QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Tuesday, November 12, 2013 3:15:17 PM

Phan Nhật Nam
I. Tháng Chín, ba mươi hai năm trước, 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công.

Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc... hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của người lính - Bảo Quốc An Dân - Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Ðằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy mươi năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng.

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước...


Nội dung vĩ đại trên được thực hiện qua những cảnh tượng hùng tráng: Ngày 25 tháng 6, 1972, chiến dịch tái chiếm Quảng Trị khai diễn với các đơn vị, Biệt Ðộng Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng diện địa của Tiểu Khu Quảng Trị, phối hợp với các chi đoàn chiến xa, thiết quân vận của Quân Ðoàn I, được yểm trợ bởi các đơn vị pháo cơ hữu, và của vùng chiến thuật dưới quyền chỉ huy của Tướng Quân Ngô Quang Trưởng.

Ðoàn quân quyết tử phục hận đồng vượt tuyến xuất phát Sông Mỹ Chánh tiến theo trục chính Bắc với mục tiêu cuối cùng - Cổ Thành Ðinh Công Tráng hay Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Trị - mà quân ta phải tạm lìa bỏ từ 29 tháng Tư do những ước tính sai lầm của những cấp chỉ huy, giới chức lãnh đạo.

Từ Ngã Ba Long Hưng, cửa ngõ phía Nam Quảng Trị, điểm tiến quân cao nhất của Tiểu Ðoàn 7 Nhẩy Dù trong ngày 7 tháng 7, 1972, đến Cổ Thành Ðinh Công Tráng đoạn đường dài khoảng một cây số, và bề ngang từ nhà ga phía cực tây đến làng Công giáo Trí Bưu phía đông, khoảng cách cũng có bề rộng tương tự. Trên khoảng đất rộng hơn cây số vuông kia, mười lăm ngàn người lính của những đơn vị kể trên đã thay phiên nhau bò, trườn, ẩn núp, gọi pháo, đánh bom, ném lựu đạn, đánh cận chiến ngày lẫn đêm suốt đoạn thời gian liên tục 67 ngày, để đến ngày 14 tháng 9, 1972 những người lính của các Tiểu Ðoàn TQLC đồng lần siết chặt mục tiêu, dựng ngọn Cờ Vàng bay lộng trên gạch đá điêu tàn, giữa tiếng đạn, khói thuốc súng của trận chiến đang hồi kết thúc.

Cờ lên!
Cờ lên! Giữa vũng lửa.. Ở Quảng Trị,
Dân với quân cùng lần nước mắt ứa
Một bận Cờ bay Cổ Thành xưa
Bao phần máu xương người lính đổ...


Chiến tích kỳ diệu trên ắt phải được nung nấu từ một nguồn thúc giục vô vàn mãnh liệt mà không thể mua bằng một giá biểu lương bổng nào dầu cao đến bao nhiêu, chắc chắn cũng không do từ một huy hiệu, cấp bậc tưởng thưởng... Người lính đã bậm chặt môi, nghiến răng xốc tới bởi từ dưới những đụn cát loang lổ vùng Hải Lăng, Giáp Hậu, chen giữa những xác chết nặng mùi có những dạng người cử động... Những người sống sót từ lần thảm sát khi rời bỏ Quảng Trị trong ngày 29 tháng Tư, trên đường chạy về Huế, lọt vào ổ phục kích vùng hỏa tập tiên liệu của đơn vị cộng sản, chín cây số nam La Vang kéo dài đến cầu Câu Nhi Phường, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng. Những người sống sót hồi sinh với tiếng nói đứt khúc, thì thầm hấp hối... Lính tới... Lính Cộng Hòa tới...


II. Sau 30 tháng 4, 1975, những người lính kể trên có thể đã chết (theo một tỷ lệ khả thể rất lớn) theo lần sụp vỡ quê hương.

Không phải với cách chết bình an lành lặn, nhưng chết với xác thân bị dầm xé, những tay chân gãy gập, đứt đoạn, xương cốt dập vỡ... Những người chết bị kết án, sỉ nhục từ những ngày sống thoi thóp, và chết đi trong uất hận căm hờn rung động đến cùng tận đất trời. Tiếng gào đau nầy đã dậy lên suốt tuổi trẻ trên từng trang sách của hơn ba-mươi năm qua...

Bởi bản thân vẫn mãi mãi và luôn chỉ là - Người Lính của một Quân Ðội hằng sống, chết vẹn toàn để thực hiện sứ nhiệm báo ân cùng dân tộc khổ nạn trên quê hương điêu linh - Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Nhưng có những con người - những người lính vẫn tồn tại. Phải tồn tại. Họ không chỉ là những người lính bình thường với nỗi truân chuyên, gian khổ, nguy nan đặc thù riêng của đời lính mà là những quân số chịu phần oán nghiệt khốc liệt nhất trong toàn tập thể quân đội - Những thương phế binh bị loại ra khỏi cuộc chiến từ lúc chiến tranh đang nặng độ. Ðây lại là những thương phế binh của một quân đội thất trận, ở lại sau cùng khi những người chỉ huy đã tráo trở đầu hàng, tan hoang tháo chạy, hoặc cùng đày bó tay bẻ súng, vị quốc vong thân. Không vũ khí, không đủ cả giác quan, tay chân, họ ở lại hứng trận đòn báo thù hèn hạ từ một tập đoàn thắng trận bạo ngược tàn nhẫn nhất trong lịch sử đông-tây, mà thông thường khi cuộc chiến chấm dứt, những phe lâm chiến hằng đối xử nhau một cách văn minh với tính bình đẳng huynh đệ... Pháp-Ðức, Mỹ-Nga, Hoa-Nhật... Nhưng, ở Việt Nam, nơi Miền Nam, một bên, kẻ thắng trận, tổ chức bạo lực phát động chiến tranh, giành luôn quyền giết người và thực hiện tội ác vì “độc lập, tự do, hạnh phúc cho đời đời con cháu mai sau!” và một bên, tập thể những con người trần trụi tuyệt vọng, đối tượng của một chính sách bức hại thâm độc vô nhân tính không cơ may được khoan thứ, không phương tiện chống giữ, không hy vọng thoát thân.

Ðau thương hơn nữa, họ không chịu riêng một mình mà kéo theo những người thân thích, nói rộng ra, một lần với miền Nam thất trận cùng đành. Cái chết cũng vô nghĩa và không thể thực hiện được bởi khả năng cuối cùng nầy đã hoàn toàn bị tước bỏ. Họ thật tận chết từ trong mỗi ngày giờ hiện sống, qua bức hại, thanh trừng, lưu đày, hành hình trên chính quê hương từ những người gọi là đồng chủng tộc...

Chúng ta hãy cùng sống lại từng bước của buổi trường chinh vô hạn khốn cùng của mỗi đơn vị người gọi là Thương Phế Binh, với những người mẹ, vợ, và những đứa con của họ. Những trẻ nhỏ hoàn toàn vô tội và vô hại cho dù xét xử dưới bất cứ chế độ chính trị, xã hội nào.

1-Ðứa nhỏ chết dưới đường cống Sài Gòn

Nầy đây, chúng ta hãy nghe thương phế binh Nhị Nguyên viết về hai con nhỏ của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, đơn vị sư đoàn Nhảy Dù, quê Long An... “Thằng Nô, 12 tuổi, Phát 14 tuổi cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Ðồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà mẹ dẫn hai đứa con về Sài Gòn sống lang thang. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng, cha chúng đi lính mặc áo hoa rừng chết vào mùa mưa 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha, nên mỗi khi vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha, chúng cố ‘làm ăn’ cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Thường khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ thì chúng nó tiếp tục lặn dưới các ống cống thành phố để tìm thêm cá. Có những buổi sáng, chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm dưới nước quá lâu.”

“Vào một đêm nọ, tôi thấy hai anh em thằng Nô, Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống, khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp rầm rầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài cho đến sớm. Bình thường, hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè dưới cống, nhưng sao giờ nầy chúng nó vẫn chưa lên? Thôi rồi, tôi hốt hoảng hiểu ra mọi sự... Anh em chúng tôi báo động với nhau, hỏi thăm những đứa trẻ đang ngủ gà, ngủ gật cạnh những đống rác ‘giữ chỗ’ cho công việc sáng hôm sau (để moi, nhặt rác). Chẳng đứa nào thấy hai anh em thằng Nô. Cho đến một hôm, ba mươi - ba ngày sau, một đứa khác đang lội bì bõm ở ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải một cái gì gống như ‘trái dừa,’ nó nhặt lên, soi dưới ánh đèn, hét tiếng lớn và bỏ chạy. Sợ quá, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của bạn hàng, nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ mở cống tìm xác hai đứa nhỏ, nhưng cuối cùng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa, và nửa thân người còn lại. Bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha.”

2-Về những người vợ lính

Chúng ta nghe tiếp về những người vợ lính, vợ thương phế binh... Ðấy là những người đàn bà bình thường, đơn giản, trú ngụ ở các trại gia binh của các đơn vị quân đội. Những người đàn bà chỉ ao ước mỗi tháng được mua hàng quân tiếp vụ, thăm chồng nơi chốn hành quân xa với tay xách đựng vài ổ bánh mì, nải chuối, biểu lộ tình nghĩa vợ chồng qua tiếng lời trung hậu, tội nghiệp... Cũng chính họ đã gánh chịu tai họa chiến tranh ngang tầm của người chồng trong cách thế im lặng, thụ động và cam phận... Những buổi sáng tinh mơ trước khi đoàn xe lăn bánh ra khỏi hậu cứ, họ đã có mặt với những đứa con còn ẵm ngửa, đứa dắt tay. Họ biết nói gì với chồng trước mỗi lần đi ngoài lời thầm xin cầu nguyện... Mong lần đi có khi trở lại, và nếu người chồng trở về với những thương tật không thể bù trừ, những mất mát không hề được tái sinh, họ chấp nhận sự thiệt hại đau thương, giá máu đổ xuống một cách khắc kỷ cao thượng qua lời nói nhẹ tênh... “Ừ thôi, ba hắn không chết là tui mừng rồi, còn vợ, còn chồng là được.” Và đời họ, người chồng lính, những đứa con sẽ kéo dài bình an chìm lặng từ nỗ lực đôi vai, chiếc lưng ngồi hằng ngày nơi phố chợ, hoặc với quang gánh nhọc nhằn trên đường xa. Tất cả khổ đau hoạn nạn được quên khuất nhanh chóng với câu nói bình thản... “Ba sắp nhỏ dù đui què, mẻ sứt chi mà còn sống là tui cũng yên lòng.”

Tất cả mối mong ước bình an chịu đựng nhỏ bé nầy đồng bị đổ nhào, lật ngược một cách tàn nhẫn nơi ngày 30 tháng 4, 1975... Chồng chị Liên là anh Hơn, phế binh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, cụt một chân và lao phổi nặng. Một hôm đi bán nhang chẳng may băng qua đường bị trợt té, một chiếc xe hàng chạy qua thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Dẫu chồng chết, chị Liên cũng đã lây bệnh ho khậm khẹt và không hiểu sao chị sợ màu đỏ quá. Nó giống máu hòa trong nước miếng của chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho, nó cũng giống màu cờ đỏ treo khắp thành phố. Liên cùng chị Mạc, vợ một phế binh khác, và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Cả ba đi tàu chui và khi gần đến ga Bình Triệu thì tuôn củi xuống, Liên có đứa con trai lớn tên Ðức, nhanh nhẹn giúp đỡ mẹ rất đắc lực, nhưng chị Mạc với bé Hoa mới 5 tuổi thì thật là khó khăn, nguy hiểm khi nhảy tàu, vừa bế con, vừa tuôn củi. Liên khuyến khích bạn, “Chị đừng lo, thằng Ðức con tôi sẽ cõng con Hoa nhảy giùm cho...” Nhưng sự “may mắn” không đến với chị Liên được mãi, tai họa đã xẩy ra như một điều tự nhiên của nghiệp khổ phận người Việt Nam.

Một hôm, trời mưa tầm tã, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Ðể cứu lấy món hàng, Ðức và những đứa nhỏ leo lên trần xe và chuyền những bó củi qua cửa sổ. Một đứa tuột tay bị cuốn vào bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát vụn dọc theo đường tàu. Về đến ga Thủ Ðức, chị Liên vẫn không thấy thằng Ðức đâu, hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa bảo thấy thằng Ðức leo mui xe lửa trốn bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau, Liên mới biết được rằng, khi xe qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị đà ngang đánh vỡ đầu, rơi xuống đường ray, thây xác bây giờ không biết nằm đâu... Cuối cùng, chị Liên gia nhập lực lượng “tình nguyện hiến máu.” Chị có ý định sau khi gom được số tiền bán máu chị sẽ đi buôn lại như xưa vì bây giờ nghe nói cộng sản không còn “ngăn sông cấm chợ.” Chị đã đến các trung tâm tiếp huyết Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa để bán máu. Nhưng vì muốn mau thoát khỏi kiếp sống hè phố chị đã quên chính mình, thân xác càng ngày càng suy kiệt, mặt chị xanh xao, đi không vững, bị xây xẩm luôn. Một đêm chị ngủ trên ghế đá một công viên ở Chợ Lớn, sáng mai người ta tìm thấy xác chị cứng đơ. Khi đem xác đi chôn, số tiền để dành trong túi chị bị công an tịch thu vì không có chứng minh tài chính hợp lệ.

3- Cảnh sống/chết đọa đày của Gia Ðình Thương Phế Binh

Ðây, lời kể của chứng nhân Bùi Anh Sáu về lần “Ghetto, Làng Phế Binh Thủ Ðức” bị triệt hạ: “Ba giờ sáng ngày 1 tháng 7, 1975, Làng Phế Binh Rạch Chiếc Thủ Ðức bị đánh động, vây chặt bởi một đơn vị bộ đội đông đúc có cả xe tăng yểm trợ.
Một đoàn xe chờ sẵn để dồn mọi người lên vùng kinh tế mới Sông Bé (Phước Long cũ)... Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết? Sông Bé ở đâu, người người bàn tán xôn xao. Trẻ nít khóc rân, người lớn nháo nhác hốt hoảng dồn đồ đạc, áo quần dưới ánh sáng luồn sục, thúc giục của đèn xe và đèn pin và lời quát tháo chửi mắng... “Chúng mầy là gia đình bọn ngụy quân, lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân, chúng mầy không được quyền ở đây, phải trả lại tài sản cho nhà nước và nhân dân!”

“Chen trong chuỗi la ó hỗn loạn kia có những âm thanh nổ bùng, sắc gọn sau tiếng la hét uất hận... Những thương phế binh tự sát cùng với gia đình, từ chối lên vùng kinh tế mới. Ðến sáng, toàn khu làng phế binh ngày thường sầm uất nhộp nhịp nay vắng hoe, heo hút những đám cháy nhỏ gồm những vật gia dụng bộ đội không cho đem theo; chỉ còn những đơn vị bộ đội đứng gác và các toán đi lại, vào từng nhà kiểm kê. Một đoàn xe khác từ Sài Gòn đến, sau khi đã chất đầy những đồ đạc để sẵn ngoài sân, phủ bạt kín, chạy ra xa lộ, hướng về phía Bắc.”

Gần một năm sau, tất cả những gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé đồng trở về vì không chịu đựng nổi cảnh sống quá cực khổ ở vùng núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đủ như lúc ra đi vì đã để lại thân xác nơi rừng sâu; có gia đình thì đông hơn trẻ nít, nhưng tất cả đều ốm yếu, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chốc. Họ không còn nhà, nên thường cất những chòi bằng giấy cứng quanh nghĩa địa. Người sống và người chết chen nhau. Vào ngày nắng gắt hoặc mưa giông, nghĩa địa bốc mùi tanh nồng nặc, dần dần ai nấy đều có nước da tai tái như người chết. Nhà cửa khu trại gia binh bị trưng thu, vùng kinh tế mới sống không nỗi, lấy nghĩa địa làm nhà, lề đường là vùng sinh sống, đám dân cùng khổ biến thành “tệ đoan xã hội”, đối tượng của chính sách dồn ép và quét sạch để “làm đẹp tổ quốc giàu, mạnh, xứng đáng thành phố mang tên bác kính yêu.”

Chúng ta nghe tiếp lời của phế binh Bất Hạnh, hiện ngụ tại Khánh Hội, Sài Gòn: “Những cuộc truy quyét thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động, dài theo đường phố Sài Gòn, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân bị công an quăng đầy lên xe cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe xay nước trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng... Chưa hết, bên cạnh những chuyến xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy người già, trẻ nít, người tàn tật, những bà mẹ cùng những đám con thơ nheo nhó đỏ hỏn bế trên tay... Tất cả đồng đưa về trại tập trung về tội “lấn chiếm lề đường.”

Này đây, một cuộc bố ráp điển hình ở Khu Hàng Xanh: “Tôi (Bất Hạnh) không may lọt ổ phục kích, chưa biết phải làm gì trước tình huống thì một xe công an từ đâu phía sau chạy tới, một tên nhảy xuống, giật thùng đồ nghề (vá xe) quăng lên xe. Thế là trắng tay! Làm sao để sống đây hở trời? Những nơi khác, quanh Ngã Tư, tiếng la hét, khóc than vang lên tới tấp. Một chị phụ nữ la thất thanh, chị đang giằng co với một tên công an thúng trái cây, bên cạnh bên chị, hai cháu bé, đứa khoảng 5 tuổi, đứa chừng 3 tuổi bò lăn trên những trái mận, ổi, khóc vang khi thấy mẹ bị tên công an đá quay lông lốc...”

4- Ðối mặt với một chính sách diệt chủng

Sáng ngày 1 tháng 5, 1975, một địa ngục có thật mở ra trên Miền Nam, càng đậm sắc với những người tàn phế ở các quân y viện... Một toán Việt cộng tiến vào Bệnh Viện 3 Dã Chiến buộc chúng tôi rời viện ngay tức khắc. Bọn người này chưởi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc v.v... Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị chúng xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn Nga, Tàu gây thương vong. Những chiếc “nón cối” nầy đại diện cho ai mà dám la hét: “Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy chúng mầy không được nằm tại đây. Ðồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước!” Chúng tôi người này đỡ người kia khập khễnh ra khỏi trại, có những chiến hữu vết thương đang rỉ máu bị vất trần truồng tênh hênh trên lề đường... Gia đình mừng rỡ thấy tôi trở về, nhưng trong hoàn cảnh này ai cũng lo âu cho tương lai của mình.

Hằng ngày tôi thấy trước mặt từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho. Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ dưới chân cầu Tân Thuận bị những người đội nón cối xả súng bắn thẳng... Nhiều người giãy giụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản trốn, nhưng vài phút sau họ lại tràn vào đông hơn, bất kể súng đạn, ai bị thì té xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa... Khi những ngày hỗn loạn đầu tháng 5, 1975 qua đi, những thùng đồ hộp bọn em đem về dần cạn, người phế binh phải ra đường kiếm sống với những “nghề cứu đói”, vá lốp xe đạp, sửa hộp quẹt gaz, bán nhang...

Và cuối cùng, đi xin ăn. Nhưng tất cả không thể kéo dài khi Ba Nhiệm làm trưởng ban “Truy quét tệ nạn xã hội” với một bộ phận kinh hoàng, “Nhà nuôi Thị Nghè” được dựng nên để làm địa điểm chuyển tiếp giải quyết tất cả những đối tượng đang sinh sống trên, với vỉa hè, số lượng này càng tăng vọt khi tiếp nhận thêm hàng vạn người từ miền Bắc túng đói tràn vào... Tuy gọi là “nhà nuôi” nhưng thật ra nơi đó là nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là “tội phạm hình sự,” do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên. “Tội phạm” là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lề đường, họ không có quyền khiếu nại là bị bắt trái phép hay không và cũng không có án phạt rõ ràng; thời gian ở đây được coi như để “nuôi dạy” nên không hạn định thời hạn giam giữ, nhiều người đã ở lại đây vĩnh viễn. Mỗi nhà nuôi có có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 thước vuông, với khoảng chừng 100 con người bị giam. Tối tối mọi người phải thay nhau chỗ nằm và ngồi quạt cho nhau. Sáng khi nghe kẻng điểm danh, người nầy gọi người kia, ai nằm im không cục cựa thì đem đi hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo. Người sống thì đi lao động, kể cả người tàn tật, mù hai mắt, cụt tay, chân.

Nếu sống sót từ các “nhà nuôi,” trở về lại Sài Gòn, tình cảnh cũng chẳng sáng sủa hơn và cuối cùng tất cả đồng “chọn” một biện pháp “không còn chọn lựa”... Hoàng Thụy và Sơn, hai phế binh do quá kiệt sức vì bệnh lao và cụt hai chân nên được ra khỏi “nhà nuôi số 4” Phú Giăng, Sông Bé. Họ không dám đi ăn xin, chỉ “xin ăn” lại từ những người sống trong nghĩa địa.

Một buổi chiều, hai anh ra bến Bạch Ðằng, ngước mắt nhìn tượng Ðức Trần Hưng Ðạo một hồi lâu rồi nắm tay nhau nhảy xuống dòng nước chảy xiếc. Xác hai anh được vớt lên, cha anh Sơn đang bán bánh ú, bánh tét quanh chợ Bến Thành hay tin, đến nhìn xác con. Nhưng ông chỉ im lặng đứng chung với đám người hiếu kỳ, không dám nhận là thân nhân người xấu số vì không có tiền mai táng con mình. Ông đứng thẫn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc.

Hoàng Thụy và Sơn không chết một mình, những người lính tàn phế lần lượt “chọn” cho mình những phương tiện và thời điểm thích hợp... Anh Thơm khi ngồi dưới chân cầu Sài Gòn, gần Ngân Hàng Quốc Gia có suy nghĩ rằng, do vợ chồng anh thiếu quan tâm nên đứa nhỏ con anh mới chết vì suy dinh dưỡng; mẹ nó đang “đi khách” ngoài chợ Bến Thành để dồn tiền cho anh làm vốn đi bán nhang... Anh quá mệt mỏi để nghĩ tiếp... Cuối cùng, anh mở hai tuýp thuốc ngủ trút hết vào miệng, bị say thuốc, anh ọc mửa đầy hết áo quần, xong dẫy mấy cái và ngủ luôn dưới chân cầu. Lộc “què” mắc bệnh ho lao, thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hòa. Quý “Ðốc-tưa Zivago” không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ hằng ngày cầm lon ra chợ xin thức ăn nuôi thân và nuôi con, nên thắt cổ chết lè cả lưỡi ra. Thanh “liệt” thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau, đâm bực mình liền chĩa mũi dao đâm cái phọt vào tim... Nhưng trong những thân thể thương tật kia, ý chí chiến đấu của người lính không hề tàn lụi, họ vẫn giữ nguyên bản lĩnh kiêu hãnh của một quân đội, một đơn vị hằng tạo dựng những chiến tích lừng lẫy, cho dù hành động phản ứng tuyệt vọng bi tráng của họ chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả khốc hại cuối cùng với cái chết ghê rợn nhẫn tâm...

Câu chuyện sau đây của phế binh Khát Vọng, hiện ngụ tại Long Hải, Phước Tuy có thể dùng để tạm kết về buổi thụ nạn đau thương của Thương Phế Binh QLVNCH với tất cả bi hùng mà chỉ người trong cuộc mới có thể viết nên, kể lại: Khu chính trị trại Xuân Lộc, Long Khánh thường xẩy ra nhiều chuyện đau buồn. Anh Trần Văn Ðược, trung sĩ nhất Thủy Quân Lục Chiến, cụt một chân và mù một mắt trong trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Mùa hè 1972 bị bắt chung với trung úy Phạm Tấn Dũng, binh chủng Nhảy Dù, bị thương năm 1974 trong trận tái chiếm đồi 1062, Thường Ðức, Quảng Nam vì tội “hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền.”

Một hôm, viên cán bộ quản giáo quê Nghệ Tĩnh vừa được chuyển tới, ra lệnh anh Ðược quét sân. Vì giọng nói người này khó nghe, nên anh Ðược vẫn ngồi yên uống nước trà. Gã cán bộ nhào tới xỉ vả và đánh anh một bạt tai. Nổi nóng, anh Ðược cầm lon guigoz dựng nước nóng tạt vào mặt nó và chỉ tay nói: Mày là giống gì mà mất dạy quá vậy? Bộ tao là súc vật à, ai cho mầy vô phép dữ vậy?!! Tao tuy tàn tật nhưng không để cho mầy sỉ nhục đâu. Ðồ quân mất dạy, con tao còn lớn hơn mày nữa mà... Ðược chưa nói hết câu, tên cán bộ nhào tới đánh anh vào đầu ào cổ, và chưởi rủa những tiếng khó nghe. Anh Ðược bị té xuống đất, nó liền đá vào đầu vào bụng anh. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can, bị mất thăng bằng, anh níu áo tên cán bộ này và cả hai ngã xuống đất. Tức thì, bảy tám cán bộ quản giáo khác từ trong nhà chạy ra vây đánh hội đồng, cả hai anh lăn lộn chịu đòn trên mặt đất. Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ, đang lúc chúng còn đang dụi mắt, Dũng nắm chân một tên kéo xuống, xong thúc cùi chỏ vào mặt y.

Một tên khác đi tìm một khúc tre làm cột phơi áo quần quất tới tấp vào mình, đầu anh Dũng. Tiếng bình bịch, bồm bộp vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương cụt của anh Dũng bê bết trên đất. Trại viên chạy ra năn nỉ xin tha, đám cán bộ chĩa súng đòi bắn, lùa tất cả mọi người vào phòng; Dũng và Ðược bị kéo lên văn phòng trại.

Trời bắt đầu tối, không ai còn lòng dạ nào để ăn cơm, từ phòng tra tấn đến phòng giam tập thể không xa nhau lắm, nên chúng tôi nghe được câu còn câu mất...

Nội dung những tiếng la hét, tra khảo và trả lời đại khái như sau:

- Mầy đeo cái gì tòn ten dưới cổ hả thằng kia?

- Thánh Giá.

- Cởi nó ra khỏi cổ ngay lập tức.

- Còn lâu. Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó ra. Bộ muốn cấm đạo hả. Cây Thánh Giá này là tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi bỏ ra.

Tức thì tiếng huỳnh huỵch vang lên, có lẽ chúng đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ người Nam nghiến răng hằn học (chúng tôi chỉ nghe rõ tiếng Nam của tên nầy)... Ðạo hả... Ðụ má đạo... đạo nè...

Bớ người ta chúng đánh người... Họ giết chúng tôi! Anh Ðược gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn. Những tiếng “huỳnh huỵch... bồm bộp” lấn át tiếng la của Ðược. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng rên rỉ dứt khoảng rồi im bặt.

Sáng hôm sau, cán bộ quản trại cho hay, hai anh Dũng và Ðược đã “hành hung cán bộ và cắn lưỡi tự tử chết.” Chiều tối, chúng tôi hỏi bốn người hồi sáng đi chôn Dũng và Ðược thì biết rằng xác hai anh đầy vết tím bầm, mắt của Ðược bị sưng tím đen, mặt Dũng thì máu đóng cứng. Hai anh có lẽ chết vì những vết thương ở đầu, máu dưới tóc cứng khô, cạy mãi không được. Khi bó xác, bốn người phải ký giấy chứng nhận các anh tự tử mới cho phép chôn.

III. Người phải lên tiếng nói...

Trong thời gian dài chiến tranh nơi Miền Nam, dẫu trên chiến địa hung hãn, bản thân chúng tôi chưa hề thấy lính Miền Nam hành hạ tù binh, đừng nói tù binh bị thương. Một trong những bức hình nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Hạnh, có một tấm ảnh ít người kể ra: Cảnh một lính Dù vác thương binh Việt cộng ở mặt trận Chợ Lớn hồi Mậu Thân, 1968. Thế nhưng, bức hình Tướng Loan bắn tên đặc công lại được phổ biến khắp cùng báo Mỹ và thế giới. Hình như tác giả tấm hình đã có giọt nước mắt muộn màng hối lỗi. Quả thật, thế giới đã từ lâu im lặng đồng lõa cùng tội ác ở Việt Nam một cách quá đỗi hèn hạ và bất công. Phải, người phải lên tiếng nói, nếu không, sự im lặng sẽ là một biểu lộ cứng lòng nhẫn tâm đáng kết án. Thế nên, trong những năm qua, từ tây sang đông thế giới đã hằng có những tấm lòng xa xót cùng nỗi đau của người lính thương trận nơi quê nhà... Nhưng quả thật, tất cả đóng góp nầy chỉ mới là phần cứu nạn khẩn cấp, chứ so cùng thống khổ vô vàn kia vẫn còn rất nhiều thiếu sót.

Và kỳ diệu thay, nguồn mạch Tình Thương Việt Tộc - Nghĩa Ðồng Bào luôn tồn tại sắt son liên lụy mối đau thương kia đã chạm tái tim người - Những người không tham dự cuộc chiến, chưa hề mặc áo lính, nhưng lương năng khởi động từ trái tim xót đau - Trường hợp người tuổi trẻ, Bác Sĩ Phan Minh Hiển - Một của những gương mặt hãnh diện đích thực của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại với những đóng góp nhiệt thành tích cực, hiệu quả trong hàng loạt công tác suốt hơn hai mươi năm qua là một điển hình... Cứu cấp người vượt biển, mất tích, trên biển Ðông; cứu trợ người tỵ nạn ở các đảo, ở Pháp; giúp trẻ mồ côi, gia đình nghèo khó, người tàn tật (chủ yếu ở Miền Nam), và cuối cùng, khi những thành phần vừa kể tạm có đời sống ổn định, Phan Minh Hiển dồn nỗ lực yểm trợ với đối tượng Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thành phần hứng chịu khổ nạn nặng nhất, sớm nhất từ cuộc chiến, mà dẫu quê hương đã im tiếng súng hơn hai mươi năm, nỗi cùng khổ kia vẫn chưa có dấu hiệu được bù trừ, như phần cơ thể mất đi không thể tái sinh, như người chết không hề sống lại. Chúng tôi đã là một thế hệ thất bại, nhưng chúng tôi không hề thất vọng bởi luôn giữ vững mối tự tin. Chính chúng tôi chứ không ai khác, là Người Lính thuần thành hằng thực hiện sứ nhiệm BẢO QUỐC AN DÂN. Sự xác chứng nầy hiện thực trong lòng mỗi người dân và chiến hữu chúng tôi xứng đáng nhận lãnh lòng tri ân, phục hồi danh dự và nhân phẩm, bởi chính họ là những Chủ Thể góp máu, xương trong ý nghĩa thực tế, cụ thể nhất để Miền Nam đã một lần sống động dân chủ, tự do - tự do được trả giá bằng đời sống đã mất đi theo tuổi trẻ, hy vọng và sự sống của chính mỗi người lính.

Sau 34 năm của kỳ tích lẫm liệt, 14 tháng 9, 1972-2006
Với máu xương
Người Lính QLVNCH Phan Nhật Nam

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Trần Danh San, tiếng hò khoan đã tắt...

Phan Nhật Nam

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ngày lực lượng Nhảy Dù thực hiện cuộc binh biến báo hiệu cơn sóng gió của chiến cuộc và chính cuộc Miền Nam. Cũng là ngày gã thiếu niên 17 tuổi hiểu rõ nỗi đau và sự chết có thật dâng lên ngập ngập trong thân, trong lòng...

Cảm giác, phản ứng nôn nao sinh tâm lý làm nghẹn đường thở, rì rầm âm động nơi trái tim với câu hỏi... Mẹ bây giờ ở đâu? Mẹ sống, chết ra làm sao? Em đang nơi nào? Làm sao để sống? Ngày 11 tháng 11 năm nay, 2013, Lễ Cựu Chiến Binh ở Mỹ, người lính của chiến tranh xa nặng lòng, mệt nhọc, buông xuôi.. Chứng kiến Người Bạn ra đi sau những ngày, giờ chạm dần vào cánh cửa vô hình hiển hiện của sự chết. Trần Danh San ra đi thanh thản sau khi đã sống đủ một đời kiệt liệt.

Tôi với anh không phải là bạn đồng trang lứa. Anh lớn tuổi thuộc lớp niên trưởng nếu ở trong quân ngũ, của sinh hoạt văn hóa, chính trị, xã hội Sài Gòn, Miền Nam trước 1975. Anh là luật sư Tòa Thượng Thẩm Huế, con rể cụ Vũ Ðăng Dung, thủ lãnh Luật Sư Ðoàn Sài Gòn, giai cấp xã hội với chuyên môn nghề nghiệp thuộc thành phần lãnh đạo ở miền Nam, cũng là của hệ thống cầm quyền thuộc các chế độ dân chủ pháp trị trên toàn thế giới. Tôi chỉ là sĩ quan cấp úy của một binh chủng thuần thành tác chiến. Nhưng chúng tôi đã nên thân thiết qua một liên hệ bằng hữu chặt chẽ. Bởi cả hai cùng chung trận tuyến quyết liệt không chấp nhận người, chủ nghĩa, chế độ cộng sản. Cho dẫu hơn ai hết, tôi và anh đồng hiểu rõ chỉ là hai cá nhân hạn chế bởi những điều kiện khách quan lẫn chủ quan, vật chất và tinh thần cần thiết cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng và không cân sức này. Cuộc chiến đã bị thất bại cụ thể với ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng chúng tôi không hề thất vọng và tiếp tục phần đương cự trong những hoàn cảnh, điều kiện riêng.

Tôi không hề ngoa ngôn, xưng tụng vô cớ. Xin minh chứng sức mạnh tinh thần, bản lãnh kiên cường của một Con Người - Ðiển hình của Kẻ Sĩ Việt Nam.

Năm 1977, Sài Gòn, miền Nam đang trong gọng kìm gay gắt của chế độ cộng sản theo khuôn mẫu trại lính của Liên Xô thời Stalin. Ðúng ra là hình thái trại tập trung khổng lồ nối dài từ miền Bắc theo khuôn mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa của Tổng bí thư Lê Duẩn. Trại tập trung bao gồm toàn bộ quân dân cán chính VNCH và gia đình, cùng tất cả thị dân miền Nam.. Khối đông người “được nói rõ ra là bị” xếp vào hạng thứ 14 của 15 giai cấp xã hội theo cách đánh giá từ Bộ Chính Trị đảng cộng sản Hà Nội. Hạng thứ 15 là thành phần tội phạm hình sự gia trọng bị chung thân khổ sai, hoặc chờ thi hành án tử hình của một loại tòa án nhân dân do những cán bộ cộng sản từ bưng biền miền Nam, từ miền Bắc vào ngồi ghế chánh án.

Sau sự kiện giới trí thức Tiệp Khắc ban hành Hiến Chương 77 chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản Tiệp Khắc. Tại Sài Gòn, trong vòng đai lửa của chế độ mới, hai Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp không thể im lặng. Cả hai đồng hoàn thành văn bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng.” Hai anh và nhóm trí thức bất khuất gồm hơn mười luật sư, giáo sư, kỹ sư trước 1975 hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngã tiến theo hai đường tập trung trước Nhà Thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 tháng 4, 1977. Trần Danh San dùng cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ đọc lên bản 'Tuyên Ngôn Nhân Quyền của “Những Người Việt Nam Khốn Cùng” đến cùng đồng bào Sài Gòn, cũng của miền Nam lẫn miền Bắc đang mong chờ lần phục sinh từ bãi lầy cộng sản. Anh cố đọc lần thứ hai, nhưng mới được một nửa thì công an ập tới. Hai luật sư San và Thiệp không bị bắt riêng rẽ, hai anh có những người bạn chiến đấu cùng chịu chung cảnh ngộ gồm các Luật Sư, Giáo Sư Vũ Ðăng Dung, Nguyễn Hữu Giao, Nguyễn Quý Anh, Vũ Hùng Cương, Trần Nhật Tân, Phạm Biểu Tâm, Huỳnh Thành Vị, Nguyễn Hữu Doãn, Hà Quốc Trung và Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Ðiệp... Nhóm trí thức bị giam giữ nhiều năm tại các nhà giam khắc nghiệt nhất của miền Nam, Trại Phan Ðăng Lưu, Sài Gòn; Trại A20, Xuân Phước, Phú Khánh. Trong tù, Kiến Trúc Sư Nguyễn Văn Ðiệp, Giáo Sư Hà Quốc Trung đồng tự sát; Luật Sư Niên Trưởng Vũ Ðăng Dung, nhạc phụ của Trần Danh San lúc ấy đã qua tuổi 60.

Cần phải nhắc lại những chi tiết... Chưa tới ba mươi tuổi, Trần Danh San đã là một trong những luật sư trẻ tham gia chương trình thử nghiệm đầu tiên thành lập chính quyền dân sự tại tỉnh Quảng Nam do ông Nguyễn Hữu Chí vừa ở Mỹ về, được cử nhiệm làm tỉnh trưởng năm 1966. Nhưng cuối cùng chương trình này cũng không thành công vì sức ép của chính quyền quân sự vào thời điểm ấy. Anh trở lại nghề luật với kiến thức, kinh nghiệm sâu xa về nền chính trị rối ren tại VNCH, sự hiểu biết tường tận về những nguyên nhân gây nên tranh chấp trong hàng ngũ chính quyền VNCH và quân đội. Cuộc di tản, rút khỏi miền Trung, sụp vỡ Sài Gòn tháng 3, tháng 4 năm 1975 với những chi tiết và diễn biến cho tới những ngày cuối đời, trên giường bệnh, cận tử sinh vẫn là một ám ảnh gây nên mối phẫn hận.

Mối phẫn hận tăng thêm cường độ và tính cách mới sau 1975 khiến anh và những người bạn không thể im lặng trước tình cảnh khốn cùng của cả dân tộc. Trần Danh San lên tiếng nói và trả giá cho quyết định của mình với ý thức không lay chuyển. Trong trại giam Phan Ðăng Lưu anh nhận đòn tứ trụ với sức chịu đựng tưởng chừng như không thực: Với thân hình cao không quá “một thước-sáu” nhận đòn đánh hội đồng từ bốn tên lực lưỡng chuyên nghiệp tra khảo người. Sau những trận đòn chạm tới điểm chết, sau những tháng kiên giam nơi hầm tối, viên cán bộ trưởng trại Phan Ðăng Lưu có câu hỏi: Anh có ngừng chống đối không? Trần Danh San trả lời chắc chắn: Chống đối là điều tất nhiên! Câu trả lời được nhiều bạn tù nơi Phan Ðăng Lưu năm ấy hiện nay đang cư trú tại vùng Nam Cali nghe rõ.

Chuyển trại từ Phan Ðăng Lưu ra A20, Xuân Phước, Người Tù-Kẻ Sĩ Trần Danh San vào ngay “Chuồng Cọp Số 5” tức khu biệt giam phân trại E của A-20. Tại đây, Trần Danh San, Vũ Ánh, Thượng Tọa Thiện Minh, Võ Sư Nguyễn Sáng... đã bị cùm liên tiếp trong nhiều năm. Không phải bị cùm thường mà “cùm Omega” bằng sắt với số vòng cùm nhỏ nhất phải dùng búa mới đóng vào được cổ chân người tù. Vũ Ánh đã nghe thấy tiếng búa của cai ngục đóng vòng cùm số 16 vào chân Trần Danh San đáng lẽ phải mang vòng cùm số 18. Trần Danh San đã không một tiếng kêu. Anh cũng không hề yêu cầu đổi vòng cùm.

Ở A-20, San thường nói với Vũ Ánh, chung một đội tù sau khi ra khỏi hầm kiên giam: “Ðừng bao giờ để cho cái đầu bị tê liệt vì cái bụng và cứ coi mình là một xác chết chưa chôn thì không còn sợ hãi gì cả.” Anh giữ vững nguyên tắc này cho đến ngày hôm nay trên giường bệnh lúc chạm biên giới tử/sinh. Nguyên tắc bức thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, thân xác. Anh thường hoạt kê hóa câu hát “...Khoan khoan hò ơi... Thuyền... đã đến bến rồi...” để chỉ một sự đã rồi của tất cả các tình huống.

Vâng, thưa anh, Luật Sư Trần Danh San, anh đã đến bến từ một thuở rất lâu. Anh đến trước mọi người trong những lúc khắc nghiệt nhất. Anh đến và đi như một thản nhiên.

Ðể nhớ ngày 11 tháng 11, 2013,
Với Trần Danh San.

Phan Nhật Nam

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

MƯA TRÊN PONCHO .
Lê Văn Phúc

Bất cứ ai đã một thời ca bài “Ta đi tòng quân” đều không thể nào quên được đời lính. Trong đời lính, dù là lính già hay lính trẻ đều mặc bộ đồ trận, vui buồn theo tiếng kèn đồng đếm nhịp thời gian. Và một trong những món hành trang cần thiết thân yêu của người lính ngoài cây súng nhân tình, phải kể đến thành phần quân quân dụng này: Ấy là chiếc Poncho. Nhà binh gọi là “Pông Xô”.
Về hình thức, nó lớn bằng chiếc chiếu, mầu xanh cứt ngựa, làm bằng vải pha nylon gọi là vải ngụy trang, bốn cạnh chung quanh có lỗ, có khuy bấm bằng sắt.Chính giữa có một cái lỗ chui đầu làm thành cái mũ che, có giây buộc đàng hoàng.
Về nội dung, Poncho có công dụng chính là làm cái áo đi mưa. Khi trời bắt đầu nổi cơn mưa gió, người lính chỉ việc mở chiếc Poncho ra chui đầu vào giữa, đội nón là xong. Phần còn lại của Poncho nó lùng tùng xòe quanh cổ, quanh vai, quanh người che chở từ súng đạn đến ba-lô rất ư kín đáo an toàn.
Nó dản dị đơn sơ như thế nhưng công dụng thì lại vô cùng đa diện. Đến ngay người sáng chế ra nó cũng không thể nào ngờ rằng Poncho được dùng trong nhiều việc như thế.
Với chiếc áo đi mưa nhà binh – Poncho - mắc vào cành cây có thể làm chỗ che nắng che mưa khi canh gác một mình. Với hai chiếc Poncho ghép lại có thể thành một lều cho hai quân nhân tá túc. Với 4, 6 hoặc 8, 10 Poncho, dùng cọc dã chiến nối lại cho dài, dùng giây ghép Poncho cho kín là có một lều cho cấp tiểu đội, nom rất tư cách.
Khi quân ta sang sông trong một chiều hành quân, Poncho có công dụng như phép lạ. Nếu không có chuyến đò vĩ tuyến chuyển quân, nếu không có giây đu bắc ngang dòng nước ngược, nếu không có chiếc cầu khỉ, cầu treo... thì nhất định người chiến sĩ phải dùng đến chiếc Poncho làm phao di chuyển.
Mở rộng chiếc Poncho ra, túm chặt lỗ chui đầu lại, bao nhiêu ba lô đạn dược tập trung vào đó. Xong bỏ vài cành cây khô cho cồng kềnh, gấp Poncho lại theo kỹ thuật nhà binh làm sao cho kín mít, nước không lọt, thắt giây xong là Poncho chẳng khác gì một chiếc phao. Thả Poncho xuống nước, gác súng trên Poncho, người lính ôm cái phao cá nhân tà tà sang sông rất là đẹp mắt.
Ngoài công dụng che nắng che mưa, làm phao nổi, lều cá nhân, lều tập thể, Poncho còn dùng làm chiếu, làm nệm, có khi làm võng.
Trong các trại gia binh, anh em ở dưới mái nhà tôn nóng như lò bánh mì thì lại có sáng kiến dùng Poncho làm trần làm vách cho vợ con đỡ được đôi ba phần nắng nôi gió máy.
Còn các cấp chỉ huy ở nhà gạch mái ngói không cần đến Poncho làm trần nhưng nhiều vị có sáng kiến lấy Poncho may thành chiếc bạt phủ xe nhà cho khỏi bụi bậm, đỡ trầy nước sơn.
Những nhà dân giả, nhà binh, nhà quê thiếu ống máng hứng nước mưa thì Poncho là cái phễu vĩ đại, hết sẩy!
Poncho cũng lan tràn đến cả chợ búa. Từ xa trông cảnh chợ, xanh xanh một mầu cả trăm chiếc Poncho giăng mắc la liệt khắp nơi, nom tưởng như một tiểu đoàn đóng quân vậy. Lại gần mới thấy Poncho làm mái che cho hàng cá, hàng thịt, hàng rau, hàng quà, quán nhậu, hủ tíu bò viên, bún riêu bún ốc.
Poncho cũng di chuyển cùng chiều với các bạn đạp xích lô, kéo xe thồ, lái xích lô máy. Một chiéc Poncho thôi là đủ may chiếc áo mưa, vừa che đầu, che thân tới nữa người, gọn gàng và bền bỉ.
Poncho được chiếu cố tận tình như thế cho nên mức độ tiếp liệu dù cao, dù đúng hạn, dù mau lẹ vẫn không thỏa mãn được nhu cầu của quân đội và dân sự.
Các binh đoàn tiếp nhận xong, nhập kho, phân phối là Poncho đã chuẩn bị tan hàng. Một phần về đơn vị, một phần vào các khu dân sinh, chợ Kim Biên, chợ cũ, chợ Ông Tạ...
Tại các tỉnh, các quận, tình trạng Poncho cũng tương tự như rứa.
Poncho chẳng những phổ biến rộng rãi, đa dụng trong tình quân dân cá nước mà còn đóng một vai trò quan trọng tại các quân trường.
Ai đã một thời nhập trại Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức mà không nhớ nhung kỷ niệm quân trường những ngày gió mưa tàm tã. Buổi sáng tinh mơ tập họp trung đội, đại đội, tiểu đoàn mà nhằm ngày trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa lá thì anh em rất là một sự lục xục, lộn xộn, lạo xạo. Ai cũng nón sắt đội đầu Poncho chùm thân, đi đứng lù đù.
Khi anh em đi bãi về trong buổi chiều mưa, từng trung đội lạch bạch bùn đất, hàng ngũ trật tự nhưng không mấy chỉnh tề. Nếu có người yêu nào đó đứng chờ, tìm kiếm người tình giữa chốn ba quân thì có mà như đá vọng phu vẫn hoài công đứng đợi. Bởi cả trăm người lính xùm xụp Poncho trong hàng quân như thế, làm sao nhận ra được ai là người yêu của lính? Thế là hoa lạc giữa rừng gươm.
Nhưng bù vào những cái bất tiện như rứa, Poncho cũng có lúc trở thành một nguòi bạn tâm phúc, đắc dụng.
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, quân trường nào cũng đầy ắp thân nhân bạn bè vào thăm tân binh, sinh viên sĩ quan. Ngoại trừ những ai được đi phép đặc biệt như chim sổ lồng, còn thì đa số nằm trong trại chờ người nhà đến thăm viếng.
Cái cảnh đồng bào ta lái xe nhà, đi xe đò, chạy Honda, Vespa, Lambretta, gắn máy đi thăm lính thật là ồn ào náo nhiệt.
Quà bánh thì nào là bánh mì, bánh bao, bánh ngọt, lạp xường xúc xích, cam táo chôm chôm ổi mận trái cóc, sữa Guigoz, Similac...Có người đem khăn mặt, bàn chải đánh răng, xà bông, thuốc lá,dầu cù là, dầu thơm...
Tất cả cho lính!
Rồi người ta kéo nhau tấp nập vào cổng trường, ghi tên lấy thẻ, qua trạm kiểm soát rồi là coi như thong thả tới địa điểm dành cho từng đơn vị.
Về phía lính thì cả tuần tập tành, “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, chỉ rình mong đến cuối tuần để được đón gia đình, bè bạn vào thăm viếng nên chuẩn bị rất ư là kỹ lưỡng. Có điều giống nhau, chả ai bảo ai, ai cũng cặp kè chiếc Poncho ra khu tiếp tân ngóng đợi thân nhân.
Thành phần thân nhân được phân định làm nhiều giới.
Giới cổ điển là các ông bô bà bô đi thăm con thì được ngay anh tân binh hay sinh viên sĩ quan mời các cụ vào câu lạc bộ nghỉ đỡ chân. Nếu câu lạc bọ hết chỗ thì mời hai cụ quá bộ ra cạnh quán, trải chiếc Poncho là tạm xong phần nghênh tiếp. Bố con, mẹ con rủ rỉ chuyện trò, ăn uống lai rai cho đến hết giờ thăm viếng.
Giới thứ nhì là giới bán cổ điển với bầu đoàn thê tử đi thăm chồng vào lính trễ. Giới này thường trải Poncho dưới tàng cây cao bóng mát hoặc ở trong các khu tiếp tân tập thể, vợ chồng con cái đìu íu, chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái học hành, chuyện làm ăn buôn bán, chuyện hàng xóm láng tỏi, ồn ào như chợ Bến Thành hay chợ Cầu Ông Lãnh.
Giới thứ ba là giới độc thân, toàn đàn ông con trai đi thăm con trai mà thôi. Giới này thường tụ tập tại câu lạc bo nhậu nhẹt tán róc. Xong cái màn đó, các cậu lại rủ nhau ra lề đường, ngồi trên Poncho ngắm các em gái hậu phương đi thăm chiến sĩ, với lời bàn Mao Tôn Cương rất ác liệt.
Giới thứ tư là giới cô đơn, gồm những anh không có người nhà đến thăm, ôm chiếc Poncho đi lòng vòng khắp khu tiếp tân, ngong ngóng một chuyện gì như thể sắp xẩy ra mà lại mơ hồ như có như không mới khổ!
Giới thứ năm là giới chiến thuật mà mỗi người là một chiến thuật gia. Giới này thường chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu địa hình địa vật và lựa chọn điểm đóng quân thật sớm. Thông thường, các vị trí này cách xa khu tiếp tân, xa các khu ồn ào nhiều kẻ qua người lại.
Họ lựa chọn chỗ vắng vẻ kín đáo, có tí mô đất, có tí cành cây để giăng chiếcPoncho hững hờ lơ lửng. Tuy chiếc Poncho nom ra vẻ lụp xụp, thiếu mỹ thuật thật đấy nhưng lại chứa đựng tất cả những gì gọi là nghệ thuật tinh vi và khoa học hiện đại. Giới chiến thuật này thường có đối tượng là người yêu của lính!
Khi những chiếc Poncho xanh mầu lá cây rừng rải rác vô trật tự họp lại mí nhau thành một chiến tuyến thì dưới những mái Poncho là những cặp tình nhân đang tỉ tê quyến luyến, thề non hẹn biển...
Thời gian lặng lẽ một dòng tưởng chừng buồn tênh mà hóa ra sống động, vùn vụt như ma đuổi. Cho đến khi lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa, các đôi lứa lại càng quyến luyến xoắn xuýt lấy nhau như sam, như chẳng muốn rời.
Nhất là vào những buổi chiều có tí gió mưa thì lại càng làm cho lòng người thêm mưa gió.
Mây trời hạ thấp, những giọt mưa nho nhỏ rơi đều trên Poncho trong làn gió thoảng, đủ làm cho Poncho hạ thấp xuống một chút xíu nữa, như che gió che mưa cho cặp tình nhân tạm quên đi thế giới bên ngoài.
Chỉ thấy những mái Poncho lay động, bập bềnh, ngả nghiêng vội vã, trong khi ngoài kia tiếng kèn thu quân đang dục giã liên hồi...
Cuộc hẹn hò nào rồi cũng chia xa.
Giới chiến thuật là đơn vị giải tán thành phần cơ hữu sau cùng, vơ vội ôm quàng chiếc Poncho ù té chạy về doanh trại.
Để rồi người lính quân trường lại có những ngày chờ ngày đợi ngày mong. Mong sao cho chóng đến cuói tuần, cặp kè chiếc Poncho với nỗi lòng nao nức, rạo rực thương yêu của tuổi hoa niên thời chinh chiến.
Như thế, quả nhiên chiếc Poncho đa dụng đa năng cho cả hai phía quân dân. Nó lại còn là một biểu tượng của đồng lõa, cho đời vẫn còn mầu hồng, còn một chút gì gọi chút dễ thương.
Và rõ ràng cụ thể nhất, nó chính làø kỷ vật cho em
Nghĩ thế, một hôm nhớ về quân trường cũ, kẻ này gặp một cựu nữ sinh hoa khôi, mới khẽ hỏi xem nàng nghĩ thế nào về chiếc Poncho đối với tuổi trẻ ngày xưa?
Người đẹp bỗng nhiên má đỏ hồng hồng, mắt sáng trong trong, thỏ thẻ đáp rằng:
- Poncho! Poncho! Ồ, thật là kỳ diệu...
http://vnchtoday.blogspot.com.au/2013/0 ... -gian.html

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

TÐ2/TQLC và những biến cố chính trị
MX Cổ Tấn Tinh Châu
Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa đã xảy ra 2 cuộc đảo chánh mà hậu quả đưa đến cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Thời Ðệ Nhị Cộng Hòa đã xảy ra nhiều cuộc chỉnh lý mà hậu quả là một số tướng tá bị giết và tình hình chính trị thêm rối ren.

Ðã có nhiều hồi ký và tài liệu nói về những biến cố này, nhưng có những trái ngược nhau và nhiều sự thật chưa được sáng tỏ. Những biến cố này có nhiều liên quan đến sự tham dự một số đơn vị quân đội, trong đó có TQLC.

“Kỷ luật là sức mạnh quân đội” và “thi hành trước, khiếu nại sau” là hai yếu tố khiến Binh Chủng Tổng Trừ Bị TQLC chúng ta, dù muốn dù không, trong giai đoạn đó gồm các TÐ1, 2, 3 và 4 cũng bị kéo vào cơn lốc này. Tuy nhiên đa số chúng ta, nhất là những anh em trẻ sau này chưa biết nhiều về vai trò của một số TQLC đi trước. MX Cổ Tấn Tinh Châu là một trong số những người đó, đã ghi lại những gì có liên quan tới những biến cố này trong phạm vi một quân nhân TÐ 2/TQLC. Bài viết của MX Cổ Tấn Tinh Châu tuy không đi sâu vào chi tiết của các TÐ1, TÐ3, và TÐ4 mà chỉ chú trọng nhiều về TÐ2 nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn khá chính xác về tình hình chung.

Nhận thấy bài viết này nêu ra những dữ kiện thật về lịch sử mà thế hệ sau cần biết mà không đụng chạm đến đời tư của cá nhân nào nên BBT/ÐSST xin giới thiệu bài viết đến các Mũ Xanh và độc giả ngoài Binh Chủng.

Trân trọng.


MX Tôn Thất Soạn
Chủ Nhiệm ÐSST/TQLC

***

Ðảo chính năm 1960

Ðây là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng Hòa do một nhóm sĩ quan chủ trương trong đó có Trung Tá Vương Văn Ðông, Tr/Tá Nguyễn Triệu Hồng (tử thương tại Tổng Nha Cảnh Sát) Th/T Nguyễn Văn Lộc, Th/T Phan Trọng Chinh, Th/Tá Phạm Văn Liễu và Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi.

Vào đầu tháng 11 năm 1960, Tiểu Ðoàn 2/TQLC đang hành quân tại quận Vĩnh Châu, Tỉnh Bạc Liêu. Ngày 11 tháng 11, 1960 khoảng 07:00 giờ sáng, Ban Truyền Tin đại đội báo cho tôi biết đài phát thanh vừa thông báo: “Tổng Thống Ngô Ðình Diệm gọi Ðại Tá Trần Thiện Khiêm, tư lệnh Quân Khu 5, (sau này đổi thành Vùng 4 Chiến Thuật rồi Quân Khu 4) về Saigon cứu giá, cứ 5 hay 10 phút thì lệnh cứu giá được lặp lai. Lối 30 phút sau TÐT/TÐ2 là Trung Úy Dương Hạnh Phước nhận được lệnh của CHT /TQLC là Thiếu Tá Lê Nguyên Khang cho TÐ di chuyển về Cần Thơ. Khi đến Cần Thơ, Trung Úy Phước nhận lệnh tiếp của Th/Tá Lê Nguyên Khang là đem Tiểu Ðoàn 2 về Saigon theo đoàn xe của Tư Lệnh Quân Khu 5.

Ðến Mỹ Tho đoàn xe được lệnh dừng lại để chờ Thiết Giáp của Thiếu Tá Lâm Quang Thơ, (tiểu khu trưởng Mỹ Tho kiêm trung đoàn trưởng Thiết Giáp) cùng tiến về Saigon. Về đến Phú Lâm, toán quân BB đi đầu của của Quân Khu 5 bị một đơn vị Nhảy Dù chận lại, kế đó có lệnh tất cả đoàn xe lui lại khoảng 1 cây số. Tôi thấy pháo binh trong đoàn xe mở đội hình và bắn vào toán quân Nhảy Dù.

(Sau này tôi được biết ÐÐ Nhảy Dù ở Phú Lâm có một vài anh em chết và bị thương, trong đó có Trung Úy Nhâm ÐÐT Nhảy Dù bị thương vì pháo binh. Năm 1964 Ðại Úy Nhâm là Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ7 Dù tử trận ở Ðồng Xoài).

Khoảng 20 phút sau TÐ2/TQLC được lệnh lên dẫn đầu, đoàn xe tiếp tục lên đường, từ Chợ Lớn đến Saigon dân chúng hai bên đường hoan hô và vui mừng. Không biết là họ hoan hô đảo chính hay hoan hô chống đảo chính.

Khoảng 4 giờ chiều ngày 11 tháng 11, 1960, đơn vị đầu tiên trong đoàn quân “cứu giá” của Ðại Tá Trần Thiện Khiêm, tư lệnh Quân Khu 5 về tới Dinh Ðộc Lập là Tiểu Ðoàn 2 TQLC.

Trung Úy Dương Hạnh Phước TÐT cùng thiếu tá chỉ huy trưởng TQLC Lê Nguyên Khang vào dinh Ðộc Lập. Trong dinh đã có 2 đại đội của TÐ3/TQLC rồi (**).Sau đó tôi được gọi vào dinh nhận lệnh của TÐT/TÐ2 hướng dẫn các đại đội đóng quân dọc theo dãy nhà trước dinh Ðộc Lập. Trong dinh tôi thấy 3 anh Nhảy Dù chết gần cột cờ, 2 anh khác chết bên bực thềm bước vào cửa dinh. Thời gian ngắn sau, đoàn chiến xa của Thiếu Tá Thơ đến và dàn đội hình trên bãi cỏ phía sau nhà thờ Ðức Bà. Còn BB và PB không biết đóng quân nơi nào. Bên trong dinh Ðộc Lập có 2 đại đội của TÐ3/TQLC đang bố trí quân dọc hàng rào sắt theo đường Công Lý và đường Hồng Thập Tự.

(** Tại sao có 2 ÐÐ/TÐ3 trong dinh ÐL. Theo lời Saigon Tôn Thất Soạn cho biết thì hiện ông giữ 6 trang bút tích của cố Trg/Tướng LNK thì TÐT/TÐ. 3 là Ð/Úy Nguyễn Kiên Hùng bị móc nối theo phe đảo chánh của Vương Văn Ðông. Vì không đủ xe để đi chuyển cả tiểu đoàn nên Ð/Úy Nguyễn Kiên Hùng dẫn 2 đại đội đi trước, còn TÐP là Ð/Úy Mã Viết Bằng thì ở lại chờ xe trở về đón. Trong khi chờ xe đến đón thì Ð/Úy Mã Viết Bằng nhận được lệnh trực tiếp của Tư Lệnh HQVN là Trg/Tá Hồ Tấn Quyền (vì lúc đó TQLC còn thuộc quyền chỉ huy của HQ) đưa quân vào dinh ÐL để bảo vệ TT NÐD. Sau khi phe đảo chánh thất bại thì Ð/Úy Mã Viết Bằng làm TÐT/TÐ3/TQLC. Nguyên nhân và hậu quả của sự kiện TÐ3 một nửa theo phe đảo chánh TT NÐD, một nửa vào dinh bảo vệ TT NÐD không nằm trong bài viết này.)

Khoảng 20:00 giờ ngày 11 tháng 11, 1960 cuộc thương thảo giữa chính quyền và lực lượng đảo chính được diễn ra ngay trên đường Thống Nhất, phía sau Nhà thờ Ðức Bà. Phe đảo chính cử Trung Tá Vương Văn Ðông làm đại diện, còn bên chính quyền là Thiếu Tướng Nguyễn Khánh. Hai bên thảo luận nhau khoảng một tiếng thì Tướng Khánh vào dinh, sau đó chừng 15 phút Tướng Khánh trở ra thảo luận tiếp lối 1 tiếng nữa thì Trung Tá Ðông lên xe về thành Cộng Hòa.

Sáng ngày 12 tháng 11 có một số thiết giáp vào dinh bố trí chung với 2 đại đội của TÐ3/TQLC. Bỗng một loạt súng đại liên từ xe thiết giáp trên đường Hồng Thập Tự bắn vào dinh làm chết và bị thương 3, 4 anh em TQLC. Lập tức, chiến xa và TQLC trong dinh bắn trả vang rền.

Lúc này hai bên đại lộ Thống Nhất phía sau nhà thờ Ðức Bà dân chúng đang công kênh Ðại Tá nguyễn Chánh Thi đi quanh nhà thờ với nhiều biểu ngữ chống Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Tiếp theo loạt súng của TQLC, chiến xa của Thiếu Tá Lâm Quang Thơ đã nổ đại liên chỉ thiên lên những tàn cây ở phía trước dinh ÐL để áp đảo tinh thần. Những cành cây gẫy đổ và tiếng đạn nổ làm đám biểu tình hốt hoảng, không ai bảo ai, tất cả vất bỏ biểu ngữ, giày dép mà chạy tán loạn, kể như giải tán luôn.

Ngày 13 tháng 11, TÐ2/TQLC được lệnh rời dinh ÐL và vào sân Tao Ðàn đóng quân trong sân đá banh giáp với bờ tường sau của dinh ÐL làm trừ bị cho Phủ Tổng Thống, cứ mỗi chiều TÐ2 phải di chuyển từ Thủy Xưởng Miền Ðông (trong trại Cửu Long) đến vườn Tao Ðàn để giữ an ninh dinh ÐL trong thời gian khoảng một tháng. Sau đó TÐ2 được trả về hậu cứ với sinh hoạt bình thường.


Ðảo chính năm 1963

Tôi là TÐP/TÐ2/TQLC vừa đi học khóa Chỉ Huy về và còn đang trong thời gian nghỉ phép, nhưng nghe tin tức có “biến động” nên sáng sớm ngày 1 tháng 11, 1963 tôi vào hậu cứ TÐ2 tại Tam Hà, Thủ Ðức để thăm TÐT/TÐ 2 là Ðại Úy Nguyễn Thành Yên, nhưng khi đến nơi thì Ðại Úy Khái, ÐÐT/ÐÐCH cho biết là Tổng Tham Mưu đã gọi Ðại Úy Yên lên họp rồi. Tôi không biết có chuyện gì quan trọng mà TTM lại gọi Ð/Úy Yên nên tôi nán ở lại tiểu đoàn để chờ anh Yên trở về cho biết tình hình. Nhưng mãi tới chiều tôi vẫn chưa thấy TÐT về thì ngay buổi chiều đó, TÐ2 lại nhận lệnh của Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên TMT/TQLC là TÐ2 phải di chuyển ngay từ trại Tam Hà, Thủ Ðức về Chợ Lớn trình diện
TÐT còn đang “họp” ở TTM chưa về, không liên lạc được với ông, tuy tôi còn đang trong thời gian nghỉ phép, nhưng với tư cách là TÐP tôi không thể làm gì khác hơn là cho thổi kèn tập họp tiểu đoàn để thi hành lệnh của TMT/TQLC. Trên đường xa lộ đoạn giữa Thủ Ðức và Gia Ðịnh, TÐ2/TQLC bị Sư Ðoàn 5 chận lại. Tôi hỏi thiếu tá chỉ huy đơn vị này:

-Lý do gì chận tiểu đoàn của tôi?

Ông ta cho biết là phải có lệnh của tư lệnh Sư Ðoàn 5 là Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới được qua, và ông ta hỏi lý do tôi di chuyển?

Tôi cho ông ta biết tôi thi hành lệnh của Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên tham mưu trưởng TQLC về trình diện chiến đoàn. Ông ta liên lạc với nơi nào đó và chừng 5 phút sau thì TÐ2 tiếp tục di chuyển vào Chợ Lớn. Tôi vào trình diện Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên TMT/TQLC và TÐ2 được chỉ định làm đơn vị trừ bị, đóng quân cách BCH Chiến Ðoàn chừng 5, 6 trăm thước.

(Theo ghi nhận của Saigon Tôn Thất Soạn thì Trung Tá Lê Nguyên Khang, TL/TQLC vì lý do nào đó không xuất hiện nên Th/Tá Nguyễn Bá Liên TLP kiêm TMT chỉ huy một lực lượng TQLC gồm TÐ1 và TÐ2, sơ khởi gọi là tăng phái hành quân cho QÐ3/V3CT, nhưng sau đó thì trực tiếp tham gia vào lực lượng đảo chánh. Những tài liệu và hồi ký chính trị sau 1963 càng xác nhận rõ điều đó. Thiếu tá Nguyễn Bá Liên là cháu của Ðại Tá Ðỗ Mậu, một trong những người chủ trương đảo chánh, nên Th/Tá Liên bị (được) chú móc nối theo đảo chánh. Làm chính trị thì phải bảo mật đối với người không cùng phe nên chuyện giữa TL/LNK và TLP/NBL cũng là lẽ thường và đôi khi còn thủ tiêu nhau như chúng ta đã thấy trong những cuộc đảo chánh. Nhưng cái đẹp ở đây là sau đảo chánh 1963, Tr/Tá Lê Nguyên Khang vẫn bình an và đã được thăng cấp đại tá và đi làm tùy viên quân sự tại Phi Luật Tân, còn Th/Tá Nguyễn Bá Liên được thăng trung tá và làm TL/TQLC, Ðại Úy Trần Văn Nhựt được thăng thiếu tá và làm TLP kiêm TMT/TQLC.)

Sau đó tôi được lệnh đưa một đại đội lên giữ an ninh khu phòng làm việc của các tướng lãnh trên TTM. Lúc đó tại phòng hành quân của BCH Chiến Ðoàn TQLC gồm có Thiếu Tá Liên, Ðại Úy Trần Văn Nhựt TÐT/TÐ1/TQLC, còn có sự hiện diện của Trung Tá Phạm Ngọc Thảo (tôi chỉ biết Phạm Ngọc Thảo là một hồi chánh viên, được đồng hóa cấp bậc đại úy, làm công cán ủy viên của Phủ Tổng Thống, sau đó khi lên thiếu tá thì ông ta được giữ chức vụ tỉnh trưởng kiêm TKT Kiến Hòa.)

Lối 19:00 giờ ngày 1 tháng 11, có 2 xe GMC chở Lực Lượng Ðặc Biệt bị TÐ2 chận lại, Ðại Úy Ðại vào gặp tôi (bạn cùng khóa), nên chỉ thăm hỏi nhau, sau khi liên lạc với BCH Chiến Ðoàn TQLC tôi cho đoàn xe LLÐB tiếp tục di chuyển về doanh trại.

Khoảng 20:00 giờ ngày 1 tháng 11, 1963, Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị TQLC xuất phát. Ðại Úy Lê Hằng Minh TÐT/TÐ4/TQLC đem quân tấn công vào dinh Gia Long. Ðến hừng sáng ngày 2 tháng 11, 1963 thì TÐ4 đã làm chủ tình hình trong dinh. Lối 11:00 giờ ngày 2 tháng 11, 1963 TÐ4 được lệnh rút ra khỏi dinh Gia Long và TÐ2 có lệnh của TMT là Th/Tá Nguyễn Bá Liên vào dinh GL thay thế cho TÐ4.

Xin trích dẫn email của Saigon để biết sơ qua về TÐ4:

SG: Chiều ngay 1 tháng 11, 1963, TÐ4 được lệnh tấn công vào dinh Gia Long, cánh A do Tiểu Ðoàn Trưởng Lê Hằng Minh chỉ huy, cánh B do TÐP Tôn Thất Soạn chi huy, vì ở cách xa nhau, nên SG chỉ nhận lệnh của TÐT/LHM tấn công vào dinh Gia long rạng sáng ngày 2 tháng 11, 1963 nên SG không biết lịnh này TÐT/LHM nhận trực tiếp của ai?

Tuy tiểu đoàn đang phòng thủ ở dinh Gia Long, nhưng khi nghe máy truyền tin của Thiết Giáp nói là Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã được đón về bộ TTM, tôi đã chạy lên TTM để nghe ngóng tình hình và thú thật là muốn biết xem cách đối xử của các tướng lãnh đối với TT Ngô Ðình Diệm ra sao? Vì TÐ2/TQLC đang có 1 đại đội giữ an ninh tại TTM nên việc tôi đến đây bất cứ lúc nào để kiểm soát đơn vị của mình là lẽ bình thường nên không ai ngăn cản.

Khi đoàn thiết vận xa về đến TTM thì có một chiếc thiết vận xa M113 chạy đến trước mấy bực thềm trước dinh làm việc của Ðại Tướng TTMT, các tướng lãnh đã đứng đó như chờ đợi, và rồi khi bửng sau của M113 được mở ra thì có 2 xác người. Sự hoảng hốt và kinh ngạc hiện rõ trên mặt đa số người đứng đó. Sau khi các tướng lãnh nhìn xác của Tổng Thống Ðiệm và ông Nhu rồi trở vào phòng. Nhân dịp này tôi xin gặp Thiếu Tướng Khiêm và xin ông cho biết tin tức quyết định về Ðại Úy Nguyễn Thành Yên TÐT/TÐ2.

Thiếu Tướng Khiêm nói:

-Ð/Úy Yên không có tội gì hết, vì không muốn để anh ta ở ngoài sẽ làm đổ máu thêm nên giữ lại đây thôi, anh có thể đón Ðại Úy Yên về.”

Có lệnh của Th/Tướng Khiêm, tôi đến đón Ð/Úy Yên và đưa ông về dinh Gia Long nơi BCH/TÐ2 đang đóng quân, và đến mấy ngày sau thì TÐ2 được lệnh về lại trại Tam Hà, Thủ Ðức. Tại đây Ð/Úy Yên đã bàn giao quyền chỉ huy tiểu đoàn cho tôi và TÐ2/TQLC lại tiếp tục các cuộc hành quân diệt địch.

Xin nói thêm là trong cuộc đảo chánh 1963, Ð/Úy Mã Viết Bằng TÐT/TÐ3 cũng bị gọi về TTM nên khi Ð/Úy Tôn Thất Soạn đến nhận TÐ3 thì không có tiểu đoàn trưởng để bàn giao. Sau khi đón Ð/Úy Yên, tôi đi hỏi tin tức về Ð/Úy MVB thì quân cảnh cho biết ông Bằng không cùng chỗ với ông Yên, mà bi giam ở nơi khác. Sau đảo chánh Ð/Úy MVB ra khỏi TQLC và về SÐ22BB, sau đó ông bị thương và sau 30 tháng 4, 1975 ông đi định cư ở Pháp.

Tài liệu mật của Mỹ liên quan tới đảo chánh 1963 đã giải mã:

Theo tài liệu, Ðại Sứ Lodge gửi công điện cho Bộ Ngoại Giao:

Thứ nhất: Không cần phải nói với Diệm về việc loại bỏ Nhu, mà bảo các tướng lãnh loại bỏ Nhu.

Thứ hai: Cho các tướng VN được tùy ý giữ Diệm hay loại bỏ Diệm.

Thứ ba: Tòa Ðại Sứ Mỹ đã nghĩ đến việc giúp đỡ các nhân viên Mỹ và các tướng lãnh VN trốn thoát trong trường hợp đảo chánh thất bại.

Tổng Thống Kennedy gửi cho Ðại Sứ Lodge một mật điện trong đó tổng thống tái xác nhận chủ trương đảo chánh của tòa Bạch Ốc. (Telegram 269, Kennedy to Lodge Aug 28, 1963, Box 316, national security files, John F. Kennedy library).
Mật điện nói trên của TT Kennedy là một sử liệu vô cùng quý giá, chứng minh sự tham gia của chánh quyền Mỹ trong việc lật đổ TT Ngô Ðình Diệm năm 1963.

Nhưng quan điểm của Tướng Krulag TQLC Mỹ thì hoàn toàn khác. Theo Tướng Krulag thì cuộc chiến đấu quân sự vẫn đang tiến hành với một nhịp độ đáng khâm phục. Cuộc khủng hoảng chính trị cũng có ảnh hưởng đến, nhưng không bao nhiêu, VC sẽ thua, nếu Mỹ vẫn tiếp tục những chương trình viện trợ về quân sự và xã hội. (Report, Visit to Vietnam, 7-8, sept 1963, Box 316, national security, JFK library, được trích dẫn trong Kennedy in Vietnam, trang 135).

Ngoài Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Ðại Sứ Lodge thấy rằng cần phải giết thêm ba người nữa là ông Ngô Ðình Nhu, ông Ngô Ðình Cẩn và Ðại Tá Lê Quang Tung. Nếu cuộc đảo chính phải xảy ra, vấn đề bảo vệ các kiều dân Mỹ, Tòa Bạch Ốc đã ra lệnh cho CINCPAC sắp xếp cuộc di chuyển của tiểu đoàn thủy quân lục chiến bằng đường thủy đến hải phận gần Nam VN.

Chính phủ Ngô Ðình Diệm chủ trương độc lập với người Mỹ, trong khi người Mỹ muốn kiểm soát chính phủ VNCH.

Người Mỹ không quan tâm đến quyền lợi của người Việt mà chỉ lo lắng cho quyền lợi của Mỹ, vì vậy mối giao hảo giữa VNCH với Mỹ càng ngày càng xa ra.

Chỉnh lý năm 1964

Năm 1964, ngày 29 tháng 1, khoảng 22:00 giờ, tôi nhận được lệnh từ một vị tướng ngoài TQLC là đem Tiểu Ðoàn 2 TQLC tăng phái cho Vùng 3 Chiến Thuật để tham dự một cuộc hành quân đặc biệt ngay và BTL/TQLC sẽ xác nhận bằng công điện sau... Một tiếng đồng hồ sau, khoảng 23:00 giờ thì có một đại úy của V3CT đưa cho tôi sự vụ lệnh của Vùng 3 để di chuyển vào Tiểu Khu Gia Ðịnh và nói với tôi là lệnh thượng cấp không cho tôi liên lạc và tiếp xúc với bất cứ ai cho đến khi cuộc hành quân hoàn tất. Thời gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Ðô phải có lệnh của Vùng 3 CT.

Ngay sau đó xe của vận tải đến chuyển quân của TÐ2 vào Tiểu Khu Gia Ðịnh. Ðến Tiểu Khu tôi trình diện Trung Tá Tồn Tiểu Khu Trưởng (TKT). Trong phòng của TKT có Trung Tướng Trần Thiện Khiêm và Trung Tướng Nguyễn Khánh. Trung Tá TKT nói với tôi:

-Lệnh của Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng cho anh đi bắt Trung Tướng Tôn Thất Ðính về Tổng Tham Mưu, anh có cần tin tức gì thì cứ hỏi tôi sẽ cho anh biết.

Tôi hỏi về an ninh của tư dinh Tr/Tướng Ðính thì được biết có khoảng một trung đội lo an ninh và canh gác. Phương tiện liên lạc thì điện thoại đã bị cắt rồi. Có 1 chiến xa sẽ trình diện khi chúng tôi tới mục tiêu. Nhận được đặc lệnh truyền tin để liên lạc với thượng cấp và đơn vị bạn.

Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Ngô Văn Ðịnh, ÐÐT/ÐÐ4 thi hành nhiệm vụ bắt Tr/Tướng Ðính, nhưng sau đó tôi đổi ý, chỉ định Ðại Úy Nguyễn Văn Hay, ÐÐT/ÐÐ2 thay anh Ðịnh để thi hành nhiệm vụ này. Theo lệnh của thượng cấp, tôi còn ra lệnh cho ÐÐT/ÐÐ3 là Trung Úy Nguyễn Năng Bảo đi bắt một trung tướng nữa, nhưng nay tôi không còn nhớ là ông tướng nào trong số 4 ông Tướng Kim, Ðôn, Xuân, Ðính. Ngoài ra còn 2 trung tướng nữa trong số 4 ông thì có đơn vị bạn nhận trách nhiệm đi bắt.

Ðại Ðội 2 của Ð/Úy Hay đã di chuyển lối 2, 3 phút thì tôi lại lo là Ðại Úy Hay tánh nóng có thể làm điều bất lợi cho Trung Tướng Ðính nên tôi vội lấy xe chạy đến tư dinh Tướng Ðính (nằm trên đường Thống Nhất gần hãng xăng Shell). Vừa đến nơi tôi đã thấy Ðại Úy Hay cho bố trí 4 khẩu SKZ 57 ly bên kia đường đối diện nhằm vào dinh Tướng Ðính! Tôi nói anh Hay nên lo giữ an ninh bên ngoài thôi để chờ tôi liên lạc với Tr/Tướng Ðính trước đã.

Ngay lúc đó có một chuẩn úy và một xe thiết giáp đến trình diện tôi, anh ta là trưởng toán chiến xa theo như lệnh đã ấn định trước. Tôi nói với anh ta đợi ở ngoài với Ðại Úy Hay. Tôi đến cửa dinh thấy bên trong có khoảng 2 Tiểu Ðội Nhảy Dù đang bố trí dọc theo hàng rào sắt phía trước, có 1 sĩ quan đến hỏi tôi là ai, cần gì?

-Tôi, Thiếu Tá TÐT/TÐ2 TQLC muốn gặp Trung Tướng.

Chừng vài phút sau sĩ quan này trở ra nói chỉ một mình tôi được vô mà thôi. Tôi nói với anh ta:

-Anh chờ đây, tôi sẽ trả lời anh sau.

Tôi trở lại bàn ý định với Ðại Úy Hay, nhưng ông khuyên tôi không nên vào nhà một mình, chú cowboy của tôi và anh mang máy truyền tin cũng đòi đi theo nhưng tôi không cho. Tôi nói Ðại Úy Hay:

-Anh cứ yên trí đi, không lẽ trung tướng mà đổi thiếu tá sao? Nếu trong vòng 30 phút mà anh thấy tôi chưa trở ra thì anh biết phải làm gì rồi.

Tôi một mình đi vào dinh, tôi chào Trung Tướng Ðính, chưa kịp xưng danh trình diện thì ông đã hỏi tên tôi và ai ra lệnh tôi đến đây? Tôi trình diện tên và cấp bực, tôi nói:

-Chủ Tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng ra lệnh tôi đến mời Trung Tướng vô Bộ Tổng Tham Mưu ngay bây giờ (mặc dù đây là lệnh bắt chớ không phải mời).

Trung Tướng Ðính lấy điện thoại gọi, thấy vậy tôi nói:

-Thưa trung tướng, đường dây điện thoại bị cắt rồi.

Trung tướng nói tôi ngồi đây uống café chờ ông thay quần áo. Vài phút sau ông ta bước ra với quân phục worsted vàng, mũ đỏ Nhảy Dù. Tôi nói trung tướng cứ đi xe của trung tướng, tôi sẽ theo sau lên Bộ TTM. Sau khi giao Tướng Ðính cho Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng tôi trở về Tiểu Khu Gia Ðịnh cho một ÐÐ di chuyển lên Bộ TTM để giữ an ninh khu phòng họp của các tướng lãnh, kể từ giờ phút này TÐ2 nhận lệnh làm trừ bị cho Vùng 3 Chiến Thuật. Ngay sau đó tôi mới thông báo cho Bộ Tư Lệnh TQLC và hậu cứ TÐ2 biết vị trí của Tiểu Ðoàn 2. Mấy ngày sau TÐ2 được trả về hậu cứ và tiếp tục các cuộc hành quân trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật.

(Theo ghi nhận cả Saigon Tôn Thất Soạn thì sau Chính Lý 1964, Ðại Tá Lê Nguyên Khang đang làm tùy viên quân sự ở Phi Luật Tân thì được Trung/Tg Nguyễn Khánh gọi về giữ chức TL/TQLC và sau đó được thăng cấp chuẩn tướng tại Vũng Tàu, sau trận Bình Giả, còn Trg/Tá Nguyễn Bá Liên và Th/Tá Trần Văn Nhựt thì lại đi làm tùy viên quân sự ở PLT thay thế Ð/Tá Lê Nguyên Khang.)

Sau nhiệm kỳ ở PLT, hai ông Liên và Nhựt trở về VN. Tr/Tá Liên phục vụ ở QÐ2, sau khi được thăng cấp đại tá, được đề cử đi làm tư lệnh Biệt Khu 24 và tử nạn trực thăng trong lúc đang chỉ huy hành quân vào ngày 6 tháng 12 năm 1969 và được vinh thăng cố chuẩn tướng.

Còn Th/Tá Nhựt đi phục vụ ở QÐ.3, thăng trung tá làm trung đoàn trưởng thuộc SÐ.18 BB, rồi Ðại Tá Tỉnh Trưởng Bình Long. Sau Bình Long An Lộc, ông Nhựt được cử đi làm tư lệnh SÐ2 BB rồi thăng chuẩn tướng.


***

Nhận xét về Chỉnh Lý 1964.

Theo tôi nghĩ, việc chỉnh lý này đương nhiên là phải do Mỹ chủ trương rồi, còn Trung Tướng Khiêm, tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và Tướng Khánh, tư lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, là người thi hành, sau đó thì Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng ra tuyên cáo là các tướng bị bắt vì chủ trương Trung Lập thân Pháp. Còn Trung Tướng Dương Văn Minh không hay biết gì cho đến lúc Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi đến tư dinh của ông Minh bắt Thiếu Tá Nhung đem về trại Hoàng Hoa Thám ông Minh mới biết chuyện gì xảy ra.

Sự thật là từ khi nhận lệnh tăng phái cho V3CT đến lúc nhận lệnh đi bắt các Tướng, tôi vẫn chưa biết mục đích của cuộc hành quân đặc biệt này là gì cho đến trưa ngày 30 tháng 1, 1964 tôi mới biết đó là cuộc chỉnh lý để bắt 4 Tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Ðôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Ðính.

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Image

Bay Trên Đất Bắc

Tôi đã nhiều lần vượt vùng trời Bến Hải với những chuyến bay ném bom trên đất Bắc. Lần này tôi được chỉ định dẫn dắt mười hai phi cơ tiến đánh một mục tiêu xa hơn những lần trước. Đó là hai trại quân quan trọng nằm trong vùng rừng nơi phía Tây Bắc thành phố Vinh.

Tôi ghi nhớ nhiều về chuyến bay này vì là lần đầu tiên tôi điều khiển hoàn toàn một phi vụ Bắc phạt.
Những lần trước tôi chỉ hướng dẫn một phi tuần bốn phi cơ theo sự điều khiển của phi đội trưởng.

Đối với phi công khu trục, cấp trung uý dù rằng với chức vụ trưởng phòng hành quân phi đoàn, đây là một danh dự và là một hãnh diện nữa khi được lệnh đảm trách một công tác quan trọng như vậy.

Suốt từ lúc được lệnh bay, xuyên qua buổi thuyết trình về phi vụ, tôi đã hỏi rất nhiều, rất kỹ lưỡng vị sĩ quan Quân Báo về các vị trí phòng không địch, cho đến khi đứng lên nhắc lại các phương thức phi hành cùng các đoản lệnh hành quân cho các chiến hữu cùng bay với tôi, tôi cảm thấy nôn nao vô cùng.

Có thể hơn thế nữa, gần như là một mối lo âu. Không thể là sự lo sợ được đối với một người trẻ tuổi như tôi, đã được rèn luyện trong cái khí thế hiệp sĩ của một phi công khu trục bao lần vùng vẫy trên vùng trời lửa đạn.

Tôi run run đếm những số giây cuối cùng cho các bạn tôi điều chỉnh giờ đúng. Nỗi lo âu ngập tràn. Khẳng định không phải là sự thiếu tự tin. Những người trẻ tuổi thường không sợ sệt trong lý tưởng mà luôn muốn chứng minh khả năng của mình trong khi bay. Khả năng của tôi đang được khảo thí. Một cuộc khảo thí quan trọng vô cùng, vì từ giờ trở đi, những quyết định của tôi, một phi công hai mươi ba tuổi, nếu sai lầm sẻ phải trả bằng giá của sinh mạng tôi và của cả mười một phi công khác mà số tuổi chỉ trên dưới hai mươi.

Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong nghề, lần này tôi sắp sửa thêm một kinh nghiệm nữa mà mãi sau này tôi vẫn thấy thú vị vô cùng. Danh nhân nào đã nói kinh nghiệm là một ông thầy khó tính, bắt ta phải khảo thí trước khi dạy ta.

Tôi đang là thí sinh của cuộc khảo thí kỳ cục đầy hào khí này. Hình ảnh cuốn phim Le Pont de Toko Ri chợt đến bao trùm trong tôi thật rõ ràng linh hoạt như ngày nào tôi mười hai tuổi xin tiền mẹ bốn lần để xem đi xem lại phim này.

Vùng trời Đà Nẵng hôm đó thật thấp và âm u với nhiều mây xám. Đã có lác đác vài hạt mưa rơi.

Các bạn tôi lộ vẻ chán nản và nói “Chán quá! Lại phải hủy bỏ phi vụ”. Chúng tôi có những giới hạn thời tiết tối thiểu để hoạt động. Dù với lòng quả cảm chấp nhận hiểm nguy nhưng chúng tôi đều phải tôn trọng những luật lệ về an phi. Tuy nhiên tôi thản nhiên ra lệnh: “Vẫn cất cánh như đã dự trù”.

Các bạn tôi đều ngạc nhiên và cho là một quyết định khá liều lĩnh. Thật ra tôi đã quyết định ngay từ lúc rời phòng thuyết trình và thầm mong một biến chuyển thời tiết khả quan hơn. Tôi nhớ thật rõ các dữ kiện mà sĩ quan khí tượng đã cho biết. Trong trí tôi, cuốn phim Le Pont de Toko Ri đang quay chậm. Tôi ôn lại các lối lượn bay toát mồ hôi lạnh trong phim.

Có ai ngờ mười mấy năm sau tôi lại đóng vai chính của một cuốn phim oai hùng.
Thời gian trôi qua thật nhanh chóng.

Tôi tưởng chừng như mới hôm qua còn ngồi trên ghế nệm thoải mái trong rạp hát, hồi hộp theo dõi một kiệt tác của nghệ thuật thứ bảy. Để rồi hôm nay ngồi trong phòng lái chật hẹp tù túng, trước mắt là cánh quạt động cơ ào ào rung chuyển quay tròn như cơn gió lốc, như trộn lẫn định mệnh với cuộc đời…

Thế rồi phơn phớt dưới chân mây, là đà trên ngọn núi, chúng tôi đem tuyệt kỹ phi hành để khắc phục trắc trở thiên nhiên. Tôi đem hết hiểu biết kinh nghiệm để dẫn dắt mười hai cánh chim lao về Bắc.

Nhìn các bạn tôi chao đi trong mưa gió âm u, lòng tôi se lạnh. Trong gió mưa cuồng loạn các bạn hãy cố gắng lên. Chúng ta còn đến trung tâm một cơn bão khác quay cuồng hơn, đang đe doạ không riêng chúng ta mà cả hàng triệu chiến hữu đang gian khổ dập tắt cơn bão loạn này. Tôi biết trời âm u lắm, đôi cánh nặng vô cùng, các bạn hãy theo tôi đi dẹp tan cái âm u khác đã triền miên từ lâu. Theo tôi cho vững để trút cái nặng nề dưới đôi cánh, xoá tan những áp lực núi đá khác đang đè nén quê hương.

Nhìn xem kìa, bên trái hướng chín giờ, Huế cố đô thân yêu. Chân mây cao hơn đôi chút rồi. Đừng dùng máy nhiều nhé, nhớ tiết kiệm từng giọt xăng.

Chúng ta còn đi xa lắm, dù mang thêm bình xăng phụ nhưng lúc giao chiến, đôi khi chúng ta phải thả đi cho nhẹ bớt để còn mặc sức vẫy vùng. Máu của cánh chim, máu của chính mình đó các bạn.

Tôi đang cố gắng giữ hướng Bắc dù cho đôi cánh đang chao mạnh run rẩy từng cơn.
Hãy tin ở tôi, ở tuổi trẻ Việt Nam.
Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt...
Các bạn thấy Cửa Việt chưa? Cố lên, hãy tra chìa khoá vào cánh cửa Việt Nam đang bị rỉ sét để mở ra cho lịch sử thôi tù túng, đóng khung.

Đừng bay quá xa về phía biển, chúng ta sắp vượt Bến Hải, vĩ tuyến đau thương. Ha ha, chiếc cầu với hai cột cờ. Chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta.

Các bạn còn nhớ bài Địa Dư vỡ lòng ngày nào?

Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Đâu có ai ngờ là đứt khúc nơi Bến Hải.

Bên cánh trái là giang sơn gấm vóc của giống Tiên Rồng. Dưới cánh phải là Thái Bình Dương đang dâng sóng vỗ về đất nước. Chúng ta cố bay nhanh để sớm quay về, chắp đôi cánh lại cho thanh bình mau ấp ủ quê hương...

Vĩnh Linh, Quảng Khê, Đồng Hới...

Tôi đã bay trên miền trời các địa danh đó, đã đem tử thần đến và cũng đã chạm mặt tử thần ở những nơi này. Quê hương tang tóc rối bời. Những trại quân bị tàn phá, những chiếc cầu gẫy gục, những quang cảnh tiêu điều, vết tích lưu lại những lần oanh tạc trước vẫn còn lở lói bên dưới kia.

Những ai đó còn mê ngủ hay đã kinh hoàng tỉnh giấc trong những tràng bom nổ inh tai, dưới những làn phi tiễn nhức óc? Đừng để cho ảo tưởng bao trùm, hãy lên đây cùng chúng tôi, suốt con đường từ Nam ra Bắc để nhìn rõ bức dư đồ rách nát vì đâu?

Hãy ngồi bên chúng tôi để nhìn rõ quê hương, để biết cái cảm giác của một người bay trên quê hương mà phải nghĩ đây là đất địch.

Đã bao lần tôi muốn xua đuổi ý tưởng đau lòng đó, nhưng bên những sườn núi kia, trong thung lũng nọ, trên bờ biển này, tử thần đang chực chờ lôi kéo chúng tôi bằng lưới đạn giăng trời, để rồi sau cái tan vỡ kinh hoàng của một cánh chim, Thân xác cũng tan tành đưa chúng tôi đến nơi nào không biết, nhưng chắc chắn rằng cho đến lúc đó, chúng tôi chưa tận hưởng được cái khang cường thân thể với những mạch máu căng đầy sinh lực mà cha mẹ tạo thành, chưa mãn nhãn nhìn hết cái đẹp hùng vĩ đất nưóc của tổ tiên để lại, cũng như chưa tiêu xài hết một phần tuổi trẻ của cuộc đời.

Tôi đưa cả phi đội bay thật thấp để cố tránh tầm rada địch. Trong mũ nghe chỉ còn tiếng rè rè của vô tuyến. Chúng tôi âm thầm bay, không một ai lên tiếng trong lúc này, kể cả đài kiểm báo Sơn Trà. Ngoại trừ khi tôi cần. Tôi biết rằng chúng tôi không cô đơn, vì ở nhà bao con tim đang hồi hộp đợi chờ. Chúng tôi rời phương Nam đã lâu, nơi đó bạn tôi cũng chờ đợi.

Địch? Bạn?

Tại sao lại bắt chúng tôi dùng những từ ngữ ấy?

Tại sao không xoá bỏ những chữ ấy trong tự điển, trong lòng người? Tại sao lại xem chúng ta là kẻ thù để chúng tôi trở nên những người đối địch họ vì chúng ta sắp nhận là kẻ ác của những người thiện để tiêu diệt bất cứ kẻ ác nào muốn giết người thiện.

Từng phần đất quê hương sẽ thêm một lần vỡ tung dưới làn bom nổ. Thân thể mẹ Việt Nam đang bị vi trùng đục khoét, chúng tôi xót xa phải cắt bỏ những ung nhọt đang hoành hành.

Nguyện ước bây giờ là làm sao cho Mẹ bớt đau đớn, hết rên xiết, con cháu Mẹ sớm quây quần bồi dưỡng Mẹ. Mẹ, xin Mẹ cho chúng con thêm một lần chạm vào da thịt thiêng liêng để Mẹ sớm yên lành...

Hà Tĩnh nghèo nàn âm u kia rồi.

Vinh u buồn thảm não.
Chúng tôi cho vòng máy quay nhanh hơn bắt đầu vượt cao theo hướng Tây Bắc tràn vào.
Mây mù giăng đặc. Tôi cố lượn giữa các tầng mây, dò theo từng chi tiết trên bản đồ mà hầu như đã thuộc kỹ. Tôi không được phạm một sơ xuất nào, một lầm lỗi nào dù nhỏ đến đâu.

Tôi ra thủ lệnh cho các bạn tôi.

Loang loáng trong mây, mười hai hiệp sĩ như những cánh thiên thần đi tìm tử thần trong cái âm u của trời đất. Tôi phải tận dụng yếu tố thời tiết và bất ngờ, nếu không… nếu không thì…

Le Pont de Toko Ri ơi, sao có sự trùng hợp lạ kỳ?

Chỉ khác chăng không phải chiếc cầu mà là trại quân. Vẫn một thung lũng rợn người với ba mặt núi cao đầy lửa đạn. Vẫn một lối vào duy nhất như lùa vào tử lộ. Vẫn một lối ra hiểm trở, vách đá sừng sững chi chít cao xạ. Tôi có cảm tưởng như địch đã biết, đang mỉm cười chờ những cánh thiên thần.

Trời âm u quái đãn, bay đến đâu mới nhìn được đến đó. Tầm nhìn xa bị giới hạn tột cùng. Thoáng qua vài lỗ hổng chân mây, xa xa là Thanh Hoá.

Tám phút trước mục tiêu, tôi chợt đổi đường bay về hướng Bắc. Các bạn tôi vẫn đeo sát.

Nhạc gió quay cuồng, tiếng máy thét gào rú mạnh.

Đài kiểm báo Sơn Trà như lo lắng gọi chúng tôi cho biết đang bay lệch mục tiêu ba mươi độ và báo động phi cơ địch được nhìn thấy trong vùng hoạt động. Tôi đáp hiểu, không giải thích lối đánh của tôi.

Tôi lượn quanh trong mây đổ chập chùng, vòng sang hướng Tây mục tiêu rồi chọc thẳng về hướng Nam, tin tưởng hoàn toàn vào tấm bản đồ không ảnh.

Các bạn tôi đã sẵn sàng ở đội hình chiến đấu.

Tôi từ đầu rặng núi vượt ra từ trong mây.

Số một lao vào mục tiêu. Tốc độ tăng nhanh như vũ bão. Áp lực ép mạnh vào người. Làm sao… Làm sao ngay từ giây phút đầu… Le Pont de Toko Ri… Phải, tôi phải cố gắng làm sao cho hai trái bom đầu tiên rơi đúng ngay trên mục tiêu nằm cách nhau non một ngàn thước để đánh dấu cho các bạn tôi nhìn thấy qua đám mây mù. Tôi phải lam sao cho các phi tiễn cùng lúc ấy phá vỡ các ổ cao xạ ở vách núi trước mặt ngăn chặn lối ra duy nhất.

Hơn nữa nếu tôi xuống quá thấp để tìm sự chính xác cho làn bom và phi tiễn thì lúc vượt lên sẽ quá muộn chỉ trong vòng một giây đồng hồ tôi sẽ cùng cánh chim dán vào vách đá.

Tôi còn phải lượn lại ít lắm hai lần, trong lúc các bạn tôi đang oanh tạc, để trút số bom còn lại lên các ổ phòng không hai bên vách núi đang kẹp mục tiêu như chiếc kéo của tử thần đang chực chờ họ. Tôi còn phải nhắc nhở và theo dõi họ lúc vượt qua vách núi chắn ngang. Tất cả đều tùy thuộc vào ở lúc này.

Tôi lao xuống mục tiêu đang tỏ dần trước mặt…

Bom nổ kinh hoàng, phi tiễn xé rách vùng trời thung lũng. đạn bay loè sáng… Tôi như chết đi trong con người, đắm chìm trong chiến trận. Tôi trở thành máy móc, một công cụ khoa học, một nô lệ kỹ thuật. Phòng không địch giật mình hoạt động. Nhưng trễ quá rồi.

Thời tiết xấu đã giúp chúng tôi tận dụng yếu tố bất ngờ. Các chú không ngờ chúng tôi tiến đánh lúc trời xấu phải không? Nếu trời trong thì với lối phòng thủ chắc ăn như vậy, các chú có thể xơi tác một con ruồi bay qua. Chúng tôi cần vài giây đầu tiên thôi. Đạn phòng không đỏ rực nổ tung dày đặc khung trời.

Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…

Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?

Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.

Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt…

Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.

Tôi vượt lên cao…

Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.

Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.

Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.

Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.

Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế…
Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.

Hoàng hôn đẹp.

Sóng biển lấp lánh ánh bạc.

Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút giây căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.

Thuốc ngon quá.

Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.

Tôi mỉm cười…

Lê Bá Định
Source: "Newvietart.com"

Chú thích:

Lê Bá Định sinh trưởng tại miền Bắc nhưng theo gia đình di cư vào Nam từ 1954.
Lê Bá Định trở thành một phi công phản lực nổi danh trong binh chủng về khả năng điều khiển khu trục lẫn khả năng viết.
Lê Bá Định cũng được biết đến như một cấp chỉ huy trẻ cương trực và quả quyết khi là Trung Tá Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật.
Sau 1975, Lê Bá Định trở thành tù nhân cải tạo nhiều năm, nhưng quyết định ở lại Sài Gòn mưu sinh bằng cách kèm dạy Anh Văn.
Hiện anh vẫn sống cùng gia đình tại Sài Gòn.

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Hồi Ký Cam Ranh

Giao Chỉ, San Jose

CHUYỆN HẢI QUÂN

Đầu tháng 12-2013 hải quân VNCH họp mặt tại San Jose. Ngoại trừ đô đốc Chơn, người địa phương, chẳng có ông tướng hải quân nào về tham dự. Lý? do duy nhất là tuổi già, sức yếu. Ông phó đề đốc Diệp Quang Thủy ở San Mateo, ngay bên cạnh cũng không về được. Ông nói chuyện hải quân ra khơi qua điện thoại.

Đó là kỳ phỏng vấn cuối cùng. Một tuần sau ngày đại hội ông qua đời. Vị tướng tham mưu trưởng hải quân mất ngày 6 tháng 12-2013, hưởng thọ 82 tuổi. Ngày 11tháng 12-2013 tôi đi dự tang lễ ở San Mateo. Anh em hải quân phủ cờ, nhưng chỉ có gia đình và thân hữu hiện diện. Ông tướng hiền lành nhất của hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra đi cũng đơn giản như thời kỳ ông còn lái xe lunch để bà nhà bán cơm trưa cho anh em làm hãng xưởng tại San Jose. Ông tướng cao lớn, đẹp trai, hào hoa nhưng hiền lành và lương thiện. Sống giản dị, chết cũng chẳng ồn ào. Cái chết của ông Thủy làm tôi nhớ lại chuyện của mình. Lần này tôi không viết nhiều về chuyện ra đi của ông tướng hải quân. Tôi viết về chuyện của tôi. Tựa đề Hồi k?ý Cam Ranh. Gần 40 năm trước, trên chuyến bay định mệnh từ Saigon ra Cam Ranh, chúng tôi ngồi chung 1 tàu. Sứ mạng vĩ đại được trung ương giao phó là tái trang bị cho binh sĩ của quân khu I và II về tập trung tại Cam Ranh. Ông xếp đại diện tổng tham mưu là thiếu tướng pháo binh Nguyễn xuân Trang. Tôi, đại tá Vũ văn Lộc phụ tá và lo về tiếp vận. Đại tá Trường lo về quân số. Đại tá Huy, tham mưu phó tiếp vận sư đoàn Dù lo cho lính mũ đỏ ở mặt trận Khánh Dương. Phó đề đốc Thủy là tham mưu trưởng lo việc hải quân. Trên tàu bay còn có 1 trung đội quân cảnh của tổng tham mưu để giữ trật tự. Mỗi vị đều có các sĩ quan tham mưu và cận vệ tháp tùng. Phần tôi có đại úy Nguyễn thế Đỉnh, gốc biệt động quân. Anh là quận trưởng, bị thương ở chi khu, mới đổi về tổng tham mưu. Tôi mang đi theo để có tay súng tác chiến yểm trợ ông thầy.

Chúng tôi xuống Cam Ranh rồi mỗi người đi 1 ngả. Những tưởng sẽ hẹn nhau trở về Saigon. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau tan hàng tại chỗ, chúng tôi chẳng còn gặp lại nhau. Bây giờ đại tá Trường chết ở quận Cam, đại tá Huy dù đã chết bên Texas, thiếu tướng Trang ở lại đi tù. Khi HO qua Mỹ tôi có đón ông chuyển tiếp tại phi trường San Francisco. Ngày nay chẳng biết tin tức ra sao. Còn ông đề đốc Thủy, dù cũng chẳng xa xôi gì mà cũng không gặp mặt. Ai ngờ tôi gặp lại lúc đưa ông về chốn vô cùng.

Image
DUYÊN NỢ CAM RANH

Tuy rằng chuyến bay ra Cam Ranh với tướng Trang và tướng Thủy là chuyến bay cuối cùng tháng 4-1975 nhưng không phải là chuyến bay đầu tiên của tôi. Trong cái giai đoạn đau thương của đất nước tôi đã lãnh công tác bay ra Nha trang ngày 15 tháng 3/1975. Công tác yểm trợ cho việc tái chiếm Ban Mê Thuột. Chắc anh em còn nhớ ông Thiệu họp hội đồng an ninh quốc gia tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3/1975 cho lệnh rút quân đoàn II. Lúc đó đại tướng Viên đi họp về đã cho chuẩn tướng Thọ trưởng phòng 3 biết tin. Nhưng các xếp hoàn toàn giữ bí mật. Sáng 15 tháng 3/1975 bộ tư lệnh quân đoàn II đã bỏ cao nguyên mà phái đoàn tổng tham mưu của chúng tôi cứ phoong phoong lên máy bay ra Nha Trang như chuyến đi bình thường. Khi vào bản doanh bộ tư lệnh của quân đoàn II ở Nha Trang đã thấy ông Phú đang cầm máy hò hét các cánh quân. Ông mới từ Pleiku về hôm trước. Bỏ lại anh bạn Cương Quyết Thủ Đức của tôi là đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn với cả miền cao nguyên đang hoảng loạn. Xem cung cách của vị tư lệnh Phú lúc đó đã thấy quân đoàn II đang vất vả lắm rồi. Chẳng kỳ vọng gì chuyện tái chiếm Ban mê Thuột. Anh bạn Cương Quyết Đà Lạt, đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 23 đã bị giặc bắt đang trên đường Việt Cộng giải ra Bắc.Tôi lấy xe chạy qua ngã ba đường đèo lối vào quận Ninh Hòa. Đón được những chuyến xe đi sớm nhất từ Pleiku lọt được về duyên hải. Một xe jeep đậu bên đường. Anh tài xế bị thương bế 2 đứa nhỏ phía sau. Một tay trung úy lái xe mắt đỏ với bộ mặt đau thương giận dữ. Người đàn bà ngồi bên cạnh băng bó toàn thân. Tôi lại gần mới biết, người vợ đã chết được buộc ngồi vào ghế trưởng xa. Đầu ngả 1 bên. Anh trung úy thấy tôi đeo lon đại tá mang huy hiệu bộ tổng tham mưu, chợt buông tiếng chửi thề rồi lên xe chạy tiếp. Tôi nghĩ rằng mình sẽ đem tiếng chửi về lại bộ tổng tham mưu. Có thể gọi cả điện thoại cho đại tá Đỗ đức Tâm đang làm việc tại võ phòng, để trình lên tổng thống! Tôi quay về Nha Trang, nhưng không ghé vào quận Ninh Hòa. 38 năm sau mới biết nếu ghé Ninh Hòa, sẽ gặp trung tá Đỗ Hữu Nhơn đang ngồi tại quận này. Ông Nhơn, một đời đi lính lực lượng đặc biệt, 3 lần quận trưởng, bây giờ là thân hữu già cùng khóa Cương Quyết, cư ngụ tại San Jose.

Trở về tổng tham mưu tôi báo cáo tình hình cho các xếp. Nhưng xem ra tin tức về chuyện rút quân cao nguyên đã rung động cả Saigon. Ai cũng biết tin tức đau thương qua bản tin của Nguyễn Tú đăng trên báo Chính Luận.

Hai tuần sau đại tướng Viên ra lệnh cho tiền doanh tổng tham mưu lên đường. Tướng Trang cao niên và hiền lành được cử làm trưởng phái đoàn, đại tá Lộc mới đi về, coi bộ thuộc đường đi nước bước, được chỉ định trở lại Cam Ranh. Đi lần này có tướng tham mưu trưởng hải quân, ông Thủy. Có đại tá Dù, ông Huy. Có ông Trường, một tay ngon lành của TTM, chuyên viên về quân số. Có hơn 20 anh quân cảnh. Xem ra chẳng có hy vọng gì tái tổ chức được 2 quân đoàn và lập phòng tuyến thép. Ngồi trên phi cơ, anh em chúng tôi không ai nghĩ là sẽ làm được chuyện phi thường.

Lúc đó xếp xòng thị xã Cam Ranh là đại tá Liễu, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 5 tiếp vận và quân trấn Cam Ranh là đại tá Mai duy Thưởng. Qua đêm đầu yên tĩnh. Buổi sáng tướng Trang nói với anh em là "moi" ngủ không yên. Cứ hắt hơi suốt đêm. Ông tâm sự, ngày xưa lúc còn trong quân đội liên hiệp Pháp, trước khi bị Nhật bắt "moi" cũng bị như thế này. Điềm rất xấu. Ông thở dài. Chúng tôi cũng lại nghe thêm toàn tin xấu. Tin Đà nẵng thất thủ, rồi đến Quy Nhơn tan vỡ. Tôi vui mừng được biết tại Quy Nhơn hải quân vớt được anh em ở bộ chỉ huy 2 tiếp vận. Các hạm đội hải quân tập trung về Cam Ranh. Máy bay C47 của đại tướng Viên bay ra dự trù đón tướng Trưởng và phái đoàn tổng tham mưu trở về. Nhưng ông Trưởng không lên bờ và máy bay cũng không đáp xuống được. Phi trường khá đông người và mất trật tự. Tôi gặp tướng Nhựt sư đoàn 2 từ chiến hạm lên thăm dò tình hình Cam Ranh. Hỏi ông có cần trang bị gì cho sư đoàn. Ông quay ra bến tầu, vừa đi vừa lắc đầu. Không tìm thấy đại tá Huy Dù, tôi bèn qua trung tâm bảo toàn để tìm cách liên lạc với đơn vị yểm trợ tiền tuyến bên cạnh mặt trận Khánh Dương. Chợt có tin một phi cơ C130 của không quân đã đáp xuống đang chờ lệnh. Vội chạy ra phi trường. Ở đây đúng là hỗn quân hỗn quan. Tin tức về phi trường nổi loạn ở Đà Nẵng và việc bắn giết nhau trên bãi biển và ngay cả trên sà lan, trên tàu di tản đã tạo không khí kinh hoàng cho Cam Ranh. Binh sĩ tan hàng từ chiến hạm lên bờ tìm thực phẩm. Súng ống lựu đạn đầy người. Chẳng thấy sĩ quan chỉ huy. Chỉ cần 1 hành động bất cẩn là tiêu tùng. Đặc biệt là không khí căng thẳng giữa quân cảnh TTM với lính tổng trừ bị từ chiến trường hỗn loạn chạy về. Một anh quân cảnh của chúng tôi đã bị chém ở bến tàu.

Các anh phi công không tắt máy, vẫn ngồi trên ghế lái, dục dịch muốn bay lên. Tôi cố trấn tĩnh đứng dưới sân bay dùng quân cảnh ngăn chận không cho dân chúng tràn lên phi cơ. Cho lính tổng trừ bị ưu tiên lên tàu trước. Đem tất cả các thương binh lên.Trật tự được giữ yên, với các quân cảnh súng đeo vai, bình tĩnh làm việc. Lại cho lệnh thủy quân lục chiến, nhẩy dù, biệt động quân, lính sư đoàn qua kho quân tiếp vụ lấy lương thực rồi trở lại bến tàu. Kho quân tiếp vụ được lệnh bỏ ngỏ cho lính lãnh hàng và tự do mặc sức khuân đi. Sau cùng tàu bay vẫn còn đủ chỗ cho tất cả phái đoàn tổng tham mưu trở về cùng với cả gia đình binh sĩ. Nhân dịp này tôi đưa được anh bạn cùng khóa là trung tá Nguyễn đức Chung từ Đà Nẵng chạy về. Anh lên máy bay cùng với cùng với tùy viên của tôi là đại úy Nguyễn thế Đỉnh.

Tôi ở lại dẫn lính tổng trừ bị ra bến tàu. Cũng chẳng phải can đảm gì. Cái thế phải như vậy. Nếu leo lên máy bay sớm là bị lính ba gai bắn chết tại chỗ cùng với mấy anh quân cảnh.

Khi trở về bộ chỉ huy 5 tiếp vận được biết ông trưởng đoàn đã cùng đại tá Liễu tỉnh trưởng Cam Ranh bay trực thăng vào Phan Rang. Đại tá Mai duy Thưởng cũng đã di tàn đường biển, cả bộ chỉ huy còn lại mình tôi với đại tá Trường.

Anh tài xế biệt phái lái xe cho tướngTrang hỏi thăm tôi bao giờ ông tướng trở lại. Anh còn đi tìm ông đại tá chỉ huy trưởng để nhận lệnh. Mặc dù lòng đang bấn loạn nhưng vẫn tỉnh táo nói rằng bây giờ tôi là người chỉ huy ở đây. Anh tài xế vui vẻ chờ lệnh. Báo cáo về Saigon cho trung tướng Khuyên,tham mưu trưởng liên quân. Trung tá chánh văn phòng Nguyễn đình Bá nửa đùa nửa thật nói là xếp chỉ thị anh Lộc có điều động được thì bây giờ làm chúa đảo kiêm Chỉ huy bộ chỉ huy tiếp vận, luôn cả thị xã Cam Ranh. Tôi ngao ngán nói rằng lệnh bổ nhiệm chậm trễ 3 năm. Bây giờ "moi" phải tìm đường chạy qua hải quân gặp ông đề đốc Hoàng cơ Minh. Tôi nói chuyện về tổng tham mưu hoàn toàn bạch văn chẳng có kiểu cách gì. Lúc đó đã khuya rồi. Chưa tắt máy, chợt có tiếng anh thượng sĩ truyền tin xen vào. Anh nói rằng, mấy hôm nay chúng em trên núi nghe tiếng đại tá nói chuyện với bộ tổng tham mưu. Bây giờ không còn ai liên lạc về Saigon, chúng em là siêu tần số truyền tin diện địa. Đại tá qua bên kia dùng hệ thống hải quân, xin cho lệnh tụi em về. Tôi hỏi là có xe từ trên núi xuống không. Anh ta nói là chúng em có phương tiện, 6 người truyền tin và 1 tiểu đội địa phương quân. Xin cho chúng em rút. Tôi đồng ý cho lệnh cả toán lấy tiêu lệnh triệt thoái ra mà thi hành. Phá hủy máy, giấy tờ và đặc lệnh truyền tin. Ra lệnh rồi mà tôi cũng cứ băn khoăn, nghĩ rằng mình hơi ẩu. Sau đó anh em chúng tôi còn lại đi 2 xe jeep chạy qua trung tâm huấn luyện hải quân ở phía bên kia bán đảo. Cho lệnh các anh tài xế và hộ tống tan hàng, không phải chờ đợi ai nữa. Từ bên ngoài hàng rào, các anh lính biệt phái mới quen biết hai ngày cùng giơ tay chào. Ngậm ngùi trông theo, thôi thì như vậy cũng đành. Đại tá chạy, nhưng ông nói rằng ông chạy. Anh em không phải thắc mắc đợi chờ. Quê em ở Ninh Hòa, mai này ông thầy có dịp trở lại ra quán vợ em mua nem. Chúng nó nói đùa mà như có nước mắt.

CĂN CỨ HẢI QUÂN

Phía bên bộ binh tại Cam Ranh rối loạn bao nhiêu thì trong căn cứ hải quân lại bình yên trật tự lạ lùng. Xem ra các chiến hạm khá nhiều mà không thấy dân chúng ồn ào chen lấn.

Chúng tôi ngồi uống nước buổi tối dưới hàng cây. Phía sân trước có 2 trực thăng đậu sẵn. Tôi ngồi bàn tán chuyện thời sự với chuẩn tướng Thân và trung tướng Thi bay từ Đà Nẵng về. Sẵn cơn tức giận pha lẫn đau thương lo sợ, tôi phê phán tổng thống Thiệu thẳng thừng. Ông Thi đồng ý nhưng ngồi yên lặng. Tướng Thân nguyên là tư lệnh sư đoàn 1 thời kỳ anh bạn tôi là trung đoàn trưởng Nguyễn thế Nhã tử trận, chúng tôi cùng đưa đám ở Mạc đỉnh Chi. Ông Thân rất cảm khái nói rằng các "toa" là đại tá còn dám nói thực lòng, tổng thống đánh đấm thế này thì chết cả anh em.

Giấc khuya cả 2 ông lên trực thăng bay vào Nam. Ông Minh gặp tôi nói: Sao không theo mấy ổng lên trực thăng. Thôi bây giờ tàu dưới bến, anh muốn đi chiếc nào thì đi. Tôi bắt tay ông Minh nghĩ rằng không biết bao giờ sẽ gặp lại. Sáng hôm sau, xuống tàu, được biết ông Diệp quang Thủy đã về trước rồi. Ông Minh di chuyển bằng tàu nhỏ. Trên mặt trận duyên hải, xem ra chỉ còn mình ông Minh bình tĩnh giải quyết công việc.

Tôi cùng sĩ quan bộ binh khác thuộc các đơn vị miền Trung di tản trên một chiến hạm mà ngày nay chẳng còn nhớ con tầu nào. Sĩ quan chúng tôi lẫn vào binh sĩ và dân chúng ngồi dưới sàn tầu. Buổi tối, tôi thảo điện văn nhờ tàu gửi cho tư lệnh hải quân chuyển qua trung tướng tham mưu trưởng liên quân. Ông hạm trưởng biết chuyện nể tình và cũng muốn giữ an ninh nên đưa 2 ông đại tá tổng tham mưu lên boong tàu nằm cho đỡ vất vả. Canh khuya, tôi chợt nghe thấy tiếng cười của cô nữ quân nhân hải quân.Nằm phía ngoài hiên phòng lái chịu cơn gió đại dương thân thể lạnh ngắt và đầu óc hết sức hoảng loạn cho một tương lai bất định. Mới hơn 5 năm trước bay đêm trên trời Cam Ranh, nhìn xuống quân cảng đèn sáng rực rỡ như thiên đường. Thương thuyền và chiến hạm đầy bến. Các cầu tàu nhộn nhịp lên hàng. Không thể tưởng tượng có ngày Mỹ bỏ Cam Ranh. Rồi đến VNCH cũng bỏ Cam Ranh.

Đoàn tàu từ giã bến cảng 1 thời nổi danh Đông Nam Á. Rồi tất cả rúc còi xuôi Nam. Tàu của tôi chở đầy dân tỵ nạn nên không được vào Vũng Tàu. Phải chạy ra Phú Quốc.

Ngay sau khi cặp bến lên tầu thì ngày hôm sau có tin cô thiếu úy xã hội của hải quân bị rớt xuống biển. Đó lại là con gái của vị tư lệnh hải quân đầu tiên. Đại tá Lê Quang Mỹ. Tôi vẫn nhớ tiếng cười của người nữ quân nhân hải quân giữa trùng dương mấy hôm trước. Trên đưởng chạy giặc mà sao vẫn nghe thấy tiếng cười của cô gái trong trẻo như pha lê.

Tôi nhớ đến các cháu gái nhà tôi. Ba đứa nhỏ tuổi hoa niên đang học Gia Long ở Sài Gòn. Rồi đây tương lai sẽ ra sao? Sau khi đến Phú Quốc vào đêm khuya, sáng hôm sau tôi lên máy bay về Saigon. Việc đầu tiên là hỏi thăm nhà của ông hạm trưởng để nhà tôi đem biếu hộp bánh với lời cảm ơn. Tôi cũng có ý tìm hiểu xem vụ tai nạn có trở ngại gì không. Rồi đến cuối tháng tư tôi thu xếp đem cả đơn vị xuống tầu quân vận ở bến Khánh Hội mà chạy theo hải quân. Từ ngày đó không gặp lại đại tá Trường tổng tham mưu. Không gặp lại đại tá Huy dù. Không gặp lại tướng Thủy. Các ông bạn một thời chinh chiến lặng lẽ ra đi. Cùng ở nước Mỹ mà ra đi lúc nào, ai có hay.

Nhưng sau cùng tôi có dịp tiễn đưa ông Diệp Quang Thủy lần cuối. Dù bên ngoài trông ông Thủy bình thản hiền lành nhưng thực ra những năm qua, trong phạm vi kín đáo ông vẫn sinh hoạt nhiệt thành với các chính đảng hướng về đại nghĩa quang phục quê hương. Chuyện này ngay anh em hải quân cũng ít người biết đến.

Ông Hoàng Cơ Minh một đời sôi nổi. Từ mặt trận duyên hải cho đến kỳ hạm đội ra khơi lần cuối. Tiếp theo là thời kháng chiến hay là chết. Sau cùng ông đã hy sinh tại Hạ Lào. Đề đốc Thủy kín đáo hơn, nhưng vẫn 1 lòng nghĩ về quê hương cho đến giây phút cuối cùng. Hai ông hải quân mỗi người đeo một sao. Một ông người Bắc, một ông Nam Kỳ. Cả 2 ông đều làm tôi nhớ lại Cam Ranh.

Trên sân khấu của đại hội hải quân ngày 1 tháng 12-2013 tôi có dịp kể chuyện Cam Ranh và ngỏ lời cảm ơn ông hạm trưởng con tầu tháng tư đã chở tôi về Phú Quốc mà thực sự tôi đã quên tên. Chỉ còn nhớ chuyện cô gái chết rất đau thương. Tối qua, tìm được điện thoại, ngay tại San Jose từ hơn 30 năm qua, anh em mới có dịp hàn huyên. Tôi mới được biết con tầu đầy kỷ niệm là HQ.500 của ông hạm trưởng trung tá Lê Quang Lập, quê Phan Rang, xứ sở của ông Thiệu. Danh hiệu hết sức tình cảm của HQ 500 lại là Dương vận hạm Cam Ranh. Sự tình cờ làm đậm đà cho bài hồi ký 38 năm sau.

Nhớ mãi ông Trường TTM, ông Huy Dù, ông Thủy hải quân và tôi trong chuyến bay buổi sáng đầu tháng tư, năm 75. Ông Trang ngồi trong phòng lái. Anh em mình ngồi một dãy bên nhau, tin tan hàng mất đất dồn dập, chẳng ai nhìn thấy tương lai. Tuy nhiên không ai biết rằng đến lượt Cam Ranh, chỉ còn đứng vững ba ngày rồi tan ra như lửa thiêu nước đá. Chẳng thấy bóng quân thù. Không một tiếng súng. Các binh đoàn cứ mờ dần như đang mộng du. Lúc đó chúng tôi 20 tuổi học trò, 20 tuổi lính, 40 tuổi đời. Gần 40 năm sau, chỉ còn mình tôi ngồi nhớ khung trời Cam Ranh mà chẳng biết bây giờ các ông ở đâu.

Giao Chỉ, San Jose

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

MỘT ÐỜI CHIẾN SĨ DỌC NGANG
Có những người miền Nam không đi lính Quốc gia, có thể là trốn lính, thường nói với những người đi lính Quốc gia rằng:“Tôi không có ân oán, nợ nần gì với hai bên Quốc gia và Cộng sản cả”. Ý của họ là: “Có đánh đấm với ai đâu, có đỗ xương máu với ai đâu mà ân với oán, nợ với nần”. Vậy thì, tôi cũng xin nói lại: “Quân miền Bắc vào miền Nam của nước Việt nam Cộng hòa gieo tang thương biết chừng nào, đến nỗi những người miền Nam của nước Việt nam Cộng hòa không đi lính Quốc gia cũng phải bỏ nhà, bỏ nước mà chạy lấy thân phải không”? Có “những người đi lính Quốc gia” mới cho những người miền Nam không đi lính Quốc gia được yên ổn ít nhất 21 năm, từ những năm 1954 đến năm1975 còn sống sót đến ngày hôm nay mà vô tâm, vô tình ăn nói một cách vô ơn, vô nghĩa đến như vậy đó. Ngay với con, với cháu của họ sinh đẻ sau cái ngày gọi là ngày Giải phóng tàn độc đi nữa, cũng phải biết những người lính Quốc gia đã phải hy sinh từng giọt máu, từng một phần thân thể, từng cái chết “vị Quốc vong thân”…cho cha mẹ, cho ông bà của chúng nó còn sống nhăn răng ra mà lấy vợ, mà lấy chồng, mà sinh sôi nảy nở chúng ra cũng còn chưa thể nói năng hàm hồ đến như vậy thay.
Chiến tranh có những cái phi lý của nó mà chủ nghĩa thực dụng không giải thích được. Cái phi lý lớn nhất trong cuộc chiến Quốc-Cộng tại Việt nam vẫn là người lính Việt nam Cộng hòa bị bức tử bắt phải thua trận một cách tức tưởi đến “tức hôc máu”. Nhưng đã là người lính Việt nam Cộng hòa với lời thề sắc son Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm thì sự chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho Tổ quốc, cho Ðồng bào thì muôn thuở, muôn nơi lời thề tử sinh đó vẫn còn nặng nề đeo theo suốt đời không bỏ. Cho nên, có lạ gì đến ngày hôm nay, những người lính ngày xưa trai trẻ hiên ngang bây giờ già thật là già dẫu đã mõi gối chồn chân rồi, nhưng vẫn còn xông xáo lặn lội tìm đường cứu nước bằng cách nầy, bằng cách khác không biết mệt mõi, vì “Họ là những anh hùng không tên tuổi. Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình. Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh. Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch” như lời Giáo sư Nguyễn ngọc Huy đã nói. Không đâu xa, ngay trong thành phố không đông người Việt của tôi đây, thành phố Kansas City thuộc tiểu bang Missouri cũng đã thấy biết bao người lính ngày xưa đó, bây giờ vẫn còn miệt mài ngày đêm tranh đấu cho một nước Việt nam độc lập, tự do, phú cường. Tiêu biểu, tôi muốn nhắc đến tên một người mà ở đây gần như ai ai cũng biết đến, ngay cả một số người Mỹ cũng biết đến, đó là người anh bạn của tôi Nguyễn hải Triều.

Image
Anh Nguyễn hải Triều ( Vest xám, đứng giữa )
với phái đoàn Việt nam tại Quốc hội Tiểu bang
Anh Nguyễn hải Triều gốc gác người “vùng lửa đạn ghê gớm” Lai khê, Bến cát ngày xưa là xã, là huyện của tỉnh Thủ dầu một trong một gia đình đông anh chị em. Ông cụ là một hương hào địa phương, khá tiếng Pháp, hay chữ Việt và thông Hán tự. Có phải vận vào cuộc đời con mình những lời thơ làm trong lúc uống nước trà sớm mai nơi thôn dã hay khi chống cuốc nghỉ ngơi những lúc nương rẫy mệt nhọc đã tiên đoán vu vơ mà thành hiện thực trong bài thơ thân sinh anh đã ngẫu hứng nói về các con: “Nguyễn ngọc Anh, có danh không có nghĩa. Nguyễn lộng Ngọc quý báu vô cùng. Nguyễn hải Triều, biển rộng mênh mông. Nguyễn chánh Tông, lòng ngay dạ thẳng. Nguyễn bửu Thuyền, chân trời mặt bể”. “Nguyễn hải Triều, biển rộng mênh mông”, biển rộng mênh mông nên ngay từ tấm bé, thân phận anh cứ mãi lầm lũi cuộc đời chiến chinh rầy đây mai đó khốn nguy!? Cầu đò, Lai khê, Bến cát là những địa danh sau nầy không nói, mà trước đây cũng là “vùng lửa đạn ghê gớm” mà những thế lực trong sáng cũng có, tối tăm cũng có cố bám trụ, cố giành giựt làm cho gia đình hương hào Nguyễn văn Cao, thân phụ anh Nguyễn hải Triều ăn không ổn, ngủ không yên phải rời bỏ mà đi. Là vùng Chiến khu D, Việt minh tuyên truyền, hăm he ban đêm đáng sợ. Là đồn điền trồng và nghiên cứu cây cao su, Pháp đóng quân cai trị bắt ông đi xử bắn. Là vị trí chiến lược quân sự, Nhật đến tháng 3 năm 1945, Nhật chiếm giữ, bắt ông đem nhốt tù. Xét cho cùng, đã chọn đúng con đường cho gia đình và cho Quốc gia, năm 1946 cụ ông hương hào Nguyễn văn Cao đã gia nhập vào Vệ binh Cộng hòa Nam kỳ, tiền thân của Vệ binh Quốc gia Việt nam ( la Garde Nationale ) sau nầy và cuối cùng là Quân đội Việt nam Cộng hòa.
Image Gia đình di chuyển về quận Châu thành tỉnh Thủ dầu một, chú bé Nguyễn hải Triều hết thời âm u cây rừng, thấy được một chút ánh sáng phồn hoa và tiếp tục cắp sách đến trường. Thủ dần một là tỉnh được thành lập rất sớm từ thời Pháp. Ðến năm 1956, Tổng thống Ngô đình Diệm đổi ra là tỉnh Bình dương cho đến sau nầy. Ở đây, cậu bé mang hào khí “cờ lau tập trận” tập họp chiến hữu, ngang tàng đụng trận với mấy nghịch tử cùng trường, cùng xóm dám “kêu tao là Việt gian” ngay bên thành Ông quan. Cái tên thành Ông quan người dân Thủ dầu một còn gọi là Citadel Quan hay trọc lóc là Citadel theo tiếng Pháp, được xây cất vào những năm cuối thập niên 1900 để cho các sĩ quan Pháp làm việc nơi trường Công binh trú ngụ. Cơ ngơi nầy có 5 biệt thự hai từng to lớn sơn màu vàng, xây dựng bằng sắt thép, gạch đá kiên cố, bề thế như một pháo đài, thành lũy. Ðang học lớp Nhì năm 1950 lúc mới 12 tuổi, con người “biển rộng mênh mông” Nguyễn hải Triều được thân phụ gởi vào trường Thiếu sinh quân Gia định mới thành lập trước đó mấy năm và đến năm 1953 chuyển về trường mới ở Mỹ tho học cho đến năm 1955 thì ra trường với cấp bực binh Nhì không “galon”. Cũng nên biết, khi quân đội Pháp trở lại Ðông dương, năm 1946 họ lập ra hai trường Thiếu sinh quân: một ở Ðà lạt dành cho con cái người Pháp; một ở Vũng tàu dành cho con cái quân nhân không phải người Pháp trong Liên hiệp Pháp. Sau đó, Quân đội Việt nam lập thêm năm trường Thiếu sinh quân nữa cho bốn Quân khu và một dành riêng cho người Nùng. Nguyễn hải Triều học ở trường Thiếu sinh quân đệ I Quân khu đóng ở Gia định, sát bên lăng Tả quân Lê văn Duyệt.


Những chú “lính con nhà nòi” ra trường bước đầu là lính trơn, rồi bò dần lên Hạ sĩ, lên Hạ sĩ I và chín tháng sau mới thượng lon Trung sĩ. Năm 1967 vì khu “rừng lá” ở Bình tuy thường khi có Việt cộng “đắp mô”, đặt mìn, đón đường, tôi về Phan thiết bằng ghe đậu nơi cầu Chà và ở chợ Lớn. Tới Vũng tàu phải vào bờ vì bão, tôi được ông anh Ðại úy dẫn vào trường Thiếu sinh quân ở lại một ngày một đêm. Ðời binh nghiệp, tôi mới ra quân trường, thấy mấy chú bé mười hai tuổi, mười ba tuổi, mười bốn tuổi… sống kỷ luật nơi “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đỗ máu” mà vừa thương vừa mến phục chi lạ! Thương là thương đời con nít có khi còn bú sửa mẹ như người em bạn tôi con trai một, mười một tuổi đầu còn nhai vú da của bà mẹ cưng con. Phục là phục tuổi thơ nhõng nhẽo lại mạnh dạn, cứng cõi, hùng dũng, những con chim non chưa rời tổ mẹ mà đã hiên ngang: “Ta là đoàn Thiếu sinh quân Việt nam. Mai nầy đều bưóc theo gương đàn anh. Không nề đường trường gian lao nguy khó. Ðang chờ đoàn ta hỡi Thiếu sinh quân. Ta đi lên vai chen vai cất vang muôn tiếng cười. Ta xây dựng ngày mai muôn dân Nam đón chờ ta đó”.Cho nên, không lạ gì “con giòng cháu giống”, các chú lính con con đã nhứt quyết tử thủ, đánh với Việt cộng tới ngày 29 tháng 4 năm 1975 buộc Việt cộng phải chịu để các cháu tuôn trào nước mắt làm Lễ Hạ Quốc kỳ Việt nam Cộng hòa mới theo lệnh Tổng thống Dương văn Minh đầu hàng. Nói gì nói, thấy mấy em nhỏ như đàn con cháu của mình mà sớm ghép vào kỷ luật “quân lệnh như sơn” thì tội nghiệp quá cuộc đời hoa bướm, lãng tử trẻ thơ mộng mị…

Năm 1955, Nguyễn hải Triều, học trò trường Thiếu sinh quân Mỹ tho ra trường về Tiểu đoàn Trợ chiến của Liên đoàn Nhảy dù. Liên đoàn Nhảy dù do Thiếu tá Ðỗ cao Trí chỉ huy mới vừa thành lập ngày 29 tháng 9 năm 1954 từ các Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 cùng với Tiểu đoàn Chỉ huy và Chủ lực ( Bataillon de Commandemant et d’Appui ). Bộ Chỉ huy Liên đoàn Nhảy dù và Tiểu đoàn Trợ chiến đang đóng quân quanh vùng Hòa hưng Sài gòn, khúc Ga xe lửa và Cống bà Xếp. Tiểu đoàn Trợ chiến có các Ðại đội Quân y, Công binh, Súng cối, Kỹ thuật, Chung sự, Trung tâm Huấn luyện, Phân đội Truyền tin…

Ðược biết, ngày 1 tháng 5 năm 1958, Tiểu đoàn Chỉ huy và Chủ lực được cải danh là Tiểu đoàn Trợ chiến mà Tiểu đoàn trưởng đầu tiên là Ðại úy Trịnh xuân Nghiêm. Nguyễn hải Triều về Tiểu đoàn Trợ chiến thời Ðại úy Nguyễn thọ Lập chỉ huy, sau khi bàn giao chức vụ nầy với Ðại úy Trịnh xuân Nghiêm lên làm Tham mưu trưởng Liên đoàn Nhảy dù.
Image Ở đây, Nguyễn hải Triều được biệt phái lên Liên đoàn đóng trong trại Hoàng hoa Thám phục vụ như một Hạ sĩ quan An ninh làm việc dưới quyền Ðại úy Trưởng phòng Trần đình Vỵ. Trong thời gian nầy có chút thì giờ rỗi rảnh, anh cố gắng đến các trường Nguyễn công Trứ ở Tân định hay Hưng đạo ở Sài gòn học thêm để “sẽ là một Sĩ quan văn võ song toàn” như những người lính vẫn thường ước mơ, tâm sự. Năm 1962 học Ðồng đế Nha trang, Nguyễn hải Triều ra Chuẩn úy đổi về Tiểu đoàn 6, hậu cứ đóng quân ở Vũng tàu do Ðại úy Tống hồ Hàm từ phủ Tổng thống về làm Tiểu đoàn trưởng trong một thời gia rất ngắn. Ðại úy Lê văn Ðặng lên thay thế cho đến 1/11/63 lại chuyền tay qua Ðại úy Vũ thế Quang nhờ tham gia Cách mạng 1/11/1963 với Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Van kiếp Vũng tàu lúc bấy giờ là Trung tá Vĩnh Lộc.

Image Thiếu úy Nguyễn hải Triều là một trong bốnTrung đội trưởng Tác chiến của Tiểu đoàn 6 Nhảy dù cũng có mặt trong đoàn quân tiến về Sài gòn ngày ấy, rồi sau đó làm Sĩ quan An ninh Tình báo cho Tiểu đoàn 6 Nhảy dù đi khắp 4 vùng Chiến thuật. Nói về thành tích đánh giặc của các đơn vị Nhảy dù từ lúc mới lập ra cho đến khi tướng Dương văn Minh bắt phải đầu hàng thì nói làm sao cho hết, viết làm sao cho đủ những chiến công hiễn hách, những trận đánh trời long đất lỡ làm cho địch quân từ thời Việt minh, đến thời Việt nam Dân chủ Cộng hòa cho đến thời “lấm la lấm lét” lẹt đẹt ba cái anh chàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam Viêt nam chỉ nghe đến cái tên thôi cũng phải khiếp đãm, kinh hồn, bạt vía đi rồi, chạy còn không muốn kịp nói gì đánh với đấm, bắn với đâm. Cuối năm 1964 đến đầu năm1965, sau khi được Ðại tá Hồ Tiêu tuyển dụng và đưa Sự vụ lệnh vào Sở Liên lạc, tính ra cũng được10 năm anh Nguyễn hải Triều đã sống trong gia đình Nhảy dù.

Với thời gian dài vào sanh ra tử không phải quá ngắn thì lòng nào cũng phải lưu luyến, cũng phải bồi hồi, nhưng cuộc đời binh nghiệp nay có thêm Ðại úy Nguyễn văn Thanh, Nguyễn thế Phồn; Trung úy Trần lưu Huân; Thiếu úy Văn thạch Bích, Lê Văn, Phan nhật Văn…nằm cùng một Sự vụ lệnh thì Thiếu úy Nguyễn hải Triều cũng không dấu được niềm vui với những người bạn mới, với những công tác mới dù anh biết rằng cam go hơn, gian đầy hơn và nhất là ranh giới tử sanh mong manh như giọt sương mai, nhỏ nhoi như thể chiều ngang một sợi tóc. Và sau khi thụ huấn khóa“Chiến tranh Ngoại lệ” học về những nguyên tắc tình báo, phản tình báo cho những hoạt động âm thầm ngay trong lòng đất địch hoặc trong vùng địch tạm chiếm ở Trung tâm Huấn luyện Long thành mà sau nầy gọi là Trung tâm Huấn luyện Quyết thắng, anh bấy giờ thực sự là “những anh hùng không tên tuổi, sống âm thầm trong bóng tối mênh mông” với cái tên Lôi hổ nghe ra lạ hoắc, nhưng chắc lòng anh cũng tràn đầy niềm kiêu hãnh.“Chiến tranh Ngoại lệ” là chiến tranh mới lạ hoàn toàn, khác xa hoàn toàn chiến tranh qui ước, được dịch từ tiếng Mỹ “Unconditional warfare” mà ra.

Năm 1982, lúc còn ở tù Việt cộng nơi K.2 của Z.30C Hàm tân, anh bạn trẻ tuổi Phùng quang Thế, chúng tôi thường gọi là Ðại úy Lôi hổ là Ðại úy Lôi hổ thiệt, có kể là: “Mới bước vào nhà thằng lính vừa tử trận để phân ưu và chia buồn thì ba nó, má nó chạy ùa ra ôm chầm lấy tôi vừa khóc vừa than thảm thiết, Ðại úy ơi là Ðại úy! Con ơi là con! Ai biểu con đi Lôi hổ để bây giờ hổ lôi con. Nghe vừa buồn cười vừa đau chết điếng”. Cũng nên rõ, Sở Liên lạc thuộc Bộ Tổng tham mưu mà Ðại tá Hồ Tiêu làm Chánh sở bấy giờ không phải là Sở Liên lạc thuộc Phủ Tổng thống trước đây của Trung tá Lê quang Tung chỉ huy. Sở Liên lạc thuộc Phủ Tổng thống ( Presidential Liaison Office ) được thành lập năm 1956, đến 1960 cải danh là Sở Khai thác Ðịa hình ( Topographic Exploitation Service ) và tháng 3 năm 1963 thì chuyển thành Bộ chỉ huy Lực lượng Ðặc biệt, Ðại tá Lê quang Tung vẫn chỉ huy cho đến Cách mạng 1/11/1963.

Theo nhu cầu tình báo chiến thuật cũng có, chiến lược cũng có lúc bấy giờ tại Việt nam, hai chính phủ Mỹ và Việt nam đã có sự phối hợp. Về phía Mỹ có cơ quan MACV-SOG viết tắt từ chữ Military Assistance Command, Vietnam – Studies and Observation Group là Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa kỳ tại Việt Nam – Nhóm Nghiên cứu và Quan sát. Về phía Việt nam tách ra từ Bộ Chỉ huy Lực lượng Ðặc biệt có Phòng 45 còn gọi là Sở Bắc thành Sở Khai thác thuộc Bộ Tổng tham mưu, về sau gọi là Sở Công tác được thành lập từ 2 Ðoàn Công tác 11 và 68, Ðại tá Trần văn Hổ chỉ huy và Phòng 55 còn gọi là Sở Nam thành Sở Liên lạc thuộc Bộ Tổng tham mưu do Ðại tá Hồ Tiêu chỉ huy. Ðến ngày 12 tháng 2 năm 1965, Nha Kỹ thuật được thành lập trên căn bản hoạt động của hai Sở nói ở trên và các Sở: Phòng vệ Duyên hải, Tâm lý chiến, Không yểm, Trung tâm Huấn luyện Quyết thắng. Ðại tá Trần văn Hổ đảm trách chức vụ Giám đốc. Ông giữ chức vụ Giám đốc Nha Kỹ Thuật nầy từ năm 1964 đến năm 1968 và Ðại tá Ðoàn văn Nu tiếp theo từ năm 1968 cho đến ngày 28 tháng 4 năm 1975. Nói về sự hình thành và hoạt động của Nha Kỹ thuật thì vô cùng rối rắm, ngay cả những vị Sĩ quan trong ngành đôi khi cũng lúng túng. Ðiều nầy không có gì là lạ vì Nha Kỹ thuật là một cơ quan tình báo “kín cổng cao tường” biệt lập mơ hồ, và hoạt động lại âm âm u u nơi rừng thiêng núi thẳm một cuộc“Chiến tranh Ngoại lệ” nữa thì đố trời ai biết ngọn ngành, ai trách ai làm chi? Những Operation Shining Brass và Prairie Fire của “Secret war” trên đất Lào theo dõi đường mòn Hồ chí minh hay những Operation Daniel Boon và Salem House ở Cambodge vì Norodom Shihanouk thân Trung quốc…thì làm sao biết cho hết, thì làm sao biết cho thiệt đúng không sai? Những cuộc hành quân nhảy toán từ trên trời rơi xuống, từ bao la biển chạy vào, từ rừng núi âm u băng vô đất Bắc “ăn dầm nằm dề” LRRPs là Long Range Reconnaissance Patrol hay những cuộc hành quân ngắn hạn mang tên TRATA là Term Reconnaissance And Target Acquisition vùng ngoại biên Việt - Lào, Lào - Thái, Việt - Miên… kín miệng như câm, nhắm mắt như mù, dám nói với ai để chết không kịp ngáp!
Ðã là người lính hoạt động tình báo, phản tình báo của “Chiến tranh Ngoại lệ” chính thức trong thời cam go nhất của đất nước, anh Nguyễn hải Triều khi là các Toán Thám sát “Recon team” 12 người “nhảy toán” tới vùng đất Trung và Hạ Lào ở Paksé, Savannakhet từ những Tiền doanh I, Tiền doanh II, FOB I, FOB II là “Foreward Of Base I, Foreward Of Base II” bằng H.34 của Phi đoàn Trực thăng 219; khi thì biệt phái làm Sĩ quan Liên lạc trong Tiểu đoàn 33 Hoàng gia Lào vào năm 1966, đóng ở vùng rừng núi mịt mùng heo hút Ban Houayxay, một cao điểm cũng là yếu điểm “Fort Carnot” của Pháp ngày xưa để lại, mà từ đấy nhìn ra 3 mặt “Tam biên” cuộc chiến trên đất Miến, Lào, Việt để quấy phá, cứu nguy, tâm lý chiến, bắt cóc, thủ tiêu, chỉ điểm, lấy tin tức dọc Ðường 9 Nam Lào, Ðường mòn Hồ chí minh.

Image Năm 1968, lúc bấy giờ anh là Ðại úy, Chỉ huy phó Căn cứ Tiền doanh II ( FOB II ) ở Kontum với Thiếu tá Ngụy Hiền là Chỉ huy trưởng, rồi tiếp theo là Chỉ huy phó Căn cứ Tiền doanh I ( FOB I ) ở Phú Bài, Thiếu tá Hồ châu Tuấn làm Chỉ huy trưởng, rồi về làm Trưởng phòng 2 Sở Liên lạc Bộ Tổng Tham mưu đóng trong Nghĩa trang Bắc việt ở Tân sơn nhứt. Cuối năm 1969 làm Phó Tùy viên Quân sự Việt nam tại Lào dưới thời Luật sư Hoàng cơ Thụy làm Ðại sứ cho đến gần nửa năm sau ngày Chiến dịch Lam sơn 719 cũng là Chiến dịch Ðường 9 Nam Lào giữa ngày 8 tháng 2 đến ngày 25 tháng 3 năm 1971, tính ra cũng hơn 18 tháng. Về lại Sở Liên lạc rồi đưa qua Sở Công tác do Ðại Tá Ngô thế Linh, Phó Giám đốc Nha Kỹ thuật kiêm nhiệm. Sở Công tác bấy giờ không còn thi hành nhiệm vụ như Sở Bắc hay Phòng 45 hay Phòng E như thời Ðại tá Trần văn Hổ làm Chánh sở buổi ban đầu, Nguyễn hải Triều làm Huấn luyện viên về “Chiến tranh Ngoại lệ”, rồi vào Trường Bộ binh Thủ đức học Bộ binh Cao cấp thời Trung tướng Phạm quốc Thuần làm Chỉ huy trưởng. Mãn khóa học, anh Nguyễn hải Triều về hậu cứ ở Non nước rồi Sơn trà ở Ðà nẳng và sau đó ít lâu, năm 1973 lên Thiếu tá làm Chỉ huy phó Ðoàn Công tác 71 cho đến ngày “Tôi, Ðại tướng Dương văn Minh, Tổng thống Chính quyền Sài gòn, kêu gọi Quân lực Việt nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện”.

Image
Anh chị Nguyễn hải Triều
Ðời người chiến sĩ dọc ngang, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, ai dám nói là lòng sắt dạ đá mà không có chút nào lãng mạn tình yêu đời thường? Người chiến sĩ xông pha nơi trận tiền mà sự sống chết chỉ là lằn ranh mong manh tơ trời và chớp nhoáng như ánh sao xẹt cũng vì tâm dạ yêu đời, thương người. Và nói gì tình yêu đôi lứa, một khi họ đã yêu ai thì sắc son một đời “thệ hải minh sơn”, thủy chung duy nhứt trước sau. Người ta thường nói “trai tài, gái sắc” để ám chỉ một cách lý tưởng những cặp tình nhân xứng đôi vừa lứa như thể suy bì “môn đăng, hộ đối” của ông bà ta ngày xưa. Ở đây, tôi muốn nói tới anh chị Nguyễn hải Triều đã đến với nhau từ năm 1963, và “anh ở đâu thì em đó. Lúc núi biếc khi sông hồ…” đến nay 2013 là năm chục năm tròn, sống với nhau tâm đồng ý hiệp biết mấy đời vợ chồng hạnh phúc! “Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt” là trai núi rừng “vùng lửa đạn ghê gớm” miền Nam sớm đời binh nghiệp vào thân và “cô gái Bắc kỳ nho nhỏ” vừa đẹp, vừa duyên lại vừa ngọt ngào giọng “em bé hậu phương Dạ Lan” trong Trước Ðèn Ðọc Sách ở đài Phát thanh Sài gòn đã khắng khít nhau tình yêu thời lửa đạn.

Image
Mấy chữ anh Nguyễn hải Triều chia tay vợ
Là một ca sĩ trong băng nhạc Khánh băng-Phùng trọng, trong Biệt đoàn Văn nghệ Trung ương “Hoa Tình Thương”, nhưng “lấy chồng thì phải theo chồng. Chồng đi hang rắn, hang rồng phải theo” nên chị bỏ tất cả theo ảnh, khi thì Vũng tàu, khi thì Nha trang, khi thì Sài gòn và lâu nhứt hồi đó là Ðà nẳng miền Trung, trước và sau thời anh Nguyễn hải Triều là Chỉ huy phó Ðoàn 71 Sở Công tác thuộc Nha Kỹ thuật đóng ở Sơn trà, Non nước. Tôi muốn ghi lại đây tình yêu “bách niên giai lão” vợ chồng đẹp như mơ của anh chị Triều để thấy rằng, lời nói như đùa như thật mà nhìn xa xa một chút như cách bêu rếu, mỉa mai về người lính Việt nam Cộng hòa hẳn là có một dụng ý xấu xa rằng “cơm hàng, cháo chợ, vợ người ta”. Dù ở Sài gòn ca sĩ Kiều Loan không đình không đám như “TV Chi bảo” Phương hồng Quế, hay người đẹp “Căn nhà Ngoại ô” Kim Loan, hoặc “con Nhạn trắng Gò công” Phương Dung được báo chí đoái hoài, tận tình chiếu cố, nhưng ở Ðà nẳng, ca sĩ Kiều Loan bấy giờ là vợ của người lính Lôi hổ Nguyễn hải Triều thì “dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi” một cõi biên thùy. Chị hát cho các Phòng trà Danube Bleu, Phòng trà Moderne, Phòng trà 59 trên đường Ðộc lập mà tiếng tăm dội về tới Sài gòn “làm mấy con bạn cũng ham”. Bar Danube Bleu, chủ là người Ðại hàn trả lương hậu hĩnh cho chị vì chị là ca sĩ rất ăn khách, hái ra nhiều tiền cho. Ở đây đa số khách tới là người Mỹ, người Ðại hàn, người ngoại quốc…chị hát nhạc Mỹ, nhạc Pháp nhiều hơn là nhạc Việt một thời chinh chiến khói sương trận địa.

Năm 1972 với cuộc chiến thảm khốc “Mùa Hè Ðỏ Lửa” ở Quảng trị khi Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh, tướng Vũ văn Giai cùng với Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến có 30 chiến xa hè nhau bỏ Quảng trị chạy về Huế gọi là “di tản chiến thuật” để Việt Cộng đắp xác chết và máu xương đồng bào đầy khắp trên Quốc lộ 1 làm nên “Ðại Lộ Kinh Hoàng”, Ðà nẳng vẫn xập xình tiếng nhạc, lời ca, ăn chơi, mặc ai thế sự “rồi cũng qua đi, bình yên”. Người trong cuộc, anh Nguyễn hải Triều được nghe nói, được biết rằng năm đó 1975, không như năm 1972 “rồi cũng qua đi, bình yên” đã khuyên vợ “hãy về Sài gòn đi, tránh cơn binh lửa”. Chị thì nhất định “làm sao bỏ anh ở đây một mình mà em đi cho được”!? Ðể đến nỗi cuối tháng Ba, khi mà kho gạo gần thương cảng đã bị cướp phá, khi mà lính không còn đơn vị hỗn quân hỗn quan thành loạn kiêu binh nhiễu nhương, khi mà dân chạy giặc hoảng loạn, đùng đùng nỗi oan khiên … vợ chồng mới chịu chia tay, em đi anh ở lại mà ròng ròng những giọt nước mắt vắn dài. “Nầy, anh có thấy không, trước mắt anh hàng hàng lớp lớp cấp Ðại tá, Trung tá, Thiếu tá…nhiều biết bao nhiêu đã bỏ chạy”, chị kéo người chồng lại, vừa chỉ chỏ vừa nói. “Hãy theo em”, chị nói thêm. “Không được. Anh không thể bỏ ngũ trong tình thế hiện nay. Là Thiếu sinh quân, đã tình nguyện đi lính Nhảy dù, đã tình nguyện qua Lôi hổ là anh đã thề nguyện trong lòng chết là chết vì quê hương, cho quê hương thì làm sao bỏ anh em mà đi trong lúc nầy? Thật là xấu hổ! anh sẽ không còn mặt mũi nào nhìn lại bạn bè mình, chiến hữu mình và nhất là đồng bào mình nếu mai sau anh còn sống sót?” Ảnh trả lời với vợ một cách cương quyết, khí khái, nhưng là cả một tấm lòng thực sự đau khổ trong cảnh chia lìa, tan tác kẻ ở người đi! Vớ được tờ giấy trong ví của chị, anh vội vàng ghi mấy chữ: “Mình yêu, xa nhau lần nầy không biết bao lâu nữa mình mới gặp nhau. Em về bình yên cùng toàn thể gia-đình, đêm đêm nhớ thắp nhang cầu nguyện may mắn cho anh tại miền đất khói lửa nầy. Yêu em thật nhiều”. “Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay”, trường hợp nầy, nỗi lòng tôi đã trải qua vào đầu tháng Ba năm 1975, ngày đưa vợ và 3 con lên máy bay Mỹ về Sài gòn, một mình ở lại Gia nghĩa, Quảng đức với anh em. Ở lại với anh em, rồi chiều 23 tháng Ba cũng bỏ chạy khi chưa thấy đâu bóng dáng hớt ha hớt hải Việt cộng đốt đuốc soi rừng bén mảng! Rồi sau đó mấy ngày, ngày 28 tháng 3 năm 1975 Ðà nẳng coi như không còn, đơn vị anh có các Ðoàn 70, 71, 72 cũng phải theo tàu Hải quân về Sài gòn dưới sự hướng dẫn của Trung tá Trần Bá Tuân. Anh với vợ con tới Mỹ vào ngày 5 tháng 5 năm 1975, lần lượt ở Arkansas, ở Des moines của Iowa và cuối cùng là Overland Park, Kansas cho tới ngày hôm nay cũng được 38 năm, 2 tháng, 15 ngày chân trời góc biển xứ người mà “đau nỗi đau mất nước”, anh buồn vời vợi tâm sự. Tôi thì tôi nghĩ, “Nguyễn hải Triều biển rộng mênh mông” là lời thơ thân phụ anh đã “vận vào” cuộc đời anh như vậy đó không sai, thì anh chạy đâu cho khỏi nắng!

Image
Anh Nguyễn hải Triều và Ðại tá Lương xuân Việt,
Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù Hoa kỳ
Gia đình tôi đến Mỹ năm 1992 vào một tối mùa Ðông mới qua mấy ngày bão tuyết. Trời lạnh ngắt, đìu hiu! May, có rất nhiều người Việt nam, toàn là xa lạ đứng chờ. Thì ra, đó là những anh em trong hội Cựu quân nhân Kansas City và Vùng phụ cận mà lúc bấy giờ anh Nguyễn hải Triều là Hội trưởng, làm mình trên xứ lạ lạc lỏng, bơ vơ cũng được yên bụng yên dạ phần nào. Một đoàn xe hơi dài cả chục chiếc như đang chờ phái đoàn ngoại giao nào đó, gia đình tôi lên xe mà hồn phách cứ tưởng là trong mơ. Ngày đó ở Việt nam, xe đạp cọc cọc cạch cạch có người còn chưa có nói gì bấy giờ ngồi trong những chiếc xe của những ông bạn lính chưa quen toàn là Honda Accord, Toyota Camry mới toanh. Về tới apartment trên đường Brownell mà Don Bosco đã mướn cho đúng 12 giờ đêm. Anh em soạn ra một bao gạo, một chai xì dầu, một chai nước mắm, một thùng mì ăn liền, mấy cái chén, mấy cái dĩa, mấy đôi đủa đưa cho. Nghĩa cử đó, “miếng khi đói, gói khi no, của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng” mà lòng mình cứ nghĩ cho đến bây giờ. Anh Triều đại diện anh em hội Cựu quân nhân vội vàng nói vài lời chúc mừng và không quên đưa cho mỗi người một lon Budweiser đỏ. Trời! sao ngon dữ! Mấy hôm sau, trong một buổi họp định kỳ mỗi tháng của hội Cựu quân nhân, tôi xúc động biết chừng nào. Những anh em qua trước mừng rỡ đón chào niềm nở. Tôi được đứng nghiêm hát Quốc ca, chào Quốc kỳ Việt nam Cộng hòa mà nước mắt rưng rưng, ai cũng thấy, ai cũng bùi ngùi “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Năm 1993 từ thành phố Lakeland của Florida trở về, tôi tham dự buổi Lễ ra mắt Hội đồng Việt nam Tự do Kansas City của Lê phước Sang tại Kansas City mà Hội Cựu quân nhân của anh Nguyễn hải Triều là nhân tố chính đứng ra tổ chức rất đông đảo, long trọng, sôi nổi, hào hùng. Rồi không ra gì, ông Lê phước Sang đã hèn hạ phản bội một cách vô liêm sỉ. Ðau là đau cái lòng của những người lính lúc nào cũng thao thức nghĩ về tiền đồ Tổ quốc mà cứ chông gai dãy đầy, ưu tư giăng mắc!

Mùa Thu năm 1993, một cuộc biểu tình khí thế đùng đùng trước phòng ngủ và nhà hàng Marriott, 200 West 12th Street, Kansas City, MO 64105 chống Lê Văn Bàng, tên Ðại sứ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam tại Liên hợp quốc mon men tới làm ăn. Mới Việt nam qua, anh em “hung hăng hơn con bọ xít” muốn nhảy rào vào đánh đấm bọn côn đồ Việt cộng cho đã, nhưng anh Nguyễn hải Triều “chủ xị” biết hành xử làm sao phải luật, phải lệ với người ta xứ “thượng tôn luật pháp”. Mấy thằng tẻn tẻn đi lấm lét, nếu không có cháu Tâm, nghe nói là Giáo sư Ðại học khuyên: “bỏ qua đi các chú” thì có nhiều người đã nhảy ra “đánh cho tụi nó một trận” như đang hò, hét vang dội, và Mỹ bắt vô tù là cái chắc. Tên Ðại sứ nầy, sau làm cái chuyện mất mặt người Việt nam không thể tưởng tượng được là đã ăn trộm sò ở khe suối East Hampton’s Hog Creek bị Cảnh sát Mỹ bắt làm nhục, cả thế giới đều biết và đặt cho một cái tên nghe đau nhói cả ruột gan là “Ðại sứ Ăn trộm Sò”. Năm 2005 lại Tập thể Chiến sĩ Việt nam Cộng hòa Hải ngoại ra đời rất rầm rộ, rất vĩ đại như chưa bao giờ rầm rộ hơn, vĩ đại hơn. Ở Cali, Thiếu tướng Lê minh Ðảo làm Trung tâm trưởng Trung tâm Ðiều hợp Trung ương. Ở Kansas City và Vùng phụ cận, anh Nguyễn hải Triều làm Trung tâm trưởng Trung Tâm Ðiều hợp địa phương, nhưng thời gian trải dài, tổ chức như ngọn đèn trước gió, người chiến sĩ già xả thân vì nước đã gối mõi chân mòn khó như khó trèo lên đỉnh ngọn Everest vẫn chưa thấy le lói tia sáng thành công mong manh nhẹ hều. Ai không đau!? Nhớ chiều ngày 03 tháng 3 năm 2005, tại toà Thị sảnh thành phố Kansas City của tiểu bang Missouri, Cờ Vàng Ba sọc đỏ Việt nam Cộng hòa được bà Thị trưởng Kay Barnes vinh danh “như một biểu tượng của niềm tin, tự do và dân chủ trong Cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở thành phố Kansas City, tiểu bang Missouri…”.

Người đại diện phía Việt nam, anh Nguyễn hải Triều sau khi đưa tặng bà Thị trưởng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ Việt nam Cộng hòa lưu niệm, phát biểu: “Ba mươi năm qua, chúng tôi rời bỏ quê hương với hai bàn tay trắng, chỉ mang theo lá cờ nầy vì nó tượng trưng cho Tự do và Dân chủ mà hơn nửa triêu quân sĩ miền Nam và trên 58 ngàn binh sĩ Hoa kỳ đã hy sinh…”. Tiếc là, đến nay việc vinh danh Cờ Vàng Ba sọc đỏ nơi thủ phủ Jefferson của tiểu bang Missouri vẫn chưa được như ý nguyện. Rất rõ ràng là, Cộng đồng người Việt ở đây đã không đủ sức mạnh đẩy mấy ông Dân biểu, Thượng nghị sĩ của tiểu bang Missouri thông qua nghị quyết. “Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ”, vì người mình ở đây đã ít, lại lười đi bầu cử thì họ cũng lười dòm ngó đến yêu sách của mình là đương nhiên.

Ngày 10 tháng 10 năm 2004 tại nhà hàng Green River, 2120 East 12th Sreet, Kansas City, M0 64127, Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Kansas City và vùng Phụ cận đã được thành lập qua gần 30 năm dài mà nhân tố chính, vẫn là anh Nguyễn hải Triều, người lính một đời chiến sĩ dọc ngang đã ấp ủ và quyết làm. Cũng như trên tôi đã nói, về thành tích đánh giặc của đơn vị Nhảy dù thì “nói làm sao cho hết, viết làm sao cho đủ” cũng không khác gì với thời gian dài 38 năm 2 tháng 15 ngày sống trên đất Mỹ, anh Nguyễn hải Triều đã lăn xả cuộc đời mình vào lý tưởng Quốc gia, Dân tộc ngời ngời châm ngôn Tổ quốc, Danh dự, Trách nhiệm thì thật tình mà nói, làm sao kể ra cho hết, dù chỉ qua loa, tàm tạm mà thôi? Những lúc anh em và những người đồng hương tập họp lại với nhau hằng năm vào những Ngày Quốc hận 30 tháng 4, Ngày Quân lực Việt nam Cộng hòa19 tháng 6, Ngày Giỗ Tổ Hùng vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch, Ngày Hai Bà Trưng mùng 6 tháng 2 Âm lịch, Ngày Tết Nguyên đán, Ngày Sinh hoạt Cộng đồng, Ngày Giúp đỡ Thương phế binh Việt nam Cộng hòa hay những lần tham gia với những tổ chức người Mỹ tại địa phương, như vào ngày thứ Hai cuối cùng của tháng Năm hằng năm cho Ngày Memorial day và vừa rồi ngày 18 tháng 5 năm 2013 cho ngày Armed Forces day Parade, anh Nguyễn hải Triều coi như có mặt luôn luôn và lúc nào cũng đóng vai trò lảnh đạo, dìu dắt. Ðếm làm sao cho xuể được, nhớ làm sao cho hết được những việc làm đó, ảnh làm như cơm bữa? Chưa nói, nay thì tiểu bang nầy Ngày Họp mặt Nhảy dù, Lôi hổ; mai thì gặp nhau cho Ngày Hội ngộ Nha Kỹ thuật, Lực lượng Ðặc biệt, Biệt kích ở thành phố kia, và khi tôi đang viết bài nầy thì anh Nguyễn hải Triều đã và đang ở Atlanta, Georgia mấy hôm nay rồi, để tham dự Ðại hội Gia đình mủ Ðỏ lần thứ 33 ở đó. Ảnh đi Bắc xuống Nam, đi Ðông sang Tây như con thoi, tôi không biết tiền đâu mà ảnh chịu nổi và sức lực đâu tuổi già mà ảnh cứ đi hoài đi mãi? Suy đi nghĩ lại, tôi cả quyết, chắc cũng tại cái tâm? Cái tâm, nhứt là cái tâm sắc son một lòng cho Tổ quốc, cho Dân tộc thì nó bao la vời vợi như “biển rộng mênh mông” mà đã hơn một nửa trăm năm trước, cụ ông hương hào Nguyễn Văn Cao, thân phụ anh đã ngữi thấy rồi mùi phong trần của đứa con“giang hồ quen thói vẫy vùng, gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”. Cái tâm sắc son đó thể hiện một tấm lòng, một tấm lòng làm cho tôi lại nghĩ tới câu nói bất hủ của cố Tổng thống John F. Kennedy nói trong ngày lễ đăng quang, ngày 20 tháng Giêng năm 1961 “Ask not what your country can do for you; ask what you can do for your country”, đừng đòi hỏi đất nước của anh làm gì cho anh; hãy hỏi anh làm gì cho đất nước anh mới phải. Bù lại, thành phố tôi đang ở và ngay cả người Việt đâu đâu đi nữa cũng có nhiều người không làm gì cả, không làm được gì hết, nhưng giỏi chê trách, ưa “xuy mao cầu tỳ” là bới lông tìm vết để dè bỉu người ta “ăn cơm nhà vác ngà voi” cho mình. Họ đã vô tình hay cố ý làm chết đi tâm huyết mỗi ngày một cạn kiệt của những người lính năm xưa bây giờ đã già mà vẫn một lòng, một dạ với dân tộc và đất nước miệt mài đi tìm con đường cứu nguy Tổ quốc. Năm 2008 bầu cử Sơ bộ của Ðảng Dân chủ ở New Hampshire, bà Hillary Clinton ám chỉ ông Barack Obama nói giỏi, làm dở mà nhấn mạnh: “We nominate and elect a doer, not a talker”. Phải rồi, “chúng ta đề cử và bầu chọn người làm, không phải đề cử và bầu chọn người nói”. Ðời, cần người làm được việc, ai cần người nói huênh hoang vô tích sự! Ngày xưa, ông bà mình có dạy:“Cẩu bất dĩ thiện phệ vi lương; nhân bất dĩ đa ngôn vi hiền, có nghĩa là “Con chó sủa nhiều không chắc con chó đó hay; con người nói nhiều không chắc con người đó giỏi” là nằm trong ý nghĩ đó.

Tôi đã ở thành phố Kansas City nầy với anh chị Nguyễn hải Triều gần 22 năm, có thể nói một cách đơn giản mà không hồ đồ chút nào là biết về anh chị cũng không ít, nhưng chắc chắn, đó chỉ là mặt nổi thôi là đương nhiên. Chúng tôi gặp nhau thường trong những sinh hoạt Cộng đồng người Việt vùng Kansas City và Phụ cận; trong những hoạt động Ðảng phái, Tôn giáo, Hội đoàn địa phương; và những lần anh em trà dư tửu hậu chuyện nước, chuyện non, chuyện “thế sự thăng trầm quân mạc vấn”…Thì tôi mới thấy rằng “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo việc đao cung” Nguyễn hải Triều có một tấm lòng tha thiết với quê cha đất tổ vô bờ bến và thủy chung tấc dạ không thay đổi ước mơ một nước Việt nam độc lập, thái bình, phú cường. Anh đi từ Thiếu sinh quân, từ Nhảy dù, đến Lực lượng Ðặc biệt, đến Lôi hổ…là những đơn vị “dễ chết người trai một đời thề nguyện vị quốc vong thân, anh hùng không xiết kể; là những đơn vị dễ bị phân thây nơi chiến trường người trai tuấn tú thành những phế nhân, sống một đời âm u không xiết kể”; là những đơn vị đánh giặc cứ đánh giặc đến nơi đến chốn, đến hơi thở cuối cùng, đến tận cùng cuộc chiến một cách oai phong lẫm liệt. Như vậy đó, nhưng anh Nguyễn hải Triều và có lẻ cả những người bạn của anh cũng vậy, vẫn cứ nhứt mực, rằng: “đàn anh tôi, đàn em tôi, tôi không so nổi, tôi không đáng gì. Sự chiến đấu oai dũng của họ đẹp như một thiên anh hùng ca, chỉ có trong phim, chỉ có trong sách vở, khó có thực tế ngoài đời, và ít có ai biết đến công cán họ ra sao!”.
Viết một bài để chỉ trích một người thì rất dễ, nhưng viết một bài mà “khen” một người thì khó vô cùng. Ở đây nước Mỹ, tôi thấy người ta Việt nam mình đi quá xa sự khiếm nhả hết sức trơ trẽn mà bêu rếu nhau một cách thậm tệ và rất trẻ con. Họ đánh nhau loạn xà bần, không cần phải trái, đúng sai miễn sao thỏa mãn hậu ý của mình là được, có khi còn tiếp tay một cách hèn hạ cho bọn Việt cộng dã man. Chỉ trích có khó gì đâu? Phá hoại luôn luôn dễ hơn xây dựng là điều ai ai cũng biết mà. Còn viết một bài mà khen một người, nhất là người đó lại là một Chiến sĩ trong Quân lực Việt nam Cộng hòa dù khen chưa thấm thía vào đâu những điều phải khen cho người ta, dù những chứng tích rành rành như ban ngày, cũng dễ bị cho là láo khoét, tâng bốc, tuyên truyền…mà họ đã quên đi rằng, người đó chính là ân nhân ngay chính mạng sống của mình, của gia đình mình…Ðã là một chiến sĩ kiên cường chiến đấu cho lý tưởng Quốc gia, họ có cần gì khoe khoang láo khoét, đâu cần ai tâng bốc đề cao? Cuộc đời họ gắn liền sự hy sinh cao cả vì dân, vì nước bao la như biển trời thì có ai màng danh với lợi mà cần khen với thưởng? Chúng ta, những người có học, biết điều, có suy nghĩ thì ít nhất phải có tấm lòng biết ơn người ta, cảm kích người ta và khen người ta là đương nhiên, là phải đạo. Không ai cảm động hay sao những người lính năm xưa ngang tay súng chiến đấu cho ai, cho cái gì mà bây giờ là những người đui mù, cụt tay, mất chưn, lê lết xin ăn…?
Tôi không bao giờ không khóc được khi nghe bài hát “Chiều qua Phà Hậu giang” hát về câu chuyện một người lính Sĩ quan Ðà lạt năm xưa mà bây giờ là người ăn mày ngồi đàn “ăn xin” bên Bến phà Hậu giang: “Hò…ơi! Nào ai biết chăng? Những kẻ ngày xưa đã âm thầm, hiến dâng cả đời trai giữa sa trường. Giờ còn lại chi đây…”? Xin lỗi anh Nguyễn hải Triều, tôi viết bài nầy là tự ý, một phần viết về anh và một phần qua anh làm biểu tượng để nhắn nhủ với bà con người Việt mình rằng, chúng ta có nợ với những Người lính Việt nam Cộng hòa, chúng ta còn nợ với những người anh em Thương phế binh ở bên nhà và chúng ta còn bổn phận phải xóa bỏ chế độ Cộng sản Việt nam “như những thiên kỳ quái nhất của lịch sử loài người”, là ung thối thanh sử nước Việt nam bốn ngàn năm văn hiến./.

NGUYỄN THỪA BÌNH
Kansas City, đêm tháng Hè 20/7/13

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người
Vương Mộng Long
K20

Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.



Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.

Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương.Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư : - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?

- Có phải người của "moa" đâu? Việt-Cộng đó!

- Việt-Cộng à?

- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )

- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?

- "Moa" thấy đùi của anh ta bị quấn "garô" sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi

- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?

- Tụi "moa" vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.

- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?

- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.

- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.

- "Toa" biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi "Xuân ơi! Xuân ơi!" Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm . Tôi gật đầu, tán đồng,

- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn. Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên: " Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…"

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành: "Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ "X" xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, "Két! Két! Cột! Cột!" thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều... Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra .Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm. "Bục!" thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

"Here it is!" Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ. Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: "Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby..."

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:

- Thank you!

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!

- Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,

- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.

-Thuốc của đế quốc, không thèm hút!

- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

- Take it! It's good for you!

Tôi chêm thêm,

- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

- May you tell him to take it?

Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm. - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy! Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,

- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ. Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị "tó" vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.

- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.

- E mấy?

- Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó

- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.

- Cấp chức gì?

- Trung úy Đặc-Công.

- Quê ở đâu?

- Hải ..."Rương

- Làng nào?

- Hỏi gì mà lắm thế?

- Thôi không hỏi nữa!

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi: "Này! Này!"

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:

- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

Tôi ngạc nhiên

- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà, - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.

- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: "Chẳng lẽ chính ủy nói sai?" tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi. - Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò. - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?



Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.

- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.

- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.

- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

"Don't throw it away! Keep it for memory!" bà dặn dò.

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng. "Take care! Good bye! My son!" phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run. Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: "Her son was a Ranger like you!"

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một "Ranger" như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình

***

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.

- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?

- Đạo lý làm người mà Long! "Moa" cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.

- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.

- Sau này anh có còn gặp lại y không?

- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

Tôi nhắc anh Tư.

- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?

- "Moa" không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.

- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .

Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.

- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.

- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.

Anh Tư gật gù.

- Có khi hai người là bà con cũng nên?

Tôi cũng gật gù theo.

- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là "cốt nhục tương tàn". Anh Tư phụ họa.

- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản "cội" đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh "nồi da xáo thịt" này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!

***

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là "Dũng Điếu Cày".

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn "lách cách!" vừa gọi nhau ơi ới: "Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!"

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: "Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân."

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.

- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là "Thượng Sĩ Buồn" đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

"Thượng Sĩ Buồn" là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là "Thượng Sĩ Buồn".Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông "Ba Gà Mổ", tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng "hiền hết xẩy" nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông "Ba Gà Mổ" có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.

- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau "ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ "hiền hết xẩy" tôi cũng mừng.

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã "phịa" ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa "rê" thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.

- Từ mai, "moa" bỏ thuốc! "Toa" cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! "Moa" chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả! Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố "bỏ thuốc", chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm "garô" cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
"Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"


Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.
Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.


Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
- Lẹ lên! Lẹ lên!
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính
canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
"Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư.."
Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, "Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!..." Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
"Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!..."
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, "Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!..." nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.


Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.


Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng
... rồi đi vào.
Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.


Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Vương Mộng Long-
K20

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Nợ Đời một nửa, còn một nửa nợ ơn em
(Viết cho em và những người vợ lính trung hậu)
Thời còn đi học, lang thang từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù con nhà nghèo, học tàm tạm, và nhan sắc dưới trung bình, tôi cũng đã mang tiếng đào hoa. Cho nên có muốn kéo dài thêm cái đời học trò để được mơ mộng đủ thứ chuyện dưới biển trên trời thiên hạ cũng đâu có cho. Rồi có phải thuộc giòng hào kiệt gì đâu, tôi cũng xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Nói kiếm cung cho nó vẻ văn chương và lãng mạn, chứ thực ra tôi vào lính, mà lại là thứ lính hạng bét thì làm gì có kiếm với cung. Có phải lính tàu bay tàu thủy gì đâu, mà là lính đi bộ. Lúc băng rừng lội suối, mặc bộ đồ trận hôi hám cả tuần không tắm, tôi ghét cay ghét đắng cái ông nào là tác giả cái câu “Bộ Binh là nữ hoàng của chiến trường” mà tôi đã đọc được ngay từ khi mới vào quân trường, đếm bước một hai để hát bài “đường trường xa”. Khổ thì khổ vậy, chứ mấy cô gái bé bỏng hậu phương lại mê lính trong mấy bản nhạc của ông Nhật Trường. Vì “nếu em không là người yêu của lính, ai thương nhớ em chiều rừng hành quân, ai băng gió sương cho em đợi chờ, và giữa chốn muôn trùng ai viết tên em lên tay súng ? .. ”. Nhờ vậy, trong mấy năm đóng quân dọc đường số 1, nơi nào tôi cũng để lại vài mối tình con. Tôi nghĩ đời lính như vậy mà vui, thì thôi chớ tính chuyện vợ con làm gì cho nó vướng chân vướng cẳng. Hơn nữa tôi cũng hiên ngang với đám con gái lắm, thì làm gì có chuyện “chết trong mắt em”. Vậy rồi trời xuôi đất khiến thế nào, sau mấy năm đánh đấm ở Quảng Đức, Ban Mê Thuột rồi Bình Định, Phú Yên, đơn vị tôi được mấy cái tàu há mồm chở vào bỏ xuống bãi biển Nha Trang vào lúc đường phố mới lên đèn. Tôi thấy lòng lâng lâng sung sướng vì không khí yên bình của thành phố biển, mà cũng vì tưởng mình đã được trở về với những “hang động tuổi thơ” của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Nào ngờ, khi còn mải mê với mộng mị, tôi bị đánh thức lúc nửa đêm cùng đơn vị leo lên một đoàn xe mấy chục chiếc để tiếp tục “hát khúc quân hành”. Đoàn xe ra khỏi thành phố, qua Ty Thông Tin, ra quốc lộ 1, trực chỉ hướng bắc. Tôi lại mừng thầm, nghĩ là sẽ được về dưỡng quân ở huấn khu Dục Mỹ. Nhưng tôi đã “ước tính tình hình” sai bét. Đoàn xe dừng lại tại bùng binh, ngã ba Ninh Hòa. Một tiểu đoàn lính đổ xuống cái thị trấn còn đang say ngủ. Đại đội tôi nhận lệnh vào đóng quân trong sân vận động. Sáng hôm sau tôi rủ mấy thằng bạn, quần áo chỉnh tề, ra phía trước “thăm dân cho biết sự tình”.

Thấy một ngôi nhà mở cửa, bọn tôi bước vào làm quen. Chủ nhà là một cô gái nho nhỏ dễ thương, mời đón mấy thằng lính trời ơi đất hởi mà miệng vui cười, e thẹn nhìn tôi bằng cặp mắt nai tơ. Vậy mà thằng lính ngang tàng như tôi lại chết trong đôi mắt ấy. Bắt đầu từ một chuyện tình cờ như vậy đó, mà tôi trở thành chú rể của Ninh Hòa hơn một năm sau. Trường Trần Bình Trọng cũng vừa có một cô học trò bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè và bỏ cả đội múa ”Trăng Mường Luông ”.

Bây giờ cứ mỗi lần đọc bài thơ của ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, là tôi nhìn thấy có tôi trong đó :

Hồi nhỏ tôi rất anh hùng
Một mình dám nhảy cái đùng xuống sông
Bơi nghiêng, bơi ngửa giữa dòng
Hiên ngang trấn giữ một vùng tuổi thơ
Lớn lên trở chứng ngu khờ
Mắt em nào phải bến bờ sông sâu?
Cớ sao chưa kịp lộn nhào
Đành chịu chết đuối, thiệt đau đúng là…


Nàng làm vợ lính đúng tám năm. Tám năm khốn khổ lo âu. Vì lúc nào cũng có thể trở thành góa phụ. Đã vậy đứng ở Ninh Hòa lúc nào nàng cũng nhìn thấy hòn núi Vọng Phu sừng sững cuối chân trời! Nhưng rồi nàng không trở thành góa phụ mà lại trở thành tù phụ. Cơn sóng bất ngờ phủ xuống miền Nam, cuốn nàng theo cùng những người có chung số phận. Thân phận bọt bèo với một đàn con dại, cô học trò Trần Bình Trọng bé nhỏ ngày nào bây giờ phải một mình chống chọi với phong ba.

Riêng tôi, một thằng lính bất ngờ thua trận thì chuyện tù đày nào có than chi. Chỉ tội nghiệp cho “người tình bé nhỏ” ngày xưa. Tôi tự trách mình, giá mà ngày đó tôi đừng ra khỏi cái sân vận động, không gặp nàng, thì biết đâu nàng chẳng tìm lại một cố nhân nào đó – mà tôi thường nghe nàng nhắc đến với lòng ngưỡng mộ – bây gìờ đã là một ông quan hải quân, sẽ đưa nàng xuống tàu ra khơi đi tìm vùng đất hứa.

Rồi nàng bỗng dưng trở thành con cò lặn lội bờ sông của ông Trần Tế Xương, để nuôi đủ sáu con với một chồng – ông chồng gần tám năm biền biệt ở các trại tù Lào Cai, Yên Bái.

Tôi còn nhớ lúc ở trong tù, tôi may mắn nằm bên cạnh nhà thơ lớn Tô Thùy Yên. Tôi rất quý anh vì anh là một người tù có tư cách. Thấy tôi dốt nát mà cũng thích thơ văn, anh làm tặng tôi một bài thơ khá dài và hay lắm. Nhưng lúc bị cai tù kiểm tra, tôi nhát gan nên bỏ cả bài thơ vào miệng nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Vì vậy tôi không còn nhớ hết mà chỉ thuộc lòng mấy câu viết về nàng:

Tám năm áo rách bao nhiêu lượt
Em vá chồng lên những nỗi niềm
Từ thuở anh đi nhà tróc nóc
Con thơ đâu còn biết vui cười
Cô gái Ninh Hòa, thương quá đỗi
Một mình chèo chống giữa phong ba

Ra khỏi trại tù, dường như tôi chỉ đem về cho nàng thêm những đắng cay. Với một người chồng còn mang đầy những vết thương cả trên thể xác lẫn tâm hồn, cùng một đàn con thơ dại, giữa một xã hội chất chồng thù hận, nàng biết xoay xở làm sao ? Cuối cùng, nàng phải cùng chồng con, đem sanh mạng đánh một canh bạc cuối cùng.

Có lẽ ông trời không phụ lòng nàng. Chuyến đi vội vã, chuẩn bị chưa xong, rồi cũng đến được bến bờ. Trong lúc bao nhiêu người tìm cách tận hưởng hạnh phúc của một điều tưởng chừng may mắn nhất của con người, hoặc ít ra cũng ngơi nghỉ để hoàn hồn từ cõi chết, nàng lại tiếp tục làm kiếp con cò trong một vùng băng tuyết mênh mông, lo lắng cho con, để cho chồng học thêm vài ba chữ và vác ngà voi chạy đủ thứ chuyện bao đồng.

Bây giờ những đứa con đã trưởng thành. Nàng chiều chồng để cho mỗi đứa tự chọn đất nước nào nó thích mà dung thân. Mỗi đứa một phương trời. Nàng lại là một hậu phương cho các con đi vào trận mới. Ngôi nhà trở nên trống vắng. Cuối cùng nàng cũng chì còn có tôi, người lính thất trận năm nào, đã mang đến cho nàng biết bao là hệ lụy. Dư âm cuồng nộ của những cơn dông bão năm nào dường như vẫn còn đâu đó trong giấc ngủ của riêng nàng.

Tuổi sắp già, mà tôi còn mang nhiều món nợ. Biết làm sao trả cho xong. Nợ núi sông, nợ máu xương bè bạn. Mà khổ thay, tôi thì cứ mãi là thằng lính hèn mọn, bạc tình. Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa. Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi qua bao cuộc biển dâu.


Phạm Tín An Ninh

User avatar
saohom
Posts: 2212
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Bài Viết Của Con út Cố ĐT Nguyễn Đình Bảo: Tại sao không giữ lời hứa với mẹ tôi
Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày

Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi

Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi : “Tại sao?”

Charlie, tên nghe quá lạ!

“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ...Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt…
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.

Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong "Mùa hè đỏ lửa" của Phan Nhật Nam)

Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie.
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.

Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”

“Anh Năm,
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật "giang hồ" với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?
Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
"- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? "
(Trích trong "Máu lửa Charlie" của Đoàn Phương Hải)

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.

“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”... Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.”
(Trích trong "Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie" của Phạm Anh Dũng)

Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)

Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?

Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”

Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ "Cởi áo trần gian" vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa…

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng

Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)

Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ…
Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?...

Nguyễn Bảo Tuấn

Post Reply