu sông dài núi cao nào rồi!? Sao qúy ngài không cúi xuống nhìn đám dân giả dưới trần gian của qúy ngài đang rét run, sợ té khói ra đít nè! Đã thế mà trời còn mưa giông sấm sét! gieo sấm sét đánh chết người, thì thiên hạ nói:
- Do người ấy ăn ở ác, không có đức, nên bị trời đánh.
- Hứ! Vậy chớ ông Trời làm sét đánh chết người, thì không ai nói là ông Trời ác hì!
Bốn giờ khuya, toán du kích già dặn kinh nghiệm thứ ba mặt mày đằng đằng sát khí, súng ống lăm le chĩa ra đằng trước ngực khách, đạn lên nòng róc róc róc… rắc rắc rắc... réc réc réc..., ngón trỏ đặt trên cò; họ lại dựng đứng khách trọ ra khỏi mùng, để “hỏi cung”. Chúng tôi sợ mấy cha nội không rành về súng ống đạn dượt, ưa tháy máy tay chân, thích “bụp” liền, thích “đục” , thích “nẻ” bậy vào dân ngu khu đen, thì chết toi cả đám oan đời. Tôi ngồi co rúm, không dám hó hé, xép re im thin thít trong một góc nhà trọ, lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện mà run như cầy sấy. Vậy thì tôi chẳng biết “ai” ác hơn ai hở Trời!
Hãy đến bất cứ nhà nào.
Chị em không việc cũng vào cũng ra.
Thật là ngứa mắt chúng ta.
Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào.
Không thì “cửa sắt” họ rào.
Anh em đố có dám “vào” dám “ra”. (2)
Một đêm có tới ba lần bị kiểm soát! Tửng bưng gần năm giờ sáng thì tốp dân ở Phú Quốc cặp tàu vô đất liền. Sau đó, cả lán trọ được biết là tù-phạm sau ngày 30-4 ở ngoài Phú Quốc đã phá ngục, có lớp người vượt ngục ra tù về đất liền, họ cầm súng giương oai đi quậy tưng trời, phá phách cướp bóc nhiều nơi. May mắn Ngọc gặp ông ba của anh trên chiếc cầu gỗ lắt lẽo: Ông ba mừng rỡ, ôm con trai vừa khóc vừa nói:
- Phú Quốc đã có nhiều trại tù nổi loạn. Cướp bóc tràn lan. Có những cuộc chém, giết, chạm súng gắt gao. Bọn mình phải quay trở về Đà Lạt ngay thôi.
Chúng tôi tứ cố vô thân ở xứ lạ quê người, nghe thế lại càng tăng lòng sợ hãi lên cao độ, phân vân hết sức. Nếu chúng tôi đi ra Phú Quốc, biết đâu: Ngoài đảo đang lộn xộn kinh khủng, thì tai ách giữa đàng lại mang vào cổ. Thế là chuyện đi Phú Quốc và từ nơi đó sẽ “đào tẩu” ra nước ngoài, nhưng... “em ơi! nếu mộng đã không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà... tìm!”. Tất cả anh em chúng tôi như con ngố rù rì to nhỏ xầm xì với nhau nửa tiếng Anh, nửa tiếng Pháp, pha tiếng lóng, chêm tiếng Ba Chệt, tiếp ngôn ngữ Việt để bàn tính: “nên trở về Sài Gòn thôi”. Dù sao ở thủ đô vẫn còn có bộ mặt thị thành văn minh, còn có tai mắt quốc tế dòm ngó, hầu vô cứu nhân độ thế!
Chuyến đi Rạch Giá mong ước lẽn ra Phú Quốc còn vùng vẫy trong tự do độc lập, thật vô duyên hết chỗ nói. Háo hức hân hoan hy vọng ra đi. Đến nơi Rạch Giá chứng kiến cảnh mắt thấy tai nghe bọn oắt con nhỏ bằng con cháu mình, hung hăng, thô thiển, xất xượt “lên mặt” đánh đấm răn dạy cha chú. Tôi chong mắt trông trời mau sáng, để quày quả trở về nơi vừa mới bỏ đi. Có phải chúng tôi sẵn tiền, hay đã trở thành kẻ du mục dị ứng thời cuộc, đã bị tẩu hỏa nhập ma điên khùng, “lắc lư con tàu đi... tìm tự do hạnh phúc”!? Giá mà hôm qua chúng tôi không gặp mấy tên du kích có đôi mắt trắng dã, có cái nhìn dữ dằn, hành động hung ác, ăn nói cộc cằn, thô lỗ. Thì chắc chắn sáng tửng bưng nầy cả nhóm tôi đã lên tàu thủy dong ra Phú Quốc lánh nạn rồi. Cũng có lẽ định mệnh an bài cho chúng tôi nên ở lại Sài Gòn đông vui, thì đời không cô độc, sẽ là nơi an tựa vững vàng cho tương lai, cuộc sống của chúng tôi chăng?! :
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ.
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
- Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo.
Có trái ngọt cây lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo.
Và suối mát rừng xanh.
Xem đám chiên hiền thương áo trắng.
Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh... (3)


_ * * * _


(1) Thơ tìnhhoàihương
(2) Thơ sưu tầm lượm lặt.
(3) Thơ Tha La Xóm Đạo – Vũ Anh Khanh.


thh
Attachments
vuotb di tan tren  tau be.jpg
vuotb di tan tren tau be.jpg (64.9 KiB) Viewed 244006 times

tinhhoaihuong
Posts: 74
Joined: Fri Aug 13, 2010 9:04 pm

Những tháng năm vô cùng đen tối - chương 12

Post by tinhhoaihuong »

Chương 12


TRỞ VỀ Từ Nơi Vừa Ra Đi


:shock:


Từ Rạch Giá trầm lắng u hoài, chúng tôi kéo lê đôi chân mệt mỏi rã rời lên xe đò trở về Sài Gòn, phiêu lãng bơ phờ suốt trên đoạn đường dài ngót 248 cây số ngút ngàn! Có nghĩa là chúng tôi thực sự quay trở về thủ đô Sài Gòn dấu yêu tại quê hương mình. Ôi! Quê hương Việt Nam cẩm tú giàu đẹp hùng vĩ là hòn ngọc của ta ơi! Cảm giác ấm nồng xôn xao nở lăn tăn trên làn môi nóng bỏng khát khao cơn thèm âu yếm gọi lên hai chữ: Quê hương! Tôi xin cúi đầu lui gót quay về, từng bước chập choạng bấp bênh chấp nhận số phận bồng bềnh, cho dù đắng cay, sô tang, bùi ngùi, khổ đau có. Ngọt ngào vui vẻ hân hoan không. Cũng đành. Trên xe đò vẫn chật như nêm, tôi buồn bã nhìn trên đầu của nhiều người lớn bé đang chít khăn sô, họ hớt hải vội vàng chen lấn nhau đi đâu? trở về đâu? mà tất tả lũ lượt thế nầy!? Tôi quá chán nãn nghe lòng mình phủ chụp xuống bao tơ rung suy nghĩ dập dồn. Mệt mỏi lắm! Tôi chẳng cần hé mắt nhìn lại quang cảnh hai bên đường (mà lúc mới hôm qua khi ra đi tôi rất bồn chồn, háo hức nhìn ngang ngó dọc lung tung ấy sao)! Chúng tôi và các con cháu không thèm ăn uống gì, chỉ cúi đầu trên chiếc xe đò cà xịch cà đụi lắc lư mà ngủ gà ngủ gật.
Tôi đã quyết định dừng chân “phiêu bạt giang hồ”, để trở về thành đô, nhưng sao trong lòng cảm thấy quá buồn đau tê tái hụt hẫng khôn cùng? Tôi có cảm tưởng như mình đã thực sự mất đi một báu vật thân yêu. Lủi thủi về thành phố Sài Gòn lúc 18giờ, nhóm chúng tôi thuê xe xích lô tới nhà thờ Huyện Sĩ vang ngân tiếng chuông chiều cô tịch. Vẫn có những khuôn mặt bơ phờ hốc hác thiếu ăn thiếu ngủ hôm qua đang vạ vật nằm nhờ ở đậu ngoài mái hiên. Những bộ hành tất bật mệt nhọc lấm lem bụi đường đi đầy trên phố chiều đông đúc. Dường như tôi không còn mê những giọt sương mai đọng trên cánh hồng nhung tươi thắm vừa hé nở, từng giọt sương mòng mọng tí tách rơi trên phiến lá giao mùa. Mất rồi chiếc lá vàng xinh lịch ép trong trang sách cũ. Mất ơi đàn én chiêm chiếp líu lo vun vút lượn bay trong không gian chói sáng ánh bình minh. Mất hết những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, lượn quanh sườn đồi rì rào tiếng thông reo vi vu. Hết rồi thảm cỏ sân Cù mịn nhẹ êm như nhung, nơi ấy khi xưa tôi ưa ngả mình trên triền đồi quạnh vắng, mắt lim dim mơ màng, tai lắng nghe tiếng thông reo, và gió núi xôn xao thì thầm gọi nhau về ngủ trên đỉnh Lâm Viên hữu tình. Ôi! Có thể nay đã mất hẳn những bước chân lãng du trùng lặp bao kỷ niệm tìm về chốn cũ. Mất rồi! Thật sự mất đi không gian, thời gian, và kỷ niệm vàng son một thuở trìu mến xa xưa. Nay lòng tôi bừng bừng rung giật cơn sốt tiếc thương, môi co siết những giọt mật vừa chát, vừa đắng, trào dâng lên khoé mi tôi giọt sầu quắt quay niềm tiếc thương vô hạn, ẩn dấu nơi mắt nhìn tư lự, lăn tăn nét chân chim trên khoé mắt ưu buồn trước thời gian, nơi đôi má hoen màu, nơi đôi môi khô nhạt, nơi mái tóc phiêu bồng sớm ngả bụi đường lãng tử, nơi áo quần xốc xếch trong dáng vẽ tiều tụy hao mòn. Làm gợn sóng trong lòng mình biết bao sầu đắng chua cay và tê tái:
Anh bỏ đi rồi, tôi ở lại.
Chờ bao oan nghiệt trút lên đầu.
Tôi vẫn đứng giữa một trời ly loạn.
Tàn chiến chinh mùa nắng lửa mưa dầu.
Chiều hun hút giữa rừng thiêng nước độc.
Đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời.
Từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói.
Tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người (1)
Vào bên hông nhà thờ Huyện Sỹ hai bao bố đồ dùng nấu nướng linh tinh, giỏ quần áo mà hôm nao (tôi gửi nhờ lại bà từ trông coi nhà thờ) vẫn còn y nguyên chỗ cũ. Những người chăm sóc nhà thờ, những bà xơ (soeur) và ban điều hành giáo dân rón rén đi lại đọc kinh dâng lễ, chẳng có gì khác: giống như khi tôi đến ở, khi tôi tất tả ra đi và đã trở về. “Ngoài đời” tôi chứng kiến không biết bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt! Bây giờ thành phố Sài Gòn xa hoa rác rưới đầy bụi nhiều ụ rác to cao ngập đầu người, tanh hôi và hằng hà sa số ruồi bọ lúc nhúc. Tình trạng khan hiếm thực phẩm, gạo, đường, kể cả muối là thứ rẻ hơn bèo cũng tăng giá lên vùn vụt. Con buôn chợ đen giành giựt từng kí gạo, từng con khô, con mắm, từng bó rau héo. Không có phương tiện di chuyển, nên rau và cây trái khắp các vựa thì ứ đọng cả đống, hư hao, thúi um. Hoạ huần lắm mới thấy vài chiếc honda dame chen lấn chật ních trên đường. Tôi đứng ít nhất là vài giờ mới có một chuyến xe bus chật như nêm, đông nghẹt người chạy đi chạy về trên phố. Một người đàn bà cao tuổi khệ nệ bưng mấy thúng mủng bao bị lộn xộn cố trèo lên xe khách, bị té ngả lăn cù cù khi bác tài xế bóp kèn inh ỏi. Xe chưa ngừng hẳn, người trụt xuống, kẻ chen lên, dày xéo dẫm đạp lên nhau, ai kêu la inh ỏi mặc ai. Họ lo bu bám ngoài cánh cửa xe đen nghịt. Thế là có bọn thời cơ thừa nước đục thả câu, lạm dụng nơi đông đúc chen chân không nỗi, đã trổ mòi rờ đít, bóp vú, móc túi, giựt đồ, bấm dây chuyền vàng, giựt bông tai máu chảy ròng ròng, kẻ cắp như rươi chôm chĩa đủ thứ, giành giật đánh nhau diễn ra ngang nhiên, hổn độn và náo loạn.
Nhất là xăng, dầu, dầu hôi, nhớt, càng mắc mỏ cao độ, giá xăng là giá máu mà! Họ buôn lậu từng lít xăng, từng lít dầu, lại pha chế chút nước lạnh, khói đen mù mịt bốc cao, cay xè mắt, bay tá lả. Xe chạy nửa xăng nửa dầu, bác tài cho xe nổ máy lâu lâu bác làm bộ rồ máy, cho xe thụt lui thụt tới, cứ cà giựt, cà xịch cà đụi, rồi bác nhấn còi inh ỏi, đứng im nằm ì một chỗ, không nhúc nhích. Lơ xe luôn miệng kêu mời khách và đập rầm rầm inh ỏi vô hông xe, thật là nhức bưng cái đầu. Không còn các loại xe chạy bằng xăng dầu nữa, thì đâu đâu cũng thấy trai trẻ lớn bé, leo lên xe đạp mới có, cũ có, hàng ngàn chiếc xe đạp chồng chất vợ con, đồ đạc linh tinh, họ tấp nập chạy đi, chạy lại trên các đường phố lớn. Bên kia khu trường học sát nhà thờ Huyện Sỹ, cứ mỗi buổi sáng khoảng hơn bốn giờ, loa phóng thanh đã inh ỏi “tra tấn” tai người lùng bùng điếc cả con ráy, nhức bưng bưng cái đầu! Tôi thấy từng đoàn thanh niên nam nữ reo hò, giỡn cợt, khăn mặt vắt vai, họ dùng hai ngón tay trỏ để đánh hàm răng ối vàng. Rồi chuyện trò vanh vách, lườm nguýt nhau, cười hô hố và nói huỵch toẹt ra những điều thô tục mà họ không nhột lổ tai, không biết ngượng mồm. Cô gái miền Bắc sống đời nhọc nhằn, lam lũ ngược xuôi trong dãy trường sơn, nay vào phòng tắm sang trọng trên lầu ba, cô tò mò giật chiếc dây lủng lẳng bên góc tường. Hoa sen phụt toả ra những dòng nước trong bồn tắm mát lạnh, khiến bộ-đội-cái giật mình nhảy tót ra khỏi bồn tắm, hốt hoảng cô ré lên như con bò bị chọc tiết, kêu nhau ơi ới chạy đi. Quả thật... kể ra cũng tội nghịêp, cô ở tít trong rừng sâu, chưa một lần nhìn thấy những đồ dùng thời trang tinh vi văn minh tiến bộ như thế. Cô sợ Mỹ rút đi, còn gài chất độc giết người. Có anh vênh váo mặt, mắt nai ngẩng nhìn lên cao ốc chục tầng, làm chóng mặt văng nón cối xuống đất, vẫn vung tay lên trời chỉ chỏ đếm hoài... không đếm được toà cao ốc. Họ lũ lượt kéo nhau ồn ào huyên náo chen ra cửa, lo đổi tiền bác Hồ ra thành tiền miền Nam Việt Nam, họ cười nhô hàm răng mã tấu:
- Tớ đổi bạc hào, bạc lẽ là chuyện nhỏ. Đây! Tiền có hình bác Hồ mới vĩ đại nhá. Đấy! Xem nào. Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, bác giơ bàn tay năm ngón lên chào ta đấy.
Ấy thế! “Ông bộ” mới vào Nam thật thà và chất phác đếm tiền miền Nam mãi không xong. Miệng la ơi ới, ổng chạy theo một tên nhãi con tự nhận là dân buôn, hắn nhanh tay chôm chĩa của “ông bộ”, rồi miệng huýt gió, hắn lẹ chân dzọt đi mất. “Ông bộ” tức mình chửi đổng:
- Không hiểu “rân” miền “Lam, nàm” cái giống “lanh mưu rì”, mà “nưu manh” thế!
Ngày ngày trên các khu lộ thiên, dưới những cột đèn đường là nơi tập trung bán hàng rong: chuối chiên, bánh bò, bắp nướng, đậu phụng, thuốc lá, vân vân… Họ đổi chát cho bộ-đội bất cứ thứ gì ai đó mánh mung nhặt nhạnh được. Thuốc lá dổm bán dạo do nhóm dân lậu làm bằng lá khoai mì xắc mỏng dính, phơi khô, sao vàng, tẩm ủ tí rượu đế, pha trộn một ít thuốc lá cẩm lệ thật, thì hút vào đắng nghét, khô khốc hai lỗ mũi, rát cổ họng, tỏa khói mịt mù. Người ta đánh đập nhau loạn xạ, chỉ vì tranh giành bán mua đổi chát nhiều thứ với mấy “cán ngố”. Vài bộ đội bố láo bố lếu xưa kia chuyên uống nước vốí, nay vào miền Nam hí hửng mua một lần cả chục cây “cà lem” để trên cái dĩa, mà ăn cho đã! rồi cho hai chân mang dép râu lên ghế ngồi xổm, uống trà ướp sen hương thơm tỏa bay nơi nơi. Đường phố càng tối thì quán cà phê rẻ tiền mở vội bên vệ đường, mọc lên như nấm. Cà phê thật và ngon thì ít, mà trộn hột thu đủ, hột thầu dầu rang vàng cháy lại nhiều hơn. Hôi hôi, đắng đắng, chua lè. Thế mà vài bộ đội uống vào, đã khen:
- Ngon đáo để.
* * *
Hầu như suốt hơn hai tuần qua nhóm di tản chúng tôi hùn tiền để nấu cơm ăn chung, tối tối ngủ nhờ ở trong góc vĩa hè, (dưới mái hiên nhà thờ Huyện Sĩ). Lòng tôi trĩu nặng nỗi ray rứt muộn phiền sầu đắng theo từng cơn lắc léo luồng chảy trên dòng đời phức tạp, điệp trùng núi tiếp núi đồi tiếp đồi, chập chùng bóng tối hoang vu tĩnh lặng kỳ lạ. Người ta càng ồn ào, náo nhiệt buôn buôn bán bán, đổi chác bao nhiêu thứ lăng xăng, thì tôi càng lo lắng, bồn chồn, ray rứt bấy nhiêu. Tôi cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, dường như bị bỏ rơi giữa đời, không nơi nương tựa. Cuộc sống dày vò tôi suốt đoạn đường ly hương trên quê cha đất tổ, khi chồng tôi cầm tờ giấy trình diện đi “học tập cải tạo” mười bốn ngày, (than ôi 14 ngày) được ghi thêm câu thòng-lọng:
- … , … sau nầy nếu cần, phải trình diện theo đường lối khoan hồng.
Mấy bạn cùng chồng tôi đứng xớ rớ ngoài gốc cây sao, gần trung tâm trình diện, đã nghe cán bộ phóng loa thông cáo thứ hai ra đời:
- Quân nhân cấp: Úy, Tá, Trưởng phòng, Trưởng ty, Sở, đi học một tháng!
Một ông thượng úy khác dõng dạc thòng thêm câu:
- Các anh có biết: Jean De Lattre De Tassigny không? Ông ta là Tư-lệnh quân đội viễn chinh Pháp đấy. Ông ta có cậu con trai là trung úy Bernard De Lattre, vào tháng 5 năm 1951 tên Bernard đã bị đàn anh của chúng tôi, (mà hồi xưa thường gọi các đồng chí ấy là Việt Minh đấy), chặt đầu tại Ninh Bình. Các đồng chí ấy cột cái xác không đầu vào thân con trâu, họ phát một cái rõ mạnh vào mông con trâu, thế là con trâu ù té chạy xộc vào trong đơn vị trú đóng của Bernard. Khiến quân đội viễn chinh hoảng loạng, chúng lo đầu hàng gấp, cút xéo về Tây, chạy có cờ! Bọn thực dân mà còn sợ kinh như thế, huống hồ ai… Hử?
Rợn người! Dẫu Luật thì thầm bên tai nhưng tôi chẳng thể nghe gì. Tôi chỉ thấy tiềm ẩn trong tâm tư: hình ảnh diễm kiều của đường chiều trong dáng hoàng hôn ve vuốt nâng niu bao ước vọng thanh bình, an ấm, của con người thuở xưa bay bổng lâng lâng dâng cao vút. Nay đã phũ phàng rơi cái độp xuống vực thẳm mênh mông không đáy. Rồi sẽ ra sao đây khi (anh chồng “cù lần dại... dột nghe người ta ngọt ngào phỉnh nịnh”) Luật đã dứt khoát rủ bỏ tất cả, để rứt áo ra đi... tiến tới ngày mai, anh dấn thân tới vùng tương lai mù mờ, sâu hoắm, mịt mùng, mà tôi không thể không làm sao ngăn cản anh nỗi)!? Phía sau và đằng trước con đường đầy sương mù đó, hầu như còn đọng lại cái nhìn gay gắt, lạnh lùng (của con tàu định mệnh) có nửa quá khứ hào hùng, và nửa tương lai mù tối, đang trôi lênh đênh theo từng cuộn mây trắng đục trên đầu? Rồi sẽ ra sao nữa đây? Khi chồng tôi một nơi nào xa xăm biền biệt không tin tức, vợ đần độn, con ngây thơ thủng thỉnh dò dẫm từng bước thấp cao với mẹ già lum khum một nẽo rị mọ đớn hèn phiêu lãng lang bạt nơi nao? Bao tủi nhục làm thân cô thế khô, tôi sẽ biến dạng làm con rùa lọt tọt, con cò lẹt đẹt âm thầm lặn lội kiếm sống trong Mười Tám Thôn Vườn Trầu Bà Điểm, Hóc Môn? Chao ôi! Da diết buồn đau biết mấy!!!
Chẳng hiểu sao lòng tôi dấy lên một cảm khúc đớn đau, chua xót, đắng cay, nghèn nghẹn ứ nghẽn vô bờ?! Tôi cảm thấy dường như mình hẩng hụt, chơ vơ, lạc lõng khát khao từ mọi phía. Hơn hai tuần đã qua mắt còn ngái ngủ, bỗng chốc tôi bàng hoàng gặp giữa khuya trùng trùng lớp lớp, toàn những khuôn mặt xa lạ, lạnh lùng, thô thiển. Chúng tôi lo sợ những cuộc trả thù triền miên hắc ám đột nhiên dội vào đời. “Hòa-bình” đến, nhiều kẻ hí hửng hân hoan reo vui mừng rỡ đón chào khách phương xa. Cũng có người bồn chồn, lo sợ tột cùng, dè dặt bơ vơ đầy ngao ngán, lặng im, tò mò, hiếu kỳ và nhút nhát rụt rè như tôi. Mọi người mưu tìm cho chính thân cuộc sống mới, đầy bon chen, kỳ thị, chính kiến từ cơn lốc cao độ trong nền chính trị “30/4 giống đúc đêm giao thừa”! Chiến cuộc giao tranh tàn khốc thì đổ máu, hận thù, tang thương, cay đắng, và chết chóc. Còn hoà bình lại ngậm ngùi bi thương ở muôn mặt khác. Thanh niên phụ nữ 30 từ đâu đâu chả biết, ồn ào hí hửng đeo băng đỏ, mang súng AK đi đầy đường. Đám thanh niên ngồi trên xe lam phóng loa kêu mọi quân nhân và công chức đi trình diện. Họ là những tay “sừng sỏ”, là những ông Trời con uy quyền nhất trong buổi giao thời lộn xộn kinh khủng nầy.
Tôi chua xót mãi suy nghĩ về: “quyền lực” trong buổi giao thời thật vô cùng chua xót và đớn đau!!! Quyền lực có hai mặt: Có điều đúng và có điều sai. Quyền lực mà ai đang nắm trong tay (cho dù đó là kẻ chiến thắng) không phải do tước đoạt, giành giựt, mà quyền lực cần dung hòa, thông cảm, độ lượng, chia xẻ lẫn nhau, có lẽ phải và có điều trái. Để bảo đảm mọi điều ta đang hoài bão về lý tưởng hằng ước ao: Không vinh quang nào mà không trả giá bằng gian khổ, mồ hôi, nước mắt, máu; ngỏ hầu duy trì sự trường tồn cho một dân tộc (cần có tự do độc lập và hạnh phúc thực sự). Thế nên, khi mọi người tuân phục thông báo ấy, thì họ đã tấp nập chen lấn xô đẩy nhau, cố chen chúc đến các nơi tập trung để làm giấy tờ. Thậm chí người ở trong chế độ cũ “chân phương” chấp hành quy phục theo lệnh lạc mới ban hành của nhà nước vĩ đại, là tập trung đi trình diện, nộp giấy tờ tùy thân, để được phát cho một tấm giấy chứng nhận. Họ xin giấy phép chứng nhận đi đường, chen nhau ở các bến xe đông nghẹt người, ngủ lại đêm nầy qua đêm khác, tuần nầy qua tuần khác, mong có chuyến xe đêm trở về nguyên quán, để trình diện Ủy-ban Giải-phóng địa phương. Người ta xì xầm to nhỏ và riu ríu tuân theo. Không ai hó hé động đến “cách mạng”.
Chính bởi họ là “quan”... của một chính phủ Việt Nam Cộng Hòa: do quan VĂN lấy trí dùng lời để luận người, sống chết vì lời nói, cây bút, công tâm vi thượng. Quan VÕ lấy sức dùng tài sống chết ở sa trường, xã thân ngoài chiến địa, da ngựa bọc thây là chuyện thường. Hai loại QUAN cộng với Tướng, Tá, Úy, Binh... đều tương-đồng: trọng NHÂN, trọng chữ TÍN (chữ tín rất quan trọng) trọng NGHĨA, bảo vệ lãnh cư và dân tộc; lấy trách nhiệm và danh dự làm gốc để lập thân, cùng nhau ôn hòa chung vai nếm mật với DÂN cộng khổ ; ngỏ hầu trải qua: “Chua. Cay. Mặn. Ngọt. Bùi. Đắng. Lạt. Trong”. Vậy thì Cách-mạng lâm-thời muốn có tất cả, họ phải chiếm được lòng dân. Muốn có sự tồn sinh của một đất nước phục hưng vĩnh thịnh và một dân tộc giàu mạnh phú cường... điều ấy sẽ tùy thuộc vào các cấp chấp chính lãnh đạo: nếu anh minh thì có cả thiên hạ, và dân tộc ấy sẽ trù phú, đất nước ấy thái bình tự do hạnh phúc trường tồn thật sự! Cuộc đời như một trò chơi, một ván cờ... cho đến lúc nào đó ta phải có sự chọn lựa, cân nhắc, dứt khoát quyết định, và đặt hết nhiệt tình tin tưởng vào trò chơi đó. Ai may mắn “thắng” chưa chắc là do mình hoàn hảo; hoặc người “bại” sau cuộc “đổi đời” không hẳn kém và chắc chắn sẽ thê thảm... Nhưng họ vẫn can trường chấp hành tuân phục điều luật do chính phủ mới thành hình ban hành. Tuân phục chấp nhận đi trình diện “học tập cải tạo trong tù” 14 ngày, (như cách-mạng lâm-thời đã rao ra rã trên những loa phóng thanh đặt khắp các nẽo đường); cũng có nghĩa là họ trọng chữ tín và tận trung tìm ra con đường chính nghĩa không bội tín. Họ đi tìm hạnh phúc thực sự không tự đến (trong tương lai mù sương), mà ta phải quyết giành về. Vì sức trai hào hùng tung hoành vẫy vùng qua bốn bể:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. (2)
Tôi trộm nghĩ: “khi người đàn bà (hoặc đàn ông) đã thành thật yêu ai, thì họ cố bảo vệ, duy trì hạnh phúc đến cùng. Họ đặt hết niềm tin tưởng, yêu mến thiết tha, và ngưỡng vọng người ấy... Nhưng khi họ biết rõ mình đã bị lừa gạt, (cả ba phương diện: tinh thần, vật chất và thể chất) đã bị phản bội; thì trong lòng họ (đa số) rất tức giận, uất hận... và chỉ muốn tìm cơ hội trả thù. Thế nhưng theo thiển ý của riêng tôi thì những người bị gọi đi Tù trên danh nghĩa: “học tập cải tạo” khi biết mình đã bị trắng trợn “lừa vào rọ tù”, (tù tội “cải tạo” nầy có ngày đi không biết có ngày về, chẳng có án tù: là một biến thể của cú bất nhẫn quay giò lái, đã minh định sự trả thù về hai ngã rẽ cuộc đời đối nghịch tất yếu vì chính kiến, đó là hình phạt của con người và con người). Ấy thế mà kẻ can trường trong chiến bại vẫn ôn nhu, kiên trì khoan dung chịu đựng, nhẫn nhục xót xa cam phận ngỏ hầu cho “trải sự đời”:
Ăn ở sao cho trải sự đời.
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc.
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
Bởi số chạy đâu cho khỏi số.
Lụy người nên mới phải chiều người.
Mặc ai chớ để điều ân oán... (2)
Họ thành tâm muốn hòa mình với cỏ cây và nhân quần, để níu lấy cơ duyên “làm lại cuộc đời”. Nếu họ có buồn, có đau đớn, có đắng cay, khổ sở và cơ cực (chắc chắn là khổ cực trăm bề rồi: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Một ngày trong tù bằng ngàn thu ở ngoài), thì họ chỉ cay đắng ngậm bồ hòn xót xa tự trách thân:
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời, vách đá cheo leo.
Ai mà chịu rét thời trèo với thông (2)
Vô cùng khó khi họ đã u trầm, chua xót, đắng cay, nghẹn ngào, lặng thinh ẩn nhẫn trong cách đối nhân xử thế! Tôi xin nghiêng mình ngã mũ cung kính chào qúy vị “Tù Cải Tạo” (chữ “tù cải tạo” trang-trọng tôn vinh trong hai ngoặc kép).
Đáng trân-trọng và khâm-phục lắm thay!
* * *


(1) Thơ: Xuân Du Nguyễn Đức Nhơn
(2) Thơ: Nguyễn Công Trứ



_ * _



thh
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Attachments
vuotb di tan cha ganh con.jpg
vuotb di tan cha ganh con.jpg (113.85 KiB) Viewed 243834 times

Post Reply