Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Chị Bẹo
Hoàng Ngọc Châu
Buổi trưa trời nắng chang chang, với cái bụng đói xẹp lép vì đã một ngày đói cơm, tôi đang lang thang chưa biết phải đến một nhà quen nào để kiếm một bữa ăn thì bỗng nghe có tiếng gọi:

– Cậu Châu! Cậu Châu!
Bạn chị Bẹo, Nguồn: amateurphotographer.co.uk

Bạn chị Bẹo, Nguồn: amateurphotographer.co.uk

Tôi đứng lại nhìn quanh quẩn, thấy chẳng có ai quen cả nên bỏ đi. Nhưng vừa đi được năm ba bước thì tiếng kêu lại gần như sau lưng:

– Cậu Châu! Cậu Châu!

Tôi nhìn lui, thấy một người con gái ăn bận không mấy đứng đắn, đang hăm hở đi tới nhìn tôi cười ra chiều thân thiết và thích thú lắm. Đợi cô gái đến gần, tôi hỏi:

– Chắc cô lầm ai với tôi rồi?

– Lầm răng được mà lầm! Cậu không nhìn ra tui răng cậu Châu?

Không biết tôi đã gặp giai nhân này ở đâu? Một xó xỉnh nào đó của tình yêu? Tôi cố đem hết trí sáng suốt của mình ra để họa may ra nhớ nổi. Nhưng chịu. Tôi không tài nào nhớ được. Tôi nhìn chăm chăm vào mặt cô gái để thấy có một chút quen thân nào không – nhưng cái mặt trát đầy phấn son làm dáng vụng về chỉ cho tôi thêm nổi bực mình. Bạc phước lúc này mà Thủy tình cờ đi ngang nhìn thấy tôi đứng nói chuyện với một cô gái mà vào bất cứ ngõ hẻm nào cũng nhan nhản thì tôi biết nói sao với nàng đây! Chắc chắn thế nào tôi cũng lảnh đủ những cái giận hờn, sai hẹn mà chưa chắc tôi ra công cả tuần đã năn nỉ được. Nghĩ đến lỡ bị Thủy tình cờ bắt gặp, tôi sượng trân mặt ra.

– Xin lỗi! Cô là ai mà tôi không nhớ?

Cô gái ngập ngừng như để nhớ ra một điều gì.

– Tui… là… là… Bẹo đây!
– Trời ơi! Chị Bẹo. Răng hồi ni chị khác quắc khác quơ dữ rứa?
– Khác chi mà khác. Có cậu mới khác kề. Cậu hồi ni vừa ốm lại vừa đen trông xấu xí ra răng.

Ðang buồn xo vì cái bụng đã một ngày không cơm không cháo, bây giờ lại phải nghe thêm những lời chào hỏi vàng ngọc này nữa làm nỗi hớn hở của tôi tự nhiên khựng lại. Tôi nghĩ giá như lúc nầy có một chiếc gương soi, chắc tôi sẽ nhìn thấy rõ ràng cái bản mặt xấu trai đói cơm của tôi nó quê mùa cục mịch lắm. Ðã đành rằng tôi đen đui, tôi ốm o, tôi xấu xí, nhưng chẳng thà chưi cha tôi có hơn không. Tôi bực mình định nói: cái chị này vô duyên thật! Bộ chị tưởng chị đẹp, chị thơm lắm chắc! Hết chuyện nói hay sao mà mới gặp chị đã tạt nước lạnh vào mặt tôi! “nhưng không hiểu sao tôi không nói được như vậy, mà lại nói khác đi”.

– Xin lỗi chị! Tôi có chuyện gấp cần phải đi.

Nhưng khổ quá trời ạ! Chị Bẹo vẫn không hiểu được tâm địa của tôi. Chị vẫn vồn vã gần như muốn cầm nắm tay tôi. Thật tội nghiệp cho chị và cũng thật tội nghiệp cho cả tôi!

– Chuyện chi mà gắp dữ rứa? Cậu để cho tôi hỏi thăm chuyện nhà chút đã. À, cậu đã ăn cơm chưa hay là đi ăn với tụi tui cho luôn rồi kể chuyện nhà chuyện cửa cho tôi biết với.

Rồi chị đưa tay chỉ về phía cây vông đồng, nơi có ông Mỹ đen đang đứng ngậm điếu xì gà to tổ bố:

– Chồng tui đó.

Nhìn cách ăn bận và mặt mày phấn son của chị Bẹo tôi cũng đoán biết như vậy rồi. Nhưng tôi vẫn làm bộ ngạc nhiên và khen móc họng:

– À! Chị có phước quá hí.

Ðược tôi khen ý chừng chị Bẹo sung sướng lắm. Chị cười híp mắt lươn:

– Phước chi mà phước. Nì! mà răng cậu có đi ăn cơm với tụi tui không?

Ðang đói bụng nghe đến ăn cơm là mắt tôi sáng rực lên. Lẽ tất nhiên không có cách chi mà tôi từ chối được cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại làm bộ rất trái với lương tâm.

– Thôi chị để cho khi khác đi.

Nói xong, tôi thấy hối hận và hồi hộp. Tôi nghĩ mình dại dột thật. Tôi tự trách mình tại sao lại ngu ngốc nói dối chi vậy, lỡ chị Bẻo nói: “Ừ thì thôi để khi khác cũng được” thì sao. Tôi tự chửi thầm mình: “thì đáng đời mày lắm. Cho chừa dốc đi”.

Nhưng may quá.

– Khi khác chi mà khi khác. Biết có gặp cậu nữa không. Chồng em tuy trông dữ tợn rứa chớ nó hiền khô. Cậu đừng ngại chi cả.

Lẽ tất nhiên là tôi sướng rơn. Vậy mà tôi cũng vẫn làm bộ làm tịch thật đáng ghét.

– Ừ! Thì tôi chiều ý chị Bẹo vậy.

– Cậu đừng có kêu tôi là Bẹo nữa. Tui đã bỏ cái tên Bẹo quê mùa đó đi rồi. Bây giờ tui là Ly Ly. Cái tên Bẹo đã xa lắc xa lơ cậu kêu lại tôi ốt dột lắm.

Tôi bỗng cười thầm. Những kẻ xấu xí vô duyên bao giờ cũng chọn lựa cho mình một cái tên đẹp đẽ hết. Có người mở miệng ra cười méo xẹo lại là Duyên, có người đứng bên thì mùi hôi nách tỏa ra muốn ói muốn mửa lại là Hương, Thơm. Cũng như chị Bẹo đây: mập cỡ như tạ gạo một trăm ký vậy mà lại là Ly Ly. Tôi muốn hỏi chị Bẹo: “Tại sao chị không lấy tên là Tạ Tạ hay Thúng Thúng chi đó có hợp và đúng hơn không?” Nhưng sự hèn hạ thường tình của con người làm tôi không có đủ can đảm để hỏi, nên tôi đành chỉ biết cười thầm.

Chị Bẹo đưa tay ngoắc người Mỹ đen và gọi:

– Bờ Rao.

Dưới nắng vàng, một thân hình to lớn cở bằng năm người tôi, đen thui như cốt nhà cháy và bóng láng như tượng đồng được bôi lên một lớp dầu phụng, đang di động. Đó là Brown, chồng của chị Bẹo.

Khi Brown đến gần, bằng một thứ tiếng mới – thứ tiếng nửa Việt nửa Mỹ pha lẫn vào nhau đang thịnh hành khắp các thành phố đầy dẫy người ngoại quốc – chị Bẹo giới thiệu tôi với Brown. Brown đưa bàn tay đen đúa, bóng láng, kịch cởm ra bắt tay tôi. Và cực chẳng đã vì phép xã giao lịch sự tôi mới đưa tay bắt lại tay Brown. Không phải tại tay Brown trơn tru nhớp nhúa mà tôi chê. Tôi sợ thiên hạ hai bên đường hiểu lầm tôi là một tên ma cô chuyên đưa đường dẫn lối. (Dù có chắc gì tôi làm nổi được cái nghề ma cô. Khi mà bất cứ nghề nào trong đời sống này muốn làm cho được thật nhiều tiền thì phải: bất lương, lưu manh, thủ đoạn, mưu mô, xảo quyệt, hèn hạ, bần tiện, và hàng trăm thứ nhớp nhúa khác nữa làm sao tôi có được).

Cũng may quá, chỉ đi ba bước là tới nhà hàng, không thì cái mặt của tôi cũng như cái mặt mo.
Trong đời tôi đây là lần đầu tiên được bước chân vào nhà hàng sang trọng. Chị Bẹo thì như đã quen thuộc lắm. Mới ngồi xuống ghế chị đã kêu lia lịa.

– Cho hai lon bia.

Rồi chị quay sang tôi:

– Cậu Châu uống gì?

– Cô-ca cũng được chị.

Tuy tôi làm ra vẻ “gì cũng được” nhưng thật ra thì tôi uống bia rất tệ, chỉ một lon cũng đủ chếnh choáng và mặt mày thì đỏ như cắc kè.

Chị Bẹo như đi guốc trong bụng tôi:

– Cậu con trai chi mà cù lần dữ rứa. Con trai mà uống Cô-ca là quê cùng mình đi. Phải tập uống bia cho khỏe mạnh ra chứ cậu.

Lời của chị Bẹo thật tình, tự nhiên không có ý gì cả, nhưng giọng chị oang oang ba làng cũng nghe làm tôi có cảm tưởng mọi người đang có mặt đều nhìn tôi cười thương hại. Tôi sượng trân người nhưng cũng bấm bụng cắn răng mà chịu đựng. Tôi đói quá đành phải lì mặt. Sá gì những tiếng cười chê.

Khi người bồi bàn mang bản thực đơn đến, chị Bẹo hỏi tôi:

– Cậu Châu muốn ăn gì?
– Ăn gì cũng được chị. Miễn no bụng. Cần chi.

Chị Bẹo nói với người bồi bàn:

– Cho 3 bồ câu hầm, 3 cua rang muối, 3 chén súp gân nai, 3 dĩa cơm chiên dương châu, và một tô canh bông cải nấu lòng heo.
Cua rang muối. Nguồn: cuacamau.info

Cua rang muối. Nguồn: cuacamau.info

Thấy được ăn nhiều món ngon tôi mừng khúm, nhưng vẫn làm bộ.

– Chi mà nhiều món dữ rứa chị.

– Thời buổi chiến tranh ni làm có tiền mà không ăn cũng uổng. Biết chết sống chi mô.

Tôi hỏi chị Bẹo bằng giọng thân tình.

– Một tháng Brown đưa cho chị bao nhiêu?

– Hắn keo kiệt lắm. Lương hắn gần 500 đôn xanh mà hắn chỉ đưa tôi có 200. tôi phải kiếm thêm những thằng khác nữa mới đủ tiêu.

– Chị tiêu chi mà tiêu dữ rứa?

– Tui rứa là hạng bét đó. Tụi con Hương, con Phấn lần đánh bạc thua cả ngàn đôn xanh.
– Chị cũng biết đánh bài nữa?
– Cũng phải biết như tụi nó không tụi nó cho mình quê mùa, cù lần thì làm sao sống nổi. cậu biết không; tiền cơm tháng mười ngàn, tiền nhà mười hai ngàn, hắn trả hết. Ngoài số tiền hắn cho ra, tháng tháng tôi còn kiếm được vài ba trăm đôn nữa là tệ, rứa mà cũng chỉ vừa đủ tiêu vặt và cho mấy thằng em út.
– Em út nào?
– Thì mấy thằng cảnh sát dã chiến. Phải cho nó ăn như vậy nó mới che chở và bao bọc cho mình. Không thì bố ráp xét gia đình hoài còn làm ăn gì được.

Chao ôi! Thật là khủng khiếp. Năm trăm đôn một tháng mà chỉ tiêu vặt. Tôi không hiểu tiêu cái kiểu cách chi mà dữ vậy. Năm trăm đôn xanh tính theo giá chợ đen rẻ mạt cũng được bảy mươi lăm ngàn. Ôi! Số tiền mà chắc chắn suốt đời tôi cũng không có cách chi cầm nắm trong tay. Nếu tôi nhịn ăn nhịn mặc và cố đem hết sức mình ra mà làm thì ít lắm cũng là năm năm tôi mới (hy vọng) dành dụm được một số tiền lớn lao như thế này. Vậy mà chị Bẹo chỉ tiêu vặt trong một tháng.

– Cậu Châu có thấy tui hồi ni có khác chi không?

Nghe chị Bẹo hỏi tôi không biết răng trả lời cả. Tôi nhớ đến cái con Bẹo lem luốc chưa sạch mũi và một dạo nào mới đến giúp việc cho gia đình tôi ở trong Thành Nội. Cái con Bẹo đen thui, mũi chảy lòng thòng là đây sao? Cái con Bẹo mà chuyên môn chưởi lộn với trẻ con hàng xóm là đây sao? Cái con Bẹo mà mẹ tôi thường chưởi: “Mày sau này chỉ có nước chó lấy chớ ai mà thèm” là đây sao?

– Răng mà cậu trơ mặt ra rứa?

– À! À! Chị hồi ni thay đổi nhiều quá nên tôi không còn nhớ hồi trước chị ra răng nữa cả. Chị bây giờ và hồi trước như là hai người. Hồi trước chị xấu xí bao nhiêu bây giờ chị lại đẹp đẽ bấy nhiêu.

Không hiểu sao tôi lại khen nịnh chị Bẹo một câu tréo cẳng ngỗng như vậy được. Tuy bây giờ chị không còn mũi chảy lòng thòng như hồi nhỏ và nước da cũng không còn đen như mọi cà lơ, nhưng chị đánh phấn thoa son quá vụng về nên trông gương mặt của chị quá tội nghiệp và thảm thương không có cách chi diễn tả được. Tôi cố hình dung ra cô đào hát của một gánh hát nghèo đói về trình diễn tại một vùng khỉ ho cò gáy để so sánh chị Bẹo có hơn được tí nào không, nhưng không những chị Bẹo đã không hơn mà chị còn xấu đui xấu điếc gấp mười lần. Ngoài cái trán vồ, đôi mắt lươn hi hí, cặp lông mày tỉa sắc lẻm và nhọn hoắt, lỗ mũi gãy và xẹp, miệng chù vao như miệng chó đói cơm, chị còn có cái sẹo to tướng và láng xầy nằm ám chướng từ đuôi con mắt bên phải đến cuối lỗ tai. Dù chị đã có ý uốn một kiểu tóc lòa xòa để cố che lấp nó đi nhưng cũng không tài nào che kín được.

Vậy mà tôi lại khen chị đẹp. Thật tôi là một thằng có cơm nói cơm có rượu nói rượu giỏi nhất trên đời. Và thật tội nghiệp cho chị Bẹo! Được tôi khen, chị cười ra chiều thích thú, hai tay chị xoa vào nhau, và dù chị cố làm cho ra vẻ tự nhiên, nhưng tôi biết trúng tim đen là chị muốn khoe chiếc nhẫn hột kim cương sáng chói.

Chị Bẹo bỗng hỏi:

– À! Khi hồi chừ tôi quên – Ông Bà hồi ni ra răng?

Khi không phải nhớ lại chuyện nhà, làm tôi buồn buồn:

– Hình như chị xa vài năm thì ba tôi mất. Mẹ tôi thì bị đạn chết hôm tết Mậu Thân.
Huế, 1 tháng 2, 1968. Nguồn: Getty Images/Terry Fincher

Huế, 1 tháng 2, 1968. Nguồn: Getty Images/Terry Fincher

Chị Bẹo sửng sốt:

– Rứa mà tôi có biết chi mô. Tội nghiệp bà! Bà chưởi tui rứa chớ mấy năm ni tui nhớ bà quay quắc.

Rồi chị khóc ngon lành. Những giọt nước mắt thật tình ứa ra từ nỗi nhớ thương thăm thẳm nào đó làm ướt hai gò má phấn son vụng về của chị thật tội nghiệp. Nhìn chị Bẹo, tôi thấy có một cái gì làm cho tôi cảm động hết sức, nhưng tối cố gắng để khỏi phải khóc theo chị.

Chị Bẹo hỏi tiếp với giọng vẫn chưa ráo nước mắt:

– Chị Trâm và O Quỳnh hồi ni răng cậu?
– Chị Trâm đã có chồng và đã có hai đứa con. Anh Trọng chồng chị Trâm hôm tết Mậu Thân bị cụt một chân nên đã được giải ngũ, còn Quỳnh thì đi theo một thằng nào đó ở Tam Kỳ.

Tội nghiệp chưa! O Quỳnh hồi ni chắc đẹp dữ lắm. Hồi trước O trắng như bông. Răng cậu không vẽ vời cho O với. Cái thằng cha mô đó cũng độc địa thật. Dụ dỗ con gái người ta rứa khi chết nó không bị đọa địa ngục là họa.

Tôi bỗng nhớ đến bầu trời Thành Nội; khu vườn rộng vang tiếng chim kêu, bốn hàng cây nhãn trái sây và ngọt thanh như mía mật; cây thanh trà tép lớn và ngon không chịu được; hai hàng cau tháng giêng trổ bông trắng như tơ trời, thơm như gạo mới; bốn hàng rào trồng chè tàu tỉa đều, lưa thưa năm ba buội cẩn bốn mùa trổ bông đỏ ối, ngôi nhà ngói ba gian hai chái mà cột, kèo, xuyên đều làm bằng một thứ gỗ mít láng xẩy và bóng lộn. Đó là nơi có ba tôi với tuổi về hưu, có mẹ tôi ngày hai buổi vun cây nhổ cỏ quanh vườn và có chị em tôi như bầy chim sáo. Ngày tôi đi cà lất thất trở về, khu vườn xưa đầy dấu bom đạn, mấy hàng cây gãy ngang quằn quại, ngôi nhà thân yêu đổ nát, tiếng chim kêu lạc lõng cuối vườn, chị tôi ngồi buồn bã giận hờn “em răng vô tình dữ rứa? Chi đi nữa em cũng là con trai. Răng em không đi luôn đi, về chi nữa cho linh hồn mạ thêm tủi hổ!” và em tôi khóc mếu máo “anh ơi, bữa nớ mạ đang còn cầu nguyện, chị Trâm và em hối mạ đi núp thì mạ nói núp chi cho bằng cầu nguyện Phật che chở. Thình lình một quả cà nông rớt ngay nhà mình và mạ chết tươi không kịp trối anh ơi!” Trong tiếng thở dài đứt ruột của chị và trong tiếng khóc não lòng của em, tôi chỉ biết ngồi cúi đầu yên lặng giữa đổ nát mà nghe lòng mình như có ai cào xé, mà nghe hồn mình như có lất phất mưa bay.

Nghĩ đến cảnh nhà khi không rách xơ xác như tàu lá chuối trong ngày bão lớn, tôi buồn muốn khóc như ngày hay tin Quỳnh – đứa em gái mà tôi thương như thương con chim sáo thuở lên mười – đã hư hỏng và dại dột bỏ nhà theo trai.

Tôi nói với chị Bẹo, mà như cũng để an ủi mình:

– Chắc có lẽ do số trời cả chị!

– Còn cậu hồi ni răng. Đã có vợ con chi chưa?

– Ai mà thèm lấy tôi chị. Một mình tôi đây mà còn đói lên đói xuống, huống hồ đèo bồng thêm vợ con.

Chị Bẹo đưa khăn tay lên lau nước mắt và khịt khịt hỉ mũi. Đoạn chị quay sang phía Brownn và chị nói chi đó với Brown tôi nghe không được rõ. Vì chị không những nói bằng miệng, bằng lời, mà còn bằng tay bằng mắt và bằng cả bộ tịch nữa nên người nghe muốn hiểu thì phải vừa nghe vừa đoán vừa mò. Thằng Brown cũng vậy. Tôi thấy mắt hắn mở tròn theo cái múa tay của chị Bẹo, mặt hắn nhíu nhíu theo cái bặm môi của chị Bẹo.

Khi chị Bẹo quay sang phía tôi, không hiểu sao tôi lại khen chị Bẹo một câu rất hợp với cái bao tử.

– Chị nói tiếng Mỹ giỏi quá. Chắc chị học lâu lắm mới được.

– Học chi mà học. Tiếng Mỹ dễ ẹt. Nghe tụi bạn nói thì bắt chước chớ cần chi mà phải học cho mất công.

– Tài ba như chị Bẹo vậy thật là bậc nhất. Tôi đã học chăm chỉ mấy năm mà mỗi lần có dịp nói chuyện với người Mỹ tôi vẫn thấy lúng túng một cách khó khăn lắm mới nói được một câu thông thường. Vậy mà chị Bẹo lại thấy dễ ẹt. Chị chỉ cần hoa tay, nháy mắt, mấy mấy cái miệng là xong.

Đến đây thức ăn đã bưng lên. Trong lúc bụng đói mà được hít những mùi thơm phức đặc sệt, tôi có cảm tưởng như đang ngồi ở một cõi thiên đàng cực lạc nào đó.

Nhưng vừa ăn được mấy miếng tôi bỗng khựng lại vì cái giọng của cô gái ngồi bàn bên kia nói vói sang với chị Bẹo.

– Chồng mầy ở quê mới lên thăm đó hả Ly Ly?

Chị Bẹo đưa mắt lườm lườm nhìn sang. Và khi đã nuốt xong miếng thịt, chị vọt miệng chưởi.

– Mẹ mày cái con đĩ ngựa. Mày không biết cứt gì thì im cái mồm thối của con lại đi. Nói bá láp có ngày bà vả rớt răng ra.

– Chị Bẹo dữ thật. Bao nhiêu danh từ hoa mỹ chị đem ra xử dụng một cách ngon lành không biết ngượng miệng. Tôi bỗng cười thầm. Con người của chị Bẹo tuy đã thay đổi, nhưng lời ăn tiếng nói chị cũng hàm hồ và quá quắt như trước không kém chi. Có điều lạ là nói chuyện với tôi chị nói đặc sệt cái giọng Huế quê mùa, nhưng chưởi lộn với người ta thì giọng chị lại lơ lớ giọng Nam pha Bắc.

– A! Cái bà này. Người ta hỏi chuyện đàng hoàng mà lại đi làm le. Ỷ thế có nhiều chồng chắc. Coi chừng. Chọc bà nổi giận là bà bắt cóc bớt một ông cho mà biết tay. Xem mày dám động đậy gì được sợi lông bà không.

Chị Bẹo bỗng lồng lộn một cách khủng khiếp.

– Cả họ nhà mày cái con cướp chồng người. Bà đ. có sợ đứa nào cả. Bà thách mày đó. Mày dám động đến sợi lông chồng tao coi. Bà đâu có ngu dại như tụi con Lan con Điệp mà để chồng cho mày giựt một cách ngang xương như vậy được. Hừ! Đừng có hòng.

Tôi có cảm tưởng như bao nhiêu cặp mắt đang đổ dồn về phía tôi. Tự nhiên tôi khựng lại. Cái mặt tôi sượng trân ra. Kỳ lạ chưa? Tôi có là chồng của chị Bẹo đâu? Tại sao tôi lại phải mắt cở một cách vô lý như vậy?

Chị Bẹo như đi guốc trong bụng tội.

– Mặc kệ chúng nó. Cứ ăn tự nhiên đi cậu. Bọn dơ dáy chúng muốn nghĩ răng thì nghĩ.
– Răng chị nổi giận dữ rứa? Người ta hỏi chuyện đàng hoàng mà.
– Đàng hoàng chi cái mặt con đó mà đàng hoàng cậu. Cậu không biết đó chớ nó đã lăm le muốn giựt thằng Brown của tui rồi đó. Đã có hai ba đứa bị nó giựt chồng một cách ngang xương rồi chớ ít ỏi hiền lành chi con đó. Tụi tui gọi nó là ngựa cái đó.
– Răng chưởi họ chị không chưởi giọng Huế mà chị lại chưởi giọng chi mô rứa?
– Giọng Huế mình hiền lành quá ai mà sợ cậu.

Bồ câu hầm ngon quá, cua rang muối ngon quá , súp gân nai ngon quá, cơm ngon quá. Tôi ăn bụng đã no kềnh nhưng vẫn cố rán mà ăn thêm. Ăn cho bỏ những ngày khổ cực thiếu thốn đói sau. Ăn để lâu lâu nhớ lại cho đỡ thèm.

Bàn bên cạnh một đứa bé gái khoảng năm tuổi bỗng khóc òa lên, mẹ nó dỗ ngon dỗ ngọt mấy nó vẫn không chịu nín, sau cùng bà liền đưa tay chỉ về phía Brown và dọa: này này, Ni na khóc đây ông kẹ.

Đó, đó, nín đi không mạ cho ông kẹ ăn thịt bây giờ.

Tức thì đứa bé nín im ru và mở tròn mắt nhìn chăm vào Brown sợ hãi.

Brown thấy vậy cũng cười cười ra chiều thân thiết. Nhưng khổ nổi hắn có cười kiểu cách chi đi nữa gương mặt hắn cũng không có được một chút xi xí hiền từ. Bởi ngoài hai con mắt lồi như mắt cá sấu và xếch lên như mắt ngựa, cái mũi như mũi kỳ lân, cái miệng rộng thùng thình, cặp môi dày cui trề ra kịch cợm, thêm màu da đen thui bóng láng, và đầu tóc cụt ngủn luăn quăn như lông chi đó bị cháy, nên trông hắn không còn giống một người nào trên trái đất này cả, mà ngược lại, với những nét dữ tợn hợp chung lại một trông Brown giống như loại quỷ sứ ở một cõi địa ngục nào đó.

Chị Bẹo tuy cũng xấu đui xấu điếc nhưng chị còn có nét hiền từ của con người nên trông chị còn khá hơn Brown nhiều. Brown dữ tợn như rứa mà có chị Bẹo để đêm hôm đầu gối tay ôm thì cũng nhất thiên hạ rồi.

Tôi cười thầm với ý nghĩ khôi hài đó và hỏi chị Bẹo:

– Khi nào Brown về nước chị có về theo không?

Suy nghĩ một lúc, rồi với giọng buồn buồn chị Bẹo trả lời:
– Hắn cũng có ý muốn đem tui về theo đó chớ, nhưng dại chi mà theo hắn cho mệt cậu. Cực khổ chi cũng là nơi chôn nhau cắt rún của mình. Qua bên xứ hắn rủi ro đau ốm biết nhờ cậy vào ai. Ở đây chi đi nữa người mình với nhau cũng dễ thông cảm. Cậu biết, nhiều lúc nói chuyện với hắn, hắn chẳng hiểu ất giáp là gì cả, hắn như là cà lơ mô thiệt khổ. Rứa mà theo về bên nước hắn hai ngày chắc tôi chết tươi. Thôi, cực khổ chi cũng là quê hương xứ sở mình cho rồi.

Tôi không ngờ một người như chị Bẹo lại còn nghĩ được như vậy. Tôi cảm động và thành thật khuyên chị:

– Chị cũng nên dành dụm chút ít tiền nong phòng khi đau ốm.

– Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi cậu. Chi chi cũng phải phòng lúc tra yếu chớ tiêu phí hết mô được.

– À, tôi nghe ngoài Kế Môn dạo này rộn dữ lắm mà gia đình chị ra răng?

– Chú mạ tôi thật khổ. Hồi đi được thì ông bà luyến tiếc cỏ cây vườn tược không đành bỏ mà đi, đến khi cực khổ chịu không nổi muốn đi thì bị họ kiểm soát gắt gao không đi được. Nghe mô hồi ni bên tê họ bắt đi dân công vận tải và đóng thuế cao lắm. Ở trong ni tui thì tiêu tiền như nước mà ở ngoài nớ thì chú mạ tui mần được một đồng cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới kiếm được. Nhiều khi nghĩ đến chuyện nhà tui khóc mấy cũng không hết nước mắt.

Rồi chị thở dài thật buồn. Và trong giọng nói ươn ướt nước mắt của chị Bẹo lòng tôi cũng ngùi ngùi lây.

Tôi an ủi chị Bẹo;

– Thời buổi chiến tranh mà chị. Chạy trời mô cho khỏi nắng được.

Chị Bẹo im lặng và buồn so. Tôi biết chị đang nhớ đến Kế Môn yêu dấu. Nơi chị đã ra đời và lớn lên. Nơi có cha mẹ già và em dại đang sống mỏi mòn quằn quại.

Thằng Brown vẫn ngồi tỉnh bơ. Nó vẫn vô tình không biết hiện vợ nó đang nhớ nhà đứt ruột.

Thấy đã xế chiều, với lại cũng đã quá no và không còn chuyện chi để nói nữa, tôi đứng lên vừa đưa tay bắt Brown và nói với chị Bẹo:

– Thôi chiều rồi. Xin phép chị khi khác gặp lại.
– Thỉnh thoảng cậu ghé nhà tui chơi.

Tôi vừa khẽ gật đầu vừa đi ra.

Trong sự no nê thỏa thích của một bữa ăn ngon nhất và có lẽ cũng sang trọng nhất trong đời, tôi nghĩ ở dưới âm phủ (nếu có) mẹ tôi biết được cái con Bẹo mà ngày xưa bà thường chửi: “Mày lớn lên chỉ có nước lấy chó chớ ai mà thèm” bây giờ lại lấy chồng Mỹ giàu sang ăn cơm nhà hàng lớn, ở nhà lầu cao, tiêu vặt mỗi tháng bảy mươi lăm ngàn đồng, thì thế nào bà cũng tìm cách đội mồ lên mà xem.

(Trích Bách Khoa TĐ số 305)
Sơ lược tiểu sử: Hoàng Ngọc Châu là tên thật. Tác giả sinh năm 1944 tại Kế Môn, Phong Điển, Thừa Thiên, Huế. Hiện sống tại Bảo Lộc, Lâm Đồng, Việt Nam. Ngoài viết văn còn làm thơ dưới nhiều bút hiệu như Hoàng Gỗ Quí, Hoàng Thị Thủy Tiên, Hoàng Ngọc Châu.

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Mùa thu cuộc tình

Tiểu Tử

Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.

Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết ” làm ” một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…

Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là ” đi chợ Tàu ” chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…

Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. “Chắc lá đã rụng đầy”, ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…

Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : “Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?” Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…

Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình. Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : “Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !”. Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : “Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?”. Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến “cái ngày không còn có nhau” đó.

Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng “văn phạm Nhà Nước”. Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…

Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy ! “Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !”. Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ “Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa” Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :

– Ông Georges ! Ông Georges !

Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :

– Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : “Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai”. Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : “Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !”. Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :

– Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?

Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :

– Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !

Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng “Nhưng mà… Nhưng mà…” trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

– Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !

Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !

Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu “Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai” Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là “thằng Năm trúng số độc đắc” hoặc “đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy”. Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !

Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó “sáng” ra mới được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn “nét” lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…

…Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải “bỏ bụng” một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho “lấy có” và ăn cũng cho “lấy có”. Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu “hai đứa gặp nhau” (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi “hai đứa hẹn hò” (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…

-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh :

– Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !

Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.

Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :

– Ông chờ đón bạn à ?

Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :

– Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.

Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…

Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu” lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có “gout”. Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái “gout” để vào đâu cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu “Gái không con mà nom cũng mòn con mắt”, nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !

Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục “điệu” như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có “tác phong cách mạng” thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng “Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”, bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : “Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được”…

Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : “Ông Năm !” Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : “Ông Năm…”

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : “Mai !” Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng “Ông Năm” như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : “Sao vầy nè ?”. Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : “Sao vầy nè… Trời ?”. Tiếng “Trời” nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà “tụi nó” chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !

Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

– Thôi mình về đi em !

Tiếng “em” thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng “em” mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

– Để em xách !

Tiếng “em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :

– Để anh xách cho.

Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :

– Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.

Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra “tụi nó” đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : “Quân khốn nạn !”

-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

– Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?

Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :

– Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.

Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !

Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :

– Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn.

Bà Năm dịu dàng :

– Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…

Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng “hai đứa” nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ “hai đứa” vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.

Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :

– Cây thánh giá này đây ?

Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :

– Để em soạn đồ ra.

Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.

Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…

Vừa làm bà vừa nói :

– Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.

Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :

– Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.

Có tiếng bà Năm nói :

– Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !

Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răn, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !

Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…

Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :

– Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.

Bà Năm nghi ngờ :

– Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.

Ông Năm cười sảng khoái :

– Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.

Ông vui vẻ :

– Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?

Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

– Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?

Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :

– Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !

Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…

Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.

Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : “Mình !”. Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng “mình” nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng “mình” mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng “mình” gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng “mình” cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng “mình” ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng “mình” gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng “mình” đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…

Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ ?

-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…

…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. “Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?”. Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho “nhân dân”. Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !

Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều…

Tiểu Tử

User avatar
mexanh
Posts: 475
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Post by mexanh »

MỘT KIẾP PHÙ SINH
Nursing Home, Một Chiều Mưa Bão
Tác giả: Nguyễn Bích Thủy
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! 

Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết:
- Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
Bà biết Quang đã đặt mua vé máy bay hơn hai tuần trước nên chuyện mưa bão hoàn toàn là do "ý trời". Hôm Quang gọi điện thoại báo tin sẽ sang thăm và ở chơi gần một tuần lễ, bà thật vui mừng và không tin vào tai mình, nhưng vẫn thấy lo lo trong lòng nên đã hỏi lại:
- Lần này con qua thăm má lâu vậy mà sao lại đi có một mình vậy con?
Quang hiểu ý má nên nói ngay để bà yên tâm:
- Hè này ba má vợ con từ Việt Nam sang thăm và ở chơi với tụi con trong vòng ba tháng. Họ đã ở nhà con được sáu tuần rồi, giờ đây muốn đi thăm bà con ở những tiểu bang khác. Nhân tiện mấy đứa nhỏ được nghỉ hè nên vợ con sẽ dắt chúng đi chơi cùng ông bà Ngoại. Con nghĩ đây là dịp hay nhất để sang "hủ hỉ" với má ít hôm để má đỡ buồn!

Bà có tất cả ba người con. Quang là anh cả và cũng là đứa quan tâm đến bà nhất nhưng ông trời cũng khá trớ trêu nên hai mẹ con gần như lúc nào cũng sống xa nhau. Hồi nó mới 13 tuổi đã phải theo ba xuống tàu vượt biên. Gần mười năm sau hai má con mới gặp lại thì nó đã trưởng thành và thường xuyên phải đi công tác xa nhà hai người cũng ít có dịp sống cạnh nhau. Nó là đứa vất vả với gia đình nhiều nhất và cũng là đứa có hiếu nhất trong mấy anh em. Ngay từ những ngày mới đặt chân lên nước Mỹ nó đã đi bỏ báo, chạy bàn làm đủ thứ việc để kiếm tiền phụ giúp ba lo cho má và hai em còn kẹt ở lại Việt Nam. Rồi đến khi xong lớp mười hai thay vì vào Đại Học thì nó lại quyết định theo khóa đào tạo chuyên viên kỷ thuật hai năm để sớm ra trường kiếm việc làm phụ giúp ba bảo lãnh một nữa gia đình sang Mỹ đoàn tụ. Phải chờ đến khi nhà cửa đã ổn định, các em đã vào đại học hết nó mới chịu quay lại trường để lấy bằng Kỷ Sư Xây Dựng.

Hai đứa em nó thì may mắn hơn thằng anh rất nhiều vì không phải nếm mùi "vượt biên" và lúc nào cũng có mẹ bên cạnh chăm sóc. Có lẻ chính vì thế mà tụi nó không có những đức tính chịu thương, chịu khó như anh của chúng. Con gái lớn của bà sau khi xong trung học thì vào Y Khoa rồi tốt nghiệp Bác Sĩ một cách khá dễ dàng, nó ra trường hai năm sau thì kết hôn với anh chàng Mỹ trắng lớn hơn vài tuổi và cùng học chuyên ngành Giải Phẩu. Cuộc sống của hai vợ chồng nó cũng khá hạnh phúc. Bà mừng cho con gái của mình.
Riêng thằng Út sau khi xong Đại Học ngành Tài Chính đã về đầu quân cho một hãng xe hơi khá nổi tiếng trong vùng. Làm được vài năm thì nó kết hôn với một cô Việt Nam vốn thuộc dòng danh gia quý tộc từ trước năm 1975 tại Sàigòn. Vợ chồng nó cũng khá đầm ấm. Bà cũng mừng cho thằng Út của mình.

Tuy nhiên, điều lo lắng nhất của vợ chồng bà là Quang đã ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa chịu cưới vợ. Thấy ba má cứ hối thúc chuyện vợ con thì nó bảo:
- Má ơi! Mấy cô Việt Nam lớn lên bên này nhìn cao lắm con với không tới nổi đâu, còn mấy nàng người Mỹ thì lại không phù hợp với tính cách của con. Chắc ba má còn lâu lắm mới có "cháu Nội đích tôn" để ẩm bồng!

Ấy vậy mà chỉ vài năm sau đó khi nhà máy chuyển sang làm việc ở Florida thì Quang tình cờ quen với một cô du học sinh Việt Nam mới ra trường và đang đến hãng nó xin việc. Hai đứa quen nhau, yêu nhau và tiến đến hôn nhân như là một duyên phận được sắp xếp từ kiếp nào! Bà cũng mừng cho tụi nó quá!
Có thể nói đây là khoảng thời gian viên mãn nhất của gia đình bà khi con cái đã lớn, đều thành đạt và có cuộc sống khá ổn định. Sau những chia cắt, mất mát, hy sinh giờ đây vợ chồng bà đã có thể mỉm cười khi thấy thành quả của mình gieo trồng bấy lâu nay đã sinh quả ngọt.

*
Nhưng rồi tai ương hoạn nạn bỗng đổ xuống cho gia đình bà một cách bất thình lình! Mười năm trước chồng bà được phát hiện có khối u trong trong não. Bệnh trạng của ông biến chuyển quá nhanh và ông đã ra đi chỉ trong vòng vài tháng sau đó. Ông mất quá bất ngờ khiến cho bà thật sự bị hụt hẩng, biết bao dự tính mà hai vợ chồng bà đã phát thảo cho tuổi già của hai người đành phải bỏ dở dang. Năm đó bà mới 62, vẫn còn đi làm part-time nhưng vì tinh thần và sức khỏe quá suy sụp nên các con đã khuyên thôi má hãy về hưu sớm đi, tụi con đủ khả năng lo cho má mà. Bà cũng không thể nào làm khác hơn vì thấy sức khỏe của mình ngày càng xuống dốc trầm trọng!
Khi chồng mất rồi bà mới cảm nhận hết nổi trơ trọi trên đời. Bốn mươi hai năm cùng sánh bước bên nhau, tuy có một khoảng thời gian chia cắt nhưng họ vẫn luôn tin tưởng sẽ cóngày trùng phùng. Giờ đây chỉ còn lại một mình bà lủi thủi ra vào trong căn nhà trống, bà bắt đầu thấy sợ bóng đêm, sợ một mình, sợ ngày dài và sợ cả đêm thâu. Bác sĩ cho biết bà đang bị trầm cảm nặng, trước mắt cần phải thay đổi môi trường sống thì mới mong thuyên giảm.

Ba đứa con họp lại bàn với nhau sẽ đưa má về ở với ai? Trước tiên vợ chồng Quang có mời bà sang ở với tụi nó, bà cũng muốn lắm nhưng ngặt một nổi nó cứ đi công tác xa nhà luôn nên bà ở lại Cali vẫn hay hơn. Dẫu sao bên này bà vẫn còn hai đứa con và đám cháu Nội, Ngoại. Nhưng giữa đứa con gái và thằng Út bà sẽ chọn ai? Nhất định bà không muốn sẽ trở thành người-nước-ngoài khi sống trong gia đình của con gái mình, tụi nó nói toàn tiếng Mỹ, làm sao bà có thể hoà nhập được. Cuối cùng bà quyết định về ở với thằng Út, vợ nó đang mang bầu đứa thứ hai bà nghĩ mình sẽ có thể "hụ hợ" chúng trông chừng đám cháu Nội sau này.

 Nghĩ như thế nên bà quyết định bán căn nhà bốn phòng ngủ của mình để đưa tiền cho thằng Út mượn-vốn-làm-ăn. Với số tiền của bà cộng thêm tiền của ba má vợ, tiền vay ngân hàng và tiền dành dụm của hai vợ chồng nó bấy lâu nay cũng tạm đủ cho thằng Út "ra riêng" mở một đại lý bán xe khá khang trang. Đồng thời từ ngôi nhà nhỏ ba phòng ngủ hai vợ chồng nó đã mua một căn nhà trên núi thật tráng lệ.

Lúc còn sống trong căn nhà nhỏ mỗi ngày bà còn thấy thằng Út, nhưng từ khi dọn sang nhà mới bà hầu như không thấy mặt con mình đâu nữa cả. Nó đang bơi trong cả núi công việc nên làm sao có thời gian dành cho bà! Thêm vào đó căn nhà rộng lớn thênh thang quá, nó dường như kéo tình mẹ con của bà ngày càng xa thêm. Khi thằng Út đi làm về thì bà đã an giấc, vào buổi sáng lúc bà đang lui cui lo điểm tâm sáng cho cả nhà thì nó từ trên lầu đi xuống tai vẫn áp vào cái điện thoại, nó đưa tay vẫy vẫy như chào bà rồi đi thẳng vào garage lấy xe đến chỗ làm.

Chỉ vào dịp cuối tuần thì thằng Út mới nghỉ trọn vẹn ở nhà vào ngày Chúa Nhật. Đây là lúc nó dành thời gian cho vợ con của nó! Thường gia đình nó hay đi chơi cả ngày, khi về đến nhà thì vợ chồng con cái kéo nhau lên lầu, sau khi hỏi thăm bà vài câu xã giao lấy lệ. Mùa hè gia đình nó đi chơi xa có khi một hay hai tuần mới về.
 
Bà ở nhà bơ vơ, buồn tủi, đơn độc. Lúc đó bà chỉ biết khóc thầm một mình với mây trời, hoa lá và chim chóc trong vườn.
Còn đứa con gái của bà thì cũng không khá hơn em nó chút nào. Từ ngày bà dọn về sống với thằng Út nó chỉ ghé thăm bà "năm khi, mười họa" lấy cớ bây giờ má ở xa quá và cao quá con phải lái xe cả tiếng đồng hồ mới đến nơi. Nó luôn than thở rằng lúc này con phải vừa đi dạy, vừa làm việc trong bệnh viện nên bận lắm má à! Bà chỉ biết cười buồn mà chẳng nói được lời nào!
Khoảng thời gian này niềm vui hiếm hoi nhất của bà là mỗi lần Quang về thăm. Đó là dịp duy nhất mà gia đình cùng sum họp bên nhau. Trong một lần cả nhà đang quây quần bên bàn ăn thì bà buông đũa nhìn từng đứa con của mình rồi chậm rãi nói:
- Má xin các con hãy giúp má thực hiện ước nguyện cuối cùng của đời mình.
Mọi người bỗng im lặng và đổ dồn ánh mắt về phía bà. Quang hỏi bà với giọng khá ôn tồn:
- Chuyện gì vậy má. Má hãy nói cho mấy anh em tụi con biết ngay đi.
Bà cười buồn và chậm rãi nói:
- Má muốn vào Nursing Home ở con à! Má nghĩ trong đó sẽ tốt cho má và tốt cho cả … các con nữa. Từ nay các con không phải lo lắng nhiều cho má như trước!
Quang im lặng suy nghĩ vài giây rồi ngẩng lên nhìn hai đứa em. Chúng nó đang cuối mặt lẫn tránh ánh mắt của anh. Quang đã hiểu ra tất cả rồi và bằng giọng khá điềm tĩnh, anh nói:
- Ngày mai chúng con sẽ chở má đi chọn Viện Dưỡng Lão. Nếu má thấy ưng ý cái nào nhất thì tụi con sẽ thu xếp cho má vào ở ngay trước khi gia đình con về lại Florida. Con hứa trong thời gian tới sẽ bay qua thăm má thường xuyên hơn.

Sáng hôm sau thằng Út lấy cớ có hẹn với khách hàng và cô con gái của bà bảo phải trực bệnh viện nên cả hai không thể đi cùng. Chỉ có vợ chồng Quang dẫn bà đi chọn Nursing Home. Mặc cho Quang nài nỉ khuyên bà hãy chọn một nơi "cao cấp" chút để ở nhưng bà nhất định từ chối. Cuối cùng bà đã vào sống trong Viện Dưỡng Lão này vì thấy không khí và cách phục vụ của mọi người khá chu đáo, thân thiện. Nhưng điều quan trọng nhất khiến bà đưa ra quyết định này là vì nó nằm ở khoảng giữa và không xa nhà của hai đứa con là bao, cũng tiện đường cho tụi nó có đi đâu thì dễ dàng tấp vô thăm bà.
Những suy tính của bà tưởng sẽ khả thi nhưng suốt thời gian hơn ba năm bà sống trong Viện Dưỡng Lão cho đến nay thằng Út chỉ đến thăm bà đếm chưa đủ trên mười đầu ngón tay. Lý do nó đưa ra chính đáng quá mà, má ơi dạo này con mới mở thêm một cái chi nhánh bán xe nữa ở tiểu bang khác nên phải bay đi bay về như con thoi. Mỗi lần nó đến thăm bà chừng độ nữa tiếng là tối đa nhưng nó nói chuyện với bà thì ít mà nói với cái điện thoại của nó thì nhiều. Bà đâm ra mang mặc cảm làm phiền nó, nên có lần bà đã bảo:
- Chừng nào con có thời gian rãnh rỗi thì thu xếp vô thăm má. Má ở trong này cũng tốt lắm, các Bác Sĩ, Y Tá và nhân viên đều rất tận tình, chu đáo. Con cứ yên tâm mà lo công việc của mình.

Thế là sau này nó chỉ nhắn tin "thăm" bà trên điện thoại là chủ yếu. Vậy cũng tốt cho nó và cả cho bà. Bà khỏi phải mong ngóng và chờ đợi những lần nó đến thăm và nếu vì lý do gì đó nó không đến được thì bà sẽ không phải buồn suốt mấy ngày liền. Thêm một điều nữa là từ ngày dọn vào đây sống bà không hề thấy bóng dáng của con dâu và ba đứa cháu Nội đâu cả. Bà nhớ ba đứa cháu của mình nhiều lắm vì bà cũng đã từng gần gũi, chăm sóc chúng suốt năm năm trời rồi còn gì. Sau này bà mới biết rằng hai vợ chồng thằng Út không muốn dẫn con vô đây thăm bà Nội vì sợ môi trường sống của người già sẽ dễ lây bệnh cho tụi nhỏ!!!

Con gái của bà thì cũng không hơn gì em nó. Lúc trước nó hay tạt vô thăm bà trên đường đi làm về nhưng cũng chỉ là vài tháng một lần, mà lần nào nó cũng đều than rằng lúc này con bận dữ lắm vì sắp tới Mark và Ben sẽ vào Đại Học, tụi con đang cật lực kiếm tiền để chuẩn bị cho hai anh em nó vào Harvard hay Yale. Tính sơ sơ chi phí của hai đứa sau bốn năm cũng cỡ nữa triệu đô la là ít. Đây cũng là một lý do chính đáng nó đưa ra khi không thể vào thăm bà thường-xuyên-như-trước. Bà chỉ nuốt nước mắt vào lòng. Nhớ mới ngày nào lúc ba mẹ con còn ở lại Việt Nam, khi chồng và con trai còn ở đảo, mỗi ngày bà phải đi buôn bán nên thường gửi con cho hàng xóm ngó chừng dùm. Chiều nào về tới nhà cũng thấy hai chị em nó mếu máo đứng chờ; hôm nào bà nghỉ bán thì tụi nó mừng lắm, xúm xích bên má không rời nữa bước. Giờ đây mọi việc đã khác xưa rồi! Các con nay đã lớn. Bà thì đã già. Tụi nó cần gì ở bà nữa chứ?!

Càng nghĩ bà càng thương cho thằng Quang. Cứ mỗi buổi chiều sau khi ra khỏi hãng là nó gọi nói chuyện với bà suốt đoạn đường lái xe về nhà. Rồi thì cách vài tháng là nó bay sang thăm bà một lần, nếu là dịp lễ thì nó đi với vợ con, thường thì nó bay sang một mình ở chơi với bà từ chiều Thứ Sáu đến chiều Chúa Nhật thì về, để sáng thứ hai đi làm sớm. Hai mẹ con tuy xa nhưng cũng thật gần. Nó là niềm an ủi duy nhất mà bà có được ở tuồi gần đất xa trời này.

*
Vào sống trong Viện Dưỡng Lão lâu ngày bà càng thấy thương cho những người đồng cảnh ngộ như mình. Cho dù họ là Trắng, Đen, Vàng hay… "pha trộn" thì họ và bà cũng đều có chung một nổi buồn của tuổi già như nhau. Ở trong này mỗi khi ai đó có con cái sắp sửa vô thăm là dễ biết lắm. Họ sẽ chộn rộn chàng ràng suốt từ mấy hôm trước. Họ nói năng huyên thuyên, cười đùa luôn miệng. Đó là dịp cho họ lôi những bộ cánh lâu ngày được cất kỷ trong tủ ra mặc thử, đi tới đi lui ngắm nhìn mình trong gương, như sắp chuẩn bị đi dự giải Oscar. Thiết nghĩ vào thời điểm 50 hay 60 năm trước thì buổi hẹn hò đầu tiên của họ chắc cũng chỉ hân hoan và hạnh phúc đến thế là cùng!

Có lần một bà Mỹ Trắng sống cạnh phòng bà sang khoe rằng ngày mai con trai của bà ấy sẽ đến thăm và chở đi xem phim vì là Sinh Nhật 80 tuổi của bà. Nhiều người đã đến chúc mừng cho bà mẹ hạnh phúc này. Tới ngày hẹn, bà mẹ đó đã dậy thật sớm, ngồi trang điểm hàng giờ thật cẩn thận trước gương và thay bộ đầm mới nhất chưa một lần mặc qua rồi chờ con trai đến đón. Thời gian chậm rãi trôi qua một giờ, hai giờ… cho đến bốn, năm giờ đồng hồ sau bà vẫn không thấy bóng dáng con mình đâu cả. Bà sốt ruột gọi cho nó nhưng điện thoại đã tắt mất rồi!!! Cuối cùng, một nhân viên của Nursing Home với vẻ mặt đầy ái ngại đã mang đến trao cho bà một bó hoa thật lớn, thật đẹp và một tấm thiệp với biết bao lời lẽ thật hoa mỹ. Lý do con bà không đến được vì có công việc đột xuất vào giờ chót và anh ta hứa sẽ đến thăm mẹ vào một-dịp-khác.

Bà mẹ đáng thương kia đã ôm bó hoa và chết lặng trong lòng. Không ai dám bước đến để an ủi bà một lời nào cả. Bà lẳng lặng ôm bó hoa vô phòng mình, lẳng lặng đặt nó lên giường và sáng hôm sau bà đã lẳng lặng ra đi với chiếc áo đầm mới tinh còn mặc trên người.

Người mẹ tội nghiệp kia cũng mang một chứng bệnh tim như bà, cũng có một đứa con bận rộn như hai đứa con của bà. Tuy nhiên, sức chịu đựng của bà xem chừng tốt hơn người mẹ kia vì con gái và thằng Út cũng đã từng thất hứa với bà khá nhiều lần!!! Cũng từ sau cái chết của bà-hàng-xóm mọi người đã cảnh báo với nhau rằng không được tin bất kỳ lời hứa hão nào cả, dù cho đó là lời hứa của núm ruột mà mình đã đẻ ra!

*
Mải lo suy nghĩ miên man mà bà quên khuấy rằng mưa ngoài trời đã tạnh từ bao giờ. Ngó nhìn đồng hồ. Ôi chao trễ quá rồi! Quang có nói khoảng ba giờ máy bay sẽ đáp xuống, con đi hành lý rất gọn nhẹ nên sẽ ra mướn xe liền; chắc trễ lắm là năm giờ con sẽ đến chỗ của má. Bây giờ đã gần tám giờ tối rồi nhưng vì mùa hè nên trời vẫn còn sáng, bà nghĩ chuyến bay của con mình chắc đã tạm hoãn ở đâu đó và có lẽ nó cũng sắp đến rồi. Bà nhìn ra cửa sổ lần nữa, những tia nắng yếu ớt bắt đầu chiếu xuyên qua các đám mây đen còn lãng đãng trên cao. Từng mảng bầu trời trong xanh dần xuất hiện sau gần một ngày lẫn trốn biệt tăm.

Trong niềm vui mừng khôn tả bà lục trong ngăn kéo lấy thỏi son đã lâu ngày không dùng tới, bà cầm nó lên định tô phớt hồng đôi môi của mình thì mắt bà bỗng vô tình dừng lại ở cái TV đang treo trên tường. Tiếng cô xướng ngôn viên đang thông báo trong mục Breaking News cho hay chiếc máy bay mang số 707 của hãng hàng không XXX đến từ Florida đã gặp tai nạn khi đáp xuống đường băng tại phi trường Los Angeles vào lúc 3:10pm chiều hôm nay do thời tiết quá xấu. Một nhân viên của phi hành đoàn và vài hành khách đã bị thương nặng, những nạn nhân đã được đưa vào bệnh viện hiện trong tình trạng khá nguy kịch. Mọi chi tiết sẽ được thông báo sau.

Thỏi son trong tay bà rơi ngay xuống đất. Bà thấy như mọi thứ đều tối sầm lại. Ngay khi lúc đó bà nghe ngực mình đau khủng khiếp như không còn đủ hơi sức để thở. Bà cũng không còn kiểm soát được tứ chi của mình nữa nên đành để nó đổ quỵ xuống sàn nhà.

Trong giây phút giữa đôi bờ sanh tử bà bỗng nghe tiếng con trai của mình gào lên thản thốt: "Má ơi! Con đây nè má!" Bà cố nhướng mắt lên nhìn gương mặt thân yêu của con mình lần sau cuối, mỉm môi cười đầy mãn nguyện với nó, rồi thanh thản từ từ khép mắt lại.

Một chiều mưa bão trong Nursing Home có một người mẹ đã vĩnh viễn ra đi và có một đứa con đã vĩnh viễn mất mẹ!
Chuyện bình thường cũng như bao chuyện bình thường khác đã xảy ra trên thế gian! Người ta đến cuộc đời này với những hạnh phúc, những khổ đau rất riêng và cũng rất chung để rồi lần lượt ra đi sớm hay muộn, trước hay sau … không trừ một ai!
Kiếp người vốn dĩ chỉ là duyên hợp. Chỉ là vô thường!

Nguyễn Bích Thủy
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2014. Cô sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Cô đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, trong một thành phố ít người Việt cư trú.

User avatar
thuyduong
Posts: 447
Joined: Fri Dec 04, 2009 6:41 pm

Post by thuyduong »

Image

QUÊ HƯƠNG NGÀY CŨ.

Quê hương là nơi mà mình sinh ra đời và lớn lên ở đó, sống hầu hết thời kỳ thơ ấu với rất nhiều kỷ niệm. Ông bà chúng ta thời xa xưa đều sống bằng nghề nông và thường định cư ở một nơi, đời nọ sang đời kia.Vậy nên khi nói đến quê hương là người ta liên tưởng ngay tới một làng quê với lũy tre xanh, với cánh đồng lúa. Chúng ta lớn lên với những người thân yêu: cha mẹ, anh chị em, họ hàng cùng với những sinh hoạt đồng quê. Hoàn cảnh đó tạo ra một thứ tình cảm mật thiết, gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đó là tình quê hương.

Những ngày thơ ấu là những trang giấy trắng đầu tiên trong cuộc đời với tâm hồn trong sạch, vô tư, hồn nhiên; những gì ghi vào đó đều rõ ràng, trong sáng, trung thực và in sâu vào ký ức, dù cho khi lớn lên, khi về già, vẫn còn đậm nét.

Khi lớn lên, vì học vấn, vì hoàn cảnh mà phải xa quê hương, rồi cuộc đời đưa đẩy, sống ở nhiều nơi. Cuộc sống thực tế trở nên phức tạp khi phải tiếp xúc với nhiều hạng người, hầu hết không phải là những con người thuần phác, đơn sơ như ở làng quê. Giai đoạn này cũng có rất nhiều kỷ niệm, nhiều khi không muốn nhớ, không đáng nhớ. Những trang giấy của khoảng đời này không còn trong sáng, hồn nhiên, tươi đẹp mà nhiều khi phức tạp, đen tối và lắm buồn phiền.

Khi trở về già, con người chỉ thích sống với quá khứ thì hình ảnh quê hương và tuối thơ ấu thần tiên luôn luôn còn ở trong ký ức và còn hiện ra rõ ràng nhất, mãi mãi không phai!


Tôi sinh ra đời ở một làng quê nghèo nàn miền bắc Việt Nam, cách tỉnh lỵ Hưng Yên chừng 20 cây số. Làng tôi cũng như mọi làng quê tiêu biểu khác, có lũy tre xanh bao bọc quanh làng, chạy dài theo một dòng nước ở phía trước làng mà dân làng tôi gọi là cái cừ, nó lớn hơn một cái lạch, nhỏ hơn một con sông. Phía bên kia là cánh đồng làng rộng bao la tiếp giáp với những lũy tre xanh theo đường vòng cung của những làng bên cạnh. Con đường từ cuối làng đi ra phải qua một cây đa lớn và một quán hàng trước khi ra cánh đồng và những làng bên cạnh. Phía sau làng là một con đê nhỏ chạy dọc theo làng, hai bên cũng trồng lúa. Một phía cuối đường đê, cắt ngang bởi một dòng sông, có quán nước và con đò đưa khách sang sông. Phía trên là đường đi tới các làng khác, vào tới tỉnh lỵ.

Khi tôi lên 7, 8 tuổi, ngoài việc học hành, tôi bắt đầu được tiếp xúc, tham dự những sinh hoạt nơi đồng quê. Anh em chúng tôi thường mang trâu ra đồng, thả cho chúng ăn cỏ rồi chơi đánh khăng, đánh đáo; nô đùa chạy nhảy với lũ bạn cùng tuổi cho tới gần chiều tối mới cưỡi trâu trở về nhà.

Những chiều mùa hè, khi gió nam thổi mạnh, chúng tôi rủ nhau ra ngoài đồng thả diều. Chúng tôi thường làm hai loại diều: diều bầu và diều cốc. Diều bầu hình bầu dục, diều cốc trông như hoa 3 cánh, 2 cánh ngang 1 cánh đuôi (gọi là diều cốc có lẽ vì nó giống như con chim cốc dang hai cánh ra để phơi nắng). Diều bay lên tới một độ cao nào đó, có gió thổi mạnh đều thì bay lượn ở trên không mãi cho tới khi chủ nó kéo xuống, đem về. Nhiều khi nếu dùng dây diều, chỉ gai không bền, diều căng gió, bị đứt sẽ bay đi rất xa, có khi bay qua sông, sang làng bên. Người lớn cũng chơi diều, diều của họ rất to, có thể mang theo sáo, 1 chiếc hoặc một bộ 5 chiếc, có độ lớn và âm thanh khác nhau. Loại diều này, dây làm bằng nan tre vót rất mảnh, nối liền nhau, cột chặt bằng chỉ gai và cuộn quanh một khung tròn hình bánh xe. Khi có gió lớn mới thả được loại diều này và cần hai người lớn, một người đâm diều lên, một người chạy với vòng dây khoác trên vai. Phải khỏe lắm mới giữ được cho khỏi bị diều lôi đi khi nó lên cao. Khi diều lên cao, gió thổi mạnh, sức người dù khỏe cũng không thể giữ được lâu, họ phải đóng cọc lớn xuống đất rồi cột vòng dây vào đó. Chú tôi là một trong những người chơi loại diều này.

Những đêm mùa hè, giải chiếu nằm ngủ trên sân có gió mát, dưới bầu trời trăng sao, nghe tiếng sáo diều - với bộ sáo ngũ âm - như ru mình vào giấc ngủ tuyệt vời!

Vào mùa lúa chín, cả một cánh đồng màu vàng nhạt dưới ánh nắng chiều, từng làn gió nhẹ làm thảm lúa vàng gợn sóng đến tận chân trời, tới lũy tre xanh những làng bên, tiếp giáp với nền trời xanh và những vì sao mọc sớm, khung cảnh êm đẹp, thần tiên!

Đàn bà, trẻ con ra ngồi chơi, chuyện trò, nô đùa dưới bóng mát của hàng tre, nhìn ra cánh đồng với niềm vui tràn ngập. Vụ mùa thu hoạch sắp tới, hứa hẹn nhũng ngày hạnh phúc, ấm no.

Khi mùa gặt tới, cả cánh đồng làng vui vẻ, nhộn nhịp. Những buổi chiều mùa gặt lúa, từng đoàn người kĩu kịt gánh lúa, xen lẫn với những mục đồng trên mình trâu trở về nhà, một bức tranh quê thật đẹp, rộn rã niềm vui! Trước khi về nhà nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, những người đàn ông rủ nhau xuống tắm ở phía cừ cuối làng. Hồi đó tôi còn nhỏ, thấy và coi chuyện đó là bình thường khi nhìn họ thản nhiên cởi quần áo nhảy xuống nước, xong rồi lên bờ, mặc lại quần áo cũ vào. Bây giờ tôi nhớ lại mới thấy là kỳ vì họ không hề ngượng ngùng (dĩ nhiên là chỉ có đàn ông, đàn bà không tắm như vậy), cũng không hề mặc đồ lót và vẫn mặc quần áo cũ!

Giai-đoạn kế tiếp là đập lúa. Những lượm lúa được cột liền vào những cái néo làm bằng hai đoạn tre dài chừng 2 bộ, nối vào nhau bằng một đoạn dây, trông tựa như võ khí của Lý Tiểu Long. Hai người lần lượt thay phiên nhau đập lượm lúa vào mặt một cối đá đặt nghiêng. Những hạt lúa sẽ rời khỏi thân cây lúa, văng ra.

Còn nhiều công việc tiếp theo sau đó như quạt lúa để loại bỏ những hạt lép, phơi lúa cho khô, xay lúa để lấy gạo, giã gạo để loại bỏ lớp cám bên ngoài để lấy hạt gạo trắng, sản phẩm cuối cùng để nấu cơm.

Khi mùa gặt đã xong, cả cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Những con cào cào không còn chỗ nương thân, bay lung tung. Đợi khi trời mưa xuống là chúng tôi mang chai và vỉ ruồi ra đồng đuổi bắt cào cào.Vì mưa ướt cánh nên những con cào cào không thể bay xa được . Chúng tôi dùng vỉ ruồi, chạy theo, đập rớt chúng xuống, bỏ vào chai, mang về rang, ăn với cơm. Cào cào rang với muối và lá chanh, thêm một chút mỡ, là món ăn ngon tuyệt ở miền quê, nhất là những con cào cào trứng, ăn thật bùi, béo ngậy!

Khi trời mưa nhiều, các lạch đầy nước, chúng tôi thường rủ nhau lấy đất ngăn nước, đắp bờ từng đoạn nhỏ rồi tát nước đi để bắt cá. Trò chơi này làm ướt quần áo, bùn đất dính đầy người, mặt mũi lem luốc nhưng khi bắt được nhiều cá, thật là vui!

Những thú vui khác như đi câu cá, thả ống tre bắt lươn, bắt ong mật, bắt chuồn chuồn, hun khói bắt chuột đồng…

Vào dịp Trung-thu, chúng tôi chơi rước đèn dưới đêm trăng. Đèn xếp, đèn ngôi sao, đèn cá chép… Đèn nào cũng có một cây nến ở bên trong.

Vào mùa trăng, những thanh niên nam nữ trong làng thường tổ chức hát trống quân. Họ đào một cái hố sâu dưới mặt đất, đường kính chừng nửa thước. Một mảnh gỗ đậy lên miệng hố, một sợi dây thừng căng ngang qua mặt hố và được cột chặt vào hai cột đóng xuống đất ở hai bên. Một đoạn tre đội dây thừng lên cao và đứng trên mảnh gỗ. Đoạn tre cao thì dây thừng căng thẳng và khi lấy dùi tre gõ vào dây thừng hai bên, dây phát ra tiếng kêu “thùng thùng” (tựa như dây đàn và thùng đàn). Nam nữ chia nhau ngồi hai bên, gõ vào dây thừng, đánh nhịp mà hát. Một bên hát trước, bên kia hát đối đáp lại. Họ hát những câu, nhũng bài hát ngắn, có vần, có điệu, thường là thể lục bát với ý nghĩa tình tứ, ngụ ý ướm hỏi thử thách, thăm dò tình cảm của nhau. Chúng tôi còn nhỏ, chỉ ngồi ngoài nghe mà không được tham dự,và cũng chẳng biết gì mà tham dự. Những sự lựa chọn, những mối tình thường chớm nở từ những buổi hát trống quân này.

Ngoài vụ chiêm và vụ mùa, làm lụng vất vả, bận rộn thì người dân quê sống vui vẻ, thoải mái với những ngày hội hè, đình đám; chỉ những dịp đó họ mới được ăn uống thịt thà khi làng mổ lợn, mổ trâu.

Vui thích nhất là vào dịp Tết. Nhà tôi thường mổ heo vào hôm 29 tết. Thịt heo được chia làm nhiều loại để làm giò lụa, giò thủ, giò bì, để gói bánh chưng, xào,nấu… Anh em chúng tôi chạy lăng xăng hết chỗ nọ tới chỗ kia. Thich nhất là lúc giã giò. Thịt nạc được bỏ vào cối đá, dùng chày lớn để giã thịt cho tới khi nát nhuyễn, cho nước mắm vào, trộn đều, cuối cùng, dùng lá chuối để gói thành cái giò. Tiếng giã giò lốp bốp nghe thật vui tai. Anh em chúng tôi cứ chầu chực bên cạnh những người giã giò, đợi khi có miếng thịt nát nhoét nào bắn ra là vội vét lấy ngay, góp dần lại, lấy lá chuối gói thành một cái giò nhỏ xíu.

Chiều 30 Tết thì gói bánh chưng. Vật liệu gồm có gạo nếp đã ngâm nước, đậu xanh cũng đã ngâm nước, thịt ba chỉ trộn muối và hạt tiêu. Lá để gói bánh chưng là lá rong, rộng chừng 1 bộ, dài hơn 2 bộ, mềm dẻo và không dễ bị gãy, rách. Thày tôi gói bánh chưng rất khéo, rất chặt tay, vuông vức và đều. Những chiếc bánh chưng mới gói, màu lá xanh tươi, dây lạt tre màu trắng trông mới đẹp mắt làm sao! Anh em chúng tôi cũng gói cho mình một chiếc nhỏ. Để thịt và đậu vào giữa gạo ở trên lá rồi gói thật là khó, không thể gói chặt và vuông theo ý mình được. Cuối cùng, chiếc bánh ra hình khối chữ nhật và nó mềm xèo!

Bánh chưng mới gói được xếp vào một thùng sắt lớn, đổ nước vào, đặt trên bếp giữa sân, chất củi đun ở dưới. Phải ninh bánh hàng 5, 6 giờ đồng hồ, thêm nước nhiều lần, thường là qua giao thừa mới chín được.

Lễ cúng giao thừa vào đúng nửa đêm 30, để “tống cựu, nghinh tân”, đón ông bà, các cụ về và đốt pháo mừng năm mới.

Sáng mồng một Tết thường là thủ tục xông nhà và xuất hành. Người ta thường chọn những người có tuổi, hiền lành, phúc đức, mau mắn và có nhiều con cái để nhờ xông nhà mình, lấy hên. Chủ nhà thường xem bói hoặc xem lịch để biết hướng đi nào hợp với tuổi mình mà xuất hành, mong cho cả năm được may mắn.

Sáng mồng một Tết, chả cần ai gọi, anh em chúng tôi cũng dậy thật sớm để được mặc quần áo mới, được phát vốn, mừng tuổi (phát-vốn là lì-xì).

Khung cảnh ngày Tết thật là nhộn nhịp, nhiều màu sắc, khác hẳn với trong năm, chỉ có một màu nâu hoặc đen. Trong nhà, ngoài ngõ rộn rã tiếng cười đùa, chào hỏi nhau, tiếng pháo nổ đì đùng khắp nơi. Người ta chúc tụng nhau đủ mọi lời tốt đẹp. Câu chúc thông thường nhất là: "Chúc ông bà giàu bằng ba, bằng bốn năm ngoái, đầu năm sinh con gái, cuối năm sinh con trai”.

Thích nhất là lúc được mẹ tôi hoặc chị tôi cho đi theo chúc Tết họ hàng vì sẽ được ăn bánh kẹo và được tiền phát vốn. Hồi đó tôi không thấy tiền giấy, chỉ có đồng xu và đồng trinh (trinh bằng nửa xu).

Nhà nào nhà nấy, bàn thờ ông bà lúc nào cũng khói hương nghi ngút, thức ăn, trái cây la liệt! Những ngày Tết ai cũng được ăn nhiều, vì vậy mới có câu: "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết".

Ba ngày Tết qua mau. Ngày mồng 3 là ngày hóa vàng tức là đốt vàng mã để tiễn đưa ông bà, các cụ ra đi. Một nỗi buồn sau những ngày vui, cũng là nỗi buồn sắp phải xa nhà ra tỉnh học!

Từ năm 6, 7 tuổi, mẹ tôi đã gửi chúng tôi vào tỉnh học, trọ ở nhà bác tôi, một năm chỉ về nhà hai lần là dịp Tết và nghỉ hè. Mẹ tôi phải bán nhiều thóc lúa để cho chúng tôi đi học. Từ làng vào tỉnh lỵ chỉ cách chừng 20 cây số mà sao ngày ấy tôi thấy xa xôi quá vì chúng tôi đi bộ, mất hơn nửa ngày mới tới. Mẹ tôi thường đưa chân chúng tôi trên con đường đê sau làng. Mẹ tôi dặn dò anh cả tôi (lớn hơn chúng tôi chừng 5,6 tuổi) và chúng tôi đủ điều. Đưa chân hàng cây số mẹ tôi mới quay về. Đi được một đoạn đường tôi lại ngoái cổ nhìn, mẹ tôi còn đứng đó. Tôi nhìn lại nhiều lần cho tới khi mẹ tôi khuất bóng mới thôi.

Sau này mẹ tôi thường kể lại rằng mỗi lần đưa chân chúng tôi vào tỉnh học, khi về nhà, mẹ tôi hết đứng lại ngồi, lên nhà trên, xuống nhà dưới, bụng bồn chồn, nôn nao, không làm gì được cả!

Tôi cảm phục sự can đảm của mẹ tôi. Tôi kính yêu, biết ơn và thương nhớ mẹ tôi vô vàn! Một bà mẹ quê Viêt Nam ít học mà biết nhìn xa, trông rộng; thương con mà đành phải xa con, chỉ vì tương lai của con, mong con nên người. Nếu mẹ tôi cũng như những bà mẹ quê khác, bất quá chúng tôi cũng lớn lên, lấy vợ, sinh con ở làng, là một phú nông an phận vói cuộc sống bình dị nơi đồng quê. Bây giờ tôi đã già rồi mà tôi vẫn thường nhớ tới mẹ tôi luôn luôn. Mỗi lần nhớ tới mẹ, tôi không khỏi rơm rớm nước mắt. Mẹ tôi đã mất lâu rồi, 40 năm rồi, từ năm Mậu-thân 68. Tôi vẫn thường tự trách mình, sao không làm được hơn nhũng gì đã làm để cho vui lòng mẹ hơn. Khi viết những dòng này, tôi lại khóc rồi đó!

Sau vài ba năm ở bậc tiểu học, biến cố 1945, chúng tôi về quê học tiếp lớp nhì, lớp nhất ở những làng bên và chúng tôi lại gần gũi, gắn bó với những sinh hoạt đồng quê.

Năm 1950, chúng tôi lại “trở về thành”, vào bậc trung học. Trong những năm này, vì thời cuộc nên chúng tôi ở luôn tỉnh mà không trở về làng nữa cho tới 1954, vừa xong trung học phổ thông, chúng tôi cùng gia đình vào Nam. Lần ra đi này, xa hẳn quê hương, đi về phía bên kia dòng Bến-Hải.

Tôi nhớ khi vào Nam, đoàn người căng lều tạm trú trên một bãi cỏ rộng ở Bình Đông, đêm nằm dưới bầu trời trăng sao. Đặc biệt là mấy ngày hôm đó, đài phát thanh (radio chạy pin) phát đi, phát lại bài “Thuyền viễn xứ” của Phạm Duy “… Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi…” bản nhạc gợi lòng nhớ quê hương não nề, tha thiết! Bài này đối với tôi là một kỷ niệm khó quên!

Những năm cuối cùng của bậc Trung học, gia đình tôi thay đổi chỗ ở nhiều lần nên tôi không có ý niệm sâu đậm gì về quê hương mới. Tôi vào Đại-học sư-phạm, ra trường và bắt đầu nghề dạy học, ở Cà Mau 4 năm rồi về Trung học Thủ Đức. Thế rồi biến cố 75, lại một lần nữa ra đi, quê hương xa vời vợi!

Lần đầu tiên tôi xa đất nước. Con tàu viễn xứ đưa tôi dời khỏi Việt Nam. Quay nhìn lại quê hương, xa thẳm, mờ dần và chỉ còn là trời biển mênh mông! Những ngày lênh đênh trên sóng nước, những khi hoàng hôn xuống, mặt trời sắp lặn, chỉ còn những vạt nắng yếu ớt sau cùng còn sót lại ở cuối trời, lòng kẻ tha hương nặng trĩu nỗi buồn! Người ta thường ca ngợi cảnh hoàng hôn trên mặt biển, giờ đây đối với tôi, chẳng còn lòng dạ nào để mà thưởng thức. Tôi chỉ thấy đó là một ngày sắp hết, một màu ảm đạm của tương lai! Giờ phút ấy, tôi chợt nhớ tới hai câu thơ cuối trong bài “Hoàng hạc lâu” của Thôi Hiệu, rất hợp tình, hợp cảnh:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng gợi buồn lòng ai.
(Tản-Đà dịch)


Những năm tôi sống ở Hoa Kỳ, nhận nơi này làm quê hương, thật lòng mà nói, chẳng có một chút tình cảm đậm đà gì. Tôi nhớ cách đây chừng 15, 20 năm, có lần họp mặt cựu giáo sư và học sinh Chu Văn An, thày Lãng, tổng giám thị, từ Úc châu qua, lên đọc một bài thơ do ông sáng tác, tôi chỉ còn nhớ một câu cuối:

“Đất nước này đâu có phải quê tôi”.

Thày Lãng cũng đã mất nhiều năm rồi, thày hẳn cũng đã được trở về quê hương của mình.

Nhũng lúc rảnh rỗi tôi vẫn nhớ về quê cũ và những kỷ niệm thời thơ ấu. Dù nhắm mắt lại, hình ảnh làng cũ với lũy tre xanh, cây đa, cánh đồng lúa vàng vẫn hiện lên đậm nét. Một bài hát mà tôi cho là hay nhất, gây cảm xúc mạnh nhất đối với tôi, đó là bài “Chiều Quê” của Hoàng Quý: “Quê nhà tôi, chiều khi nắng êm đềm, chạy dài trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca. Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm, chuyện trò chung với nhau, đời sống thần tiên”. Lời ca thật bình dị, gợi cảm, nhắc nhở nhiều kỷ niệm, hình ảnh; một vùng trời quê hương, cả một thời thơ ấu!

Một bài hát nữa, cũng rất dễ làm tôi thả hồn về quê cũ, bài “Hương Xưa” của Cung Tiến:

“Còn đó bóng tre êm ru, còn đó gốc đa hẹn hò, còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mang nghe sáo vi vu.” Đó cũng là nỗi niềm thương nhớ quê hương của một thời hoàng kim đã xa rồi mà nay chỉ còn trong hoài niệm.

Những năm đầu tiên sống ở Hoa Kỳ, tôi nghĩ hy vọng trở về quê hương, làng cũ thật xa vời, vô vọng. Nhưng rồi hoàn cảnh dần dần đổi thay. Chừng 20 năm sau đã có một số người về Việt Nam. Tôi nao nức chờ dịp trở về, chỉ để thăm lại quê xưa.

Sau nhiều năm mong đợi, rồi cũng đến ngày trở về, cảm giác thật là nôn nóng, hồi hộp!

Chúng tôi từ Hà Nội về Hải Dương để gặp một người bạn cùng làng, từ hồi còn để chỏm và đi học với nhau đến hết Trung học đệ nhất cấp. Chúng tôi mướn một chiếc xe đi về làng. Dọc đường, nhận xét đầu tiên của tôi là những làng dẫn đến làng tôi đều trơ trụi, không hề thấy lũy tre xanh nào cả! Khi xe ngừng lại và bạn tôi nói: "đã đến rồi đây", tôi ngạc nhiên tự hỏi, quê nhà mình đây sao? Lũy tre xanh bao quanh làng ngày xưa không còn nữa, nhà trệt nhỏ xíu, xây lô nhô đủ hình dạng. Đi khắp mọi nơi mà tôi không nhận ra một di tích của ngày xưa. Cây đa trước làng, lối ra cánh đồng không còn nữa, nhánh sông chảy vào làng và cả con sông đã bị lấp rồi và dĩ nhiên con đò ngang cũng đâu còn nữa!

Tôi buồn ngẩn ngơ vì sự thay đổi quá nhiều, đến độ tàn nhẫn! Tôi chợt thông cảm nỗi buồn và niềm hoài cổ của thi sĩ Trần Tế Xương qua bài “Lấp sông Nam Định”

Sông kia rày đã nên đồng,
Nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai.
Đêm đêm nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

Khu nhà tôi ở ngày xưa, nơi tôi sinh ra đời và lớn lên, bây giờ đã chia năm xẻ bảy, nhà những người khác cất lên ở đó. Cây nhãn gốc to bằng người ôm đã bị chặt đi, hai cái ao trước và sau nhà đều bị lấp mất rồi!

Tôi nhớ, gần bến đò phía sau làng có một cái miếu thờ thần. Cạnh miếu có một cây đa cổ thụ, gốc đa rễ chằng chịt, người làng thường trông thấy những con rắn đen sặc sỡ, có mào ở đầu, họ bảo là rắn thần. Gần đó, trên bờ sông có một cây vừng lớn, có những sợi dây hoa màu hồng buông rủ xuống. Chúng tôi thường ngắt những dây hoa, buộc thành vòng, đeo quanh cổ. Cạnh đó là một cây sung, thân cây lớn, nằm là đà ra tới giữa sông. Chúng tôi đi tắm sông, thường ngắt cành sung, giả làm dù rồi nhảy từ trên cây xuống, người trần trụi!

Giờ đây cái miếu, cây đa, cây vừng, cây sung và cả con sông đều không còn nữa. Nhìn nơi nền miếu cũ, trạnh nhớ tới bài thơ của bà Huyện Thanh Quan:

Lối xưa xe ngựa,hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài,bóng tịch dương.
(Thăng Long thành hoài cổ)

Cảnh cũ đã như vậy, người xưa thì kẻ mất người còn. Anh em con chú bác đều già cả. Tuy họ có hơn tuổi tôi một chút, nhưng sao trông họ, tôi không nhận ra, râu tóc bạc trắng, bờm xờm, dáng đi lụ khụ, thần sắc lờ đờ!

Tôi tìm gặp lại một người bạn hàng xóm thưở xưa. Hồi hai đứa chơi với nhau, có lần tôi theo anh ta lên đầu làng bắt ong. Anh ta trèo lên một cây rất cao, có hoa để bắt những con ong đang hút mật (loại ong này to bằng ngón tay cái, có hai màu đen và đỏ, vặn đầu nó rời khỏi thân, sẽ rút ra được một bọng mật trắng, to bằng giọt nước). Anh ta tay không nhón bắt từng con, vặt cánh rồi ném xuống cho tôi lượm. Khi trèo xuống khỏi cây, anh ta nói với tôi là có lẽ cây này có ma và bảo tôi bắt chước anh ta vạch quần ra, đái vào tay rồi xoa lên mặt để trừ ma! Tôi sợ quá, làm theo, chẳng ngại gì bẩn và khai! Bây giờ tôi tìm và gặp lại được anh ta, một ông cụ già hơn tôi; tôi bèn nhắc lại kỷ niệm ấy, tưởng rằng ông cụ sẽ bật cười thích thú, ai ngờ ông cụ chỉ ậm ừ cho qua chuyện, dường như không nhớ gì cả! Cũng đã hơn 60 năm rồi, nhưng sao tôi còn nhớ rõ?

Bây giờ người ta không chì trồng lúa như ngày xưa mà xen lẫn những ruộng ngô, khoai, dưa và cả mía nữa, nên cánh đồng trông không còn đồng nhất một màu.

Dân làng bây giờ cũng không hoàn toàn sống bằng nghề nông. Họ làm nhiều nghề khác nhau: thợ mộc làm bàn ghế, đóng giường, tủ; thợ nề xây cất nhà cửa, mua bán vật liệu…

Phải công nhận là bây giờ họ khá giả hơn ngày trước và chắc chắn họ không muốn trở lại nếp sống ngày xưa.

Ngày xưa, làm ruộng vất vả, chân lấm tay bùn. Ngoài hai vụ lúa, thời gian còn lại thì rảnh rang: "Tháng giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè". Mức thu hoạch mùa màng cố định, năm nào cũng như năm nào, cả vậy suốt đời, đời nọ sang đời kia. Họ an phận thủ thường. Một xã hội như vậy làm sao mà tiến bộ, giàu mạnh được? Vậy thì sự thay đổi bộ mặt nông thôn là điều cần thiết, tất yếu.

Nhưng tôi không quan tâm tới điều đó. Tôi chỉ thấy không có lũy tre xanh mà chỉ có những cột điện, dây điện chằng chịt thì không còn là làng quê nữa. Bây giờ chẳng có một con trâu, nông nghiệp đã được cơ khí hóa, cày bằng máy. Bây giờ không còn con sông chảy vào làng, không người chài lưới, làm sao còn có cảnh:

Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hình ảnh thân yêu mà tôi hằng ấp ủ và mong thấy lại khi trở về đã không còn nữa!

Tôi thẫn thờ vói chiếc video camera, mang về để mong ghi lại hết hình ảnh quê hương, đành buồn nản cất đi.

Tôi nhắm mắt lại để mang ra từ trong ký ức, quê hương tôi ngày xưa: Từ cánh đồng bao la, từ mái đình làng, những con đường nhỏ quanh co đi vào xóm cho tới những bờ tre, bụi chuối, ao rau muống, giậu mồng tơi, cây cam, cây bưởi, hàng cau, giàn mướp…Tất cả đều tầm thường, bình dị, nhưng sao mà quen thuộc, thân yêu! Chúng như có linh hồn và quá gần gũi với mình qua suốt cả một thời thơ ấu, và hơn nữa, có một cái gì huyền bí, thiêng liêng vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, quê cha đất tổ.

Người nói về quê hương mình, chắc chắn là có những nhận xét chủ quan. Ai chẳng cho rằng quê hương của mình là đẹp hơn cả. Dưới con mắt người khác, chỉ là một cái nhìn vô cảm, nhưng đối với mình lại là cả một trời thương yêu, một vùng kỷ niệm.

Vậy mà nay những hình ảnh đó không còn nữa! Còn đâu lũy tre làng rủ bóng mát buổi trưa hè, còn đâu cánh đồng lúa bát ngát một màu, còn đâu gốc đa nơi trai gái hẹn hò, còn đâu con đò đưa khách sang sông!

Ôi! sao tôi cứ nhắc đi nhắc lại những hình ảnh này? Có người đọc sẽ nói: "biết rồi, khổ lắm, nói mãi!" Nhưng tôi cứ muốn nói vì quá luyến tiếc, như muốn cố níu kéo lại những gì đã mất.

Tôi có tâm trạng của một kẻ đi tìm lại dĩ vãng mà theo luật đào thải đã không còn, theo dòng thời gian, đã trôi đi. Một trời quê hương, một thời thơ ấu, trắng tay kỷ niệm!

Tôi tự hẹn lòng, sẽ không bao giờ trở lại chốn xa lạ này để phải chịu đựng nỗi buồn mất mát lớn lao, như nỗi buồn của một kẻ mất quê hương.

Với tâm trạng đó, tôi trở vào Nam. Sài Gòn vẫn là thành phố cũ với những con đường xưa tuy đã thay tên. Sài Gòn phát triển về chiều cao và một biển người!

Ngày tôi ra đi, cả một thế hệ hiện tại còn chưa ra đời, ngày tôi trở lại, họ đã ngoài 30 tuổi, đối với tôi hoàn toàn xa lạ, tôi cảm thấy mình lạc lõng! Tôi đi tìm lại cảnh cũ, người xưa.

Đường phố Sài Gòn bây giờ đông người quá, xe cộ đủ loại, chen lấn nhau mà đi, tiếng người huyên náo, còi xe inh ỏi!

Ngày xưa, những buổi trưa hè, tôi đạp xe đạp, thong thả qua trường Gia Long đường Phan Thanh Giản hay qua những biệt thự ở đường Tú Xương vắng vẻ, dưới những hàng cây cao, chỉ nghe thấy tiếng lá rụng và tiếng ve sầu. Chỉ cần lái xe một tay thoải mái, tay kia buông thả với điếu thuốc lá. Bây giờ, những con đường Sài Gòn, bạn không thể lái xe một tay, phải dùng cả hai tay để còn len lách, sát cánh với những xe khác mà đi. Khi bạn đi bộ mà phải qua đường mới là một chuyện đứng tim, đau đầu! Không thể chờ cho tới khi vắng xe vì sẽ không bao giờ vắng cả, họa chăng là một vài giờ! Dòng xe cứ ào ào đi tới! Khi có người nhà ở địa phương đi cùng, thì họ kéo đại tôi sang đường, chặn đầu đoàn xe mà sang. Họ nói, xe nó phải tránh mình chứ mình không phải tránh xe. Mà quả như vậy, những xe hai bánh lách sát qua mình tôi, xe bốn bánh cũng lách hoặc đi chậm lại. Qua bên kia đường rất lẹ, nhưng phải vài lần hú vía! (mình hú vía thôi chứ người nhà tôi thì tỉnh bơ!) Lối qua đường như vậy quả là thực dụng, tôi thấy mọi người đều làm như thế. Muốn sang đường là sang ngay, không chờ đợi vì chờ đợi thì chẳng bao giờ sang đươc. Thực tế là như vậy nhưng tôi thấy cách đó quả là coi thường mạng sống. Họ không dám đâm xe vào mình nhưng nếu rủi mà họ không tránh được là mình lãnh đủ! Trường hợp đó có tỷ lệ xảy ra rất cao! Tính mạng con người ở đây hình như hơi mong manh!

Vườn Tao Đàn đông người, nhộn nhịp từ sáng sớm. Người ta ra đó để tập thể dục, từng đoàn người tập chung với nhau. Những ngày ở Sài Gòn tôi vẫn ra đó đi bộ. Vườn Tao Đàn ngày nay không còn vắng lặng như xưa nữa! Tôi nhớ tới bài “Trả lại em yêu” của Phạm Duy ca ngợi vẻ thơ mộng của Sài Gòn: "Trả lại em yêu, khung trời đại học, con đường Duy Tân, cây dài bóng mát, buổi chiều khuôn viên, mây trời xanh ngắt…” Con đường Duy Tân giờ đây, dù còn cây dài bóng mát, nhưng người ta đã phá tan sự trầm lặng, tịch mịch của nó. Khung trời đại học, ghế đá công viên không còn nhiều màu sắc thiên nhiên, không còn vẻ thơ mộng tình tứ nữa. Ở đâu cũng thấy những người là người! Số người nhiều gấp 10 lần ngày trước mà!

Tôi tìm lại những con đường đã đi “bát phố” ngày xưa. Đường Pasteur có hàng nước mía Viễn Đông, xế trước cửa có một người Trung Hoa bán hàng rong với mấy món mà tôi khoái: dồi trường, tim gan, bao tử phá lấu, được cắm vào bằng những cái tăm tre, tăm gỗ. Đường Nguyễn Huệ cửa thương xá Tax, chiều nào cũng có món thịt bò khô với đu đủ bào, rau thơm trong một chiếc đĩa nhôm. Người bán hàng, một tay là chai tương ớt đỏ, tay kia là chai nước giấm đường và tỏi, cùng một lúc dốc ngược hai chai, đổ vào đĩa. Thịt bò khô, gan bò khô, đu đủ, nước giấm đường tỏi ăn thật là tuyệt! Những nơi đó, bây giờ không còn, chắc là hàng rong bị cấm ở mặt tiền thành phố.

Tôi lại động lòng hoài cổ rồi! Bắt chước Nguyễn Đình Liên mà than:

"Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?"

Phải công nhận, Sài Gòn bây giờ trù phú hơn xưa nhiều lắm. Hiện tại cũng là lẽ tất yếu. Đây là sự tiến bộ, phồn thịnh, nhưng sao tôi vẫn thích cái “ngày xưa” ấy. Hoài niệm những gì mà nay chỉ còn là “vang bóng một thời”, tìm lại quá-khứ mà tôi cho là thời hoàng kim ấy, tựa như đi tìm ảo ảnh, lội dòng nước ngược!

Tôi nhận thấy Sài Gòn ngày nay không còn thích hợp với mình nữa rồi, cảnh cũng như người. Bạn bè ngày xưa, dù là thân thiết, bây giờ gặp lại, tuy vui vẻ bề ngoài, nhưng tôi vẫn cảm thấy có một cái gì đó, gượng gạo, cách biệt, khó diễn tả thành lời!

Ta về tắm ao ta không được thì đành về tắm ao người! Tôi về lại Hoa Kỳ. Tôi suy nghĩ nhiều ngày về sự mất mát cùng lòng hoài niệm và nhận thấy điều này: Quê hương đẹp, Sài Gòn đẹp ngày xưa, người ta không muốn giữ hay vì hoàn cảnh mà không giữ được, họ làm mất nó đi. Họ thay thế cái đẹp mơ hồ, mông lung mà tôi cho là thần tiên, thơ mộng bằng những lợi ích thực tế, những giá trị vật chất cụ thể. Họ bằng lòng với cái hiện tại và không hề nuối tiếc, hoài niệm dĩ vãng. Hơn nữa, hình ảnh dĩ vãng đó bị thay thế, biến đổi dần dần đồng thời cái mới cũng tồn tại dần dần cho đến ngày nay. Quá khứ bị đào thải, xóa mờ hẳn khiến người ta không còn nhớ nữa, chẳng hề để tâm, hoài niệm. Những hình ảnh, những kỷ niệm không còn ở trong ký ức của họ. Còn tôi, không chứng kiến, trải qua những thay đổi đó, ký ức ngày xưa thế nào bây giờ vẫn thế, còn nguyên vẹn.

Vậy thì chính họ mới là những kẻ mất quê hương thần tiên, mất Sài Gòn thơ mộng dù rằng họ chẳng có nỗi buồn mất mát. Tôi mới chính là ngưới còn giữ được hình ảnh của quê hương xưa, nét đẹp của Sài Gòn cũ, nhắm mắt lại tôi vẫn còn thấy được.

Vì ở trong thực tế nó không còn nữa nên tôi càng quý, cố gắng giữ gìn và sẽ giở trang ký ức, ôn lại luôn luôn để được gần gũi cho tới những ngày cuối của cuộc đời.

Cầu mong cho tôi sẽ không bị bệnh lãng trí để còn được sống với dĩ vãng.

Tôi vẫn còn quê hương thần tiên thuở xưa.

Tôi vẫn còn Sài Gòn nên thơ ngày cũ.


Houston mùa Hạ, 2008
Trần Ngọc Giới

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Image

Con Rạch Nhỏ Quê Mình

Tiểu Tử.

Mầy còn nhớ không ? Hồi tụi mình còn nhỏ, thời tiểu học, có ngày nào mà tụi mình không đùng xuồng con rạch trước nhà để tắm. Mầy còn nhớ con rạch đó không? Nó có cái tên cục mịch và quê mùa : rạch " Cồn Cỏ ". Người ta gọi như vậy bởi vì ở phía sông cái có một cái cồn khá lớn - gần như là một cái cù lao - làm tách con rạch ra làm hai nhánh. Có lẽ hồi xưa, trên cồn chỉ có cỏ nên họ gọi là " Cồn Cỏ ", chớ hồi thời tụi mình, trên đó thấy đầy cây cối mà một số là cây ổi " chim ăn " và cây xoài hột. Mầy bỏ xứ ra đi lâu quá, không biết còn nhớ " ổi chim ăn " và xoài hột không ? " Ổi chim ăn " là loại ổi nhỏ bằng trứng chim cút, bên trong toàn hột là hột nên không có ai trồng. Chim hay mổ ăn mấy trái chín, còn tha đi chỗ này chỗ nọ. Hột ổi rớt mọc lên cây, nhà vườn chặt bỏ để lấy đất trồng thứ khác. Còn " xoài hột " thì như tên của nó nói : trái nhỏ bằng nắm tay con nít, bên trong chỉ có cái hột lớn với chút xỉu cơm! Người ta cũng gọi là " xoài mút " bởi vì muốn ăn loại xoài đó phải lựa trái chín muồi, lột võ rồi mút cái hột với lớp cơm mỏng dánh dính chung quanh. Người lớn không ai thèm ăn bởi vì ăn không đã miệng mà mút xong một trái là hai bàn tay dơ hầy ! Chỉ có con nít là khoái ! Cho nên vào mùa xoài - cũng là mùa mưa - khi thấy trời nổi gió, trẻ con thường lội qua cồn để lượm xoài, được trái nào là đứng ngay dưới cây xoài mút lia mút lịa. Tao nhớ có lần mầy với tao cởi quần đội lên đầu rồi lội qua cồn cỏ lượm xoài. Mầy nhớ không ? Mình phải đội quần để quần xà lỏn đừng bị ướt bởi vì tụi mình " lội chó " đầu lòi ra khỏi nước. Mới nút được có mấy trái thì trời mưa ụp xuống làm hai đứa ướt ngoi. Lần đó về nhà tao bị bắt quì gối gần nửa tiếng. Tao tưởng mày là cháu đích tôn của ông Cả, được cưng nhứt nhà không ai dám rớ. Té ra hôm sau đi học, mầy kể lại mầy cũng bị ông nội mầy bắt quì cũng như tao ! Mầy coi ! Cái xã hội của mình hồi đó nó tốt như vậy. Quan quyền hay dân dã gì cũng dạy con dạy cháu na ná như nhau hết.

Trở lại với con rạch của tụi mình. Con rạch cong cong quanh quanh chạy tuốt vô xóm chợ, chui qua cây cầu đúc của con lộ cái rồi đi mất hút ra ruộng và rừng tràm. Hai bên bờ rạch là hai con đường đất dùng cho người đi bộ và xe đạp. Nhà cửa cất dài theo hai con đường đất. Mỗi nhà nằm trong một khu vườn đầy cây ăn trái và hoa kiểng. Hai bờ, lâu lâu, được nối với nhau bằng một cây cầu khỉ. Mỗi cây cầu khỉ đều có một cái tên : cầu cây gừa ( vì nó nằm cạnh cây gừa ), cầu cây trôm ( cạnh cây trôm ), cầu bà Sáu Lộc ( nằm trước nhà bà Sáu Lộc, chớ không phải bả dựng cây cầu đó !), cầu ván ( làm bằng hai tấm ván thay vì hai cây tre ) v.v...?Tía tao nói về sau, ông nội mày bỏ tiền ra xây một cây cầu đúc, giúp cho dân chúng đi lại dễ dàng. Mầy nhớ cái cầu đúc nằm ở xóm chợ không ? Đó, cái cầu đó, đó ! Người ta gọi là " cầu ông Cả ". Không biết mầy có biết rằng ông nội mầy hồi đó được dân chúng thương lắm không ? Tía tao nói rằng ổng thôi làm " Cả " từ thời Tây lận, nhưng dân trong vùng vẫn gọi ổng là " ông Cả ". Hồi trào Việt Minh, ông nội của mầy là người chức sắc cũ duy nhứt không bị cho đi " mò tôm ". Để thấy ổng ăn ở có nhơn biết chừng nào.


Nói đến cầu khỉ, tao nhớ hoài chuyện bà Năm Chiện té rạch. Bả té đâu hồi tụi mình chưa sanh. Lớn lên nghe kể lại mà bắt tức cười. Mầy biết không ? Hồi xưa, rạch Cồn Cỏ chỉ có loại cầu khỉ " một cây tre ", trơn trợt khó đi ( Về sau, dân chúng cặp thêm một cây tre như tụi mình đã thấy ) Một hôm bà Năm Chiện đi tới giữa cầu, hụt chân té xuống rạch. Người ta nghe tiếng bà Năm la chói lói : " Bớ làng xóm ! Bớ làng xóm !" Rồi giọng bả bỗng thấp xuống : " Ủa mà cạn!" Thì ra bả không biết lội, hồi té là la làng kêu cứu, chừng coi lại thấy nước mới tới lưng quần, bả té nhằm nước ròng. Bà con lối xóm nghe la, chạy ra thì thấy bà Năm Chiện lóp ngóp bò lên bờ rạch, miệng cười lỏn lẻn mắc cỡ ! Chuyện này về sau khi tao đi làm việc ở Sàigòn, tao có nghe kể nhiều lần. Họ kể " có bà đó " chớ không nói là bà Năm Chiện, và họ kể như là chuyện tiếu lâm đặt ra để cười chơi. Đâu có ai biết là chuyện tiếu lâm đó xuất xứ từ con rạch Cồn Cỏ của quê mình !

Ở làng Nhơn Hoà Cồn Cỏ, trẻ con chia ra thành bọn để đi chơi với nhau. Bọn mình có ba đứa : thằng Đực Nhỏ, mầy, tao. Mầy còn nhớ thằng Đực Nhỏ không ? Cái thằng học dở ẹc, tánh tình thì ngổ ngáo, học chung với tụi mình nhưng lớn hơn tụi mình tới ba tuổi. Vậy mà chơi với bạn, nó tốt vô cùng. Có cái gì ăn nó cũng chia và nó hay bầy đặt trò chơi này trò chơi nọ. Nó lúc nào cũng ra vẻ đàn anh bảo vệ mầy với tao. Nó nói với bọn trẻ khác :" Thằng Cương, thằng Lân là bạn của tao, đứa nào đụng vô là biết !". Mầy có biết nó nói với tao làm sao không ? Nó nói :

" Thằng Cương hiền khô nhát hít .. Nó là cháu ông Cả chớ tụi xóm Chợ đâu có coi ra gì. Tụi nó không nể nang ai hết, bắt nạt được là tụi nó bắt nạt. Tao phải dằn mặt tụi nó trước như vậy ". Rồi nó nhìn tao :" Còn mầy thì tao khỏi lo ". Nó biết rằng tao cũng không vừa gì !

Không biết mầy còn nhớ vụ bọn mình đi ăn cắp tôm không ? Bọn mình ở xóm Cồn, gần sông cái, nên biết mặt gần hết mấy ông thợ câu. Một bữa nọ thằng Đực Nhỏ hỏi :" Tụi bây muốn ăn tôm nướng không ? ". Tụi mình hỏi lại :" Tôm ở đâu mà nướng ? Mầy câu hả ?". Nó nói :" Muốn ăn thì đi theo tao ". Nó dẫn tụi mình ra ngoài vàm, chỉ tay ra đó :" Tôm cả đống ở ngoải ". Tụi mình nói nó xí gạt nên vừa " xì " một tiếng vừa quay trở vô định về. Nó níu lại : " Thiệt mà ! Ông Hai Sầm câu tôm ổng rộng tôm ngoài đó đó ". Rồi nó giải nghĩa :" Tao thấy ổng đi câu về là ổng thả cái rọ tôm có treo cục đá xuống sông. Cái rọ có sợi dây dính vô khúc củi nổi trên mặt nước để làm dấu. Tụi bây dòm coi ". Nước đang ròng. Cách bờ độ ba thước có khúc củi nhỏ lắc lư lắc lư như muốn trôi mà bị cái gì rị lại phía dưới. Mầy nói :" Tôm của người ta, ăn cắp chúng bắt chết ". Nó cười :"

Mình lặn xuống xin mỗi đứa một con ăn chơi. Ăn nhầm gì ? Chừng nào rinh hết cái rọ của ổng mới là ăn cắp chớ !". Ba đứa dợm bước xuống sông để lội ra đó thì tao khựng lại :" Không được ! Phải có một thằng đứng canh. Rủi có người thấy tưởng tụi mình ăn cắp cái rọ thì khổ ". Vậy là mầy được chỉ định đứng canh trên bờ. Tao lại nghĩ lại :" Không được ! Nước ròng chảy mạnh, ba con tôm, tay nào cầm tay nào lội ? ". Thằng Đực Nhỏ " Ờ " rồi ngồi bẹp xuống như cái bong bóng xì. Bỗng nó đứng phắt lên chỉ vào cái quần dài bằng vải đen nó đang mặc :" Tao cột túm ống quần lại, mình bỏ tôm vô quần rồi lội vô !". Rồi nó vừa cười ha hả vừa chạy lại mấy cây chuối hoang gần đó tét mấy sợi dây thân chuối cột ống quần. Mầy nói : " Mẹ ! Coi chừng càng tôm nó kẹp cho thấy bà !". Đực Nhỏ vừa nói vừa ra dấu :" Mình bẻ càng nó !". Tao chen vô :" Ờ? mà còn cái răng cưa trên đầu nó nữa ". Nó dứt khoát :" Thì cũng bẻ luôn !". Vậy là hai đứa tao đùng xuống sông, lội ra khúc củi, mò theo sợi dây lặn xuống. Như đã giao hẹn hồi lội ra, tao lãnh phần bắt tôm, nó lãnh phần bẻ càng bẻ răng cưa rồi " nhốt " vô quần. Đang làm tới con tôm thứ hai thì bỗng thằng Đực Nhỏ trồi lên mặt nước la làng chói lói. Tao hết hồn nắm đầu nó vừa lội vừa kéo vô bờ. Nó vùng vẫy như điên, hất tay tao ra rồi chìm xuống nước. Trên bờ, mầy nhớ không, mầy vừa nhảy đông đổng, vừa la :" Chết cha ! Thằng Đực Nhỏ bị ma da rút rồi ! Chết cha !". Vô tới bờ, tao chưa biết phải làm sao thì thằng Đực Nhỏ trồi đầu lên, mặt mài nhăn nhó, vừa lội vô vừa rên :" Đau thấy mẹ ! Trời ơi ! Rát thấy mẹ !". Chừng nó đứng lên mới thấy cái quần nó tuột xuống hai ống chân, còn hai bên bắp vế của nó thì máu me tùm lum như bị đâm bị cắt. Nó nói như mếu :" Mẹ bà nó ! Mình quên con tôm còn có cái đót giấu ở dưới đuôi nữa ! Nó búng đuôi chém tao đau thấy ba bốn ông Trời ! Tao phải lặn xuống cởi quần cho nó phóng ra sông !". Thằng Đực Nhỏ vừa nói vừa khoát nước rửa máu chừng đó mới thấy cái đùm giữa của nó còn nguyên chỉ bị thương ở đùi. Hú vía ! Thằng Đực Nhỏ sau này đi lính đánh giặc rồi chết trận ở Kontum. Nó chưa vợ chưa con, cũng may cho nó.

Trở về với con rạch của tụi mình. Trẻ con đi học về là nhảy ùm xuống tắm. Người lớn còn đợi nước lớn mới tắm chớ con nít thì nước lớn nước ròng gì cũng tắm được hết, bởi vì tắm lội là một trò chơi. Nhắc đến vụ tắm rạch, tao còn nhớ tới chuyện này. Chắc, tao nghĩ, mầy cũng còn nhớ. Hôm đó, mầy bận cái quần xà lỏn mới tinh của má mầy vừa may cho. Mầy sợ quần ướt nên cởi quần vắt lên cây gừa, ở truồng nhào xuống lội. Hồi thời tuổi nhỏ, tụi mình tắm ở truồng là thường. Tắm giỡn đã rồi leo lên bờ thì đứa nào đã ăn cắp cái quần mới. Mầy mếu máo khóc, tao phải qua nhà tao lấy cái quần cho mầy mượn mà mặc đi về. Hôm sau đi học, mặt mầy buồn xo. Mầy trật đít ra cho tao coi hai lằn roi đỏ ửng ! Vụ đi tắm mất quần đó, chắc mầy còn nhớ mà ! Cho dù đã mấy chục năm, hai lằn roi đó làm sao quên được ?

Vậy mà đã mấy chục năm ! Tụi mình xa lần con rạch Cồn Cỏ từ hồi lên tỉnh học trung học. Rồi xa luôn từ ngày mầy đi Tây, còn với tao thì kể cũng gần như xa luôn từ ngày tao đi lính. Mầy không biết chớ hồi tao đi lính, tao đánh giặc lì lắm. Bạn đồng đội nói tao là :" Thằng Lân ăn pháo, chỗ nào Việt Cộng bắn rát là có nó lăn tới ". Rồi tụi nó đặt cho tao cái hỗn danh " Lân pháo ", hỗn danh này tao mang tới ngày mất nước. Suốt cuộc đời nhà binh của tao, tao đánh giặc không biết bao nhiêu trận, có vào sanh ra tử, có thắng có thua? nhưng không hiểu sao tao chưa hề bị thương một lần ! Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng. Vết thương đó, bây giờ, gần bốn mươi năm sau, vẫn chưa chịu lành. Mầy thấy không ? Kể lại cho mầy nghe mà tao vẫn còn rơm rớm nước mắt.

Bên vợ tao có cơ sở làm ăn ở Marseille. Nhờ vậy, tao mới qua Pháp theo diện đoàn tụ gia đình bên vợ. Mầy thấy không ? Cuối cùng rồi tao cũng được đi Tây như ai ! Trước khi đi, tao có về thăm Cồn Cỏ. Con rạch nhỏ bây giờ nó rộng huỵch, tại vì ghe thuyền bây giờ toàn chạy máy nên sóng đập lở bờ. Cầu khỉ được thay bằng cầu ván. Cầu Ông Cả gãy hết một chân lòi cốt sắt rỉ sét. Người ta nói hồi mới vô, mấy cha Việt Cộng thách đố nhau bắn chơi ! Cái cồn đã được một ông lớn nào đó chiếm ngụ. Ổng xây bờ kè, xây tường rào kiên cố, phía sông có cầu tàu, nhà thủy tạ, bên trong là nhà lầu kiểu cọ theo điệu Tàu. Bây giờ mầy có về mầy nhìn không ra đâu ! Người cũ chết bớt, đi bớt. Người mới, phần đông là dân cách mạng tụi mình không quen, về cất nhà lầu dài theo rạch. Tao có đến thăm con Huê, cái con nhỏ má lúm đồng tiền học chung với tụi mình đến hết lớp nhứt, đó, rồi về sau nó bán vải ở chợ nhà lồng, có năm đó trong dịp Tết nó tặng mầy một cái mu-soa thêu trước khi mầy đi Tây, mầy nhớ hôn ? Con nhỏ đó, đó! Bây giờ nó vẫn bán vải, vẫn chưa có chồng, coi hơi già hơn tao một chút nhưng vẫn còn có duyên. Nó với tao nhắc không biết bao nhiêu chuyện cũ, để lâu lâu thở dài.? Khi con Huê tiễn tao ra đến cổng, nó đứng ngập ngừng một chút rồi bỗng nói một mạch lè lẹ như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ :" Anh qua bên Tây, có gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh ". Nói rồi nó bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay lên quẹt mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao cách đó khá lâu hồi tao gặp nó bán vải ở chợ An Đông :" Anh Lân biết không ? Chị Huê thương anh Cương từ hồi còn học lớp nhứt lận !". Nó vừa nói vừa cười, tao tưởng nó nói chơi, té ra nó nói thiệt. Tao kể lại chuyện con Huê cho mày nghe, tao biết mày không làm gì được, nhưng tao vẫn kể. Để cho mầy thấy người con gái ở dưới quê mình nó thật thà trung hậu đến mức độ mà khi đã trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là sự tự nhiên. Cũng như, hễ đã là con rạch thì tự nhiên phải có nước lớn nước ròng.

Hồi hôm, coi télé chương trình văn nghệ đài TF1, nghe hát bài " Dòng sông tuổi thơ ", tao bỗng nhớ tới con rạch nhỏ quê mình. Rồi tao nhớ mầy Cương ơi ! Bây giờ mầy ở đâu ?

Tiểu Tử

Truyện này tôi viết theo lời yêu cầu của người kể. Ông đó nói : "Nhờ ông viết lại dùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê ".

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »


TIẾC


Song Thao

Image
Ngày 12/10: Thương xá Tax hơn 130 tuổi bị xóa bỏ để xây cao ốc 40 tầng

Thương xá Tax vừa bị xóa sổ. Vậy là thêm một mảng Sài Gòn xưa bị vỡ vụn. Dân Sài Gòn chúng ta ai cũng tiếc nuối trước sự vong thân của thành phố thân yêu. Sài Gòn đang bị dày vò, không còn là Sài Gòn của chúng ta. Nhớ về Sài Gòn, chúng ta có nhiều thứ để vịn vào. Nhưng có một thứ không thuộc về Sài Gòn mà mỗi khi nhớ về chúng ta ngẩn ngơ. Trong bài “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, nhà thơ Du Tử Lê nhớ lung tung: Thị Nghè, Hàng Xanh, Trương Minh Giảng. Toàn những địa danh nẫu lòng. Nhưng nhiều người, trong đó có tôi, nhớ da diết như nhà thơ: Nhớ nghĩa trang quê hương bạn bè / Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường. Pho tượng lính ngồi buồn rầu ngay trước nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Pho tượng đầy biểu tượng này đã làm bất tử tên người khai sanh ra nó: điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu.

Sự ra đời của pho tượng lính, nhiều người đã nói, chúng ta đã nghe nhiều. Tôi nghĩ chẳng cần nhắc lại. Nhưng chuyện về sự hình thành pho tượng bất tử này, dù nghe nhiều, nhưng mỗi người nói mỗi khác nên chuyện kể cứ như…huyền thoại! Tôi cố tìm xem câu chuyện thực sự ra sao nên kiếm đọc được những gì do chính tác giả bức tượng nói trong bài phỏng vấn của nhà truyền thông Lê Xuân Trường.

Thương xá Tax

Khi được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu giao nhiệm vụ thực hiện sơ đồ nghĩa trang Biên Hòa trong đó có bức tượng mà theo gợi ý của ông Thiệu thì là cảnh chiến trường, ông Thu đã tới nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây để tận mắt chứng kiến cảnh chuyển xác từ chiến trường về, cảnh khóc lóc của vợ con tử sĩ, cảnh an táng. Ông quan sát trong suốt một tuần lễ. “Tôi ở đó được sáu ngày như vậy, khi ở được sáu ngày rồi , ngày mai nữa là hết ngày, đến ngày phải trình Tổng Thống, cho nên đến buổi trưa thứ sáu, đây là câu chuyện thật, tôi cứ nôn nóng như vậy. Trưa thứ sáu thì tôi từ nghĩa trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, tôi về Gò Vấp. Ở vùng Gò Vấp, nắng quá, tôi mới vô kiếm nước uống. Tôi quẹo đại vào một cái quán gần căn phố. Vô tình, tôi kêu một ly nước chanh uống, bỗng nhiên, tôi thấy một anh lính Nhảy Dù, ảnh vô đó từ trước, ảnh cũng từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây về trước đó. Khi tôi bước vô thì tôi dòm qua ảnh, thấy ảnh đã uống đâu bốn năm chai bia rồi, thì thôi, tôi cũng không nói gì. Nhưng có một điều lạ, tôi thấy ảnh đang nói chuyện với cái ly, ảnh là binh chủng Nhảy Dù, ảnh để cái nón nhảy dù trên cái bàn, mặc áo nhảy dù đàng hoàng, ảnh đang uống và đang buồn, đang nhớ bạn. Một ly ảnh uống, một ly ảnh cúng, ảnh rót bia vào cái ly cúng đó, rồi ảnh nói chuyện với cái ly như có người bạn trước mặt ảnh vậy, ảnh cằn nhằn, ảnh đau đớn cho người bạn của ảnh đã mất. Khi tôi dòm thấy được cái hình ảnh mà ảnh vừa nói vừa gục đầu xuống bàn, vừa khổ sở với cái ly đó, ảnh vừa uống vừa cúng. Tôi chờ một chút nữa rồi bước qua làm quen. Tôi cầm cái ly nước chanh, bước qua, tôi đứng kề ảnh, bên cái bàn của ảnh, tôi xin phép ảnh: “Anh à, tôi muốn ngồi kề với anh, uống với anh được không? Thấy anh buồn, tôi muốn ngồi với anh”.Tôi thấy ảnh không trả lời tui, ảnh ngồi gục trên cái bàn, ảnh hất cái mặt lên, có vẻ như không bằng lòng khi có người thứ hai quấy rầy ảnh… Mặt tôi hơi sượng, mấy cô trong quầy cười khúc khích, nãy giờ, cái anh nầy nói chuyện với cái ly không, mà bây giờ có thêm một thằng điên qua nói chuyện với ảnh, mấy cô chắc nghĩ như vậy, thấy mấy cô cười khúc khích với nhau. Nhưng mà trời thương, tôi có hỏi giấy tờ của ảnh, ảnh gục cái đầu xuống, tôi đứng trơ trẽn ở đó. Bỗng nhiên, ảnh móc ở túi sau, ảnh móc giấy tờ, ảnh đưa cho tôi. Tôi đâu có phải Quân Cảnh mà hỏi giấy tờ của ảnh, thế mà ảnh đưa cho tôi. Tôi cầm cái bóp rồi trở về cái bàn của tôi, tôi lấy giấy tờ ra hết. Tôi ghi tên của ảnh, ảnh là Võ văn Hai, hạ sĩ Võ văn Hai, tôi nhớ rõ như vậy. Ở tiểu đoàn nào tôi quên rồi, tôi ghi hết cái KBC. Xong rồi, tôi đem cái giấy đến trả lại, ảnh cũng không cần biết nữa, lấy bỏ túi thôi,không nhìn tôi. Tôi trở về bàn, tôi ngồi để nhìn một chút xíu nữa. Trưa đó tôi về, dĩ nhiên là ảnh còn ngồi đó, tôi lo đi về, tên tuổi của ảnh tôi còn để đây”.

Buổi sáng bữa vào trình sơ đồ tượng, ông được Đại Tá Võ văn Cầm, Chánh Văn Phòng, tiếp trong khi chờ gặp ông Thiệu. Trong lúc ngồi đợi, ông Nguyễn Thanh Thu sực nghĩ tại sao không vẽ cảnh anh hạ sĩ Hai ngồi uống bia? Ông vội phác họa trên mặt sau miếng giấy bạc trong bao thuốc. Khi vào trình Tổng Thống, ông trải các bức vẽ cảnh chiến trường trên sàn nhà. Khi được ông Thiệu hỏi ý kiến, ông đã rụt rè đưa ra bức phác họa trên giấy trong bao thuốc lá. Ông Thiệu ưng ý và muốn ông vẽ lớn ra ngay. Ông ra ngoài xin Đại Tá Cầm vật liệu để vẽ. Khi đó ông Thu mới thấy cần vẽ chi tiết hơn. Ông ngỏ ý cần người mẫu. Đại Tá cầm bối rối hỏi: “Tôi được không?”. Tới lượt ông Thu bối rối: áo quần láng coóng, tóc tai mượt mà đâu có giống lính chiến. Nhưng rồi ông Đại Tá “hóa trang” với súng ống, nịt đạn, bi-đông nước, nón sắt. Ông Thu phác họa xong, Tổng Thống Thiệu ký chấp thuận. Ông Thu có ba tháng để hoàn tất tượng.

Ông tìm tới đơn vị của anh Võ văn Hai để xin anh về làm mẫu. Thiếu Tá chỉ huy khoái chí đề nghị: “Ông yêu cầu gặp anh Hai nhưng tôi thấy chưa hay đâu. Tôi nói thật với anh, tôi cho anh một Đại Đội, mặc sức mà chọn. Nhiều thằng một thước bảy, một thước tám thước chín, mề đay đầy người, to lắm, chiến công dữ dằn lắm!”. Ông Thu nhấn mạnh chỉ xin anh Hai nhưng ông Thiếu Tá vẫn tập họp một Đại Đội cho ông chọn. Chính ông Thiếu Tá lựa ra bốn người. Ông Thu gọi anh Hai ra. Vậy là năm người được tập trung trong câu lạc bộ với ông Thu. “Tôi nói với mấy ảnh như thế này: “Thật sự tôi chỉ cần anh Võ văn Hai thôi, nhưng ông Thiếu Tá tốt bụng cho thêm bốn anh nữa. Thôi mấy anh về nghỉ đi, cứ nghỉ ba tháng nhưng đừng ra ngoài đường, đừng mặc đồ lính quân cảnh nó bắt, tôi không có thời giờ đi lãnh về”. Vậy là chỉ có anh Hai phải ngày ngày đến ngồi làm mẫu, bốn anh còn lại được chơi thả cửa trong ba tháng! Sau ba tháng ròng rã, tượng coi như hoàn thành nhưng ông Thu vẫn chưa hài lòng. Ông không tìm được nét buồn của anh Hai khi ngồi trong quán nước trước đây. Một bữa, ông để anh ngồi, không nói gì và bỏ vào trong nhà. “Tôi vô trong nhà, dòm lén qua lỗ gió. Khi ngồi lâu, anh Hai mới nhớ lại, hoàn toàn trở lại hồi cũ ở quán nước, nét mặt ảnh buồn như trước. Khi ảnh buồn thật sự, tôi lấy cây viết chì với miếng giấy ghi lại chỉ nét mặt thôi. Nó rũ xuống như thế nào tôi vẽ như thế nấy. Tôi chỉ vẽ cái môi, cái miệng, cái mũi thôi”. Ông cho anh Hai về. Ba giờ khuya, ông tắt hết đèn, cầm đèn cầy ra tạc chi tiết trên mặt bức tượng. “Không có gì bằng đêm khuya vắng vẻ, mình nói với tượng khi soi đèn cầy để tìm ánh sáng. Khi tôi cầm cây đèn cầy bên này thì ánh sáng bên này tạt qua, khi tôicần ánh sáng bên kia thì tôi đưa cây đèn cầy qua bên đó. Tôi đưa lên đưa xuống, một tay tôi cầm đèn di chuyển, một tay tôi làm. Làm tới sáu giờ sáng, tôi thấy đẹp quá, nét mặt của tượng buồn quá, buồn lắm. Nhưng mà thôi, tôi đi ngủ”. Tám giờ sáng, khi mặt trời đã lên, ông Thu ra coi nét buồn dưới ánh sáng mặt trời có đạt như dưới ánh nến không. Ông thấy y chang!

Nghệ sĩ đích thực luôn cầu sự toàn mỹ. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tự làm khó mình để đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật. Tính ông như vậy. Một học trò của ông từ hồi trung học, anh Nguyễn Tuấn Khoa, đã kể lại. “Thầy Thu tuổi Giáp Tuất (1934), dạy môn hội họa cho tôi tại trường Võ Trường Toản từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước,có cá tính rất mạnh, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archet khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông chọn ra hai, ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6, cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như người khổng lồ so với các học sinh cấp 2 bây giờ?”.

Tháng 12 năm 1975, tại lớp 10C5 trường Võ Trường Toản, đứa con trai “chịu đòn thay cả lớp” bị gọi mang cặp lên văn phòng Hiệu Trưởng. Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, lạnh lùng ra lệnh đuổi học vì “ba em có nợ máu với nhân dân”. Anh Khoa kể tiếp: “Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe. Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học!”. Trí giấu mẹ nó vì sợ bà buồn, sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui lỗ chó vào sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ, nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do ba nó tạc năm 1972”.

Cùng thời gian này, tại trại cải tạo Hàm Tân, ông bị quản giáo gọi lên vì không khai trong lý lịch việc tạc tượng Thương Tiếc. Sáu tên cán bộ đã thay nhau đánh ông trong ba ngày liên tiếp. Chúng đập mạnh vào hai mang tai ông đến chảy máu tai và điếc luôn từ ngày đó. Sau đó ông bị giam trong conex tám tháng không thấy ánh mặt trời.

Một ngày nọ, khoảng bốn giờ sáng, cửa conex mở, một họng súng AK chĩa thẳng vào ông, giọng tên cán bộ ra lệnh cho ông bước ra ngoài. Chiếc còng được khóa vào tay ông. Chúng dẫn ông đi về phía cổng trại để vào khu rừng chuối kế bên. Bỗng có một chiếc xe jeep chạy tới, đèn pha sáng rực. Hai bên nói chuyện với nhau khoảng năm phút. Ông tiếp tục bị kéo vào khu rừng và bị nhốt vào trong một nhà cầu của khu gia binh của quân đội quốc gia bị bỏ trống từ lâu. Ông nằm thiếp đi vì quá mỏi mệt. Ông không biết là ông được tha chết vào giờ chót. Tới trưa, một cô gái mang cơm tới cho ông. Từ đó cô gái Bắc kỳ này là chị nuôi của ông. Ít lâu sau, cô gái nói với ông: “Em thương mấy anh sĩ quan cải tạo các anh lắm. Kể từ nay, em sẽ để một chút thịt nằm dưới chén. Anh hãy ăn chút thịt này trước để đề phòng cán bộ khỏi bắt gặp làm khó dễ”. Tại sao cô gái này lại có cảm tình với ông như vậy? Tại vì bức tượng Thương Tiếc! Cô cho biết là, thấy ông bị phạt nặng, cô hỏi các bạn tù của ông. Họ cho biết ông là tác giả bức tượng Thương Tiếc. Cô là con của một bộ đội ngoài Bắc xâm nhập vào Nam, bị tử thương trong một trận đánh. Mẹ cô gánh cô vào Hố Nai sinh sống. Nơi cô ở rất gần nghĩa trang quân đội, cô thường cùng các bạn tới chơi nơi bức tượng nên biết rất rõ bức tượng lính này.

Vì biết tài nặn tượng của ông nên cán bộ chỉ huy trại tù đề nghị ông tạc tượng Hồ Chí Minh để trưng bày trong trại. Ông suy nghĩ và đồng ý với một điều kiện: ông được về nhà ở Gia Định để lấy đồ nghề. Trong thâm tâm ông muốn trốn trại. Chúng chấp thuận đưa ông về cư xá Việt Nam Thương Tín ở Hàng Xanh. Trong khi bốn tên an ninh dẫn giải ông ngồi nói chuyện với cô em gái ông tại phòng khách, ông xuống bếp với mẹ. Mẹ ông nghiêm khắc nói với ông: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu giờ con muốn gì. Nếu trái ý mẹ, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Ông đành trở lại trại tạc tượng trong sự ghẻ lạnh và xỉ vả của bạn đồng tù. Ông nuốt hận làm việc. Trong khi đó, cán bộ trong trại dàn cảnh cho vợ con ông được phép thăm đặc biệt. Tuy túng bấn nhưng gia đình cũng mua thịt vịt quay với bánh mì khi tới thăm. Ông liếc thấy trong tờ báo Tin Sáng dùng để gói thịt quay có tấm hình của Tổng Thống Thiệu, ông vội xé ra, gấp nhỏ, đút vào túi.

Khi bức tượng gần hoàn tất, đám tù nhân đi qua nhìn thấy, xầm xì với nhau khi thấy khuôn mặt tượng giống mặt ông Thiệu. Mấy tên “ăng-ten” vội báo cáo. Khi ông đang gắn một bên râu mép bức tượng thì một cán bộ tới làm bộ hỏi chuyện, tay thọc vào túi áo ông lôi ra bức hình ông Thiệu. Vậy là chết! Ông bị giam vào conex và bị hành hạ đủ điều. Bốn tháng sau ông kiệt sức, bất tỉnh, được đưa tới trạm xá. Trạm xá lúc đó do Đỗ Cao Đẳng (phi công?), chú của Trung Tướng Đỗ Cao Trí, làm trạm trưởng nên ông được ông này cùng các học trò cũ của ông từ thời trung học Võ Trường Toản tận tình chăm sóc. Ba ngày sau ông mới tỉnh lại.

Tới năm 1983 ông được thả sau tám năm trong tù. Bốn năm sau, ông vượt biên bằng đường bộ tới Thái Lan trong túi không có một xu. Tại Mỹ, trong một lần tới Cali nói chuyện, ông Thiệu đã xuống tận chỗ ngồi của ông thăm hỏi khi được nghe chuyện tạc tượng của ông trong tù khiến ông rất cảm động.

Sau mười năm ở Mỹ, ông trở lại Việt Nam. Người ta đồn ông về để dựng lại tượng Thương Tiếc khi nghĩa trang Biên Hòa được phục hồi. Tháng 3 năm 2007, hai nhà văn Văn Quang và Thái Phương tìm tới thăm ông. Cơ ngơi của ông ngày nay là tiệm cà phê vườn “Tượng Đá”. Văn Quang kể lại: “Nhận ra người quen, anh Thu rời cây kéo tỉa hoa, vui mừng ôm vai bạn. Kiểu “ăn diện” của Nguyễn Thanh Thu bao giờ cũng giản dị đến…quá bình dân. Cái “mũ nồi” từ đời tám kiếp nào vẫn chùm hụp trên đầu, có vẻ cố giấu cái đầu hơi lớn. Nhưng đó là “dấu ấn đặc biệt made in Nguyễn Thanh Thu”, không lẫn đi đâu được. Cứ như, nếu không có cái “mũ nồi đen” và không có vẻ lam lũ thì không phải là Nguyễn Thanh Thu!”. Khi được hỏi về dư luận đồn ông về làm lại tượng Thương Tiếc, ông cười hà hà: “Ai cho làm mà làm?...Người nghệ sĩ chỉ sáng tạo một lần. Lần thứ hai không thể làm như lần thứ nhất. Nhưng nó sống được trong lòng mọi người thì tự nó còn mãi. Tôi tự hào về tác phẩm này. Dựng lại là một điều chẳng hay ho gì. Nó sống trong lòng mọi người là đủ!”.

Tôi ở Thị Nghè như Du Tử Lê nên khi Lê nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè và nhớ em Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh, nỗi nhớ lây sang tôi. Những địa danh nơi chốn cũ như xát muối trong lòng. Xa Lộ của chúng tôi dẫn tới bức tượng Thương Tiếc. Tượng như người nhà. Trời vừa vào thu, nơi tôi ngụ cư lá đã rơi vàng mặt đường. Trời đất ẩm ướt gọi nỗi buồn dậy men trong lòng mọi người. Nỗi buồn đã đưa tôi về lại chốn xưa. Tôi nghĩ tới bức tượng đồng trước nghĩa trang giờ chẳng biết đã nhão ra, hóa thân vào chốn nào. Và nghĩ tới người tạc tượng. Kể từ năm 2007, khi Văn Quang và Thái Phương tới gặp điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tính tới nay đã gần một thập niên, ông hiện nay ra sao? Tôi liên lạc với Thái Phương để nhờ anh một lần nữa tới quán cà phê “Tượng Đá” của ông Thu thăm hỏi. Người nghệ sĩ ở tuổi 82 vẫn còn đó, vẫn sống với tượng lính cũ. Ông cầm tay Thái Phương luôn miệng nói: “Tôi nhớ cái tượng Thương Tiếc lắm!”.

Nỗi nhớ của ông cũng là nỗi nhớ của tất cả con dân đất Việt còn ở trong nước cũng như đang sống tại đất nước người. Nhớ mà thương! Thương mà tiếc!

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Image


Bức Họa Khỏa Thân

Tác giả: Phạm Thành Châu

Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế. Sau đây, xin mời đọc một truyện ngắn tiêu biểu của tác giả.

* * *

Chuyện quái lạ sau đây, xảy ra cho người bạn của tôi khiến tôi cứ thắc mắc mãi. Có phải chết là hết hay là còn linh hồn? Nếu còn thì thế nào là siêu thoát, thế nào là oan hồn, uổng tử? Ma, quỉ là gì? Thời đại khoa học mà lại có người bị chết vì bị con quỉ hút hết tinh lực? Giống như chuyện Liêu Trai. Làm sao mà tin được!

Tôi với hắn quen nhau trên đảo Galang, Nam Dương, nơi đón nhạn những người vượt biên bằng thuyền sau khi cộng sản vào Sài Gòn năm bảy lăm. Qua Mỹ, cùng về tiểu bang Virginia, thỉnh thoảng gặp nhau thường rủ vô tiệm cà phê, chuyện trò. Hắn và tôi đều độc thân nên sống thoải mái, chẳng hề bận tâm chuyện nhà cửa, điện nước, vợ con. Thế rồi hơn cả năm không gặp hắn, tôi gọi điện thoại, chủ nhà trọ bảo hắn đã dọn đi nơi khác rồi.

Bỗng một hôm, tình cờ tôi gặp lại hắn ngoài chợ. Người hắn ốm nhom, da xanh như tàu lá, đi không vững nhưng đôi mắt còn linh động, miệng vẫn tươi cười. Tôi hỏi.

- Lối rày sao trông mầy xanh xao quá! Có bịnh hoạn gì không? Đi bác sĩ chưa?

- Chả bịnh gì cả. Không hiểu sao? Đi bác sĩ khám bịnh, thử máu, chụp hình. Chụp từ đầu đến chân. Tim, gan, phèo, phổi đều được khám xét rất kỹ. Vẫn bình thường.

- Thế thì phải có chuyện gì xảy ra cho mầy? Hay là gặp em nào, "đêm bảy ngày ba" mầy mới ra nông nổi nầy.

- Mầy đoán có phần đúng, nhưng không phải em nào làm tao xanh xao mà là một bức tranh.

- Tôi kinh ngạc.

- Tại sao một bức tranh lại có thể làm mầy suy sụp đến nguy hiểm như vậy được?

- Chuyện dài dòng lắm, đây là địa chỉ của tao, chủ nhật tới, đến tao, chỉ cho mầy bức tranh, tao kể chuyện mầy mới hiểu được.

Chủ nhật sau, tôi đến. Hắn thuê phòng dưới một tầng hầm (basement), trong phòng có treo một bức tranh thiếu nữ khỏa thân. Tôi chưa hề thấy một bức tranh tuyệt vời đến như thế. Cô gái trong tranh đẹp lồ lộ, nhưng là vẻ đẹp tinh khiết, từ đôi mắt ngây thơ đến mái tóc đen tuyền xỏa trên vai, nhất là thân thể, chân tay, làn da... đều sáng, mịn như đúc bằng ngọc bích. Cô giống như nàng tiên, cùng các bạn xuống chơi trần thế, vừa tắm suối xong, bước lên bờ một cách hồn nhiên, vô tư tưởng chừng như thế gian không có người phàm tục.

Thấy tôi cứ đứng ngẩn ngơ trước bức tranh, hắn đi nấu nước trà rồi bắt tôi ngồi xuống để nghe hắn kể.

*

Câu chuyện bắt đầu từ Việt Nam, cách đây khá lâu, khi tao còn học trường Phan Chu Trinh, Đà Nẳng. Thời trung học thì mầy cũng biết, yêu ai thì cứ yêu, không cần biết đối tượng có yêu lại hay không. Được yêu lại thì gọi là yêu nhau. Bị từ chối thì gọi là yêu đơn phương. Tao yêu đơn phương.

Năm đó tao học đệ nhị, em học đệ ngũ. Con gái đệ ngũ như hoa hồng hé nở, cô nào cũng đẹp, cũng duyên dáng. Em là con chiên Công Giáo, sáng chủ nhật đi lễ nhà thờ, tao cũng dậy sớm, ăn mặc chỉnh tề, ôm quyển tự điển to tướng, trông giống quyển thánh kinh, dĩ nhiên đã bao cái bìa, đi chen vào với gia đình em, mục đích để được đi cạnh em mà không ai quan tâm vì tưởng tao cũng là bổn đạo. Bố em là công chức Tòa Thị Chính, nơi khác đến làm việc chứ không phải người địa phương. Ông ta ốm, thấp, mặt mũi nhăn nhó, khó chịu. Tao sợ ông ta lắm vì mặc cảm yêu con gái ông ta. Thường thì thấy tao, em mỉm cười chào một cách yên lặng. Khi đến nhà thờ, tao loanh quanh đâu đó rồi quay về, vì tao đâu phải giáo dân.

Nhà em ở đầu con hẻm, nhà tao ở trong hẻm nên tối nào, đang học bài, nhớ em, tao đi qua lại trước nhà em vài lần. Tao còn làm thơ yêu em, trước khi gửi bài thơ đăng báo, tao đều gửi đến em kèm với lá thư tình. Tao gửi trực tiếp đến phòng học của em chứ không qua bưu điện. Số là một buổi tối, đi ngang nhà em, tao thấy có ánh sáng hắt ra từ một căn phòng. Nhà em có vườn rộng, buổi tối đóng cửa sớm. Tao bước lên hiên nhà em, cúi xuống nhìn qua cửa lá sách, thấy em đang học bài. Thế là từ đó, tao đến với lá thư, tao ngắm trộm em một lúc trước khi chuồi lá thư qua khe cửa. Em không biết được, nhưng sáng hôm sau, mở cửa, em sẽ thấy lá thư.

Em được thư tao nhưng không thấy phản ứng gì, gặp tao em không nhìn chỉ mím cười. Như thế thì mầy cũng hiểu là em không yêu tao, tuy có hãnh diện được tao si mê. Tao yêu em gần ba năm mà tình trạng vẫn không thay đổi. Cho đến năm tao thi xong tú tài hai, chuẩn bị vào Sài Gòn học đại học, tao mới viết một lá thư thật dài, toàn những lời si mê em. Nào là dù phương trời góc biển, tao cũng không quên em, dù sau nầy khi em không còn trẻ đẹp nữa, nếu em rủ lòng, tao sẵn sàng quì dưới chân em, làm một tên nô lệ. Cuối thư, tao xin em, trả lời cho tao vài chữ, để mắng chửi tao cũng được, miễn sao tao có bút tích của em, làm "hành trang lên đường!" Tao còn thêm một câu "Ý định xin Bình Minh một tấm hình có phải là không tưởng, là viễn vông chăng?" Góc lá thư tao ghi địa chỉ người bà con ở Sài Gòn mà tao sẽ vào trọ học. Tối đó, tao mang lá thư đến nhà em. Tưởng nghỉ hè, em đi ngủ sớm, không ngờ đến nơi, thấy đèn phòng em vẫn còn sáng, nhưng nhìn qua khe cửa lá sách, tao không thấy em. Tao đi vòng qua phía sau vườn thì phát giác phòng em còn một cửa sổ nữa. Cửa sổ nầy hé mở nhưng không có thềm nhà nên rất cao. Vì muốn nhìn em lần cuối trước khi đi xa nên tao leo lên một cây nhỏ bên cửa sổ, cố nhìn vào bên trong tìm em. Cây nầy thấp nhưng rất dẻo, tao đứng trên cành nhỏ mà không gãy. Vì sợ gây tiếng động, tao leo nhẹ như một con mèo.

Tao thấy được em, nhưng mầy biết em đang làm gì không? Nói, ắt mầy không tin, lúc đó chính tao cũng không tin ở mắt mình nữa. Em đang khỏa thân, nghĩa là không mặc áo quần gì cả. Tao nhớ rất rõ, bấy giờ, chân tay tao, cả người tao run bần bật như lên cơn sốt rét, khiến cành cây cũng rung theo, tiếng lá nghe xào xạc. Tim tao đập thình thịch, như vang dội khắp nơi. Cũng may em không để ý, vả lại tao ở trong bóng tối, em không thể nào thấy được hai con mắt tao núp sau cánh cửa. Em đứng cách tao khoảng vài mét, đèn điện sáng trưng nên hầu như tao nhìn thấy rõ từng sợi tơ mịn trên thân thể em. Ngực em nhỏ nhưng dựng đứng lên, bụng em thon, đùi em tròn...Tao không ngờ thân thể con gái hấp dẫn, tuyệt vời đến như thế. Từ lúc yêu em tao chỉ mới biết mái tóc em, dáng em đi, là những gì đẹp nhất, đến khi chiêm ngưỡng thân thể của em, từ đầu cho đến chân, tao như bị em lấy mất linh hồn. Em cứ đứng trước gương soi xoay người, nghiêng mình... giống như trình diễn thời trang nhưng lại không có áo quần gì cả! Cho đến bây giờ, em vẫn còn như trước mắt, tao nhớ suốt đời và ước mơ suốt đời, với em. Tao không biết mình chiêm ngưỡng thân thể em trong bao lâu, nhưng khi em tắt đèn đi ngủ thì hai tay tao mỏi rã rời, và lũ muỗi, chưa hề gặp được một người tử tế đến độ cho hút máu thoải mái mà không cục cựa. Khi vào đến Sài Gòn, mặt mũi, chân tay tao vẫn còn những chỗ ngứa đến mưng mủ. Trước khi ra về, tao để lá thư của tao chỗ cửa sổ. Không hiểu em sẽ nghĩ gì khi biết tao nhìn thấy thân thể em?

- Nhưng mầy có biết vì sao em lại thoát y, uốn éo trước gương soi cả buổi không? Có phải em bị một chứng bịnh nào đó về tâm sinh lý, bịnh phô bày chẳng hạn, nghĩa là em muốn được mầy ngắm thân thể em, thì em mới khoái cảm, vì biết mầy thường đến nhìn trộm em qua cửa sổ?

- Tao biết chắc là tâm lý em bình thường nhưng nguyên nhân em thoát y, cho đến bây giờ, tao vẫn không tìm ra. Để tao kể tiếp. Khi vào đến Sài Gòn độ một tuần, tao đã được thư em, tuy không ghi địa chỉ người gửi. Tao hồi hộp mở phong bì ra. Chẳng có gì cả! Tao thất vọng, nhưng nhìn kỹ, trong góc phong bì có một tấm ảnh nhỏ của em, thứ ảnh học trò thường dán trên thẻ học sinh, nhỏ cỡ lóng tay cái. Hình em tóc ngang vai, nhìn thẳng, ngây thơ, hiền lành. Đó, tấm ảnh tao dán ở góc bức tranh kia kìa. Mầy thấy hình vẽ và ảnh chụp đúng là một người, phải không? Sau ảnh em có ghi mấy giòng chữ li ti "Bình Minh báo cho anh một tin vui và một tin buồn. Tin vui là Bình Minh đã yêu một người. Tin buồn là người Bình Minh yêu không phải là anh." Tao chẳng cần biết em yêu ai, miễn có ảnh em là tao vui rồi. Chỉ cần ngắm ảnh bán thân tí xíu của em tao có thể tưởng tượng được toàn thể thân thể em, để mà ham muốn, thèm thuồng em. Vả lại khi em chịu cho ảnh lại viết mấy chữ, chứng tỏ em không ghét tao, có thể có cảm tình với tao nhưng ít hơn người em yêu. Biết đâu, khi em bị tình phụ, tao có nhiều may mắn được làm người kế tiếp. Tình yêu học trò, khó có chuyện thành vợ chồng nên tao có quyền hi vọng. Hết niên học ở Sài Gòn, tao về Đà Nẳng nghỉ hè, mục đích thăm em. Nhưng về đến nơi thì được tin em đã chết. Nhà em đã đổi chủ, gia đình em đã dọn đi nơi nào không rõ. Người ta đồn rằng em thất tình tự tử, người thì cho rằng em bị bịnh thình lình mà chết. Tao có tìm đến thăm mộ em, thắp nhang và khấn rằng "Bình Minh có linh thiêng xin linh hồn em cho anh gặp. Anh chỉ yêu một mình em thôi. Anh sẽ không yêu ai cả, không lấy vợ..." Có lẽ vì quá mơ tưởng em nên tối đó tao chiêm bao thấy em Bình Minh đến đứng cạnh giường tao, nhìn tao mỉm cười rồi quay bước ra khỏi cửa. Từ đó tao không mơ thấy em nữa, mãi đến sau nầy...khi tao có bức tranh treo kia kìa. Mầy thấy dung nhan em ra sao? Có đáng để tao si mê em không?

Tôi nhìn kỹ và nói.

- Đúng là hai tấm hình là của một người, rất đẹp, nhưng người vẽ mới là tài hoa.

- Họa sĩ danh tiếng mà mầy!

- Nhưng làm sao mầy có bức tranh nầy? Có điều lạ là chuyện mầy kể xảy ra trước năm bảy lăm, mà bức tranh nầy, họa sĩ La Hy ký tên và đề năm chín mươi, nghĩa là họa sĩ vẽ bức tranh sau khi em Bình Minh của mầy chết đã hơn mười mấy năm. Không lẽ em Bình Minh của mầy còn sống?

- Điều chắc chắn là em Bình Minh đã chết.

- Vậy thì mầy thử kể lai lịch bức tranh nầy tao nghe. Ông họa sĩ La Hy thì tao có biết tiếng. Mầy mua bao nhiêu, khi nào? Hay là mầy ăn cắp?

- Không mua mà cũng chẳng ăn cắp. Thực ra tao cũng định ăn cắp, vì bức tranh giá trị như thế, tao không đủ tiền mua, mà chắc gì ông họa sĩ muốn bán cho một thằng chẳng ra gì như tao.

- Mầy cứ kể lai lịch bức tranh nầy và nguyên nhân nào khiến mầy xanh xao, gầy còm đến như thế?

- Đừng sốt ruột! Đầu đuôi câu chuyện như thế nầy. Khi qua đến xứ Mỹ, lúc rảnh rỗi tao có làm thơ đăng báo. Thơ tao chẳng hay ho gì, nhưng bạn thơ thường tìm đến nhau, tụ tập trò chuyện. Thế rồi cả bọn đề nghị ra một tập thơ nhiều tác giả. Nhiệm vụ tao là đến nhờ họa sĩ La Hy cái tranh bìa tập thơ. Tao chưa hề biết ông ta, chỉ giở điện thoại niên giám và gọi xin đến gặp về cái tranh bìa. Đúng hẹn, tao đến. Khi vào nhà ông thì tao muốn ngộp vì tranh. Chỗ nào cũng treo đầy tranh. Thấy tao thích tranh, ông chỉ lối cho tao lên phòng trưng bày tranh của ông rồi bỏ đó cho tao được tự do. Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, tao đã có dịp xem tranh ông triển lãm, nhưng chưa bao giờ thấy nhiều tranh đến như thế. Bức nào cũng đẹp. Tao như bị thôi miên, như mộng du, cứ lẩn thẩn từ bức tranh nầy đến bức khác. Lúc gần đến cuối phòng, tao giật mình khi chợt thấy bức họa khỏa thân nầy. Đó là hình vẽ em Bình Minh, thần tượng của tao. Tao đứng ngắm hình em, mê mẩn tâm thần. Tao bỗng có ý mua bức tranh, nhưng nghĩ lại, chắc gì tao có đủ tiền để mua. Mua tranh chứ đâu phải như ở Việt Nam đi chợ mua cá mà trả giá. Cũng làm gì có chuyện mua trả góp như mua nhà, mua xe! Nhưng tao nhất định phải có bức tranh em Bình Minh. Trong trí tao bỗng nảy ra ý định ăn cắp. Lúc đó ông họa sĩ đã xuống dưới nhà. Tao nhìn quanh, thấy phòng đó có cửa kính mở ra sau vườn, giống như bất cứ nhà nào ở xứ Mỹ nầy. Đó là loại cửa đẩy. Tao kéo cái chốt gài, đẩy lùi cửa, một chút thôi, như thế cái chốt hở ra chứ không gài vào cái ngàm, coi như cửa không khóa, người ở ngoài có thể mở dễ dàng. Mục đích, sau nầy, khi cả nhà ông đi vắng, tao sẽ vào cửa sau và ăn trộm bức tranh. Tao quay xuống phòng khách, suýt soa khen tranh ông nhưng không hề đề cập đến bức họa khỏa thân em Bình Minh.

Tôi chận lại.

- Sao mầy không hỏi người trong tranh là ai? Có phải em Bình Minh hay là người nào khác? Nhất là cái năm mà ông ký tên ở góc bức tranh, cách ngày em Bình Minh của mầy chết cả mười mấy năm.

- Tao còn ngứa miệng, tò mò gấp mấy lần mầy, nhưng tao giữ lại kịp. Nếu tao hỏi mà chỉ mấy hôm sau, bức tranh biến mất thì ông ta biết ngay tao là thằng ăn trộm. Thế nên tao chỉ nói chuyện với ông ta về cái tranh bìa tập thơ mà thôi. Ông hẹn tao tuần sau đến lấy. Bức tranh cứ ám ảnh tao mãi. Dạo đó vào cuối mùa Thu, trời hay mưa. Tao dự định đậu xe một nơi xa, mặc áo mưa trùm kín, không ai nhận diện được, nhất là vào lúc khuya, mọi người rút cả vào trong nhà, ngủ kỹ, rất thuận tiện cho tao ra tay. Âm mưu chưa thực hiện được thì đã đến ngày tao đến nhận cái tranh bìa tập thơ. Hôm đó là sáng Chủ Nhật, hình như mọi người trong nhà đều tụ tập ở phòng khách. Sau vài thủ tục trao đổi, tao lấy cái tranh bìa rồi cáo từ, nhưng ông ta giữ lại "Anh chờ tôi một phút, tôi có món quà tặng anh" Xong ông ta vào phòng tranh, lúc trở ra ông mang theo bức họa khỏa thân của em Bình Minh. Tao vừa kinh ngạc vừa xấu hổ. Tao nghĩ là nhà ông có máy thu hình, lần trước đã thấy tao đứng nhìn say sưa bức tranh rồi lại gỡ cái chốt cửa kiếng ra. Thế là rõ ràng tao muốn ăn trộm. Cho nên tao thối thác ngay "Tôi thích bức tranh nầy lắm, nhưng trị giá của nó không phải là nhỏ, tôi không đủ sức mua, vả lại phòng trọ của tôi chật hẹp, không xứng để treo, thỉnh thoảng cho phép tôi đến ngắm là thỏa mãn lắm rồi" Ông ta bảo "Bức tranh nầy tôi không có ý định bán, tôi giữ trong nhà hoặc tặng cho anh mà thôi, và anh là người duy nhất được cái hân hạnh đó. Bà xã tôi đây cũng đồng ý như thế" Tao lấy làm quái lạ, trước giờ tao chỉ gặp ông họa sĩ là lần thứ hai, cũng không hề biết người nào khác trong gia đình ông, vậy mà lúc đó, mọi người nhìn tao với cặp mắt thân thiện chứ không mỉa mai như tao nghĩ. Vợ ông họa sĩ để tựa bức tranh vào tường, đứng nhìn với vẻ thân ái, rồi chị trịnh trọng trao cho tao. Cả nhà đứng lên, không phải tiễn tao mà tiễn bức tranh một cách lưu luyến. Tao chỉ biết nói cám ơn rồi mang bức tranh đi ngay, sợ ông ta đổi ý, đòi lại. Tao đặt bức tranh ở ghế bên cạnh, vừa lái xe vừa ngắm hình em Bình Minh cho đã con mắt. Đột nhiên tao kinh ngạc. Mầy nhìn kỹ xem, em Bình Minh nhìn thăng, không cười. Vậy mà lúc đó tao thấy rõ ràng, em đang liếc nhìn tao, miệng hé mở như đang cười với tao.

Tôi kêu lên.

- Thôi, chết mầy rồi, bức tranh nầy có hồn ma. Ông ta muốn tống khứ cái hồn ma trong tranh nầy cho mầy đó!

- Mầy suy luận giống tao, những gì tao kể tiếp theo đây mới xác nhận điều đó, chứ bấy giờ tao nghĩ rằng mắt mình nhìn lầm, vì khi quay nhìn lần nữa thì bức tranh không còn gì lạ, tao chỉ thắc mắc tại sao ông họa sĩ cho bức tranh mà không nói lý do?

Hắn đứng dậy đi thắp một cây nhang, cắm lên cái ly thủy tinh đựng gạo, coi như là cái bình nhang. Căn phòng hắn mướn, dưới tầng hầm, không có cửa sổ, không khí lạnh lẽo lại thêm mùi nhang trầm nên thâm u, ma quái khiến tôi tưởng như hồn ma cô gái trong tranh đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò.

- Tao đem tấm ảnh học trò em Bình Minh tặng ngày trước ra so sánh. Đúng là em! Chả lẽ em còn sống? Ngày xưa, chính mắt tao thấy mộ bia em ghi rõ ngày sinh, ngày chết.

Tôi lại ngắt lời hắn.

- Nếu mầy xác nhận hình trong tranh là em Bình Minh của mầy thì sau gần hai mươi năm em phải khác, phải già hơn. Đây là tranh một cô gái độ mười tám tuổi, vẽ năm chín mươi, nên tao nghĩ người trong tranh là con gái em Bình Minh của mầy. Giả thiết như thế nầy. Năm đó em tằng tịu rồi có bầu với người yêu, là người mà em đã cho mầy biết trong thư. Rồi người yêu chạy làng. Em bán cái, bảo rằng đó là con của mầy, mấy bài thơ mầy tặng em là chứng cớ, rồi em chết, có thể vì bịnh, có thể vì thất vọng, xấu hổ. Biết đâu hiện nay ông họa sĩ đang nuôi cô bé đó.

Hắn cười.

- Tao không nghĩ câu chuyện lại rắc rối, ly kì như tiểu thuyết tình cảm hay tuồng cải lương. Nó đơn giản hơn nhiều. Cái ly kì là ở những gì tao sắp kể sau đây. Tao nghĩ, dù có giả thiết nào đi nữa thì em Bình Minh cũng thật sự chết rồi, và bức tranh đó là hình vẽ em nên chiều đó tao ghé tiệm chạp phô mua nhang đèn, hoa quả về đặt trước hình em, coi như thờ cúng em. Tao treo bức tranh lên, tối đó nằm nhìn tranh và nhớ lại buổi tối năm nào, tao leo cửa sổ và ngắm thân thể hấp dẫn của em. Tao khấn thầm, đúng hơn là như đọc câu thần chú "Em Bình Minh, hãy hiện ra! Hãy hiện ra!" mục đích nói vơ vẩn cho vui thôi. Rồi tao cảm thấy buồn ngủ. Lúc đó chưa khuya lắm, đèn ngủ trong phòng vẫn còn sáng. Hai mắt tao ríu lại, nửa tỉnh nửa mơ...Tao bỗng thấy như bức tranh đang trôi đi, đúng hơn là em Bình Minh từ trong tranh hiện ra, bay lơ lửng về phía tao. Tao tỉnh ngủ hẳn, muốn ngồi dậy, nhưng chân tay tao không cử động được. Tao nghe rõ tiếng xe chạy ngoài đường vừa thấy rõ em Bình Minh yên lặng đến nằm cạnh tao. Tao thấy chúng tao ôm nhau, tao đè lên em... Thế rồi tao ngủ thiếp đi.

Tôi nhận xét.

- Tuổi trung niên như mầy, như tao mà không có vợ thì chuyện sinh lý đòi hỏi đến độ nằm mơ là chuyện thường, nhất là cứ nhìn một bức họa khỏa thân trong một đêm vắng thì chuyện quần lót vẽ "đảo Hải Nam" tức là dấu vết của sự sung sức thải ra, là đương nhiên.

- Lúc đầu tao cũng nghĩ như mầy nên tao rất cảnh giác, tối đến, tao cố tỉnh ngủ để xem có thật em hiện ra không? Ấy vậy mà đến một lúc, tự nhiên mắt tao ríu lại, nhưng thần trí vẫn tỉnh. Tao thấy rõ ràng em từ trong tranh hiện ra. Em trong tranh lớn dần, từ từ rời khỏi khung, như bay về phía tao. Tao cố gắng kêu lên, cố vẫy vùng, nhưng biết rằng mình không cử động được. Điều đáng ngạc nhiên là những lần sau nầy em hành động như một cô gái điếm chuyên nghiệp. Trí óc sáng suốt của tao nhận biết em đang làm gì. Em hôn hít, vuốt ve tao. Nhất là lúc em cúi gập người xuống, phủ phục dưới bụng tao. Tao bị kích thích đến run rẩy, tê dại chân tay. Rồi tao cảm thấy tất cả tinh lực của tao, cùng với sự khoái cảm tột độ, cuồn cuộn tuôn trào vào miệng em. Giống như đứa bé mút bình sữa vậy. Tao quằn quại...rồi thiếp đi. Chỉ vài tuần sau là người tao khô kiệt như mầy thấy đây. Tao đâm sợ hãi, ban ngày, tao lật cho bức tranh úp mặt vô tường, nhưng đêm đến, tao không tự chủ được, lại trở bức tranh ra, lại mong đợi em, giống như có một ma lực xúi biểu tao thèm em, nhớ em. Để rồi em lại hiện ra. Chính tao biết rõ tình hình rất nguy ngập nhưng tao không có cách nào thoát khỏi tay em! Mầy có ý kiến gì không?

Thật tâm thì tôi không thể tin nỗi chuyện ma quái xảy ra trong thời phi thuyền liên hành tinh. Bên dưới những diễn biến tôi nghe được phải có sự thật nào đó mà chưa tìm ra? Cho nên tôi bảo hắn.

- Theo tao thì phải đến ông họa sĩ La Hy hỏi rõ người trong tranh, hỏi rõ nguyên nhân ông ta cho mầy bức tranh, hỏi xem ông ta có thấy gì lạ từ bức tranh đó không? Lúc đó mới có giải pháp khả dĩ. Tốt nhất là mầy đem trả bức tranh cho ông ta là yên chuyện.

- Tao cũng đã nghĩ như mầy. Nhiều lần tao đem bức tranh đi trả, nhưng hễ bỏ bức tranh lên xe, lái đi, là tao như người mất hồn, không hiểu mình đang làm gì, đi đâu đây! Cứ lơ mơ như say rượu. Tay lái như có người khác điều khiển vì tao giữ chặt cách mấy, tay lái vẫn bị giật qua trái, qua phải như giận dữ, nóng nảy. Nhiều lần xe tao đi vào đường cấm, có khi suýt tung xe người khác cho đến lúc phải quay xe về, tao mới tỉnh người. Hay là mầy với tao thử đến ông họa sĩ xem sao? Để tao gọi ông ta, xin đến gặp ngay bây giờ.

Hắn gọi điện thoại rồi bảo tôi rằng ông ta vui vẻ mời đến. Thế rồi chúng tôi đến nhà họa sĩ La Hy. Trong lúc trà nước, chúng tôi chưa lên tiếng thì ông đã cười bảo hắn.

- Tôi biết ngay làm gì anh cũng thắc mắc về chuyện tự nhiên lại tặng anh bức họa khỏa thân. Ngay bản thân tôi cũng có vài thắc mắc cần anh giải thích. Việc tặng anh bức tranh là do chính người trong tranh, đúng hơn là hồn một người chết hiện ra bảo như thế. Không phải trực tiếp bảo tôi đâu!

Chúng tôi càng ngạc nhiên nên đề nghị ông kể rõ lai lịch bức tranh cũng như người trong tranh, lý do ông ta tặng tranh. Ông yên lặng một lúc, đăm chiêu như cố nhớ lại câu chuyện cho rõ ràng, chính xác.

Chuyện xảy ra khá lâu, cách đây cũng gần vài mươi năm. Tôi tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật, về dạy vẽ ở Huế. Mùa hè năm đó tôi nghỉ hè tại nhà người chị ở Đà Nẳng. Vợ chồng chị tôi đều là giáo sư trung học, chưa có con. Nhà chị tôi có lầu, tôi ở một phòng riêng trên lầu, phía sau có ban công. Buổi sáng tôi thường ra ban công uống cà phê, vẽ vời linh tinh. Một hôm, đứng trên ban công, nhìn qua vườn hàng xóm, tôi thấy một cô gái đang hái hoa, có lẽ để cắm trong nhà. Tôi yên lặng nhìn cô. Một lát, vô tình nhìn lên, cô thấy tôi và cười rất tự nhiên "Chào anh!" "Chào cô bé! hôm nay không đi học sao?" "Nghỉ hè mà!" Thế rồi cô thành người hàng xóm của tôi. Tôi thường xuống thang lầu lộ thiên sau nhà, đứng bên nầy hàng rào, chuyện trò với cô. Một hôm tôi đem xuống tặng cô một bức tranh tôi vẽ cô. Cô ngạc nhiên, sao không có hình mà tôi lại vẽ giống cô? Thế rồi cô xin được lên phòng xem tranh. Tôi vạch cho cô một lối đi băng qua hàng rào, lên phòng tranh của tôi trên lầu. Sau đó tôi nhờ cô ngồi làm mẫu để tôi vẽ. Được bức nào tôi đều tặng cả cho cô. Cô đẹp tự nhiên. Tuổi cô như hoa hé nở, đầy sức sống, đầy tình yêu và tự tin. Đối với tôi, cô chỉ là người bạn nhỏ. Tuy chúng tôi thân mật và cô rất tin cẩn tôi mỗi khi gặp nhau trong phòng tranh nhưng tôi vẫn cẩn thận tránh đụng chạm và lời nói khác ý gì. Một lần tôi đề nghị cô làm mẫu khỏa thân, cô đồng ý ngay. Mỗi buổi sáng cô lên phòng tôi, cởi áo quần ra ngồi làm mẫu độ nửa giờ. Tôi hoàn toàn nhìn cô bằng đôi mắt nghệ thuật. Thân hình cô rất đẹp, không phải vì khêu gợi mà ở vẻ thanh tân, trong trắng. Thật khó nói! Giống như một viên ngọc đã được hóa công trau chuốt. Trong sáng, không một vết vẫn đục! Chân tay cô, thân thể cô là một sự hài hòa những đường nét tuyệt vời. Da cô mịn như cánh hoa hồng. Tôi như cảm nhận được mùi thơm trinh nữ từ người cô tỏa ra, thanh tao, nhẹ nhàng như hương trà, hương hoa. Thần trí tôi bay bỗng, say sưa theo từng nét cọ, từng mảng màu. Từ đó đến nay tôi chưa hề có lại giây phút rung động đến xuất thần như khi vẽ cô ta, và cũng chưa lần nào tôi vẽ đẹp đến như thế.

Bạn tôi liếc nhìn tôi. Thì ra hắn được ngắm em Bình Minh khỏa thân là trong thời gian em ngồi làm mẫu. Em uốn éo, nghiêng ngó trong gương soi là tìm cách thế sao cho họa sĩ vẽ đẹp nhất. Ông họa sĩ trầm ngâm một lúc rồi kể tiếp.

- Bức tranh vẽ xong, tôi lên khung và trao cho cô "Anh tặng em để làm kỷ niệm. Đây là bức tranh mà anh vừa ý nhất trong các tranh vẽ về em" Cô lộ vẻ sung sướng "Anh gói kỹ giùm em, thỉnh thoảng em sẽ mở ra để ngắm. Ba em thấy được, giết em chết. Để khi em lớn lên, không ở với gia đình nữa, em sẽ treo trong phòng em".

Hai hôm sau, cô lên phòng tôi, thấy tôi đang dọn dẹp các bức tranh, dụng cụ, cô hỏi "Anh hết nghỉ hè rồi sao?" Tôi nói "Còn chứ, nhưng anh phải về Huế cưới vợ. Giá như anh cưới vợ ở Đà Nẳng, anh sẽ mời em, nhưng Huế xa quá!" Cô không nói gì nhưng mặt cô tái nhợt. Cô yên lặng xuống cầu thang ra về, nhưng mới vài bước, cô đã lảo đảo ngã ngồi xuống. Tôi vội đến đỡ cô lên, dìu đến ghế ngồi. Đó là lần duy nhất tôi chạm đến người cô. Tôi nghĩ rằng cô bị trúng gió nên đi tìm cho cô lọ dầu, nhưng khi quay lại, cô đã đi rồi. Tôi ra sân thượng, nhìn xuống, thấy cô vẫn còn phải vịn vách tường vào nhà. Tôi về Huế, tháng sau thì cưới vợ. Vợ chồng người chị tôi ở Đà Nẳng ra dự đám cưới có mang cho tôi một gói lớn, đó là những bức tranh tôi đã vẽ về cô và đã tặng cô. Chị tôi bảo "Con nhỏ hàng xóm gửi trả lại mấy bức tranh" Vì bận việc tôi không lưu ý đến. Sau ngày đám cưới chúng tôi đi Nha Trang rồi Đa Lạt, Vũng Tàu hưởng tuần trăng mật. Có điều lạ là thỉnh thoảng nhà tôi nằm mơ thấy một cô gái đến bảo "Chị thật là may mắn, hạnh phúc!" Giấc mộng cứ lặp lại nhiều lần như thế. Tôi hỏi nhà tôi "Em có từng gặp, có quen ai giống người em thấy trong mơ không? Cô ta vui hay buồn?" "Cô ta không lộ vẻ vui hay buồn. Cô gái rất lạ, em chưa hề gặp ngoài đời bao giờ"

Sau tuần trăng mật, về lại Huế, nhớ lại mấy bức tranh cô gái ở Đà Nẳng, tôi mở ra định treo lên thì thấy ở bức tranh khỏa thân có miếng giấy nhỏ, ghi giòng chữ "Em buồn quá anh ơi! Có lẽ em không sống nổi!" Tôi nghĩ rằng cô học hành, thi cử sao đó hoặc vì mấy bức tranh nầy, cha mẹ cô bắt gặp, la mắng khiến cô buồn rầu chăng, nên tôi không quan tâm lắm. Khi nhà tôi lên phòng vẽ, thấy mấy bức tranh đó cứ đứng nhìn mãi "Hình như em có gặp cô nầy ở đâu?" "Đây là cô học trò ở Đà Nẳng, em đã gặp cô ta ở đó chăng?" "Em chưa nhớ ra nhưng thấy quen quen" Mấy hôm sau, nửa khuya, nhà tôi đánh thức tôi dậy "Cô gái em thường nằm mơ thấy là cô trong mấy bức tranh anh vẽ. Vừa rồi, em lại mơ thấy cô ta, tỉnh dậy, em nhớ ra ngay, có lẽ đó là hồn ma cô ta" Tôi cười bảo "Cô ta còn sống nhăn ở Đà Nẳng, hôm nào vào Đà Nẳng, anh giới thiệu cô ta để em xác nhận có đúng là người em nằm mơ không?".

Tháng sau, vào Đà Nẳng, chúng tôi hỏi thăm thì chị tôi bảo "Cô hàng xóm bịnh, chết rồi" Nhà tôi có ý nghi ngờ về tình cảm, liên hệ giữa tôi và cô ta. Tôi kể hết mọi chuyện và xác nhận rằng tôi chỉ xem cô như em gái và cô ta cũng không lộ tỏ cảm tình đặc biệt gì với tôi cả. Nhà tôi nghĩ rằng, có lẽ cô gái yêu thầm tôi nên khi nghe tin tôi lấy vợ, cô ta thất vọng, nghĩ quẫn nên tự tử chăng? Chúng tôi có tìm đến thăm mộ cô ta. Nhà tôi ghi nhận ngày sinh, ngày mất của cô, đến chùa xin lễ cầu siêu cho cô. Sau nầy hễ đến ngày cô mất nhà tôi thường đến chùa với lễ vật, cúng kiếng, cầu siêu cho cô rất tươm tất. Tôi không hề nằm mơ thấy cô ta nên tôi không tin có chuyện hồn ma, bóng quế, nhưng nhà tôi thì tin lắm.

Sau năm bảy lăm, đổi đời, chúng tôi dự định vượt biên, nhưng khi có ai đến rủ, nhà tôi đều thắp nhang, khấn xin cô về báo cho biết có nên đi hay không? Nếu không nằm mộng thì từ chối. Cho đến một hôm, nhà tôi mơ thấy cô hiện ra cười bảo "Nên đi đi!" Nhà tôi không hiểu ý gì, bất ngờ, đến trưa thì có một người không quen lắm đến rủ vượt biên, chúng tôi nhận lời. Chuyến đi thật liều lĩnh, tưởng như đun đầu cho công an bắt. Chúng tôi xuống Cần Thơ đi ăn cưới, một đám cưới thật, ngay cạnh đồn công an xã, trước chợ. Gần tối, chúng tôi xuống thuyền nhỏ. Mấy cậu công an trẻ, ăn cưới say sưa còn nói đùa "Đến nơi nhớ đánh điện về nghe! Qua đến Mỹ thì gửi về một thùng quà!" Nhà tôi cứ khấn thầm xin cô ta phù hộ. Chuyến đi vừa nguy hiểm vừa như đùa lại trót lọt một cách không thể ngờ được!

Qua đến Mỹ, nhà tôi lập một bàn thờ nhỏ, giỗ chạp tươm tất như với người thân thích, lại còn đến chùa xin lễ cầu siêu nữa. Lần trước, tự nhiên nhà tôi lại mơ thấy cô ta hiện ra bảo "Sáng mai, đưa hình em cho anh ấy đem đi!" Chúng tôi không hiểu gì cả, nhưng suy đoán rằng, sáng mai sẽ có người đến mua tranh và chắc chắn sẽ hỏi mua bức tranh vẽ về cô ta. Nhưng cả ngày hôm đó chỉ có anh đến xin cái tranh bìa cho tập thơ mà thôi. Lần trước, khi anh đến xem tranh, trong lúc anh ở trong phòng tranh thì nhà tôi bất ngờ đi vào, thấy anh đứng ngắm hình vẽ cô ta say mê đến độ có người lên mà anh cũng không biết! Chúng tôi đoán anh và cô ta phải có liên hệ gì đây, nhưng vì tế nhị nên không hỏi.

Tôi ngắt lời ông ta.

- Nghe anh kể thì chuyện xảy ra trước năm bảy lăm, sao bức tranh lại ký tên năm chín mươi?

- Khi vượt biên, chúng tôi bỏ lại toàn bộ những họa phẩm, là những gì chúng tôi quí nhất. Sang đến Mỹ, để tỏ lòng nhớ ơn cô ta trong vụ vượt biên, nhà tôi bảo tôi nên vẽ lại bức tranh về cô ta, vừa để tưởng niệm vừa như để thờ, vì thế bức tranh mới ký năm chín mươi. Khi vẽ hình cô, tuy bao nhiêu năm rồi mà tôi còn nhớ y nguyên trong đầu hình ảnh cô. Nhớ rõ từng sợi tơ, sợi tóc, từng làn da, từng hơi thở, hương thơm của cô... Bàn tay tôi như có một sức rung động lạ kỳ, như lên cơ bút, như xuất thần. Thế là chỉ trong một ngày tôi đã hoàn tất bức tranh đó, tuy không đẹp bằng bức tranh trước, nhưng rất giống.

Bạn tôi hỏi.

- Có phải cô ta tên Bình Minh không?

Họa sĩ La Hy ngạc nhiên.

- Đúng là tên Bình Minh, nhưng sao anh biết? Chúng tôi đoán không lầm, phải có mối liên hệ giữa cô ta và anh nên mới có vụ cô ta bảo tặng bức tranh cho anh. Anh có thể cho tôi biết chút ít về chuyện đó không?

Bạn tôi chỉ sơ lược rằng thời đi học ở Đà Nẳng, hắn yêu cô ta, có tỏ tình nhưng cô không đáp lại, nên khi thấy bức tranh hắn nhận ra cô ta ngay. Tuyệt đối hắn không nói gì đến chuyện hắn được ngắm cô khỏa thân hay nằm mơ thấy cô ta. Ông họa sĩ có vẻ thông cảm và hình như tin rằng những lần cô Bình Minh hiện ra trong giấc mộng của vợ ông là có thật. Ông bảo.

- Tôi nghĩ rằng linh hồn cô Bình Minh vẫn còn vươn vấn cõi đời vì một lý do nào đó.

Chuyện trò đến đấy chúng tôi cáo từ. Tôi khuyên bạn tôi nên lấy tấm hình chụp kiểu học trò của cô Bình Minh sang lớn lên rồi đem vào chùa xin thờ ở đấy. Trước hết xin chùa một lễ cầu siêu.

Thông thường, ở xứ Mỹ vì bận rộn sinh kế nên người chết dù bất cứ ngày nào cũng đều làm lễ cầu siêu, làm tuần, giỗ chạp... ở chùa vào ngày Chủ Nhật, là ngày nghỉ, cho nên vào ngày đó, ít nhất cũng năm, bảy gia đình, gồm vài ba chục người đến xin lễ cầu siêu cho thân nhân. Thật tâm tôi không tin chuyện ma quỉ, nhưng hôm đó lại có chuyện khiến tôi thêm tò mò. Số là sau lễ cầu siêu, chúng tôi chuẩn bị ra về thì nhà sư đến gọi riêng thằng bạn tôi ra sau hậu liêu, tôi cũng đi theo. Đấy là vị sư già, trên bảy mươi nhưng còn tráng kiện, sáng suốt, tính tình vui vẻ. Chúng tôi vào một căn phòng, có lẽ là phòng ăn hay tiếp khách gì đấy, gồm một dãy bàn và ghế dài, có bình trà, vài tờ báo. Vừa ngồi xuống, nhà sư đã bảo bạn tôi.

- Trông khí sắc anh không được tốt lắm, hình như anh đang bị một oan hồn, uổng tử theo quấy nhiễu, ám hại anh.

Tôi nói ngay.

- Có lẽ thầy thấy hắn ốm yếu xanh xao chứ gì?

Nhà sư cười.

- Nếu vậy thì tất cả những người đau ốm nằm bịnh viện đều bị tôi bảo rằng ma ám. Không phải vậy đâu! Tôi nhìn cái thần khí của anh ta chứ không phải vẻ xanh xao, ốm yếu bề ngoài. Có những người ốm trơ xương mà vẫn sống mãi, lại có người mập mạnh, hồng hào bỗng lăn ra chết.

Tôi vẫn không chịu.

- Thời đại khoa học không gian mà thầy. Tôi chẳng thấy ma quỉ bao giờ.

Nhà sư vẫn cười.

- Ma quỉ là vô hình, nhìn bằng mắt thường làm sao thấy được.

Nhà sư chỉ một tờ báo trên bàn.

- Nếu tôi nói theo quan niệm nhà Phật thì các anh không tin. Đây là tờ báo Công Giáo "Việt Catholic News" đưa tin. Cha Gabriele Amorth, linh mục trừ quỉ chính thức của giáo phận Rôma đã xác nhận là Đức Giáo Hoàng đã trừ quỉ cho một cô gái ở thành phố Monza, Ý Đại Lợi.

Tôi lại hỏi móc.

- Biết đâu đó là người bị bịnh tâm thần.

- Anh nói cũng có lý. Nhưng đây là cô gái khi bị quỉ nhập, đến hai toán cảnh sát mà vẫn không kềm chế được cô. Nhưng bịnh tâm thần sao Đức Giáo Hoàng chỉ trị một lần là hết bịnh ngay?

Bạn tôi nãy giờ chỉ ngồi nghe, hắn phân vân.

- Người chết, thật có linh hồn không thầy? Linh hồn có biết vui buồn, thương yêu, thù ghét gì không thầy?

- Nếu nói có thì các anh bảo tôi đã chết đâu mà biết, mà nói không thì tôi cũng chẳng vào tu hành ở đây làm gì. Tôi có cách nầy để các anh thử, nếu không có tác dụng thì các anh cứ bảo tôi nói chuyện mơ hồ, ngược lại, có hiệu quả thì xin mời các anh đến đây, chúng ta cùng tu tập. Bây giờ các anh ngồi chờ tôi một phút, có trà đây, xin mời!

Nói xong, nhà sư vào trong, một lát trở ra nói với bạn tôi.

- Đây là các lá bùa, đây là mấy câu thần chú. Anh dán trước cửa một lá, đầu giường nằm một lá, dưới chân giường một lá còn một lá anh để trong túi áo. Khi dán bùa anh đọc câu thần chú nầy. Tôi tin rằng con quỉ kia sợ oai Phật, sẽ không đến quấy phá anh nữa. Khi đọc thần chú anh nhớ khấn thêm rằng xin mời oan hồn đến chùa để nghe kinh Phật, sẽ được siêu thoát. Tôi bảo là oan hồn uổng tử cũng chưa đúng, nó là con quỉ. Nếu không làm theo tôi chỉ dẫn, anh sẽ khó thoát tay nó. Hại anh xong, nó đi tìm người khác.

Tôi hỏi.

- Tại sao nó chọn thằng bạn tôi mà không chọn người khác?

- Nó không từ một ai cả. Nhưng thường thì tùy theo cái nghiệp chướng của mỗi người. Tôi nghĩ rằng oan hồn theo ám ảnh anh đang mang một ức uất gì đấy, cũng có thể là vì những ham muốn chưa được thỏa mãn. Ham muốn tích lũy từ khi còn sống, mãnh liệt đến độ trở thành một sức mạnh thực sự có thể tác động được đến con người. Tôi đưa mấy lá bùa và câu thần chú là lấy uy danh của Phật, cấm nó không được hại anh đồng thời chúng ta sẽ cùng nhau cầu nguyện cho oan hồn đó đến chùa nghe kinh Phật, nhờ hồng ân Đức Phật độ trì cho được siêu thoát đến một cảnh giới khác.

Thấy trời đã về chiều, chúng tôi cáo từ nhà sư, ra về. Tôi theo hắn về nhà để xem hắn dán mấy lá bùa, đọc thần chú và khấn đúng như lời dặn.

Vì sốt ruột, ngay hôm sau tôi đã gọi, hỏi hắn có nằm mơ thấy em Bình Minh hiện về không? Hắn bảo không. Tôi khuyên hắn nên ra tiệm thuốc bắc, mua mấy thang về sắc uống rồi đi bác sĩ khám lại xem sao. Tôi dự định tuần sau sẽ ghé thăm, xem hắn có khá hơn không, nhưng ngay tuần đó, công ty tôi làm việc lại dời xuống tiểu bang Florida, tôi phải đi theo. Tôi thường gọi điện thoại hỏi thăm, cho hắn địa chỉ, dặn lấy cái nghỉ phép xuống với tôi, tắm biển, phơi nắng. Nhưng ít lâu sau, tôi gọi hắn thì chủ nhà bảo rằng hắn đã dọn đi nơi nào không rõ. Thực ra hắn chỉ là bạn thân thôi, chứ chẳng phải anh em ruột thịt gì mà tôi phải bận tâm, vả lại, chuyện ma quỉ đó đã như giải quyết xong, cho nên tôi không còn nhớ đến hắn nữa.

Thế rồi khoảng một tháng sau đó, tôi nhận được thư hắn, tôi thấy có gì bất thường! Tại sao không gọi điện thoại mà lại viết thư? Đến khi đọc lá thư, tôi mới hiểu rõ những gì đã xảy ra.

"N. thân mến,

"Lá thư nầy đến tay mầy thì tao không còn trên cõi đời nầy nữa. Đơn giản là tao dặn chủ nhà trọ của tao chỉ gửi thư sau khi tao đã chết. Tao muốn thế! Tao không có bà con, thân thích, chỉ có mầy là bạn, nhưng tao cũng không muốn mầy bận tâm vì tao, thân xác tao sẽ được hỏa thiêu, nắm tro tàn được gửi vào chùa. Thế là xong một kiếp người. Phải không mầy? Mục đích chính lá thư nầy là tao muốn tặng mầy bức tranh vẽ em Bình Minh thay vì gửi trả lại cho ông họa sĩ La Hy. Tao biết mầy thích bức tranh vì giá trị nghệ thuật của nó, vì tranh đẹp chứ không phải vì vẽ hình em. Mầy cứ yên tâm, em Bình Minh sẽ không hiện ra với mầy đâu. Những gì tao viết sau đây chứng minh rằng linh hồn em không còn nương náu trong bức tranh nữa.

"Sau một tuần, kể từ ngày mầy về miền Nam nắng ấm làm việc, vẫn chẳng có gì xảy ra từ bức tranh. Mỗi tối, tao vẫn nằm ngắm hình em rồi đi ngủ, dù tao có thử nói câu "Em Bình Minh, hãy hiện ra!" mà vẫn không thấy em đâu! Tao ngủ yên lành, bình thường, sức khỏe tao khá hơn. Tao nghĩ rằng em Bình Minh đã được siêu thoát hoặc đã được Đức Phật giữ lại trong chùa, nghe kinh kệ cho nhẹ bớt nghiệp chướng, oan khiên. Đôi lúc tao cảm thấy thương xót em. Trước kia nếu em đáp lại tình tao thì đâu đến nổi em phải chịu nhiều đau khổ, thất vọng đến quyên sinh. Đến chết rồi mà hồn vẫn còn vương vấn, lưu luyến người mình yêu, không thể rời được cõi trần! Và tao tưởng tượng đến một cảnh giới u u, minh minh, chỉ có một mình em, bơ vơ, cô độc. Không nói được với ai, không tiếp xúc được với ai! Em có buồn không? Có oán hận không? Oán hận ai bây giờ! Nhưng tao vẫn tự hỏi, vì sao em theo ám ảnh tao? Em muốn gì ở tao? Hay tao chỉ là nạn nhân đầu tiên, sau đó là những nạn nhân khác? Hay em cần tinh lực của tao để trở nên một con quỉ nhiều quyền phép hơn, dữ tợn hơn, không ai trị được nó?

"Dù sao thì mầy cũng như tao, đều cho rằng linh hồn em Bình Minh đã siêu thoát rồi nên mới không còn quấy rầy tao nữa. Vì tin như thế nên tao đã phạm một sai lầm chết người. Số là chủ nhà tao thuê phòng dự định bán nhà, tao phải tìm chỗ trọ khác. Chỗ trọ mới là một căn phòng, sạch sẽ, có lối đi riêng, đầy đủ tiện nghi. Trong phòng đã có sẵn một cái giường mới, rất rộng, tao thích lắm, nên bỏ giường cũ ra thùng rác trước khi dời phòng. Mầy biết sai lầm gì không? Tao không đem theo những lá bùa mà nhà sư đã cho, đến khi trở lại thì chủ nhà đã cạo bỏ lá bùa chỗ cửa ra vào. Lá bùa trong túi áo, máy giặt làm nát rồi! Ngay hôm đầu mới dọn đến, tao chưa treo bức tranh lên, vậy mà tối đó em hiện ra. Lại vẫn những cách thức như em áp dụng với tao trước đây. Tao cũng lại bị em làm tê mê đến ngây ngất, lịm đi. Hôm sau, hoảng quá, tao chạy ngay đến chùa cầu cứu, nhưng vị sư trụ trì đã đi hành hương bên Tích Lan, tháng sau mới về. Tao tìm đủ cách, ban ngày tao ngủ, ban đêm tao uống cà phê, cố mở to mắt, vậy mà hễ chạng vạng là tao lại như người mất hồn, nhớ em, mong em. Tao vừa sợ em, vừa thèm em một cách kỳ lạ. Nhất là cái cảm giác như là em đang ở cạnh tao khiến tao hoàn toàn mất tự chủ. Người tao, vừa phục hồi sức khỏe chưa được bao lâu, nay trở lại tình trạng như lần trước mầy đã gặp, e còn tệ hơn nữa, chỉ mới một tuần mà chủ nhà đã vội gọi xe cứu thương đưa tao vào bịnh viện. Cũng may tao còn bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ, nên nếu chết đi tao sẽ có chút tiền để chủ nhà lo cho tao. Tao đang viết thư cho mầy ở bịnh viện. Tình trạng tao kỳ lạ đến nỗi các bác sĩ khắp nơi xúm lại, khám nghiệm, nghiên cứu, thiếu điều muốn xẻ tao ra từng mảnh để tìm tòi, nhưng chẳng ai đưa ra một nhận xét, phương dược nào chính xác cả! Em Bình Minh mỗi tối vẫn đè tao ra mà hành sự. Có lẽ bây giờ em không cần phải nương náu trong bức tranh nữa. Em đã đủ năng lực để tự mình hiện hữu, đến độ các cô y tá, khi nghe tao ú ơ, la hét lúc nằm mơ thấy với em, các cô cố đánh thức tao, nhưng cả chục phút sau, em mới chịu buông tao ra để tao tỉnh dậy. Mỗi ngày tao đều gọi điện thoại đến chùa, hy vọng nhà sư về kịp cứu tao nhưng đến hôm nay, khi tao cảm thấy mình như ngọn đèn cạn dầu mà vẫn chưa thấy tăm hơi nhà sư. Tao không hiểu chính tao! Tâm lý tao thật lạ thường. Ban ngày tao sợ chết, nhưng tối đến, tao lại mong cho sớm được cùng em Bình Minh ra đi. Có một điều, khi tỉnh táo, tao vẫn thắc mắc, khi chết, linh hồn đi về đâu? Mà thật có linh hồn không? Hay bịnh tao chỉ là một thứ bịnh về tâm thần, về ảo giác? Một bịnh điên mới, giống như bịnh bò điên? Nhưng bịnh bò điên, nghe nói bộ óc bị hủy hoại, mủn ra như sình, còn tao thì có gì lạ đâu? Các bác sĩ đều nói thế!

"Tao cố viết thật nhiều cho mầy có đủ dữ kiện về bịnh của tao, cả dữ kiện về bức tranh em Bình Minh nữa, nhưng tao mệt quá! Bây giờ tao tạm dừng bút, nhưng không chấm dứt ý định sẽ nói với mầy. Nếu có linh hồn thật, tao sẽ hiện về cho mầy rõ, về cái cõi u minh mà người chết sẽ đến đấy. Ít ra, hễ mầy thấy trong mơ, vẻ mặt tao vui, là cõi chết không tệ lắm, hoặc ngược lại. Chúc mầy ở lại dương gian vui vẻ. Không lâu đâu, chúng ta sẽ gặp nhau. Mọi người đều đối diện với cái chết, phải không mầy? Thân mến. Bạn mầy"

*

Tôi đọc thư thằng bạn tôi mà lòng vẫn nghi ngờ. Phải có bí mật gì đây? Chuyện ma quỉ! Làm sao tin được?

Giả thiết mạnh mẽ nhất là thằng bạn tôi mắc bịnh nan y. Bịnh Aids chẳng hạn, có thế hắn mới chết nhanh đến như vậy. Người Á Đông xem chuyện tình dục như một bí mật, nên kín đáo. Vì chuyện đó mà mang bịnh là một điều nhục nhã. Và hắn xấu hổ nên mới bịa ra một chuyện ma. Biết đâu ông họa sĩ La Hy vì tình bạn, nên cùng hắn nghĩ ra những chuyện gay cấn, lâm ly để cứu danh dự cho hắn? Dù sao thì hôm lên chỗ hắn trọ, tôi cũng được chủ nhà trao cho bức tranh đúng như lời hắn dặn dò trước khi từ giã cõi trần.

Tối đó chủ nhà cho tôi ngủ tạm trong phòng thằng bạn quá cố của tôi một đêm. Tôi chẳng hề thấy ma quỉ bao giờ, mà dù thấy tôi cũng không sợ. Ma là gì? Cùng lắm cũng chỉ là cái bóng mờ ảo nào đó, nếu mình sợ là tự mình hại mình chứ ma quỉ làm gì được mình! Thế nên tối đó tôi treo bức tranh vẽ hình em Bình Minh của thằng bạn tôi trên tường, vừa ngắm vừa lầm bầm nói "Hai đứa bây, sống khôn thác thiêng, hãy hiện ra cho tao thấy, trong mơ cũng được, để xác nhận là khi chết, con người còn có linh hồn" Tôi nói đùa thôi, thực tâm tôi đang ngắm bức tranh và nghĩ đến nghệ thuật, đến tài hoa của người họa sĩ.

Tôi say sưa ngắm bức tranh, quên cả chuyện ma quỉ, cho đến khi tôi cảm thấy buồn ngủ, mắt tôi ríu lại... Bỗng nhiên tôi có cảm tưởng như bức tranh bị sút đinh, từ từ ngã xuống. Và cô Bình Minh chuồi ra khỏi khung hình, lớn dần lên. Cô trườn lên người tôi, tóc cô xỏa ra, hai tay choàng lấy tôi, như con bạch tuộc phủ lấy con mồi. Người cô lạnh ngắt, cái lạnh ghê rợn của một thây ma. Tôi cố la lên cầu cứu, mà miệng tôi cứng đơ. Tôi biết mình đang vùng vẫy, nhưng thật sự, chân tay tôi tê liệt...Và cái khoái lạc khủng khiếp khi cô gập người lại, cúi xuống dưới bụng tôi, hút lấy tinh lực của tôi, đúng y như thằng bạn tôi đã kể.

Ngay sáng hôm sau, tôi đem bức tranh trả lại họa sĩ La Hy. Dọc đường, lái xe, tôi có cảm thấy choáng váng, không tự chủ được, nhưng tôi tỉnh trí kịp. Tôi kể hết mọi chuyện, hoạ sĩ La Hy cười, cho rằng tôi nhiều tưởng tượng. Ông bảo.

- Chuyện của bạn anh, thật khó kiểm chứng! Riêng chuyện của anh, tôi nghĩ rằng, cơ thể cô gái lạnh ngắt anh thấy trong mơ chỉ là do thời tiết ở Virginia, ban đêm nhiệt độ xuống rất nhanh, khi ngủ, anh đã không đắp mền, chính cái lạnh tạo thành giấc mơ.

Hiện nay họa sĩ La Hy vẫn còn giữ bức tranh đó. Ông không bán. Ai muốn xem, xin mời đến.

Phạm Thành Châu

User avatar
khieulong
Posts: 6753
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Bài Hát Đêm Giáng Sinh

“Bài Thánh Ca đó còn nhớ không em, Noel năm nào chúng mình có nhau….”
Trong hội trường đông người của chương trình Đại nhạc hội từ Hoa Kỳ sang Úc trình diễn, ánh sáng lấp lánh muôn màu, tiếng hát ca sĩ Don Hồ cất lên ngọt lịm, trong tiếng vỗ tay vang vội, nhưng sao cảm giác như một tảng đá đè nặng lồng ngực và tự nhiên ánh sáng lung linh như những vì sao đang rơi vào tầm mắt…nhạt nhoà.

Mùa Xuân đang về nhưng trời cũng hiểu được lòng người nên trút một trận mưa như thác đổ? Trước mắt không còn thấy gì, tai chẳng còn nghe chi… Duy một ký ức.. chầm.. chậm quay về… dù bao mùa Noel đã qua đi…và kỷ niệm về một người vẫn hiện hữu trong mỗi lời ca.......

Hắn được xếp vào chung lớp với nhỏ. Nhỏ nhìn hắn và thầm nghĩ, quả khác hẳn với nam sinh tỉnh lỵ. Cũng đồng phục ấy nhưng bảnh bao hơn, quần tây lưng cao không thắt dây nịt, ống loa, mang sapo nên hắn trông cao dong dõng. Tay ôm cái nẹp tập đen "A la mốt" lắm.

Mấy nhỏ bạn bấm tay nhau, nhỏ bạn bên cạnh nháy mắt cười "xí trước nhe". Có đứa háy mắt lại "cóc thèm khỏi xí". Nhìn hắn tỉnh bơ không khớp trước đám quỷ phá nhà chay, mà hắn còn rão mắt theo những đứa nào chọc ghẹo, nụ cười hắn trông ngạo mạn. Nhỏ thầm bảo "Đừng lối nhe chờ bọn này tính sổ".

Thầy phỏng vấn hắn đôi câu. À thì ra dân Tabert chuyển trường, lũ bạn thì thào vào tai nhỏ "có đối thủ rồi". Tính ra nhỏ là một trong những đứa con cưng trong giờ Pháp văn. Nhóm con gái thường được thầy điệu lên đọc bài, dịch sang tiếng Việt và phân tách mệnh đề. Có lẽ đám con trai chưa có ai trội hơn bọn con gái.

Nơi hắn ngồi bên kia dãy bàn nhì, nên mỗi khi nhìn sang dãy bàn nhất con gái bên này, hắn vẫn có nhiều ưu thế. Nhỏ không ưa hắn, đôi khi bất chợt chạm ánh mắt biết cười, Sự thân thiệt của hắn. Hắn hoạt bát nên kết bạn rất nhanh… nhỏ cũng không ưa. Giờ ra chơi hắn đến chào đám con gái cười vui vẻ… dị thì thôi. Ghét nhất là hắn hay bắt chước nhỏ cười và băn khoăn cắn môi mỗi khi nhỏ không được vui. … Dễ ghét thiệt Một hôm trong giờ Pháp Văn, thầy Thái Sơn Hà chia ra làm hai nhóm nam và nữ tình nguyện thi đấu. Đọc, dịch bài, phân tích mệnh đề, tìm tiếng đồng nghĩa, phản nghĩa, đồng gia đình, đồng âm…. Thầy độc đáo là thế đó!.

Thầy giục mấy lần nhưng không ai đứng lên. Mấy bạn xúi nhỏ đứng lên để thế mạng, thầy gọi tên nhỏ: "… . Sao em đành chịu thua sao?" thầy biết nhỏ vậy đó, khích tinh thần là nhỏ không buông. Nhỏ vội vàng đứng lên, một trận cười cả lớp vang lên làm nhỏ ngơ ngác… thầy mỉm cười nhìn qua nam sinh. Nhỏ nhìn theo.. thì ra hắn cũng đứng, còn cười cười thách đố nữa chứ. Tức ơi…là tức, nhỏ ngồi xuống không thèm. Một tràng cười lại vang lên thì ra hắn cũng ngồi.. Quê làm sao !.

Thầy giải hoà bắt hai đứa đứng lên và chia bài ra hai phần, Thầy bảo “em bắt đầu vì …con gái ưu tiên”. Đến phiên hắn, giọng hắn phát âm rất Tây, dịch thoát nghĩa rất hay. Khá lắm! Hắn là "gạo cội" của nhóm rồi, nhưng vẫn chưa đâu nhé, bên nữ là"gạo cả bồ" đấy.

Sau buổi học ấy tỷ lệ một huề. Tuy ấm ức trong lòng nhưng nhỏ vẫn ngưỡng mộ và ít ra hắn cũng bản lĩnh lắm. Một tuần trôi qua, hắn hình như chiếm trọn vẹn tình cảm của lớp, hắn thân thiện, hồn nhiên, chỉ riêng nhỏ là không ưa hắn … không ưa nhất là nghe mấy con bạn cứ khen mãi…

Thế rồi có một hôm buổi trưa tan học, cơn nắng cháy da, kèm theo bụng đói nhỏ hì hụt đạp xe lên dốc Cầu Lầu, trời thì đứng gió mới ác, thình lình chiếc xe nhẹ nhàng lên dốc không cần phí sức, nhỏ xoay lại nhìn ú ớ… thì ra hắn một tay lái xe, một tay đẩy xe cho nhỏ. Khoẻ thì có thật! Nhưng nhỏ cũng tức vì tự ái, không thích hắn cái gì cũng hay, cũng hơn người.
Xe vừa xuống dốc cầu…. hắn kè một bên huyên thiêng cười nói. Nhỏ liếc sang … lại thấy ghét! Chiếc xe cũng theo thời, chiếc PC là mode con nhà giàu đấy. Rồi lại giỡ giọng tán cũ mèm như bao tên khác. "Nhà mình cùng đường với nhỏ". Nhỏ làm ngơ như điếc nặng không nghe "hả, hả? Tiếng xe không nghe gì cả ?" Vậy mà hắn cũng lì... độc tấu một mình suốt đoạn đường. Đến nhà hắn chào tạm biệt và quẹo vô cổng.
Nhỏ ngỡ ngàng thì ra hắn không xạo!!!.

* * *

Sáng hôm sau đi học, từ khoảng cách xa nhà hắn, nhỏ trộm nhìn thấy hắn trên chiếc xe đòn dong chực chờ trong ngõ, nhỏ làm lơ chạy qua như không thấy hắn, cũng đáng ghét chiếc xe đạp thể thao cũng bảnh bao theo kiểu con nhà giàu trong tỉnh nhỏ. Hắn cũng giả vờ khá lắm, hắn thở hổn hển và vượt lên ngang tầm xe nhỏ : "Mình đi học trể đạp gần chết, thấy nhỏ mà đuổi theo muốn hụt hơi, chậm chậm chờ mình với". Vào đến nhà xe, hắn lại vờ quên dây xích khoá xe, xin khoá nhờ. Xạo hay nhỉ! Nhưng cũng dễ mến.

Thử lòng hắn, một hôm nhỏ đi học sớm hơn. vuột một hôm thì hắn lại chờ sớm hơn. Bỏ xe nhỏ đi bộ thì hắn cũng cuốc bộ quăng xe.
Sự cố ý của hắn không biết từ lúc nào đã thành thông lệ. Nhỏ biết và hiểu những suy nghĩ hắn và ngược lại hắn cũng chạm phải cảm giác nhỏ nghĩ gì, những cái giả vờ dễ thương ấy đã trở thành một nhịp cầu nối tình bạn gần hơn và tự nhiên không khách sáo.

Tính hồn nhiên, vui vẻ và ân cần của hắn không phải tán ngọt ngào, cũng không còn thừa thải vụng về như nhỏ nghĩ trước đây… ngày qua ngày cả hai nói cười và hình như tranh nhau mà nói.

Bên cạnh hắn dần dần nhỏ bỏ đi tính bẽn lẽn, e dè, mà thời gian qua nhỏ từng lo sợ người dân trong xóm dèm pha, phê phán... thường áp đặt lên tuổi trẻ,. Thoáng chốc tư tưởng sợ sệt ấy bay vèo. Trong lòng nhỏ hắn là "cô bạn" dễ thương, dễ tâm sự và chia sẻ mọi ưu tư, trong mắt nhỏ hắn là người bạn lịch thiệp, vui tính, giản dị không có giai cấp sang hèn. Cái suy nghĩ xấu về vẻ bề ngoài của hắn, qua cái nhìn sơ khởi đã teo tóp… chỉ còn lại một khối tình bạn chân thành ngây ngô.

Con đường đi học từ đấy đã rút ngắn hơn và quang cảnh xung quanh đầy hoa thơm cỏ lạ. Cả hai không cần học cũng thuộc làu bài hát của Phạm Duy… Ngày Xưa Hoàng Thị.

* * *

Một chiều sau buổi học, cả nhóm ở lại dợt văn nghệ và bàn tính cho chương trình văn nghệ đêm Lễ Giáng Sinh. Học trò ra về nên sân trường vắng vẻ, trời chiều đổ cơn mưa lớn, bầu trời tối âm u, bên cạnh nhỏ cũng có gã thư sinh đang kỳ kèo xin được "đưa em về dưới mưa...", núp bên mái hiên phòng Bác Năm trực cổng, chờ đón xe Lam về nhà. Xe nào cũng đầy người không thèm ghé. Nhỏ run run và lo sợ vì chỉ còn một mình nhỏ chơ vơ.

Bỗng nhiên chiếc PC trờ tới "nhỏ lên xe đi mình đưa về trời mưa dai lắm đó, mau lên..". Thật nhỏ cũng hổng hiểu sao chẳng băn khoăn do dự, nhỏ lên xe lấy chiếc cặp ngăn ranh giới, và cảm thấy an toàn chăng? Nhỏ để lại tên con trai kia đứng tẻng tò…

Hai đứa ướt như chuột lột, cả hai nói cười như đang hát với nhạc mưa. Gần đến nhà hắn kềm thắng xe và định thả nhỏ xuống."Sao vậy xe hư à ?" "không nhưng sợ nhỏ bị la ?" "Thôi la gì, thả ở đây mới bị la đó, thả nhỏ xuống trước nhà đi ".

Xe vừa ngừng, nhỏ chạy một mạch vào nhà vì ngượng nghịu, mình mẩy ướt mèm, ngoái đầu nhìn lại hắn, hắn thừ người nhìn nhỏ trong màn mưa dầy đặc, nhỏ thấy hình như hắn đang bị thôi miên (?).
Từ sau buổi ấy hắn và nhỏ dường như có một bức hàng rào, cố làm ra vẻ tự nhiên nhưng lại càng mất tự nhiên.
Thôi thì …
Ta cứ giả vờ …
Đừng lay động nhé …
Tình lờ hay hơn!

* * *

Nhỏ còn nhớ trong một buổi cắm trại tại trường, đến giờ ngủ hắn mang gối qua lều cho nhỏ mượn, dù bạn hắn bảo là hắn không ngủ được khi không có gối nằm. Ví như nhỏ ghét cho ai mượn khoá xích xe chung hắn là người hay quên khóa. Nói chung những gì nhỏ ghét hắn ưa, và những gì nhỏ cần hắn luôn sẵn sàng có.

Rồi tình cờ này qua những tình cờ khác tiếp nối suốt một mùa học trôi qua… hai đứa cảm thấy không gặp nhau là đời mất cả niềm vui.
Một đêm Giáng Sinh 1976, một đêm trong đời nhỏ buồn nhất vì không còn ăn Réveillon như những năm xưa, gia đình tứ tán, kinh tế èo uột, sau buổi cơm chiều cũng có gà quay nhưng không là con gà lôi do Ba nhỏ nuôi, và được bàn tay nấu ăn khéo léo của Ba tình nguyện chuẩn bị như những năm trước đây.

Ba Má nhỏ đi ngủ sớm, nhỏ ngồi học bài gần khung cửa sổ thình lình có tiếng gõ nhè nhẹ"Nhỏ ơi nhỏ, mình đây nè, nhỏ theo mình đi ăn Noel nhe, bạn bè đang chờ nhỏ tới mới khai mạc đó?"
Nhỏ biết hắn nhưng không mở cửa, chỉ trả lời nhỏ qua khe cửa sổ "Thôi đâu được, tối rồi ba má mình la chết"."

Nhỏ không đi mình không về." nhỏ thách đố " Ừ thì cứ chờ cho tới sáng đi."
Nửa tiếng sau nhỏ hé cửa sổ thì ra hắn vẫn còn ngồi ngoài hành lang chờ đợi, rồi không biết động lực nào nhỏ lại len lén ba má mở cửa sau đi… Đó cũng là lần đầu nhỏ đi mà không xin phép, cũng là lần đầu đi dự Giáng Sinh với hắn.

Nhỏ vừa bước vào nhà hắn, đèn bật sáng và nhạc trổi lên, từng cặp dìu nhau ra sàn nhảy, nhỏ ngỡ ngàng đứng lặng nhìn …Ôi đẹp làm sao! Các bạn thân quen và những người không quen rộn ràng tiếng cười nói.
Hắn mời nhỏ cùng ra sàn nhảy, nhưng nhỏ phì cười…"Nhỏ chỉ biết nhảy cò cò thôi…hi..hi…". Hắn vẫn chìa tay chờ đợi "Thì cứ ra đi, mình chỉ cho" Nhỏ lắc đầu thối thoát "Thôi cho mình yên đi, mình chỉ thích ngắm … Các bạn nhảy đẹp như các Công Chúa trong truyện cổ tích, Hoàng Tử đi mời các bạn khác đi".

Hắn cười vì hiểu tính nhỏ, không là không! Hắn ra sàn nhảy với dáng dấp trông rất nghệ thuật... nhỏ vừa thưởng thức vừa chóp chép hạt sen rang…
Mỗi một bản nhạc chấm dứt, hắn tiếp tế lương thực cho nhỏ rất … galant.. vì hắn biết nhỏ mê… ăn hàng.


Tiệc tàn, anh trưởng lớp chia trách nhiệm cho các bạn trai đưa các bạn gái về nhà, hắn vẫn là người đưa nhỏ về nhà đêm đó, trong khí trời lành lạnh của sương đêm. Ngồi sau lưng hắn, chiếc xe đạp mini chầm chậm ….lăn bánh, tiếng hát nho nhỏ của hắn làm ấm áp và rộn rã niềm vui …"Bài Thánh Ca đó còn nhờ không em, Noel năm nào chúng mình có nhau……
..... Xin cho đôi mình suốt đời có nhau ….. "*
Trong lòng đôi học trò thơ ngây vấy lên một hạnh phúc tuyệt vời của đêm Chúa sinh ra đời.
…………………
"Rồi mùa giá buốt cũng qua mau, lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu …" Tiếng hát ca sĩ nức nỡ hay lòng đang nức nỡ?
"Lời nguyện mình Chúa có nghe không, sao bây giờ mình hoài xa vắng, bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian, bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu...". Tiếng vỗ tay tán thưởng của khán giả đưa về thực tại khi người ca sĩ chấm dứt bài ca.
Dù thực tại là thế, nhưng sao dư âm giọng hát của ai trong đêm Noel năm nào vẫn dịu dàng len nhẹ vào lòng ... đủ một chút hương yêu đọng trên bờ mi khoé mắt.... Mưa rơi!!!
"Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.... Đêm Thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi..."

Kỷ niệm Vĩnh Long 24/12/1976
Kim Oanh

Nhạc phẩm Bài Thánh Ca Buồn của Nhạc Sĩ Nguyễn Vũ



Sáng tác: Nguyễn Vũ
Ca sĩ: Don Ho


Hình Ảnh: Nhà Thờ Chánh Tòa Vĩnh Long, Holy Name và St Patrick's Cathedral Melbourne
Thực Hiện Youtube: Kim Oanh

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Image


Giữa mùa Giáng Sinh


Trọng Đạt

Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày lễ Giáng Sinh, còn mươi hôm nữa là Tết Tây, người người nô nức đi mua sắm tại các cửa hàng cửa hiệu, tưng bừng rộn rã, tống cựu nghinh tân, năm cũ đi, năm mới lại, giòng đời vẫn lặng lẽ trôi nhanh.
Mấy năm trước đây, tôi dọn về ở khu phố này đúng vào mùa Giáng Sinh, một khu nhà ở trung bình, bên phải tôi là một ông trắng, bên trái là một ông đen, ông nào cũng vui vẻ cả. Tôi và ông trắng hay đậu xe phía sau nhà nên thỉnh thoảng có gặp nhau. Dọn nhà được mươi ngày tôi gặp ông lần đầu, hôm ấy tôi ghé vào sau nhà ông hỏi thăm xã giao cho có tình hàng xóm. Đó là một ông già gần bảy mươi to, cao, vạm vỡ, hôm ấy ông nói đã về hưu mấy năm rồi, hồi xưa trong binh đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Ông già ở một mình, tôi được biết vợ ông nay ở tiểu bang khác, ông không có con, cụ thân sinh còn sống, ở cách đây gần hai chục dặm, nhà này ông mua lâu rồi .

Người ta nói ông này ở dơ lắm.

Khoảng nửa năm sau, bỗng dưng không thấy ông đâu cả, vắng nhà mấy tháng ông lại trở về, gặp tôi ông đều chào hỏi:

– How are you today? Anh mạnh giỏi chứ?

Được biết ông đi nằm bệnh viện giải phẫu đầu, não gì đấy, ông bị tâm thần. Lúc này mới biết ông bị bệnh, chắc là một chứng nan y. Ông già có thái độ bất cần đời, nghĩ rằng mình chẳng còn sống bao lâu, cỏ mọc trước sân cao đến đầu gối, ông cũng mặc kệ, tòa tỉnh cảnh cáo mấy lần ông mới chịu kêu người cắt, tôi có cắt dùm ông một lần. Không bao giờ ông tưới cỏ, nắng Texas như đổ lửa, nứt cả đất, cháy cả cỏ ông cũng thây kệ, muốn đến đâu thì đến.

Qua năm sau, tôi thấy ông suy yếu rõ rệt, trông ông có vẻ khá giả vì thấy ông đi xe mới, người to cao nên mỗi lần chui vào xe khó khăn lắm, xe bị đụng mấy lần, sửa đi sửa lại. Sau ông mua chiếc xe Cadillac to lớn, trông bề thế, loại xe đắt tiền, ít lâu sau lại bị đụng xe, phải kéo đi tiệm sửa. Ông gõ cửa nhà tôi mượn điện thoại, điện thoại nhà ông bị hư. Giời ơi, lúc này tôi mới để ý, ông lão hôi quá, hôi như tổ cú vậy, quần áo ông nhàu nát cũ kỹ, cả tháng không giặt, ông ra khỏi nhà tôi cả buổi rồi mà mùi hôi vẫn còn nằm trong phòng khách. Ông cho biết gọi điện thoại cho bố nhờ giúp đỡ. Mấy hôm sau tôi thấy cụ thân sinh ông ở đằng sau nhà, một ông cụ trạc chín mươi nhưng trông tỉnh táo hơn, người thấp thấp. Tôi thở dài nghĩ bụng:

“Trời ơi ! Ông bố đã chín mươi cái xuân còn phải đi lo cho ông con bảy mươi, thật là báo đời báo kiếp! báo đến già vẫn chưa hết ”.

Lúc này thấy ông ngày càng bệ rạc hơn trước, quần áo hôi hám, sộc sệch. Có lần ông châm thêm nhớt xe ở sau nhà, tự nhiên quần tụt xuống, ông cũng thây kệ, tôi nói cho ông biết nhưng ông chỉ cười xoà. Tóc tai ông lão rũ rượi, râu ria lởm chởm, nước da ông vàng bủng như người sốt rét ngã nước, đôi mắt ông nhìn xuống đượm mầu chán chường tuyệt vọng, thoáng một vẻ đau đớn về tinh thần và thể xác. Có lẽ biết mình chẳng còn sống bao lâu nữa nên ông chẳng còn thiết gì đời, ăn mặc dơ dáy lắm. Ông cất bước đi vào nhà một cách nặng nề, đôi chân lê trên mặt đất thật chậm chạp vì phải mang một tấm thân to lớn. Hôm nay ông cũng không quên chào tôi “How are you today?”. Mỗi lần nhìn ông tôi lại thấy nổi lên trong lòng một nỗi u hoài khó tả vì phải chứng kiến một cảnh đời bi thảm, một cảnh bi thảm tại một xứ văn minh sung túc, tôi biết chắc ông ấy cũng sắp về Nước Chúa đến nơi rồi. Cuộc đời là bể khổ, Đông với Tây chỗ nào cũng thế.

Một hôm đi làm về, tôi đậu xe đằng trước. Thấy tôi, ông vội chạy ra nhờ chở đi chợ Kroger mua đồ ăn, xe ông lại bị đụng phải đem đi sửa. Bất đắc dĩ phải chở ông đi chợ. Giời đất ơi, tôi muốn chết ngạt vì cái mùi hôi bốc ra từ quần áo của ông. Bước vào xe ngồi, xe tôi như nghiêng hẳn đi vì ông nặng quá. Lúc về tôi bực lắm, quyết từ nay không bao giờ giúp ông ấy nữa. mùi hôi cứ ở lỳ trong xe tôi mãi mới hết. Có người bạn tình cờ vào nhà ông ấy nói nó hôi thối y như cái chợ cá, thùng rác ngay đầu giường, chuột, gián . . . . tùm lum. Mà thật vậy, mỗi lần ông mở cửa sau, cái mùi chợ cá xông ra tận bên nhà tôi, thật không ngờ một ông Mỹ trắng lại ở dơ đến thế.

Từ đấy tôi nhất quyết không cho mượn điện thoại, dứt khoát như vậy. Một hôm đang chăm sóc mấy cây hoa hồng đằng trước, tôi bỗng thấy mùi hôi, rồi ông ta hiện ra hỏi mượn điện thoại, tôi từ chối nói sắp phải đi ngay, ông buồn rầu bước sang nhà khác. Nhìn vẻ mặt thất vọng của ông tôi cũng ái ngại lắm, tôi lại tự trách mình sao ác quá, ông ấy hỏi mượn cái điện thoại mà cũng từ chối. Nhưng dù ái ngại tôi cũng cương quyết không cho ông ấy vào nhà, giúp ông rồi ông sẽ nhờ mãi, phiền lắm.

Tôi bèn viết thư cho tòa tỉnh city.

Thưa quí Tòa

Ông hàng xóm tôi, cựu chiến binh già lão lắm, không bà con bạn bè, không xe cộ, điện thoại, rất cần giúp đỡ… Ông ấy khổ lắm . .xe hư , điện thoại cũng hư. Ông mượn điện thoại hàng xóm người ta không cho mượn vì ông ấy hôi quá!… nhà ông hôi như cái chợ cá , một tổ vi trùng! Tôi có giúp ông ấy vài lần, nay không thể giúp được nữa. Xin quý tòa giúp cho ông để cải thiện cuộc sống cho ông ấy đỡ khổ.

Xin đa tạ quí Tòa

Mấy hôm sau có một ông nhân viên gọi điện thoại trả lời tôi, ông cho biết đã chuyển thư sang ban xã hội, hội từ thiện gì đấy. Lúc này ông không hỏi mượn điện thoại nữa, mặc dù bị tôi từ chối nhưng mỗi khi gặp nhau ông vẫn chào hỏi vui vẻ How are you today? Anh mạnh giỏi chứ? Tự nhiên tôi lại cảm phục tấm lòng bao dung, độ lượng của ông, của những người Mỹ không bao giờ biết giận là gì, tôi cư xử với ông ấy hơi tệ thế mà ông vẫn vui vẻ như thường thật đáng kính phục thay. Tôi cũng cảm thấy một chút hỗ thẹn ở lương tâm về cách xử sự của mình với ông ấy.

Độ này không thấy ông nhờ tôi, bốn năm tháng sau mới thấy ông mượn cái kìm, cái búa, hay xin chút đồ ăn vì xe hư không đi mua được. Rồi thỉnh thoảng lại thấy ông đi mượn điện thoại các nhà hàng xóm, tức quá tôi lại viết thư lên tòa tỉnh, kể lể dài hơn.

Thưa quí tòa

Ông hàng xóm của tôi khổ quá , xe hư lại không điện thoại . . . . .

. . . . . ..

Xin quý tòa giúp ông ấy !

Mấy hôm sau, một bà nhân viên gọi điện thoại cho tôi, bà phụ trách về vấn đề hàng xóm, bà hỏi tôi một số chi tiết về ông già và cho biết bà sẽ cố liên lạc với ông ấy. Mấy tháng sau, người ta mở cửa trước, cửa sau nhà ông để tổng vệ sinh, mùi hôi hám ghê sợ tỏa ra khắp nơi, họ thay thảm cho ông, thu dọn rác rưởi trong nhà, nào ấm sứt vòi, ly tác bể, ghế ba chân … cho vào bao, rồi vất cả đống ra đằng trước vườn. Nhà ông được quét dọn sạch sẽ, tôi mừng cho ông mà cũng mừng cho tôi nữa.

Tuần trước thấy xe ông bị đụng bể cả cửa kính. Độ này thỉnh thoảng mới gặp ông ở chỗ đậu xe sau nhà, thấy ông suy nhược lắm, nét mặt đau khổ đáng thương, tôi có cảm tưởng như ông phải miễn cưỡng kéo lê cái tấm thân tàn này cho đến chết và có lẽ ông cũng mong Tử Thần đến đem đi cho rảnh cái nợ đời. Mỗi lần nhìn ông tôi lại chợt nghĩ đến ý nghĩa của nhân sinh: Đời là bể khổ? Chết là giải thoát? .

Chỉ còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh. Tối qua thức khuya đi mua sắm đồ đạc, sáng nay tôi ngủ dậy trễ. Lúc chín giờ rưỡi sáng tôi nghe thấy tiếng nhiều người nói chuyện trước nhà, ngủ thiếp đi một lúc cả giờ đồng hồ vẫn thấy họ nói chuyện, cười cợt. Tôi lấy làm lạ sao họ nói chuyện gì mà lâu thế nên bèn hé mành nhìn ra thấy vài ba xe cảnh sát, một xe truck đậu trước nhà tôi và nhà ông, mấy người cảnh sát đứng nói chuyện um sùm. Biết là có chuyện chẳng lành, tôi vội khoác áo lạnh chạy ra vườn trước nhà, tôi thấy hai người khiêng xác ông ấy từ trong nhà đi ra đút vào trong lòng một chiếc xe cứu thương đậu ở bên kia đường.

Lạ thay, khi tôi ngủ li bì thì không thấy họ khiêng ông ấy lại đợi đến khi tôi chạy ra, chắc là ông nhắc tôi chạy ra để nhìn thân xác ông một lần chót, chắc hẳn là như vậy. Mọi người vẫn nói cười vui vẻ. Người Mỹ lúc nào cũng thản nhiên như không, dẫu cho gió bão chết cò, đổ đình đổ chùa hay cháy nhà hàng xóm họ vẫn bình chân như vại. Tôi chạy lại hỏi một chị cảnh sát Mỹ đen đang đứng trước vườn nhà tôi:

-Ông ấy làm sao thế?

-Ông ấy chết rồi, tối hôm qua.

-Thế à!

Nhìn vẻ mặt xúc động của tôi, chị cảnh sát hỏi:

-Anh thấy ông ấy lần chót hôm nào?

-Mấy tuần trước, tuần rồi thấy xe ông ấy bị đụng bể cửa kính.

-Đụng hôm thứ sáu, ông lái về nhà được. Sáu hôm sau mới chết. Ông ấy biết trước là chết nên đã gọi ông cụ thân sinh, ông cụ kia kìa!

Vừa nói chị vừa chỉ tay về chiếc xe truck đậu ngay trước cửa nhà tôi.

Tôi chạy lại xe hỏi thăm ông cụ bố nay cũng độ ngoài chín mươi, cụ vui vẻ hỏi tôi :

-Anh ở bên cạnh hả?

Rồi cụ thẫn thờ suy tư như nhớ lại bảy mươi năm trước đây cụ đã bế trên tay một đứa trẻ sơ sinh mở mắt chào đời, nâng niu ôm ấp một cái mầm sống thân yêu, nó là nguồn hạnh phúc của đời cụ. Thời gian trôi qua, đứa trẻ lớn lên, sống những ngày tươi đẹp của tuổi hoa niên rồi già lão, bệnh hoạn và bây giờ nhắm mắt lìa đời. Bảy mươi năm trôi qua đánh vù một cái, nó tuy ngắn ngủi nhưng cũng quá đủ để chấm dứt một kiếp người.

Thế rôi mọi người vội vã lên xe đóng cửa rầm rầm để đưa ông ấy đi, không kèn, không trống, không một tiếng khóc than, không một giọt lệ sầu mà chỉ thấy toàn là những tiếng cười. Tôi không biết họ đưa ông ấy đi đâu, lên nhà thương? nhà quàn? hay ra nghĩa địa? Ở cái xứ sở giàu có sung túc nhất thế gian này con người vẫn chưa thoát khỏi những nỗi khổ ải, trầm luân. Trong lòng tôi cũng thầm mừng cho ông nay đã rũ sạch nợ trần.

Họ vẫy tay chào tôi rồi vội vã lái xe chạy vùn vụt về cuối phố.

Mặt trời đã lên cao tỏa ánh nắng vàng rực rỡ trên các mái nhà, cành cây, ngọn cỏ. Đường phố lúc này vắng tanh vắng ngắt không một bóng người. Thiên hạ nô nức đua nhau đi mua quà chúc mừng ngày lễ đã gần kề, chỉ còn lại một mình tôi đang đứng ngẩn ngơ nhìn về cuối phố, trong lòng xót xa vô hạn…

Một nỗi buồn mênh mang thấm thía và một niềm ân hận bàng bạc ở đâu kéo đến xâm chiếm lấy tâm hồn tôi giữa một mùa Giáng Sinh tưng bừng rộn rã….

__._,_.___

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

ÔNG KHỔNG LỒ VÀ EM BÉ TÍ HON

Ngày xửa ngày xưa, có một ông khổng lồ. Ông có một tòa nhà lớn bao quanh là một khu vườn rộng với cỏ hoa bốn mùa tươi tốt. Đặc biệt là những cây đào mùa xuân hoa nở trắng, mùa thu trái chín hồng. Từng đàn chim nhỏ tíu tít bay về líu lo những khúc hát thanh bình. Cứ mỗi chiều tan học, các em nhỏ lại rủ nhau đến khu vườn để vui đùa, tung tăng chạy nhảy.

Thế rồi một hôm, ông khổng lồ có việc phải đi vắng lâu, khi về, ông bắt gặp lũ trẻ nghịch ngợm đu mình trên cành đào ở giữa vườn làm gãy mất một cành có nhiều nụ nhất. Tiếc quá, ông nổi giận hét lên một tiếng kinh khủng, làm các em hoảng sợ bỏ chạy. Ông lại tự tay xây một bức tường cao vây cả khu vườn lại, bên ngoài ông viết thêm mấy chữ thật to: CẤM VÀO ! Từ đó, các em nhỏ không còn dám bén mảng đến chơi ở khu vườn xinh đẹp ấy nữa...

Mùa thu, mùa đông, rồi mùa xuân nối gót, khắp nơi trăm hoa đua nở, chim hót líu lo, chỉ trừ có cảnh vườn ở đây là mùa đông vẫn ngự trị, dứt khoát không chịu ra đi. Thiếu những bóng dáng dễ thương, thiếu tiếng nói cười, thiếu cả những bước chân tung tăng của các trẻ thơ, hoa đào đã không chịu nở, đàn chim đã không chịu bay về.

Bên khuôn cửa sổ, ông khổng lồ ngồi co ro nhìn ra khu vườn giá lạnh hoang vắng, ông chép miệng: “Sao mùa xuân lại không thấy đến đây nhỉ ?” Quả thật, mùa xuân đã không đến, mùa hè cũng đi vắng, và mùa thu thì chỉ chịu đến thăm các vùng quanh đây. Ở đó, trái cây đã chín mọng đỏ, còn nơi đây thì cành đào vẫn tuyết trắng trơ trụi !

Một buổi sáng, bỗng ông khổng lồ giật mình thức giấc vì có tiếng chim hót vui tươi bên cửa sổ khiến ông lặng cả người. Lâu lắm rồi, ông đã không còn được nghe những khúc hát của loài chim. Ồ, mà hình như đâu đây lại còn có một mùi hương xuân thơm ngát. Ông bất giác nhìn ra vườn. Ô kìa, từ một lõ nhỏ vỡ ra ở chân tường, từng em nhỏ đang chui vào khu vườn, mắt lấm lét đề phòng. Thế rồi, yên tâm rằng ông khổng lồ không có mặt, chúng bắt đầu trèo lên ngồi vắt vẻo trên các cành đào, làm cho tuyết rơi xuống từng mảng lớn...

Thật không ngờ, những chồi non liền nhú ra, nụ liền nở hoa, hoa liền kết trái, tất cả đều nhanh như một phép lạ thần kỳ. Ở một góc vườn, lại có một em bé tí hon đang cố nhón chân trèo lên một cành đào thấp nhất mãi mà không được, cậu đành đứng khóc thút thít một mình. Lòng ông khổng lồ bấy lâu nay đã khép kín giá lạnh như băng tuyết, giờ đây, trước cảnh vật rộn ràng, và nhất là trước hình dáng bé nhỏ dễ thương ấy, tâm hồn ông như ấm lại và mở toang bao dung. Ông đã hiểu vì sao mùa xuân chẳng chịu đến thăm khu vườn của ông.

Vừa ân hận vừa sung sướng, ông khổng lồ mở bung cửa nhà, chạy ào ra vườn làm cho lũ trẻ kinh hoàng ù té chạy nấp vào các gốc cây, hồi hộp chờ đợi một cơn thịnh nộ. Tức thì, mùa đông quay trở lại ngay, tuyết gió lại vi vu, các bông hoa và chồi non co mình lại. Chỉ riêng có em bé tí hon ở giữa vườn là vẫn đứng đó, mắt nhòa lệ vì tủi thân.

Ông khổng lồ nhẹ bước tới, bế xốc em bé rồi nhẹ nhàng nâng cho em ngồi vắt vẻo lên một cành đào. Tức thì hoa lại nở rộ, chim lại hót vang. Em bé sung sướng vòng đôi tay nhỏ bé ôm lấy khuôn mặt ông khổng lồ ngang tầm mặt của em mà hôn nhẹ lên đôi má già nua đang ràn rụa nước mắt vì xúc động. Các em bé chung quanh thấy vậy thì lại rủ nhau ùa đến, mang theo của mùa xuân vui tươi rộn rã...

Ông khổng lồ giang rộng tay, dịu dàng tuyên bố: “Các cháu ơi, từ nay khu vườn này sẽ là của các cháu mãi mãi !” Bức tường cao bị chính tay ông phá đổ trong phút chốc. Mọi người qua lại đều ngạc nhiên khi thấy một ông khổng lồ đang đùa vui hồn nhiên với một bầy trẻ tí hon ngay giữa khu vườn có hoa đào nở ra trắng xóa...

Từ đó, chiều nào các em học xong ở trường, cũng vội chạy a đến vây quanh ông khổng lồ vui tính. Chợt một hôm, ông chú ý hỏi thăm lũ trẻ về em bé mà ông đã bồng lên dạo nọ, các em đều trả lời không biết, mà cũng chẳng thấy em đến chơi một lần nào nữa...

Năm tháng dần trôi qua, em bé tí hon dễ thương ấy vẫn bặt tăm, còn ông khổng lồ thì già hẳn đi, râu tóc bạc phơ. Khi ngồi kể truyện cổ tích cho lũ trẻ, ông vẫn không quên nhắc tới cậu bé lạ lùng nọ...

Thế rồi, vào một buổi sáng cuối đông, ông khổng lồ lại ngồi nhìn xem cảnh khu vườn qua khung cửa sổ. Bỗng, ông mở to đôi mắt ngạc nhiên, vì ở chính giữa vườn, riêng mình cây đào đã sớm nở hoa xanh lá một cách kỳ diệu. Và ông đã trông thấy em bé tí hon mà ông hằng thương nhớ đang đứng dưới gốc cây, cố vói lên cành đào thấp nhất y như năm nào.

Ông khổng lồ mừng rỡ đến bật khóc, quên cả tuổi già, chạy vội ra, bế xốc em lên. Bỗng, ông cũng chợt nhìn thấy nơi lòng đôi bàn tay nhỏ nhắn của em có hai vết thương tròn còn rươi rướm máu, lại còn hai vết thương ở hai bàn chân tí hon của em nữa ! Bàn tay ông đang đỡ lấy bên hông em cũng thấy máu thắm đang nhỏ ra từng giọt, từng giọt. Ông vừa giận dữ vừa xót xa kêu lên: “Sao lại thế này ? Ai đã làm cho cháu bé của ta bị thương như thế này ? Ai ? Ai vậy cháu ? Nói mau cho ông biết đi !”

Em bé nhìn vào đôi mắt trợn to của ông khổng lồ một lúc rồi dịu dàng nói: “Ông ơi, đó chính là những VẾT THƯƠNG DO TÌNH YÊU đã gây nên ông ạ !” Ông khổng lồ vụng về quỳ gối xuống tròn xoe mắt hỏi em: “Cháu bé ơi, thế cháu là Ai vậy ?” Em bé không đáp, chỉ mỉm cười hiền hòa.

Mãi một lúc sau, em mới thỏ thẻ: “Ông ơi, ông cho phép cháu được chơi trong khu vườn của ông một lần này nữa thôi nhé. Ngày mai, cháu đã phải về Nhà của Cha cháu. Ở Nhà cháu cũng có một khu vườn đẹp lắm. Có dịp, cháu sẽ mời ông lên chơi Nhà cháu để đáp lễ. Cháu tin rằng ông sẽ thấy hạnh phúc, và ông sẽ ở lại mãi mãi trong khu vườn Nhà cháu. Ông nhận lời mời của cháu, ông nhé !”

Và buổi chiều hôm sau, khi mùa đông vừa kịp nhường bước cho xuân đến, khi tan học về, các em nhỏ lại ghé chơi khu vườn như thường lệ thì thấy ông khổng lồ đã ngủ yên nghỉ vĩnh viễn ngay dưới gốc cây đào. Đôi môi ông tươi thắm một nụ cười như đang say ngủ trong một giấc mơ tuyệt vời. Hoa đào nở sớm đã rụng xuống phủ lên trên thân mình ông và cả một vùng chung quanh trắng xóa...

Phóng tác theo một truyện ngắn
của văn hào OSCAR WILDE.

Post Reply