Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

nhuvan
Posts: 339
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Post by nhuvan »

Image

Hoa mùa Đông


Hồ Đình Nghiêm

Dù có tuyết hay không, ở chốn đây bao giờ hàn thử biểu cũng rơi xuống âm độ. Trừ 10 trừ 20 cũng chả lạ gì, như cơm bữa. Lạnh, chẳng ai chối cãi, nhưng không vì mùa màng kiểu đó khiến đảo lộn mọi sinh hoạt, người ta vẫn thức khuya dậy sớm dù quang cảnh ngoài trời đang đóng băng, đang cóng thân cùng tiếng gió rít.

Tôi đã làm cho ông bình cà phê. Ông ăn bánh mì trứng với bacon hay điểm tâm tô mì ăn liền? Người chồng đứng rửa mặt ngó vợ qua tấm gương: Bà ăn gì thì tôi ăn nấy. Bà đã gói giúp tôi món quà ấy chưa? Rồi, xong từ tối hôm qua kia.

Người đàn ông khoá lại vòi nước. Tĩnh lặng. Chỉ có tiếng nồi niêu lách cách đặt trên lò, tiếng chân bước qua về của người vợ loay hoay chu toàn bữa ăn sáng. Ông lau mặt, ông chải tóc rồi chậm rãi tới ô cửa vác mặt dòm ra. Tiếng bà vợ cất lên sau lưng: Coi bộ lạnh dữ à nghe, mặc áo cho nhiều vào.

Chỉ bà nói ông nghe, ông nói bà nghe. Quen rồi, muốn thay đổi không khí thì giả bộ làm trái ý nhau rồi lời qua tiếng lại cãi lẫy. Nhưng điều đó chỉ xẩy tới một hai lần, không có “sự bất quá tam” bởi bà đã cảnh báo: Tui yếu tim lắm nghe ông, muốn giết người không gươm đao à? Ông luôn nhường nhịn bà, luôn cởi giáp quy hàng, đến độ mấy đứa con cũng từng nhận xét: Hạnh phúc thay khi ba biết sợ má! Và thằng út đã đích thân mang lại nhà, tự tay nó đóng đinh tấm poster vào cánh cửa phòng ngủ: “Sau lưng một người đàn ông thành đạt luôn có bóng dáng của phụ nữ”.

Con cháu họ đều ở xa, chúng phải lo liệu việc sở việc nhà nên theo chương trình đã lên lịch, đôi ba hôm nữa mới về thăm. Bà đã hối ông chở ra chợ, trong đầu bà tự động hiện ra ba món ăn để gia công nấu nướng. Ông phê bình: Quá nhiêu khê cầu kỳ, mất công sức, lỡ không hợp khẩu chúng thì xôi hỏng bỏng không. Bà nhìn ông: Tui đẻ ra chúng mà bộ tui không biết miệng lưỡi chúng sao? Vậy thì bà có đọc ra những ý nghĩ thầm kín của ba đứa con không? Có đấy, chúng bảo rằng ông chẳng chịu lượng sức, già yếu mà cứ ưa ôm đồm đi lo chuyện bao đồng. Ông nghe, như mọi khi, ngồi rụt cổ lại chẳng đưa ý kiến.

Khi ngồi vào bàn ăn, bà rót cà phê ra cho ông: Chỗ đó cũng tình nghĩa, nghỉ hưu đã hơn hai năm mà họ còn nhớ tới ông để gọi lại chung vui. Ông múc muỗng đường, khuấy ly cà phê. Mình có quyền từ chối, nhưng bữa nay đúng lúc lão Fred thôi làm, buộc mình phải mang quà tới dự buổi chia tay. Thì hôm tôi giã từ cũng xôm trò vậy, họ mời cả những cựu nhân viên già lọm khọm. Ừ, nói chung thì có tình có nghĩa thật. Bà nhìn lên chiếc đồng hồ treo gần bàn ăn, đó là món quà công ty tặng cho một nhân viên lao động ròng rã suốt mười lăm năm không gián đoạn. Nhân viên nhác chơi xin ăn hưu non và cái đồng hồ chỉ cần thay battery thì vẫn chuyên cần gõ nhịp thời gian, chưa gặp mệnh hệ để đường đột bỏ cuộc. Tại sao khi người ta giũ áo thôi đi cày bừa lại tặng người ta cái vật nhắc nhở giờ giấc ra đồng áng?

Tôi đi nghe bà. Trước khi mở cửa ông nhắc: Tôi đã để sẵn bộ phim Hàn quốc bà đòi xem trên bàn. Tiệc tùng đôi lúc không kéo dài bằng những chồng chéo éo le trong phim ảnh đâu. Ông khoá cửa nhà, ông để gói quà trong xe, mở máy. Cầm đồ cạo tuyết bám rồi dùng chổi quét quanh khối kim loại đang ho hen thở khói đen. Tờ tạp chí chuyên đề về auto cho hay, trung bình mỗi chiếc xe sẽ rệu rã sau khi gồng mình chịu qua 5 mùa đông. Ông đã than thầm: Sắt thép còn vậy huống chi xương thịt con người. Nói nào xa xôi, đêm hôm trái gió trở trời, ông muốn thương vợ nhưng bà la lên, đau lưng lắm, gân cốt tui đang mỏi gối chồn chân, sức người có hạn; và trời trở gió trái ông đã làm thằn lằn chắc lưỡi trong canh thâu, đêm dài lắm mộng!

Ông lái xe đi, thử đạp thắng để dò đường xem có trơn trợt không. Cũng chẳng việc gì phải gấp rút, kim chỉ vận tốc ở con số 40, Ông lấy làm lạ khi đọc phải một bản tin, rằng các ông bà già thường gây ra tai nạn xe cộ hơn hạng tuổi năng động háo thắng của bọn thanh niên. Có thể do ở phản ứng đã mất đi sự nhanh nhạy, hoặc mắt yếu, hoặc dễ buồn ngủ bất chợt, hoặc một đầu óc lơ đãng thiếu tập trung. Những lầm lỗi ấy không có ở người ông, ông điều khiển xe chạy chậm vì ông đang tự vẽ ra một hình ảnh, một dung nhan, một thứ khiến ông nóng lòng chạm mặt. Radio băng tần FM lóng rày siêng phát nhạc mừng Giáng Sinh, hầu như đài nào cũng thế, từ nguyên bản truyền thống cho tới biến đổi thành thể điệu rock. Quá đỗi chộn rộn. Ông bẻ tay lái ở ngả tư đèn xanh, kia rồi tảng đá xám hùng vĩ của bệnh viện trung ương thành phố đứng chắn lối. Tuần trước ông đi đổ xăng và tình cờ gặp Fred. Lão ta loan tin sắp về hưu rồi thông báo: Anne, làm kế toán ở văn phòng đó, bị ngã đến độ gãy xương, hiện nằm trong nhà thương, hay tin chưa?

Ông đậu xe không mấy xa cổng bệnh viện. Trường học, công sở, hãng xưởng hay chợ búa thường vắng thưa người tuỳ theo giờ giấc nhưng nhà thương, bốn mùa đều nhộn nhạo kẻ vào người ra không dứt. Muốn mở mắt chào đời phải chui vào, băng bó, khâu vá hoặc thở hắt ra hơi cuối cũng từ chốn này mà quyết định việc sinh tử, chẳng thể làm khác đi. Một kẻ bị gãy xương, không khó cho ông tìm tới nơi Anne nằm. Mùa Giáng Sinh năm xưa, sau buổi tiệc chung vui ở chỗ làm, Anne uống hơi quá chén và chẳng hiểu do đâu, bà chỉ định riêng ông mang sứ mạng chở người đi quàng xiên về tận nhà. Ông để cho Anne quàng tay nơi cổ, ông xốc nách tấm thân hơi đẫy đà và mọi thứ không gây trở ngại một mảy may. Bà ở cùng người con gái, có tấm giấy màu dán nơi cánh cửa: Con dự tiệc đằng chỗ Julie, muộn lắm thì cỡ 1AM. Vẽ một trái tim màu đỏ thế dấu chấm. Và khi đọc xong lời nhắn kia, tim ông nghe rộn tiếng đập nhanh, khó cắt nghĩa một nỗi niềm. Ngay cả chữ già cũng chớ đào bới, khoanh vùng đặt mốc. Không ai thấy mình già đi khi lâm vào cảnh này, ông dịu dàng đặt Anne nằm xuống giường bằng sức lực của một gã trung niên. Chịu khó pha cho tôi một tách trà chanh. Anne nói, dường không phải một người đang say rượu. Anne say thứ khác, nũng nịu chất giọng của một kẻ rất mực tỉnh táo.

Cửa thang máy mở ở lầu năm, hành lang sáng dọc dãy đèn vàng. Theo tay chỉ của cô y tá, ông cầm gói quà bước vào địa phận mãi tôn trọng sự yên lặng. Người nằm trên giường sửa lại thế, kê gối cao để xua đuổi khuôn mặt buồn ngủ, thắp sáng một nụ cười. Tôi sẽ chết vì cảm động. Bệnh nhân nói khi nhận quà, chiếc áo đặc thù được cột giây có hơi sai lạc vị trí, giống như những sợi tóc rối chưa hề biết qua răng lược; tựu trung nó bày ra thứ hình ảnh gần như đêm Giáng Sinh năm nào. Bàn tay Anne đang dồn lực để níu đầu ông xuống trao gửi một nụ hôn. Sao biết tôi ở đây? Tôi gặp Fred và tôi nghĩ nên lại thăm Anne. Mùa lễ, nằm trong chốn ảm đạm này, người ta cần tin tới một thứ mà chúa không đủ quyền năng để trao tặng. Đứa con gái của tôi cần học ở bạn nhiều thứ. Thấy đỡ phần nào không? Y tá không hỏi kiểu của bạn, họ chỉ nói từ một đến mười, bạn đang ở số mấy? Ừ, Anne đang ở thang điểm nào? Cách đây khoảng năm mười phút thì số sáu, hiện tại đang leo lên số tám. Bạn đáng yêu quá. Được nghỉ tới bao lâu? Tới tháng tư sang năm, hy vọng thế. Trở mình vẫn nghe đau. Đưa tay đây. Ông nghe lời và bàn tay ông được thăm dò lên vùng thịt đã bị dao kéo phẫu thuật. Ở bên hông, trần trụi suốt, không nội y. Mềm mại, ấm cúng. Ông thoáng nghĩ tới vợ, hai ba lớp vải đậy đệm, đang quấn thêm chiếc chăn mỏng để thả hồn vào những thước phim tình cảm lãng mạn của Hàn quốc. Vợ ông đưa cảm nhận: Trong phim ảnh, những đứa tráo trở xấu xa đều phải bị tiêu diệt vào đoạn cuối; còn ngoài đời thành phần ấy luôn sống dai, thọ hơn cả người hiền lương.

Người y tá mang thuốc vào. Ông nói tôi về nhé, sẽ trở lại thăm hoặc khi nào xuất viện tôi sẽ dìu đỡ và làm tài xế cho. Cô y tá cười, chúc ông mùa lễ an lành. Ông lập lại, phát hiện khuôn mặt thoáng buồn của Anne. Noel năm ấy, khi chưa bị tai nạn, ông ta đã nán ở với mình lâu hơn ước ao. Xương đã gãy thì còn ra cơm cháo gì nữa hở trời! Nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa cũng mất sướng!

Ông về tới nhà bà vẫn xem chưa hết mấy tập phim. Vì lỡ đóng tuồng đi ăn với cựu đồng nghiệp, ông đã tạt vào tiệm người Việt ăn bát phở dằn bụng sau khi từ bệnh viện trở ra. Biết ông về, bà chẳng hỏi han bởi phim đang gặp hồi gay cấn. Thằng con rể âm mưu bất chính, dối gạt cả nhà cho tới khi bị vợ đương sự phát hiện. Dĩ nhiên vợ ông, đàn bà với nhau, đã thoá mạ chẳng tiếc lời thằng tài tử đẹp trai đóng vai kẻ bội phản. Ông nói: Có trường hợp nào người ta ca ngợi và đồng lòng tiếp tay với kẻ dối gạt không? Ông uống mấy chai bia mà trở chứng đi nói ba cái chuyện khó nghe vậy? Bà nghĩ sao về vụ ông già Nô-en hằng năm từ chốn xa cỡi xe về trao quà cho bọn con nít trên toàn thế giới? Đánh lừa người lớn thì khoan xét tội trạng, nhưng dối gạt bọn trẻ con thì cần lên án, cần ngăn chận ngay.

Bà vợ nhìn ông, thăm dò vẻ mặt chồng: Ăn liên hoan cùng bọn tây ở chỗ làm cũ, có phải không? Sao tui đánh hơi toàn cả mùi phở vậy? Ông cười to tiếng như ông già Nô-en: Đằng sau một người đàn ông thật thà luôn có bóng dáng phụ nữ đa nghi. Có cần tui nhắc lại bệnh tình không: Tui chúa yếu tim, là bông hoa trong mùa đông không biết sẽ tàn héo đi lúc nào… Ồ, thấy chưa, phải vậy chứ, thằng rể ấy bị cảnh sát đến bắt rồi kìa. Hừ, chạy trời sao khỏi nắng!

Hồ Đình Nghiêm
cuối năm 2016
Nguồn: Tác giả gửi

User avatar
khieulong
Posts: 6753
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image


Dấu cũ quê hương

Phan thái Yên

hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương


Tuệ Sỹ
Buổi chiều lặng rớt xuống chân ngày. Lá phong vàng ối vách đồi bên kia hồ chen trong màu tím đỏ của sồi dẻ bàng hoàng theo ráng chiều chảy màu thu về phía chân trời rũ bóng hoàng hôn. Chiều hửng hờ cơn gió xào xạc lá rơi làm khơi vương nỗi lòng khôn xiết nhớ quê.

Người đàn ông tóc râu bạc trắng tuổi đời đứng đăm chiêu nhìn trời nước sầu thu quanh mình. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Mùa thu Nguyễn Khuyến bàng bạc nỗi niềm, khơi dậy cảm giác bâng khuâng về thời gian lẫn không gian qua những dòng thơ Nôm (na) mà nghe như tiếng thở dài bảng lảng Đường thi… Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa (Sầm Tham) hay Đào hoa y cựu tiếu đông phong(Thôi Hộ)… Người bâng khuâng đứng nhìn hoa cũ nở đầy trong tiết xuân hay cánh hoa đào cười cợt với gió đông rồi bất giác lệ tuôn theo Đỗ Phủ, Tùng úc lưỡng khai tha nhật lệ. Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, con thuyền buột chặt mối tình nhà - Nguyễn Công Trứ dịch). Mới hay tâm hồn thi nhân tuy cách xa nhiều trăm năm sau trước nhưng chỉ cần một chùm hoa cũ, tiếng ngỗng kêu hay cánh hạc vàng đơn lẽ vụt bay cũng đủ khơi dậy nỗi tương cảm hoài niệm xa xôi

Ngọn gió quê lịm ngút trời xa nên ngõ vườn sau trên từng chiều lưu xứ là nơi để tựa lưng trông ngóng thẩn thờ. Lá rơi vào im vắng, nương chìm trong ngút ngàn thu phong nhuốm màu chiều bất tận quan san. Vịt trời quang quác gọi bầy đùa giỡn trên mặt hồ, vùng nước lưu dung trên lối đường giăng mắc thiên di.

Hàng năm từ đầu thu, bầy chim quen đã rời bãi hồ phương Bắc bay về sống tạm trên vùng nước lặng không xa ngõ vườn sau. Xóm nhà vắng vẻ choàng quanh bờ hồ vui hơn với tiếng chim rộn rã gọi bầy, cánh biếc sải đùa trên mặt nước váng màu thu. Thế rồi cái lạnh từ biên hồ chẳng lâu sau nhón gót len theo, se buốt cơn tuyết đầu mùa, bầy chim lại đàn lũ gọi nhau bay về vùng nắng ấm phương Nam.

Ông dõi mắt nhìn gia đình đàn vịt quây quần giữa hồ lòng bâng khuâng nhớ con cái ở xa.

Một ngày mấy năm trước, cô con gái út lúc dạo quanh hồ tình cờ nom thấy một chú vịt con thương tích bị bỏ lạc đang cuống quít kêu thương. Con bé nhân từ bồng chú vịt về nhà. Bố mẹ chìu con, thuận ý để con gái dùng một góc nhỏ trong nhà xe làm nơi trú ngụ cho chú vịt vào những ngày đông. “Con Thúi” lớn nhanh như thổi nhờ sự chăm sóc của con bé, luôn quẩn theo chân chủ trong vườn vào những ngày nắng ấm hoặc nô nức lội quanh vầng lá màu lục biếc điểm những nụ hoa súng chúm nở thuôn hồng. Buổi sáng mùa thu năm cô bé chuẩn bị đi học xa nhà, lần đầu tiên “Con Thúi” sải cánh bay chao trên mặt hồ trước đôi mắt vui buồn lẫn lộn của người đã cứu nó thoát chết năm trước. Gia đình đàn vịt thiên cư lạ lẩm nhìn anh chàng vịt có bộ lông cánh màu sặc sỡ hơn chúng đang thảnh thơi bơi lội trên mặt hồ lắng nước. Thế nhưng chỉ vài ngày sau, cô gái đã thấy “Con Thúi” nô nức theo đàn bay lượn trên nóc hàng dương ven hồ. Nó thỉnh thoảng bay về phía cô gái đứng bên gốc liễu, quang quác gọi như nài xin kéo dài cuộc vui.

Buổi chiều cuối cùng trước ngày cô gái đi học trường xa. Như bao lần trước, bầy vịt bay liền cánh với “Con Thúi” đứng nghển ngảng giữa vườn sau nhìn theo bạn lúc thúc bước sau cô gái rồi soải cánh bay về hồ nước. Cô gái ôm chú vịt vào lòng thủ thỉ, vỗ về, rồi một mình bước khuất sau cánh cửa khép chặt. “Con Thúi” đứng lặng hồi lâu trước khung cửa khép rồi bay lên nóc nhà mát cuối vườn. Nó âu sầu nhìn quanh khung cảnh quen thuộc một lần cuối trước khi theo bạn bay vào cuộc đời mới.

Năm sau, đôi lần chú vịt bỏ bầy bay về đứng ngơ ngác nhìn khu vườn yên tĩnh, thiếu vắng tiếng cười giòn tan của cô gái. Chỉ còn cha mẹ cô gái đứng tựa ngõ sau, im lìm như cặp chim câu già, đưa tay vẫy chào lúc “Con Thúi” sà cánh lướt qua. Họ khuyến khích con cái bay cao bay xa, thi thố với đời, còn họ thì ở lại vườn sau buồn nhớ quẩn quanh. Như cô gái đã một chiều giã từ chú vịt con lưu lạc ngày nào rồi khóc một mình sau khung cửa khép, nghĩ đến ngày mai chính mình cũng như chim bay xa vào tương lai thách đố.

Người đàn ông nhìn con vịt đầu đàn với đôi cánh màu sặc sỡ đang cùng bầy trầm lặng bơi thành vệt dài trên mặt hồ im sẩm bóng chiều. Có lẽ vịt đã quên khoảnh vườn nhỏ của thời nào chưa tháp cánh bay. Có lẽ mùa đông đang tới sẽ quá dài vì con xa không về nhà vào những ngày lễ tết. Ông thở dài…

Nửa vầng trăng chiều len qua cuối ngày, huyễn khuyết trên nóc cánh rừng phong. Mảnh trăng chẻ đôi long đong trời quê cũ. Và chơi vơi nửa vầng kia đã nào nguôi nỗi sầu viễn xứ... Nơi nào là quê-nhà cho một kiếp thiên di, cho bầy chim trốn tuyết đang bơi lội trong vùng nước sẽ đóng thành băng vào những ngày đông đang tới. Câu hát cũ về một ước muốn quay về, ngồi yên dưới hiên nhà trong màu trăng ngát lừng hương bưởi vườn khuya, rời rạc tìm đến đầu môi, ấp úng như một nỗi muộn phiền.

Hơi nước quyện trong se sắt thu phong, lãng đãng trên mặt hồ lớp sa mù giăng mắc bâng khuâng. Có phải bụi thu mờ hay lớp phấn bụi miên liễu Đông Pha âu sầu cố quận ? Dạ lai u mộng hốt hoàn hương. Đêm qua ông cũng nằm mộng trở về quê. Mơ trở về làm đứa bé thơ trong vòng tay mẹ, chỉ để rồi bừng mắt dậy, đếm canh dài, trở lăn với nỗi ray rức của tháng ngày biền biệt trôi đi không trở lại. Nhân hành do khả phục. Tuế hành na khả truy (Tô Đông Pha - TDP). Người đi mong có ngày về. Tháng năm đi mất khôn bề đuổi theo. Mẹ già một nắng hai sương, biết mẹ có còn chờ được ngày về của đứa con xa vẫn ôm mối sầu hoài vọng quê hương. Diệc dục cử hương phong. Độc xướng vô nhân họa (TDP). Quê xưa tình dẫu đượm dày. Nỗi riêng ấp ủ, phân bày cùng ai...

Lời cổ thi, phiêu hốt kiêu lãng cánh chim hồng bay lượn trên khắp vùng Quê Hương đồng vọng, dọc dài lịch sử Đông Phương, đã mang tới cho ông chút ấm lòng.

Lưỡng lưỡng qui hồng dục phá quần
Y y hoàn tợ bắc qui nhân
Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết
Cánh đãi Giang Nam bán nguyệt xuân (TDP)

Đường lên bắc mấy cánh hồng lẻ bọn
Bay dật dờ người trở gót lưu ly
Trời sa mạc tưởng chừng sương tuyết nặng
Đợi con trăng nửa mảnh ở nam về (Tuệ Sỹ, cảm dịch Tô Đông Pha)

Ngôn ngữ cổ thi dẫu chưa thấu hiểu nhưng âm hưởng, thi điệu qua nhịp gõ quyến rũ của chiếc gậy lục ngọc đã âm vang trong ông niềm cảm thông có khả năng làm dịu những cơn buồn. Nhiều năm trước, giữa những ngày lao đao tìm đường vượt biển, lòng ông đã có lần chợt nương xuống bình an giữa đêm bấn loạn. Lời hát vương điệu buồn phương Nam bên dòng sông vắng, trôi xuôi dòng ca dao quyện trong xao xác Đường Thi đã đưa hồn người vào sự tỉnh thức của hy vọng.
(Hò... ơ... chớ)... Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Giữa canh khuya nghe tiếng ai thỏ thẻ bên thuyền
Hỏi thăm quân tử....(ờ...)
(Hò... ờ... chớ)... Hỏi thăm quân tử vượt biên nơi nào?...

Ông vẫn thường nghĩ về giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao - cơn mộng tưởng lúc đang ngày dưới bóng đa mát rượi đình làng, bên hàng cau soi bóng nắng, hay lúc tựa gốc ô môi bên dòng sông vắng. Giấc mơ chói bừng sáng tạo đã níu Đường Thi vào ca dao rồi viên thành ở đó, êm đềm trên đầu môi người thôn quê Việt Nam sức diễn đạt mới rợi của ngôn từ.

Ông nhớ đến người bạn văn cùng lớn chung dưới mái trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng một thời. Ông bàng hoàng lắng nghe nỗi xúc động rùng chuyển châu thân qua lời thơ đượm ngát tình ca dao. Tình thơ phóng thoát từ bóng cổ thi, rồi trở-thành, tự-tại.

Hải-Đà Vương Ngọc Long đi vào thế giới Đường Thi với hồn nho sĩ và chân bước lưu dân, lòng nặng mơ về một trời quê hương viễn mộng. Ông bước vào “vũ trụ Thơ mênh mang bát ngát vô chung vô thủy, ... vào thế giới huyền thoại của tác động và mỹ thuật, của biểu cảm và hình tượng, có khả năng khêu gợi và cuốn hút tâm tư ” (Vương Ngọc Long). Giữa cơn thảng thốt mê hoặc của cảm xúc, thời gian và không gian quẩy níu vào nhau cơ hồ tiếng chuông chùa Hàn San ngân vọng đến nghìn sau nương theo con nước tương-tư-bất-tương-kiến nghìn xưa xuôi chảy qua dòng Hàn Giang lao đao trời quê hương bỏ lại với biết bao kỷ niệm một thuở phố Đà. Tiếng vạc kêu sương, lay thức nỗi lòng Trương Kế từ một đêm thu cũ xa xưa, hoang mang theo sóng sầu dâng mà ngỡ tiếng ai gọi đò trên bến Hà Thân sớm xuân nào. Xuân Tiêu Vọng Hàn Giang. Hồn thơ quyện hồn xưa đã mạo muội nên dòng Đường Thi lưu luyến.

Phong xuy lạc diệp động sầu âm
Nguyệt chiếu hà lương khách tứ thâm
Hỷ vũ hỷ hoa vô hỷ sắc
Hàn Giang hàn thủy bất hàn tâm
Tha phương uẩn nộ phi nan giảm
Cố quận nhân yên bất khả tầm
Tịch mịch xuân tiêu cô đối ảnh
Hương quan bán dạ Việt thi ngâm (Vương Ngọc Long - VNL)

Sương lạnh Hàn Giang khói tỏa mờ
Mênh mang sóng nước dạt đôi bờ
Hò ai văng vẳng đêm thanh vắng
Thuyền khách bâng khuâng luống thẩn thờ

Khóm trúc đong đưa nước lững lờ
Tiếng tiêu dìu dặt động hồn thơ
Bên cầu bóng nguyệt lung linh tỏa
Man mác tình quê nỗi đợi chờ

Sương thấm thuyền mơ xao xuyến ai
Ngẩn ngơ hư ảo trắng đêm dài
Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ
Ấp ủ trong tim những tháng ngày

Lá rơi gió thổi tiếng sầu vang
Trăng chiếu cầu sông khách bẽ bàng
Mưa thuận, hoa cười, đâu sắc thắm
Lạnh sông, buốt nước, chẳng khô lòng

Tha phương uất hận nào nhạt phai
Cố quận khói mờ há dễ trông
Quạnh quẽ đêm xuân thân đối ảnh
Ngâm câu thơ cũ nhớ quê làng (VNL)

Hàn giang mòn mỏi phương trời nhớ. Ấp ủ trong tim những tháng ngày...Đà Nẵng, phố cũ trời quê xưa. Cánh rừng dương ôm quanh bờ vịnh cuối phố, mở ra lối biển, chớp tắt ngọn hải đăng chóp núi u hoài. Con đường từ Trẹm, kiêu sa hàng cây bạc hà vương vóc liễu theo áo lụa em về dọc bờ sông đỏ rưng sắc phượng. Ngôi trường trung học cao vời bóng tàng cây xà cừ chở che dãy phượng vừa lớn xanh mướt lá. Bóng mát cây kiền kiền trên lối Nguyễn Hoàng, Quang Trung, Thống Nhất che mát bầy áo trắng đường trưa. Con dốc nắng ướt lưng thiếu nữ, bịn rịn mái tóc thề như e ấp gọi mời chân ai theo bước lối về Ga. Giàn bông giấy trước sân nhà rực tím màu hoa khuất sau vách cổng cao vừa khép làm ngại ngần gã học trò lơ đãng lỡ chọn lối rất xa để trở về nhà. Những dịp nghĩ bất ngờ hai-giờ-sau dài theo chuyến phà qua sông, theo con đường dương liễu dẫn tới Mỹ Khê rộn sóng hay đạp xe thành bầy qua ngã Đò Xu êm đềm bến nước, chát chát chua chua trái ổi sân chùa Bà Quảng.

Ở đâu rồi những người bạn một thuở lớn lên. Đâu rồi chiếc nôi êm trong căn nhà kỷ niệm. Cơn lốc chiến tranh thổi tràn qua quê hương, quay cuồng trong đó một lũ người tuổi trẻ, chọn lựa, tan tác, điêu linh... Họ cùng trở nên già nua từ bên kia biển ngó về nhau, hoang mang một thời để nhớ, lồng lộng hoa niên.

Khá lâu rồi, ông tình cờ đọc bài viết từ trong nước của một người bạn thời trung học. Bài văn hay, thành thật nỗi gợi nhớ man mác về một mùa hoa sữa đơm hương trên thành phố miền Nam Trung Phần nơi gia đình anh sống từ gần ba mươi năm qua. Một loài cây hoa mang từ miền Bắc vào được trồng “đại trà” trên nhiều thành phố miền Nam sau năm bảy lăm. Bài viết còn nhắc đến “cốm mới” Hà Nội như một gợi nhớ để mà hoài niệm về cốm ở Quảng Nam, quê nhà anh đã bỏ đi để tha phương cầu thực bao năm. Bài viết mang lại cho ông một nỗi phiền hà. Phải chăng ông đã xa quê hương quá lâu hay bạn ông đang mất mát một quê xưa trong cõi lòng mình. Kỷ niệm là con đường ngắn nhất đến từ tim, không vòng vo, dừng lại, đi quanh. Nhớ về Nha Trang nào ai quên được hàng dương liễu dọc theo đại lộ Duy Tân, con đường ven biển từ Tòa Tỉnh đến Cầu Đá. Ôi Nha Trang! liễu xanh, biển xanh, khi mái tóc còn xanh... như lời thở than của người bạn lính lưu vong mỗi khi nhớ về thành phố biển quê nhà. Người bạn nhớ về những cây bàng gần trường Võ Tánh lá trở màu khi trời bắt đầu thu, nhớ “hàng me cao lá hát như reo” dẫn đến trường Nữ Trung Học dọc theo quân y viện Nguyễn Huệ. Như ông nhớ về tuổi thơ Đà Nẵng mát rượi bóng cây kiền kiền hay vết xước chùm trái chà là trên lối núi Phước Tường. Nhớ Đường Hàng Đoát nón lá che nghiêng và nước Bến Ngự êm đềm bóng tre của những ngày hè ở Huế. Quên sao đành, cho dù cơn lốc cuồng xoay vẫn thổi rạc rài qua từng mùa chướng. Kỷ niệm thật thà chỉ đến từ dòng sông, từ bóng mát tuổi thơ của riêng mình. Khác hơn, chỉ còn là một thất thoát thương tâm.

Sương lan kín mặt hồ. Nửa vầng trăng treo hao hớt chơ vơ trên nóc cánh rừng phong lá rụng, hư huyễn tìm bóng mình khuất chìm đâu đó dưới đáy hồ thu. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm vọng mơ hồ một bến bờ mãi kiếm tìm để dừng đôi cánh mỏi.

Người vợ đến bên ông tự lúc nào, bà choàng lên vai chồng tấm áo lạnh. Họ cùng bước qua khoảng vườn sau phủ bóng tối. Ánh lửa lò sưởi bập bùng đêm thu xa xứ...

Phan thái Yên

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Image

Con gà trống trong tuổi thơ tôi

Phan Hạnh

Nhớ lại hồi nhỏ ở quê nhà, tôi sống gần gũi với bao nhiêu là gia súc như gà vịt trâu bò heo ngựa chó mèo… Người trong làng nuôi chúng để rồi người ta giết chúng ăn thịt. Tôi đã chứng kiến cảnh người ta dùng chày giã gạo để đập đầu trâu, người ta bỏ chó vô bao bố để trấn nước, người ta thọc huyết heo, người ta cắt cổ gà vịt. Trẻ con vốn yêu thương thú vật, mỗi lần nhìn thấy người lớn giết một con vật nuôi, tôi không khỏi mủi lòng tội nghiệp. Tới lần con gà trống mà tôi thích cũng bị đem ra cắt cổ, tôi, thằng bé tám tuổi, không khỏi ngậm ngùi…

Sáu giờ sáng ngày hôm ấy, như thường lệ, tôi thức dậy sớm đi ra ngoài chuồng gà bên hông nhà để rải một mớ thóc cho mấy con gà ăn, đồng thời tôi cũng cho con mèo canh chuồng gà ăn luôn. Cảm thấy lành lạnh, tôi thử nhìn hàn thử biểu gắn trên vách chuồng do cậu tôi gắn; tôi thấy ghi mười lăm độ bách phân. Tôi nghĩ thầm, “Vậy thì chắc mấy con gà nằm co ro”. Đẩy cánh cửa rồi khom mình bước vào, tôi thấy ngay con Mướt, con gà trống hơi bướng bỉnh của cậu tôi, đang nằm bất động trên sàn xi măng.

Từ trước đến giờ tôi chưa hề bồng nó hay vuốt ve nâng niu nó. Mà nó cũng có bao giờ để cho tôi đụng tới nó đâu; cứ mỗi lần tôi tới gần là nó né ra xa. Cậu Ba tôi đặt tên cho nó là Mướt vì nó có bộ lông sáng mượt chiếu lấp lánh như màu vỏ ốc xa cừ. Cậu Ba tôi tên Nhàn nhưng số cậu vất vả đầu tắt mặt tối làm lụng cả ngày để nuôi một gia đình đông con. Tuy vốn liếng chữ nghĩa không nhiều nhưng cậu tôi có óc quan sát tinh tế bén nhạy, học lóm ở người khác rất giỏi, nhất là các phương cách canh tác và chăn nuôi. Má tôi thứ tư, em gái kế của cậu Ba. Trong thời gian Ba tôi rời quê Mỹ Tho lên Sài Gòn làm việc, Má tôi cùng các con phải nấn ná tá túc ở nhà cậu tôi, phụ giúp công việc. Công việc hằng ngày của tôi là lo châm bình trà cho ông ngoại và cho gà ăn buổi sáng.

Tôi quỳ xuống bên Mướt; nó vẫn không lay động. Tôi vỗ vỗ lên cánh nó và dường như nó cục cựa đôi chút. Tôi nghĩ chắc con Mướt gần chết, và tôi ngạc nhiên với chính tôi là sao mình cảm thấy buồn ghê. Con Mướt nhìn tôi bằng cái nhìn có vẻ hoang mang và giận dỗi, một cái nhìn như ngầm bảo “tôi không cần đến sự thương hại của bạn”.

Nhớ lại, cậu tôi đem nó về từ vườn nhà ông Tư Gòn và nuôi nó đã được gần hai năm nay, một khoảng thời gian đủ dài để có vài chuyện xảy ra làm cho tôi nhớ mãi. Lần đó, một con diều hâu táo bạo đã sà xuống chuồng gà và định xớt một con gà mái; tôi không biết có nên gọi đó là vợ của con Mướt không. Nhát, tên của con gà trống khác cùng lứa với con Mướt, có thể là anh em của Mướt không chừng, vừa thấy bóng con diều hâu là bỏ chạy trốn thụt mạng.

Nhưng Mướt thì khác; nó hiên ngang kháng cự và chiến đấu với kẻ gian. Nó xòe cánh nhảy tưng lên đưa hai chân đá con diều hâu, cương quyết bảo vệ đồng loại. Nghe tiếng gà la xôn xao, cậu tôi cầm cây sào chạy ra; con diều hâu hoảng sợ bay đi, hụt một chuyến săn táo bạo và một con mồi béo bở.

Danh dự và bầy đàn gia đình gà của Mướt còn nguyên vẹn nhưng chân trái của nó đã bị móng vuốt của con diều hâu gây thương tích thành tật mãi mãi. Kể từ đó, nó bước đi khập khiễng như một thương binh anh hùng trở về từ trận mạc. Tôi gần gũi với Mướt một phần vì tôi cũng có cái chân trái yếu làm cho tôi bước đi không vững tuy chưa đến nỗi cà thọt. Mướt đã cho tôi niềm cảm hứng qua việc nó đã không chịu đầu hàng, không đánh mất nhân phẩm hoặc từ bỏ nhiệm vụ của mình.

Tôi xin kể sơ lý do tại sao cái chân trái của tôi bị yếu. Hôm đó giờ ra chơi, thầy giáo trường làng cho học trò chạy đua từng cặp, đứa thua phải cõng đứa thắng chạy một vòng. Hồi đó học trò chúng tôi toàn đi chân đất, chẳng có đứa nào mang dép mang giày như bây giờ. Tôi thắng nên được cõng. Nhưng trong lúc cõng tôi chạy, đứa thua đạp gai cây mắc cỡ nên rụt chân và mất đà, té quăng tôi nhào xuống đất; xương bánh chè đầu gối chân trái tôi chạm mạnh xuống một cục gạch và trở nên yếu mãi về sau. Tôi thấy con gà trống Mướt giống thân phận tôi nên tôi thương.

Mướt trung thành làm tròn nhiệm vụ gáy sáng khi trời hừng đông, và sau đó cứ khoảng mỗi giờ nó gáy một hiệp suốt cả ngày. Mướt luôn luôn đi theo ba con gà mái vợ của nó kiếm ăn khắp nơi trong khu vườn rộng của cậu tôi, cố gắng ra sức hỗ trợ và bảo vệ ba bà vợ. Nếu một con gà mái lang thang quá xa hoặc nếu con chó vườn nhà bên cạnh xuất hiện để uy hiếp, Mướt can thiệp ngay.

Mướt kết bạn với con Vện, con chó giữ nhà của cậu tôi. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy con Mướt và con Vện hay xuất hiện bên cạnh nhau dưới gốc cây xoài, cây bưởi hay cây mận dưới ánh nắng mặt trời lốm đốm trong khu vườn nhà cậu tôi. Những lúc rảnh rang, tôi hay quanh quẩn trong vườn để săn trái chín. Tôi thích leo lên cây ổi ngồi vắt vẻo nơi cháng ba hái ổi ăn ngay tại chỗ. Có khi tôi còn đem theo gói muối ớt để chấm. Tan học, tôi cố đi thật lẹ để về trước và thăm gốc cây xoài tượng trước, nhất là mấy hôm có gió mạnh. Tôi biết chắc hễ có gió là có xoài chín rụng. Xoài tượng hườm hườm chấm nước mắm đường ăn ngon hết biết.

Khi trời chạng vạng chập tối, con Mướt gom và điểm danh mấy con gà mái vợ rồi hộ tống chúng vào chuồng. Mướt cố sức nhảy lên giường ngủ của nó là ổ rơm trên sàn tre. Suốt đêm, Mướt còn phải để mắt trông chừng sự đột nhập của rắn và chồn. Chồn lẻn vào chuồng gà thì tôi chưa thấy nhưng tôi đã thấy rắn bò quanh quẩn định lẻn vô chuồng gà. Tôi la hét um sùm lên, mấy người anh họ, con của Cậu Ba, chạy tới bẻ nhánh cây quơ đuổi con rắn chạy mất vô bụi tre. Tôi rất sợ rắn vì tôi đã từng bị nó rượt ngoài ruộng khô khi tôi đi bắt dế.

Trở lại với con Mướt nằm ngất ngư sáng hôm đó, tôi nghĩ số nó đã tới lúc bị bỏ vô nồi nước sôi. Tôi không biết phải làm sao. Tôi bồng nó lên và vuốt đầu vuốt lưng nó. Thường thường nó rất ghét ai đụng tới nó, nhất là cái mào, cái mão vua ban, cái vương miện của nó. Đương nhiên là lúc đó nó có muốn tránh tôi cũng không được. Tôi lo sợ lắm. Nếu tôi nói lại với Cậu tôi là con Mướt bịnh thì thế nào nó cũng bị đem đi làm thịt. Tôi nghĩ làm cách nào để cứu nó đây? Hồi xưa ở làng quê làm gì có bác sĩ thú y mà cũng chẳng ai bỏ công sức để cứu sống một con thú vật nhà, chôn còn không có.

Sợ con Mướt bị đem đi làm thịt trong lúc tôi đi học, hôm đó tôi bèn ẵm nó theo tới trường. Bề nào nó cũng đã yếu, đâu thể chạy nhảy quấy rầy ai. Tôi chỉ cần bỏ nó vô cái túi xách, che đậy hờ bằng một cái khăn cũ, xong xách nó theo. Thằng Ngọ lớn hơn tôi một tuổi ngồi kế tôi trong lớp cũng là đứa thương thú vật. Nó nói con Mướt khát nước; nó vạch mỏ con Mướt rồi nhổ nước miếng vô đó. Vậy mà con Mướt nhấp nhấp rồi nuốt hết. Tôi ngạc nhiên hỏi thằng Ngọ “Ai dạy mầy ngộ vậy?”, nó nói nó thấy chú nó nuôi gà đá thường hay làm như vậy đó. Vậy mà một lúc sau con Mướt tỉnh táo ra; nó khua rột rột trong cái giỏ đệm để dưới chân tôi. Tôi mừng quá. Tới giờ ra chơi, cả đám bạn tôi cùng nhau đi bắt cào cào cho con Mướt ăn. Có đứa bắt được cả dế mọi và chuồn chuồn. Tôi sung sướng khi thấy con Mướt ăn được và ăn khỏe. Thằng Ngọ có kinh nghiệm nói “Cho nó ăn bao nhiêu đó đủ rồi, đừng cho nó ăn nhiều quá bội thực chết.”

Giờ học còn lại, thầy giảng mặc thầy, tôi có theo dõi gì đâu. Lòng tôi đang rộn rã niềm vui vì con Mướt sống lại rồi. Nó đang động đậy rột rột dưới chân tôi. Tôi phải xỏ quai túi vô cổ chân để cho con Mướt khỏi chạy.

Xế chiều, học trò trong lớp đứa nào cũng buồn ngủ; có đứa không cưỡng được nên gục đầu xuống bàn, bị thầy phạt, bắt đứng cuối lớp nhún lên ngồi xuống hai chục lần, gọi là thụt dầu. Tiếng thầy giảng đều đều, đám học trò lơ mơ im lặng vì buồn ngủ và mong cho mau tới giờ tan học. Nhưng thay vì nghe tiếng trống thùng thùng, tôi nghe dường như có tiếng gà kêu “cót cót” nho nhỏ văng vẳng đâu đây không phân biệt được xa gần. Hóa ra nó phát ra từ ngay dưới chân tôi. Tôi lo ra, quên là mình đang ngồi trong lớp học; tôi hét “Nó kêu!” Đám bạn tôi giật mình tỉnh ngủ. Tôi giật mình trở về với thực tại. Thầy giật mình chẳng hiểu chuyện gì, hỏi tôi “Chuyện gì vậy trò Hạnh?” Tôi thưa “Dạ thưa thầy em mừng vì con gà của em còn sống.” Thầy vẫn chưa hiểu. Bọn bạn tôi nhao nhao giành kể điều lý thú cho thầy nghe. Con Mướt lại kêu “cót cót” nho nhỏ một phát nữa. Thầy lắc đầu nhìn đồng hồ tay phán “Tan học” vừa lúc tiếng trống tan trường vang lên. Lũ học trò chúng tôi chỉ chờ có vậy là phóng nhanh ra cửa.

Rời trường làng, tôi ẵm con Mướt trong tay, cảm thấy hơi ấm sức sống của nó truyền qua cánh tay tôi. Tuy còn mệt nhưng nó cố cất tiếng gáy theo bản năng, thật tội nghiệp vì một con gà trống mà không thể gáy thì còn giá trị gì.

Đi về gần tới nhà trên con lộ đất rợp bóng dừa, nhìn qua cổng bông giấy nhà ngoại, tôi đã nhận ra chiếc xe gắn máy hiệu Goebel màu xanh lá cây quen thuộc của cậu Sáu tôi. Cậu từng đi học nghề nhiếp ảnh hai năm ở Sài Gòn và hiện làm thợ cho một tiệm chụp hình ở tỉnh lỵ Mỹ Tho. Thành phố tỉnh lỵ chỉ cách nhà ngoại tôi chừng mười cây số, vậy mà đối với thời đó như xa xôi cách trở lắm, hiếm khi tôi được đến. Cậu tôi về, tôi mừng vì có quà và được nghe cậu đàn hát cho nghe. Tôi cũng thích văn nghệ nhưng ông bà ngoại tôi không thích lắm, cậu Sáu tôi thỉnh thoảng mới đàn ca. Thấy tôi đi học về mà ôm theo con gà, cậu hỏi tại sao. Tôi kể cậu nghe đầu đuôi câu chuyện. Cậu nói “Nó bị nhiễm trùng đó, tán nhuyễn penicilin pha với chút nước đổ vô miệng nó ba ngày là hết đó mà”. Tôi chẳng biết penicilin là thuốc gì và rất phục sự hiểu biết của cậu tôi. Người ta nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” cũng phải vì cậu đã từng “du học” ở thủ đô Sài Gòn hoa lệ mà tôi chưa hề đặt chân tới. Tôi rụt rè hỏi cậu; cậu lấy từ trong chiếc cặp da ra hộp thuốc nhỏ, mở hộp đưa tôi xem viên thuốc trắng tí tẹo. Cậu nói đây là thuốc trụ sinh dùng để chữa trị các bệnh do vi trùng gây ra. Cậu đưa cho tôi ba viên, bảo tôi mỗi ngày tán nhuyễn một viên cho gà uống.

Cậu Sáu tôi lớn hơn tôi 12 tuổi, cả hai cậu cháu cùng tuổi Mùi con dê. Năm đó tôi 8 tuổi, cậu 20. Tôi kể cậu nghe vụ đứa bạn học trong lớp tôi cho cho gà hớp nước miếng. Cậu cười nói trong nước miếng có chất sát trùng. Nước miếng của loài vật có nhiều chất sát trùng hơn cho nên chúng hay liếm vết thương cho mau lành và chúng ăn thức ăn không sạch cũng không sao. Nghe cậu giải thích vậy tôi mới nhớ và tội nghiệp con Vện vì nó hay liếm giùm cái đầu gối thường xuyên bị trầy trụa của tôi. Tôi là vua chụp ếch, có nghĩa là vua té do đường trơn trợt, do leo trèo, do bước đi bất cẩn vấp ngạch cửa, bậc thềm. Bị nó liếm vết trầy đầu gối, tôi cảm thấy hơi rát rát nên khó chịu xô nó ra; bây giờ tôi mới hiểu là nó chỉ muốn giúp tôi thôi.

Tôi xuống bếp tìm Má tôi để chia sẻ nỗi vui mừng. Má vừa làm công việc vừa hỏi tôi huyên thuyên về con Mướt; tôi cũng háo hức kể lại hết cho bà nghe rồi nhờ bà tán giùm viên thuốc trụ sinh. Tôi pha thuốc với một chút nước cơm rồi dùng muỗng đổ cho con Mướt uống. Nước cơm là thức uống tôi ưa thích. Khi cơm sôi, Má tôi chắt nước cơm ra tô để nguội bớt cho tôi uống. Má nói nước cơm bổ. Bổ hay không tôi không biết nhưng tôi thấy nó ngon là được rồi, thơm thơm ngọt ngọt chẳng khác gì sữa mẹ.

Sau ba ngày uống thuốc, con Mướt đã bình phục kèm theo một sự thay đổi lớn. Đó là nó không còn tránh né tôi nữa. Mỗi lần tôi kêu “Mướt Mướt” thì nó đứng yên ngẩng đầu lắng tai nghe, xong nó ngó tôi, chờ tôi tới gần. Kể ra anh ta cũng tự ái chán, làm bộ như ta đây không ủy mị. Đương nhiên là ý chí của nó mạnh hơn tôi; con gà bao giờ cũng hùng dũng hơn con dê. Gà đá nhau chết bỏ chứ dê thì bỏ chạy. Tôi đau yếu một chút là tôi than van kêu cứu, còn Mướt đau, Mướt can đảm nằm chờ chết.

Tết năm đó tôi đau thật. Ba ngày xuân tiếng pháo nổ đì đùng, nhà Ngoại rộn ràng những lời chúc tụng, các anh chị họ của tôi áo mới xênh xang, tôi nằm ở buồng trong nặng đầu thiêm thiếp. Bánh mứt Má đưa cho tôi không rớ tới; Dì Bảy an ủi cháu “Tiền lì xì Dì cất riêng cho con nè, con đừng lo. Ráng mau hết bịnh đi con.” Mọi người đều dành chút thì giờ vào buồng hỏi thăm tôi. Ngay cả lúc mơ màng, tôi cũng nghe tiếng chân bước rón rén, tiếng nói khẽ khàng “Thôi để cậu nó ngủ, lát nữa trở lại”. Tôi đã quen với cách xưng hô ngọt ngào từ nhỏ sống trong đại gia đình của ông bà ngoại. Cậu mợ dì dượng đều gọi tôi là con; các anh chị họ tuy kém tuổi hơn tôi vẫn gọi tôi bằng em, bằng tên hay bằng “cậu nó”, cứ làm như họ đã lập gia đình, đã có con nên thay cho con gọi tôi là “cậu nó” . Tôi được nuôi dưỡng và lớn lên trong bóng mát tình thương dào dạt.

Một bàn tay áp lên trán tôi. Tôi mở mắt. Má tôi hỏi “Con thấy đỡ chưa con?” Má hỏi, “Con húp miếng nước cơm được không? Má có bỏ thêm một miếng đường phèn. Con húp nước cơm rồi ngậm miếng đường cho đỡ lạt miệng”. Tôi cảm thấy khát nước nên gượng ngồi dậy. Má tôi ngồi một bên, ôm vai và vuốt tóc tôi. Húp xong chén nước cơm còn ấm, tôi xuất mồ hôi, cảm thấy đỡ mệt. Chợt Má nói “Có khách tới thăm con kìa.” Tôi còn ngạc nhiên vì có thấy ai khác ngoài dáng dấp hình bóng dịu dàng của Má tôi đâu. Má chỉ tay về phía cửa buồng. Tôi nhìn. Đang đứng lấp ló ở đó là con Mướt. Tôi mừng gọi “Mướt! Lại đây.” Nó đứng ngó, chần chừ. Tôi lấy một sợi mứt dừa nhử nhử thì nó liền tiến lại. Tôi ngắt cọng mứt dừa làm đôi để trong lòng bàn tay. Nó ngóng cổ mổ ăn ngay. “Mướt giỏi nha.”, tôi vuốt cánh nó khen. Bộ lông cánh của nó bóng mượt đầy màu sắc trông rất đẹp.

Đến ngày Mùng Ba Tết, tôi hết bịnh nhức đầu, đi chúc Tết và mừng tuổi đông đủ mọi người, nhận tiền lì xì. Riêng Ba tôi từ Sài Gòn về quê ăn Tết đoàn tụ vợ con cho tôi một cây viết máy hiệu Parker. Tôi thử viết bằng cách vẽ con Mướt. Tôi vẽ tới vẽ lui năm lần bảy lượt rốt cục vò quăng hết vì tôi biết tôi không thể nào và sẽ không bao giờ vẽ được nét đẹp thực sự của nó.

Qua Tết, tôi nhận lại công việc dậy sớm cho gà và mèo ăn mà anh họ tôi đã thay tôi trong mấy ngày tôi nằm bệnh. Hè đến, Ba tôi về quê rước vợ con lên Sài Gòn sau khi đã dành dụm đủ tiền mua được một căn nhà sàn trong khu Bàn Cờ. Tôi xin đem theo con Mướt đặng nuôi nhưng cả nhà không ai chấp thuận cả. Ba tôi nói nhà sàn cất lêu khêu trên vũng nước không có lấy một mét sân đất thì làm sao nuôi gà được. Má tôi nói gia đình tôi đoàn tụ thì sao nỡ bắt con Mướt chịu cảnh phân ly với gia đình nó. Tôi bịn rịn giã từ các anh chị họ của tôi, giã từ khu vườn nhà đầy cây trái, giã từ luôn tiếng con Mướt gáy buổi sáng tinh sương đánh thức tôi dậy ra chuồng cho gà ăn. Mấy anh chị họ của tôi xách giùm đồ đạc, tiễn tôi ra tới lộ cái để chờ chuyến xe đò Gò Công-Sài Gòn. Rảnh tay, tôi bồng con Mướt lên ôm trong lòng. Nó giẫy giụa dùng dằng không chịu. Bực bội, nó mổ cho tôi một phát đau điếng; tôi đành phải thả nó xuống đất. Dù gì nó vẫn là con gà trống cứng rắn ngang tàng chứ không ủy mị nhút nhát như tôi.

Tết năm sau tôi theo Ba Má tôi về thăm quê ngoại thì con Mướt không còn nữa. Anh họ tôi kể diều hâu lại tấn công và con Mướt cũng chống cự. Nhưng chẳng may lần này con Mướt già yếu hơn trong khi con diều hâu to lớn khỏe mạnh hơn cho nên Mướt đã bị thương ở đầu và mắt, không còn thấy đường đi. Kết cuộc dành cho một con gà tật nguyền vô dụng ở quê nhà ngày xưa ra sao tôi đã biết. Nó trở thành một bữa ăn cho gia đình theo lẽ thường tình.

Sáu mươi lăm năm đã trôi qua, bước chân đi của tôi mỗi ngày một yếu hơn, đôi khi tôi chợt nhớ đến con gà trong tuổi thơ xa xưa với một nỗi ngậm ngùi. Một cái Tết chơ vơ lạnh lẽo nữa sắp đến nơi không có tiếng gà gáy sáng trên xứ người.

Phan Hạnh

User avatar
saohom
Posts: 2211
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

OAN HỒN
Phạm Thành Châu
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Cựu tù chinh trị, hiện định cư tại Virginia, đã góp bài cho Việt Báo Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Nhà văn Võ Phiến nhận xét về các nhân vật trong ba tập truyện của Phạm Thành Châu đã xuất bản, “phải kêu là tuyệt vời. Sao mà họ chung tình đến thế.” Sau đây, thêm một truyện ngắn của tác giả.
****

Đây là một chuyện ma, gần như thật, nhưng tôi phải viết sao cho vui, cho bớt rùng rợn, để quí bà khỏi mất ngủ vì sợ hồn ma mấy cô bồ quá cố của chồng mình về lôi chân, đuổi ra khỏi giường.

Vợ chồng tôi có hai cô con gái. Chúng tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm rồi lập gia đình. Tuy nhà hai đứa nó không xa chúng tôi lắm, nhưng chỉ chủ nhật, ngày lễ, chúng mới bồng cháu về thăm ông bà ngoại. Vợ tôi cứ than nhớ cháu, rồi bực mình gây gổ với tôi. Ngày nào cũng đem hình các cháu ra ngắm. Hình nào "dễ thương hết sức" thì bắt tôi đi mua khung hình về, bỏ vô, treo lên tường. Rồi đi lòng vòng ngắm cháu trên tường như người ta xem triển lãm tranh, miệng nở nụ cười hạnh phúc, miệng lầu bầu chửi "Tổ cha cái thằng… dễ ghét!" rồi bấm điện thoại gọi con, hỏi thăm các cháu.

Các con tôi bị quấy rầy mà không dám than phiền. Tôi biết thế mới gợi ý vợ tôi, tìm một cô, cho mướn phòng, buồn tình thì cứ nói chuyện với cô ta. Con gái tôi giới thiệu một cô bạn học. Cô nầy lớn tuổi hơn các con tôi, vừa đi học vừa đi làm, kiếm tiền giúp gia đình bên Việt Nam, nên cứ ạch đụi mãi mà chưa tốt nghiệp. Nhà tôi, phía sau có một phòng rộng, có lối đi riêng nên cô ta rất thích. Nhờ có cô sinh viên nầy mà tôi đỡ bị bà vợ bắt nghe chuyện nhớ cháu. Khi cô sinh viên đến trọ, bà nấu nướng món ngon vật lạ tặng cô ta, coi như trả công đã tốn thì giờ lắng nghe chuyện cháu ngoại của bà.

Khoảng vài năm sau, cô sinh viên tốt nghiệp đại học, đã nộp đơn đến các công ty để xin việc làm. Vợ tôi, xem cô sinh viên như con, nên nấu mấy món làm tiệc mừng tốt nghiệp cho cô ta rồi gọi vợ chồng hai cô con gái đem cháu về tham dự. Trong không khí gia đình vui vẻ, vợ tôi lại lên chương trình kiếm chồng cho cô sinh viên "Theo như ngày xưa, "Đại đăng khoa" rồi phải "Tiểu đăng khoa", nghĩa là thi đậu xong là phải lập gia đình". Cô sinh viên đỏ mặt vì mắc cỡ nhưng cũng nói "Ai mà thèm lấy cháu, cô ơi!". Hai cô con gái tôi cũng hăng hái tham dự vào một trong bốn cái ngu của thiên hạ (Làm mai, lãnh nợ, gát cu, cầm chầu). Mấy mẹ con hùa nhau khuyên bảo "Khi đi làm, hàng ngày đến sở, chỉ gặp toàn các ông có gia đình cả, ít có dịp hội hè, họp mặt để gặp các bạn trai độc thân. Chi bằng ráng kiếm trước một ông chồng cho chắc ăn. Để lâu thành gái già!" Bữa đó, ai cũng bị ép uống chút rượu, ngà ngà say, nên cô sinh viên cũng bạo dạn nói "Nhờ cô với hai chị kiếm giùm."

Vợ tôi chợt nhớ ra là tôi có một cậu "bạn cà phê" vong niên. Anh ta gần bốn mươi tuổi, đã tốt nghiệp đại học, có việc làm đàng hoàng. Sáng chủ nhật nào cũng lái xe đến đón tôi đi ăn điểm tâm rồi ra tiệm cà phê Starbucks ngồi trò chuyện. Tính tôi ham vui, đôi khi anh ta đưa tôi đến các tiệm cà phê của bọn trẻ, tiếng nhạc với tiếng cãi cọ, cười đùa nghe điếc tai mà tôi vẫn chịu đựng được. Có điều lạ là, bọn thanh niên thích bàn chuyện đàn bà, con gái nhưng anh bạn trẻ của tôi chỉ ngồi nghe chứ không quan tâm. Ngay cả khi cô bưng cà phê, vừa đẹp vừa hấp dẫn, mặc áo quần "xuyên bang" (mỏng) đứng gần, mà anh ta cũng chẳng thèm nhìn. Đôi khi, cô ta như tựa cái bụng vào vai anh ta, anh ta né tránh.

Tôi đưa ra nhận xét đó với vợ tôi và lưu ý rằng, nếu giới thiệu anh chàng bất bình thường nầy cho cô sinh viên, sau nầy rủi có chuyện gì không hay, cô ta ắt sẽ phiền trách gia đình tôi. Vợ tôi vẫn khăng khăng "Ông không thích thì để mẹ con tôi lo. Bữa nào ông mời hắn đến đây ăn cơm, tôi đứng ra giới thiệu cho hai đứa làm quen. Con nhỏ đẹp đẽ, nết na, thằng nào không ưng?"

Vậy là tôi phải mời anh chàng dị ứng với phái nữ đó đến dự bữa cơm gia đình. Được sắp xếp ngồi bên cạnh người đẹp mà không thấy anh ta hăng hái trong việc chinh phục cô gái, tuy có hỏi chuyện, có bỏ thức ăn vào chén cho cô ta, nhưng rõ ràng chỉ làm bổn phận bình thường. Cô gái thì vẫn giữ kẽ, không tỏ vẻ gì đặc biệt. Xong bữa ăn, chờ cho cô sinh viên về phòng, vợ tôi và hai cô con gái giữ anh chàng kia lại và bắt đầu đặt những câu hỏi.
Anh ta và gia đình tôi cũng ở chỗ thân tình, vợ tôi chẳng khách sáo gì nên câu hỏi có hơi sỗ sàng; "Anh thấy người đẹp lúc nãy ra sao mà coi bộ lơ là?" Anh chàng chỉ cười "Dạ, cô Mai cũng đẹp lại hiền lành."Vợ tôi bắt đầu ca tụng cô sinh viên đủ điều "Nó ở đây với chúng tôi mấy năm nay mà không hề thấy bạn trai, không hề chưng diện. Đi học, đi làm về là phụ với tôi nấu nướng, dọn dẹp như gia đình của nó. Nó mà trang điểm vô thì phải biết. Đẹp lắm! Ai mà được nó làm vợ thì sướng như tiên. Bây giờ nó lại tốt nghiệp đại học, sắp sửa đi làm, lương hướng đâu có thua ai... Ủa! Sao anh lại cười? Bộ tôi nói không đúng sao? Hay anh chê nó?" "Dạ, cháu đâu có chê cô ta, nhưng cháu có lý do riêng. Cháu không có ý định lập gia đình nên không dám nghĩ đến cô Mai".
Vợ tôi khựng lại, vợ chồng hai đứa con gái tôi, tuy ngồi xa, đang dõng tai lên nghe lén, cũng thở dài thất vọng. Mọi người nghĩ, có lẽ anh ta không bình thường về sinh lý. Chuyện đó không nên đề cập đến vì kỳ cục, đáng mắc cỡ. Tuy thế, vợ tôi cũng kể lại cho cô Mai nghe chuyện làm mai thất bại, nhưng lại kết luận "Nó khen con đẹp, hiền giỏi giang đủ thứ, nhưng có lẽ nó "lại cái" hay sao đó nên coi bộ lơ là. Để cô điều tra thêm mới biết tại sao" Cô gái giẫy nẩy lên "Cô làm vậy kỳ lắm! Làm như con mê anh ta, bắt cô phải dụ dỗ anh ta cho con."

Thế là bao nhiêu hăng hái, thiện chí của vợ tôi xẹp xuống như bong bóng xì hơi. Tôi nói với vợ tôi "Bọn nhỏ bây giờ chịu nhau thì tự động tìm đến, bàn tính, giao hẹn với nhau như người ta mua bán hàng hóa vậy, không như thời xưa đâu. Bà làm nghề mai mối, lỗi thời rồi." Vợ tôi vẫn còn tức "Ông biết gì về thằng đó không? Mấy năm đi uống cà phê với nó, có nghe nó nói gì về bịnh hoạn, hay dị tật gì trong thân thể nó không?" Tôi cự ngay "Tôi có phải bác sĩ đâu mà đi hỏi chuyện sinh lý của người ta! Tôi chỉ biết là nó không hề để ý đến đàn bà, con gái nên tôi lưu ý bà, đừng làm chuyện tào lao mà thêm phiền." Vợ tôi vùng vằng "Để đó, tôi phải điều tra cho ra, tại sao con Mai đẹp như vậy mà không chịu? Tôi thấy, hình như nó có nhìn con Mai, nhưng nhìn trộm, kiểu như ông nhìn gái mà sợ tôi bắt gặp." Tôi tức cười "Bà đừng đem tôi ra mà suy luận. Bà phải phân biệt cái nhìn của tôi với người khác. Tôi nhìn người đẹp vì nghệ thuật, vì vẻ đẹp nhưng không ham muốn. Thằng đó mà nhìn con Mai giống như tôi thì coi như bỏ đi rồi, đừng bao giờ nghĩ tới chuyện mai mối mà bị con Mai trách móc sau nay." Vợ tôi tự nhiên nổi xùng "Xí! Ông mà nghệ thuật. Nghệ thuật gì ở chỗ ngực, chỗ đùi người ta? Không có tôi, ông đi tới trời." Hễ thình lình nổi ghen, vợ tôi thường lôi những chuyện "xưa rích" ra đay nghiến. Tôi không thèm cãi lại, chỉ hỏi "Bây giờ nói chuyện tôi nhìn gái hay chuyện làm mai?" Bả không thèm nhìn tôi "Ông muốn nói chuyện gì tôi cũng nói được. Đừng làm bộ vô tội... Tôi muốn hỏi ông. Thằng đó có thích con trai không? Nó có cập kè với thằng "bê đê" (lại cái) nào không?" "Tôi thấy nó cũng bình thường chứ chẳng cập với thằng "bê đê" nào cả." "Vậy thì tuần tới lại mời nó đến nhà mình ăn cơm, để tôi biết chắc nó có nhìn trộm con Mai thật không?" "Bà muốn thì tự làm lấy, coi như tôi không tham dự vào chuyện mai mối của bà." Đàn bà tinh mắt hơn đàn ông, tôi để ý mới thấy.

Bữa cơm sau đó, anh ta quả có nhìn trộm con nhỏ Mai. Cái nhìn đầy nam tính nhưng lại có vẻ lén lút, như sợ ai bắt gặp. Cả đến việc anh ta chuyện trò hay bỏ thức ăn cho con nhỏ cũng lấm lét, như vụng trộm, mặc dù anh ta biết, gia đình tôi mời đến ăn cơm là để anh ta tán tỉnh con nhỏ Mai. Lẽ ra, nếu anh ta thích thì cứ mạnh dạn, công khai tỏ tình với người đẹp. Tại sao phải lén lút? Có uẩn khúc gì đây? Tuy nghĩ vậy nhưng vợ chồng tôi làm như không biết, cuối tuần vẫn mời cơm và sắp xếp cho hai cô cậu ngồi gần nhau. Ít lâu sau vợ tôi quyết hỏi anh ta cho ra lẽ.

Một buổi chiều thứ bảy, trong nhà chỉ có vợ chồng tôi và anh chàng dị ứng với đàn bà đó. Vợ tôi tính nóng lại xem anh ta như em cháu nên hỏi ngay "Anh thấy con nhỏ Mai ra sao? Có ưng không? Tôi làm mai cho." Anh ta có vẻ lúng túng "Thú thật, cháu để ý cô Mai từ lâu, nhưng cháu đã lỡ hứa là sẽ không bao giờ lấy vợ, nên cháu không dám tiến xa hơn. Ngay đến chuyện nhìn đàn bà con gái cháu cũng không dám". Vợ tôi kinh ngạc và nổi xùng "Ai cấm anh lấy vợ? Ai cấm anh nhìn đàn bà con gái? Người nào có quyền gì mà cấm chuyện lạ đời đó? Đến ông tổng thống Mỹ cũng không có quyền đó. Anh nói tôi nghe. Ai cấm? Hay anh có bịnh gì nên bác sĩ cấm anh? Hay anh lại cái?" Tưởng mắc cỡ vì bị nói là "lại cái", nhưng anh ta chỉ cười "Đúng ra không phải là người nào cấm mà là lời nguyền của cháu với vong linh một cô gái. Cháu đã hứa với vong linh cô ta là, suốt đời, cháu sẽ không lấy vơ."
Tôi không muốn rây vô chuyện mai mối phiền phức nên ngồi uống trà ở bàn ăn. Khi nghe hai tiếng "vong linh", vợ tôi biết là chuyện ma nên hơi ngán, bèn bảo tôi "Ông qua đây tiếp chuyện, tôi đi nấu miếng nước". Đàn bà, trẻ con, càng sợ chuyện ma, càng muốn nghe. Biết vậy nên tôi bưng tách trà qua xa lông và nói với anh ta "Khi hứa với người đã khuất thì phải giữ lời, vì với người còn sống mình có thể giải thích được chứ với ma thì nói ai nghe?!" Vợ tôi cự ngay "Ông phải để cho anh ta kể hết sự việc xem sao, chưa chi đã bàn ra".

Anh ta cúi xuống, dùng tay vạch mái tóc để lộ một vết sẹo dài cỡ nửa tấc. Vết sẹo như một cái rãnh nhỏ, một lớp da mỏng che xương sọ trắng xám giữa đám tóc đen và cứng như rễ tre. Vợ tôi đến nhìn, rồi ngồi xuống, hóng chuyện.
"Cháu bị chúng chém. Tưởng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống được." Vợ tôi sốt ruột "Ai chém anh? Vì sao chúng chém?" Anh ta uống chén trà rồi mới thong thả nói "Sau bảy lăm (1975), cháu học xong trung học nhưng không được vào đại học vì lý lịch. Ba cháu, là sĩ quan Cộng Hòa, đi tù cải tạo. Vợ cháu cũng có cha đi tù. Hai gia đình quen thân nhau từ trước, đều ở trong trại gia binh. Năm bảy lăm, mọi người đều bị đuổi ra khỏi trại gia binh. Gia đình cháu phải về quê ngoại ở Mỹ Tho. Hai gia đình gom góp tiền vàng cho hai đứa cháu vượt biên. Bữa đó tổ chức tiệc cưới, mời chính quyền xã, ấp, nhất là công an địa phương đến nhậu nhẹt say mềm. Chúng cháu làm như đi rước dâu, đến khuya, đám rước thay vì về nhà trai lại chạy thẳng ra cửa biển. Như vậy, chúng cháu chưa gần gũi nhau bao giờ. Thuyền lênh đênh trên biển được năm ngày thì gặp hải tặc Thái Lan. Chúng chém đàn ông, con nít rồi bắt đàn bà con gái qua thuyền chúng. Cháu nhào đến cứu vợ cháu thì bị chém vào đầu, ngã gục. Hôm sau tỉnh dậy, trong thuyền chỉ còn xác chết với mấy người bị thương nặng. Theo lời kể lại thì vợ cháu thấy cháu bị chúng chém chết, bèn vùng vẫy và nhảy xuống biển tự tử. Lúc đó, cháu tin rằng mình cũng sắp chết vì thuyền bị bọn hải tặc húc, tràn nước, sắp chìm, nên cháu khấn với vong hồn vợ cháu "Em sống khôn thác thiêng, xin chờ anh. Anh bị thương nặng, thuyền sẽ chìm, anh sẽ chết. Hai linh hồn mình sẽ được bên nhau mãi mãi. Nếu còn sống, anh thề không lấy vợ, sẽ ở vậy thờ em cho đến ngày anh chết, sẽ được gặp em". Không ngờ, vừa lúc có một thương thuyền đi ngang qua, nhìn thấy, bèn cứu lên tàu. Không ai hiểu sao, với vết thương nặng như vậy mà cháu sống sót được? Cháu qua Mỹ, cố gắng học, kiếm việc làm để gửi tiền về Việt Nam cứu giúp hai gia đình." Vợ tôi hỏi "Từ đó đến nay, anh có bao giờ thấy vợ anh hiện hồn về không?" "Dạ không! Nhưng cháu tin rằng, vong linh vợ cháu lúc nào cũng ở bên cháu. Cháu lập một cái trang nhỏ làm bàn thờ, để di ảnh vợ cháu lên, mỗi ngày đều thắp nhang. Đi làm về, cháu ghé tiệm cơm, mua thức ăn về, đặt lên trang thờ, cúng vợ cháu, sau đó, dọn xuống, mời vợ cháu cùng ăn. Đi đâu, làm gì, cháu cũng kể cho hồn vợ cháu nghe."

Vợ tôi tưởng như hồn cô gái cũng ngồi trong phòng, nên ngồi sát vào tôi, coi bộ cũng ngán nhưng vẫn hỏi "Có bao giờ anh thử làm quen, chuyện trò thân mật với một cô gái nào đó chưa? Nếu hồn vợ anh còn ở bên anh, sẽ tìm cách để anh hiểu là cô ta không bằng lòng. Cô ta sẽ hiện hồn cho anh thấy chẳng hạn. Anh thử lần nào chưa?" "Thực tâm, cháu không muốn làm vong linh vợ cháu buồn tội nghiệp. Cái chết của vợ cháu quá đau thương nên dù có cảm tình với cô nào cháu cũng ngại. Cứ tưởng tượng, cháu đang thân mật với cô nào đó, linh hồn vợ cháu đứng bên cạnh, mặt buồn xo vì bất lực, không có cách nào cho cháu hiểu là cô ấy buồn lắm..." Tôi lên tiếng "Anh nên nghĩ rằng, linh hồn vợ anh buồn vì thương yêu anh mà không có cách nào phục vụ, săn sóc, an ủi anh, nhất là những khi anh đau ốm. Cô ấy biết rõ, anh cần một người thay cho cô ấy lo cho anh. Anh không thể sống độc thân mãi được. Theo tôi, chết là hết, nếu còn thì đã siêu thoát hoặc đi đầu thai kiếp khác rồi. Anh phải lấy vợ, sinh con, thương yêu gia đình nhưng vẫn tưởng nhớ, thờ phụng, giỗ quải chu đáo cô vợ trước là đủ bổn phận với người quá cố rồi."

Vợ tôi tưởng có chuyện ma hiện hình nên sợ, đến khi nghe kể thì chẳng có ma quái gì, lại nghe tôi bàn tính hợp ý, nên thúc hối "Chết là hết. Anh để ý con Mai thì nên tiến tới, đừng để nó xin được việc làm, đi xa thì "xôi hỏng bỏng không". Không có cô nào hoàn hảo như con Mai. Tôi bảo đảm với anh, sau nầy cưới về, có gì không bằng lòng nó thì cứ lôi tôi ra mà mắng vốn." Anh ta có vẻ xiêu lòng.

Chúng tôi bàn tính, đưa ra một chương trình giúp anh ta tiến đến với cô sinh viên Mai. Trước hết, anh ta về khấn với linh hồn cô vợ, nếu không bằng lòng thì cho biết, hoặc trong giấc mơ hoặc một hiện tượng nào đó, ngược lại thì sẽ không có chuyện gì xảy ra, rồi thì hai người, anh ta với cô Mai sẽ gặp nhau, tìm hiểu, nếu hợp ý thì tiến hành lễ cưới. Trước khi ra về, anh ta dặn chúng tôi là đừng cho cô Mai biết gì về chuyện riêng (ma) đó của anh ta.

Tối đó, chờ cô Mai về, vợ tôi lò dò vô phòng cô ta, tỉ tê, to nhỏ cả buổi rồi lên bảo tôi "Xong rồi! Để hai anh chị làm thân với nhau, mình khỏi phải làm phiền chúng nó nữa." Tuy nói vậy chứ vợ tôi vẫn cứ tò mò hỏi chừng cô sinh viên, tình hình ra sao? Thì ra họ đã hẹn nhau đi ăn tiệm, đi shopping, xem phim... Cô gái đã có việc làm, anh chàng kia thì đã mua nhà từ lâu nên chuyện sống chung của hai người không thấy trở ngại nào.
Khoảng ba tháng sau, cả hai báo cho chúng tôi biết, họ sẽ làm đám cưới và nhờ chúng tôi việc thực hiện các nghi lễ truyền thống như lễ hỏi, lễ cưới. Về tiệc cưới thì có nhiều bạn học giúp tổ chức, sắp xếp. Mọi việc, chúng lo hết... Vì cha mẹ của cô dâu, chú rể đều còn ở bên Việt Nam nên phải nhờ tôi thay mặt cho nhà gái, một gia đình khác đại diện nhà trai.

Tối đó, tiệc cưới chấm dứt lúc mười hai giờ khuya, chúng tôi không quen thức khuya nên về đến nhà là lăn ra ngủ vùi. Khoảng hai giờ sáng, chuông điện thoại reo, vợ tôi bắt lên nghe "Cô đây! Sao? Muốn về đây hả? Bây giờ con đang ở đâu? Để cô nói chú mở cửa đón con. Năm phút nữa hả? Được. Bye con!" Vợ tôi bảo "Ra mở cửa đón con Mai. Không hiểu có chuyện gì mà nó bỏ chồng về đây?" Tôi lầu bầu "Làm mai thì phải ráng mà lãnh!"

Tôi vừa mở cửa thì xe cô Mai cũng vừa ngừng trước sân. Cô ta chạy ào vô nhà, không kịp tắt máy xe. Tôi ra tắt máy xe, vào nghe xem chuyện gì đã xảy ra? Thấy cô ta ôm vợ tôi cứng ngắc, không nói tiếng nào, người run cầm cập. Vợ tôi cũng đâm hoảng, hỏi dồn dập "Có chuyện gì vậy?" Hỏi hoài mà chỉ nghe cô ta vừa thở vừa lí nhí trong miệng, chẳng hiểu gì cả!
Một lúc sau cô mới nói rõ "Ảnh nuôi ma trong nhà!" Vợ tôi nghe thế co rúm người lại "Ma nào? Ông ra đóng cửa lại mau. Coi chừng nó theo vô nhà. Con thấy con ma như thế nào?" "Con không biết! Con ma đàn bà. Ghê quá! Nó nắm chân con lôi ra khỏi giường."

Hai người đàn bà tự mình làm cho mình khiếp sợ thêm, cứ vơ tay tìm cái mền. Tôi thấy buồn cười nhưng cũng giúp đắp kín mít hai người trong mền, chỉ để lộ hai cái đầu để tiện nghe họ đối đáp. Vợ tôi thì thào "Ông ra thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái cho con ma đi ra." Tôi dọa "Thắp nhang, chúng ngửi mùi thơm, kéo vào thêm đông vui. Muốn thắp thì thắp!" Vợ tôi nạt "Người ta đã sợ muốn chết còn nhát nữa! Ông đi nấu miếng nước, pha trà cho nó uống tỉnh trí."

Tôi đi pha trà, thêm cho mỗi người một viên thuốc chống dị ứng (làm cho buồn ngủ). Một lúc sau, cả hai đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ra xa lông nằm, gọi điện thoại đến chàng rể "Có chuyện gì mà cô dâu bỏ về đây vậy?" "Cháu không rõ. Vừa tắt đèn thì cô ấy bắt mở đèn vì cô bảo thấy có người trong phòng. Mở đèn một lát, cô vừa thiu thiu ngủ thì bỗng vùng dậy bảo "Anh nuôi ma trong nhà!" rồi chộp lấy chìa khóa xe, tung cửa chạy ra ngoài, lái xe đi. Nhưng cháu có thấy ma quái gì đâu?" "Anh có dẹp cái trang thờ vợ trước của anh chưa?" "Cháu đem di ảnh vợ cháu cùng với lư hương, chân đèn vào closet (ngăn treo áo quần). Trang thờ trống trơn." "Tôi nghĩ, anh nên thiết lâp lại trang thờ. để di ảnh người đã khuất cùng với đồ thờ lên cùng với lễ vật, sau đó anh thử khấn xin vong hồn người quá cố thông cảm cho anh mà bớt giận hờn, đừng phá cô Mai nữa." "Cháu định bán ngôi nhà nầy, nhưng chưa biết thờ di ảnh vợ cháu ở đâu? Vì nếu thờ nơi tụi cháu ở thì cô ta sẽ quấy phá Mai, không yên đâu!" "Chỉ còn cách là đến chùa xin mấy lễ cầu siêu rồi thờ luôn cô ta trong chùa để vong hồn được nghe kinh kệ, sớm siêu thoát. Tạm thời, đừng liên lạc với cô Mai, coi như chấm dứt để vong hồn cô ta khỏi ghen tương mà có thể làm hại cô Mai".

Sáng hôm sau, tôi trấn an cô Mai "Có lẽ cô nghe người ta kể chuyện ma nên bị ám ảnh chứ thời nầy làm gì có ma." Cô Mai vẫn chưa hết sợ "Tối hôm qua, cháu thấy rõ ràng một người đàn bà từ trong "closet" đi ra, đến cạnh giường chỗ chồng cháu nằm. Cháu tưởng ăn trộm, bắt chồng cháu mở đèn, thì chẳng thấy gì cả. Cháu nghi là nhà có ma nên sợ quá, trùm mền kín mít, ôm chồng cháu ngủ. Mới thiu thiu thì cháu thấy lạnh ở cổ chân. Cháu nghĩ mình để chân ngoài mền, nên co chân lại, không ngờ, chân cháu như có ai giữ lại bằng hai bàn tay lạnh ngắt, không co lại được. Cháu nhìn xuống thì thấy lờ mờ người đàn bà lúc nãy đang cúi xuống như cố lôi cháu ra khỏi giường. Cháu co chân kia, đạp cho bà ta một đạp rồi vùng dậy, lái xe về đây." Lúc đó là ban ngày mà vợ tôi cũng rút chân lên ghế. Đã sợ mà còn hỏi thêm "Con thấy con ma ra sao?" "Nó chỉ lờ mờ, nhưng cháu biết đó là một người đàn bà, tóc rủ trước trán, che không thấy mặt, hai cánh tay với mấy ngón tay chỉ còn xương, giống như hình chụp quang tuyến (X ray). Trước giờ cháu chưa hề thấy ma, cháu cũng không sợ ma, nhưng bây giờ cháu biết chắc là nhà đó có ma." Tôi đề nghị, cô Mai đừng liên lạc với chồng cho đến khi nào chuyện ma đó giải quyết xong. Mấy hôm sau tôi gọi cho chàng rể thì được anh ta kể lại như sau "Cháu theo lời chú, thiết lập lại trang thờ cùng với lễ vật, rồi cháu lên nhang, đèn và khấn rằng, tuy cháu vẫn thương yêu cô ta (người vợ quá cố), nhưng âm dương cách trở, chỉ có thể gặp nhau sau khi cháu giả từ cuộc sống trên thế gian nầy để về với cô ta. Hiện tại, cháu không thể sống một mình mãi vì sau nầy, khi lớn tuổi, bịnh hoạn, già yếu không ai săn sóc, mong cô ta thông cảm để cháu có một người bạn gái bên cạnh. Cháu nghĩ rằng, vợ cháu, thân xác đã tan rã nơi đáy biển, trong cõi u minh lạnh lẽo, chỉ còn cháu là nơi để linh hồn vợ cháu nương tựa tìm hơi ấm của tình vợ chồng. Nay có một người thứ ba chen vào, vợ cháu sẽ đau đớn, buồn rầu lắm. Cháu ôm di ảnh vợ cháu mà khóc, và khấn rằng. Nếu không muốn cháu lấy vợ thì báo mộng cho cháu biết. Nếu không báo mộng thì coi như bằng lòng…" Tôi bảo "Dù cô ta có cho anh lấy vợ nhưng không có nghĩa là cô ta không ghen, không thù hận người chiếm đoạt tình cảm của chồng mình." "Cháu nghĩ, khi một người đã chết rồi, linh hồn không thể ghen tương được nữa." "Tôi nghe người ta nói. Những người chết oan, chết thình lình, tức là bất đắc kỳ tử, thần thức không chịu rằng mình đã chết, không chịu đi đầu thai, lúc nào cũng tìm về với người thân. Cô vợ quá cố của anh, càng yêu anh khi còn sinh tiền thì lúc chết, linh hồn càng quấn quit bên anh, càng đau khổ, càng ghen tương, thù hận. Nó không để yên cho con nhỏ Mai sống với anh đâu. Nó chỉ cần nhác ma vài lần là con nhỏ Mai bỏ chạy ngay." "Chú nói có lẽ đúng. Khi cháu khấn đến đấy thì bỗng nhiên mấy cây nhang cháy bùng lên. Cháu thắp đợt nhang khác, nó cũng cháy bùng đến tận gốc. Cháu nghĩ nhang không được tốt, nên không thắp nhang nữa. Rồi thì đến lượt cây đèn cầy. Cháu vừa quay lưng là một cây đèn cầy bị tắt. Cháu thay cây khác, cũng vừa quay đi thì đèn tắt. Lần sau, cháu thắp đèn lên, vờ quay đi nhưng nhìn vào chiếc gương soi treo trên vách, thì thấy ngọn đèn như bị hai ngón tay vô hình bóp cái tim đèn, khiến nó dẹp lại, tắt ngấm chứ không như bị gió thổi, ngọn lửa phải nằm rạp xuống trước khi tắt. Hôm sau, cháu đến chùa, kể hết mọi sự cho vị sư trụ trì, thầy dạy rằng "Nhang cháy bùng, cháy cả chân nhang, thì gọi là "hóa hình nhang", là có sự giao cảm giữa hai giới âm dương. Một ngọn đèn bị tắt thì cứ nam tả, nữ hữu, theo đó mà biết người nam hay nữ sẽ bị hồn ma theo ám hại. Cái vong nầy là trinh nữ, là oan hồn uổng tử, đã thành quỷ, nên lộng hành, phải nhờ oai linh Phật Tổ, khuyến dụ nó chịu về chùa, rồi phải cúng giải oan cho nó trong bốn mươi chín ngày sau đó nó mới chịu qui phục Tam Bảo, nghe kinh kệ mà chuyển nghiệp lành, vãng sanh tịnh độ. Hồn ma thường rất sợ ánh sáng và tiếng động mạnh như tiếng pháo nổ, súng nổ. Vậy nên, khi đem di ảnh của cái vong nầy từ nhà về chùa phải đốt một trái pháo, giống như ở Việt Nam, khi di quan (khiêng quan tài ra khỏi nhà), người mình thường đốt pháo hoặc đập mạnh một cái nồi, niêu gì đó cho hồn bạch (hồn người chết) ra khỏi nhà cùng với quan tài. Hôm lễ đưa vong, thầy và các Phật tử hộ niệm sẽ đến giúp. Nhớ đem theo di ảnh của nó. Di ảnh thay cho thần chủ (bài vị) là nơi vong linh nó ẩn náu". Tôi khuyên anh ta không nên liên lạc với cô Mai trong một thời gian, khi nào xong lễ giải oan, yên ổn, hãy tính sau.

*****

Chúng tôi ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ, gần thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC). Mỗi năm, đến lễ quốc khánh Hoa Kỳ (July 4), buổi tối có đốt pháo bông, gia đình chúng tôi, gồm con, cháu, sau nầy có cô Mai, sinh viên ở trọ, kéo nhau lên thủ đô, gần cây bút chì để xem đốt pháo.
Quốc khánh năm nay, vợ tôi gõ cửa, rủ cô Mai cùng đi, thì cô không có trong phòng. Gọi điện thoại cầm tay, điện thoại đã đóng, gọi cho chồng cô, điện thoại cũng đóng. Khi mở phòng cô Mai, mới biết, tất cả những gì của cô đã dọn sạch, chỉ thấy một mãnh giấy nhỏ có giòng chữ "Vợ chồng cháu sẽ gửi thư cho cô sau." Cả hai đã bí mật, lặng lẽ dọn đi nơi khác, có lẽ sợ hồn ma cô gái kia đi theo.
Hai tháng sau, chúng tôi nhận được một lá thư, không ghi tên, không địa chỉ người gửi, dấu nhật ấn bưu điện cho thấy thư được gửi từ một thành phố rất xa. Chỉ vỏn vẹn mấy giòng: "Tụi cháu không dùng tên cũ trong giao tiếp với bạn bè, không gọi nhau tên thật. Hôm quốc khánh, hai đứa cháu đi hai chiếc xe riêng, lấy bột màu bôi khắp mặt mũi, chân tay, đến chỗ cây bút chì trên Washington DC, ngồi hai nơi cách xa nhau, chờ đốt pháo bông. Khi ánh chớp và tiếng pháo nổ rộ lên (thầy trụ trì nói. "Nó" có theo chồng cháu đến đó mà nghe pháo nổ, ánh sáng xanh đỏ khắp nơi, ắt phải hoảng kinh bỏ chạy), nhân dịp đó chồng cháu lái xe chạy trước, cháu chạy sau. Tụi cháu đi suốt đêm. Xa lắm… Vì đã xin việc từ trước nên cuộc sống tụi cháu không có gì trở ngại. Từ hôm đó đến nay cháu không còn bị quấy rầy nữa. Cầu mong Phật tổ từ bi, cứu độ cho "chị ấy" hiểu thấu lẽ vô thường, không còn đau khổ, lưu luyến cõi trần mà siêu thoát vào cõi hư vô. Vợ chồng cháu rất cám ơn cô chú. Chúc cô chú sức khỏe".
Đọc xong thư, tôi đưa cho vợ tôi đọc. Bả đọc mấy giòng đầu đã co chân lên ghế, đến cuối thư thì mặt mày xanh lét, vội vất lá thư đi. Tôi dọa "Con ma đó không theo được với thằng kia nên "tạm trú" ở đây. Nó đang đọc chung thư với bà đó. Để tôi đến chùa, mời thầy trụ trì đến "tiếp dẫn" nó về chùa."
Tôi đi lấy chìa khóa xe để đi chùa. Mọi khi đi đâu, tôi phải chờ nửa tiếng để vợ tôi trang điểm. Nay thì chả phải trang điểm, ăn diện, vừa nghe tôi nói, bả đã phóc ra xe trước tôi, ngồi chờ mà mắt láo liêng, dòm chừng sau xe, tìm xem "nó" có "quá giang" ở ghế sau không? Tôi cười thầm, hỏi với giọng khiêu khích "Từ nay có còn đòi ngủ riêng hay vẫn tiếp tục ngủ chung với tôi?".

Nói xong tôi mới biết mình hớ! Nguyên nhân như thế nầy. Mỗi khi gây lộn với tôi, vợ tôi đòi ngủ riêng, tôi mừng trong bụng, chỉ cầu cho bả "nói là làm", nhưng tôi phải giả bộ đau khổ, lo lắng. Bả khoái lắm, thỉnh thoảng lại đem vụ "ngủ riêng" ra để đàn áp tôi. Bây giờ tôi trót dọa, trong nhà có con ma đó thì, tối vô giường, thay vì xô tôi ra như mọi khi, bả sẽ ôm tôi cứng ngắc, như thời mới cưới nhau. Con là nợ, vợ là oan gia. Tôi già rồi, gần chết rồi mà vẫn bị cái oan gia đó "ôm cứng ngắc!".
Khổ sở thế đó, nên, xin quí độc giả thân mến, nếu thương tôi thì xin cho tôi một thời kinh "Cầu Siêu" cho tôi sớm được phiêu diêu miền cực lạc. A Di Đà Phật!

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

GÓI QUÀ ĐẦU NĂM
Phạm Tín An Ninh

Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật ngồi dươi gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng ngồi nghe tiếng mõ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy lòng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền não.

Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im ắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ trì đi vắng. Tôi đã để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài dòng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.

Chú tiểu còn rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút nữa, vì thầy trụ trì đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao muốn sớm được nhìn mặt vị ân nhân của mình, nhưng cũng dặn lòng phải kiên nhẫn và cẩn trọng ý tứ trước một nhà sư.

Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi còn là cô bé học trò của trường huyện An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên QL 19 nối liền Qui Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi còn nhỏ, nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê tương đồi bình yên, nhờ Sư Đòan 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây, và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng. Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ, phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của mình.

Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hơp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới, thay thế lực lượng đồng minh, đồn trú ở đây.
- Tôi nghiệp, nghe nói anh em đã phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất gì đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.

Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi còn vui hơn khi tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy, kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía dưới. Vì “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai lá thư giống nhau như đúc. Nhìn hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ sẽ có hai “người tình không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết, đám học trò chúng tôi được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ý nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này còn phải hành quân mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo đèo An Khê, bị địch quân bao vây đã ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi tình hình an ninh cho phép. Bọn học trò chúng tôi tiếc hùi hụi vì mất một dịp được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.

- Nam Mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đã chờ tôi lâu lắm phải không ?
Câu hỏi của thầy trụ trì cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nhìn thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.
- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đình. Bà có muốn đi một vòng xem cảnh chùa không ? Xin mời bà.
Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.
- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đình tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.
- Mô Phật ! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.
Đi phía sau, nhìn dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt thì có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi thì lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.

Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm :
- Chính ở nơi đó, tôi đã tìm gặp chồng của bà

Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung (anh chỉ là thầy giáo, vì dạy một trường trong khu người Thượng, nên bị nghi ngờ hợp tác với lực lượng Fulro chống lại chính quyền, bị bắt năm 1979 ), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt biển do gia đình anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ cho gia đình. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu lòng, nên không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ sẽ có ngày tái ngộ.

Tàu vừa ra khơi hơn một ngày thì bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm tã. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba. Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió nhiệm màu đã đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đã thoát chết, nào ngờ khi vừa leo lên bờ thì bị một toán công an biên phòng vây bắt. Một số người yếu sức thì đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy mình nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ trì săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu, cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đò của một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này tìm đường để vượt biển tiếp.Và lần này anh đã đươc tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lãnh với diện đoàn tụ gia đình.

- Mô Phật! Tôi nghiệp, ông ấy đã về tìm thăm tôi hai lần, và giúp cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn lắm.

Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nhì về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đã nhìn kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đã ngồi hằng giờ hình dung, nhớ lại một người quen lúc trước.
- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng vì nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.
- Mô Phật ! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.
Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ trì, và thấy thầy đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đã nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đã quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng :
- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn mãi trong lòng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám .
Thầy nhìn tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng :
- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền não. Xin bà cứ tự nhiên
- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều gì không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế ?
Thầy ngạc nhiên nhìn tôi, rồi nhìn lên khoảng không, nhíu mày.
- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi ?
- Thầy còn nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư Đoàn 23 BB, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972 ?
- Bà còn biết cả bạn tôi? Anh Lân đã tử trận ở Kontum từ mùa hè 72 . Bà có biết không?

Tôi có một thoáng giận thầy, vì nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra mình. Chẳng lẽ thầy vô tình đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ý nghĩ của mình. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đã xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đã cho mình hỏi và sẳn sàng tâm sự đã là một điều hỉ xả rồi.
- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về tìm để xây lại ngôi mộ cho anh, thì nghĩa trang không còn nữa, và không ai biết mộ anh đã chuyển đi đâu .

Đôi mắt của vị trụ trì sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nhìn tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.
- Vậy là Xuân ? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ ngộ lạ lùng này.

Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học trò trường trung học An Túc ngày xưa. Người đã gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, vì lúc ấy đơn vị đang hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.

Sau một cái tết an bình, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học trò chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong lòng đám học trò ai cũng còn dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát hò và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học trò ca hát, thầy giám thị đến tìm tôi, bảo tôi lên văn phòng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà lòng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện gì, thì ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.
Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười :
- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới .
Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn :
- Em có làm gì đâu mà hai anh cám ơn ? Mà sao hai anh biết được tên em ?

Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đã “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, thì một anh lên tiếng :
- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua gì Phương Hồng Quế . Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công bình. Cám ơn nghe!
Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Hai anh tới trường tìm Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà ?
Anh lính thứ nhì, tên Quế, lên tiếng :
- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!

Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự bạo dạn hay không tôi khoanh tay:
- Nghe nói anh Quế hát hay không thua gì Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành gì đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.
Hai anh nhìn nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.

Cả đám bạn học trò im bặt, tò mò nhìn ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn :
- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp mình, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp mình nghe .
Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười :
- Hồi nãy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài tình yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô thì còn gì hay bằng, phải không ?
Cả lớp vỗ tay .
Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê- rê :
- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, vì nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đã nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đã có cả một mùa xuân rồi . Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ý.

Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi :
- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. Còn để dành cho đứa khác nữa chứ!
Đúng là nhất quỉ nhì ba, còn thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục :
- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn .

Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lý chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nhìn kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ý nghĩ vừa thoáng trong đầu.

Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.

Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đã hát với tất cả cảm xúc, làm dao động trái tim mọi người.

Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như còn thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis…
Anh cúi xuống một lúc, hình như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.

Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ vì anh hát hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người lính chiến.
- Thưa thầy. Bây giờ đã đi tu rồi, thầy có còn hát những bản nhạc tình lính ngày xưa? Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.
- Mô Phật ! Bây giờ tôi chỉ còn biết tụng kinh gõ mõ, cầu cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Nhưng những gì bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.
- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đã nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận lòng một bậc chân tu.
- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.
- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?
- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để tìm sự thanh thản riêng cho bản thân mình.
- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nhìn thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đã thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đã có căn duyên từ trước, phải không thầy ?
- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành Phật được, thưa bà .

Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối tình đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân thiết từ lúc còn học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo khác nhau. Quế đạo Phật còn Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đã chết trong biến cố tết Mậu Thân. Tính tình Lân lại hiền lành chân chất và hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học để thi tú tài vào mùa hè này. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.

Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đã tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. Còn tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyên cho anh được bình yên trở về.

Bây giờ tôi mới biết tình yêu là gì. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc tình lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong phòng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát..

Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm, nhìn qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cãnh thất thủ, thành phố Kontum bị pháo kích..Một số người đã phải bỏ nhà chạy xuống Pleiku, sống trong các trường học, được chính quyền dùng làm trại tiếp cư

Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa bước ra khỏi nhà thờ thì chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào. Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói một lời gì. Nhìn nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều gì. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nhìn nhau rồi lắc đầu, không nói.

Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đãi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế rượt bắt gà trong vườn, tôi tìm hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không còn chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài tình ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước.

Trong phòng tôi chỉ còn có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ tình. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng hình của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm dịch mà tôi đã học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là vì hạnh phúc đến bất chợt của mối tình đầu hay là vì nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật mình, khi Lân ôm tôi vào lòng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn tình yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.

Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở đầy lính chạy về hướng Pleiku, lòng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đã đi xa..Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa chạy đến hàng thông phía trước, thì đoàn xe cuối cùng đã chạy qua bên kia cầu .

Xuân ơi,
Anh đang ở phi trường Pleiku để chuận bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố này đang bị cô lập bởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quôc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít dòng tin em và cũng xin lỗi em vì hôm qua, khi chia tay ở nhà em , anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em..

Không biết đến bao giờ mình mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim mình hình bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.
Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đình. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.
Hôn em
Đỗ Lân

Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá thư có kèm theo vài di vật, Quế đã nhờ một anh phi công gởi cho tôi từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân đã bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng rào phòng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dã Chiến, đang bị địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ý đồ lợi dụng những thương binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường nằm sát thị xã Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính Quế là người đã vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang thánh giá cùng mấy tấm ảnh có hình của cha mẹ anh và của anh mặc lễ phục trắng đội bê rê đỏ khi còn là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy bây giờ vẫn còn trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn còn cất giữ đến hôm nay. Anh Quế còn cho biết thêm, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lân còn thì thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi áo, anh Quế còn thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong gói quà tết hôm nào.

- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có tìm đến thăm, nhưng người ta bảo là thầy đã được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch chiếm, nên xe đò không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống NhaTrang tìm thăm thầy, thì thầy đã xuất viện. Tôi có hỏi nhưng bệnh viện không biết thầy ở đâu.
- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, vì thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đã lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đã tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuồi.
- Nhờ vậy mà thầy đã đi tu .
- Lý do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đã sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau lòng, như cái chết của những người còn quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội tình gì. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đã dạy, nên tôi đã tìm tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.

Như vừa nhớ ra một điều gì, thầy chỉ tay về hướng sau chùa :
- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ tìm thấy một điều kỳ diệu.
Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyêt diệu hơn, bên trên các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi thắc mắc hỏi thầy.
Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy dòng chữ trên mô bia :

Inline image
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế
Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum

Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như tôi đã ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không còn thấy thầy trụ trì. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một mình mà thổn thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế tục.

Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân mình đang bước vào khoảng không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại lời xin lỗi của thầy trụ trì và trao lại cho tôi một tờ giấy học trò được xếp làm đôi. Thầy trụ trì đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc, trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào những cơn sóng đang bềnh bồng trong lòng tôi. Trên tờ giấy chỉ có mấy dòng chữ : Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đã mang hài cốt của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không còn ai thân thích.Từ nay, xin bà hãy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi thức tôn giáo của bà.Nam Mô A Di Đà Phật.

Phạm Tín An Ninh

TuanAnh
Posts: 329
Joined: Sat Jan 30, 2010 3:44 am

Post by TuanAnh »

Image


Ngày Valentine đọc Chuyện Hai Con Khỉ Già
Họ tự nhận họ là "hai con khỉ già", bởi vì nụ cười của họ bây giờ cũng xệch xạc, méo mó lắm, nhất là mỗi lần cãi nhau, nhìn lại càng chẳng giống ai, cứ vênh vênh váo váo mà lại lườm lườm nguýt nguýt trông đáng ghét tệ. Nhưng đó là chuyện của họ, chẳng là của ai trên cõi đời này, nếu ai có trùng hợp mà nhận vơ là của mình thì cũng mặc thiên hạ.

Đúng ra họ đã hay chí chóe từ hồi còn trẻ, y như hai con khỉ non. Lúc mới yêu nhau họ cũng hay giận hờn, nhưng những thứ giận hờn thuở đó nó chỉ bùng lên như lửa rơm, làm cho họ càng nhớ tới nhau nhiều hơn khi xa cách.

Trước khi quyết định đi tới hôn nhân, họ đã về vấn kế và xin phép cha mẹ đôi bên so tuổi như bao nhiêu cặp vợ chồng khác. Lão thầy bói đeo đôi kính đen, gật gù bấm bấm đốt tay, sau một lúc lẩm nhẩm tính toán, nghe loáng thoáng câu gì "thìn tuất sửu mùi tứ hành xung, tý ngọ mẹo dậu ở với nhau không nát một chiếc chiếu". Nhưng may quá hai người không nằm trong nhóm tuổi ấy, cuối cùng thì thầy cũng nói một câu ba phải: "Nữ mạng hỏa, nam mạng thổ, thổ sanh hỏa, tương sanh, tuy không giàu có nhưng cũng trăm năm đầu bạc."

Thôi thế cũng được, bà già đứng dậy xuýt xoa cám ơn thầy, dẫu có khắc khẩu chút đỉnh mà cứ đầu bạc răng long cãi nhau hoài hoài thì cũng xem là hạp tuổi, không lo một đứa rửa chân về chầu Giời sớm. Mạng Tích lịch Hỏa chỉ là lửa sấm sét, nó gầm thét lên nhưng chớp nhoáng là nguội ngay, còn thổ ngự sơn thì tuy không điền sản, dinh cơ, nhưng thanh cao chót vót ngọn núi, sấm chớp không hề hấn gì. Sợ nhất là cái mạng mộc gặp hỏa, hay hỏa gặp thủy thì coi chừng đứa chết đứa bị thương. Thuở ấy thời chiến tranh, có bao nhiêu đôi vợ chồng tuổi rất hợp, thế mà vẫn nửa chừng đứt chến. Nhưng lúc ấy, hai người đang yêu nhau lắm, dẫu có phải nhảy vào lửa để chết cho tình yêu họ vẫn chết, cho nên việc đưa nhau đi xem tuổi chỉ là để các " cụ " ở nhà yên tâm mà thôi.

Thời gian cứ thế vùn vụt trôi đi, mới ngày nào mà nay đã ba mươi mấy năm đầu gối tay ấp. Hôm lũ con đề nghị mừng ngày "hấp hôn" cho cha mẹ, ông đã nửa đừa nửa thật nói với lũ nhỏ:

"Thôi, đừng phú quý sinh lễ nghĩa, tao với mẹ mày ngày nào cũng là ngày tân hôn, cần gì tổ chức cho rậm đám. Đứa nào thương cha mẹ, cứ cho tý tiền đi du lịch trăng mật tuổi già, chứ ăn thì đã không dám ăn, mà mặc đẹp cũng chả ai nhìn."

Đúng thế, với tuổi này ông nghĩ như vậy là thực tế, tiết kiệm được tiền cho con cái, lại không ngại thiên hạ xì xèo. Vợ chồng ông sống theo lối Việt Nam, hôm Valentine, ông đi làm về, nghe thiên hạ ra rả chuyện tặng nhau đóa hoa Tình Yêu, lại thấy chú Mỹ đen đứng bán hoa ở ngã tư đường, ông bèn hào sảng mua tặng bà một đóa hồng nhung đỏ. Hí hửng lái xe về, ông đậu xe ở "garage" rồi đem đóa hoa vào bếp. Thấy bà đầu bù tóc rối đang nấu cơm, ông vui vẻ đưa đóa hoa cho vợ. Chưa kịp nói câu gì hay ho để lấy điểm với bà, thì bà đã nhăn nhó lên như khỉ:
"Làm trò khỉ gì thế, hoa với chả hoét. Sao không mua cho tôi bó rau muống xào thịt bò ăn cơm có phải ngon không?"

Ông cụt hứng, ngẫm nghĩ: "rõ chán phèo cho cái con khỉ già", làm như cuộc đời chả hề biết tới chữ "romantic" bao giờ cả. Nhưng nhìn mặt mũi vợ đỏ gay khi đứng bên bếp lửa, đang làm bữa cơm chiều cho cả nhà, ông lại nghĩ thương vợ: " Ừ phải đấy, cứ rửa cho bà ấy đống bát đĩa bẩn mà lại bằng trăm đóa hoa hồng phỉ gió kia". Thế là ông xắn tay áo lên để rửa bát, bình thường đã mấy khi ông đụng đến những bếp núc bát điã của vợ, cứ cho là những việc ấy của đàn bà, đàn ông sờ vào e nó hạ giá trị con người đi. Ông lúng túng rồi tuột tay làm vỡ cái ly, thế là bà tru tréo lên:
"Thôi ông ơi, hễ ông sờ vào đâu là đổ vỡ đến đó. Cứ để tôi, chẳng cần ông phải làm."

Ông lắc đầu bỏ ra ngoài vườn, thôi đi tưới cây vậy. Nhác nhìn thấy mấy cây mướp đắng bà trồng hôm nay đã leo lên hết chiếc cột gỗ bên vệ rào, ông nghĩ ngay đến chuyện làm cho bà cái giàn. Nghĩ là làm, ông hí hoáy đi lấy thang, rồi dùng những thanh gỗ mỏng để bắc giàn, nhưng chưa gì ông đã thấy bà đứng lù lù sau lưng. Tưởng bà khen, ai ngờ bà lại la hoảng lên:
"Này cẩn thận, khéo ngã thì khốn đó ông. Tối rồi, mắt mũi thấy gì đâu mà làm, vào ăn cơm kẻo nguội."

Ông nhất định phải làm cho xong, chút nữa ông trượt chân khi với tay cột sợi giây cho cái giàn mướp. Bà lại la hoảng lên :
"Tôi lạy ông, ông chẳng làm gì nên thân cả. Lỡ ngã gãy chân, nằm một chỗ là chết cái thân già này."
Ông tự ái:
"Bà cứ hay ồn ào, không ngã mà nghe bà la hoảng cũng đủ giựt mình ngã gẫy cổ. Đàn bà có thứ đâu ăn nói cứ toang toác lên."
Bà đâu có toang toác. Bà lo cho ông đấy chứ, nhưng hai chữ "toang toác" lại làm bà ấm ách, mặt sưng lên, trông hệt một con khỉ. Tuy nói vậy, ông cũng vác cái thang cất vào nhà kho, rồi vào nhà ăn cơm. Trên chiếc kệ gỗ, đã thấy đóa hồng đỏ ông mua tặng bà được cắm vào chiếc ly thủy tinh. Ông tủm tỉm cười, đàn bà họ nói vậy mà không phải vậy, đóa hoa hồng bây giờ hình như đã tươi lên vì có nước ...

Cũng không phải lúc nào họ cũng cãi nhau, và cũng không phải lúc nào ông với bà lại không có những giây phút êm đềm bên nhau khi lũ con đi vắng cả. Những câu chuyện họ trao đổi, nghe không ngọt ngào như hồi đôi mươi, nhưng đầy những lo lắng và băn khoăn cho nhau về sức khỏe cũng như những chuyện trong nhà, ngoài phố. Ông hay nhắc bà cần phải uống thêm thuốc bổ mỗi ngày, còn bà thì lo lắng về cái chân của ông dạo này đi đứng có phần thiếu ngay ngắn.

Nhưng phiền nhất là mỗi lúc lái xe mà có bà bên cạnh lái phụ, nhắc nhở từng chi tiết khi cái kim đồng hồ nhích lên nhích xuống, bởi vì bà không lái xe mà lái tài xế. Cái này thực khổ cho ông, khi mắt phải chăm chú nhìn kính trước kính sau, miệng bà thì ong óng nhắc nhở chạy nhanh chạy chậm, khiến đầu ông cứ hoảng lên suýt tông vào xe người khác.Mỗi lần thấy đèn đỏ, ông lơ đãng còn để hồn đi đâu, bà lại la " ối! ối!" như nhà cháy. Ông quát vợ:

"Có câm cái mồm đi không? Đi với bà có ngày chết mất ngáp. "Pô Lít" tôi không sợ mà sợ cái miệng bà."
Bà im một tý rồi lại ấm ức:
"Đã lái dở mà cứ chạy "len" giữa, lỡ muốn "ếch xít" thì sao?"
Ông hầm hừ:
"Đường nó nằm trong đầu tôi, lái "len" trong, lỡ trượt bánh xe là tông vào thành xi măng, cũng giập đầu mà chết."

Họ cứ cãi nhau loạn xạ như thế, nhất là khi ông mắt mũi kèm nhèm, không nhìn rõ bảng tên đường, định quẹo phải mà một tay Mỹ đen đã lù lù chặn ngay bên cạnh. Thế là "sảy một ly đi một dặm". Họ đã có nhiều kinh nghiệm những lần đi lộn đường như vậy, rồi loanh quanh mãi tìm không ra lối về, đi lạc vào những khu lạ hoắc, chỉ mới hoàng hôn mà nghe như đã tối om om vì nỗi sợ dâng ngập lòng.

Bà còn sợ nhất là tính nóng nảy của ông, khi bị một cái xe đằng sau cứ bóp còi "tin tin" thúc hối, bởi ông bận nghĩ đâu đâu nên khi đèn xanh nhấp nháy vẫn chưa chịu chạy. Rồi khi nó vượt qua mặt ông, bèn giơ ngón tay giữa ra để chọc tức. Mỗi ngón tay là một biểu tượng cho ngôn ngữ, có xấu có tốt, nhưng ở trường hợp này thì bà phải can ông đừng bắt chước kiểu trả lời thiếu văn hóa như thế, nhất là lỡ gặp thằng có súng, thôi thì "một câu nhịn, chín câu lành" vậy. Hồi mới qua Mỹ, chả hiểu "mô tê " gì về thứ ngôn ngữ ngón tay như vậy, đang lóng ngóng tìm đường đi thì đã thấy một cái đầu ở xe bên kia thò ra, giơ một ngón tay lên, ông lại còn mỉm cười nói " thank you" người bạn Mỹ tốt bụng, về nhà cứ thắc thỏm sao nó biết mình đang tìm đường để chỉ.

Mỗi lần có dịp đi đâu với ông, phải lái trên "ree-way", xe cộ lạng lách như điên khiến ông xoay trở đến nhức đầu, mồm luôn luôn rủa "đồ khốn nạn" bà lại bật cười. Hôm ấy trong lòng ông đời đầy những thằng khốn nạn, chúng nó đi đâu mà như ăn cướp, xã hội này khó lòng mà có hòa bình khi con người cứ xùng xục lên như vậy. Nghĩ cho cùng thì chả bao giờ hết chiến tranh, từ triệu năm trước tới ngàn năm sau, con người cứ sống rồi chết, chiến tranh rồi lại hòa bình, kẻ đi vào lòng đất người lại tiếp tục sinh ra. Gọi là nhân loại còn khổ, vì lòng người cứ xùng xục lên như nồi nước sôi.

Hôm nay ông bà lại cãi nhau. Mặt bà sưng lên còn ông thì lừ lừ không nói năng. Họ đang cằn nhằn nhau, hay là chỉ có bà hay cằn nhằn mà thôi. Bà nói dai như đỉa, mà lạ thật, bà chỉ hay dai dẳng với ông thôi, chứ với người ngoài bà ngọt sớt. Chiến tranh chỉ xảy ra giữa đôi vợ chồng già, khi ra ngoài bà hay đem hai chữ "bình an" để tặng riêng cho thiên hạ.

Thế có tức không chứ. Chuyện đâu có gì ghê gớm, chỉ vì hôm nay là ngày giỗ ông thân sinh đẻ ra ông mà hai vợ chồng thằng con trai lại dẫn đứa cháu nội đi đâu từ sáng sớm.Chúng nó quên cả ngày kỵ của ông cố, đến giờ này vẫn chưa dẫn cháu về ăn giỗ. Ông bảo bà:
"Muốn gì thì phải nói. Thời buổi này bận bù đầu bù cổ, có chút thì giờ chúng nó phải "enjoy" với nhau, chúng nó làm sao nhớ được ngày gì ngoài ngày thứ bảy với chủ nhật."

Bà chua chát:
"Nhưng ít ra thấy tôi sửa soạn bàn thờ, ngâm nếp đồ xôi, nói xa nói gần thì cũng phải biết để cháu ở nhà đốt nhang cho ông bà chứ. Có thứ đâu lại cắp đít đi hết như vậy."
Ông chép miệng:
"Ôi dào! Không có chúng nó thì tôi với bà cứ bày ra cúng rồi cùng xơi với nhau, càng ít người càng được ăn nhiều."
Nhìn căn nhà vắng vẻ, nấu nướng bày biện xong đã mệt ngất ngư mà con cháu chưa đứa nào về, bà đâm tủi thân:
"Mai mốt, tôi với ông chết đi chắc chẳng có ai đốt cho nén nhang, cứ thời buổi này thì chẳng giỗ chạp làm gì cho mất công."

Ông gật gù:
"Ừ, mà cũng chẳng cần phải chôn nữa cho chật đất. Tôi có chết cứ thiêu xong rồi đem tro đổ xuống biển, chả phải gửi chùa chiền , nhà thờ cho mất công chúng nó một năm đôi lần thăm viếng. Nằm dưới ấy lại mát. Còn không thì đem lên núi, trải ra làm phân bón cho cây cỏ, không ích lợi hơn à?"

Nghe ông bình thản nói vui mà vẫn cứ ngậm ngùi. Mâm cơm cúng đã dọn lên, mùi trầm nhang nghi ngút. Bà đốt ba nén nhang cắm vào bát nhang trên bán thờ, miệng lâm râm khấn vái:
"Lạy các cụ. Hôm nay ngày giỗ ông, mời các cụ về xơi bữa cơm với con cháu. Các cháu bất hiếu cụ bỏ lỗi cho, thời buổi này chẳng giống hồi xưa. Các cụ "sống khôn chết thiêng" về phù hộ cho cả nhà an vui, khỏe mạnh, gia đạo trong ấm ngoài êm. . ."
Nghe bà khấn, ông vốn vui tính hay đùa, buột miệng:
"Các cụ có phù hộ thì cứ phù hộ, còn việc hiện về xin miễn cho kẻo con cháu nó sợ”.

Đang buồn trong bụng, bà đâm tức mình, quay sang vặc lên với ông:
"Ăn nói rõ là ba lăng nhăng, ông đừng đùa với người khuất bóng mà mang tội. Các cụ nghe được cả, đâu phải chỗ để ông đùa, bố thế hèn gì con cũng vậy. Tôi nói cho ông biết, lát nữa dẫn nhau về đây tôi cho một trận . . . "

Ông nhăn mặt:
"Thôi xin can bà, bà chửi chúng nó các cụ cũng nghe, lần sau hoảng không dám về ăn giỗ nữa. Ai lại mời các cụ về ăn giỗ, cầu vui cầu khỏe, gia đạo trong ấm ngoài êm mà gia chủ mặt mũi nhăn nhăn như con khỉ già, tôi mà là các cụ tôi cũng "đấm" vào. Bà cứ để tôi bảo chúng nó, "ngọt mật mới chết ruồi", nhấm nha nhấm nhẳng chỉ làm nó ghét mình hơn."
Bà ngang nghạnh trả miếng, bởi vì có mấy khi bà chịu thua ông:
"Không phải ngọt với ai cả, nó là con chứ không phải bố mình, nói nặng còn chẳng nghe ra, chứ nhẹ đã ăn thua gì."

Thế là bữa cơm nấu nướng công phu đầy những món ngon bỗng lạnh ngắt vì chẳng ai muốn ăn, con gà ngậm đoá hoa hồng nằm trên điã xôi như đang sốt ruột chờ đợi. Ông bực mình nghĩ tới thằng con trai vô tâm không biết đến ngày giỗ ông nội mà bảo vợ ở nhà giúp mẹ chồng. Chúng nó đi đâu mà quên cả đường về, bọn trẻ bây giờ đều vô tâm thế cả, nếu cha mẹ mà không có lòng tha thứ và thông cảm, chắc chắn sẽ buồn giận suốt đời. Hóa cho nên hồi vợ chồng chúng nó mới lấy nhau, ông đã nghĩ đến chuyện ở riêng, để ai có tự do của người đó. Nhưng riêng thì riêng, nề nếp gia đình vẫn phải giữ.

Ông mặc quần áo rồi bảo vợ:
"Tôi đi đằng này một chút."
Bà đang ngồi buồn rầu nhìn mâm cỗ:
"Đi đâu? Cơm canh dọn sẵn rồi cũng bỏ đi, đúng là "bố nào con nấy".
Ông bực mình, quát:
"Bà biết tôi đi đâu mà đã toang toác. Tôi đi tìm chúng nó về để bà chửi, chứ ăn uống thế này ngon lành gì mà ăn."

Tự nhiên giọng bà dịu xuống, ứa nước mắt:
"Thôi ông ạ. Hai đứa kia đi học, đi làm xa, đến ngày giỗ nếu mình không nhắc cũng chẳng đưá nào nhớ. Chỉ còn chúng nó ở với mình, khó lắm lại sinh tội ra, nó dọn đi thì mất cả con lẫn cháu."
Thấy bà nói, ông bật cười, cái tính bà thì ông không lạ, chỉ chớp lên như lửa trời rồi lại tắt đi ngay, lão thầy bói chả nói thế là gì. Ông nhìn vợ pha trò:
"Trông mặt bà cứ y như "con khỉ già "trong sở thú."

Bà cũng nguýt yêu ông:
"Ngó ông cười thì khỉ cũng đẹp hơn. Răng cỏ chưa gì đã "sứt càng gẫy gọng", cứ tưởng đẹp lắm đấy . . ."

Hai vợ chồng già giống như "hai con khỉ" ngồi bắt chấy cho nhau. Họ cãi nhau luôn để rồi vẫn thương nhau như thế đấy, ai có cười thì hở mười cái răng. Vậy mà hễ ông đi làm về, thấy vắng bóng bà là vội đi tìm ngay, rồi khi thấy bà nằm lù lù một đống trùm chăn kín mít, sờ vào chân vợ thấy lạnh ngắt, ông vội đi lấy dầu để bóp chân cho vợ. Còn bà, hễ ông đi làm về muộn, bụng bà chưa gì đã rối tinh cả lên, đi ra đi vào nhìn mãi cái kim đồng hồ. Chỉ khi nào nghe tiếng xe của ông đậu ngoài "garage", bà mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng bụng lại bực "cái con khỉ già" về muộn mà không nói qua cho bà biết, mặt bà lại sưng lên hệt một con khỉ. Chẳng biết ai là khỉ, nhưng đấy chỉ là lối suy nghĩ thật âu yếm mà họ dành cho nhau ở cái tuổi già mà thôi . . .

Bỗng nghe tiếng xe ngừng ở ngoài sân, ông đứng bật dậy, vợ chồng thằng con đã dẫn cháu về. Ông mở cửa đón cháu, thằng bé lên năm mặt mũi xinh xắn, chạy ào vào ôm lấy cổ ông nội, nói bi bô:
"Thưa ông nội cháu mới về."
Thằng cháu nói còn đả đớt, mặt nó hồng lên như hai quả đào. Ông ôm cháu vào lòng, âu yếm hỏi:
"Cháu ông đi đâu mà lâu thế? Hôm nay giỗ cụ, không về sớm mà ăn giỗ."
Bây giờ anh con trai mới lên tiếng:
"Chúng con cho cháu đi sở thú. Nhớ ngày giỗ cụ muốn về sớm, nhưng thằng cháu ông nó không chịu về, cứ đòi xem mãi."
Ông vuốt tóc cháu, hôn lên đôi má phính:
"Thế cháu thấy con gì trong sở thú kể ông nghe với."
Thằng bé bây giờ mới sung sướng kể:
"Cháu xem con khỉ con bú mẹ, xem hai con khỉ già cãi nhau."
Ông bảo cháu:
"Tưởng gì! Ở nhà mình cũng có “hai con khỉ già” cãi nhau suốt ngày."

Bà đang đứng trong nhà nhìn ra, nghe ông nói, lườm ông một cái dài hơn cây số.

Nguyên Nhung

User avatar
VuPhong
Posts: 2910
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

Hạnh phúc xót xa

Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên hai họ”. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa”?
Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”
Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.
- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.
- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.
Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên.
Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.
Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Na-uy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.
Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.
Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít.Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”. Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò:
- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.
Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm những gì ông nói.
Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.
Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu (logo) Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xetản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.
Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.
Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện.Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, đôi mắt thật buồn. Theo y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.
Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.
Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.
Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng 1 di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chởtheo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác
Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.
- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.
- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.
Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.
Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.
Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thải trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?
Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho cô gái và cho cả anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.
- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.
- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.
Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.
Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.
Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề, hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.
Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!
Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.
Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:
- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.
Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.
Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận.Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết trò chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng lo lắng gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.
Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.
Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng antâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu.
Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một it thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp.Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ.
Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.
Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô.Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.
Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.
Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.
Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.
* * *
Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45,46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp.
Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.
- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?
Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:
- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.
Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm phấn son xong mới lên tiếng:
- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ.
Cô cười bẽn lẽn:
- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.
Tôi cười:
- Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.
Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.
Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH , một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.
- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.
Đang vui, bỗng Kiều xúc động:
- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.
- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi .
Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:
- Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm.Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.
- Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.
Tôi cười phụ họa:
- Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.
- Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm , phải không?
Cả ba chúng tôi đều cười.
Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.
- Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.
Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.
- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.
- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?
Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:
- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.
Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:
- Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?
- Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.
Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc.
Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình, có cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.
Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con.
Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào. Sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc.
Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.

Phạm Tín An Ninh

User avatar
thuyduong
Posts: 447
Joined: Fri Dec 04, 2009 6:41 pm

Post by thuyduong »

Image

Của Nợ

Nhã Ca

Xe chạy quá nửa ngày mới qua khỏi ranh giới Bình Tuy - Phan Thiết. Lại có câu chuyện vui của hai ông già ngồi cạnh nhau ở hàng ghế giữa xe. Giọng ông cụ râu ba chòm sang sảng:

“Xe đang chạy ngon trớn, mà thằng chả gọi giựt giọng la như cháy nhà. Cho xuống. Cho xuống. Tài xế chửi ầm lên, nói cái gì, mua vé tới Phan Thiết, sao mới qua ngã ba ông Đồn đã đòi xuống. Thằng cha mang kiếng râm, có cái gậy dò đường gác lên đùi, chưng hửng. Ủa tưởng tới Phan Thiết rồi. Rõ ràng ngửi thấy mùi…nước mắm. Chị đàn bà ghế bên cạnh đang ngủ há hốc miệng, dạng hai chân ra, tỉnh cả ngủ, giật thót người, khép đùi lại. Tài xế càu nhàu mà thằng cha kiếng đen thì cười tủm tỉm…”

Ông cụ râu ngắn tua tủa, ngồi cạnh cửa sổ có treo tòn ten cái lồng chim, cười sặc sụa. Cười mà nghe như tiếng la của người bị chẹt cổ. Không chỉ riêng ông cụ, hình như mọi tiếng cười trên xe đều khác thường. Có lẽ vì xe dồi dập quá.

Ông cụ râu ngắn xuề xoà dễ thương. Con vẹt trong lồng, trái lại, có bộ lông xanh mịn đẹp đẽ, mà sao coi cái mỏ khoằm khoằm thiệt khó cảm tình. In hệt mụ phù thủy trong các chuyện cổ tích, có vẻ dị ứng với tiếng cười, nó giận dữ nhảy nhảy, phẹt trong mỏ ra đủ thứ dơ dáy, rơi vãi cả vào khung cửa. Xe càng xóc, nó càng nhảy loi choi, càng phẹt dữ tợn.

Bác tài, làm như chưa tiêu hết bực bội gặp phải dọc đường, dọt thắng bạt mạng. Bên cạnh, bà vợ mặt mày chầm vầm, cà khịa:

“Biết nó đột xuất, không vọt thẳng cho lẹ, còn dừng lại để sanh chuyện.”

Vẫn bà vợ tài xế, cũng là chủ xe nữa, độc thoại:

“Thiệt tức chết được. Tui đã cúng cả tút thuốc lá Sài gòn Giải Phóng, khi không còn vái lia lịa thêm mấy gói ba số nữa chi. Bảnh dữ. Ha.”

Lại độc thoại nữa:

“Làm như của chùa. Thiệt ngu quá mà. Khi không cúng khan. Làm như ông hạp mấy cái mặt… đó hay sao mà hễ giấc ông chạy là nó xuất hiện.”

Miệng nói, hai tay bà vẫn đếm tiền lia lịa. Bác tài nhấn ga lao tới. Cả xe tối sầm, tưởng trời sập tới nơi. Lạng nghiêng. Vèo một cái như bay. Lại vượt mặt. Hú vía.

“Chạy ẩu nữa đi. Rút bằng lái lần thứ ba coi như treo mõm. Cả chục cái mõm chực ở nhà đó tía. Hứ, bộ điếc đặc rồi chắc. Người gì đâu mà mặt sưng mày sỉa như cái thớt bị vằm. Thấy mà ghê.”

“ĐM. Đủ rồi. Im cái mõm giùm, má.”

“ĐM. Tức sao im được mà im. Nói không đúng sao? Banh ta lông hai cái vỏ rồi. Coi như sở hụi đi đứt bòng bong…Cái mặt ông mới…ha…Ông ơi. Dừng lại. Dừng lại. Có khách lên. Lẹ. Lẹ lên.”

“Dừng gì nữa mà dừng. Nhét lên lòng chị à? Tham vừa vừa, chị kia.”

Một cái đầu ở hàng ghế số hai chồm tới. Anh ta mặc áo sơ mi xanh, quần ka ki. Coi mặt, đúng là cán bộ thứ thiệt.

“Làm phước cho người ta quá giang. Thời buổi này xe cộ hiếm lắm cán bộ ơi. Mỗi người chật một tí cho người ta khỏi lỡ đường lỡ xá. Dừng đi ông.”

Một trong hai chú lơ xe đập đập vào thành cửa. Hỏi vọng xuống đường. Gió vẫn ào ào. Tài xế làm thinh. Xe vẫn chạy bon bon. Chị đàn bà ngồi bên cạnh anh cán bộ thở ra.

“Nực quá. Thở hết nổi. Mở cửa sổ đi.”

Chú lơ xe đưa tay lên định kéo cánh cửa. Giọng bà chủ xe the thé:

“Ê Rạng. Qua trạm, mày đui sao hông thấy mày. Mở ra là dính ngay chóc nữa. Đóng lại.”

Cả hai lơ xe đều là cháu của vợ chồng tài xế. Láu cá, lanh lẹ, chú này tức thì đỡ cho chú kia:

“Chịu khó chút bà con cô bác ơi. Thông cảm dùm, qua trạm là mở cửa liền. Phạt lia chia…chị. Đã phạt là khỏi năn nỉ luôn.”

“Hừm. Phạt còn khoan hồng.”

Chị đàn bà mím môi. Anh cán bộ nhận ra ngay đồng chí.

“Chị công tác cơ quan nào?”

Bắt đầu màn liên hệ công tác.

Khu ghế giữa xe, tập hợp mấy chị buôn hàng chuyến. Ồn ào như chợ vỡ. Cười nói, ăn quà vặt, giỡn hớt. Tay không ngừng lột quít, bóc bánh. Vậy mà lọt vô góc trong sát cửa, một chị đàn bà lạc lõng, ngồi buồn hiu. Trên tay chị thằng bé con khoảng bốn năm tuổi, gầy trơ xương, chỉ thấy cái đầu to tướng, sài lở, tóc cạo lởm chởm. Thằng bé hau háu nhìn vô mấy cái miệng nhai mà mẹ nó thì cố đưa tay đẩy nó nhìn về phía khác.

Qua trạm kiểm soát, cửa sổ được kéo lên. Ném cái vỏ quít ra cửa, qua mắt thằng bé, một chị quay nhìn ông cụ râu ngắn, cười:

“Cụ ơi.”

Tưởng gì, cụ ông ngóng mặt chờ.

“Cụ có con chim đẹp quá.”

“Chim của cụ phải không?”

Biết bị trêu, ông cụ làm thinh, ngó mông ra ngoài cửa. Cây cối vùn vụt chạy trở ngược.

Cam, quít, chôm chôm do mấy chị đi buôn ném tới phía trước. Hai lơ xe chụp, bắt. Kìa, cả anh cán bộ đang bận “tham quan” nữ đồng chí cũng được ném tới mấy trái quít. Móc ngoặc mà. Ngay ở trạm xét đầu xa lộ, một số hàng vải lọt tỉnh queo. Cán bộ đã kín đáo can thiệp.

“Má à, má ơi. Con đói bụng.”

Hai khuôn mặt mẹ con, da tái bủng như chì, hẳn cùng bị một chứng sốt rét.

“Ngủ đi. Dựa đầu đây nè. Biểu ngủ.”

Mấy chị đi buôn nhìn bà mẹ với vẻ khó chịu. Mặt mũi khó coi quá. Người gì mà từ lúc bước lên xe, ngồi ủ rũ, chẳng thèm nhìn ngó ai.

Một tiếng ha dài. Chị nào đó thở ra, rồi những trái quít chuyền nhau nữa. Mấy chị đùa bỡn quá trớn thiệt, hai lơ xe mặt mũi non chẹt, nhưng mắt cũng hỗn lắm.

“Nhìn gì cha.”

Một cái vỏ chôm chôm bay tới. Chú lơ xe tên Rạng né được, cười thiệt đĩ.

Đang vui, bỗng một giọng rụt rè, lạc điệu:

“Bác tài ơi. Dừng xe một chút. Dừng cho…bị tui…”

“Gì nữa đây? Có xuống cũng đợi tới trạm, đâu xuống ngang vậy được. Bác muốn xuống há?”

“Không. Bị tui…tui…”

“Ông cụ muốn “lái”. Cho ông cụ lái thử đi bác tài ơi.”

Giọng còn thanh niên. Mọi người cười rộ.

Chỉ có bác tài là không cười nổi. Sáng ra ngõ có gặp gái không mà xui tận mạng. Có bị rơi vào giờ lưu niên không mà chậm trễ đủ thứ. Tới ngã tư Phan Thanh Giản, Hai Bà Trưng, nghe thổi roét roét. Công an núp đằng sau trụ đèn. Rề ra, giam không ra giam, tha không ra tha. Điều đình, năn nỉ, điếu đóm. Tên công an mặt còn vắt nước lã. “Nước lã thôi, mẹ nó, sữa đâu ra mà vắt.” Vậy mà bác phải bật diêm, che gió, mồi thuốc lá. Nữa, tới xa lộ, chận xét, xuống xe, dỡ hàng…Mấy bà đi buôn cũng đâu có vừa, hàng họ đủ thức hầm bà lằng. Rán dấu cho mấy bà rồi, mấy bà còn được thể, chất thêm lên cho đã…Tội nghiệp cái xe, quá tải. Hai lần thay bánh rồi chớ ít đâu. Điệu này, tới Phú Tài, dính nữa.

“Dừng lại cho người ta…”

Giọng người vợ như thọc dao vào cổ bác tài. Rầm. Một ổ gà. Cả xe nhẩy nhổm. Rầm nữa. Còn gì là xe, là người. May quá, qua đoạn đường xấu, xe lại bon bon.

“Bác tài ơi, làm ơn…”

Ông cụ râu ba chòm đấy thôi. Mới đó, mặt mày rạng rỡ, kể chuyện nước mắm Phan Thiết, giờ dúm dó trông tội nghiệp. Một người đàn bà mập ú, nãy giờ ngồi dãy ghế chót, ngủ hết biết, cũng mở bừng mắt:

“Cái gì? Mấy con lợn của tui ở trên mui xe kêu dữ quá. Có dừng xe chưa? Ế, Rạng, Rạng, cho nó uống tí nước.”

Chẳng ai nghe tiếng lợn kêu. Lơ xe cười cười:

“Có bà khát nước thì uống đi. Tội quá, má. Tự nhiên kêu rầm lên.”

“Không phải há?”

Bà ta nghẹo đầu ngủ tiếp, thiệt dễ. Bà chủ xe vội cuộn tròn mớ tiền, nhét vô bụng, đi xuống cuối xe. Có tiếng gà sống kêu. Bà chủ xe vừa đạp phải nó. Phải vất vả lắm, bà ta mới leo qua được đống hàng, lách qua đám người ngồi ghế xúp.

“Có dầu đây. Bác cần hông?”

Ông cụ râu ngắn chủ lồng chim, đỡ chai dầu, nói:

“Dầu mà ăn nhằm gì. Bác đây đau bụng đi cầu…Đau dữ lắm.”

“Khổ, mới đây dừng thay bánh xe, sao cụ không đi cho cụ ơi…”

Ông cụ lúng túng. Bạn già đỡ lời:

“Mới đau đây thôi, bà chị. Đau bụng thì ai biết khi nào nó đau.”

Anh cán bộ lớn giọng:

“Này, lái xe. Dừng cho người ta nàm vệ sinh.”

Xe đang qua mấy trụ sở hành chánh, rồi đồn công an nữa. Mọi người nhìn ra, thấy cờ đỏ sao vàng phất phới.

Giọng bà chủ xe ngọt xớt:

“Bác ơi, chịu khó chút đi. Ráng qua khỏi đây, chạy tới nữa mới dừng được.”

“Chị nói bác tài dừng đại đi. Người ta tới nơi rồi…”

Bà chủ xe nhìn lui, lắc đầu:

“Hổng được đâu. Ý cha, tui mà biểu một tiếng là thằng cha càng sùng máu, dọt lẹ hơn thì có. Bị…bà con cô bác đi xe đò cũng hiểu. Làm dâu trăm họ bà con ơi. Xe của mình, mình làm chủ. Hư hao, sửa chữa, mua sắm vỏ ruột gì, gì cũng chủ xe chịu. Nhưng nhà nước quản lý, bán vé, thâu tiền.

30Tuyến đường chủ xe có mấy ghế à. Vậy mới phải xin bà con cô bác thông cảm vụ rước khách dọc đường. Không rước thêm, lấy đâu ra vỏ ruột mà chạy. Ha, khổ lắm, bà con không biết đâu. Riết rồi chịu không thấu…”

Ông cụ râu ba chòm mặt đã tái ngắt. Mồ hôi rịn giọt trên trán. Ông thu cả hai chân lên ghế theo thế ngồi sẵn sàng. Tay giữ chặt bụng.

“Này chị ơi, người ta chịu hổng thấu kìa…chị nói những gì đâu.”

Lơ xe đứng chắn ở cửa:

“Coi. Lại trụ sở hành chánh. Cái gì nữa đây…Mặt trận…trụ sở phường. Ý cha, thứ dữ hông…Nín. Nín chút cụ ơi.”

Bà chủ xe:

“Ừa, rán đi bác. Chút xíu. Chút xíu. Tới liền.”

“Cái bà này mới vô duyên. Ỉa cục cứt cũng như đàn bà đẻ. Bà đẻ, bà nín được hông mà biểu người ta.”

Một giọng nặng vẻ càu nhàu. Ông cụ rùng mình mấy cái, rên:

“Ui cha. Ui cha…Tui, tui…Ui…”

“Khổ chưa. Xì mẹ nó ra rồi.”

Ông cụ râu ngắn ngồi bên giật thót người. Con vẹt trong lồng bỗng nhảy dựng, kêu lên một tiếng: Cục. Tưởng nó lại nổi giận. Không, con vẹt có vẻ khoái trá. Nó đổi giọng êm ái: cục cù rù, cục cù rù…

“Không xong rồi bác ơi. Chao ơi…”

Ông cụ râu ba chòm buông tay ôm bụng, đưa về phía bạn già muốn níu. Ông cụ râu ngắn một tay giữ bạn, một tay đưa lên.

“Đã tới nước này thì…cũng phải liều thôi. Bác cứ làm đại đi. Ai có bao ny lông không? Lẹ lên. Nín không xong đâu…Đấy. Rán, rán tí.”

Mấy túi bọc trái cây vất dưới chân, được lượm lên. Cái nào cũng teng beng hết. Mấy bà thăm nuôi cúi lôi từ trong giỏ xách ra những bọc nhỏ, gỡ bớt lớp ni lông bao ngoài. Được bốn năm cái. Mấy người đàn ông với ông cụ có lồng chim vây lấy ông già râu ba chòm. Đàn bà cũng dồn cục, đạp cả lên nhau.

“Ngồi đại lên ghế.”

“Bỏ quần ra. Già rồi mà còn nai nịt chi chắc chắn vậy nè.”

“Lôàng ba bốn cái bao nữa coi. Lẹ lẹ cho chút. Mấy chị đi thăm nuôi, hy sinh thêm…”

“Còn ngượng nữa, cha. Ngồi chồm hổm đại đi. Vậy đó.”

“Bỏ tay ra. Túm chi nữa vậy. Bỏ ra, nó dính đầy hết giờ.”

“Khổ qua, cụ còn muốn che con nhím. Mấy chị ngó gì dữ vậy, nó sợ thun cha nó hết rồi.”

“Đồ mắc dịch.”

“Ý cha già ơi…Đừng nhúc nhích. Từ từ…ý…ặc…ặc…”

“Dữ dội quá vầy nè.”

“Súng xưa, cổ quá, bắn gì kêu phành phạch, rồi phành phạch…”

Người đàn ông phụ với ông cụ râu ngắn giữ bọc bao ni lông quay mặt ra sau thiếu điều gãy cổ:

“Khiếp. Khiếp quá cụ ơi. Ắc…ắc…xì…”

Một ông phía sau nhón lên:

“Sướng chưa bác ơi.”

“Phướng”

“Phẻ”

Cả xe cười ầm, mặc cho mồm miệng lãnh đầy mùi phẩn.

“Ông nội ơi, thúi gì mà thúi dữ thần.”

“Giấy nè. Lau đỡ bác ơi.”

“Phướng. Phẻ. Quá xá đã, phải hôn?”

“Túm lại đi. Trời đất, còn chưa cột lại nữa.”

Người đàn ông túm chặt miệng túi lại. Xin thêm tờ nhật trình Sài Gòn giải Phóng bao thêm một lớp ngoài nữa. Mặt ông già sướng rân. Ba chòm râu cứ nhúc nhích, nhúc nhích.

“Cám ơn bà con cô bác. Thiệt muốn chết luôn. Cám ơn. Cám ơn. Cám ơn bác. Cám ơn mấy cậu, mấy chị. Mấy chị đi thăm nuôi học tập phải hôn? Tui cũng đi thăm thằng con đang cải tạo ở trển.”

“Vượt biên hay phản động, bác?”

“Không, nó đi tù hình sự.”

“Dữ hôn. Hình sự, bộ…”

“Ăn cắp, trộm cướp?”

“Hổng phải đâu. Thằng con tui thiệt thà lắm…Bị nó chém người ta.”

“Hơ, thiệt thà mà giết người, ông cụ có lẩm cẩm không?”

“Thiệt mà. Nó chỉ nổi sùng xách dao làm cái rụp. May còn ngắc ngoải đưa vô bệnh viện cứu sống, không đã tử hình rồi.”

“Thứ dữ”

“Dữ dằn gì ba con cô bác ơi. Nó hiền khô à. Gặp hoàn cảnh nó ai cũng nổi điên như nó thôi. Nó bị thằng khu vực mần tiền quá chịu không nổi. Rồi thằng khu vực còn tính làm hỗn con vợ nó, nó lụi liền một dao.”

Mấy cái lưỡi le ra. Anh cán bộ nhăn mặt. Con vẹt trong lồng lại xù lông, nhẩy dựng lên: Cục cù ru. Cục cù ru. Lạ chưa. Vẹt mà sao nó kêu cục cù ru, nghe êm như tiếng chim câu gù nhau. Ông già râu ngắn vỗ cái đét vào đùi bạn:

“Cù ru. Cu rù. Phẻ phắn. Quá xá quà xa, há? Thôi bác ơi, bỏ cái gói xuống chân. Vàng bạc, hột xoàn gì mà ôm khư khư vậy.”

Không ai để ý tới cái xe đang chạy. Nãy giờ, bác tài xế có cho chậm xe lại. Thỉnh thoảng bác liếc qua kính chiếu hậu, miệng chửi thề búa xua.

Mọi cửa sổ lại được kéo kín mít. Trạm kiểm soát nữa. Lơ xe kêu oai oái.

“Ngồi ngay lại dùm. Bà con. Lẹ đi. Mấy cái ghế xúp chịu khó thụp dùm cái đầu xuống. Ba, còn cái cửa sổ kìa. Có đóng ngay lại không?”

Cửa sổ ngay chỗ cán bộ ngồi. Lơ xe vừa kéo lại, tức thì, chị đồng chí kêu lên:

“Mở ra. Trời ơi. Đóng cửa, thúi quá, nghẹt thở chết mất. Mở ra.”

Qua cơn xất bất của ông cụ rồi, giờ mới tới lượt cả xe lãnh đủ. Mấy bà hết cười nói nổi, rên rỉ:

“Ghê quá đi. Chết mất.”

Mùi phân càng lúc càng nồng lên, như đã chui vô cổ họng mọi người, nuốt bao nhiêu nước miếng cũng không chịu xuống bụng. Sự vui vẻ, lòng tử tế ban đầu, bây giờ biến thành tiếng cằn nhằn, chửi thề.

Vừa qua trạm, cửa sổ được lùa ra. Thôi thì, cả dãy đầu thò ra ngoài, hít lấy hít để. Lơ xe:

“Bà con đưa đầu ra, xe ngược chiều nó xin cái đầu làm banh, ráng chịu à nghen.”

Lạ. Sao cửa đã mở tung mà mùi phẩn vẫn luẩn quất trong xe, nhất định không chịu tan theo gió. Xe vừa ra đồng trống, giọng anh cán bộ như ra lệnh:

“Còn chờ gì nữa mà chưa giục nó ra ngoài. Ném đại đi.”

Có giọng phụ theo:

“Giục đại đi. Cụ ơi. Giục mẹ nó ra cửa.”

Bà chủ xe:

“Y cha. Khoan. Khoan giục. Đang qua một cái trạm cải tạo đó. Giục xuống lính gác tưởng phá hoại, nổ súng là tiêu luôn bà con cô bác...”

Tiếng ơi của bà chủ xe cũng bị đứt khúc vì sặc mùi. Ai đó rên rỉ:

“Giời ơi là giời…Càng lúc càng nồng nặc…chờ tới bao giờ.”

Con vẹt. Lại nó nữa, bắt mùi hay sao mà lại cục cù ru, cúc cù rù. Nhảy nhót loi nhoi như hứng chí.

“Im. Ông nội mày. Thúi hoắc mà ca hoài.”

Ông cụ râu ngắn, nhìn con vẹt, cố khôi hài:

“Ca sĩ. Nghỉ chút. Chờ bớt thúi hãy cất giọng oanh vàng.”

35Chẳng ai cười. Mặt ông cụ râu ba chòm, mới nhẹ nhõm đó, lúc này coi ngượng ngập, rụt rè. Cụ liếc nhìn bà con trong xe, rồi liếc xuống cái gói bọc tờ Sài gòn giải Phóng. Thiệt là của nợ. Ôi giời. Đúng là nó hành ông, chỉ mấy phút mà thấu ông trời xanh. “Giải Phóng” ra khỏi ông rồi mà sao nó còn hành đồng bào dữ vậy nè. Chỉ việc giục cha nó ra cửa sổ xe là êm re, mà sao cũng khó khăn, đủ thứ trở ngại. Ông bạn già râu ngắn, mới truyện trò, giúp đỡ, giờ cũng quay mặt đi ngả khác. Chỉ có anh cán bộ ngồi ghế trên có vẻ ít bị chi phối nhất. Anh ta đang bận “liên hệ công tác” chặt chẽ với chị đồng chí ngồi cạnh. Cả hai đang “bảo quản bí mật công tác”, cố kiềm tiếng nói, tiếng cười, không cho phì ra. Mắt anh cán bộ liếc quanh, đầu rụt thấp, co người lại. Trên miếng kiếng nhỏ chiếu hậu, bác tài đưa mắt, nói lớn:

“ĐM. Vặn cổ cái con cục cù ru đi. Cu ru cái củ…”

Không trầm trọng lắm đâu. Giọng bác tài đã bớt vẻ gay gắt. Xe vẫn giữ một tốc độ. Bà vợ:

“Thằng cha vô diên…”

Mùi phân vẫn nồng nặc. Lại bàn cãi sôi nổi:

“Ăn nhằm cái gì mà thúi dữ dzậy.”

“Thì ông già đớp lia. Ở bến xe làm một hơi mấy cái bánh ít, rồi bánh cam. Thấy hông, cái rổ bánh cam của con nhỏ ruồi bu đen kịt. Ăn tạp vậy không đau bụng cũng uổng.”

“Tui nói thiệt, cái bao tử của tui từ ngày Giải Phóng ăn bo bo mà chịu được thì khỏi phải sợ dịch tả dịch hạch nữa đi. Nó thành sắt thành thép hết trơn rồi.”

“Cha mày. Đòi ăn cái nỗi gì. Hửi chưa no sao đây. Chết tiệt.”

Chị đàn bà bế con, người xanh như tàu lá, ốm tong teo, bé loắt choắt mà hét lớn tướng. Còn phát cái đét vào đít thằng nhỏ. Thằng bé ngoác mồm, khóc hà rầm. Chị ta bịt miệng nó.

“Câm. Ngậm miệng lại không. Ui giời ôi. Ngậm”

“Tội nghiệp. Nó đói quá rồi.”

“Còn vài củ khoai, đòi bằng được rồi lát trưa lấy cứt nhét vô miệng mày há…”

“Hừm.”

Anh cán bộ quay lại nhìn. Chị cán bộ kéo áo ngồi ngay ngắn. Người đàn ông ngồi kế chị ta đưa tay che miệng ngáp hoài. Nãy giờ, anh ta buồn ngủ mà không ngủ được. Tội nghiệp, mặt mày anh ta còn căng thẳng hơn cả những người trong xe đang chịu trận chung.

Khổ nỗi vận tốc xe sao cứ đều đều. Lơ xe cho biết, ngang đồn công an, mấy trại cải tạo mà chạy nhanh cũng dễ bị tình nghi, chặn lại làm khó dễ. Cho nên khi vừa thấy bác tài nhấn ga, dọt tới lẹ làng, bà vợ quay người lại, vui vẻ:

“Được rồi cụ ơi. Giục đại ra.”

Ông cụ râu tua tủa co hai chân lên ghế, nhường chỗ cho ông cụ râu ba chòm đứng dậy, chồm tới bên cửa sổ:

“Coi chừng, nhoài ra ngoài hãy ném. Gió thổi tạt vô lại trong xe còn khổ cả đám nữa, cụ ơi.”

“Yên chí. Tôi biết.”

Ông cụ bỗng mạnh mẽ như một thanh niên. Một tay vịn cửa, một tay sẵn sàng cái gói. Ông chồm người ra, liệng mạnh. Chừng đó con mắt hồi hộp theo tay ông. Cái gói của nợ đã rơi đâu mất hút ở ngoài rồi, mà ông cụ thì né tránh. Một vòi nước tưởng đâu từ trên trời rót xuống, nhẩy múa ngoài cửa xe. Mặt mũi, tóc tai ông cụ ướt nhẹp. Chị đàn bà mập ú, nãy giờ, thây kệ cái gói của nợ bốc mùi, vẫn ngáy o o, bỗng vùng dậy, đập tay vào đùi cái bốp.

“Mèn ơi, cái cặp heo của tui…Nó tưới…hi hi. Tưới sao mà đúng lúc vậy nè. Hi hi, ha ha, hô hô hô…”

Chị ta tiếp tục cười, răng cửa văng đâu hết trơn. Cả xe dậy tiếng cười theo. Tài xế giật mình, cằn nhằn:

“Cái gì vậy? Cái gì. Bộ điên hết rồi hả?”

Bà chủ xe, gập cả người lại, vịn tay vào ghế:

“Chết mất, hi hi…hu hu…”

“Đụ má. Chết chưa. Chết đi…”

Tài xế rủa vợ, rồi mắt dán vào kiếng chiếu hậu.

Ông cụ râu ba chòm đã lùi vô trong, mặt mũi lơ láo, đầu tóc lưa thưa thì ướt nhẹp mà ba chòm râu thì vểnh lên. Coi, mấy chị đi buôn, cười gì mà tới nỗi nước mắt nước mũi ràn rụa. Ông cụ ngỡ ngàng, rồi bất bình, nhưng khi bắt gặp cả nụ cười hả hê của ông bạn già ngồi bên, thình lình chính ông cụ cũng há miệng cười ha hả.

“Hổng sao. Bà con cô bác chịu đựng rồi. Giờ tới phiên tui. Luật nhơn quả mà. Cứt heo thúi khác cứt người một chút, cũng là cứt cả…”

“Khăn đây cụ ơi. Lau đi. Thiệt khổ với cha quá mà.”

Một ông chuồi tớt cái khăn. Ông ta đã hy sinh một bình nước mang theo uống để dấp khăn cho ướt. Sau trận cười hả giận, mọi cái nhìn đến với ông cụ đã đầy vẻ thân thiện.

“Trời còn thương bà con. Hổng phải cứt. Mới nước đái heo. Phải hông? Bà con hửi coi.”

“Lão già mắc dịch, hết bắt ngửi của nợ của lão, giờ bắt hửi nước đái heo…”

Ông cụ cười xuề xòa. Chỉ thoáng chốc, trong xe như rộng rãi hẳn ra. Chị đàn bà ghế hai tám nựng con. Anh cán bộ huýt sáo miệng. Lơ xe mồi thuốc lá cho nhau. Bà chủ xe vui vẻ:

“Bà con cô bác thở đi. Thở nhiều vô cho khoẻ.”

Ông cụ râu ngắn đưa tay lau nhẹ cái lồng chim:

“Ca lên đi. Ca lên cho bà con cô bác nghe mày.”

“Nó biết hát hả bác?”

Anh cán bộ hỏi. Ông cụ khoe:

“Của thằng rể tôi đấy. Nó hát như có Bác Hồ giỏi lắm. Hát coi, mày.”

Con vẹt nhẩy nhẩy như né tránh. Nãy giờ mọi người cười sao nó buồn hiu vậy? Cái mỏ khoằm khoằm. Mắt ứa những gân máu đỏ, làm như chỉ chực mổ người ta. “Động viên” con vẹt không xong, ông cụ đùa với bạn:

“Nó tiếc cái của nợ của cụ đấy cụ ạ.”

“Má ơi, má à. Ăn.”

Lại thằng bé. Ông cụ râu chòm lẹ làng lôi trong bị lát ra mấy cái bánh cam, chuyền qua hàng ghế sau tới tay thằng bé. Nó đút ngay vào mồm.

“Đó, lại cho thằng nhỏ ăn ba cái đồ ma vào, nó lại bĩnh ra thêm một gói nữa.”

Chị đàn bà làm thinh. Ai biết chị nghĩ gì. Thằng con thì ăn lấy ăn để, mà chị thì cứ đưa mắt ra ngoài cửa sổ. Xe đi ngang qua những miếng đất khô cằn, cỏ cũng không mọc lên nổi. Rồi một khu xóm có vẻ bỏ hoang từ thời chiến tranh, những hàng dừa xanh, nối tiếp nhau. Có cây dừa, đứng trơ vơ giữa đồng trống, ngọn bứt đâu rồi, chỉ còn thân cây cụt đầu, nám cháy.

Trong xe đò, mọi người đang lúc vui vẻ quá đáng. Lại có chuyện tiếu lâm đời xưa.

…Hồi đó, trai gái hẹn hò chỉ có nước đem nhau ra đồng, chớ làm gì có khách sạn, nhà ngủ như thời bây giờ. Cô cậu tình tự sau bụi cây. Chàng kêu: Anh mà không lấy được em thì anh chết…Nàng cũng: Em mà không lấy được anh thì em cũng chết. Sau bụi cây có ông lão táo bón. Đang khổ cực vì cục nợ đời. Nghe trai gái nỉ non, ông la lên: Tao mà ỉa không ra, tụi bây cũng chết…

Câu chuyện trong đời, người nào cũng đã nghe mòn tai, vậy mà ôi thôi, cười tới nổ bóng đèn.

“Chết thiệt chứ. Ở ngoài tôi, chỉ vì cục cứt mà đánh nhau vỡ sọ nà thường.”

15Giọng miền Bắc đặc sệt. Người đàn ông, nãy giờ chưa hề mở miệng, lên tiếng. Cán bộ nữa chắc? Cũng áo bộ đội mà sao coi xác xơ, tiều tụy.

“Trong Nam, gì chứ món phân tươi, quả nà vượt chỉ tiêu. Ở ngoài Bắc chúng tôi, phân tươi quí như vàng. Các bác mà ra ngoài đồng, ngồi chưa yên chỗ đã có cả chục cặp mắt theo dõi, rình mò. Vừa đứng dậy nà đám hốt phân nập tức ùa tới, giành nhau, đôi khi đòn gánh còn phạng nhau vỡ sọ ấy chứ nị…Chả dấu gì cô bác, tôi nà dân Bắc kỳ chính hiệu bà nang trọc đây. Trước cũng nàm nghề bới cứt rồi, mà đủ sống đâu. Nhà nước phát động kế hoạch giãn dân vào Nam. Nghe nói trong Nam đất đai phì nhiêu, ruộng cò bay thẳng cánh, mà Mỹ Ngụy nó thả chất độc màu da cam, phá hoại căng lắm. Giờ, phải di dân ngoài vào tiếp quản, khai khẩn. Nhà nào hưởng ứng kế hoạch vào Nam, sẽ có tiền, cất nhà. Nghe động viên, thèm bỏ mẹ, mà vào rồi thì thấy có cứt gì đâu nào. Được miếng đất rừng, đồng bào đi kinh tế nàm sẵn trước khi bị đuổi vào sâu hơn trong rừng. Mình Bắc Kỳ, hậu phương nhớn mà. Phải có “ưu tiên đãi ngộ” chứ. Hưởng miếng đất trống, vậy nà xong phần đãi ngộ. Địt mẹ nó chứ. Nai nưng ra mà cuốc. Trồng trọt, chưa có cái ăn cũng phấn đấu ỉa ra để có phân tươi, ủ bón. Cả ngày, vợ chồng con cái cứ động viên nhau ỉa…”

Chẳng ai dám hưởng ứng lời bác ta. Có người làm như nãy giờ chưa hề nghe thấy gì hết trơn. Mấy chị thăm nuôi đang bàn luận về mấy ông chồng cải tạo.

“Mấy bà thấy hông. Ngay đường đi vô trại, bên đường cũng có đống phân ủ to như cái đồi. Có bữa đi ngang thấy mấy ông bới, gánh. Mấy ông vục cả tay vô, hốt vào thùng rồi gánh đi. Thiệt cầm lòng không đặng.”

“Ối dào. Còn đỡ. Hầm phân đào cả hố sâu, mấy ông học tập nhà mình phải nhảy xuống, đầm mình trong hố phân, múc vào thùng cho người khác kéo lên…”

Một chị đi buôn đang ăn dở miệng bánh tét, cằn nhằn:

“Thôi đi mấy bà. Nói toàn chuyện…”

Người đàn ông Bắc kỳ giãn dân lại chen vô:

“Đang nói dở, nói tuốt nuôn cho nó sướng nỗ miệng. Ngoài tôi còn khối cái nạ nắm. Ở những khu đông đúc dân cư, không thể tìm đường đi ra đồng để “giải quyết” được. Gặp Tào Tháo đuổi, cũng chạy bở hơi tai mới tới được khu nhà xí, nắm núc bĩnh ra cả quần. Ban ngày còn cái nạn xếp hàng chờ.

Ban đêm, càng hồi hộp thêm. Xong việc, đứng dậy, đi được mấy bước, đã có ánh đèn pin rọi để xử lý bãi phân rồi. Cái rì? Rọi đèn hả? Vâng, rọi đèn. Công an phải kiểm tra cả cứt nữa chứ. Thì “đề cao cảnh giác” mà. Xê I A nó nguy hiểm, nó dám nợi dụng “hố xí hai ngăn” của ta, gài tài liệu, hoặc niên nạc với nhau, chứ nại không hả? Còn nữa, cũng có thể nà dân đi đêm, rình hốt phân tươi. Ngoài chúng tôi, món này quí lắm, khối thằng sống bằng nghề bới cứt…”

Người khách ngồi cạnh anh ta, nãy giờ nghe, cứ cười cười. Chiếc áo lính cộng hòa cũ đã nhuộm đen, giặt nhiều lần bạc thếch, anh ta đưa tay sờ sờ cằm mà chẳng có sợi râu nào.

“Biết vậy. Bác không ở ngoải hốt cứt cho xong. Vô đây, cứt cũng không ai ị ngoài đồng cho bác hốt.”

“Biết. Biết chứ. Nhưng ngoài chúng tôi vừa có phát động phong trào mới, tên nà “hai nhiều một ít”, nên có hơi…khó khăn.”

“Cái gì mà hai nhiều một ít?”

“Hai nhiều là nàm nhiều, ỉa nhiều. Một ít là ăn ít.”

“Ăn ít thì lấy đâu ra mà ỉa. Thôi bác ơi, làm gì có chuyện…”

Anh cán bộ liếc xuống. Anh chàng giọng Bắc kỳ đặc đưa bàn tay lên, mọi người thấy anh ta cụt mất một bàn tay.

“Địt mẹ nó. Hy sinh ở chiến trường miền Nam đấy.”

Gặp thương phế binh rồi. Anh cán bộ quay đi. Lâu nay, xe đò thường bị thương phế binh chặn lại, xét, thu thuế. Mọi người còn nhớ, tết vừa rồi, thương phế binh đòi ăn không xong, đã mở chốt lựu đạn, cho nổ tanh banh một quán ăn ở Tân Định. Thức ăn không được nhồi nhét vô bao tử thì tanh banh cùng với máu thịt của anh ta.

Anh cán bộ quay lại thì đụng mắt nữ đồng chí.

“Cho địa chỉ lần tới có công tác, liên hệ tiếp nhé.”

Chị cán bộ cười tít, mắt có đuôi.

Tiếng cười rúc rích đâu ở mấy dãy ghế sau nghe thật nhột nhạt. Giọng ai đọc khe khẽ: Em như cục cứt trôi sông. Anh như con chó ngồi trông trên bờ. Đâu biết nói ai hay vui miệng, mà chị cán bộ cúi đầu. May quá, giọng Bắc oang oang của người đàn ông cụt bàn tay, đập mạnh vào tai mọi người:

“Này, mấy chị đi thăm nuôi học tập ơi. Hai đứa con tôi nàm việc với mấy chị đó. Đi học hả? Giời ơi, học với hành gì. Phải đi bộ ba chục cây số, tới thị trấn mới có một cái trường. Thầy giáo ngồi ngáp ruồi, bày bắp nướng bán. Nàm sao chân trẻ con đi bộ tới đó mà học được. Mấy đứa con tôi ngày nào cũng chực chờ ngoài lộ để gánh thuê cho mấy chị thăm nuôi này này… Có hôm, tụi nó bị công an rượt chạy trối chết. Tóm được, thu hết tiền còn dọa bắn bỏ. Hỏi mấy bà coi, có bao giờ mà gánh được vào tới cho các bà đâu, phúc đức lắm nà nửa chặng đường, đã phải vứt thí cho mấy bà, lo chạy thoát lấy thân…”

Đến lượt mấy bà đi thăm nuôi chồng cải tạo nhìn anh chàng thương phế binh hi sinh ở chiến trường bàn tay, với đôi mắt thương hại. Anh ta đâu được gì, mà coi, cái đầu tay cụt đỏ hỏn, thành sẹo cứ nhắc anh hoài: chiến trường, chiến trường…chiến thắng, chiến thắng. Tội nghiệp.

Ông cụ râu ba chòm, coi bộ đã nhẹ nhõm, an tâm tư tưởng, lim dim gật lên gật xuống. Lơ xe tên Ba đang tán một chị đi buôn, đá qua đá về. Lơ xe Rạng thọt gậy vô bánh xe:

“Nó con nít vậy mà đã một vợ hai con rồi đó bà ơi. Gan thì dính vô đi…”

“Nhằm nhò gì. Tao bốn năm đời chồng rồi nghe mầy. Mười một quận, cách mạng đi đứt quận nhì, còn mười. Mười quận, tao vô ra đủ rồi, mầy…”

Mấy chị đi thăm nuôi, kẻ quay lui, người xích tới, tụm lại. Không biết kể cho nhau nghe chuyện gì bi thương mà có chị nước mắt lưng tròng…

“Thì đó. Bữa đó có tui chứng kiến tận mắt. Chết chớ sống gì nổi. Ôi thôi, ỉa từ đầu hôm tới khuya. Cứ òng ọc, òng ọc. Thuốc hả? Thì có. Tụi này góp hết thuốc đem lên cho mấy ông ra, uống đủ thứ, cầm nổi đâu…”

“Ăn trúng cái gì?”

“Ăn gì mà trúng. Uống có hớp nước ở trạm xét ngoài cổng trại. Thì khát, xách cả năm sáu chục kí lô, vô tới thì khô người rồi…”

“Đi đâu cũng nghe chuyện chết. Tháng trước mới một người rồi. Nghe nói tù ngoài Bắc chuyển vô. Phạm kỷ luật, nhốt hầm đá…Mấy ông kể, trước đêm anh ta chết, cả trại nghe tiếng hú như ma quỷ kêu… Chồng hả? Xin ra gặp vợ cũng không được, nghe đâu anh ta phát điên luôn rồi…”

32Một chị đi buôn tiếp lời:

“Tui biết chuyện này. Bữa mấy người đi thăm với bà chị bị chết đem đứa con gái của chị ta về cùng chuyến xe đò này. Khóc gì mà khóc dữ. Mấy bả khóc, con bé khóc, ngồi trong xe mà rợn cả người…”

Chị ta buông tiếng thở dài, rồi liếc mắt nhìn ông cụ, vừa mới mở được mắt ra, che tay ngáp.

“Bữa đó, trên xe cũng phảng phất cái mùi như bữa nay này. Từ quần áo của mấy bà và đứa bé bốc ra. Mùi của người ta nghe mà thương đứt ruột, chớ đâu phải dô diên như cụ, cụ ơi.”

“Ừa, thiệt tui già mà vô duyên quá.”

“Không vô duyên đâu cụ ơi. Nhờ cụ mà cuộc tọa đàm về chuyên đề “cứt” càng lúc càng phong phú. Tôi cũng có chuyện muốn đóng góp đây.”

Tài xế, mặt mũi đã dịu lại nhiều rồi, vừa lái vừa nói:

“Anh này nữa. Tiền xe năn nỉ trả có nửa, kể nửa chuyện thôi nghe, cha.”

“Được, được. Tui xin giới thiệu, cán bộ làm ởø cơ quan…Xin lỗi, cán bộ chuyên ngành cục…phân bón…Đó, quí bà con cô bác lại cười rồi…Vâng cục…phân bón. Cục…phân bón của chúng tôi không chiếm công ốc cao lớn, thênh thang như các cục đường biển, cục đường bộ, cục đường sắt. Mà chỉ khiêm nhượng ké một phần địa điểm của cục đường sắt…đường sắt đây là đường rầy xe lửa.”

Buồn cười. Nhiều người đã đoán được hết câu chuyện mà cũng cứ nghệt mặt ra chờ.

“Thôi cha nội. Cục đường sắt gì lại ra đường rầy xe lửa…”

“Đúng vậy. Ở Hàm Nghi có một khoảng đường rầy xe lửa bỏ không nhiều năm nay. Bà con bụi đời khu vực Hàm Nghi, chợ Cũ, ban ngày ban mặt mà tới lúc “công an” gọi là tới ngay đó để “tọa đàm”. Tui cũng vậy, hễ là dân bụi đời, vô gia cư, thì cũng phải ghi tên vào cục…phân bón này…”

Anh cán bộ ho. Chắc anh ta muốn tằng hắng ra oai thì đúng hơn. Giọng anh Bắc kỳ di dân vô Nam ra vẻ dạy đời:

“Thôi đi anh bạn ơi. Đã nói khôn cũng chết, dại cũng chết. Biết thì sống. Anh nói hươu nói vượn gì thế? Sắp tới trại cải tạo rồi đó.”

“Cám ơn anh bạn nhắc chừng. Thì tui cũng hai năm cải tạo rồi đây. Về nhà, vợ con bị cá ăn hết trơn, mới phải lang thang bụi đời, làm việc tại cục phân bón…Tui đi cải tạo còn có chính nghĩa, vì mình là lính Ngụy, nợ máu đầy mình. Chớ cái bà cụ ở khu xóm “người tình” mới của tui mới là vô duyên. Bữa mới đây này, họp tổ dân phố, cán bộ tới phường thuyết trình tình hình chính trị và những chuyển biến mới của Liên Xô vĩ đại. Cán bộ cho biết, bên Liên Xô sướng lắm, nhà ở đêm không phải đóng cửa… Lời cán bộ chân thành mà có đứa phản động dám xuyên tạc nói là cửa đâu mà đóng, cạy gỡ làm củi sưởi mùa đông rồi…Còn bà cụ mới khổ, già, ngớ ngẩn, lại lãng tai. Cán bộ nói chủ tịch mới bên Liên Xô là cái ông ba chớp ba nháng gì đó. Bà cụ ngóng hoài, lọt vô lỗ tai cái gì mà gốp ba ra cốp lốp chốp…Bà cụ mới gật gù: À tên tuổi bên Liên Xô vĩ đại thiệt lạ há: Móc cức khô ra đớp…ra đớp, ra đớp…

Đợi cho bà con xong trận cười, anh ta thở dài, não nuột:

“Bà con cô bác biết đó. Cũng vì bà con đã cười mà bà cụ bị nhốt vô Phan Đăng Lưu. Bà cụ bị nhốt, thân tui lại càng đau khổ, bởi vì tui là “Người tình không hộ khẩu” của con gái bà cụ…Tui phải bỏ thành phố ra đi, góc biển chân trời…”

Cán bộ nữ ghé tai đồng chí. Cả hai mặt mũi có vẻ khẩn trương. Mấy chị đàn bà còn cười dai dẳng. Còn anh chàng, đang rầu rĩ, bỗng cất giọng hăng hái, hớn hở:

“Bác tài ơi. Cho xuống. Xuống.”

Trời sụp tối lúc nào không hay. Xe thắng gấp làm mọi người nhào lộn. Anh khách “cục phân bón” lẹ làng bước xuống. Bộ đồ cũ vá nhiều miếng và cái túi xách nhẹ hều, anh ta còn đưa tay chào tài xế:

“Cám ơn. Mới có nửa câu chuyện đó nghe, cha.”

“Thằng láu cá. Hắn lên xe lúc nào vậy?”

Cán bộ hỏi trổng. Không ai trả lời. Nơi kính chiếu hậu, vài người thoáng thấy nụ cười của bác tài.

Có tiếng ca lảnh lót vang lên từ cửa xe: như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”

“Thấy chưa bà con. Nó ca đấy.”

Ông râu ngắn cao giọng, khoái trá ra mặt. Ông cụ râu ba chòm với tay qua người bạn già, đập đập vào lồng chim.

“Ca đi. Ca tiếp mày. Vẹt.”

“Đụ má mầy.”

Bất thình lình con vẹt chửi. Cả xe lại cười nghiêng ngửa. Thì ra nó biết nói. Ông cụ râu ngắn lắc đầu:

“Tệ thiệt bà con coi. Nó biết ca chớ. Vậy mà lì lắm. Khi tới cơn thì ca hát luôn miệng, không thích là ngậm tăm, bẻ cổ cũng không nhúc nhích. Lại cứ thích làm chim cu nữa kìa, bắt chước kêu cho được cục cù rù, cục cù ru…Đừng gọi nó là vẹt. Hễ gọi Vẹt là nó chửi.”

“Ê, Vẹt. Vẹt.”

Trong xe rộ nhiều tiếng la.

“Đụ má mầy. Đụ má mầy.”

Con vẹt xù lông, nhảy vòng vòng. Chỉ chửi. Nhất định không kêu cục cù ru, cúc cu rù nữa.

Thấm của nợ. Đủ chuyện. Mệt. Đói. Hành khách bớt hăm hở. Mọi người hỏi tài xế sắp tới chỗ dừng lại nghỉ chưa. Bà chủ xe hứa hẹn sắp được nghỉ ngơi ở quán cơm tới. Chừng tiếng đồng hồ xe chạy nữa thôi.

Hai cụ già đừ rồi, nghẹo cổ, dựa đầu, nhắm mắt. Tài xế tắt ngọn đèn trần. Anh cán bộ tức thì thụt đầu xuống, rồi cả cái đầu của chị cán bộ nữa.

Cây cối bên ngoài, lờ mờ như bức tranh bị bôi dập. Thoang thoáng những đốm đom đóm lập lòe. Lâu lâu, một vài đóm lửa, nhà ai giữa đồng. Rồi từ sau bóng cây, hiện ra một bóng trăng non. Trăng cứ đuổi theo xe mãi.

Trong bóng đêm, chiếc xe cứ vậy lao tới như một con vật không ngớt gầm gừ. Bỗng một tiếng nổ lớn. Vài tiếng la. Chiếc xe lảo đảo chồm tới, vòng vèo, muốn lật. Cả xe nhốn nháo. Máy rú lên rồi tắt phụt. Đèn xe tắt theo. Chỉ có bà mập, lơ mơ nửa ngủ nửa thức, giọng nhựa nhựa:

“Tới rồi hả?”

Một ánh đèn pin soi. Giọng bà chủ kinh hoàng:

“Mèn ơi.”

Chiếc xe húc vào một mô đất, nằm chênh vênh. Phía dưới là đáy vực sâu thăm thẳm. Chỉ giọng bà chủ xe là còn đủ hơi sức.

“Lạy thánh. Lạy ba cô, bảy miểu…Đã đỡ cho…Rạng. Ba. Rạng. Chúng mày đâu? Hai thằng trời đánh. Đem nhang đèn, chuối, bánh ra lễ tạ…Thánh ơi…”

Có tiếng cười xì của anh cán bộ, ra điều khó chịu vì sự mê tín của bà chủ xe. Nhưng khi anh ta chồm tới, nhìn cái miệng vực, anh cũng co đầu rụt lưỡi. Xe lại bể bánh lần thứ ba. Lần này, nhằm ngay cái bánh trước.

“Phước đức lắm thánh mới đỡ cho đấy.”

Bà chủ xe không ngớt hít hà.

Giữa rừng. Con trăng lưỡi liềm không nỡ chạy nữa, dừng lại, ngó xuống. Một cái đèn bão được đốt lên. Trong ánh lửa bập bùng, trên từng khuôn mặt hành khách, còn nguyên vẻ hoảng hốt.

Hai ông cụ xuống xe, bê theo cái lồng chim. Chị thăm nuôi mang xuống giỏ gà sống. Bà mập cầm cái bình dấm dúi cho lơ xe.

“Thôi bà ơi. Xe còn chưa lo, lo cho heo của bà. Heo quan trọng hơn mấy cái bánh xe sao đây.”

“Mày nghe nó kêu không? Nó khát, khô cổ rồi. Lẹ lên.”

“Cái bà này…Để cho người ta…Thiệt kỳ đà cản mũi…”

Tài xế gọi mọi người xuống xe hết. Nhìn cái bánh xe xẹp lép, ông ta ngao ngán:

“Hết bánh sơ cua rồi. Phải đợi có xe xuống quá giang tìm chỗ vá vỏ ruột. Đù má, vỏ ruột gì cũng lô can không, mới chạy một tháng đã banh ta lông mẹ nó hết trơn. Cô bác, mời xuống. Xuống hết. Còn bà nội nữa. Mời bà nội xuống ngay cho, bộ phải cõng xuống sao đây.”

Tài xế nổi quạu. Chị đàn bà, vẫn ngồi trong góc, ôm đứa con nhỏ. Mệt. Đói. Đờ đẫn một lúc, chị cũng mang thằng nhỏ xuống được.

Tài xế:

“Đó, dư thời giờ cho bà con cô bác nghỉ ngơi. Ai muốn đi ỉa thì đi ỉa đi. Làm ơn ỉa cho nhiều vô. Vá xong xe, tới quán tha hồ mà ăn.”

“Thằng cha cà chớn…”

Có tiếng rủa, nhưng rồi mọi người cũng thông cảm. Coi kìa, cả sản nghiệp của bác ta, cái xe đò, nằm mọp như như một đống sắt rỉ ngay bên miệng vực thẳm. Không chỉ bánh xe xẹp lép đâu. Hình như, chỉ cần một cái rung nhẹ, một hòn đá bất ngờ, không chừng cả cái xe cũng rã ra thành nước.

Vậy mà nó vẫn ì ạch chở bao nhiêu là sinh mạng, đùa với rủi may. Còn lâu nó mới tới được bến.

Chẳng ai còn hơi sức thắc mắc tới điều này. Cục cù ru. Cúc cù rù. Cái con vẹt khỉ gió, cứ bắt chước tiếng kêu của loài chim câu. Ông già râu ngắn trao cái lồng cho ông bạn râu ba chòm:

“Bác giữ nó dùm chút. Giờ tới phiên tui vô bụi.”

Thụy Điển, 1990.

kalua
Posts: 836
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Đừng Yêu Người Làm Thơ
Đợi cho Quang ra khỏi nhà là mẹ tôi nói ngay:
- Anh Quang này trông đứng đắn đàng hoàng đấy, vậy con liệu mà bảo nó tính đến chuyện hỏi cưới đi.
Tôi đáp với lòng hãnh diện:
- Sớm muộn gì anh ấy cũng phải lên tiếng thôi, con việc gì phải bảo người ta cho nó mất giá trị !
- Mẹ thấy mấy đám trước cũng tử tế như thế này, cứ kéo dài hò hẹn, tìm hiểu mãi rồi ai cũng rút lui, chẳng hiểu họ chê con vì điểm gì? nên lần này con phải chủ động giục cưới cho chắc ăn, kẻo lại thêm một mối tình lỡ.
- Mẹ yên tâm, đây sẽ là mối tình cuối cùng của đời con.
Mẹ tôi cũng không quá lo xa đâu, có nhiều mối tình đến với tôi, nồng nàn tha thiết bao nhiêu nhưng vẫn không đi đến kết quả tốt đẹp. Mẹ tôi bảo tại tôi lãng mạn quá, trái tim dễ rung động quá, nên yêu nhiều mà chẳng được bao nhiêu, yêu chưa đúng người.

Tôi đã biết yêu từ năm 12 tuổi, hồi đó ở Việt Nam vẫn còn là tuổi của ngây thơ khờ dại. Tôi rất thích ăn mì của cái tiệm ở đầu đường nhà tôi do một người Hoa làm chủ, đứng nấu mì là một anh ba Tàu trẻ, thường thì mẹ dẫn tôi đi hay có khi tôi thèm thì xin tiền mẹ chạy đến tiệm ăn một mình. Dù đi với mẹ hay không, tôi đều thích đứng cạnh xe mì để nhìn ngắm anh Tàu trổ tài nấu mì, anh để một vắt mì vào thùng nước sôi và nhanh chóng vớt lên bằng một cái vợt lưới, bàn tay anh thao tác nhuần nhuyễn, hất tung vắt mì lên vài lần cho ráo nước và sau cùng hất vào tô, bao giờ cũng chính xác, không rớt ra ngoài. Xong anh bày lên những miếng thịt heo nạc thái mỏng còn viền màu đỏ vì đã được ướp xá xíu, một thìa tóp mỡ thái hột lựu, và một thìa củ cải mặn cũng thái hột lựu, rồi mới đến những cọng hẹ cắt khúc ngắn. Anh mở nắp vung thùng nước lèo, cả một mùi thơm bát ngát theo hơi khói bay ra, thuở đó trong mắt tôi thùng nước lèo to, sâu thẳm ấy là một công trình vĩ đại và kỳ bí như trò ảo thuật, vì chẳng biết anh Tàu nấu bằng xương thịt gì, bí quyết gì mà nước lèo thơm ngon thế ? Có bao giờ tôi ăn tô mì mà chẳng húp hết nước sạch sẽ đâu!

Khi thì anh Tàu bê tô mì ra bàn cho tôi, khi anh bận thì tôi tự làm lấy vui vẻ. Tôi thích ăn mì và yêu cả anh Tàu nấu mì, không biết vì anh trẻ đẹp trai vui tính hay vì anh là người đã nấu cho tôi những tô mì ngon ?

Tôi đến tiệm mì thường xuyên đến nỗi anh Tàu nhớ mặt tôi, có lần anh vừa vung vẩy biểu diễn hất vắt mì vào tô vừa cười cười với tôi : “ Hày, con nhỏ này là khách quen của bổn tiệm mà, để tao cho mày thêm vài miếng thịt”.
Hôm ấy tôi ăn tô mì đặc biệt nhiều thịt, vừa sung sướng vì anh nhớ đến tôi, vừa buồn buồn vì anh gọi tôi bằng “mày” và xưng “tao”. Anh Tàu chẳng biết rằng con bé ranh này đang yêu anh, hôm nào không có tiền ăn mì, đi học về qua tiệm tôi đi chậm lại một chút để nhìn thấy anh rồi mới chịu đi nhanh về nhà, tương tư anh nên tôi đã nói với mẹ: “Lớn lên con sẽ lấy anh Tàu bán mì“.

Mối tình đơn phương đầu đời có liên quan đến vấn đề ăn uống ấy chỉ tồn tại được một hai năm, không phải vì có vài lần tôi thấy vợ anh đứng nấu mì thay cho anh, là một chị mập ú, luôn luôn mặc áo sát nách để hở hai cánh tay béo mỡ, vừa nấu mì vừa xổ một tràng tiếng Tàu với hai đứa con nhỏ đang luẩn quẩn bên cạnh, mà vì càng lớn tôi càng có nhiều sở thích khác ngoài ăn mì. Tôi thích đọc sách báo, thơ truyện, tôi biết tưởng tượng đến một người yêu thanh tao gấp mấy chục lần anh Tàu của tôi thuở tôi 12 tuổi.
Năm tôi học lớp 11, đã có vài bài thơ đăng báo nên cả lớp “nể mặt” và đồng loạt bầu tôi làm Trưởng ban báo chí của lớp, sau khi tôi đi họp để bầu Trưởng ban báo chí của toàn trường, tôi phải đứng trước lớp báo cáo lại kết quả buổi họp đó. Tôi đâu có tài ăn nói trước đám đông, trong khi bao nhiêu con mắt đang đổ dồn vào tôi, làm tôi bối rối thì ít mà thằng lớp trưởng đứng bên cạnh làm tôi bối rối thì nhiều, vì tôi yêu và nể nó, tính tình nó hiền lành, ăn nói lưu loát và có tài lãnh đạo. Tôi lí nhí kể lại buổi họp cho thằng lớp trưởng, khi một người ngồi dưới hỏi chị trưởng ban báo chí lớp ơi ! đã bầu xong trưởng ban báo chí toàn trường chưa? Thì thằng trưởng lớp dõng dạc trả lời giùm tôi “Chị cho biết là chưa có bầu”. Cả lớp cười ồ lên còn tôi thì đỏ mặt. Lớp trưởng vội vàng sửa lại, nói đầy đủ hơn: “Chị cho biết là chưa có… bầu trưởng ban báo chí toàn trường”.

Tình yêu là một trò chơi quanh quẩn, trong khi tôi yêu thầm thằng lớp trưởng, nó chẳng thèm để ý đến tôi, (bụt nhà không thiêng?) thì một thằng bên lớp 12 lại trồng cây si tôi mê mệt, luôn luôn tôi thấy có cặp mắt nào đó đang nhìn mình, những lúc tôi đang ăn chè đá đậu hay chấm mút trái cóc chua ngọt với muối ớt trước cổng trường đều bị nó bám sát không rời, làm tôi phải nhịn thèm các món đó luôn vì mắc cở, cho đến cuối năm đó nó rời khỏi trường tôi mới được tự do ăn uống trở lại. Lá thư tỏ tình nó gởi tôi do một đứa bạn cùng lớp đưa lại chẳng bao giờ tôi trả lời vì tôi không yêu nó. Sau 1975 nó đi vượt biên với vợ con và mất tích ngoài biển khơi.
Tôi nghĩ đời tôi có hai cái may, nếu mối tình với anh ba Tàu mà thành sự thật thì bây giờ tôi đã là chị ba Tàu, chắc cũng mặc áo sát nách đứng nấu mì thay cho chồng và quát tháo lũ con om sòm bằng tiếng Tàu rồi ! hoặc nếu tôi lấy anh chàng lớp 12 si tình kia thì giờ này tôi cũng mất tiêu trên biển với nó rồi !

Cho đến năm tôi 20 tuổi, trước khi đi định cư ở Mỹ thì trong tâm hồn tôi đã có một đống những người tình lý tưởng lấy ra từ trong tiểu thuyết và phim ảnh, Rhett Butler của “Gone With The Wind”, Zhivago của “Dr. Zhivago”, hay ông linh mục Ralph của “The Thorn Birds” hay “chú” Sách tử tế và bao dung yêu vợ trong “Tình nghĩa vợ chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch v.v… Tôi từng bị tiếng sét ái tình với người trong phim truyện, thì với người đời bằng xương bằng thịt là lẽ đương nhiên, nhưng dù sét đánh dữ dội thế nào tôi cũng không bao giờ chết, yêu nhanh và quên cũng nhanh. Mẹ tôi bảo tính tôi lãng mạn, mê làm thơ, mê đọc thơ nhiều quá rồi nó vận vào người, toàn là những mộng mơ ảo tưởng ! Đã hơn 30 tuổi rồi mà vẫn chưa “tỉnh” người ra để kiếm một tấm chồng, để sinh con đẻ cái như người ta. Tôi chống chế, thời buổi này người ta lập gia đình trễ sau khi đã có công danh sự nghiệp. Mẹ tôi lẩm bẩm, nhưng con không bận học hành, không làm ăn buôn bán, chỉ đi làm hãng xưởng thì sự nghiệp gì mà chờ đợi cho nó già cả người hở con?

Ba mươi mấy tuổi ! chưa già, nhưng cũng không còn trẻ ! Tôi không “nhìn lên trời” để tìm Rhett Butler hay Dr. Zhivago nữa, mà đã hạ tiêu chuẩn, tìm nhũng người thường xung quanh tôi, lần này tôi sẽ không để mất Quang vì tôi yêu anh và anh cũng yêu tôi như thế.

Đã mấy tuần trôi qua, chẳng hiểu sao Quang không liên lạc với tôi, cell phone và e-mail đều im lặng. Lạ quá ! những tín hiệu tôi gởi đi nhưng anh vẫn không hồi đáp.
Một người bạn thân của tôi báo cho tôi một tin không thể tin nổi là Quang đang quen với một người con gái khác, tôi cười khỉnh vào mặt bạn tôi rằng, đó là tin đồn thất thiệt, mày phải nhớ là Quang yêu tao như thế nào! chiều chuộng từng sở thích của tao như thế nào ! và nhất là Quang yêu thơ của tao nũa ! Anh tìm đâu ra một người yêu vừa lãng mạn vừa biết làm thơ ? người nào mà lấy tao thì cuộc đời sẽ đẹp như thơ.

Tôi bỗng nhận được lá thư của Quang gởi từ bưu điện. Chẳng hiểu sao E-mail tiện lợi, anh không dùng, hay anh muốn cứu giúp ngành bưu điện đang ế ẩm, để các mailman có việc làm ?
Thái độ im lặng thật lâu đã lạ, cách liên lạc của anh càng lạ hơn làm tôi hồi hộp khi bóc thư ra, nhưng tôi vẫn tin rằng đó là một lá thư dài tràn đầy lời thương nhớ và tới tấp xin lỗi em yêu ! Tôi trải tờ thư phẳng phiu ra và khoan khoái đọc:

Thương gởi em ! (biết ngay mà, tôi nghĩ )
Suốt mấy tuần qua, anh đã suy nghĩ rất nhiều trước khi viết lá thư này. Anh phải viết bằng thư tay để em đọc xong và suy ngẫm, chứ gởi qua e-mail coi chừng em delete mất !
Em ơi, chúng mình đã yêu nhau hơn một năm trời, đã bao lần hò hẹn, gặp gỡ tìm hiểu nhau, đủ để đi đến một quyết định… (đọc đến đây tôi nhắm mắt lại, thở phào một cái sung sướng trước khi đọc tiếp lời cầu hôn năn nỉ của anh ta)…
Anh nhận thấy một điều rất rõ ràng là : Anh không thể lấy em ! Có nghĩa là chúng mình sẽ chia tay từ đây ! Vì em lãng mạn quá, em như sống ở trên mây, anh đã cố gắng chiều chuộng em, nhưng thà chiều chuộng một đứa trẻ, khi nó lớn lên một chút là thôi, còn chiều chuộng những đứa làm thơ như em thì phải cả đời.

Em đâu có biết, anh đã mệt mỏi căng thẳng biết bao để chiều lòng em ! Nừa đêm anh đang ngủ ngon để mai đi làm sớm thì em gọi cell phone đánh thức anh dậy để… khoe một câu thơ vừa hiện ra trong đầu, em đọc cho anh nghe, anh mắt nhắm mắt mở chỉ thèm ngủ chứ đâu có thèm nghe thơ, dù hay cỡ nào cũng không thành vấn đề đối với anh trong lúc này. Vậy mà anh phải khen hay, nhưng em không tin, còn bắt anh phân tích hay ở chỗ nào? Anh đành làm nhà phê bình văn học thơ em cho tới sáng, cho tới giờ đi làm. Anh không lạng quạng lái xe đụng người ta trên highway đầy nghẹt xe là may phước cho nhà anh rồi.
Những lúc hai đứa mình đi chơi, anh đang lái xe đến một địa điểm nào đó đã định trước, thì em chỉ huy anh phải quẹo hết con đường này đến con đường khác, mặc dù em không biết nó về nơi đâu ! Nhưng đó là những con đường có hàng cây đẹp làm em mơ mộng, nổi máu muốn làm thơ.
Cái hôm mình đi ăn đám cưới một người bạn, em còn nhớ không? Chỉ vì anh đi theo những con đường thơ mộng đó theo bất chợt cảm hứng của em, mà đến trễ 3 tiếng đồng hồ, vượt hẳn kỷ lục đi trễ của người Việt Nam mình khá xa !

Yêu em nên anh ráng hy sinh, nhưng chuyện chiều chuộng em cuối cùng vừa rồi thì anh chịu hết nổi, và em có còn nhớ không? Đó là một buổi chiều Chủ Nhật, ngày vui của Weekend đã tàn, ai cũng cần nghỉ ngơi để thứ Hai đi làm, trời lại đang gió mưa, thật ấm cúng khi được ngồi ở nhà ăn bữa cơm chiều, hay xem tivi, đọc báo… thì em phone cho anh, đến gặp em gấp. Anh vội vàng thay đồ đến nhà em, tưởng em đang gặp chuyện gì khó khăn, cần có anh giúp một tay. Thì ra em rủ anh đi dạo phố chiều mưa với em cho …. vui, cho romantic. Em ơi, lúc đó mẹ anh mà bị bệnh, kêu anh ra chợ mua cho bà hộp thuốc, chưa chắc gì anh muốn đi, nhưng vì yêu em, thấy em phấn khởi , thích thú quá, anh đành chiều.

Trời mưa rả rích, gió lạnh từng cơn, trên con đường lá rụng ướt đẫm nước mưa, anh cầm dù che cho em là chính, còn anh hứng toàn bộ cơn mưa, ngày xưa còn bé, anh khoái tắm mưa, còn hôm đó anh tắm mưa bất đắc dĩ, mưa ướt anh từ đầu đến chân, người anh run lên vì lạnh, nhưng anh không dám kêu ca, để tôn trọng tâm hồn thi sĩ của em, để cho em hoàn tất được ý thơ cho bài “Hai đứa đi trong chiều mưa gió”.

Khi bài thơ ấy được đăng báo, may ra có một vài người cảm động vì thơ em, nhưng anh phải đánh đổi với cái giá rất đắt, suýt nữa bằng cả một sinh mạng ! Anh về nhà, tối hôm đó bị cảm lạnh, lên cơn sốt cao hừng hực, mẹ anh biết chuyện vừa xót xa thương con vừa tức giận, mắng anh là thằng ngu ! Nó đã dở hơi mà mày cũng dở hơi theo nó đi trong mưa như thế à ? Tao nói cho mày biết nhé, dù con dở hơi ấy có giàu, có đẹp đến đâu cũng không bao giờ tao muốn nó về làm dâu nhà này (Anh xin thề đây là nguyên văn lời của mẹ anh, chứ anh không nỡ gọi em là “con dở hơi”, cho dù anh thấy điều ấy cũng… không sai).

Hôm sau anh phải nghỉ làm, đi Bác sĩ và nằm nhà suốt tuần.
Em, một người làm thơ, có tâm hồn nhạy cảm vô song, một chút nắng đổi màu, một cơn gió xao xác chuyển mùa, hoa lá kia đang nở hay héo tàn… em biết ngay, em sản suất ra thơ ngay. Nhưng anh nằm ốm bệnh lu bù ở nhà thì em không biết, em chẳng đoán ra, chỉ gởi những lời nhắn khơi khơi trên e-mail hay cell phone là “Gọi lại cho em gấp ! Đến nhà em gấp !”
Em không hề thắc mắc là vì sao anh vắng mặt, vì sao anh im lặng, mà chỉ ra lệnh cho anh đến với em.

Sau trận ốm suýt chết oan đó, đọc thấy lời nhắn của em, anh sợ quá, sợ em lại rủ anh đi trong một cơn mưa gió cho một bài thơ khác sắp hiện ra trong đầu em, hay bắt anh chở đi lòng vòng khắp các nẻo phố phường có hàng cây lá đẹp, đến chóng cả mặt, và tốn cả xăng, thời buổi kinh tế khó khăn, giá dầu thô lên 82 đồng một thùng, em biết chưa ?
Nhờ trận ốm đó, anh đã tìm ra một chân lý là “Đừng yêu người làm thơ”, những đứa làm thơ như em, chỉ làm thiệt hại đến người khác, chỉ nương tựa vào người khác. Anh đến nhà em, lần nào cũng thấy mẹ em đang nấu cơm, chưa bao giờ anh thấy em đứng trong bếp, dù chỉ để cắt một cọng hành ! Anh dám chắc là trong đời em chưa bao giờ biết luộc rau muống, chứ đừng nói tới các món cầu kỳ khác ! Thế mà đã mấy lần em mời anh đến nhà ăn cơm chiều, em tự hào khoe, mẹ em kho cá, mẹ em nướng thịt ngon lắm, hay bất cứ món gì khác, mẹ em đều nấu ngon hết.

Em ơi, nếu anh lấy em, ai sẽ nấu cơm cho anh ăn? Nên anh đã tưởng tượng ra thảm cảnh tương lai, anh sẽ phải làm bếp và nếu có con anh sẽ kiêm luôn phần trông con, giặt giũ, quét dọn nhà cửa, để cho em rảnh tay làm thơ. Vì thế, anh quyết định chia tay em để quen với người khác, một con người thực tế 100 % , không biết làm thơ gì cả ! Chẳng sao, anh mở báo, mở net ra, có cả đống nhà thơ cho anh đọc, cần gì phải cưới một nhà thơ về để phải chiều nó cho mệt cuộc đời? Còn người vợ thực tế của anh sẽ biết đi chợ, sẽ biết lo cho anh miếng ăn, giấc ngủ.
Anh may mắn thoát khỏi tay em, nhưng anh chưa yên tâm đâu, sau này anh sẽ để di chúc truyền đời cho các con, các cháu anh để cho chúng biết mà tránh xa “Đừng yêu người làm thơ”.
Hôn em lần cuối.

Tái bút : Dù sao anh cũng luôn cầu mong em sớm kiếm được một người khác để thay anh dìu em đi trong mưa cho những bài thơ sắp tới của em. (anh tin rằng cuộc đời này lúc nào cũng có sẵn những thằng ngu như anh).

Đọc xong lá thư tôi vừa tức vừa đau khổ, yêu tôi được lãng mạn thế, anh không happy thì thôi, mà còn kết tội tôi và chấm dứt mối tình đang tha thiết. Tôi vùi đầu trong chăn, trong gối, để mặc cho nước mắt tuôn rơi và cõi lòng tan nát.

Nhưng tôi chợt vùng dậy, chạy ra lấy giấy bút ghi vội một đề tài, một câu thơ vừa xuất hiện trong đầu, vì trong đau khổ hồn thơ bỗng lai láng, nên dù buồn đứt ruột vẫn có xen lẫn một chút vui thú vì câu thơ vừa ý. Nay mai tôi sẽ có bài thơ đăng báo là “Hai đứa chia tay trong chiều mưa gió” Và nếu đúng như lời Quang đã nói trong thư, tôi lại chờ đợi một anh chàng ngu ngơ, lù khù nào đó sẽ đi vào đời tôi, để tha hồ mộng mơ tiếp, và hi vọng lần này sẽ… kiếm được một tấm chồng đồng điệu, biết yêu người làm thơ.

Nguyễn thị Thanh Dương

User avatar
bichphuong
Posts: 574
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

CHUYỆN TÌNH TRONG QUÁN CÀ PHÊ
NGUYỄN TRUNG DŨNG




Nếu lấy thống kê, đàn ông đa số thích uống cà phê còn đàn bà chỉ là thiểu số. Đàn ông đến quán cà phê thường để gặp bạn bè ngồi tán chuyện. Trong lúc tán chuyện, muốn hút thuốc lá thì hút, muốn nhìn gái thì nhìn. Thuốc không cấm hút ở những nơi này. Gái quán nào cũng có. Những cô gái được tuyển chọn thường trẻ và đẹp. Họ được chủ quán mướn không ngoài mục đích là thu hút khách vừa là nhân viên phục vụ. Phục vụ công việc đơn giản chỉ là bưng cà phê và dọn bàn hoặc làm những chuyện lặt vặt trong giờ quán vắng khách. Do điều kiện hay do tự nguyện, những cô tiếp viên thường ăn mặc rất giản dị. Áo với vải mỏng hở hang. Quần với gấu ngắn cũn cỡn. Váy với sợi mắt lưới phô bầy da thịt. Đấy không biết có phải là những lý do để, nếu thống kê, con số nam giới uống cà phê chiếm đa số so với thiểu số nữ giới trong các quán như thường thấy có lẽ là vậy. Nữ giới không thích đến quán cà phê uống cà phê có nhiều nguyên nhân để giải thích. Một là họ không muốn tới một nơi có nhiều đàn ông tụ tập, một nơi ồn ào với tiếng người nói chuyện, một nơi với tiếng nhạc phát ra từ dàn loa khuếch âm quá lớn, một nơi nồng nặc mùi hôi của khói thuốc lá, một nơi mà người ta chuyện trò những chuyện thiếu đứng đắn cần phải tự chế hơn là đi quá đà giới hạn. Hai là, nữ giới không có bạn bè cùng lứa cũng thích đến quán, thích uống cà phê ở một nơi như thế để ngồi tâm sự. Uống cà phê họ còn sợ làm da mặt sần sùi nổi mụn, sợ mất ngủ và sợ cả đến sự tiêu hóa bất bình thường.

Thùy là người ngoại lệ trong số nữ giới như vừa kể. Nói đúng ra, nếu trước đây khi chưa quen Tuấn, người bạn trai của nàng, thì Thùy chẳng bao giờ biết đến mùi cà phê. Mỗi lần rủ thì đi. Mỗi lần đi thì uống. Uống riết rồi quen. Từ đó đến nay, Thùy không bao giờ để ý đến chuyện uống cà phê có hại là bởi vì, những lúc đối diện với Tuấn ở quán, ngồi ở cái bàn nhỏ gần sát kính cửa sổ ngó ra đường, với ly cà phê để trước mặt, Tuấn và Thùy đã có những chuyện cần đưa ra để nói. Được cái, quán cà phê Thùy và Tuấn đến, nếu ở những cái quán Việt Nam ồn ào và sặc mùi khói thuốc, có những tiếp viên phục vụ với áo quần ngắn cũn cỡn hở hang, thì ở đây, quán cà phê Starbucks của Mỹ lại khác hẳn. Cà phê thuộc vào loại uống được. Phòng ốc kể ra khá khang trang. Chỗ ngồi thật sạch sẽ. Khách muốn ăn hay uống phải tự mình phục vụ. Đến quầy tính tiền, đặt món mình thích, thanh toán xong, bưng về chỗ ngồi để ẩm thực.

Kể từ khi không còn Tuấn, cái thói quen chỉ là một phần, nhớ đến Tuấn lại là chính, không thường xuyên nhưng có thể được gọi là thường xuyên, buổi trưa, Thùy lại lái xe đến quán cà phê ngồi uống. Thất nghiệp hai tháng, ở nhà chẳng có việc gì để làm, cũng là lý do Thùy đến quán cà phê. Bên cạnh đó, cái lý do chính đến quán là để nhớ lại Tuấn, người bạn cũng là người tình xa xưa, nay người đó đã vĩnh viễn không bao giờ còn gặp.

Xe đã đỗ ở bãi, Thùy đi thẳng vào quán. Tới quày lấy cà phê, trả tiền, Thùy đến cái bàn nhỏ, cái bàn đó may mắn là chưa có ai ngồi. Chính ở cái góc có kê cái bàn này, nơi trước đây, mỗi lần cùng Tuấn đến uống cà phê, nàng và Tuấn thường ngồi. Ngồi ở đó, mắt có thể dễ dàng nhìn ra ngoài đường phố để thấy xe cộ lưu thông, thấy xe “light rail” với dẫy toa từ đâu đó đổ về, thấy trên vỉa hè người qua lại. Bên kia đường ray của “light rail”, ở đó có một cánh đồng cỏ là đất bỏ hoang không được người ta sử dụng để trồng cây ăn quả hay cất nhà. Cuối bãi đất là phi trường dân sự. Từ dưới thấp cất lên cao, chốc chốc lại có chiếc phản lực nhấc mình bay vào bầu trời. Và xa hơn, một dẫy đồi thấp với sườn dốc thoai thoải hiện ra. Về mùa mưa, hoa cúc nở rộ. Một chỗ thật thích hợp và đúng với ý muốn của hai người. Vào giờ này, quán thường đông. Hầu hết những cái bàn đều có khách ngồi. Đông là bởi, giờ đó là giờ nghỉ của các hãng xưởng, của các văn phòng tọa lạc chung quanh đây, nên nhân viên thường rủ nhau đến quán ăn hoặc uống. Vào đúng lúc Thùy đang mải nghĩ về Tuấn, hồn như đi rong chơi, thì bất chợt nghe thấy có tiếng người hỏi:

“Xin lỗi cô. Tôi có thể ngồi chỗ này cùng bàn với cô được không.”.

Đưa mắt nhìn lên, Thùy thấy người vừa hỏi là một người đàn ông, áo quần “com lê” màu xám, cổ thắt cà vạt, lời nói nhã nhặn, tư cách đứng đắn. Không thể để người hỏi đợi lâu mà không có câu trả lời, Thùy vội lên tiếng:

“Ông cứ tự nhiên. Chỗ này còn trống. Ông có thể ngồi”..

Người đàn ông cám ơn. Cái ly cà phê và cái bánh sandwich có gói giấy được đặt xuống bàn. Uống và ăn, ông vừa nói:

“Tôi thấy phụ nữ rất ít người thích uống cà phê. Nhìn cô uống, tôi tự hỏi, không biết đây có phải là trường hợp ngoại lệ không”.

Thản nhiên, Thùy vừa cười vừa đáp:

“Ngoại lệ đúng như ông nói đấy. Đàn bà chẳng những đã không thích cà phê mà thấy cà phê còn sợ là đằng khác nữa”.

“Cô bảo sợ, tôi không hiểu tại sao lại phải sợ”.

Thùy đưa mắt lơ đãng nhìn ra bên ngoài đường phố, thủng thẳng trả lời:

“Người khác sợ uống cà phê, còn tôi thì không giống họ. Nói đúng ra, tôi thích uống cà phê chẳng qua cũng chỉ vì một người. Người đó yêu tôi và tôi yêu anh ấy. Những lúc hẹn để được gặp nhau, anh ấy thường đưa tôi tới quán, ngồi trầm ngâm bên ly cà phê, tâm tình trò chuyện. Nhưng bây giờ thì không còn cái cảnh đó nữa, dù vẫn là cái quán này, cái bàn này, cái ly cà phê này, nhưng chỉ còn có một mình tôi uống thôi ông ạ”.

“Tôi không dám chắc nên chỉ đoán phỏng chừng, có thể đây là một chuyện tình buồn như cô mới nói như thế có đúng không”.

“Tôi chưa quen ông, chưa biết ông là ai, lẽ ra tôi không nên nói ra mới phải. Buột miệng đã nói rồi, tôi nghĩ cũng chẳng cần phải giấu diếm ông điều gì. Giả thử nếu tôi nói, ông có thích nghe tôi nói không đã”.

“Cô không biết là tôi đang đợi nghe cô nói hay sao. Vậy cần gì phải hỏi tôi thích hay không thích. Dù đây mới chỉ là lần đầu tiếp xúc với cô, cô có thể coi tôi là người bạn tốt đáng tin cậy được. Biết đâu, chính sự tình cờ được ngồi cùng bàn với cô, có thể cô và tôi có mối quan hệ bạn bè thân thiết “.

“Như vừa mới đây tôi đã nói, cái quán này, cái bàn này, dù ly cà phê hôm nay không phải là ly cà phê trước đây, người tình của tôi và tôi đã ngồi uống, nhưng sau khi chiếc phi cơ đi Los bị ngộ nạn, thì kể từ đó anh ấy đã không còn. Cất cánh từ phi trường bay lên, bánh trật khỏi phi đạo, nó nổ rồi phát hỏa. Mọi người chết hết. Người tình của tôi cũng không thoát khỏi trong số người chết đó. Nhớ đến anh ấy cũng là lúc tôi nhớ đến cái quán này, cái bàn này, cái ly cà phê này, vào những ngày tôi còn ngồi uống bên anh”..

“Ngày tháng qua đi. Theo thời gian nỗi buồn rồi cũng vơi bớt. Tìm khuây khỏa trong công việc, nó sẽ giúp cho cô quên đi nỗi đau cô mang trong đầu”.

“Ông nói đúng. Những ngày tôi còn làm ở hãng, không đủ thì giờ để hoàn tất công việc người ta giao cho mình, thì còn chỗ nào hở để mà ngồi đó nhớ, vì thế tôi thực sự thấy thoải mái hơn. Nhưng bây giờ, hãng xuống, tôi bị sa thải, thất nghiệp ngồi ở nhà, nếu ông không là người rớt vào hoàn cảnh đó, ông không thể hiểu được đâu”.

“Vậy ra cô đang cần việc để làm”.

“Chắc chắn là như vậy”.

“Điều này tôi hứa với cô, tôi có thể giúp được cho cô nếu cô muốn”.

“Sao ông lại còn hỏi vậy. Nếu tôi không muốn, tôi đã chẳng nói cho ông nghe tôi đang bị thất nghiệp”.

“Được. Vậy thì, ngày mai, cô đến hãng này, địa chỉ này, cô điền đơn để xin việc làm”.

Nhìn đồng hồ đeo tay, người đàn ông vội đứng dậy:

“Tới giờ tôi phải đi. Cô nhớ sáng mai cứ đến đó nhé”.

Thùy chưa kịp cám ơn thì người đó đã bước nhanh về phía cửa. Đang thất nghiệp, muốn có việc để đi làm, lại có người giới thiệu chỗ làm để mình tới xin việc, đúng là lúc nắng hạn trời khô se, mây đen đem mưa kéo đến. Dù mới chỉ là lời hứa, việc chưa tới tay, đã chắc gì, nhưng Thùy vẫn hi vọng và tin tưởng ở người đàn ông đã nói với mình.

Sáng hôm sau, nhìn tên đường, nhìn địa chỉ ghi trên giấy, Thùy lái xe đến cái hãng ở vùng Milpitas. Đẩy cửa bước vào văn phòng, Thùy biết phải gặp ai và làm gì với cô nhân viên người Mỹ ngồi ở sau cái quày tiếp khách. Thùy trình bầy cho cô ta biết lý do mình đến để xin việc làm. Một tờ giấy từ tay cô nhân viên đưa cho Thùy với lời giải thích, Thùy phải điền những gì trong tờ giấy đó rồi sẽ hoàn lại cho cô ta khi đã xong. Ở một cái bàn nhỏ, Thùy đọc kỹ bản văn, rồi hí hoáy ngồi viết. Viết xong, Thùy đưa trả lại cho cô ta. Cô ấy nói đại ý là bảo Thùy cứ về, đơn sẽ được xét và chờ được gọi đến phỏng vấn. Chưa kịp bước ra khỏi văn phòng, Thùy đã thấy cô gái gọi giật nàng trở lại, rồi với ngón tay, cô chỉ cái ghế ra ý bảo Thùy ngồi. Ngồi chỉ một ít phút sau, cái cánh cửa đang đóng bỗng mở. Một người đàn ông từ cánh cửa mở đó bước ra. Ông ta lạnh lùng lên tiếng hỏi:

“Cô đến xin việc có phải thế không”.

“Phải. Thưa ông”.

“Được. Tôi là manager. Cô theo tôi qua phòng bên này”.

Khi đã qua cái phòng mà người đàn ông tự giới thiệu mình là “manager”, Thùy được ông ta bảo ngồi xuống cái ghế, cái ghế đối diện với ông ta, thì ở trên mặt bàn tờ đơn xin việc nàng vừa mới viết đã thấy để. Cuộc phỏng vấn bắt đầu:

“Cô khai trong này cô đang đi làm rồi bị sa thải”.

“Sa thải không có nghĩa là tôi đã vi phạm kỷ luật. Sở dĩ tôi phải thẳng thắn nói thế vì sợ ông hiểu lầm”.

“Cô đã nghĩ sai rồi. Tôi không thể hiểu lầm như cô vừa nói, với chức vụ một manager, tôi có quyền biết tận tường mọi vấn đề đối với một người mới đến xin việc”.

Với nụ cười khó hiểu, ông ta tiếp:

“Trong tờ đơn này, cô khai chuyên môn của cô làm tôi khó nghĩ đấy. Nếu nhận cho cô vào, tôi sẽ không biết có việc gì đúng với khả năng để giao cho cô đây”.

“Thưa ông, ông nói thế làm tôi có cảm tưởng ông muốn từ chối nhận tôi có đúng như vậy không”.

“Tôi chưa thể trả lời được”.

Vừa đúng lúc đó, cô nhân viên người Mỹ bước vào. Ghé tai nói nhỏ với ông “manager”, nét mặt đang cau có khó chịu, bỗng đổi thái độ thân thiện tử tế hơn.

“Cô đã được chấp nhận vào làm việc ở hãng”.

“Bắt đầu từ sáng mai thưa ông”.

“Sáng mai”.

“Tôi thành thật cám ơn ông”.

“Đừng nên cám ơn tôi như thế. Tôi có giúp được gì cho cô đâu”.

Kể từ ngày Thùy chính thức vào làm việc ở hãng cho đến nay, thời gian tính ra đã hơn một tháng. Một tháng, sáng đến hãng, chiều về nhà, Thùy đâu còn thì giờ để ghé đến quán cà phê gặp lại người đàn ông và để cám ơn ông ta đã tìm việc làm cho nàng. Không thực hiện được việc đền ơn đáp nghĩa, Thùy trong lòng vẫn áy náy không yên. Muốn giải tỏa được điều làm nàng bận tâm, Thùy nghĩ chỉ có một cách, buổi trưa vào cái giờ nàng biết chắc chắn người đàn ông hay ghé đến quán uống cà phê, Thùy sẽ lấy cớ có việc để về sớm.

Thẻ đã bấm, phép đã xin, từ hãng, Thùy lái xe đến quán. Vào giờ này, những cái bàn đều đã có người ngồi. Đảo mắt nhìn quanh một lượt, Thùy vẫn chẳng thấy bóng dáng người đàn ông mình cần tìm đâu cả. Thùy tự vấn: bữa nay ông ta bận nên không đến, hay ông ta đến uống xong đã bỏ ra về. Tự vấn rồi Thụy tự trả lời. Đúng vào lúc Thùy đã thất vọng, thì bất chợt, mắt Thùy nhác thấy một người đang ngồi ở cuối căn phòng, tay cầm tờ báo mở rộng, mắt chăm chú đọc. Tờ báo được bỏ xuống bàn, Thùy nhận ra đúng là người đàn ông mình đang muốn kiếm.

“Ông ngồi đây mà bây giờ tôi mới thấy. Cũng chỉ tại ông giấu mặt sau tờ báo làm tôi đâu có thể nhận ra”.

“Ủa. Ở hãng giờ này là giờ đang làm việc, sao cô lại có thể đến đây để uống cà phê như thế này được nhỉ “.

“Không, thưa ông. Tôi không đến đây để uống cà phê mà đến đây để gặp ông”.

“Gặp tôi. Cô cần tôi giúp cô việc gì nữa”.

“Tôi đã có việc, đâu còn dám làm phiền đến ông. Tôi đến đây là muốn để cám ơn ông.

“Cám ơn tôi. Cô khỏi cần cám ơn tôi có được không”.

“Sao ông lại nói như thế được nhỉ. Ông không cần tôi cám ơn tôi vẫn cứ cám ơn”.

“Thôi được. Tôi nhận để cô vui lòng. Đã đến, sao lại không uống cà phê. Uống nhé”.

Thấy người đàn ông tính đứng dậy để ra quày hàng, Thùy đưa tay ra cản:

“Bữa nay tôi không thấy thích. Đã trên một tháng, tôi không thể bỏ hãng để đi được, nên trên một tháng như tôi vừa nói, tôi đã không còn được uống cà phê”.

“Cô nói thế là có ý trách tôi đấy có phải không”.

“Tôi lại dám trách ông ... “.

“Thì cô mới nói, vì phải đi làm nên cô không còn thì giờ để mỗi buổi trưa, cô đến đây uống cà phê. Không phải là cô có ý muốn trách tôi đấy còn gì”.

“Ông lại suy diễn rồi. Sao tôi có thể trách ông như thế được”.

“Nếu không có việc phải đi, tôi sẽ ngồi đây cả buổi chiều này với cô để được nghe cô nói”.

“Ý ông muốn bảo tôi là người đàn bà lắm chuyện đấy có phải thế không”.

“Không. Cô đã hiểu sai rồi đấy”.

“Sao ông cứ nhìn đồng hồ hoài vậy. Ông cần đi sao lại không đi”.

“Ờ, tôi đi”.

Nói rồi, ông ta đứng dậy, môi nở một nụ cười, bước vội ra khỏi quán.

Đã gần tới giờ “break”, Thùy cắm cúi làm gấp cho xong cái “job” nàng vừa được giao, thì từ xa, “manager” đi vội đến, đứng ở cạnh chỗ Thùy ngồi, ông ta bảo:

“Cô Thùy. Cô theo tôi lên văn phòng có việc”.

“Việc gì vậy hả ông”.

“Cô không cần hỏi. Tôi nói cô lên văn phòng”.

“Cái job này là job hót, tôi đang làm gấp ông không thấy sao”.

“Hót hay không hót, cô cứ bỏ đó. Nếu ai nói, tôi chịu trách nhiệm”.

“Ông bảo vậy, tôi phải nghe theo lệnh của ông”.

Đứng dậy, đi theo “manager”, Thùy đã có mặt ở trên văn phòng. Đẩy cái cánh cửa đang đóng, ông ta ra dấu cho Thùy vào. Ngồi ở cái ghế, cái ghế đằng sau cái bàn, Thùy thấy người đàn ông nàng thường gặp ở quán cà phê. Ngạc nhiên, Thùy sửng sốt nói:

“Ủa. Sao ông lại đến đây”.

“Tôi đến để gặp cô”.

“Gặp tôi. Đang giờ làm việc, bất tiện cho tôi quá. Mà ông đến gặp không thôi hay có chuyện gì vậy”.

“Có. Tôi muốn mời cô đi uống cà phê”.

“Nếu không phải là giờ làm việc, ông không mời tôi cũng mời ông. Nhưng hôm nay, ông cho phép tôi được từ chối”.

“Tôi biết cô từ chối vì lý do gì rồi. Nhưng cô không cần lo chuyện đó”.

Thùy chưa kịp nói, người đàn ông đã đưa ngón tay bấm cái nút trên cái hộp để ở mặt bàn, cái hộp đã phát ra tiếng nói:

“Thưa ông ....”.

“Ông lên gặp tôi”.

“Dạ”.

Chỉ vài giây sau tiếng dạ, cánh cửa phòng mở, ông quản lý đã bước vào:

“Thưa ông giám đốc, ông giám đốc có điều gì chỉ thị”.

Tai vừa nghe hai tiếng giám đốc, mặt Thùy đã tái lại. Đấy chẳng qua chỉ là sự bất ngờ như sự bất ngờ trong lúc lái xe, chợt thấy có một bà già băng qua con lộ, không tự chủ được tinh thần, nên đã hoảng hốt.

“Ông cho cô Thùy đi với tôi để cô ấy phụ việc này cho tôi có được không”.

“Thưa ông giám đốc, cô Thùy là nhân viên của hãng, ông giám đốc có toàn quyền điều động bất cứ lúc nào, ông giám đốc đâu cần phải hỏi tôi như thế bao giờ ạ”.

“Ông thực sự nói chưa đúng lắm đâu. Là quản lý coi toàn thể nhân viên trong hãng, việc kiểm soát và điều hành trực tiếp dưới tay ông, muốn gì tôi cũng cần phải hỏi ông chứ”.

“Cám ơn ông giám đốc đã bảo thế”.

“Bây giờ thì ông có thể ra được rồi đấy”.

Chờ ông quản lý đã đã khép cánh cửa phòng, bấy giờ Thùy mới lúng túng nói:

“Tôi ... tôi xin lỗi ông giám đốc. Thực tình tôi không biết ông là ... “.

“Ý cô muốn nói tôi là giám đốc có phải như thế không. Giữa cô và tôi, điều đó tôi cho là không quan trọng. Ở hãng, trước mặt mọi người, đương nhiên không thể nào khác được, cô phải gọi tôi là giám đốc. Nhưng trong trường hợp chỉ có cô và tôi, lúc chuyện trò, tôi yêu cầu cô hãy quên cái chữ giám đốc đó đi có được không. Và tôi còn muốn thêm một điều nữa, cái chữ ông mà cô xưng hô, từ nay xin cô cũng đừng dùng đến nó.

“Ông giám đốc đã đặt tôi vào trường hợp khó xử”.

“Khó xử chỉ là do em không muốn, còn khi em đã muốn, anh thấy chẳng có gì khó xử cả”.

Nghe người đàn ông ngồi trước mặt mình đổi chữ cô thành chữ em, đổi chữ tôi thành chữ anh, Thùy cảm thấy thích thì có thích, nhưng thâm tâm lại rất sợ. Khôn ngoan và tự tin, ông giám đốc tiếp tục dồn Thùy vào chân tường khi ông thủng thẳng nói:

“Tôi biết giờ này là giờ Thùy thích uống cà phê, tôi mời Thùy đi uống cà phê với tôi có được không”.

“Thưa ông giám đốc ...” .

“Lại thưa ông giám đốc rồi. Cô nên tập nói chữ anh chữ em đi cho quen miệng”.

“Vâng. Nếu chiều ý cùng anh đi uống cà phê, chuyện này người ta biết sẽ đem em ra nói xấu. Vậy anh thông cảm cho em từ chối có được không”.

“Được thì cũng được. Nhưng cô từ chối, cô có biết làm thế tôi buồn không”.

“Em biết”.

“Biết. Vậy sao cô vẫn cứ làm”.

“Tại vì đang là giờ làm việc, em không thể bỏ hãng đi với anh được”.

“Chuyện đó là chuyện của tôi. Cô đâu cần phải lo. Nào đi”.

Bữa đó, buổi sáng ngày thứ sáu cuối tuần, vào giờ làm việc, các nhân viên đã vào trong hãng, ngoài sân bãi chỉ còn có những chiếc xe đậu ngay hàng thẳng lối trong những vạch kẻ bằng sơn màu trắng. Hướng đằng Đông, mặt trời tròn như một cái mâm đồng, đang từ ngọn những cây thông già, ngoi lên. Đúng lúc đó, có một cái xe đời mới, xe sơn màu đen, từ con đường lớn quẹo len chạy vào bãi đậu trong sân của hãng. Người lái chiếc xe hơi đắt tiền đó là một người đàn bà. Mở cửa, xuống xe, tay xách cái bóp da, từ bãi đậu đi thẳng về cái cửa của văn phòng. Cửa mở, bà ta bước vào. Vừa thấy người đàn bà, cô nhân viên người Mỹ đã đứng dậy. Miệng hello, môi nở một nụ cười, vẻ đon đả để đón tiếp bà khách. Khách là ai mà cô nhân viên người Mỹ lại tỏ ra lễ phép lịch sự đến thế. Chắc chắn khách không phải là người đến xin việc để cô phải mất công đứng dậy, miệng hello, môi nở một nụ cười, niềm nở và đon đả như thế bao giờ cả.

“Thưa bà giám đốc, bà giám đốc muốn gặp ông giám đốc đấy có phải không ạ”.

“Ông giám đốc chắc đang ở trong phòng riêng của ông”.

“Không. Thưa bà giám đốc. Ông giám đốc bữa nay có cuộc họp nên đi ra ngoài rồi”.

“Cô cho tôi gặp ông quản lý”.

“Để tôi gọi ông quản lý”.

Chỉ một lát sau, ông quản lý đã có mặt ở trong căn phòng có người đàn bà đang ngồi.

“Chào bà giám đốc. Bà giám đốc cần gặp tôi”.

“Ông khỏe không”.

“Dạ, cám ơn bà giám đốc, tôi khỏe”.

“Hôm nay đến đây, tôi có việc muốn cần đến ông”.

“Xin bà giám đốc cứ nói”.

“Ông là quản lý, nhân viên dưới quyền, ông có biết hết tên không”.

“Chắc chắn là tôi phải biết hết tên thưa bà giám đốc”.

“Vậy nhân viên ở trong hãng, cái cô gái tên Thùy ông cũng biết đấy chứ”.

“Dạ. Bà giám đốc nếu cần gặp cô Thùy, tôi sẽ gọi cô ấy lên gặp bà”.

“Dĩ nhiên tôi muốn gặp. Ông có thể gọi cô ấy lên văn phòng được chứ”.

“Xin bà giám đốc vui lòng chờ để tôi đi gọi”.

Từ căn phòng bước ra, khi đã đứng trước cái bàn làm việc của Thùy, ông ta hạ thấp giọng nói:

“Cô Thùy. Bà giám đốc muốn gặp cô”.

“Bà giám đốc ... “.

“Tôi nói rồi cô đã nghe thấy sao lại còn hỏi”.

“Tôi hỏi vì tôi thắc mắc”.

“Tôi không có thì giờ để giải thích cho cô nghe. Cô hãy theo tôi lên văn phòng ngay tức khắc. Bà giám đốc không thể chờ cô lâu được”.

Thùy đứng dậy đi sau ông quản lý lên văn phòng. Để Thùy ở lại, ông quản lý ra ngoài, khi chỉ còn có hai người, cửa phòng đã đóng, người đàn bà ngồi ở cái ghế sau cái bàn lớn nhìn Thùy đã hỏi:

“Cô là cô Thùy”.

“Vâng. Tôi là Thùy”.

“Tôi có nghe tên cô. Cô trẻ và đẹp lắm”.

“Bà gọi tôi lên đây, chắc chắn không phải là để khen tôi có đúng vậy không”.

“Cô tưởng tôi khen cô thật đấy à. Cô đẹp hay xấu chuyện đó không đáng để tôi phải quan tâm. Nhưng cô đừng bao giờ lấy cái trẻ và đẹp của cô để làm mê hoặc người khác. Đấy là chuyện tôi muốn nói” .

“Bà muốn nói sao không nói thẳng lại vòng vo như thế để làm gì.”Từ nãy đến giờ tôi đã quá nhẫn nhục nhưng sự nhẫn nhục nào cũng có giới hạn của nó. Nói chuyện với tôi, cô không được quyền xưng hô theo cách đó cô biết không”.

“Ý bà muốn tôi phải xưng hô như thế nào”.

“Cô đứng trước ông giám đốc, cô không thể gọi ông giám đốc là ông không thôi mà là ông giám đốc. Vậy trước mặt tôi, cô là nhân viên làm trong hãng, cô phải gọi tôi là bà giám đốc chứ không thể chỉ là một chữ bà trống không như thế được”.

“Xin lỗi ... “.

“Tôi không cần cô xin lỗi”.

“Ủa, nếu với bà tôi có lỗi, tôi xin lỗi cũng không được sao”.

“Phải nói thẳng cho cô biết, tôi không muốn thấy mặt cô làm ở trong hãng này. Chắc cô đã thừa biết vì sao lại như vậy rồi. Nếu cố tình không biết, cô có cần để tôi nói hết ra không”.

“Bà khỏi cần nói, tôi là người đủ thông minh và sáng suốt để hiểu bà đến gặp tôi với chủ đích gì rồi. Tôi chẳng bao giờ cho bà dùng quyền hành của bà để bà sa thải tôi như thế được đâu. Tôi sẽ ... .

“Sẽ dựa vào sự can thiệp của ông giám đốc có đúng như vậy không”.

“Không. Tôi đâu đến nỗi phải quỵ lụy tới độ đó. Tôi cho bà biết, không phải chuyện này tôi sẽ nói cho ông giám đốc để xin được can thiệp như ý bà hiểu, mà tự tôi quyết định cho chính tôi. Tôi sẽ xin nghỉ việc”.

“Đúng đấy. Cô xin nghỉ việc hơn là để tôi phải sa thải. Vậy thì bao giờ cô xin nghỉ”.

“Ngay khi tôi ra khỏi căn phòng này”.

“Tôi tin cô sẽ giữ lời nói. Nếu không, tôi sẽ phải làm việc đó thay cô”.

Mãi quá trưa, ông giám đốc mới trở về hãng. Đỗ xe ở bãi, tay cầm một cái ly giấy đựng cà phê, ông đi đến cái cửa văn phòng. Cửa mở, ông bước vào bên trong. Khi đã ngồi ở cái ghế sau cái bàn giấy lớn, ly cà phê đã để trên mặt bàn, ông bấm cái hộp điện thoại gọi ông quản lý. Ông quản lý đẩy cửa bước vào, chào ông giám đốc, rồi nói:

“Thưa ông giám đốc, ...”.

“Ông cho cô Thùy lên gặp tôi”.

“Thưa ông giám đốc ...” .

“Sao ông cứ đứng không đi lại cứ thưa như thế mãi vậy”.

“Thưa ông giám đốc, cô Thùy đã xin nghỉ việc rồi”.

“Nghỉ việc. Tại sao lại nghỉ việc.”

“Tôi không biết. Sáng nay bà giám đốc đến đây gặp cô Thùy, bà giám đốc và cô Thùy nói chuyện ở trong phòng, tôi không có mặt nên không rõ chuyện đó là chuyện gì, rồi sau đó, cô Thùy ra nói với tôi xin nghỉ việc”.

“Có chuyện như thế thật sao. Ông là quản lý ở hãng, tôi tưởng ông phải biết cho một nhân viên viên nghỉ việc sai nguyên tắc là phạm luật chứ. Thực tình tôi không thể hiểu được một chuyện như thế mà ông không giải quyết được”.

“Bà giám đốc có nói với tôi, bà giám đốc tính sa thải nhưng cô Thùy đã không chờ hãng sa thải mà tự ý nghỉ việc. Tôi có được hỏi ý kiến gì đâu thưa ông giám đốc”.

“Thôi được. Ông có thể ra ngoài”.

Còn lại một mình ở trong phòng, ông giám đốc ngồi lặng lẽ nhìn cái ly cà phê bằng giấy để ở trước mặt, ông không thể tưởng tượng được giờ này Thùy đang ở đâu. Ở đâu thì chỉ là ở nhà, ngồi một mình trong căn phòng vắng, Thùy chắc là đang khóc.

Không đúng như ông giám đốc nghĩ, giờ này Thùy đâu có ngồi lẻ loi khóc một mình mà nàng đang ở quán cà phê. Vẫn cái bàn kê gần sát kính cửa sổ, vẫn ly cà phê để ở trước mặt, một tay tì má, Thùy trầm ngâm lặng lẽ thả trôi hồn mình như những cái lá vàng mặc cho gió thổi bay đi. Có lúc không còn tự chủ được bản thân, Thùy bị cuốn theo dòng hồi tưởng đưa nàng từ hiện tại đi vào quá khứ. Cái quá khứ đó chỉ là cái quá khứ của ngày nào gần đây thôi, ở cái quán này, ở cái bàn này, có một người đàn ông xa lạ đã đến và đứng ở trước mặt nàng để lên tiếng hỏi:

“Xin lỗi cô. Tôi có thể ngồi chỗ này cùng bàn với cô được không”.

“Ông cứ tự nhiên. Chỗ này là chỗ trống, ông có thể ngồi”.

“Tôi thấy phụ nữ rất ít người thích uống cà phê. Nhìn cô uống, tôi tự nghĩ, không biết đây có phải là trường hợp ngoại lệ không”.

“Ngoại lệ đúng như lời ông nói đấy. Đàn bà chẳng những không thích uống cà phê mà thấy cà phê còn sợ là đằng khác nữa”.

“Cô bảo sợ, tôi không hiểu tại sao lại phải sợ”.

“Người khác sợ uống cà phê, còn tôi thì không giống họ. Nói đúng ra, tôi thích uống cà phê chẳng qua cũng chỉ vì một người. Người đó yêu tôi và tôi yêu anh ấy. Những lúc hẹn nhau để được gặp, anh ấy thường đưa tôi đến quán, ngồi trầm ngâm bên ly cà phê, tâm tình trò chuyện. Nhưng ...” .

“Tôi có thể ngồi chỗ này được không thưa bà”.

Người vừa hỏi là một bà người Mỹ.

“Thưa, chỗ trống, xin bà cứ tự nhiên”.

Đứa bé gái xinh xắn dễ thương là con của bà ta được bà ta đặt cho ngồi bên cạnh. Nó nom kháu khỉnh và đẹp như thiên thần. Mắt tròn và sáng như gương. Môi đỏ như thoa son. Tóc vàng hoe như những sợi tơ của những con tằm mới nhả. Cái áo đầm màu xanh có điểm bông. Một đứa bé gái hồn nhiên ngây thơ và vô tư, miệng ngậm kẹo ngồi ngoan ngoãn bên cạnh mẹ, trong khi mẹ của nó thản nhiên uống cà phê. Nhìn nó, Thùy bỗng nhớ lại tuổi thơ của chính mình. Ước gì, nếu nàng được như đứa bé đó, nàng sẽ chẳng phải khổ lụy về tình yêu, chẳng phải vướng bận về cuộc sống, thì ... thì ... không gì sung sướng cho bằng.


N G U Y Ễ N T R U N G D Ũ N G

Post Reply