Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Tranh Tĩnh Vật


Ngày 13, tháng 6 của năm 1975, Chị và bố mẹ rời trại Pendleton theo người bảo trợ cũng là người bạn trong giới truyền thông Mỹ từ hồi còn ở Việt Nam, đến thành phố Encino, California. Khi chị rời trại ngày thứ sáu 13, mấy người bạn cùng lều bảo chẳng nên ra trại vào ngày này, không tốt đâu. Nhưng người bảo trợ nói, chị có cha mẹ già, không nên ở lâu trong trại, ban đêm lạnh, không tốt cho sức khỏe hai cụ. Cá nhân chị thì chẳng còn tin vào may rủi gì nữa. Cả một cái tháng tư năm nay, ngày nào không là ngày xấu đối với cả triệu người dân miền Nam.

Tạm trú nhà bạn được hai tuần, chị tìm được việc làm ngay, nhờ vợ bạn là người Nhật, giới thiệu chị đến phỏng vấn trong một ngân hàng Nhật. Có lẽ thứ sáu,13 lại là ngày may của chị (đành phải tin vào vận may vậy) nên chị được chọn vào làm Bank Teller, là một, trong ba người cùng tới xin việc hôm đó.

Chị rời nhà bảo trợ ở Encino, thuê được căn chúng cư, một phòng ngủ, có sẵn đồ đạc ở cách nơi chị làm có ba ngã tư, ngân hàng Mitsui Bank trong World Trade Center, Los Angeles.


Mỗi ngày, chị đi bộ đến sở làm. Tính từ ngày rời Việt Nam 21 tháng 4, tới Mỹ chưa được hơn hai tháng, không có xe, bằng lái xe cũng chưa có, đi bộ là giải pháp đúng và hay nhất.

Dọn mấy cái bao quần áo của ba người vào nhà, rồi mới bắt đầu đi mua những dụng cụ nhà bếp ở Garage Sale, Goodwill; chăn gối ở K-mart. Căn chúng cư có hai phòng. Một phòng ngủ duy nhất nhường cho ba mẹ, một phòng nữa vừa là phòng khách, phòng ăn liền với bếp. Chiếc sofa dài kê sát ở góc tường, ban ngày là nơi tiếp khách (nếu có khách), ban đêm là giường ngủ của chị. Lúc đó còn trẻ, dễ ngủ, lại biết cái thân phận di tản nên tự cho thế là may mắn lắm rồi.

Nơi cư ngụ tạm yên ổn, chỗ làm tốt, công việc một phát ngân viên trong ngân hàng chỉ cần cẩn thận và nghe chỉ dẫn của xếp. Với số lương $520 Mỹ kim một tháng, chị coi như mình đã may mắn hội nhập nhanh hơn một số người thân.

Một buổi tối cuối tuần, chị dọp dẹp nhà cửa, nhìn lên tường thấy trống quá, chị tự nhủ, sáng mai sau khi đi nhà thờ, mình nên đi tìm mua một tấm tranh treo trên tường. Chưa biết là loại tranh nào, nhưng ít ra cũng phải làm cho bức tường ở giữa phòng ấm áp một chút chứ.

Chị đi loanh quanh Garage Sale, Goodwill, và mấy cái tiệm tàng tàng rẻ tiền, chẳng tìm ra bức tranh nào ưng ý. Mấy cái tranh in phong cảnh bãi biển, hay thành phố, hoa lá, trông tất cả đều vô hồn làm sao! Chị cứ cầm lên, bỏ xuống, cuối cùng về tay không. Chị đi hai ba lần cuối tuần như thế, cũng chẳng được bức nào thích mà vừa túi tiền. Túi tiền của chị lúc đó hạn chế lắm. Cuối cùng chị quyết định. Tại sao mình không tự vẽ một bức tranh nhỉ? Ở Việt Nam chị có vào trường Mỹ Thuật Gia Định học vẽ một thời gian mà.

Chị đi làm, hỏi đồng nghiệp mua dụng cụ vẽ ở đâu? Và chị chọn vẽ mầu nước thay vì sơn dầu cho rẻ hơn. Vẽ chì than trông buồn lắm, mà không phải họa sĩ thứ thiệt dễ trông thấy cái vụng. Chị thuộc loại “Họa sĩ vụng”. Cuối cùng chị mua giấy và một số mầu nước về. Chị bắt đầu vẽ một bức tranh tĩnh vật.

Chị không ngờ bức tranh tĩnh vật chị bắt đầu năm 1975, chị tiếp tục vẽ đến bây giờ, bức tranh vẫn dở dang. Chắc nó không bao giờ hoàn thành.

Khi chị dựng cái giá vẽ lên, chị phân vân không biết nên bắt đầu vẽ cái gì vào đó. Quả táo, ổ bánh mì, chai rượu, bình hoa là những thứ họa sĩ hay cho vào tranh tĩnh vật. Với chị, những thứ ấy chẳng nói lên được cái gì thuộc về đời sống của chị.

Chị nghĩ mình nên vẽ vào đây những gì mình đem theo ở quê nhà, nhờ bức tranh giữ cho chị. Kẻo thời gian và đời sống của một người di tản rất dễ làm mất đi những gì thuộc về quá khứ. Làm sao chị biết cuộc đời sẽ thổi chị đi tới đâu nữa, sau khi cơn giông bão hãi hùng đó đã cuốn chị trôi xa ngàn vạn dặm.

Trong cái túi di tản, khi hấp tấp ra đi, chị mang theo chẳng nhiều gì, nhưng chị cũng phải lựa ra. Cái túi đó có: Một chiếc áo dài nội hóa, một cây son môi, cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm, ba bộ quần áo thay đổi hàng ngày và ba trăm Mỹ kim (vẫn để dành, chưa tiêu đến đồng nào) ít đồng bạc Việt Nam còn sót lại.

Năm 1975 chị vẽ vào trong tranh: Cây son màu Terra Cotta (màu hồng đất). Chị nhớ cây son này anh ấy mua cho chị vào một ngày gần Tết, trong Passage Eden, lúc đó hai người mới đính hôn. Chị đã mặc chiếc áo dài màu cam nhạt, thoa son màu hồng đất cùng anh đi chúc Tết, đi chơi với bạn hữu của hai gia đình. Chị nhớ lại, mỗi lần nhìn màu son trên môi, chị thấy nó đẹp như mối tình của hai người: cái màu hồng của cánh hoa pha mầu nâu của đất, thật nhẹ nhàng nhưng sao vẫn nồng nàn quá đỗi.

Chị vẽ thêm cuốn Kiều, cuốn Chinh Phụ Ngâm và vạt áo dài mầu cam nhạt. Bức tranh treo trên tường năm đó, nền trắng với một vệt son môi nằm bên hai cuốn sách màu nâu nhàn nhạt, có vạt áo dài màu cam ngọt ngào vắt ngang.

Thời gian trôi như mộng, chảy một giòng sông đời. (*) Năm này sang tháng khác. Chị làm lại đời mình. Sinh con, nuôi con, chăm nom cha mẹ già, rồi cha mẹ mất đi.

Chị vẽ thêm hai cây thập giá vào bức tranh tĩnh vật.

Đời sống quanh chị với bao nhiêu là tiếng động. Có những tiếng kêu vang vọng đến từ quê nhà xa ngút ngàn. Có tiếng kêu âm ỉ trong lồng ngực chị. Chị không biết vẽ tiếng động như thế nào, chị vẩy vào tranh những giọt mầu đỏ, những giọt màu tím than.

Con cái dọn ra khỏi nhà như chim vỗ cánh ra giàng. Rồi con gái chị thành người mẹ, con trai chị thành người cha. Soi gương thấy mình tóc trắng. Chị vẽ vào bức tranh tĩnh vật một dòng sông màu lục và những sợi tóc màu xám tro.

Bức tranh theo chị từ thành phố này qua thành phố khác, từ ngôi nhà này sang ngôi nhà kia. Mỗi nơi chị thêm vào một chút, lá cờ quốc gia trong tranh của chị cũng đứng im như gió đứng. Mỗi lần nhìn vào, chị như muốn mang hết hơi của mình thổi vào nó, cho nó tung bay. Lá cờ không nhúc nhích, nước mắt chị lại trào ra.

Bức tranh im lặng, nhưng vùng biển quê hương chị thì sóng đang gào, những tiếng gào trong họng biển, chị vụng về không diễn tả nổi. Chị quẹt trong tranh một mảng xanh đen loang lổ, đến bất tận.

Chị muốn vẽ về người dân Việt ở quê nhà, nhưng trí tưởng tượng của chị nghèo nàn quá, chị không biết dùng mảng màu nào để vẽ xuống những thăng trầm, những nghịch lý, những tương phản đang diễn ra nơi đó. Chị vẽ xuống một vòng tròn không màu.

Bức tranh toàn những mảng màu câm.

Tết âm lịch lại về, tháng 4 rồi lại đến.

Bốn mươi năm bức tranh tĩnh vật vẫn chưa hoàn thành. Chị nhìn bức tranh treo trên tường tự hỏi: Khi nào mình sẽ ở trong bức tranh này? Chị cầm chiếc cọ loay hoay không biết, nếu vẽ, thì mình đặt mình vào đâu? Ở trên cùng bức tranh nhìn xuống, hay ở dưới bức tranh nhìn lên. Mình sẽ đứng trên một ngọn đồi đầy gió ở quê người hay mình sẽ ngồi bên một bãi biển, sóng êm, gió lặng ở quê nhà, hay mình sẽ im lìm như cây thập giá cạnh mẹ cha.

Bức tranh tĩnh vật không trả lời chị. Chị nhìn con số 1975 trên góc bức tranh. Chị ngửi thấy thoang thoảng trong không gian mùi hương trên bàn thờ của ngày 30 tết.

Chao ôi, đã bốn mươi năm rồi. Chị đứng lên đi mở tất cả cánh cửa trong nhà cho gió lùa vào.

Ước gì gió thổi tất cả những gì chị vẽ trong tranh bay đi, bay đi.

Ước gì gió đưa chị về lại nơi chốn thân yêu của bốn mươi năm ngày xưa đó, và mọi sự ở nơi đó vẫn đứng lại như trong một bức tranh tĩnh vật, đợi chị về.

Em ước tuổi mình như pháo đỏ
Người quên chưa đốt lúc xuân về (*)


Trần Mộng Tú

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Triết lý củ khoai
Tràm Cà Mau

Năm học lớp Đệ Ngũ bậc trung học, tương đương với lớp tám bây giờ, một hôm thằng bạn nhỏ ngồi cạnh tôi thì thầm :

“Tại sao trong tiểu thuyết, mỗi khi có hai người ôm nhau, thì tác giả có đề cập đến hạnh phúc ? Hạnh phúc là cái gì mầy có biết không?”.

Tôi liền tay dong tay rụt rè hỏi giáo sư đang dạy môn nghị luận luân lý :

“Thưa thầy, hạnh phúc là cái gì?”.

Hỏi mà run lắm, vì lỡ ra hạnh phúc là chuyện bậy bạ, thì e lảnh phạt đủ .

Thầy liền ra cho cả lớp một bài luận văn, bình giải câu : “May thay, ngoài hạnh phúc ra, đời còn có cái gì khác nữa.” Thầy còn ghi chú thêm câu viết bằng nguyên văn tiếng Pháp để học trò có thể hiểu rõ hơn. Thầy giảng rằng, hạnh phúc như là cái bóng, mà mọi người trên thế gian nầy đều luôn luôn theo đuổi, cố chạy theo nhưng không bao giờ bắt gặp được cả. Bỡi vậy, cho nên may mắn quá, cuộc đời nầy còn có nhiều thứ khác nữa, để bù đắp vào cái thiếu thốn hạnh phúc, mà con người như chẵng bao giờ tìm thấy, không bao giờ nắm được.


Chúng tôi hiểu mập mờ rằng, hạnh phúc là cái gì đó xa lắm, là như thứ ảo ảnh, mà con người thế gian ai cũng mơ ước, quay quắt đi tìm, và chẵng bao giờ tìm thấy. Tôi thầm nghĩ, thầy bắt chúng tôi bình luận làm chi cái thứ không có và khó khăn , để thêm tốn giấy mực, tốn thì giờ. Thế là cả đám học trò nhi nhô đầu còn cắt tóc trọc, đau khổ nhăn nhó, nặn óc bình giải về hạnh phúc, cái thứ mà chúng mù mờ, chưa ý thức, chưa hiểu nổi vài ba phần trăm ý nghĩa. Thằng bạn ngồi sau lưng, thụi tôi hai cái đau điếng, để phạt cái tội hỏi thầy câu hỏi cắc cớ, làm cho cả lớp phải nhức đầu. Tôi biết tội, ngồi yên. Tôi cứ yên chí là hạnh phúc không có thật trên đời nầy, và không tội gì uổng công tìm kiếm. Dù sách vở, thơ văn, có nói nhiều đến hạnh phúc, tôi e rằng đó là chuyện mơ mộng ao ước hão huyền, chuyện bánh vẽ của những người chuyên làm thơ văn.

Nhưng khi lớn lên, được đọc kinh Phật, kinh Thánh, và nhiều sách triết lý Âu Á như Khổng, Lảo ,Chu… và luôn cả kinh Koran và kinh đạo Bahai nửa, thì tôi tìm cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết Lý Củ Khoai”. Vì nó đơn sơ như củ khoai, rẻ tiền , mộc mạc, và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời nầy. Triết lý đó được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi : “Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp”. Ý nghĩa của câu đó cũ mèm, hình như ai cũng biết, và có nhiều câu nói tương tự . Cái triết lý đơn giản nầy giúp tôi thấy được rằng, hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gủi, bất cứ ai, và bất cứ lúc nào, cũng có thể tìm dược hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng hạnh phúc là cái xa vời, thì vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý khác, hoặc chưa từng nghe một phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác cũng có nói đến, nhưng người đọc vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ nhưng chẳng bao giờ thực hành.

Năm 1975 tôi mang cái “triết lý củ khoai” vào nhà tù cọng sản. Cộng sản gạt rằng, đi học tập chính trị trong vòng một tháng, cho “thông suốt đường lối của cách mạng” rồi về. Nghe dễ quá, nên bà con miền Nam mắc bẩy. Trong tù, ai cũng nôn nóng, chờ “học tập” cho xong, mà về với vợ với con, vì việc nhà còn trăm chuyện lu bu lắm, cả tháng trời ai mà lo cho. Lo nhất là hai ba tuần đã qua rồi, mà chưa thấy bài vở, chưa thấy học tập chi cả. Không lẽ khóa học phải kéo dài thêm vài tuần? Trong tù, ngoài đau khổ vì thiếu tự do, còn bị cái đói hành hạ, cái lạnh cắt da thịt từng đêm và nỗi khó nhọc hàng ngày khi làm lao động tay chân không quen mà tình trạng sức khỏe thì quá suy yếu. Còn phải đau khổ tinh thần vì làm đi làm lại bản tự khai tự thú, phải tự bịa đặt tỗi lỗi gán cho mình, để được cái gọi là “thành tâm cải tạo”. Nhưng nỗi mong chờ làm cho đám tù nhân phờ phạc mau hơn các nguyên nhân khác. Một hôm đi lao động bên ngoài vòng trại , có anh lượm được bản nháp bức thư của một lính cọng sản, trong đó viết cho cha mẹ ngoài Bắc rằng, dạo nầy con canh gác tù rất nhàn nhả, bọn chúng toàn cả cán bộ cao cấp ngụy quyền. Anh tái mặt và đem lá thư về cho vài người bạn xem, có người xem xong phát khóc vì biết mình đang ở tù chứ không phải học tập chi cả.

Phần tôi, sau một tháng chưa được về, tôi lờ mờ hiểu rằng “có cái gì không ổn đây”. Tôi chuẩn bị tinh thần để đón nhận những gì không thể tránh được. Một hôm, sau buổi cơm chiều, tôi chỉ ngọn đồi bên kia nói với người bạn tù :

“Cứ xem như đó là nơi chôn chúng ta khi tóc bạc lìa đời, và xem đây như là nơi chúng ta phải sống trọn đời còn lại. Hãy tìm và tạo những niềm vui nhỏ nhoi nhất mà chúng ta có được ở nơi nầy. Ráng tìm vui, buồn bả cũng vô ích, mà còn có hại cho sức khỏe.”

Nghe thế, người bạn tù của tôi gần khóc vì sợ. Tôi đem triết lý củ khoai ra giảng giải.

Về sau, nhiều người bạn tù khác gai mắt bực tức vì thấy chúng tôi vẫn tỉnh khô, vẫn thản nhiên vui vẻ cười đùa như không phải đang ở tù, như không phải đang cực nhọc, thiếu thốn, đói khát. Mặc dầu sức khỏe của chúng tôi sút kém rất mau, gầy gò, răng vẫu, mắt sâu. Chúng tôi cứ xem những bữa ăn thiếu thốn kham khổ kia là cao lương mỹ vị, tận hưởng từng miếng nhai nuốt. Khi chúng tôi bắt được con nhái bén nhỏ, ướp chút muối, nướng cho thơm ngậy, tổ chức một bửa tiệc thưởng trăng, xé con nhái làm ba. Ba anh em tù bí mật ăn trong đêm tối bên hè nhà, nhìn trăng chênh chếch, cười với nhau sung sướng và ngâm nhỏ vài đoạn cổ thi. Ngoài những sinh hoạt công khai trong tù, chúng tôi còn tổ chức được các buổi văn nghệ bỏ túi, cấp tốc. Ba bốn tù nhân hẹn nhau ở đám cỏ cao bên cầu tiêu, một người canh chừng, mấy người kia hát “nhạc củ” cho nhau nghe đở ghiền, sửa lại lời hát các bản nhạc của cọng sản, dể châm biếm cười chơi. Anh nào làm được bài thơ đắc ý, đem ngâm nga cho bạn tù chia xẻ, thưởng thức. Những khi đi lao dộng khổ sai như cuốc rẫy, khiêng đất, tôi và anh bạn, hai đứa hai đầu gánh nặng, vừa làm việc vừa đánh cờ tướng không bàn: “Pháo hai bình năm, mã bảy tấn sáu, mã hai tấn ba, xa một tấn một .vân vân.” Mãi suy nghĩ để chuyển quân trong bàn cờ, chúng tôi quên cả nhọc nhằn, cả hôi hám, cả nắng cháy, và quên luôn thời gian . Buổi lao động nhọc nhằn qua đi lúc nào mà không hay .

Chúng tôi chơi cờ không cao, nhưng chơi mãi rồi thành quen, không cần bàn, mà vẫn quần nhau từ sáng đến khuya. Cả những đêm học tập chính trị chán ngắt, chúng tôi ngồi như chăm chú lắm, không ai biết chúng tôi đang chơi cờ không bàn, đang dàn trận, bắt quân, dứ, chiếu, đang chống đở cho khỏi bị chiếu bí. Chúng tôi say sưa với trò chơi , chấp cán bộ cọng sản nói dai, nói dài, nói dở, nói đến khuya. Chúng tôi còn tổ chức các cuộc đua kiến, dấu dế. Bắt dế bỏ vào hộp cho chúng “học tập cải tạo”, cho chúng cắn nhau. Những con ngất ngư sắp chết, chúng tôi thả ra và nói: “Nhờ học tập tốt và thành tâm cải tạo, nhờ ý thức giác ngộ cách mạng cao, và nhờ chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, nay cho về đoàn tụ với gia đình,” Chúng tôi nháy mắt cười với nhau. Chúng tôi tạo những cuộc giải trí nho nhỏ, những buổi văn nghệ bí mật để quên ngày tháng, và thấy lo buồn tan biến đâu cả.

Phương châm của chúng tôi là “không”, không mong ước, không hy vọng gì cả. Không hy vọng thì khỏi thất vọng. Không mong ước thì không bồn chồn nôn nao. Khi thấy vài người bạn tù được thả – theo lối làm kiểng của cọng sản – các anh khác buồn tủi, đau đớn thất vọng cho thân phận của mình, thì chúng tôi vẫn bình tỉnh ngồi đánh cờ, chẳng xôn xao, chẳng bàn tán chi cả. Chúng tôi biết, chưa đến phiên mình, thì có bàn tán xôn xao, đoán mò, suy diễn lạc quan hay bi quan, thì chỉ thêm buồn khổ mà thôi å. Gạt hết ra ngoài tai cho yên lòng. Chúng tôi tập bình thản tâm trí, và luôn tìm cơ hội tận hưởng những thứ hạnh phúc nhỏ nhặt nhất mà chúng tôi có thể có được. Những khi có được một chậu nước nhỏ để tắm, chúng tôi cử hành cái lể tắm, tận hưởng niềm sung sướng khi cảm giác của nước mát chảy trên da thịt, trên mình mẩy, trên tóc tai, và hạnh phúc đến rên lên thành tiếng. Nước tắm trong tù quý như nước cam lồ. Chúng tôi chia cho nhau vài cọng rau hái được, và cảm được sâu xa nỗi hạnh phúc có thêm một miếng ăn trong tù, tận hưởng cái khoái khẩu, an ủi với cái tình bạn chân tình, vì ai cũng đói. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi nghe nhiều tiếng bạn tù thở dài não lòng ngao ngán. Có lẽ họ đang lo cho vợ con bên ngoài, giờ nầy không biết làm sao mà sinh sống, mà tồn tại trong một xã hội đổi thay từ gốc rể. Tôi biết rõ, ở trong tù lo ra cho bên ngoài, ở bên ngoài lo vào cho trong tù .Không có ích chi, cũng không giải quyết được việc gì. Không lo cho vợ con bên ngoài, không phải là vô tình bạc nghĩa, mà chỉ là không làm cái việc vô ích mà thôi. Để tránh suy nghĩ và lo âu, mỗi khi vào giường, tôi tìm cách giải một bàn cờ thế, hay làm vài ba câu thơ, cũng có khi ôn lại những kỷ niện đẹp đẻ êm đềm trong quá khứ mà thấy lâng lâng, hoặc ôn lại các chuyện tiếu lâm mà cười một mình trong bóng tối. Nhờ thế mà ngủ thiếp đi rất mau.

Chúng tôi tập coi thường những nhọc nhằn, khó khăn và đau dớn thể xác. Chấp nhận định mệnh khắt khe mà không cần than van. Tinh thần chúng tôi vững mạnh, sáng suốt. Chúng tôi cố gắng ý thức và hưởng thụ những hạnh phúc rất nhỏ từng ngày, từng giờ, từng phút, mà ít người cảm nhận . Triết lý củ khoai đã giúp tôi qua được những tháng ngày tù đày không quá nặng nề, khó chịu từ tinh thần dến vật chất.

Khi ra khỏi tù, sống trong chế độ cọng sản, người người cơ cực, thiếu thốn, sầu thảm, tinh thần bị đe dọa, sinh hoạt bị dòm ngó, rình mò. Trong cái giòng xã hội đó, chúng tôi cùng chung thân phận. Thân phận chúng tôi còn bạc bẻo, yếu kém hơn, thứ phó thường dân bên lề “xã hội chủ nghĩa tiên tiến”. Nhưng nhờ triết lý củ khoai, tôi vẫn tìm được hạnh phúc từng ngày. Hạnh phúc của mỗi sáng dậy sớm, pha một chén trà nóng, uống vào lòng ấm áp, ngâm vài câu thơ, vặn đài phát thanh BBC, VOA nghe nho nhỏ. Để biết biến chuyển quốc tế, tin tức quốc nội mà cọng sản cố tình bưng bít, ngăn chặn, che dấu. Hạnh phúc khi trao đổi tin tức quốc tế, quốc nội với bạn bè, bà con và ước đoán tình hình. Hạnh phúc nhất là cởi trần nằm phơi gió hây hây ngoài công trường, có khi ngủ tới hai ba giờ chiều mới thức dậy. Tôi đem cái triết lý thô sơ đó truyền bá cho vài anh em thân thiết, và khen xã hội cọng sản đã đem đến cho con người sự làm biếng vô cùng tận. Làm biếng cũng là một hình thức hạnh phúc nho nhỏ. Thật lạ lùng, nhà nước cho đến cán bộ to nhỏ, miệng ai cũng lớn lối đại ngôn ca ngợi lao động siêng năng cần mẫn, mà tất cả mọi người đều biếng nhác, tà tà. Đúng là cha chung không ai khóc.

Trong xã hội cọng sản, con người không được sống yên ổn, nay chính sách nầy, mai chính sách khác, thay đổi lung tung, chẳng ai hoạch dịnh cho đời sống riêng mình dược cả. Chúng tôi vẫn tìm được nhiều hạnh phúc trong châm ngôn “không ước mơ, không hy vọng”. Phải dập tắt mọi ước mơ, mọi hy vọng để mà sống, nghe thì như vô lý, nhưng thực vậy. Cứ thuận theo giòng khổ đau mà trôi nổi với tinh thần sáng suốt. Không than van, không kể lể, không bi ai. Khi có cơ hội bắt được niềm vui thì cứ tận hưởng hết mình chút hạnh phúc đang có. Chấp nhận nhưng không buông xuôi cho số mệnh. Tìm lối thoát với tinh thần nhẹ nhàng., lạc quan, sáng suốt. Khi leo lên chiếc thuyền nhỏ bé để tìm đường đào thoát ra khỏi vòng tay cọng sản , chúng tôi cứ tự nghĩ như mình đang đi du lịch. Đề phòng tối đa, nhưng không quá nhiều lo âu sợ sệt. Cũng có sợ, nhưng sợ ở một mức độ nhẹ nhàng, đến nỗi đôi lúc còn cảm thấy thản nhiên và sung sướng, vì biết mình đang trên con đường đào thoát. Có gì mà lo? Nếu bị bắt thì ở tù lại, mà ở tù lâu thì tìm cách vượt ngục. Chiếc thuyền nhỏ đi từ bến sông Sài Gòn về miền Tây, ra cửa Ghềnh Hào. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều trạm kiểm soát bắn súng kêu vào xét hỏi giấy tờ. Thấy chúng tôi vui vẻ, bình tỉnh quá, công an cọng sản không ngờ chúng tôi đi vượt biên . Như những kẻ ham chơi, chúng tôi thoát ra được hãi phận quốc tế. Thuyền chết máy giữa biển mênh mông nhiều ngày, nhưng sao trong lòng chúng tôi vẫn thấy vui, và còn cảm ơn Trời Phật đã giúp chúng tôi thoát được bàn tay cọng sản độc ác. Có chết cũng vui, thỏa nguyện. Dược chết giữa biển trời tự do. Chúng tôi vẫn kể chuyện tiếu lâm, cười đùa và có khi còn cùng nhau ca hát.

Khi may mắn đến được trại tị nạn, thiên hạ ai cũng nóng lòng, ăn không yên, ở không yên, mong được đi định cư sớm. Họ cứ đưa ra giả thuyết nầy, giả thuyết kia để tự gây nên nỗi lo lắng cho chính họ và cho bà con chung quanh. Lo lắng về một bệnh dịch có thể phát ra, và phái đoàn Liên Hiệp Quốc sẽ không dám dến phỏng vấn. Lo lắng quốc tế thay đổi chính sách tị nạn. Họ lo để mà lo, không có đường lối và phương sách giải quyết các mối lo âu đó.

Tôi bảo họ: “Hãy xem những ngày tháng nầy như đi cắm trại nghỉ hè dài hạn bên bờ biển, cơm nước có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc nuôi báo cô, chỉ cần cái xà lỏn thôi là đủ lịch sự như mọi người, cứ vui vẻ nhẫn nại chờ ngày đi dịnh cư” . Không ai nghe lời tôi, ngày ngày họ họp nhau bàn tán, uyên bác suy diển, bày dặt dủ tin đồn dể gây cho nhau lo âu thêm, rồi đêm về mất ngủ thở dài thở ngắn. Phần tôi, thì lên đồi mắc võng nằm ngủ mơ màng trong gió hiu hiu, thưởng thức tiếng chim ca, nhìn dám mây mỏng lơ lửng bay qua bầu trời xanh, khi nóng thì nhào xuống biển nô giởn với sóng nước mát dượi, rồi nằm dài trên cát. Chán thì chơi vài ván cờ tướng, nằm nghe nhạc “chùa” vẵng từ các lều lân cận có máy hát. Buổi chiều về chòi, ăn một bụng no, uống ly trà, họp bạn bè, kể chuyện tiếu lâm, vui cười vang rân. Đêm nhóm vài cành thông khô đốt lửa ngồi quanh nhắc chuyện Việt Nam, chuyện cổ tích, chuyện vui lạ trong đời mỗi người. Nhiều người ngứa cổ, ca hát, ngâm thơ, cuộc vui kéo dài mãi đến khuya như một thời thanh bình nào đó ngồi bên lửa trại. Tôi thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng thanh thản. Không bận tâm lo âu sinh kế, thì giờ tự do không ai bó buộc, không có chuyện khẩn cấp phải làm, không ưu tư về tiền bạc, trong túi không có một xu, không bị công an dòm ngó, đe dọa, khủng bố, và không có bổn phận, trách nhiệm gì cả. Thảnh thơi, vui thú. Cuộc đời có lẻ chưa bao giờ có được những ngày tháng thần tiên như vậy. Sẵn đó, mà có mấy ai cảm nhận được ?

Một anh bạn trẻ đã nghe lọt tai cái triết lý củ khoai, đã cùng tôi gọi cái đảo tị nạn là miền đất thần tiên vô ưu. Nhưng với đa số, thì họ gọi dảo nầy là “Buồn Lo Bi Đát” đọc trại ra từ tên đảo là Pulau Bidong, họ cho là nơi chật chội, thiếu thốn, nóng nực, chờ mong, khổ sở, lo lắng. Tôi khó truyền bá cái triết lý củ khoai ra rộng rải, vì người nghe sẽ cho tôi là thằng khùng. Không ai tin câu nói của tôi rằng: “Dù có nóng lòng lo âu đến mấy, cũng không thể đi định cư sớm hơn một phút, mà dù tà tà vô lo đến đâu, cũng không chậm đi định cư hơn nửa giờ.” Tôi xem thời gian tại trại tị nạn như nửa năm đi cắm trại, còn sướng hơn là đi cắm trại. Trở về với thiên nhiên, quần xà lỏn, ở trần, đi chân đất, ngủ gốc cây, nằm trên cát biển, không lo âu sinh kế, và trong túi không có một đồng xu, mà cũng chẳng cần tiền bạc làm chi. Tôi chắc chắn trăm phần rằng, tôi là người sung sướng nhất đảo, vì tôi nhìn thấy được điều sung sướng, tôi cảm nhận được cái hạnh phúc to lớn thực sự tôi đang có. Còn đa số thì không thấy, không cảm được.

Tôi đến Mỹ, lang thang đi tìm việc, lội tuyết ngập nửa ống chân, rả cẳng, gió buốt lạnh cắt da thịt. Trong lòng vẫn vui, vẫn sung sướng, vì biết mình là kẽ may mắn, đang sống đời tự do. Đa số bà con bạn bè giờ nầy đang khắc khoải sống trong áp bức, xiềng xích gông cùm của cọng sản. Nhiều bạn bè đã ra đi, nhưng không đến, đã chết giữa biển khơi,chết trong rừng sâu, bị bắt bớ tù đày, hành hạ. Biết bao nhiêu triệu kẽ mong được lội bảo tuyết đi tìm việc như tôi mà không được. Tôi may mắn thế nầy, thế thì sao mà lòng không rộn rã niềm vui, ca hát cùng gió, cùng tuyết, cùng đất trời trắng phau phau .

Nhờ xông xáo, chỉ hơn mười ngày sau khi đến Mỹ, tôi tìm được một chân phụ bếp trong tiệm ăn Tàu. Làm việc hơn 15 tiếng mỗi ngày, làm không ngơi nghĩ. Cắt rau, gọt khoai, chặt thịt, xẻ cá, lạng tôm, chùi nồi, rửa bát, lau nhà, liền tay liền chân suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya mịt. Di chuyển, nhảy nhót trong cái khu bếp sực nức mùi dầu ăn, tôi nghĩ có lẽ những cao thủ võ lâm khổ luyện bí kíp chờ ngày xuống núi tranh hùng trong các tiểu thuyết kiếm hiệp, cũng chuyên cần đến thế mà thôi. Trong lòng tôi cũng tràn ngập vui sướng, hạnh phúc, vì mới đến miền đất lạ chưa được bao lâu, mà đã tự lập và sinh sống được. Tôi cũng tự phục mình, suốt đời ngồi văn phòng, mà thích nghi được việc lao động rất dễ dàng . Ông chủ tiệm rất bằng lòng cái vui vẻ, yêu đời, chăm chỉ của tôi. Một khuya trên đường về, tuyết phủ mênh mông, băng qua công viên tối, tôi trượt chân té ngữa nằm dài . Nhìn lên trời thấy trăng vằng vặc sáng với ngàn sao long lanh. Tôi thấy trời đất đẹp quá, cuộc đời đáng yêu vô cùng, và thân thể khoan khoái vì cái xương sống được nằm trong thế nghỉ ngơi sau hơn mười mấy giờ lao động tay chân. Bao nhiêu mệt nhọc trong thân thể như chảy loảng tan biến, chạy thấm vào nền tuyết sau lưng. Tôi nằm yên rất lâu ngắm trăng, và ngâm vài câu cổ thi ca ngợi trăng sao. Giá như có ai thấy được cảnh nầy, chắc họ tưởng tôi điên khùng. Cái lần té nầy, làm tôi bong gân, không đi dược, phải nghỉ làm, nhờ đó mà tôi có thì giờ, tìm ra được một công việc trong nghề cũ.

Khi đi làm việc, đôi khi gặp những cấp chỉ huy dốt nát, hoặc đồng sự kém cỏi mà lương cao hơn mình, tôi không lấy đó làm điều bất mãn, thắc mắc như nhiều người khác. Vì công ty thì của tư nhân, họ muốn thuê ai, giỏi dốt , trả lương cao thấp là quyền của họ. Mình chấp nhận làm việc, thì rán làm tròn bổn phận của mình, làm tốt tối đa. Nếu không bằng lòng với đồng lương, thì cứ tìm nơi khác khá hơn. Vã lại, đất nước của họ, thì ưu tiên chút đỉnh dành cho họ là phải. Mình ganh tị thì hóa ra là kẻ không biết điều . Tổ tiên họ đã đổ xương máu ra khai phá, để bị đâm chết, lột da đầu, bệnh hoạn. Biết bao nhiêu thế hệ đã đóng thuế, xây dựng nên những tiện nghi ngày hôm nay. Mình là kẻ may mắn nhảy xổm vào chia phần. Thì cũng cứ vui mà hưởng cái phần chưa được hoàn toàn bình đẳng đang có.

Qua những cảm nhận, so sánh hàng ngày, tôi dễ dàng tìm được cho mình cái hạnh phúc của tâm hồn yên ổn. Ở sở, tôi gắng tạo cho mình một môi trường vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Để cảm thấy tám giờ trong ngày là thời gian dể chịu, vui, hạnh phúc, chứ không phải là thời gian ” đi cày” khổ nhọc như nhiều người quan niệm. Mình chấp nhận công việc để được lảnh lương, thì dể trả lại, ráng sức làm việc. Tập yêu thích công việc, làm việc với tinh thần vui vẻ, dù công việc có lập đi lập lại nhàm chán, thì cứ nghĩ rằng sướng quá, công việc quen tay, dễ dàng, khỏi phải suy nghĩ nhiều, khỏi phải lo âu sợ làm sai, khỏi phải năn nỉ hỏi ai. Cứ yên tâm mà làm tới. Thế thì không phải sung sướng , hạnh phúc sao ? Biến cái văn phòng của sở làm, thành một nơi ấm cúng, vui vẻ, yêu thích, thì đời mình có giá trị, hạnh phúc phong phú hơn nhiều. Những khi gặp khó khăn trắc trở, gặp những thay đổi bất thuận lợi , tôi cứ bình tỉnh chấp nhận chuyện không may, và tự bảo rằng, cuộc đời nầy như một chuổi kết hợp giửa cái may mắn và xui xẻo, giửa hạnh phúc và đau khổ , giửa thuận lợi và trắc trở. Thì cứ từ từ mà giải quyết, sẵn sàng chấp nhận cái kết quả xấu nhất. Thế là yên tâm, và đôi khi cũng nhờ cái yên tâm, mà công việc được thuận buồm xuôi mái hơn.

Sống ở đất nước lạ, lòng hoài hương làm nhiều người thương nhớ không nguôi, làm đau nhức con tim. Tôi biến tình cảm đó thành một thứ an ủi dịu dàng, một thứ hạnh phúc êm đềm khi nhận được thơ nhà, thơ bạn bè. Những giúp đở nho nhỏ cho người cùng khổ bên quê nhà là một thứ an ủi cho những giây phút mệt nhọc khó khăn trong công việc nơi quê người.

Những buổi sáng, khi chuông đồng hồ rền rỉ đánh thức dậy đi làm, nhất là những sáng thứ hai ngày mùa đông rét mướt tối tăm, nhiều người cảm thấy quá mệt nhọc, quá khó chịu, và họ “giả như” hôm nay được nghỉ thì sướng vô cùng. Còn tôi, thì mỗi sáng thức dậy với tràn ngập niềm vui, biết hôm nay ta sống thêm một ngày trong thế giới tự do, hôm nay ta còn công ăn việc làm, chưa thất nghiệp. Thế thì lòng đã phơi phới, sá chi đông giá lạnh lẻo tối tăm. Con đường đi đến sở, nhạc trong xe dịu dàng rải rắc khắp không gian. Có lần tôi bị thất nghiệp, buổi sáng thức dậy, tận sâu thẳm trong lòng tôi vẫn lâng lâng niềm hạnh phúc lạ kỳ, với ý nghĩ rằng, nhờ thất nghiệp mà còn được ngủ nướng, muộn màng, nằm dã dượi, nhìn nắng ấm dịu dàng len qua song, trải lên chiếu giường. Chốc nửa, sẽ nằm đọc truyện, uống trà, nghe nhạc cổ điển êm dịu. Chiều đi câu bên hồ. Tối nay thức khuya xem phim muộn về đêm, khỏi phải sợ ngủ gục trong sở. Việc chi mà quá lo âu về kinh tế gia đình, khéo co giản nhu cầu theo hoàn cảnh, thì không việc gì phải lo,. Vả lại, công việc làm, thì cửa nầy đóng, cửa kia sẽ mở, đâu đến nỗi chết đói mà sợ.

Nhiều người hỏi tôi sao không mua nhà để được trừ thuế mà cứ sống trong nhà thuê chật chội. Tôi trả lời là tôi đang mua hạnh phúc. Hạnh phúc mua được rẻ hơn tiền đóng thuế. Mua cái nhà khi chưa vững chắc về tài chánh là mua cả khối lo lắng lớn lao vào thân, làm mất đi cái an bình quý báu của cuộc sống. Nhiều người, vì mua nhà, sợ mất việc, cho nên hèn cả con người. Khi tôi đủ sức mua nhà mà không phải lo âu vì nợ nần, thì cũng có nhiều bạn bè bà con hỏi, sao dư khả năng để mua những căn nhà lớn hơn, khu sang trọng hơn, mà lại mua căn nhà nhỏ. Tôi nói với họ là tôi không có nhu cầu sang trọng, căn nhà nhỏ cũng đủ cho gia đình tôi trú ngụ yên ấm. Nhà càng lớn, càng phải chăm sóc ï quét tước . chùi dọn nhiều, sưả chửa nhiều, mất thì giờ hưởng thụ những thú vui khác của cuộc đời. Lại nợ nần nhiều thêm lo lắng, có hại đến hạnh phúc bình thường. Căn nhà nhỏ của chúng tôi, nếu chẳng may cả hai vợ chồng thất nghiệp, cũng chẳng có chút bối rối nào . Có thể, tôi không khôn ngoan trên nhản quan kinh tế, nhưng tôi chắc chắn không sai lầm chút nào trên quan điểm hạnh phúc nhân sinh. Vợ chồng chúng tôi thường nói với nhau, nếu bây giờ có thêm vài triệu đồng tiền mặt, thì có lẻ đời sống chúng tôi cũng chẳng thay đổi gì hơn. Cũng không ăn dược nhiều hơn một miếng, cũng khong ngủ được một lúc hai giường. Thức ăn thì bò, heo, gà, tôm, cua, cá, rau cải, bất cứ thứ nào cũng thừa khả năng mua. Không cần phải giàu lắm mới mua được. Ngồi ăn trong nhà hàng sang trọng đắt tiền, chắc chi ngon miệng hơn ngồi chồm hổm bên góc đường húp riêu.

Vợ tôi thường trách tôi bạn bè quá đông, bạn tốt cũng đông mà bạn xấu cũng đông . Tôi thì thấy không ai hoàn toàn tốt, mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Đã là con người thì có xấu tốt lẫn lộn. Chơi với bạn thì chỉ nên nhìn vào cái tốt bạn có, đừng để ý đến cái xấu . Ngay cả bản thân mình, cũng đầy cả nết hư tật xấu mà chưa chừa được. Chắc chắn, cũng không ít người chê bai sau lưng mình, nhạo báng mình, mà mình không biết đó thôi. Nếu họ có chê trách mình, thì họ cũng đúng phần nào dưới nhản quan của họ. Bởi vậy, tôi thường để vài giờ tự chế diễu mình, ghi lên giấy những lố lăng, những kỳ cục, những khả ố của mình. Để mình thấy rõ mà tha thứ cho cho mình, tha thứ cho người khác dễ dàng hơn.

Thế mà người gần gũi tôi nhất, thân thiết nhất, là vợ tôi, thường chống báng cái triết lý củ khoai nhiều nhất. Nhưng nàng đâu hiểu, những hạnh phúc bình thường tràn đầy mà gia đình tôi thực sự có được, cũng nhờ cái triết lý củ khoai ấy. Thường thường ít ai thấy và cảm được những hạnh phúc mà họ đang có , chỉ khi mất đi rồi, mới nhận chân ra, và chép miệng tiếc thương. Nhiều khi vợ tôi làm những điều không phải, nói những lời khinh bạc, tôi không nổi giận la hét làm dữ như những người khác. Tôi thầm bảo, nhiều người đàn bà còn tệ hơn vợ mình cả trăm lần, mình phải chấp nhận cái tương đối để vui sống. Và lại, mình có hoàn toàn đâu mà buộc người phối ngẫu của mình phải hoàn toàn. Thế là mọi sự đều qua.

Điều tôi thường hay nghĩ đến là nếu. Nếu tất cả sự thực hôm nay là giấc mộng, sáng mai thức giấc, thấy mình đang còn nằm trong nhà tù cọng sản, thì thật có nhiều điều điều đáng ân hận và tiếc. Và nếu đời là một giấc mơ, thì sao chúng ta không mơ cho thật đẹp .

User avatar
khieulong
Posts: 6755
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Cà phê cà pháo
Phạm Thành Châu

Một buổi sáng nào đó, mấy ông bạn gọi nhau đi uống cà phê. Tiệm cà phê có mấy cái bàn đặt ngoài hiên, trên lề đường, kiểu cà phê vỉa hè ở Việt Nam hay cà phê Starbucks ở Mỹ thì càng quý. Ngồi đó cả ngày cũng chẳng ai đuổi mà chuyện trò cũng thoải mái. Ở Âu Mỹ mình nói tiếng Việt. Thỉnh thoảng cười với nhau thì họ biết ngay là mình đang nói chuyện vui. Không bao giờ tôi thấy người Âu Mỹ uống cà phê mà cười. Chuyện họ nói thường là thời tiết, thời sự. Họ không biết cái thú trò chuyện bên ly cà phê của người Việt mình. Họ thường ngồi một mình đọc báo, đọc sách. Nhiều ông cũng làm như ta đã là dân Tây, mũi hết tẹt, da hết vàng, cũng cầm quyển sách ngồi chăm chú đọc, ra vẻ “ta đây” trí thức (trừ những ông nghiên cứu thực). Lớn tuổi, đọc sách, báo (không phải nghiên cứu) phải nằm ườn trên giường hoặc trên ghế xa lông, trên võng…, dang tay, dang chân… rồi ngủ quên. Hạnh phúc vô cùng! Ra tiệm ngồi uống cà phê một mình là có tâm sự nào đó. Ngồi gặm nhấm nỗi buồn, có khi thở dài hoặc chết lặng, không biết làm sao cho hết buồn? Cũng có ông, thích ngồi một mình, chả suy tư, ngẫm nghĩ gì. Ở Sài Gòn, đầu hẻm thường có quán cà phê, nhiều ông, bà ra gọi một ly, ngồi “chò hỏ” (hai chân trên ghế, bó gối), chẳng nói năng, nhìn ra đường, thỉnh thoảng, đổ cà phê ra dĩa, bưng húp (cho bớt nóng). Bây giờ ở Việt Nam, uống cà phê vỉa hè mà nhìn thiên hạ chạy xe ngoài đường, đông như kiến, khói mù trời, còi bóp inh ỏi… một lát là chóng mặt. Trước 1975, thời còn sinh viên, sáng Chủ Nhật ra Thanh Bạch (Sài Gòn) tôi với vài người bạn kêu bò kho bánh mì, uống ly sữa tươi. Tuổi đó, tụi tôi không biết uống cà phê, hút thuốc, chỉ sau nầy, đi làm mới sinh tật thuốc lá, cà phê cho ra vẻ người lớn, phong trần.


Rủ nhau đi uống cà phê, càng đông càng vui. Bước chân ra cửa là đã vui rồi. Háo hức như thời trẻ, đi gặp người yêu. Trẻ có bạn. Lớn có gia đình, vợ con. Già… lại có bạn. Ông nào không có bạn cà phê tại vì mình bẩn tính, thích chê bai, trách móc người nầy người kia, hoặc tự khoe khoang, mình đã làm việc nầy việc nọ. Tệ nhất là giành nói, không chịu lắng nghe người khác. Vị nào được mời đi uống cà phê vài lần rồi bạn bè làm lơ vì mình thô lỗ, ăn nói cục cằn. Họ đáng được mời đi nhậu để có dịp gây lộn, đánh chửi nhau. Mấy ông già, cứ thui thủi trong nhà suốt ngày, con cái đã lớn, đã như chim rời tổ, chỉ còn lại mụ dzợ già, thấy hoài phát ngán, lại thêm tính lẩm cẩm, lầu bầu suốt ngày, nhăn như khỉ ăn ớt.… Chỉ gặp bạn là vui, càng “nói bậy” càng vui. Mấy bà cũng rứa, nhưng phải thật thân, mới dám nói chuyện bậy bạ mỗi khi tụ tập ăn uống riêng với nhau, đối đáp trên điện thoại hoặc đi chung xe (không có đàn ông) với nhau. Các ông thì thân, sơ gì cũng xổ “tiếu lâm”. Uống cà phê thì không nên nói chính trị, không nói đến chuyên môn, nghề nghiệp. (Xong buổi cà phê, tan hàng, bàn chuyện làm ăn sau. Lúc đó thì nước trà hoặc bia rượu, nước ngọt gì cũng được, đó không phải là “Hội Cà Phê”. Ông chủ ga-ra không nói chuyện sửa xe. Các ông văn, thi sĩ không nói chuyện văn chương. Họa sĩ không nói chuyện tranh. Nhà báo không nói chuyện báo chí.… Họ tối kỵ đem những chuyện đó vào bàn cà phê. Bình luận văn thơ hoặc “mặc áo thụng vái nhau” trên bàn cà phê chỉ làm người khác mất vui.

Bạn cà phê thường nói chuyện tào lao để tâm trí thoải mái, vui vẻ với nhau. “Trà Ðạo” quy định những kiểu cọ quá rắc rối. Bưng chung trà đưa lên mồm cũng bày đặt nầy nọ. Trà Ðạo chỉ cốt đánh lừa, dụ dỗ những ông bà ảo tưởng là mình quý phái. Người Nhật, gì cũng đạo, giết người cũng là đạo. “Kiếm đạo, Nhu đạo, Không thủ đạo”.…TràÐạo là để đọc cho vui thôi chứ chả ai theo, trong khi dân cà phê, chỉ vài ba người, tâm đầu ý hợp, đã thành “Hội Cà Phê”. Uống cà phê với nhau phải vui, không nghiêm trang, long trọng như “Trà Ðạo”. Thông thường, câu chuyện mở màn, (trong khi chờ cà phê đem ra) là tự chế giễu mình, người khác thêm thắt vào cho thêm rôm rả. Mấy ông lớn tuổi thích “khoe” bịnh của mình một cách bình thản. Bịnh nầy, bịnh kia. Coi như chuyện đương nhiên. Chẳng ông nào sợ chết. Với tuổi già, họ bất lực, không hy vọng thoát khỏi tay tử thần nên chả thèm nghĩ đến. Sống lâu thêm chật đất. Càng già càng lú lẫn, càng yếu đuối, lại thêm bịnh tật, chỉ làm khổ người khác.…Ai cũng cầu mong được ngủ một giấc và không thức dậy “Tu mười kiếp mới được như vậy”. Dĩ nhiên có bịnh thì chữa, như ra trận phải cẩn thận trước kẻ thù. Giỡn mặt tử thần đâu có được!

Ra tiệm cà phê với bạn, đôi khi còn thú vị hơn trước kia hẹn hò với người tình. Khi tan hàng (cà phê) tâm trí sảng khoái, yêu đời, yêu người, yêu chung quanh. Gặp ai cũng sẵn nụ cười chào hỏi. Ðáng tiếc là quý bà, ít người biết được cái thú nầy. Tôi nói chung chung về chuyện uống cà phê với mấy ông bạn già chúng tôi chứ mấy cậu sồn sồn ở Mỹ đến tiệm cà phê là để xem football, cá độ và để ngắm các em bưng cà phê. Ở Cali., nhiều tiệm cà phê có các em “áo hai dây, quần một ống” được quảng cáo trên internet, khách đến chật tiệm, đa số là thanh niên chứ mấy ông già, chân tay rũ liệt, đến đấy làm gì. Ðôi khi muốn giải trí, các cậu đến mấy tiệm “vũ xét xi” xem mấy em “không mảnh vải che thân!” nhảy múa. Nhớ cách nay vài chục năm, khi chúng tôi (còn ở tuổi trung niên) mới qua Mỹ, tiểu bang Virginia, có nhà thơ Hoàng Trùng Dương (qua trước) đưa năm bảy người chúng tôi đi xem “vũ xét xi” trên Washington DC. Chúng tôi ngồi một bàn, mỗi người một chai bia, trước mặt là dãy sân khấu có năm cây cột kim loại sáng bóng. Mỗi em một cây cột. Thật tội nghiệp! Chẳng em nào có áo quần. Các em cứ ôm cây cột mà trèo lên tụt xuống, đánh đu, vặn vẹo, uốn éo quanh cây cột trông rất vui và tức cười chứ chẳng thấy kích thích, ham muốn gì. Ông bạn nhà thơ đưa cho mỗi đứa mấy tờ đô la (chúng tôi mới qua Mỹ, chẳng có xu nào) rồi ông ta làm trước, chúng tôi lần lượt làm theo (mấy khán giả khác cũng làm như vậy), nghĩa là cầm tờ đô la trên hai tay, để trước ngực, đến đứng sát mép sân khấu. Em vũ nữ cười tình rất dễ thương, uốn éo đến gần, thò tay lấy tờ bạc rồi hếch chân lên trước mặt người đó một cái. Chỉ tích tắc thôi. Vậy là xong. Phải về chỗ ngồi cho người khác lên “nạp tiền”. Luật “Cấm sờ vào hiện vật” được áp dụng nghiêm ngặt. Ông nào lạng quạng sẽ bị một tên cô hồn, to như con dã nhân, nắm cổ vất ra đường. Không chỉ các ông đi xem mà các cô, các bà cũng đến uống bia ngắm người đẹp nhảy múa. Các cô quá đẹp! Cao cỡ thước bảy, chân dài, ngực đùi sạch sẽ, thanh cao, nhất là gương mặt, đẹp một cách trong sáng, thánh thiện như thiên thần. Nghe nói (trừ những cô chuyên nghiệp) những cô đó là sinh viên làm thêm để kiếm tiền chi dụng. Xem “vũ xét xi”, đúng nghĩa là ngắm thân thể cô vũ nữ, xem cô múa và tìm thấy niềm vui, chứ chẳng ai có một chút ý nghĩ dung tục nào. Các cô mới đúng là thần vệ nữ. Quý bà chỉ khoe áo quần chứ làm gì có thân hình đẹp như vậy cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Tôi thấy, cuối dãy, có sân khấu riêng cho các cô Ả Rập nhảy múa cho các ông Ả Rập xem. Ai nấy râu ria tùm lum!

Trước 1975, ở Sài Gòn, cũng có “vũ xét xi”, nổi tiếng nhất là cô Xuân Trang, con gái nữ kịch sĩ Xuân Dung. Cũng trống kèn ầm ĩ, cũng uốn éo, quằn quại, nhưng trên, dưới đều có “lá chắn chống phi đạn liên lục địa”, phòng thủ tươm tất. Chả ra làm sao! Thà đi biển, ngồi ghế dựa, ngắm mấy em tắm biển còn thoải mái hơn!

Trở lại chuyện cà phê của mấy ông già tụi tôi ở tiểu bang Virginia, miền đông bắc Hoa Kỳ. Buổi sáng, bọn già gọi nhau “Cà phê hè!” cũng có nghĩa là đi điểm tâm, đôi khi về nhà khỏi ăn trưa, vì các tiệm cà phê, tiệm ăn ở Virginia, gần 11 giờ mới mở cửa. Vả lại, mấy ông già thường thức khuya, dậy trễ, hẹn giờ đó cho thong thả. Nếu ở Cali. Có cà phê Factory là nơi hẹn hò thì ở Virginia có tiệm phở Xe Lửa của ông chủ Toàn Bò trong chợ Eden. Hẹn nhau đến đấy thì có ngồi từ sáng đến chiều vẫn cứ thoải mái, ông chủ Toàn Bò vẫn nhe răng cười, dù khách có đông đến bao nhiêu “Xin quý vị chờ cho chút” chứ không nhăn nhó, ý muốn đuổi mấy vị “ngồi đồng” choán chỗ như những tiệm ăn khác. Ông Toàn Bò có sáng kiến, kê hai cái bàn sát nhau để bạn bè ngồi dễ chuyện trò. Thời đó (cách nay hơn chục năm) bọn chúng tôi (chưa già lắm) họp mặt ở đó trên vài chục mạng. Phần đông làm báo, làm văn, làm thơ, làm họa sĩ và… làm thinh (không làm gì cả). Tụ tập ăn uống, cà phê cà pháo, tán láo, cười đùa chán chê, đến trưa mới giải tán. Vài ông móc “tờ sớ” ghi sẵn lời vợ dặn, đi chợ mua những món gì, ở đâu, giá bao nhiêu? Ðem về bỏ tủ lạnh hay để trên bàn? Phải tuân hành tỉ mỉ như thế để khỏi bị vợ rầy! Nhiều ông nán lại thách đấu cờ tướng. Hai ông đấu nhau, các ông khác làm khán giả và làm thầy dùi, chỉ chọt, ý kiến ý cò, la hét cười nói, xỏ xiên om sòm. “Thua ra!” Ai thua thì đứng dậy, nhường chỗ cho người khác. Ông Cò Ly, trình độ cờ tướng cỡ “vịt chặt chân” (đánh thấp như vịt bị chặt chân) mà gặp ai cũng thách đấu. Ði được một nước đắc ý thì huênh hoang, khoe với khán giả là sẽ cho đối phương chết. Nhưng đến các nước cờ sau đó thì ông thừ người, chẳng biết chống đỡ cách nào để rồi bị chiếu bí. “Thua thì sắp ván khác. Sợ gì!” Ông Cò Ly có sạp báo trước tiệm phở, ham đánh cờ đến nỗi quên người mua báo đang đứng chờ ngoài kia. Ông chủ tiệm sửa xe Minh Auto có thể ngồi đánh cờ tướng từ sáng đến chiều. Ăn thua gì cũng cười. “Chơi cho vui!”.

Những chuyện tôi kể vừa rồi là thời vàng son của chúng tôi cách nay hơn chục năm. Càng về sau, càng vắng dần. Ông nào cũng trên bảy mươi, tám mươi, bịnh tật cả lô trong người. Chân yếu tay mềm, chán nản, chẳng muốn đi đâu. “Quân số” hao hụt mà không được bổ sung! Cứ lặng lẽ vơi đi. Năm nầy qua năm nọ. Ðến nỗi, ông chủ Toàn Bò chỉ để một bàn cho bạn bè, nhưng cũng lưa thưa. Mấy ông lão tóc bạc gặp nhau, chào nhau, kể bịnh tật mình mà cười như mếu. Thỉnh thoảng, ông Toàn Bò thông báo “Ông X. mất rồi. Ðêm hôm qua. Quý vị đóng mỗi người mười lăm đô để đăng báo phân ưu. Ghi tên vào tờ giấy nầy. Vị nào muốn đến viếng người quá cố thì đến nhà quàn B. số… đường……Từ giờ H. đến giờ G. ngày…tháng…năm”. Rồi thì cái danh sách người chia buồn cũng vơi đi. Người chia buồn được lần lượt đôn lên thành người quá cố, cho nên chẳng còn ai để ông thông báo, đòi đóng tiền đăng báo phân ưu. Không phải mọi người đều được “Thành kính phân ưu. Vô cùng thương tiếc” Họ còn sống nhưng nằm nhà, chỉ thích quanh quẩn trước sân, sau vườn. Mắt kém. Lái xe chậm chạp.

Có ra hàng cà phê cũng chẳng gặp ai! Ðáng kinh ngạc nhất là ông cụ thân sinh của ông Bùi Dương Liêm, trên chín mươi tuổi mà vẫn tự lái xe, ra ăn hết một tô phở. Ông Toàn Bò, chủ tiệm phở Xe Lửa thiếu bạn. Một mình đi ra đi vào, mặt buồn xo như người thất tình. Khách đến, ông cũng miễn cưỡng, thờ ơ. Buồn quá! Ông Toàn Bò dẹp tiệm, về hưu.

Trước đây, bạn bè, bà con từ Việt Nam qua, từ Úc Châu, Âu Châu, Canada, các tiểu bang khác đến tiểu bang Virginia, đều lấy tiệm phở Xe Lửa trong chợ Eden là nơi gặp gỡ, chuyện trò. Ở đó khách có thể tình cờ gặp lại bạn cũ đã mất liên lạc từ lâu, tay bắt mặt mừng… Nay tiệm phở Xe Lửa không còn nữa, phải mời bạn đến các tiệm ăn khác. Tiệm khác chỉ có ăn thôi. Ăn xong phải đứng dậy. Không nơi đâu có cái không khí thân mật, thoải mái, vui vẻ như trong tiệm phở Xe Lửa của ông Toàn Bò.

“Ơi ông Toàn Bò! Nay ông nơi đâu?”

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »


Nước Pháp qua một chuyến du lịch



Tôi ước mơ đến Nước Pháp từ thưở còn là học sinh trung học, sau đó tốt nghiệp đại học Kiến trúc. Là một kiến trúc sư,
niềm ước ao ấy càng thôi thúc tôi mãnh liệt hơn bao giờ hết. (Võ Phi Long)

Image
Sau khi đáp máy bay của hãng hàng không Việt Nam Airline từ sân bay Tân Sơn Nhất với hơn 12 giờ bay liên tục không nghỉ,
tôi thật sự không ngủ được vì háo hức đến Pháp với tâm trạng ngổn ngang đầy lo lắng và hồi hộp. Cuối cùng việc gì đến rồi cũng đến.
Điểm đến đầu tiên là sân bay quốc tế Charles de Gaulle vào sáng sớm đẹp trời và tôi được người cháu đón tại sân bay
đưa về nhà vùng ngoại ô Paris khoảng hơn một giờ đường bằng xe ôtô ngày 12/7/2012.

Image

Ngay ngày hôm sau, tôi được người bạn học cũ thời trung học đến đón tôi và đưa đi Paris chơi, một ngày mưa rơi lất phất hơi se lạnh.
Điểm đến đầu tiên là tháp Eiffel. Tôi thật sự ngạc nhiên và ngẩn ngơ trước công trình kiến trúc kỳ vĩ này tôi không sao hiểu được cách đây
hơn 100 năm người ta có thể làm nên một kiệt tác đến như vậy mặc dù tôi đã từng xem qua hình ảnh và trên những thước phim.

Image
Trước khi ăn tối chúng tôi đến nhà thờ Notre Dame de Paris, đây cũng là nguồn cảm hứng để đại văn hào Pháp Victor Hugo
sáng tác nên tác phẩm “Thằng gù ở nhà thờ đức bà Paris” vô cùng nổi tiếng.
Trời cũng vẫn lất phất cơn mưa nhẹ, tôi cảm thấy bắt đầu se lạnh bởi tôi mới từ Việt Nam sang vẫn chưa quen khí hậu thời tiết nơi đây.

Image
Ngày 14/7/2012 tôi gặp một người bạn già người Việt quốc tịch Pháp cùng tôi đi lang thang trên những con phố nhò đầy vui tươi và sinh động.
Tại đây chúng tôi uống ly cafe trên vỉa hè trong những con ngõ nhỏ nhưng đông người qua lại.

Image
Ngày 14/7/2012 là ngày Quốc khánh của nước Pháp, tôi cùng những người bạn dự tiệc trên chiếc tàu chạy dọc sông Seine về đêm,
ngắm nhìn quang cảnh hai bên sông thật thú vị và vô cùng lãng mạn.
Cuối cùng chúng tôi ngắm pháo hoa đầy màu sắc để đón mừng kỷ niệm ngày lễ Quốc khánh suốt hơn một giờ,
sau đó bạn tôi đưa tôi về nhà khoảng hơn 2 giờ sáng và tôi vừa đủ kịp thu dọn hành l‎ý ‎‎đi ngay về miền nam nước Pháp cùng với gia đình cháu gái tôi.

Image
Chúng tôi đi suốt quảng đường rất dài, trên đường từng đoàn xe nối đuôi nhau trong đợt nghỉ hè xuôi về miền Nam.
Đến chiều tối chúng tôi cũng đến miền nam nước Pháp cho cuộc nghỉ hè trong hai tuần. Tại đây chúng tôi thuê nhà nghỉ di động.
Trông nó như một chiếc xe ôtô, trong đó có đầy đủ tiện nghi sử dụng cho một gia đình mà chúng tôi đã book trước đó vài tháng.


Image
Ngày 16/7/2012 chúng tôi đã đến Cannes, một địa danh thơ mộng nổi tiếng trên thế giới. Cannes là thành phố thuộc vùng Cote d’Azur,
nằm dọc bờ biển phía Nam nước Pháp. Thành phố biển này luôn được nhắc đến hằng nămì là nơi diễn ra Liên hoan Phim Quốc tế Cannes.
Thành phố này còn có những bãi biển đẹp, những công trình kiến trúc hoành tráng cùng nhiều lễ hội đặc sắc.

Image
Miền nam nước Pháp nổi tiếng với những bãi biển tuyệt đẹp làm xao xuyến du khách lữ hành cùng với những bãi tắm đầy thú vị ấn tượng.

Image
Sau hai tuần, chúng tôi trở về Paris và tiếp đó chúng tôi viếng thăm ngắm nhìn toàn cảnh Paris -
là nhà thờ Sacré Cœur, nằm trên đỉnh đồi thơ mộng Montmartre.

Image
Ngày 7/8/2012 tôi cũng có dịp đến Reims và viếng thăm nhà thờ Đức bà Reims với kiến trúc cổ điển nhiều tượng điêu khắc và họa tiết tinh tế.


Image
Cuối cùng tôi đến Viện bảo tàng Louvre nổi tiếng ở Paris vào ngày 10/8/2012, một điểm đến của du khách thập phương
. Nó là một dãy nhà 5 tầng, chạy dài hàng km dọc theo sông Seine. Có thể gọi là khu bảo tàng Louvre, bởi nó rộng đến 15.000 km2;
gần phía tiểu Khải hoàn môn, còn được xây dựng một bãi đỗ xe ngầm khổng lồ,
với hơn 1.000 xe con và hơn 50 xe buýt cỡ lớn để đón du khách. Vào sân, trước mặt tòa nhà là một thảm cỏ xanh rờn như mạ,
bao quanh là rừng cây nhờ vậy, nó lại tạo ra một sự hài hòa tuyệt mỹ giữa lâu đài nguy nga và thiên nhiên tươi đẹp.
Hiện vật mà viện bảo tàng này lưu trữ không chỉ của nước Pháp, mà còn của các thế giới. Nó không chỉ có những hiện vật trưng bày
cho khách du lịch chiêm ngưỡng, mà còn cất giấu dưới hầm ngầm, khóa kín trong kho.
Chỉ riêng phòng trưng bày tranh thôi, đã dài tới 300 m, với hơn 400.000 tác phẩm.
Loại hình nghệ thuật cũng được chia ra nhiều nhóm khác nhau. Nhóm phương Đông, nhóm La Mã, nhóm Ai Cập…
Những tác phẩm hội họa vô cùng quý báu,
chỉ nơi đây mới có được, đã thu hút hàng chục triệu du khách trong và ngoài nước mỗi năm.
Khi đã đến đây, dù chỉ lướt qua thôi cũng không bao giờ quên. Ví như bức tượng điêu khắc Mỹ nhân cụt tay Vesnus hay bức họa lừng danh
Mona Lisa, với nụ cười huyền bí… Louvre xứng đáng là một trong những viện bảo tàng lớn nhất, quý giá nhất của nước Pháp, của nhân loại.

Võ Phi Long

nhuvan
Posts: 342
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image

Trời Đất Bao La

Định cư ở Nauy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi. Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một chặng đường trên dưới mười ngàn cây số khứ hồi, và dĩ nhiên cũng không đủ chỗ cho một gia đình lớn nhỏ tám người. Lại nghe mấy người bạn tới trước hù, bảo là trên xa lộ Âu châu vào mùa hè, chạy một cái xe cũ có thể bị giữ lại giữa đường và nộp tiền phạt vì cái tội làm trở ngại giao thông. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều gì làm mất cái hứng thú cho cuộc hành trình đầu tiên của chúng tôi trên những đất nước mà trước đây tôi đã từng một thời mơ ước nhưng chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe, thay nhau làm tài xế. Bà xã và cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dõi lộ trình.


Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày, băng qua hai đất nước hiền hòa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước Đức còn chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đã căng thẳng. Cảnh sát với súng ống dầy người, trông mặt người nào cũng đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới hình ảnh của Hitler trong bộ phim dài chiếu mỗi tuần trên truyền hình Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban phát giải Nobel Hòa bình, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Frankfurt, tôi rẽ sang Hòa Lan. Một đất nước mà tôi nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước biển trung bình, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ mình đang lái tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa Tulip, với vườn hoa lớn và đẹp nhất thế giới, những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ mộng.

Ở thủ đô Amsterdam, có một nơi dành cho những người nghiện đến nhận thuốc phiện miễn phí của chính phủ; nguyên cả một khu phố lớn dọc theo bờ sông thơ mộng lại là một khu dành cho mấy cô gái điếm đủ sắc dân. Đây là một cơ sở kinh doanh, có đóng thuế cho nhà nước, nên dược cảnh sát bảo vệ. Trước mỗi nhà là một cái tủ kiếng, bày hàng thật cho khách bốn phương chiêm ngưỡng. Hàng thật là một hay hai cô gái thoát y 90%, dĩ nhiên phải là đẹp, đứng như những pho tượng nữ thần Hy lạp. Chúng tôi ghé thăm gia đình mấy ngưòi bạn cùng quê, sống rải rác khắp nơi. May mà đất nước Hòa Lan này không rộng lắm, lái xe từ bắc xuống nam chỉ mất khoảng bốn tiếng đồng hồ. Dừng lại nhà một người bạn ở Bergen op Zoom, thành phố biển phía nam chúng tôi tha hồ ăn sò huyết và những con "hàu". Mấy loại này ở đây chỉ cần lội xuống biển mười phút là mang lên cả thùng nướng ngay tại chỗ. Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng chúng tôi đến Pháp.

Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ còn lại, cho cái xứ sở mà lúc còn nhỏ, khi học lịch sử thì tôi thù ghét, nhưng khi học văn chương thì tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên dòng sông Seine tình tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi hẹn hò của bao cặp tình nhân. Tôi bắt gặp đâu đó những đứa trẻ trong Sans Famille của Hector Malo, những người đàn bà trong Les Misérables , và cả những bến tàu có cảnh tiễn đưa trong Oceano Nox của Victor Hugo. Chúng tôi ở trong khách sạn của một người Hà Nội, sang Pháp lập nghiệp từ hơn 50 năm trước. Khách sạn nằm trên con phố chính trong quận 13, nơi có đông ngưòi Việt Nam sinh sống.

Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành phố Nice nằm bên bờ Đại Tây Dương, gần thành phố Cannes nơi qui tụ những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với những sòng bài và những chuyện tình nóng bỏng của mấy nàng công chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất hạnh trong quá khứ và những gì đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều phiền muộn này.

Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè đang nóng, bà xã và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nhìn trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, mình có thể dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ,, xem thử nơi đã cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương mình ra sao. Như được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để ban bố " lệnh hành quân". Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng dẫn cho cậu con trai làm tài xế. Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba giờ từ "tuyến xuất phát", tôi mới biết là mình đã sai lầm khi xử dụng con đuờng tắt này. Vì chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng rừng và những đồng lúa mì mênh mông, không thấy một bóng người.

Đang mơ màng thì nhìn thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn còn bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt , vì bao nhiêu năm nay, từ lúc còn ở Việt nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô- lăng và đổ xăng ra tôi có biết gì về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp xe thấy không còn nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn pin vào máy nhìn thử. Đến đường cùng thì làm như phản xạ tự nhiên vậy thôi, chứ tôi có biết cái gì trong máy đâu mà xem. Nhìn quanh một chập, tôi cảm giác có điều gì lạ lạ. Cuối cùng tôi mớí phát hiện là sợi dây cu-roa không còn nữa. Nước trong bình đã bốc hơi không còn một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái đang nằm trên bờ cỏ ruộng lúa mì, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh " đóng quân tại vị trí " vì xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.

Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, vì biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi vòng vòng xem có nhà cửa gì không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa, thì nghe có tiếng động. Dường như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình, chiếc máy cày đã dừng lại trước mặt tôi.

Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp, bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói từng chữ vì sợ chúng tôi không hiểu:

- Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều gì không?

Lúc còn đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra dấu:

- Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.

- Các anh ở tỉnh nào tới ?

- Chúng tôi từ Nauy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice về, thì xe bị hỏng.

Anh bảo bây giờ đã khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính..Tôi mừng rỡ gật đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe.

Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy lòng vòng chỉ khoảng 10 phút thì về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy gì ngoài mấy cái nhà khá lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chập sau anh lại mang vào bánh mì, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi người ngủ ngon.

Lạ nhà, nhưng có lẽ vì mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy thì trời đã sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8 giờ 10 phút. Mở cửa sổ nhìn ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, thì có tiếng gõ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại đón chúng tôi ăn sáng.

Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy đứa con gái của tôi.

- Các anh là người Việt Nam ? Anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.

- Nhưng làm sao anh biết được vì ở bắc Âu cũng có nhiều người Tàu, người Đại Hàn , người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả lời mà hỏi ngược lại anh.

- Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc còn sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi hò hẹn thật dễ thương cho những cặp tình nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.

Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm phòng đọc sách. Một tấm bản đồ Việt nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà nhớ về quê mẹ.

Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đình anh bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng tôi đi thăm khu nuôi bò sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố tìm mua sợi giây cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa bò. Sau đó chúng tôi vào thăm một vườn nho.

Khi trở về, thì anh ta đã sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử. Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đã tốt. Anh tắt máy xe và giao chìa khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn thì anh đã vỗ vai mời chúng tôi ở lại chơi với gia đình anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong cảnh ở đây hữu tình, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xã và mấy cô con gái cười nheo mắt nhìn tôi. Tôi hiểu ý và nói với anh là chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên đường.

Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam chúng tôi có cảm tưởng như lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu vàng những quả, mùi hoa cam tỏa ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên, ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đình. Vợ chồng anh mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên bia..

Khi đọc đến tên người mẹ:
JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER - tôi bỗng giựt mình.

Cái tên này tôi thấy quen lắm. Bà mất lúc tròn 50 tuổi. Nhìn tấm ảnh thật lâu, tôi nghĩ đến một người.

Khi về nhà, tôi ngỏ ý muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh còn trẻ. Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xã và mấy cô con gái thì tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đã ngã màu vàng. Bỗng tôi lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? - Không thể nào ! Tôi lắc đầu nói thầm trong miệng.

Năm học lớp đệ nhất trường Võ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ lòng thương yêu, lo lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con. Vậy mà tôi bị một lúc hai cái tai ương. Tự dưng có một nàng con gái, mà lại là con gái đẹp, yêu tôi. Đang ngụp lặn trong tình yêu thì ông Trời phạt tôi: phận nhà nghèo mà lại đèo bồng yêu người đẹp, nên giáng cho tôi một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Vì vậy khi bạn bè vác lều chỏng đi thi, thì tôi đang nằm bất động ở nhà thương tư của bác sĩ Thạch ở đường Trần Quí Cáp. Ba tháng sau, khi vừa xuất viện về tiếp tục điều trị tại nhà, tôi nhận được bức thư tạ từ. Người đẹp đi lấy chồng. Tôi bỏ thành phố Nha Trang, bây giờ với tôi là thành phố buồn, vào Sài gòn lang thang kiếm việc làm thuê để có tiền đi học tiếp. Nhưng rồi cũng chẳng có ai chịu thuê một thằng thư sinh nhà quê như tôi. Vừa buồn vừa không có tiền trả tiền cơm cho bà Cả Đọi, tôi đăng vào lính.

Khi chân ướt chân ráo vào Sài gòn, tôi chẳng có ai quen, ngoài một bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con mang hai dòng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường Lý Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đình có con lai Pháp, trắng có đen có, được tòa đại sứ Pháp cưu mang lo lắng từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp và được theo học ở các trường Tây Sài gòn, Đà lạt. Những ngày cuối tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác thì được mấy người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách Tây lắm. Chiều cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết vì khuôn mặt và mái tóc của cô giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ đó không phải là tên thật của cô.

Chỉ đi chơi với nhóm một vài lần gì đó, thì tôi vào quân trường Thủ Đức. Hôm lễ gắn Alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá, tôi cũng tủi thân. Gia đình tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha Trang, còn ở Sài Gòn này thì tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn Alpha, rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và còn dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi một tấm ảnh có mang cầu đai Alpha.

Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài gòn, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi. và lần này tổ chức tại nhà cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đình cô không ở trong khu Lý Thái Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên Tân Định.

Tôi không gặp ai trong gia đình của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi còn rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp gia đình cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc, nên ông chồng mới sau này thuộc loại nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.

Tới hơn hai giờ sáng, tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu vì xa họ không biết khi nào gặp lại hay vì nghĩ đến đời lính chiến nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh lòng, muốn khóc. Nàng cũng nhìn tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi tìm áo khoác và mang giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ hôn tôi trên má.

Ngồi trên máy bay ra trình diện đơn vị, tôi bất chợt nhớ đến nàng, mở xách tay ra tìm lại tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nhìn kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một câu ngắn ngủi: À toi, avec tout mon coeur. Phía dưới cô chỉ ghi là người có mái tóc Sylvie Vartan.

Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn còn thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một mình: Đúng là lãng mạn như Tây.

Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trưòng cao nguyên bắt đầu sôi động, cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến trường Quảng Nhiêu còn mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột thì được lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng 30 cây số, do một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Lòng tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng thì mục tiêu cuộc hành quân Dân Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy lãnh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đã ra lệnh cho những lực lượng người Thượng buôn súng.

Nằm trong cái tỉnh khỉ ho cò gáy mà dân chúng sống rải rác trong các buôn làng hầu hết là người thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong những dinh điền do Thổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh sáng lập để thu hút di dân sau 1954.

Ra trường đã hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vã và buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi thường chạnh lòng nhớ tới thời còn đi học , và khuôn mặt những người quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà biết để làm gì? Vì giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt. Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra sao. Còn nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái. Nàng quen với tôi , thích tôi một chút, cũng là cái thích lãng mạn của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm một vùng dân giả, thế thôi.

Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến trường nhất. Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư sinh. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại đội solo xuống núi biệt phái cho tiểu khu Lâm Đồng

Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho công binh làm lại mấy cây cầu trên QL 14, từ Saigòn chạy lên Đàlạt, vừa bị đặc công giựt sập trong hai đêm trước.

Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đã có mặt tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng, nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc phòng thủ và yễm trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cây cầu Đại Ngà, cây cầu dài nhất vừa bị phá hoại.

Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đò từ Sài Gòn chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người Sài Gòn rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối hợp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm soát này.

Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, thì một đoàn xe đò chạy tới. Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sài Gòn lên. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dã chiến, tôi để ý tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nhìn anh cảnh sát, tôi thấy thật quen và vội chạy ra. À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm gì ? Tôi hỏi bất ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát ; cô này là người nhà của tôi. Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng Tây mà anh chưa kịp hiểu.

Cô nhìn tôi cười rạng rỡ :

- Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi mình không gặp. Em lên Đà Lạt đón cô em về Sài Gòn nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine de Marie.

- Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia. -

Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền -

- Đẹp lắm, và ông chủ hình như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại chổ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.

Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lý và nói với anh tài xế:

- Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà Lạt sau.

Anh tài xế trẻ, nhìn tôi nhoẻn miệng cười.

Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng còn có chuyến sau nào để tôi gởi nàng lên Đà Lạt , như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là mình đang nói dối.

Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết nàng đã nói gì vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một phòng ngủ và mời chúng tôi dùng bửa cơm chiều với ông. Bửa cơm đầy đủ hương vị tây , mà chai rượu chát ông khoe đã gởi mua từ bên Pháp. Sau bửa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà.

Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa ánh vàng xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh trăng , nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng : muốn có lần trở về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già còn đang sống ở đó với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều thi ca lãng mạn. Chúng tôi đã xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và dìu tôi đến ngồi xuống một bải cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh mông

- Anh có thấy gì lạ không ?

Tôi đang ngơ ngác, thì nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ suối

- Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không thấy sao?

Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles mortes của Jacques Prevert không ?

- Lúc học Littérature Francais , anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ còn nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động. Tôi đã đổi cách xưng hô tự lúc nào không biết.

Nàng cất tiếng khe khẻ hát bài thơ Les feuilles mortes được phổ nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm rãi đọc lại mấy câu:

Et la vie sépare ceux qui s'aimant
Tout doucement, sans faire de bruit
Et "le vent" effface sur la "plaine"
Les pas des amants désunis.


Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái gì lành lạnh trên gò má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt.

Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng có cảm tình thật nhiều với tôi từ khi nhìn tôi mặc áo lính. Nàng thấy ở tôi có cái gì khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại hình ảnh của cha nàng. Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ người bỏ lại mẹ và hai chị em nàng. Những người con gái mang hai dòng máu. Buồn lắm phải không anh ? mấy lần nàng hỏi tôi như thế.

Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn phòng sang trọng mà ông chủ đồn điền đã dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây.

Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân TK Lâm Đồng xin gặp ông Tiểu Khu Trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng chiếc xe jeep của TK biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông Tiểu Khu trưởng tốt bụng, vui vẻ chấp thuận, và dặn dò tôi phải bàn giao công việc thật kỹ càng cho anh đại đội phó.

Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi. Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần thiết, chúng tôi lấy phòng ở khách sạn La Palace nằm trên một ngọn đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Hòa Bình không xa lắm. Ban ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cỡi ngựa ở sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm tình đến khuya.

Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thưởng thức cà phê Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi tìm đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy phòng và gởi hành lý xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới dòng thác. Hai đứa ôm nhau trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng hò la và ôm tôi cười vang cả một khu rừng.

Trong ba ngày, nàng đã cho tôi tất cả những gì hạnh phúc nhất mà không đòi hỏi ở tôi bất cứ một điều gì. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng trở lại trường Domaine de Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe, nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói một lời gì đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ, rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng bằng tiếng Việt: Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của em sẽ về Sàigòn vào sáng sớm ngày mai. Anh hãy trở lại đơn vị, đừng chờ và cũng đừng tìm em nữa. Hôn anh.

Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên gì, thì nàng đã mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nhìn thẩn thờ vào khu trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những hàng cây đứng chơ vơ im lìm trước cổng.

Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, tìm lại bóng dáng và mùi hương của nàng. Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà Lạt nhạt nhòa trong nước mắt. Tôi không biết mình đã khóc tự bao giờ.

Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như trong lòng chỉ còn là một khoảng trống bao la.

Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một mình bên bờ con suối nhỏ, nhìn mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo dòng nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun đầy một ấm trà tươi mà không uống.

Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đã lên cao. Tôi vội vã xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm ấy, tôi vẫn không tìm thấy bóng dáng của nàng.

Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, thò tay vào túi áo lấy mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng tiếng Pháp do tòa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đã giao tấm thẻ này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đã quên trả lại cho nàng. Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng: Jacqueline Cuvéro.

May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles mortes mà nàng yêu thích.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silensieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie

Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sàigon. Trước khi tìm đến nhà nàng, tôi trở lại khu đường Lý Thái Tổ thăm gia đình bà cô và rủ người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đã về định cư bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt Nam.

Tôi lang thang ở Sài Gòn hai ngày thì lấy xe đò về Nha Trang để thăm cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nhìn sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân mình trên cát, và nhớ đến nàng.

Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đôi tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu Bình Thuận, hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến Việt Nam, giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong.

Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới tên tôi, có thêu một chữ nhỏ: Jacqueline, màu vàng. Mấy thằng lính bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giã vờ: tại vì tao ái mộ bà vợ của Tổng Thống Kennedy.


Sáng ngày mai gia đình chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đãi chúng tôi một bũa ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại, như để cố tìm ra những dấu tích của nàng.

Buổi chiều, khi bà xã và mấy đứa con đang ngồi ở phòng khách, say mê theo dõi một cuốn phim trên truyền hình, tôi một mình lặng lẽ ra vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.

Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, hình dung lại hình ảnh của nàng trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.

Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi xuống mộ nàng.

Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói thì thầm trong gió :

Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l'entendrai. !

(Và bài hát mà em đã hát cho anh nghe
Mãi mãi, mãi mãi, anh vẫn còn đang nghe đây)

Vương Quốc Nauy, mùa hè 2004
Phạm Tín An Ninh

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời, hưởng thọ 81 tuổi

Image
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu. (Hình: RFA)

SÀI GÒN (NV) – Nhà văn Dương Nghiễm Mậu, một trong các tác giả nổi tiếng nhất miền Nam Việt Nam, vừa qua đời lúc 8 giờ 35 phút tối Thứ Ba, 2 Tháng Tám, tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi, nhà báo Phí Ích Bành, em ruột của nhà văn xác nhận với nhật báo Người Việt.

Theo Wikipedia, nhà văn Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 Tháng Mười Một, 1936 tại làng Mậu Hòa, huyện Ðan Phượng, phủ Hoài Ðức, tỉnh Hà Ðông (nay thuộc Hà Nội).

Ngoài tên Dương Nghiễm Mậu, ông còn một bút hiệu khác là Hương Việt Hương.

Năm 12 tuổi, ông ra sống và học ở Hà Nội đến bậc trung học. Sau đó, ông bắt đầu viết đoản văn, tùy bút cho phụ trương văn nghệ học sinh của các báo chuyên nghiệp.

Năm 1954, ông di cư vào Nam.

Từ năm 1957, ông bắt đầu viết nhiều đoản văn, truyện ngắn, truyện dài.

Năm 1962, ông chủ trương tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ, Tia Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Ðiểm, Chính Văn, Sóng Thần, Giữ Thơm Quê Mẹ… Ngoài ra, ông còn chủ trương nhà xuất bản Văn Xã.

Năm 1966, ông nhập ngũ, một năm sau, ông làm phóng viên quân đội Việt Nam Cộng Hòa đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, thì bị đi tù cải tạo.

Từ năm 1977, ông chuyển sang vẽ tranh sơn mài.

Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu có một số truyện ngắn như Cũng Ðành (tác phẩm đầu tay, năm 1963), Ðêm, Ðôi Mắt Trên Trời, Sợi Tóc Tìm Thấy, Nhan Sắc, Kinh Cầu Nguyện, Ðịa Ngục Có Thật, Ngã Ðạn, Quê Người, Trong Hoang Vu, Tên Bất Lực… và các truyện dài như Gia Tài Người Mẹ, Ðêm Tóc Rối, Tuổi Nước Ðộc, Phấn Ðấu, Gào Thét, Ngày Lạ Mặt, Con Sâu, Sống Ðã Chết… (Ð.D.)

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »


NGƯỜI KHÔNG NHẬN TỘI: KHA TƯ GIÁO

Tôi biết anh khi cùng đến trình diện “ học tập ” tại trường Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Viện Đại Học Đà Lạt. Sau khi ra trường anh bị động viên khóa 9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng. Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực. Anh có người chú ruột là kỹ sư làm Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ của chế độ Cộng Sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết nhiều về anh là do khi bị đưa vào trại tập trung ở Thành Ông Năm , Hốc Môn, cũng như khi ra Phú Quốc tôi lúc nào cũng được “ biên chế ” cùng tổ , đội với anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì người ta căn cứ theo thứ tự A, B, C của tên mỗi người khi lập danh sách. Tên anh rất lạ và dễ nhớ :” KHA TƯ GIÁO".

Khi mới vào trại tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các “ cải tạo viên “ còn phải học mười (10) bài chánh trị. Sau mỗi bài học là những buổi thảo luận trong tổ, đội. Mỗi ngưởi phải viết “ bài thu họach ” những gì mình “ tiếp thu ” được sau những bài giảng của cán bộ tuyên truyền, được gọi là giáo viên. Sau bài học đầu tiên đề tài thảo luận đưa ra là mọi người phải “ liên hệ bản thân ”, xác định mình là người có tội với nhân dân, với “ cách mạng ”. Người cầm súng thì giết bao nhiêu cách mạng trong từng trận đánh. Bác sĩ thì chữa trị cho binh sĩ lành bệnh để đánh phá cách mạng như thế nào. Người làm ngân hàng ( như tôi và anh Kha Tư Giáo ) thì có tội phục vụ cho nền tài chánh, dùng tiền nuôi dưỡng chiến tranh. Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra làm sao, vân vân…Trại của chúng tôi đa số là sĩ quan biệt phái. Họ nói biệt phái là phái làm công tác đặc biệt. Thí dụ giáo viên biệt phái là những người lãnh lương hai đầu, một bên là quân đội, một bên là giáo dục, được phái về dạy học để đánh rớt học sinh, buộc học sinh phải đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ quan được đưa về làm công tác ngân hàng, kiếm thêm thu nhập cho người lính để có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ quan biệt phái là những người có tội rất nặng với cách mạng và nhân dân hơn những người khác. Anh KTG thì cho rằng anh và các bạn anh không ai là người có tội. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Riêng bản thân anh, sanh ra và lớn lên ở miền Nam, học hành và làm công tác chuyên môn ngân hàng để sống và phục vụ cho đất nước thì sao gọi là có tội. Lập trường anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm điểm liên tục còn những người khác thì cũng bị bắt phải “ giúp đỡ ” anh nhìn thấy được tội lỗi của mình để được cách mạng và nhân dân khoan hồng. Càng kiểm điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài viết lúc đầu thì dài, về sau chỉ còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy :

” TÔI KHÔNG CÓ TỘI”

Việt Cộng hỏi, anh trả lời những gì cần phải nói anh nói hết rồi. Bạn bè trong đội thấy anh giữ lập trường như thế thì rất nguy hiểm cho anh mà bạn bè cũng khổ. Vì sau giờ lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ ngơi, lại phải ngồi kiểm điểm với anh đến mỏi mệt, chán chường. Nhiều người trách anh sao không biết “ nín thở qua sông ”, họ khuyên anh cứ viết đại vào giấy là mình có tội một cách chung chung, miễn là thực tế không làm gì hại nước, hại dân là được. Anh bảo như vậy là mắc lừa Cộng Sản và lương tâm không cho phép.


Khi tất cả cán bộ ở trại đều bất lực thì cán bộ cao cấp từ Sài Gòn được cử xuống. Những người này tỏ ta có tay nghề hơn. Nghe đâu là sư trưởng VĐG từng là thành viên của phái đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội nghị Paris năm 1973, cùng với một đại tá chánh ủy sư đoàn ( ?). Họ không trấn áp anh mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai. Anh Giáo đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng những câu hỏi đặt ra mà họ không trả lời được. Ngược lại, anh còn phản công, vạch trần tội ác của họ. Từ vai một người tù, một tội nhân anh trờ thành một công tố viên trước tòa, luận tội Việt Cộng. Bằng một giọng đầm ấm và trầm tĩnh, anh Giáo nói :

- Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của các anh. Lý tưởng của các anh là dùng bạo lực để lật đổ chánh phủ hợp hiến, hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản. Lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ Tự Do, Dân Chủ. Các anh từ miền Bắc vào xâm lăng miền Nam, buộc lòng dân quân miền Nam phải cầm súng tự vệ. Chúng tôi có câu “ giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một công dân cầm súng chống lại kẻ thù để bảo vệ bà con mình, gia đình mình, tổ quốc mình thì có tội ?

Hai cán bộ Việt Cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu. Một lúc sau, viên đại tá chính ủy lên tiếng :

- Các anh chỉ là tay sai đế quốc Mỹ. Ở đâu có Mỹ, có bom đạn Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…

Anh Giáo ngắt lời :

- Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi, chớ gì ? Các anh chỉ biết lặp lại mà không biết gì về quốc tế công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp định Genève năm 1954 mà các anh đã ký ngày 20/7/1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ vĩ tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên Hiệp Quốc và quốc tế công nhận.

Tên sư trưởng phản ứng :

- Các anh là công cụ Đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là để thống nhất đất nước, mang lại Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho đồng bào.

Anh KTG : - Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực dân Pháp chia cắt đất nước bằng hiệp định Genève năm 1954. Chúng tôi không hề ký vào hiệp định đó. Đồng minh chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi và tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt Nam.

Tên sư trưởng :

- Người Cộng Sản làm cách mạng là để giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế quốc Mỹ để mang lại công bằng xã hội, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.

- Tôi thiết nghĩ những người cần được giải phóng là nhân dân miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ, đang sống đời lầm than cơ cực. Chúng tôi không cần các anh giải phóng.

Bất ngờ, tên đại tá chánh ủy đập tay xuống bàn cái rầm. Ly nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe :

- Quân phản động !

Anh KTG vẫn giữ điềm tĩnh và im lặng. Thời gian trôi qua nặng nề. Tên sư trưởng dịu giọng :

- Các anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc bởi vật chất xa hoa và văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa tư bản thối tha nên không nhìn thấy tội lỗi của mình.



Bằng một giọng ôn tồn mà cương quyết, anh Giáo trả lời :

- Chúng tôi là người Việt quốc gia, không theo chủ nghĩa nào cả. Chủ nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo điều do con người đặt ra để phục vụ cho những mục tiêu chánh trị nhất định trong một giai đọan lịch sử nhất định. Đến lúc nào đó nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự tiến hóa không ngừng của xã hội. Còn chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là chủ nghĩa ngoại lai, duy vật và sai lầm khi chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, đi ngược lại bản chất con người, ngược lại truyền thống duy tâm , trọng đạo và nền văn hóa cổ truyền của người Việt. Nó quá tàn nhẫn và sai lầm khi chủ trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn tại lâu dài.

Thấy hai tên Việt Cộng vẫn im lặng, anh Giáo nói tiếp :

- Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968 các anh đã đồng ý hưu chiến để đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Vậy mà các anh lại tấn công vào các đô thị miền Nam, gieo rắc kinh hoàng, chết chóc cho người dân vô tội. Khi các anh rút lui khỏi Huế lại nhẫn tâm sát hại, chôn sống hàng ngàn dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm 1973 để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh cũng giương cao ngọn cờ chống Mỹ cứu nước như chánh nghĩa đấu tranh của mình, nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các anh dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam. Vậy mà các anh nói được là hòa bình, hòa giải dân tộc !

Nói tới đây anh Giáo ngừng lại trong giây phút, rồi bất ngờ anh chỉ tay về phía hai cán bộ Việt Cộng :

- Vậy thì giữa chúng tôi và các anh, ai mới là người có tội ?

Bấy giờ thì hai tên Việt Cộng giận run, nét mặt đanh lại, xám ngắt. Chúng không trả lời câu hỏi của anh Giáo mà đuổi anh ra khỏi phòng.

Bằng đủ mọi cách đấu tranh buộc anh Giáo nhận tội không kết quả, bọn Việt Cộng để cho phong trào lắng xuống. Ai cũng hồi hộp, lo lắng, không biết điều gì sẽ xảy đến cho anh KTG. Việt Cộng có thể mang anh ra bắn công khai về tội phản động như họ đã từng làm ở trại này mà anh Giáo cũng như mọi người trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo cho biết các em của anh đi học tập cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết, trong đó có người em ở trại kế bên, chỉ cách nhau một hàng rào dây thép gai. Ngày hai anh em chia tay nhau bên hàng rào, anh Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia đình và đừng lo gì cho anh, chắc là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui vẻ sống cùng anh em với tinh thần bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi hài nữa. Anh thường hay hát những bài như Hà Nội, Niềm tin và Hy vọng, Anh lính quân bưu vui tính…Tôi hỏi sao không hát những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố giữ nội quy của họ để họ không nói được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự trọng. Mười bài học chánh trị rồi cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn vì lúc này không còn phải ngồi hàng giờ để thảo luận và “ giúp đỡ ” anh Giáo nữa. Nghĩ lại,Việt Cộng dùng từ cũng ngộ, như từ “giúp đỡ ” được dùng trong trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng có ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược lại rất nể trọng anh và được anh giúp đỡ rất nhiều .

Vào những buổi chiều sau khi cơm nước xong, anh và tôi thường hay đi bách bộ dưới tàng những cây sứ có hoa màu trắng, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi thường trao đổi với nhau về chuyện ngân hàng và những vấn đề mà cả hai cùng quan tâm.Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ, tôi hỏi :

- Chi vậy ? - Mai mốt về tặng người yêu- Anh trả lời. - Chắc là cô bạn rất thích hoa này ? - Vì nó trắng tinh khiết và thơm dịu dàng. - Sợ tới chừng đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại. - Không sao. Dù hoa có phai màu nhưng chắc sẽ giữ được tình cảm của mình trong đó ! - Anh lãng mạn quá – Tôi nhận xét.

Anh Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một đồng tiền dưới khóe miệng bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ hết !

Có lần trong lúc trò chuyện anh nói hiện nay anh ghét nhất là cái khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội ”. Bản thân chủ nghĩa xã hội không ra gì thì làm sao mà yêu cho được. Theo anh Giáo, yêu nước là yêu nước. Không thể và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất cứ một chủ nghĩa nào, dù là Chủ Nghĩa Xã Hội, Cộng Sản hay Tư Bản. Nếu những chủ nghĩa này sụp đổ thì không yêu nước nữa hay sao ?


2. Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được chở bằng Motolova đến Tân Cảng xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc. Chuyến đi thật kinh hoàng như địa ngục trần gian mà con người có thể tưởng tượng được. Hàng ngàn người bị dồn trên con tàu đóng kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ có một chỗ, cho vào thùng phuy. Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị xỉu, những người còn lại đều kiệt sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng phuy này để nấu cháo ăn ngay trong đêm. Cho tới hôm nay là ba muơi bốn năm, hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi ghi vào nhật ký :

Đau đớn thay những linh hồn cháy lửa

Suốt đêm ngày tắm rửa với mồ hôi

Với cao tay quờ quạng chút hơi người

Miệng gào thét những âm thanh khiếp đảm

Ở Phú Quốc ngoài việc trồng rau để “ cải thiện ” bửa ăn, việc lên rừng đốn củi là công tác thường xuyên và cực nhọc nhất. Nhiều anh em nghe lời Việt Cộng, đi tìm vác những cây to để chứng tỏ mình là người “ tiến bộ ”. Anh Giáo thì không. Lúc nào anh cũng ung dung, tự tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa sức mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng lại nghỉ, mặc cho bọn vệ binh ôm súng canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng lên đi tiếp. Anh khuyên anh em phải biết giữ gìn sức khỏe vì thời gian “ học tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi lại những dòng này, cảnh tượng của năm nào lại hiện ra trước mặt: Trong một buổi chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là biển, một bên là rừng. Đoàn tù cả trăm người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần lôi thôi lếch thếch, vai vác những thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã, chậm chạp lê bước trên những con dốc ngoằng ngoèo, trơn trợt. Nhiều người té lên té xuống. Hai bên và phía sau là những tên vệ binh ôm súng AK thúc giục.Tới đầu một con dốc, anh Giáo đặt thân cây xuống, ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một ngừời không đi nổi thì cả đoàn phải dừng lại chờ. Điều này bọn cai tù Việt Cộng không muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt phải đứng lên đi tiếp Anh Giáo trả lời mệt quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không chịu. Thế là cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K 54 ra khỏi vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như nín thở. Tên cán bộ đến bên anh , nghiêm sắc mặt :

- Anh có đứng lên không ? - Tôi còn mệt. - Anh không chấp hành lệnh phải không ? - Tôi đã nói là tôi còn mệt. Bao giờ hết mệt tôi sẽ đi.

Tên cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh Giáo :

- Anh không đứng lên tôi bắn.

Anh Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng đáp :

- Anh cứ bắn đi !

Tên cán bộ Việt Cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát chúa vang động cả khu rừng. Một bầy chim bay lên tán lọan, kêu quang quác…Nhiều người tù gục xuống, ôm ngực :

- Lạy Chúa tôi.

Sự việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn ngủi nhưng đã nói lên tất cả nét bi hùng của cuộc chiến sau “ Hòa bình ” mà kẻ có vũ khí trong tay đã thua, đồng thời tính chất anh hùng của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong hoàn cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói lọi. Người tù đã thắng!

Không biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm vào anh Giáo đã đi trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây mà anh Giáo đang ngồi trên đó. Tôi thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ, vừa chứng kiến một cảnh chỉ có thể xảy ra trên màn ảnh, truyền hình !


Anh Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc, truyện Thần Điêu Đại Hiệp, truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe. Hết truyện Tàu đến truyện tiếu lâm, làm cho đời sống tù tội bớt căng thẳng. Sau một thời gian ở Phú Quốc, Việt Cộng nhiều lần cho họp liên trại, phát động lại chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo nhận tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển được tư tưởng của anh.


Riêng đám tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái chớ không còn căng thẳng như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ chức đấu tranh với anh Giáo cho có lệ. Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên rừng vác củi, được nghỉ lao động, lại thích hơn.

Nhưng thời khắc định mệnh đã tới ! Một hôm trong lúc xếp hàng điểm danh cuối ngày, cán bộ Việt Cộng ra lệnh cho anh Giáo phải bỏ kính ra. Anh trình bày vì cận thị từ lâu nên không bỏ ra được. Chỉ chờ có thế, chúng ra lệnh nhốt anh vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà chúng ta hay gọi là chuồng cọp, diện tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng không được. Chuồng cọp để giữa trời , không có mái che mưa che nắng. Ngay từ năm 1930, khi thành lập đảng Cộng Sản, họ đã có chính sách “ Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc bốc tận rễ ”. Anh KTG là một trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương quyết giữ vững lập trường chống Cộng và quyết tâm bảo vệ chánh nghĩa Quốc Gia thì sẽ bị tiêu diệt là điều khó tránh khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi và biết bao anh em khác cùng đội cũng mang kính trắng giống như anh KTG mà không hề bị làm khó dễ. Điều này được giải thích như thế nào đây ? Mỗi ngày Việt Cộng chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm lạt. Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối chính sách dã man và sự trả thù hèn hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo còn dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ khí đấu tranh. Bài hát anh Giáo sử dụng là bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có những câu:

“ Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…

Nghẹn ngào cho non nước tôi, trăm ngàn ưu phiền…”

Có lẽ trong giờ phút đó, anh Giáo biết rằng mình đã ở vào thế hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện cầu mà thôi. Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng là duy nhất trong đời, tôi nhìn thấy một người hát bằng tất cả linh hồn như vậy. Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình vào những đêm khuya thanh vắng. Giọng hát của anh bay vào không gian, vào từng lán, trại, có lúc thật cảm xúc, có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra từ cõi chết. Nhiều người nghe anh hát thì ngủ không được, nhiều người đang ngủ thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở.


Bài Đêm Nguyện Cầu là của Lê- Minh- Bằng. Anh Bằng năm nay vẫn còn sống ở Mỹ, chắc anh không ngờ sáng tác của anh lại có người sử dụng trong hoàn cảnh đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại bài hát này tôi không cầm được nước mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca của anh Giáo rồi thì cũng yếu dần và tôi không nhớ cho đến khi nào thì tắt lịm. Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng một tháng anh chỉ còn là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn tinh anh, sáng ngời, khiến cho nhiều người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất là cán bộ Việt Cộng.


Ngày 20 tháng 6 năm 1977 Việt Cộng cho di chuyển một số tù nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì đi đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có vệ binh ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp được anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh, bàn tay lạnh ngắt Lời nói cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân. Sau này khi đi lao động tình cờ tôi gặp được nấm mộ của anh, phủ đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có tấm bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa.


3. Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu phải đương đầu với biết bao khó khăn trong đời sống hàng ngày đối với một người vừa mới ra tù, tôi vẫn để tâm đi tìm gia đình anh Kha Tư Giáo. Theo quyết định ra trại, tôi chỉ được tạm trú ở nhà một tháng, sau đó phải chịu sự điều động của địa phương đi “Kinh Tế Mới ”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng nhận là thuộc diện sử dụng vào công việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc làm và dần dần ổn định được đời sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường, từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận, nhất là đường Huyền Trân Công Chúa, đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi đã nghe anh Giáo thốt ra trong lúc lâm chung. Nhưng con đường này toàn là biệt thự, có vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân. Tôi cứ đi qua, đi lại con đường này không biết bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi đều nhận được cái lắc đầu của chủ nhà. Cũng có lần tôi cầu may lên Thành Ủy Sài Gòn ở đường Trương Định, quận Ba để hỏi thăm về đồng chí KVC, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua được cổng bảo vệ vì khi được hỏi quan hệ như thế nào với đồng chí bộ trưởng thì tôi trả lời quanh co mà không chứng minh được gì cả.


Trong suốt hai mươi năm ở SàiGòn không tìm được gia đình anh Giáo thì tôi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ, định cư ở Chicago vào cuối năm 1997. Sang Mỹ tôi vẫn tìm cách thực hiện nguyện vọng cuối cùng của người bạn quá cố. Tôi cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia đình họ Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có tin vui. Điều tôi làm được là cuối tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề Người Không Nhận Tội và gửi cho tờ Việt Báo ở California, mục “ Viết về nước Mỹ ”. Tôi chọn mục này vì đây là diễn đàn có số độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên thế giới, biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc được. Hy vọng của tôi rất mong manh vì bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ viết về người bạn của mình đã ngã gục trong tù Cộng Sản. Vậy mà không ngờ, bài viết cũng được chọn đăng và được phổ biến trên hệ thống toàn cầu. Tôi lại hồi hộp chờ đợi bài viết của mình đến với gia đình anh KTG. Ngày 23 tháng 1 năm 2002 tôi nhận được email của Ban Chủ Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện thư của anh KTC, em của anh KTG gửi từ Autin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc được bài viết của tôi. Bức điện thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi một cảm xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy tưởng tượng cũng biết được là tôi hạnh phúc như thế nào khi nỗi niềm đã được giải tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện được, nhất là ước mơ đó là của người quá cố, nên có tính cách linh thiêng.


Chiều chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi đang ở nhà thì nhận được điện thọai từ Texas :

- Hello ! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư Giáo. Xin lỗi có phải…

- Tôi, Duy Nhân đây.

- Chào anh Duy Nhân ! Có phải anh là tác gỉa bài viết Người Không Nhân Tội?

- Tôi đây chị.

- Hân hạnh được nói chuyện với anh. Gia đình tôi đọc được bài viết của anh trên Internet. Không ngờ sự thật như vậy..

Tới đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi nghe được cả sự nghẹn ngào bên kia đầu dây. Chị HT quá xúc động. Tôi cũng vậy. Tôi giữ được im lặng trong một phút, rồi nói :

- Đây là giây phút mà tôi chờ đợi suốt hai mươi lăm năm nay.

- Gia đình chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.

- Tôi chỉ làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người bạn của tôi.

- Bài viết của anh nói lên được nhiều điều. Qua đó, gia đình tôi hiểu rõ sự thật về anh Giáo, về Cộng Sản mà nhiều cán bộ cao cấp theo Cộng Sản suốt đời cũng không hiểu được.


Tôi lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị HT lại khóc. Sau đó chị kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái chết của anh Giáo. Chín tháng sau khi anh Giáo chết thì Việt Cộng mới báo tin về gia đình, Họ có hoàn lại cho gia đình một số vật dụng cá nhân, trong đó có cặp kính trắng. Bây giờ tới phiên tôi đau lòng và xót xa khi nghe nhắc tới cặp kính trắng. Đó chứng tích của sự trả thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối với trí thức, đối với người thuộc chế độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối. Khi gia đình nhận được giấy báo tử của anh Giáo thì mẹ và các em đi gặp cán bộ có chức quyền để hỏi c. Họ nói anh Giáo nhịn ăn cho tới chết. Mẹ anh hỏi lý do gì khiến anh Giáo phải tuyệt thực, anh Giáo có tội gì phải biệt giam, đề nghị cho xin bản án hoặc biên bản về cái chết của anh Giáo. Việt Cộng không trả lời. Mặc dầu uất ức nhưng mẹ anh cố kiềm nước mắt không bật khóc trước mặt Việt Cộng. Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị được dẫn đi tìm mộ thì bọn Việt Cộng lại tỏ ra khó chịu và đòi hối lộ. Cuối cùng, bà và các em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên là không thể nào tìm được ! Vì quá đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu. Khi tôi nhắc đến tên Huyền Trân thì chị nói đó không phải là tên đường mà là tên của chị. Có lẽ trong lúc lâm chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi tưởng là tên đường. Chị HT nói cho tới bây giờ gia đình chị không ai biết anh Giáo nằm ở đâu. Tôi thì biết rất rõ. Ngôi mộ quay đề về hướng Đông ở một góc sân banh. Trên mộ có xuất hiện một cây hoa dại có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động về ngang qua ngôi mộ tôi đề bứt vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng anh Giáo như còn sống. Anh Giáo đã chết một cách vô danh mà anh hùng như loài hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa khô cằn và gai góc.


Sau chi HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên Pháp đã liên lạc với tôi bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh cho biết rõ hơn về tính tình ngay thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra rất hãnh diện và tự hào về người anh của mình, đã chọn cái chết mà không phải ai cũng làm được. Anh đã thanh thản đi vào trang sử bi hùng của Quân Lực VNCH và dân tộc.


Anh Kha Tư Giáo ơi ! Ở một nơi nào đó chắc là anh đã mãn nguyện vì ước muốn sau cùng của anh đã được thực hiện, dầu có muộn màng. Bài mà tôi viết về anh người ta đã lấy dựng thành kịch (1), cho phổ biến, trình chiếu khắp nơi mà không xin phép tác giả. Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ cho họ, tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã hành hạ anh, những kẻ bỏ đói anh, tha thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm ngày và cái còng sắt siết chặt tay anh rớm máu ! Bây giờ đã là ba mươi bốn năm, vậy mà tôi tưởng như mới ngày nào…Lịch sử vẫn đang ghi nhận những sự thay đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng của nó. Có những điều anh nhận định, anh mong mỏi bây giờ đã là sự thật, ngọai trừ Tự Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia đình anh có nhiều thay đổi: Mẹ anh đã qua đời, ông chú anh cũng đã ra đi. Người ta dùng tên chú anh để đặt tên một con đường nhỏ ở Thủ Đức nhưng lại viết sai chính tả ! Anh còn lại những người thân nhưng đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có người còn ở Việt Nam, có người ở Pháp, ở Mỹ…Tôi vẫn đang liên lạc với họ, vẫn nghe tiếng họ nói mà chưa một lần gặp mặt. Vậy mà cảm thấy như đã thân quen tự thuở nào. Về phần tôi, khi nào điều kiện cho phép tôi sẽ về lại Việt Nam. Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ thắp lên đó một nén hương và trồng bên cạnh đó một cây sứ có bông màu trắng.

GHI CHÚ :

(1) Bài viết Người Không Nhận Tội đã được Trung Tâm Băng Nhạc Asia dàn dựng với cùng tựa đề, do Ban kịch Sống – Túy Hồng trình diễn trong cuốn Asia số 36 ( chủ đề Người Lính ) tưởng niệm 27 năm tháng 4 đen (30/4/1975 – 30/4/ 2002). Bài này được viết lại tháng 4 năm 2010 để tưởng niệm 35 năm ngày mất nước.

DUY NHÂN

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Mối Tình Già Cứ chiều ngày chủ nhật nào cũng vậy, khi mặt trời ngả về phương Tây, người ta thấy một ông già mái tóc bạc phơ phủ dài dưới gáy và chòm râu trắng như cước chẩy xuống tận ngực. Ông chậm rãi cất bước trên con đường đất nhỏ quanh khuôn viên ngôi chùa, hai bên lề có những khóm hoa đủ mầu sắc. Ông lơ đãng đưa mắt hết nhìn xung quanh, nhìn gần nhìn xa, rồi lại ngước mặt nhìn nền trời cao với những tảng mây trắng hơi ửng vàng bàng bạc xây thành chất lũy, từng khối, từng khối đầy đủ hình thù cảnh vật núi non, người, vật đủ loại, chập chùng mờ ảo quái dị như một thế giới nào đó khác với thế giới hiện tại. Ông lẩm bẩm: "Có thật có một thế giới nào khác ngoài thế giới này không bà nhỉ? Chẳng lẽ chết là hết? Cả ngàn năm nay người ta đã nói nhiều về cõi niết bàn, về chốn thiên đường. Bây giờ bà đang ở đâu, niết bàn, thiên đường hay chỉ là cõi hư vô? Rõ ràng mới đấy mà đã trở thành không rồi!". Thoạt đầu người ta tưởng ông già nói chuyện với một người nào đó. Thực ra ông nói một mình hay chính xác hơn, ông nói chuyện với một cái bóng vô hình.

Ngôi chùa nhỏ lại tọa lạc tại một vùng ngoài xa thành phố nên rất êm ả yên vắng, vì khách thập phương ít lui tới. Chùa có một sư bà tuổi đời trên dưới 80. Bà thứ hai vào khoảng 70 tuổi nhưng chỉ là tín nữ, vì bà chưa xuống tóc, đến chùa ở mới mấy năm nay. Cả hai đều mình hạc xương mai. Sư bà ít khi ra khỏi chùa, bà trụ tại đây đã trên 30 năm, suốt ngày đêm chỉ ngồi gõ mõ tụng kinh niệm Phật, khi rỗi rãi thì đọc sách hoặc ra sau vườn trồng hoa, trồng rau với bà tín nữ. Ngoài hai người trên, chùa còn một sư cô tuổi 17, 18. Bà tín nữ tuy khoác trên người bộ đồ mầu xám nhạt nhưng trông dáng điệu vẫn còn vẻ sang cả. Bà để mớ tóc bạc trắng quấn tròn lại phía sau đầu và trùm tấm khăn mầu xám nhạt nên trông chẳng khác gì một sư nữ. Bà chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc, vì lòng bà (theo lời bà sám hối với sư bà trụ trì) còn vướng chút bụi trần. Từ ngày chồng mất, mãn tang, giã từ con cháu bà lên chùa này nương tựa cửa Phật cho tới nay cũng đã mấy năm. Sau những giờ tụng niệm đọc kinh, mỗi buổi chiều bà thường thiền hành quanh khuôn viên chùa dăm chục phút. Cả ba người tuy sống trong cùng ngôi chùa nhưng ít khi họ chuyện trò tâm sự, nhất là chuyện riêng tư quá khứ. Sư cô người trắng trẻo hồng hào, phải nói là khá xinh đẹp, đang sắp thi vào đại học, theo cha mẹ lên chùa ngày Phật đản, không hiểu sao cô bất thần xin phép cha mẹ, xin phép sư bà ở lại tu luôn, mặc cho sự ngăn cản của cha mẹ. Còn sư bà và bà tín nữ là cả một sự bí ẩn. Không ai biết gốc tích dĩ vãng của họ. Hơn nữa, từ khi di tản sang đây, người ta mải lo làm giầu nhiều hơn là quan tâm tới những chuyện khác, nhất là chuyện tu hành của mấy người đàn bà không tên tuổi, ít được người đời biết tới. Ngoài ra, vì ngôi chùa này nhỏ lại tọa lạc nơi vắng vẻ chốn rừng sâu nên các Phật tử ít lai vãng chiêm bái. Thời buổi này, nhất là sống ở xứ sở có nhiều cơ hội làm giầu, người ta tới lễ Phật thì ít mà muốn khoe của, khoe sự giầu sang phú quý thì nhiều nên những ngày lễ Phật, những ngôi chùa lớn danh tiếng, Phật tử đến đông như hội chợ...

Người con trai sau khi ngừng xe lại trước con đường nhỏ dẫn vào chùa, bước ra khỏi xe, mở cửa xe cho ông già bước ra, lễ phép nói: "Thưa ba, chiều nay con vẫn tới đón như giờ giấc mọi lần?". Ông già cười nhẹ, đáp: "Vẫn vậy thôi". Ông già nhìn theo anh con trai phóng xe đi khuất mới thong thả cất bước về phía chùa. Cũng một buổi chiều như chiều nay nhưng cách đây đã bốn năm, ông được người bạn rủ tới chùa này ngoạn cảnh. Theo sự mô tả của ông bạn, cảnh giới ngôi chùa chẳng khác gì cảnh giới những ngôi chùa trong nước của những nhà tu hành chân chính thủa xa xưa trong rừng thẳm núi cao. Chùa u nhã tĩnh mịch, tuy nhỏ nhưng nằm trên khu đất khá rộng, vây quanh là những hàng cây cổ thụ cành lá xum xuê có từ trăm năm, tạo cho người ta cảm giác khác hẳn với thế giới bên ngoài, tâm thần lâng lâng như lạc vào nơi miền cực lạc cõi trần gian. Con người như bay bổng lên tầng cao tinh khiết siêu thoát, không vướng chút bụi đời. Nghe bùi tai hấp dẫn, thế là hai ông bạn già - năm đó cũng đều trên dưới bẩy chục tuổi nhưng còn tương đối khỏe mạnh - cùng nhau lái xe tới vãn cảnh chùa. Quả đúng như lời ông bạn nói - ông Thụy - tên ông già, cảnh vật cũng như đa số những ngôi chùa khác nhưng vô cùng u nhã thanh tịnh. Không gian thoang thoảng hương thiền. Ông Thụy thấy tâm hồn mình nhẹ lâng lâng sau những ngày tháng ưu tư buồn phiền mệt mỏi sống nơi đất nước người. Ông thực tâm chẳng muốn rời xa quê hương đất nước chút nào nhưng thời thế bắt buộc, nhất là các con ông, sau những năm tù đầy về, bọn nó nhất định rời bỏ quê hương sang đây sống một cuộc đời mới.

Ông Thụy già rồi chẳng còn tham vọng gì nên lúc nào cũng có cảm tưởng mình sống thừa với những ngày tháng vô vị. Con cháu ông, chúng có đời sống của chúng. Và chúng còn mải mê học hành, mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc mải mê vui chơi. Ông chỉ còn nguồn yêu thương an ủi duy nhất là bà vợ. Nhưng ít lâu nay bà bỗng thay tính đổi nết, trở nên con người khác. Từ lúc trở thành vợ ông, bà đã phong thanh biết chuyện ông có một mối tình đầu sâu đậm khó quên, dù năm tháng trôi qua. Bà biết ông không yêu bà. Ông lấy bà vì bổn phận - cũng như bà - vì gia đình ép buộc, nên khi về già tình vợ chồng cũng trở nên nhạt nhẽo. Tuy nhiên lúc nào bà cũng vẫn đóng trọn vẹn vai trò làm vợ, làm mẹ và làm bà. Và đối xử với ông vẫn nói năng nhẹ nhàng, lễ độ trong khuôn phép con nhà gia giáo. Nhưng lẽ sống của bà bây giờ chính là nhà thờ. Sáng đi lễ. Chiều đi lễ. Buổi tối ngồi trong phòng tụng kinh trước ảnh Chúa. Vì vậy ông càng thấy mình bơ vơ lạc lõng và rất cô đơn trong cái tuổi già nơi xứ người nên ông luôn nghĩ tới người yêu thuở đầu đời, không biết giờ này trôi dạt nơi đâu, có còn trên cõi thế? Tuy hơn nửa thế kỷ trôi qua ông vẫn không thể nào quên "nàng" được. Ông tìm đến bạn bè kiếm nguồn an ủi nhưng họ cũng có cuộc sống riêng tư của họ. Chỉ khi nào rảnh rỗi như hôm nay họ mới lái xe cho ông "đi chơi xa".

Trong khi ông bạn đang chiêm ngưỡng pho tượng Phật bà Quan Âm trước sân chùa, ông Thụy thơ thẩn dạo bước trên con đường đất nhỏ giữa những khóm hoa nhỏ thì thấy một người nhẹ nhàng đi tới. Ông đứng nép vào bên đường nhường bước. Đó là một sư bà. Bỗng ông giật thót mình, lấy tay chùi kính mắt một lần rồi lần nữa, vì mắt ông bỗng hoa lên, mờ đi. Chẳng lẽ thị giác về già đánh lừa ông. Dù mấy chục năm trôi qua không gặp lại, ông vẫn quên làm sao được khuôn mặt, dáng dấp "người ấy", cho dù thời gian đã làm thay đổi nhiều. Nhưng trực giác của ông…Không kìm lòng được nữa, ông thảng thốt kêu lên: "Ô, Liên!". Bà nghe tiếng kêu cũng giật thót mình ngừng bước, mở lớn đôi mắt nhìn. Từ lâu lắm rồi, nhất là ở nơi chùa chiền hoang vắng này có ai biết tên bà và gọi đúng tên bà thời con gái? Nhưng chỉ mấy phút sau, khi nhận ra tiếng nói (đã ngấm sâu trong tiềm thức bà) và khuôn mặt con người vừa thốt tiếng kêu, bà cũng thảng thốt không kém, với giọng xúc động, hơi run run, tay trái đặt lên ngực: "Mô Phật! Thì ra là... ông!" Dứt lời bà quay mặt sang phía khác, có lẽ để tránh cái nhìn của ông. Ông Thụy nói nhanh như sợ người đối diện bỏ đi:"Vâng, tôi đây, Thụy đây. Anh đây. Em, em... bà..." "Mô Phật, xin ông đừng gọi tôi tiếng em nữa". "Vâng vâng, bà, bà...". Ông Thụy ấp úng nghẹn lời không nói thêm được. Ông muốn ôm chầm lấy bà siết chặt trong vòng tay. Mấy chục năm trời nay, ai ngờ Chúa Phật run rủi, ông gặp lại bà mà lại gặp trong cảnh ngộ éo le như thế này. Mắt ông như mờ đi và hình như ông thấy bà cũng cố che dấu hai giọt nước mắt sắp lăn xuống má. Ông biết mấy chục năm qua ông chưa quên được bà và bà cũng vậy. Nhưng sao giờ này sống trên đất Mỹ bà lại đổi đời đi tu. Ông thắc mắc. Nhất định phải có nguyên do. Hai người cứ lúng túng và đứng trơ ra. May có người đi tới. Đó là ông bạn đồng hành lái xe. Ông Thụy vội nói, nhỏ nhưng cũng đủ để bà nghe kịp:"Tuần tới tôi sẽ lên". Ông Thụy không thấy bà gật hay lắc đầu. Ngồi trên xe và xe phóng đi lâu rồi, mặt ông Thụy vẫn thừ ra đờ đẫn buồn hiu. "Ông tương tư sư bà đấy à?". Ông bạn lái xe nói đùa. Ông Thụy lắc đầu: "Không phải tương tư mà là gặp lại người xưa và dĩ vãng đang bừng sống lại trong tôi. Tôi bị "sốc", "sốc" nặng! "Thế đúng là Lan và Điệp thời nay rồi. Liệu sư bà có cắt đứt giây chuông?". Ông Thụy nói như than:"Chưa biết được ông ơi, nhưng nhất định đêm nay tôi mất ngủ". "Coi chừng cơn tam bành của Hoạn thư ở nhà đấy, ông bạn già!". "Bà ấy già rồi còn ghen tuông gì nữa, hơn nữa lại là chuyện ngày xưa". Người bạn lái xe cười cười nói:"Ông lầm rồi. Mấy mụ ấy chỉ khi nào hết thở thì may ra mới hết máu ghen". Dứt lời ông đưa tay nhấn nút CD. Một bài hát vang lên. Éo le làm sao trong bài hát lại có câu, cô ca sĩ hát như rên rỉ: "tình ngỡ đã quên đi... nhưng tình bỗng lại về...".

Chiều chủ nhật tuần sau, ông Thụy bắt người con trai lớn lái xe đưa lên chủa. Trong lúc đi đường ông kể hết chuyện tình của mình với bà sư thuở thiếu thời. Người con trai đã ngoài 50 tuổi, có học, trước là sĩ quan cấp tá và là người hiểu biết việc đời và rất cảm thông trường hợp của ông bố. Khi xe ngừng ở lối vào chùa, ông Thụy thoáng nhìn thấy bà đứng bên vệ đường sau hàng cây nhìn về phía ông như có ý trông chờ. Ông quay lại dặn con giờ giấc tới đón. Khi quay lại không thấy bóng bà đâu nữa. Ông bước vào chùa. Sư bà trụ trì trên điện Phật bước ra niềm nở chào đón khách. Ông Thụy còn lòng dạ nào chuyện trò xã giao. Ông đi thẳng ngay vào "vấn đề": "Thưa, xin lỗi sư bà, tôi muốn gặp bà Liên". Vì ông không biết pháp danh của bà nên cứ gọi theo tên ngoài đời. Sư bà không hề hỏi lý do, gọi ngay sư cô đi tìm "bà Liên". Ông Thụy được dẫn vào phòng khách gặp bà. Bà cúi đầu không nhìn ông khi ông bước vào. Hai người ngập ngừng đến mấy phút, ông Thụy mới lên tiếng: "Bà vẫn khỏe? Tôi thật không hiểu...". Câu nói ngừng lại ở đây. Bà nói, dọng nhẹ nhàng:"Tôi ở chùa này đã bốn năm rồi nhưng chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc". "À ra vậy! Thế có nghĩa là… bà vẫn chưa muốn dứt nợ trần?". Ông Thụy hấp tấp hỏi. Bà thở dài: "Cũng vì chút lòng trần chưa dứt nên chưa thể xuống tóc". "Có phải tại...". Ông Thụy muốn nói có phải tại chồng con. Nhưng ông kịp thời ngưng. Bà nói liền một hơi, dọng nghe có vẻ trách móc: "Tại ông... ông hiểu không? Tôi chưa xuống tóc là muốn gặp lại ông một lần chót trong đời. Mấy chục năm rồi tin ông biền biệt. Nhưng tôi vẫn tin là sẽ có ngày gặp lại ông trước khi về cõi khác. Tôi đã nguyện trước đức Phật, nếu trong 5 năm không gặp lại ông tôi sẽ xuống tóc. Xuống tóc đúng vào cái ngày ông… hôn tôi lần đầu. Hơn 4 năm đã trôi qua nhưng linh tính báo cho biết tôi sẽ gặp lại ông. Tạ ơn đức Phật từ bi run rủi, hôm nay...". Ông Thụy muốn chồm lên ôm bà vào lòng nói lời an ủi cũng như âu yếm. Nhưng nhìn nét mặt bà với chiếc khăn mầu xám nhạt chùm trên đầu, ông bỗng khựng lại. Có một cái gì vô hình đã ngăn cản ý định của ông. Ông thở dài đăm đăm nhìn hai bàn tay mình xoa xoa trên mặt bàn gỗ mầu nâu đen. Bà biết ý định của ông nhưng vờ như không biết. Bà nói, dọng vẫn nhỏ nhẹ trong trẻo ngọt ngào ấm áp - khi xưa ông mê mẩn vì dọng nói này:"Ông nên nhớ đây là chốn thiền môn và tôi là con cái của Phật. Ông là người ngoài đạo nên tôi tin đức Phật tha thứ cho ông". Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng. Người con trai ông Thụy bước vào cúi đàu chào bà rồi nói với bố:"Thưa ba, trời sắp tối và sương mù đang buông xuống". Ông Thụy đứng lên định cầm tay bà nhưng lại ngưng. Sau một tiếng thở dài, ông nói khẽ: "Thôi tôi về Liên nhé, hẹn gặp". Bà không nói gì lặng lẽ tiễn ông ra ngoài đường, chỗ xe hơi đậu. Thế là từ đó chiều chủ nhật nào ông Thụy cũng bắt người con trai trưởng đưa ông lên chùa. Ông không muốn nhờ người khác vì e ngại chuyện lộ ra ngoài. Ông nói với bà vợ là tới nhà người bạn xoa mà chược. Bà yên tâm vì có người con trai lớn đi kèm.

Chiều chủ nhật nào cũng vậy, cứ tới khoảng 4, 5 giờ chiều là bà lắng tai nghe ngóng tiếng động cơ xe hơi vọng tới. Rồi hai ông bà già sóng bước bên nhau đi trên con đuờng đất nhỏ quanh khuôn viên chùa. Họ chuyện trò. Họ tâm sự chuyện ngày xưa và chuyện ngày nay. Ông kể cho bà nghe gia cảnh của mình. Bà cũng vậy. Họ mải mê nói quên cả thời gian trôi và đã cuốc bộ biết bao cây số không thấy mệt mỏi, nhất là với đôi chân già yếu. Ông cho biết sau khi lập gia đình có bốn người con: hai trai hai gái. Hai trai sống với vợ con trên đất Mỹ. Còn hai gái sống tại Saigon. Ông có đến 7, 8 đứa cháu nội ngoại. Vợ chồng ông hiện sống trong nhà người con trai lớn. Còn bà thì kể sau hơn hai mươi năm lập gia đình chỉ có hai người con: một trai một gái đều sống trên đất Mỹ với bầy con. Chồng bà mất trước năm 1975 trong trận đánh Hạ Lào. Sang Mỹ sống vài năm, bà quyết định đi tu, mặc cho con cái ngăn cản. Bà chưa chịu "xuống tóc" ngay vì còn "một chút vướng víu". Chút "vướng víu" đó là ông. Ông nghe bà nói thế, nhìn quanh thấy vắng bóng người, ông cầm tay bà siết chặt đến nỗi bà phải kêu lên. Câu chuyện riêng tư của đôi bạn già không thoát khỏi cặp mắt của sư bà. Mỗi lần sư bà thấy hai người đi bên nhau mải mê chuyện trò lại lẩm bẩm: "Thiện tai! Thiện tai!".

Bây giờ đúng là họ quên tuổi già để sống lại tuổi đôi mươi. Bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ thời trai trẻ lãng mạn, họ nói ra cho nhau nghe hết. Dù là những kỷ niệm nhỏ nhặt trong đời sống học trò.
Vào khoảng năm 1919, 1920 của thế kỷ trước, hai gia đình ở cùng một khu phố giữa thủ đô Hà nội. Nhà ông đầu phố, nhà bà cuối phố. Phố Hà Nội thường nhỏ, ngắn. Lúc ấy họ chẳng thèm để ý gì đến nhau vì họ còn quá nhỏ. Nhà bà theo đạo Phật, làm nghề buôn bán, nổi tiếng giầu có. Nhà ông, theo đạo Công giáo, bố ông làm công chức cao cấp, gia đình có một đời sống khá giả. Khi ông lên trung học mới để ý tới "con bé cuối phố" xinh đẹp ngoan ngoãn. Họ yêu nhau tha thiết lúc nào không biết. Khi ông lấy xong bằng Thành Chung, bà mẹ ông ngỏ ý muốn ông lấy vợ "để sớm có cháu nội nối dõi tông đường". Thế là ông đưa "thỉnh nguyện" ngay, đó là cô gái cuối phố. Ông không ngờ gặp phản ứng liền của cả cha lẫn mẹ. Họ bác bỏ một cách thẳng thừng và hơi tàn nhẫn: "Ồ, không được. Gia đình nó ngoại đạo!". Nhất định là không được, mặc cho ông hết lời năn nỉ và ca ngợi những đức tính quý báu của cô nàng. Bà mẹ ông có vẻ thông cảm với cậu con trai nên ra điều kiện: "Nếu nó chịu rửa tội theo đạo thì mẹ bằng lòng". Đêm đó ông chưa bao giờ tỏ ra bất lực, chán đời, chán cả sự học hành và đau khổ tận cùng. Còn về phía bà. Khi hay tin con gái có "bạn trai" là ông, bà mẹ gọi cô con gái vào phòng riêng và nghiêm mặt nói: "Từ nay tôi cấm cô không được giao thiệp thân mật với "thằng ấy". Bà cãi: "Anh ấy đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế". Bà mẹ dằn dọng: "Tôi đã bảo cấm là cấm, cô hiểu chưa? Bố cô mà biết chuyện này cứ gọi là cô nhừ đòn". Bà vẫn không chịu thua: "Nhưng anh ấy có làm gì nên tội đâu mà bố mẹ ghét thế?". Bà mẹ nói như rít: "Tội gì à? Nhà nó theo đạo Công giáo, còn nhà mình theo đạo Phật. Nếu nó bằng lòng bỏ đạo nó theo đạo mình thì tôi cho cô cậu lấy nhau". Bà cũng thức trắng đêm đó như ông và khóc hết nước mắt. Bà đau khổ đến muốn tự tử.

Hai, ba năm sau bà lấy chồng, ông lấy vợ theo sự lựa chọn, quyết định của cha mẹ. Họ xa nhau từ đấy mặc dù trong lòng tình yêu, nhất là tình yêu thuở ban đầu vẫn nở rộ, vẫn tha thiết. Một khi tình yêu càng bị ngăn cản, càng bị cấm triệt thì càng âm ỉ phát triển mạnh. Nhưng vào thời đó, vì lễ giáo, vì gia phong, vì giòng họ, vì xã hội, vì dư luận đôi bạn trẻ đành bất lực, chấp nhận hy sinh chia tay bởi sự kỳ thị vô lý!

Mỗi lần ông đi thăm bà về, bà đều gói một bọc lớn đủ thứ trái cây để ông đem về cho "chị nhà" và các cháu. Bà bảo: "Đây là lộc Phật". Ông đem về nhà nói dối vợ là vợ bạn cho "cây nhà lá vườn". Nhưng sau đó bà vợ cũng biết và ra lệnh cấm con cháu không được ăn. Ông không biết giải quyết sao đành nhờ người con trai "cố vấn". Và cả hai đồng ý đem những trái cây này đến cho đám con của người con trai thứ hai "hưởng lộc" dùm. Còn ông, mỗi lần lên thăm bà, ông bắt con trai lái xe tới tiệm bán hoa mua tặng bà một chậu lan. Từ trẻ bà vốn thích loại hoa trưởng giả quý phái này. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, hết mùa đông lại tới mùa xuân, không chủ nhật nào ông không đi thăm bà và hai người tiếp tục sóng đôi cất bước chuyện trò tâm sự tới khi măt trời khuất sau rặng núi. Bà vợ ông, sau những tháng ngày ngấm ngầm chịu đựng hết nổi, bà làm dữ. Bà cấm người con trưởng chở ông già đi thăm "con mụ dở hơi".

Thế là ông phải nhờ cậy vào người con trai thứ nhưng là "đánh du kích", chứ không đều đặn đúng hạn kỳ như trước nữa. Có khi cả tháng ông mới đi thăm bà được một lần. Ông không nói nhưng bà hiểu. Bà thông cảm hoàn cảnh ông. Nhưng bà cũng không muốn "cắt đứt giây chuông". Thế rồi ông bị đưa vào bệnh viện ghép động mạch vành tim bị tắc nghẽn, vì tuổi già sức yếu nên mất cả mấy tháng trời mới lại sức. Khỏe một chút, ông kiếm cách đi thăm bà ngay. Nhưng lần này... Người đón ông không phải là bà mà là sư cô. Sư cô nét mặt hơi buồn báo ông biết: bà nhập bệnh viện cả tháng rồi vì chứng sưng màng não và phổi có nước. Ông nghe choáng váng sây sẩm mặt mày muốn ngã qụy. Còn sư cô quầy quả bước vào trong Chùa và miệng luôn lẩm bẩm: "Thiện tai! Thiện tai!" Khi ông tới bệnh viện thì bà đã trong tình trạng hôn mê. Cạnh bà có vợ chồng người con trai của bà. Hình như trong khi nằm bệnh, lúc tỉnh táo, bà đã nói cho con bà biết chuyện của hai người và bà ước muốn được nhìn thấy ông trong giây phút chót, vì vậy khi thấy ông đến, họ nhìn ông với cái nhìn trìu mến đầy thông cảm. Có một lúc bà tỉnh lại mở mắt nhìn. Thấy ông mắt bà như sáng hẳn lên. Ông đua tay tìm tay bà. Bà đưa tay tìm tay ông và nắm chặt bàn tay ông như không muốn rời. Rồi miệng bà mấp máy. Ông ghé sát tai nghe. Bà chỉ thều thào được tiếng "anh" rồi bàn tay bà từ từ buông bàn tay ông ra. Bà đã nhẹ nhàng về bên kia thế giới, mà ông nghĩ có lẽ là cõi niết bàn.

Sau khi bà mất, ông vẫn tiếp tục lên chủa. Mỗi lần lên ông mang theo một chậu lan nhỏ. Lâu dần nhiều hoa quá, sư bà bảo sư cô làm một dàn gỗ để treo những chậu lan trước phòng của bà tín nữ Diệu Liên (pháp danh của bà). Ông cứ việc móc chậu lan lên dàn, có đến mấy chục chậu. Khi lên tới chùa, việc trước tiên ông làm là đến trước cửa phòng (cũ) của bà lầm bầm như nói điều gì với bà, xong, ông mới làm công việc tưới những chậu lan. Rồi sau đó, ông (rủ bà) đi dạo con đường đất quanh khuôn viên chùa và chuyện trò với nhau y như khi bà còn sống. Duy có điều bây giờ chỉ có mình ông nói. Cũng từ ngày bà mất, ông không cạo râu cắt tóc nữa, lâu ngày tóc phủ xuống cả cổ và râu dài tới ngực. Tất cả đều bạc phơ.

"Ồ, tôi nghĩ bà cũng như tôi thôi, làm sao quên cái ngày ấy được. Lúc tôi đón bà ở cổng trường ấy mà, đưa bà về gần tới nhà, tôi đã thu hết can đảm cầm lấy bàn tay phải bà.Tôi còn nhớ rõ là bàn tay phải bà, đúng không? Mất bao ngày đêm đắn đo suy nghĩ mãi tôi mới dám liều đấy. Tôi nhớ ngón tay trỏ của bà còn dính chút mực tím. Tôi thấy bàn tay bà run rẩy rút vội ra và nhìn trước sau sợ có người trông thấy. Rồi bà bước mau như muốn chạy trốn. Tôi cứ đứng ngây người nhìn theo bà và sợ bà giận. Đêm đó tôi thao thức mãi, vừa lo âu vừa sung sướng. Bàn tay bà mềm mại thơm tho quá. Hôm sau tôi đến cổng trường bà sớm hơn mọi ngày và hồi hộp chờ đợi. Sao mà lúc đó thời giờ trôi chậm thế. Khi bà cắp cặp đi ra. Nhìn thấy tôi bà làm bộ như không thấy. Tôi tưởng bà giận thật, lẽo đẽo theo sau năn nỉ và cả xin lỗi nữa. Bà nói khẽ, mắt vẫn nhìn thẳng: "Cấm không được làm như hôm qua nữa đấy! Coi chừng bọn bạn. Hình như chúng nó đã sinh nghi, theo dõi". Thì ra bà không giận tôi, vì tôi ngu đần nên tưởng thế. Sau này bà mới thổ lộ là cũng rất hồi hộp xúc động khi bàn tay tôi nắm bàn tay bà. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời cầm tay người con gái, tâm hồn tôi bay bổng trên trời xanh, cảm tưởng mình là kẻ sung sướng nhất trần gian. Chắc bà khi đó cũng có cùng ý nghĩ như tôi, có phải vậy không? Tôi đoán đúng mà. Hà hà… À, mà sau đó, hình như đến mấy tháng thì phải, không chịu nổi nữa tôi đánh bài liều. Đi đến nơi góc phố, nhìn quanh không thấy bóng người, tôi ôm vội lấy bà và hôn nhẹ lên má bà một cái. Trời ơi, thiên đường niết bàn là đây chứ còn phải tìm ở đâu nữa! Tôi không hiểu sao lúc đó bà lại đứng im cho tôi làm cái việc đó. Kìa, bà nói đi. Cái má bà trắng hồng và… thơm thơm quá chừng! Sao, khi đó bà ngượng cứng người à?". Ông Thụy nói một hồi dài có vẻ mệt và mắt vẫn nhìn sang bên, hệt như ngày bà còn sống đang cất bước bên ông. Rồi ông ngồi bệt xuống bên vệ đường và... thở. Lát sau, chừng như đỡ mệt ông đứng lên nói: "Ta đi tiếp chứ, bà. Mặt trời còn cao mà!". Và ông lại tiếp tục nói tới những kỷ niệm xa xưa. Thỉnh thoảng ông quay sang trái hay sang phải, có khi ngừng bước như chờ bà, hỏi: "Có phải thế không bà? Bây giờ tôi vẫn nhớ như in, như mới xẩy ra ngày hôm qua...". Ngưng chút ông nói tiếp: "Thế rồi bà biết không? Hôm người ta tới nhà bà rước dâu ấy mà, tôi đứng mãi tận đằng xa nhìn. Bà mặc cái áo gấm dài mầu đỏ, khăn đỏ đội trên đầu… Tim tôi muốn vỡ ra từng mảnh. Sau này nghe người ta kể lại khi bước lên xe hoa bà đã khóc. Tôi không hiểu ý nghĩa những giọt nước mắt này, vì các cụ ta thường nói "khốc như thiếu nữ vu quy". Vậy đó là những giọt nước mắt sung sướng hay đau khổ?". Ông lại ngừng nói và vô tình ngước nhìn lên bầu trời mùa đông về chiều và như trực nhớ ra không có bà ở bên liền kêu lên thảng thốt: "Ô, bây giờ bà đang ở đâu? Có phải bà đang ngự trên chín tầng thức mây thăm thẳm kia và ngó xuống nhìn tôi tủm tỉm cười? Bà dứt hết nợ trần thật rồi sao? Bà để lại tôi một mình cất bước trên con đường này sao? Bà Liên! Bà Liên!". Ông nói to như hét. Con trai ông hoảng hốt chạy tới dìu ông ra xe.

Thanh Thương Hoàng

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

CÕI ĐỜI
Thanh Thương Hoàng

Gã đưa tiễn người bạn ra ga xe lửa. Thấy đám đông xúm xít chen lấn coi một tờ giấy lớn với những hàng chữ in to, dán ngay trước cổng ra vào nhà ga. Tò mò, gã và người bạn cũng cố lách vào bằng được để coi chuyện gì. Thì ra đó là tờ bố cáo lệnh truy nã một kẻ can tội phản quốc. Dưới những giòng chữ là hình vẽ mặt người. Coi kỹ, gã chợt rùng mình, bàng hoàng, hoảng hốt. Nhìn rất nhanh những người đang đứng vây kín chung quanh, thấy không ai để ý tới mình, cũng không thấy người bạn đâu nữa, gã vội vã rút lẹ ra khỏi đám đông và không kịp suy nghĩ, nhẩy tót lên toa xe lửa vừa chuyển bánh. Đứng ngay cửa lên xuống, gã đảo mắt một vòng khắp toa xe. Kia rồi. Người bạn gã đưa tiễn đang ngồi hàng ghế giữa toa. Để phòng ngừa bất trắc, gã tìm cách lánh mặt, thận trọng cất từng bước sang toa khác. Thấy ở góc cuối toa, nơi sát cửa sổ, còn một chỗ trống. Sau khi quan sát trước sau lần nữa, gã tới ngồi xuống và rút tờ báo trong túi ra vờ coi tin tức. Thực ra gã dùng tờ báo để che bớt mặt, nhằm tránh sự tò mò của những người ngồi gần. Cạnh gã là một thiếu niên, có vẻ học sinh, đang mải mê phóng tầm mắt qua cửa sổ ngắm nhìn cảnh vật tầu lướt qua. Những làng mạc, những cánh đồng lúa xanh mướt, từng đàn trâu thung dung đi dưới nắng. Thật êm đềm, thật thanh bình. Nhưng với gã thì hoàn toàn trái ngược: rất có thể đây là cái bẫy đời giăng ra gài bắt những người vô tội như gã. Sự hoang mang, sự sợ hãi khiến cho gã nhìn chỗ nào cũng thấy nguy hiểm.Tuy ngồi yên chỗ và thấy không có gì đáng khả nghi quanh mình, tim trong lồng ngực gã vẫn đập thình thịch như trống trận. Gã cố kìm giữ để tay chân khỏi run, nhưng mồ hôi lạnh cứ toát ra dầm dề ướt cả cái áo lót bên trong. Chưa bao giờ sự sợ hãi đến với gã khủng khiếp như thế. Trong bản bố cáo truy nã tội phạm ghi rõ tên tuổi, quê quán, nhất là cái hình vẽ bán thân, đúng là gã không còn sai vào đâu được nữa. Hay là trong lúc bất ngờ vì hoang mang hoảng hốt, gã đã nhìn lầm, đã đọc chữ tác ra chữ tộ ? Có lý nào? Chẳng lẽ trên cõi đời này lại có một sự trùng hợp như vậy? Đôi lần gã định rời chỗ bước sang toa người bạn ngồi để hỏi cho ra lẽ, và cũng là hy vọng người bạn san sẻ cùng mình nỗi cùng quẫn bi đát, tai bay vạ gió. Nhưng…lỡ sự việc đúng như vậy thì sao và liệu người bạn có còn dám nhìn mình hay lại lo thủ thân quay mặt đi và cũng có thể giở trò tố giác? Suy đi nghĩ lại mãi, gã vẫn không dám rời khỏi chỗ ngồi. Gã kéo cái mũ vải lưỡi trai xuống sát tận mắt. Và hai tai cũng như đôi mắt, gã luôn rộng mở, đặt hết tâm trí chăm chú nghe ngóng động tĩnh. Nếu có sự biến, gã sẽ phóng mình qua cửa sổ thoát thân ngay. Nguy hiểm thật đấy nhưng cùng lắm gẫy tay gẫy chân, còn có thể chữa được, chứ để bọn nó tóm chỉ có nước chết. Thời buổi nhiễu nhương này chờ được vạ thì má đã sưng. Có khi chết hàng chục năm, xương đã mục rồi vẫn còn chưa được minh oan và họ hàng con cháu phải nhận lãnh bao hậu quả nặng nề, thê thảm. Tầu chạy được hơn nửa ngày tâm trí gã mới tạm yên ổn để suy xét. Tới giờ phút này gã vẫn không hiểu nổi, không tài nào tìm ra nguyên nhân cái lệnh truy bắt gã. Suốt cuộc đời từ nhỏ tới lớn, năm nay đã gần năm mươi tuổi, gã chưa hề làm một việc gì có thể gọi là phi nhân, phi pháp. Nhà giầu, con một, đậu xong bằng tú tài, cha mẹ gã bắt lấy vợ “để sớm có cháu nội”, nhất là yên tâm có kẻ “nối giõi tông đường”. Gã đã sống một cuộc đời bình thường như trăm ngàn người đàn ông khác. Không rượu chè trai gái, không hoạt động hay tham gia bất cứ đoàn thể xã hội chính trị nào. Hai đứa con gã: một gái một trai 10 và 8 tuổi, đẹp đẽ ngoan ngoãn. Vợ gã xứng đáng người vợ hiền trong cái thời đại hỗn loạn này. Thế mà bỗng dưng xuất hiện cái tờ bố cáo truy nã gã về tội phản quốc! Giờ này khắp nước đều biết gã là một tên tội phạm nguy hiểm tại đào. Trong bố cáo còn ghi rõ ai bắt được hay tố giác sẽ trọng thưởng. Vô lý, vô lý hết sức! Mắc tội phản quốc có thể bị kết án tử hình hay ít ra cũng vài chục năm tù khổ sai! Nghĩ tới đây gã lại rùng mình lo sợ. Khắp người nổi gai ốc. Suy đi nghĩ lại mãi gã đi đến quyết định: phải cầu cứu tới người bạn. Đó là người bạn tốt, ta không nên nghĩ xấu về hắn.
Vừa trông thấy gã, người bạn giật thót mình, đứng bật dậy miệng ú ớ lắp bắp nói không thành tiếng. Gã cười gượng, ấn hai vai người bạn ngồi xuống:
“Có gì mà anh hoảng hốt vậy?”.
Người bạn vẫn chưa hết lúng túng:
“Tôi…thấy anh, anh…”
Gã vẫn cố tỏ ra bình tĩnh:
“Chắc anh muốn nói tới cái tờ bố cáo dán ngoài cửa nhà ga chứ gì? Ồ…”
Trước sự bình tĩnh của gã, người bạn có vẻ hơi ngượng, đứng lên kéo gã tới chỗ hai toa tầu nối nhau, không có người. Tầu vẫn chạy rầm rầm với tốc độ cao, chỗ hai toa nối nhau bằng giây xích sắt lúc lắc, giần giật. Người bạn móc túi lấy gói thuốc lá mời.
Gã cố làm bộ thản nhiên nói qua khói thuốc:
“Anh nghĩ sao về cái bố cáo bậy bạ ấy?”.
“Tôi không nghĩ đó là anh. Có thể là tình cờ trùng hợp. Nhưng theo tôi, tốt hơn hết anh nên lánh mặt một thời gian. Tụi mình tạm chia tay ở đây thôi. Chúc anh mọi sự lành”.
Dứt lời người bạn bước vội về chỗ ngồi rồi lấy túi xách hành lý chuyển sang toa khác liền. Đến như người bạn thân thiết nhất của mình cũng muốn tránh xa mình, bỏ mặc mình, giờ còn biết trông cậy vào ai! Chẳng lẽ mình mắc trọng tội thật? Gã hoang mang đến không còn biết mình là ai. Chẳng lẽ đành bó tay chịu chết? Không…không…Gã đọc sách báo thấy từ xưa tới nay trong thiên hạ có biết bao người bị bắt tù đầy giết tróc oan uổng. Quyền thế như vua chúa cũng còn bị huống chi thứ dân dã như gã! Nghĩ vậy, gã vứt mạnh mẩu thuốc lá đang hút xuống đường rầy. Những vòng bánh xe sắt xoay tít trên con đường rầy phát ra những tiếng rầm rầm, gã nghe như tiếng đời nghiến răng rên siết.
Trở về gần tới chỗ ghế ngồi cũ, gã chợt nghĩ ra: lỡ thằng bạn khốn kiếp này tố cáo mình thì sao? Tốt hơn hết là ta chuồn xuống cái toa chót, “nếu có gì” còn nhẩy tầu thoát thân kịp. Mới đi qua được một hai toa, gã thấy phía trước có tiếng ồn ào xôn xao. Gã hơi hoảng. Định thần nhìn kỹ, thì ra đó là tên kiểm soát vé đang đi lùng bắt người đi tầu không mua vé. Từ ngày xẩy ra trận bão, tiếp theo là lụt (người ta nói trận bão lụt này lớn nhất từ trước tới nay) cả nước mất mùa đói khổ, nhân dân từng đàn lũ lượt kéo nhau đi ăn xin. Có đến một phần ba người trên tầu là “dân nhẩy tầu”, tức đi lậu vé. Người soát vé luôn mồm quát tháo chửi bới, nhất quyết đẩy bọn đi tầu lậu xuống đường, mặc cho những tiếng van xin lạy lục. Họ thề thốt tới ga là họ xuống liền. Riêng gã còn đang lúng túng tính nước bài liều nhẩy xuống đường thoát thân thì may quá. Gã nhìn thấy một cái buồng vệ sinh ngay đó. Không nghĩ ngợi, gã xô cửa bước vào. Cái buồng vệ sinh nhỏ hẹp, bình thường chỉ chứa một người mà bây giờ có đến 5, 6 người chen chúc, chật cứng. Mùi phân người, mùi nước tiểu bốc lên nồng nặc. Gã muốn nôn ọe. Một mụ đàn bà bỗng kêu lên oai oái: “Ối giời ơi, tôi chết ngộp mất. Xê ra để tôi bước ra nào. Bị bọn nó tóm cổ đi lậu vé còn hơn bị chết ngộp với cứt đái hôi thối như thế này”. Tức thì mồm mụ bị mấy cái bàn tay hộ pháp bịt lại. Mụ đàn bà dẫy dụa, mặt tím ngắt, mồm thở khò khè như cố hớp từng chút không khí. Nước mắt nước mũi mụ trào ra. Mãi khi người kiểm soát vé sang toa khác (có lẽ anh này cũng ớn cái mùi hôi thối trong buồng vệ sinh nên không xét) bọn người nấp trong buồng vệ sinh mới đẩy nhau bước ra. Mụ đàn bà lả người vì ngất sỉu. Người ta phải bứt tóc xoa dầu nóng mãi mụ mới hồi tỉnh.
Con tầu tiếp tục chạy trên đường rầy dài như vô tận. Chạy liên miên suốt ngày đêm, có lẽ suốt cả năm tháng. Gã cũng chẳng mong gì hơn, vì khi đã đến chỗ phải đến, thiên hạ sẽ nhào tới trói gô gã lại trao trả về nguyên xứ để xét xử. Tới một ga, dù lớn nhỏ, tầu ngừng lại ít phút cho người lên xuống rồi lại hú còi rên rỉ và tiếp tục lăn bánh trên con đường sắt cũ kỹ. Tầu mải miết chạy về hướng Bắc, trời tối mịt lúc nào không hay. Nhìn thiên hạ giở cơm nắm muối mè hay những mẩu bánh mì khô khốc mốc meo, những chiếc bánh chưng đã có mùi chua, ăn uống một cách ngon lành và chuyện trò rôm rả. Bây giờ gã mới cảm thấy đói thắt cả ruột gan và mệt đến rã rời chân tay. Gã rà lại mấy cái túi áo túi quần, không có lấy một đồng bạc cắc. Đói còn chịu được nhưng khát thì bất trị. Gã xé miếng vải túi quần rồi “tè” vào đó, giữ nước uống dần mỗi lúc vài giọt. Hỏi thăm mấy người cùng đồng cảnh lậu vé như mình, gã biết con tầu này chạy xuyên quốc gia. Và quá nửa đêm nay tầu tới biên giới. Mặc dầu hai nước là bạn bè hữu hảo nhưng sự kiểm soát người qua lại vô cùng nghiêm ngặt. Anh nào nhập lậu, họ tóm được còng hai tay quặt về phía sau và còng luôn cả hai chân bắt nằm sấp mặt xuống đất, y hệt như một con vật, đợi giới hữu trách bên kia đến bàn giao. Đó là chưa kể những trận đòn khốc liệt của cả hai bên! Gã đâu có muốn đến chốn này. Gã đâu có làm gì phạm pháp? Gã đâu có làm gì nên tội? Có lẽ người ta lầm gã với một tên trọng tội nào đó. Tại sao gã không đến trước nhà chức trách minh oan? Tại sao gã lại cuống cuồng, vội vã bỏ chạy như một tội phạm? Nghĩ tới người bạn có thế “giải oan”, làm chứng nhân cho gã, gã lần bước về phía những toa xe trước. Gã nhớn nhác tìm mãi không thấy người bạn đâu cả. Có lẽ hắn rời khỏi tầu từ lâu.
Trong lúc gã chưa biết tính toán giải quyết sao, đang chập chờn nửa ngủ nửa thức, gã nghe tiếng người nói lớn “Tới rồi!”. Gã bật hỏi: “ Tới rồi là tới chỗ nào?”. Người vừa nói nhìn gã ngạc nhiên: “ Anh mới đi lần đầu à?”. Chẳng đợi gã trả lời, hắn nói liền: “Đây là biên giới hai nước. Anh chuẩn bị tiền bạc để cúng cho bọn lính biên phòng đi. Không hối lộ chúng trói lại như trói con heo tống xuất về nước đó”.
Gã cười méo sệch miệng, đến tiền ăn còn chưa có lấy đâu ra tiền cúng mấy “ông kẹ”.
Tầu ngừng lại trước một nhà ga nhỏ, lúc ấy có lẽ ngoài nửa đêm. Sương muối bay rải rác ngoài trời rồi ùa vào trong toa lạnh buốt. Bọn bán quà bánh nước uống, đủ các cỡ già trẻ lớn bé, nhẩy lên tầu tranh giành nhau mời mọc khách rối rít. Một mụ sồn sồn to béo, đặt giỏ bánh trên đầu xuống và ngồi xệp trước mặt gã mời mọc: “Ăn đi, bánh mới ra lò ngon lắm!”. Gã buồn bã lắc đầu, quay mặt đi nuốt nước bọt. Mụ cứ dụ mãi, lại còn cầm chiếc bánh dúi vào miệng gã. Cầm lòng không được, gã há mồm không kịp nhai, nuốt đại cái bánh suýt nghẹn. Mụ bán bánh tưởng vớ được khách sộp, cứ luôn tay đưa những chiếc bánh nhét đầy vào mồm gã. Ăn tới khi không ăn được nữa, đôi mắt gã trợn ngược lên. Gã bị bội thực ngã lăn quay ra sàn tầu trước sự la lối của mụ béo bán bánh. Mụ cho tay lùng sục túi áo quần gã. Không có gì, mụ tức điên lên mồm thì la lối chửi bới, tay thì đánh vào mặt, chân thì đá vào bụng gã. Đau quá gã ngất đi trước sự thờ ơ, coi như không có chuyện gì xẩy ra của các bạn đồng tầu.
Chẳng biết gã bất tỉnh bao lâu, khi tỉnh lại thấy mình nằm trong một căn phòng tăm tối chật chội, nồng nặc mùi người hôi hám và chung quanh gã toàn những bộ mặt dữ dằn xa lạ, có lẽ không phải người đồng hương với gã. Gã đưa tay xoa mặt thấy còn sưng và bết máu khô, tay chân vẫn đau nhức rã rời, hậu quả trận đòn trên tầu. Nghe tiếng mấy “bạn tù” sì sồ, gã nhận ra ngay đây là bọn can phạm người Tầu. Chẳng lẽ mình bị bọn công an Tầu bắt? Quả đúng vậy. Sau một thời gian giam cầm, tra khảo lấy cung, gã bị đưa ra tòa kết án 10 năm tù về tội gián điệp. Nhưng sau 5 năm gã được tha.
Gã được thả về nước và vẫn di chuyển bằng xe lửa, nhưng lần này không phải đi “chui” như lần trước vì “nhà nước bạn” cấp cho vé đi tầu và cả lương khô. Thấy cảnh cũ người xưa đã đổi khác nhiều. Gã nghĩ tới gia đình cha mẹ vợ con, muốn về nhưng nhớ tới cái bản cáo thị truy bắt năm nào gã lại rùng mình sởn gáy. Gã nghĩ không chừng vợ con mình cũng bị đầy ải nơi nào rồi. Bây giờ đem thân về có khác gì chui vào miệng cọp! Trong lúc chưa biết quyết định ra sao thì tình cờ gã được bọn buôn lậu quốc tế bằng đường thủy thuê vận chuyển hàng. Thế là sau những ngày lênh đênh trên sông biển, gã tới nước láng giềng phương Nam. Được trả một khoản tiền nhỏ, gã vừa tính chuyện định cư làm ăn lâu dài thì hai nước xẩy ra chiến tranh. Bọn lính tráng và dân chúng địa phương cứ gặp người Việt là lôi ra bắn giết liền. Gã may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Gã thấy trời đất bao la thế này mà không có lấy một chốn dung thân, chỗ nào cũng đầy đe dọa, chỗ nào cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn tù đầy giết chóc. Thôi thì ta trở về nước để được chết trên quê hương vậy, dù sao vẫn hơn bỏ nắm xương tàn nơi xứ người. Gã vượt rừng lội suối ngày đi đêm nghỉ. Gian lao vất vả chịu đói chịu khát dầm sương giãi nắng, nhiều lần tưởng chết vì thú dữ, trải qua mấy tháng trời cũng lần mò về tới thành phố của mình.
Trước khi về nhà gã phải dò dẫm xem xét tình hình ra sao đã. Đang lang thang những bước vô định, tình cờ qua nhà một người bạn cũ. Đây là dịp may để gã biết được việc nhà và tình thế. Lưỡng lự mãi gã mới dám bước vào nhà bạn. Đã có kinh nghiệm về người bạn trước, lần này nếu người bạn cố tình phớt lờ, gã sẽ xin lỗi lầm nhà và chuồn ngay. Nhưng thật bất ngờ, mặc dầu gã đã thay hình đổi dạng râu ria rậm rì, người bạn vẫn nhận ra, ôm chầm lấy gã mừng rỡ reo lên: “Trời ơi, cơn gió lành nào đưa anh lại đây vậy? Cha mẹ anh, vợ con anh tìm anh đã mòn cả mắt. Tôi xin có lời chúc mừng anh. Những ngày tới đừng quên thằng bạn này nhé!”. Gã ngẩn người ra vì ngạc nhiên, lặng đi đến mấy phút gã mới cất được tiếng hỏi: “Có gì mà anh chúc mừng tôi một cách lạ lùng vậy. Có lẽ vợ con tôi..?”. Người bạn không nói thêm một tiếng, vui vẻ và lẳng lặng kéo tay gã đi tới một công viên gần đó. Tới nơi, người bạn chỉ tay vào một tấm bảng lớn đặt trước cổng công viên. Trên tấm bảng có vẽ một bức chân dung lớn với những hàng chữ bên dưới ca ngợi nhà cách mạng, người anh hùng, người yêu nước vĩ đại. Gã dụi mắt lần nữa để nhìn. Đúng là gã chứ còn ai vào đây nữa, chẳng sai một chút nào, y hệt như bức hình truy nã gã mấy năm trước. Gã thất sắc, trong khi người bạn đang nói lời chúc tụng thì gã bất thần vùng chạy. Cứ thế cắm đầu chạy, chẳng biết chạy đi đâu, mặc cho người bạn lớn tiếng gọi. Mải ngoái nhìn về phía sau xem có ai đuổi bắt, gã vấp phải cục đá té ngã. Người bạn chạy lại đỡ dậy hỏi: “Anh sao vậy?”
Gã thở hổn hển và ấp úng đáp:
“Tôi, tôi cũng không biết nữa. Những việc xẩy ra với tôi.”.

Thanh Thương Hoàng

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

NGƯỜI MẶC ÁO GIẤY

Hồ Đình Nghiêm

Bà Sáu ở sát nhà má tôi. Sống đơn thân giữa vuông đất được ngăn bằng ván bằng gỗ bằng những vật liệu chắp vá nghĩ có thể cản được gió mưa. Bà kiếm được công việc rửa chén, đổ rác ở một quán nhậu đông khách ngoài phố. Buổi trưa đi buổi tối về. Làm suốt, chỉ nghỉ việc vào ngày thứ hai trong tuần. Chợ búa cơm nước không màng tới vì ở chỗ làm được người ta bao ăn. Căn nhà nương náu vốn lạnh lại càng lạnh thêm.

Bà Sáu không họ hàng thân thích, hình như chỉ có hai nhân vật xét hợp tình hợp cảnh để “giao lưu tình cảm”: Má tôi và chú Chín. Chú Chín là người giao tiếp rộng do công việc xúi thế: Bán vé số. Chú đi hang cùng ngõ hẹp trên đôi chân một thật một giả, bị chú là thương phế binh. Nghe đồn trước chú ở Sư đoàn 18, ngày cuối trong quân ngũ đã uýnh một trận thật hoành tráng một mất một còn. Gạt lệ thua buồn vì cụt một giò và làm hàng binh không bị đi học tập cải tạo. Chú sống với thằng con trai làm thợ hồ, vợ bỏ qua Cam xa lìa đất mẹ đã lâu chưa hề quy cố hương. Bàn về người vợ lạt tình, chú Chín nói lời dễ nể: Mình thương bả không hết sao ở đó lại buông lời trách móc. Thân mình chẳng còn lành lặn, bả đi là cốt cho mình được nhẹ người, thôi trách nhiệm. Mình nuôi mình từng ngày chưa chắc đã êm!

Sống thanh bần giản tiện, có nhiêu tiền bà Sáu đều bỏ ra mua vé số, một cách giúp chú Chín bớt đi xa. Một cách kiếm cớ để cả hai nói này nói nọ, chuyện thiên địa vòng vo đất trời thì suốt đời chẳng vơi cạn nguồn cơn.

Một bữa nọ bà Sáu la lên, bả không rêm mình trúng gió để nhác chơi. Ba tư năm cứ vào ra trong nhà trở chứng chây lười lao động. Không đợi má tôi han hỏi, bà Sáu cho hay: Hoàng thiên hữu nhãn, tui vừa trúng số, mộng mị cuồng điên, tính tìm gặp chú Chín đặng biếu chú ít nhiều. Má tôi nói mà như ca cải lương: Chín nó rày đây mai đó, như bóng chim tăm cá đâu hay biết căn hộ Chín nằm ở phương nao. Nếu Chín biết hắt hơi nhảy mũi mí mắt giật lia giật lịa thì Chín sẽ tìm tới Sáu, lo gì!

Bà Sáu đi ra mấy quán cà phê, quanh quất bốn mặt chợ rậm rật cũng không nghe ra động tĩnh về chú Chín. Có đụng mặt thằng con làm thợ hồ đang thất nghiệp. Mày biết ổng đi đâu không? Tìm ông già tui hả? Chi vậy?
Ừa, muốn biếu ảnh chút tiền, chỉ có nhiêu thôi. Ổng về làng kỵ giỗ ông bà gì đó, ai biết. Đưa tiền đây, hồi nào ổng lên tui trao lại cho.

Bà Sáu ngó tướng bặm trợn thằng con chú Chín, chừng nghe như lời chú Chín thầm thì thủ thỉ trong tai: Hắn tiếng là con ruột mà nào coi tui ra kí lô gì, thời buổi này chừng chẳng còn tình phụ tử, không khéo láng cháng nó uýnh mình cho tới hồi trồi máu họng. Bà Sáu nhớ vị trí cái túi đựng đúng 100 ngàn, moi ra hết: Mày đang thất nghiệp thì cầm cái này đặng có mà xoay xở. Hồi nào cha mày lên nhắn ảnh tới tìm tao.

Mang chục cam sang biếu má tôi, hai người đàn bà nhỏ to bàn luận điều gì xem chừng tâm đầu ý hợp rì rào suốt năm canh. Và sáng hôm sau tôi được bà Sáu cậy việc: Mày có ăn học, kiếm tấm bìa cứng viết giúp tao ít chữ “Cơm phần phát không”. Bà Sáu mượn nồi niêu của má tôi loay hoay củi lửa quyết dùng số tiền trời cho mang ra làm việc từ thiện. Cơm, canh đi cùng món xào hoặc thịt kho mặn. Ban đầu nấu thử hai mươi khẩu phần, tuần sau phải nổ lực thức khuya dậy sớm nhân lên gấp đôi. Thực khách đa phần khố rách áo ôm hoặc con cái nhà ai sống lê thân đầu đường xó chợ. Có người đề nghị đổi tấm bìa mới ghi rõ chữ “Nhà Tình Nghĩa”, lại có kẻ đề bạt: “Tin mừng cho người nghèo”. Chộn rộn nhưng trật tự. Mệt mỏi nhưng đầy chật tiếng cười.

Thằng con chú Chín có ghé qua, mắt trợn môi trề chừng như luận bàn chuyện phải trái với bà Sáu. Ông già tui đi bán vé số ở địa bàn tỉnh khác, xâm phạm luật lệ và bị nhà nước bắt giam. Ổng cần hai triệu để bôi trơn. Cứu người hơn xây am, hãy đưa tui tiền hòng sớm chạy việc.

Túi bụi lùng bùng, mồ hôi mồ kê, son chảo tùng xèn, bà Sáu thở dốc: Làng nước ơi! Luật nào kỳ khôi vậy cha, tao hổng tin đâu, để tao lên chỗ cung cấp giấy số hỏi cho ra lẽ. Mày có ưa ăn cơm thì nói tao liệu. Con chú Chín sa sầm nét mặt, mắt láo liên tuy không đong đầy sát khí nhưng hiển lộ một tia nhìn hung hiểm.

Làm việc từ thiện, muốn thành tâm giúp thế nhân nghèo khổ chẳng phải là chuyện dễ. Tha nhân lưu lạc ghé ăn, mười đứa hết tám đều dính ngộ độc thực phẩm. Nôn oẹ, tiêu chảy, xâm xoàng chóng mặt, đổ mồ hôi trộm, lạnh buốt tứ chi. Cơm phần phát không bị tổ công an đặc nhiệm phong toả sờ gáy. Bà Sáu mặt cắt không ra giọt máu đứng á khẩu, ê a thua cả con nít tập nói tiếng đầu đời. Ai đã ngậm máu phun người? Ai đã vu oan giá hoạ? Ai đã mặt người mà dạ thú? Còn ai trồng khoai đất này! Thằng con chú Chín là chính danh thủ phạm. May thay trong bể khổ có người ngoi đầu lên nhớ lại một sự việc: Tui thấy hắn có ghé cửa hàng bán thuốc trừ sâu diệt chuột bữa đó. Làm tiền không xong hắn chẳng ngại xuống tay hạ thủ. Công an chốt lại vụ khám xét hiện trường: Bắt nó! Đồng thời không cho bà Sáu làm chuyện ruồi bu. Có gì nhà nước lo, ai khiến bà đành hanh xí phần giúp đỡ kẻ bất hạnh. Làm vậy hoá ra là nhà nước ta toàn một lũ khốn khó? Đứt phim hay dẹp tiệm cũng một nghĩa như nhau! Rửa tay gát kiếm. Táng gia bại sản.

Phát lệnh truy bắt thằng con chú Chín hôm trước thì hôm sau chú Chín từ đâu hiện về. Bà Sáu nói: Tui chờ tui đợi tui trông mà cứ biền biệt, nay tiền bạc như mây trôi gió cuốn đâu còn nước nôi gì để chia sẻ chút tài lộc mong manh. Tui sẽ đi xa, không ấy tui bàn giao cho chú căn nhà xiêu vẹo này đặng làm nơi tá túc tránh gió mưa được bữa nào hay bữa đó. Chú Chín không nói gì. Chú và má tôi là hai người chứng lẻ loi hay biết xóm nhỏ từ nay vắng bóng bà Sáu. Tôi giật tấm bìa chữ tôi viết nắn nót xuống. Nó chưa kịp bạc màu theo một nắng hai sương.

Khi mọi người xua đi được hình ảnh bà Sáu ra khỏi bộ nhớ, một hôm ai trông nửa lạ nửa quen ghé về bần thần trước cửa nhà má tôi. Chú Chín đã đi bán vé số, nhà đóng cửa. Chỉ có má, chỉ riêng má còn nhìn nhận ra: Mèn đét ơi, phải bà Sáu đó hôn? Một nụ cười khai mở trên gương mặt chứa đầy vẻ chịu đựng. Nụ cười chừng xác tín cho sự nhận diện kia. Đi với bà Sáu còn thêm một bạn đường, cả hai phục sức như nhau, đầu bịt khăn lại còn đội nón lá lên. Nón để che nắng và nó chừng yểu mệnh việc ngăn cản bụi đường. Nghiêng lệch, bạc màu, hình thù thôi nguyên vẹn.

Má tôi mời hai người vào nhà. Họ cởi nón và họ quả làm khó cho mắt ai muốn đoán non già một lượng định tuổi tác. Không tên không tuổi. Nếu chị còn nhớ tui là Sáu thì xin cứ kêu người này là Bảy, tiện cho việc xưng hô. Má tôi xởi lởi: Sẵn có cơm đạm bạc, cả Sáu cả Bảy chớ khách sáo mà cùng ngồi vào mâm so đũa ăn bữa lót lòng. Bà Sáu trông xuống những mắm những trứng luộc bèn chắp tay: Dạ, tụi tui trót nguyện ăn chay e chẳng nên phá hỏng buổi cơm này. Chỉ là tiện đường nên tạt qua nhìn ngó cảnh cũ người xưa lần cuối, được uống miếng nước lạnh thì không gì quý hơn. Má tôi hỏi: Bấy chầy bà Sáu đi mần ăn đâu xa? Dạ không, tui xuất gia gửi thân nương náu trong chùa. Vì vắn duyên phận nên ngôi chùa ấy vừa bị nhà nước giải toả đập phá san bằng thành bình địa.

Má tôi rót đầy hai ly nước đun sôi để nguội vì xem chừng khách đã khô hơi rát cổ, khốn khổ khi thốt nên lời. Vừa đưa tới tay vừa ném ra câu thăm dò: Vậy chớ tương lai hoạch định ra sao? Bà Sáu chỉ tay vô người kia: Tui theo chị Bảy về làng chị ấy học làm nghề nông, đi cấy lúa hoặc chăn dắt trâu bò. Má ngó chị Bảy: Chốn ấy bao xa? Người mang tên Bảy cười, bờ môi chuyển dịch trông như một vết cắt vừa xẻ trên khuôn mặt chứa đầy những nếp nhăn. Cười mà như khóc: Dạ, đi xe đò mất ngày đường. Tính chừng nào cất bước? Nhớ mang theo thức này để ăn tạm khi dong duỗi. Má tôi gói hai phần cơm trắng trong bẹ lá chuối đã hấp qua, gói tém lại ngó như hai cái bánh ú. Tiếc là chẳng có muối mè.

Họ có cái túi vải đeo chéo thân làm hành trang, cái túi lỏng lẻo kia vừa chứa đựng thứ lương thực chay hơn cả chay, ít ỏi tới mức cuối của ít ỏi. Họ chắp tay trước ngực: Dạ xin phép được kiếu từ. Họ đội nón lên đầu và họ thầm lặng ra phơi thân giữa lối đi chan ngập bỏng nắng. Họ bước, bàn chân như hỏng đất, xa dần. Má tôi không nói gì. Bà ngó theo dáng người hàng xóm cũ phai nhạt. Hồi lâu, ngồi bó gối chép miệng: Số phần! Chẳng biết họ đã có pháp danh chưa? Tại sao lại dây dưa tới những con số? Hết Sáu thì tới Bảy? Chú Chín nghe tin ắt hẳn sẽ buồn vào hồn không tên.

Hồ Đình Nghiêm

Post Reply